“We betrayed you” (W.Westmoreland)
Từ ba thập niên nay, không đợi đến ngày 30 tháng tư trở lại mới
có thêm tài liệu giải mật được phổ biến từ ba phiá Mỹ, Cộng sản và Quốc gia
liên hệ đến giai đọan hấp hối của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu kết thúc bằng cuộc
tháo chạy của Hoa kỳ năm 1975. Về cánh quốc gia, người viết bài này may mắn gặp
lại và phỏng vấn một số nhân vật chính yếu trong cuộc như cố Tổng thống Thiệu,
đại tướng Cao Văn Viên (tác giả của The Final Collapse và Những ngày cuối cùng
của VNCH), ngọai trưởng Trần Văn Lắm trước khi ông qua đời tại Úc, bác sĩ Nguyễn
Lưu Viên, nguyên chủ tịch phái đoàn VN tại Hội nghị La Celle Saint Cloud và ông
Nguyễn Xuân Phong, cựu Quốc vụ khanh phụ trách đàm phán tại Paris, thay thế đaị
sứ Phạm Đăng Lâm sau tháng giêng 1973. Những bài phỏng vấn vưà kể được đưa lên
internet và đăng trên báo.
Người viết cũng có dịp đọc qua và so sánh các dữ kiện trình bày
trong năm quyển hồi ký của ba nhân chứng còn sống: Pourquoi les Eùtats-Unis
ont-ils perdu la guerre ? (nxb Godefroy De Bouillon, Paris 1996) và The VN Peace
Negotiations, Saigon’s Side of the Story (nxb Arthur J Dommen,VA, 2005) của
Nguyễn Phú Đức; Hope and Vanquished Reality (nxb Xlibris Corp., NY, 2001) của
Nguyễn Xuân Phong; Hồ sơ Mật Dinh Độc lập (viết chung với Jerrold Schecter, nxb
The C & K Promotions Inc., LA , 1986) và Khi Đồng minh tháo chạy (nxb Hưá
Chấn Minh, 2005) của Nguyễn Tiến Hưng. Gs Đức hiện đã về hưu sau khi dạy luật
năm 1975 taị ESSEC, École Supérieure des Sciences Économiques et Commerciales,
Paris, còn hai ông Phong và Hưng thì định cư ở Hoa kỳ, người đầu là chuyên viên
nghiên cứu ở Trung tâm VN Center, Lubbock, Texas Tech University, và người sau
dạy tại Đại học Howard, Washington.
Phạm vi hạn hẹp của bài này không cho phép đi sâu vào chi tiết
diễn tiến của những cuộc đàm phán mật và công khai của các phái đoàn tham nghị,
đặc biệt giữa Kissinger và đại diện Bắc Việt, kéo dài từ 25.3.1965 (là ngày Tổng
thống Lyndon Johnson tuyên bố sẳn sàng nói chuyện hoà bình với CS ) cho đến
27.1.1973 là ngày ký Hiệp định Paris. Người viết sẽ phân tích vai trò thật sự của
ba tác giả nêu trên, các đặc điểm trong những hồi ức của họ và bối cảnh hỗn loạn
ở Miền Nam VN vào tháng tư 1975.
Chính sách tóm thu quyền bính và bố trí nhân sự của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu.
Từ ngày đảo chính 1.11.1963 lật đổ Đệ nhứt Cộng hoà cho đến 1967
là năm ban hành Hiến pháp Đệ nhị Cộng hoà, Chính phủ Quân nhân cai trị thiếu
căn bản pháp lý nên Miền Nam VN biến lọan liên tiếp. Tháng 5.1967, Hoa kỳ thúc Ủy
ban Lãnh đạo Quốc gia và Ủy ban Hành pháp Trung ương tổ chức bầu cử hai ngành
Hành pháp và Lập pháp. Mười liên danh tranh chức Tổng thống và Phó Tổng thống.
Liên danh Quân đội Thiệu-Kỳ đắc cử. Trong vòng hai năm, TT Thiệu củng cố địa vị,
vô hiệu hoá Hội đồng Giám sát của Tướng lãnh, cắt lông cắt cánh Phó Tổng thống
Kỳ và ngày 1.9.1969, thay thế con gà yểu số của Kỳ là Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc
bằng Nội các Trần Văn Hương do Thiệu kiểm soát hoàn toàn. Năm 1971, Thiệu độc
diễn và đắc cử dễ dàng nhiệm kỳ hai với “chính sách 4 không”: không liên hiệp,
không hoà giải hoà hợp với CS, không nhượng đất và không trung lập.
Qua trung gian hai Pháp kiều Raymond Aubrac (bạn thân của Hồ Chí
Minh) và Herbert Marcovich (một khoa học gia), giáo sư Kissinger (K) tổ chức
cho Averell Harriman, đại diện Hoa kỳ, gặp ngày 10.5.1968 ngoại trưởng Xuân Thủy,
có Hà Văn Lâu dự kiến và Lê Đức Thọ cố vấn. Khi chính thức trở nên Phụ tá an
ninh cho Nixon, K nhờ Jean Sainteny, nguyên đại diện cho Pháp taị Bắc Việt
(1945-1947), sắp xếp cho y gặp riêng ngày 4.8.1969 Xuân Thủy taị tư thất của
Sainteny, đường Rivoli, Paris. Năm 1971, cuộc thương thuyết công khai bắt đầu.
Hoa Thịnh Đốn ép Chính phủ Sàigòn chấp nhận sự tham gia của Mặt trận Giải phóng
Miền Nam, (MTGPMN). Hoa đàm dẩm chân khá lâu vì bốn phe nghị hội: Mỹ, VNCH. Bắc
Việt và MTGPMN tranh luận về thủ tục và kèn cựa mặc cả. Bắc Việt áp dụng chiến
thuật vưà đánh vừa đàm vì biết người khổng lồ Hoa kỳ với đôi chân đất sét thiếu
kiên nhẩn và bị cánh phản chiến trong nước khoá tay. Chiến cuộc trở nên khốc liệt
với biến cố Tết Mậu thân (1968). Ngày 2.3.1971, Việt cộng pháo kích Sàigon, Đà
nẳng, Biên Hoà và 115 chổ. Ngày 9.7.1971, để gây áp lực với Bắc Việt, K qua Bắc
kinh viếng Chu Ân Lai và chuẩn bị cuộc gặp mặt đầu năm 1972 giữa Nixon và Mao
Trạch Đông. CS tổng tấn công vào lễ Phục sinh, lối năm tuần sau chuyến công du
của Nixon taị Bắc kinh. Ngày 8.5.1972, Nixon ra lệnh gài mìn Hải phòng và dội
bom Bắc Việt.
Để đối phó với tình hình bên trong và bên ngoài, Tổng thống Thiệu
cẩn thận sắp xếp một Bộ tham mưu quân chính gồm những thành phần tin cẩn, dựa
vào sự trung thành cá nhân hay huyết thống gia đình, bất chấp dư luận dèm pha.
Về quân sự, Tổng tư lệnh Quân đội TT. Thiệu nắm hết quyền bính trong tay, Tổng
tham mưu trưởng Cao Văn Viên chỉ đóng vai trò tuân hành và thị chứng. Bộ Quốc
phòng là “hộp thơ” giữa Tổng thống và Bộ Tổng tham mưu. Thiệu chọn trung tướng
Đặng Văn Quang, cựu Tư lệnh Quân đoàn 4, làm Phụ tá an ninh. Ông bổ nhiệm vào
chức Tư lệnh vùng hay sư đoàn trưởng Nguyễn Văn Toàn, Phạm Văn Phú, Ngô Dzu, Đổ
Kiến Nhiểu, Hoàng Đức Ninh.. Với một hệ thống máy truyền tin đặt tại Dinh Độc lập,
Tổng thống liên lạc thẳng với cấp chỉ huy Quân khu và theo dõi sít sao việc điều
động các đơn vị tác chiến hầu ngăn chận mọi mưu toan đảo chánh. Nhiều thân nhân
của ông Thiệu nắm giữ các cơ cấu chính quyền như hai anh ruột là Nguyễn Văn Kiểu
(đại sứ ở Đài loan) và Nguyễn Văn Hiếu (đại sứ taị La mã); xui gia Nguyễn Tấn
Trung (TGĐ Air VN), Ngô Xuân Tích (chủ tịch Giám sát viện), Ngô Khắc Tỉnh (Tổng
trưởng,Thông tin rồi Giáo dục và Thanh niên), Ngô Khắc Tịnh (Tổng trưởng Tư
pháp), cháu Hoàng Đức Nhã (Bí thư đăc biệt rồi Tổng ủy Dân vận và Chiêu Hồi),
em cột chèo Nguyễn Xuân Nguyên (bí thư,), Nguyễn Khắc Bình (Tổng giám đốc Cảnh
sát kiêm đặc ủy trưởng Trung ương tình báo)..v..v..Là đảng viên Cần lao thời Đệ
nhứt Cộng hoà và Đại Việt, TT Thiệu trọng dụng một số nhân vật chế độ củ hay đảng
phái trong Thượng viện hoặc bộ máy chính trị như các ông Nguyễn Văn Hướng (tự
Mười Hướng), Nguyễn Văn Ngải, Trần Trung Dung, Trần Chánh Thành, Trần Văn Lắm,
Lê Văn Đồng, Phạm Như Phiên, Trần Hữu Phương.. (hai ông Lắm và Thành có lúc được
bổ nhiệm Tổng trưởng Ngoại giao). Tại Quốc hội, các phe nhóm chống Chính phủ lần
hồi bị vô hiệu hoá bằng sự chia rẻ nội bộ, đàn áp, mua chuộc, không kể việc xâm
nhập của Cộng sản. Đa số thẩm phán Tối cao Pháp viện bị Phủ Đầu Rồng chi phối
nghiêm trọng.
Vì biết khả năng của mình giới hạn, ông Thiệu – theo Ngô Khắc Tỉnh
nói với người viết – chịu khó hỏi ý kiến của nhiều chuyên viên, phân tích kín
đáo và đúc kết lại thành ý kiến riêng để lấy quyết định cuối cùng. Với bẩm tánh
đa nghi, kiên nhẩn chịu đựng, và khi cần, chấp nhận khổ nhục kế, ông Thiệu đã gở
nhiều thế bí trong cuộc tranh quyền với Kỳ. Cuối cùng, Kỳ bị loại vì ba hoa hơn
mưu lược. “Làm chính trị, phải lì “, ông Thiệu nói.
Trong lúc đàm đạo thân tình, người viết có dịp hỏi đại tướng Cao
Văn Viên: “Nếu sánh hai ông Diệm và Ô. Thiệu thì người nào độc tài hơn ?”. Suy
nghĩ một phút, tướng Viên đáp: “Ông Thiệu độc tài trong dân chủ ”, ngụ ý TT Thiệu
khôn ngoan che lấp độc tài dưới võ ngoài dân chủ. Khác với TT Diệm, ông chấp nhận
sự chỉ trích khi cần thiết. Nhờ thế, ông Thiệu tồn tại lâu hơn ông Diệm.
Dư luận thắc mắc vì sao, từ 1972, Tổng tham mưu trưởng Cao Văn
Viên buông xuôi và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm giữ thái độ bất động? Nghị sĩ Trần
Văn Đôn ghi như sau nơi trang 430-431 của hồi ký Việt Nam Nhân chứng (1989): “.
Ông Thiệu nghĩ rằng hai tướng Viên và Khiêm không có can đảm phiêu lưu làm đảo
chánh, nhất là không có lịnh của Mỹ…..Năm 1971, TT Thiệu nhờ tôi nói với đại tướng
Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, về việc ông này cứ ở mãi trong văn phòng, không chiụ
đi ra ngoài. Ông Viên trả lời: Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp
thuận nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!”. Nơi trang 429, Đôn ghi thêm:
“Tôi hỏi ông Thiệu: Nếu Tổng thống không bằng lòng về hai ông Viên và Khiêm thì
sao không đổi người khác để làm việc hữu hiệu hơn? Ông Thiệu đáp: Hai người này
của Mỹ, nếu tôi đổi hai người này thì Mỹ sẽ phản đối, tôi sẽ gặp nhiều khó khăn
trong việc lãnh đạo Miền Nam. Cái khó khăn của tôi ai cũng nghĩ là đối đầu với
Cộng sản. Thật ra trở ngại và khó khăn cho tôi là Mỹ.”
Điều mà Ns Đôn quên nêu ra là cả hai tướng Khiêm và Viên từng
tuyên bố “không ham thích chính trị.” TT Thiệu tìm đâu ra những nhân vật “lý tưởng
hơn” để tránh sự cạnh tranh về quyền lực? Nguyễn Phú Đức, Nguyễn Xuân
Phong và Nguyễn Tiến Hưng: Ba nhân chứng, ba giai đọan, ba trách vụ.
Như đã ghi trên, cuộc đàm phán tại Paris gồm có ba giai đọan
liên tiếp: mật đàm (từ 25.3.1965 cho đến đầu 1968), đàm phán công khai (từ 1968
cho đến 27.1.1973 là ngày Hiệp ước hoà bình được ký tại Paris) và giai đọan thi
hành Hiệp ước, (từ 27.1.1973 cho đến 30.4.1975, kết thúc bằng sự vi phạm của Bắc
Việt).
Chính phủ VNCH không liên hệ đến giai đọan mật đàm. Năm 1965 và
1966, K qua Sàigòn với tư cách chuyên gia tư vấn của Thống đốc Nelson
Rockefeller (Dân chủ) tìm hiểu vấn đề VN. Y tiếp xúc với vài nhân vật đối lập
như Trần Văn Tuyên, Phan Huy Quát và thẩm lượng (bi quan) khả năng lãnh đạo của
các tướng trẻ Jeunes turcs. Năm 1968, Nixon đắc cử Tổng thống. K mau lẹ xoay
qua cố vấn chủ mới Cộng hòa. K say mê ánh đèn sân khấu và thích thú đi đêm với
Hànội. Từ tháng 8.1969 cho đến cuối tháng giêng 1973, K. gặp riêng Lê Đức Thọ,
Cố vấn phái đoàn Bắc việt, lối 15 lần ở Choisy- Le -Roi hay Gif -sur –Yvette (tại
tư thất khoa học gia Trần Thanh Vân, em của linh mục Trần Thanh Giản)
Khi đàm phán tiến vào giai đọan công khai, TT Thiệu giao cho
Ngoai trưởng Trần Chánh Thành phụ trách. Trần Văn Lắm thay thế Thành sau cuộc hội
kiến Johnson-Thiệu ở Honululu ngày 18.7.1968. Tại Paris, đại sứ Phạm Đăng Lâm
hướng dẫn phái đoàn VNCH, gồm có Nguyễn Xuân Phong, (Phó trưởng đoàn), Trần văn
Ân, Trẩn Văn Đổ, Nguyễn Quốc Định, Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Ngọc
An, Nguyễn Thị Vui, và Nguyễn Triệu Đan (phát ngôn viên). Cố vấn Kỳ và vợ gây
nhiều tai tiếng taị Thủ đô Ánh sáng. Tiến sĩ Nguyễn Phú Đức, phụ tá ngoại giao
cho TT Thiệu, đóng một vai trò kín đáo, khiêm nhường bên sau hậu trường còn Gs
Nguyễn Tiến Hưng thì chưa tham chính lúc đó.
Hiệp định Paris được thi hành ra sao? Sau ngày 27.1.1973 ký xong
Hiệp định Paris, Trần Văn Lắm trở về Thượng viện để giữ chức Chủ tịch, nhường
ghế Ngoại trưởng cho Phụ tá Nguyễn Phú Đức. Phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên được
chỉ định làm trưởng đoàn VNCH taị Hội nghị La Celle Saint Cloud để chuẩn bị cuộc
bầu cử tại Miền Nam VN với chính phủ MTGPMN. Bs Viên, về sau, tiết lộ với người
viết: “Chúng tôi biết trước Hội nghị La Celle Saint Cloud không đi đến đâu, chỉ
có tác dụng câu giờ, mọi vấn đề sẽ giải quyết trên chiến trường.” Hai ông Nguyễn
Xuân Phong và Nguyễn Tiến Hưng tham gia Nội các vắn số Nguyễn Bá Cẩn, thành lập
ngày 14.4.1975, vào lúc Chính Phủ Sàigòn sập tiệm, người đầu trong chức Quốc vụ
khanh đặc trách Hòa đàm (thay thế đại sứ Phạm Đăng Lâm) và người sau, trong chức
Tổng trưởng Kế hoạch. Dưới danh xưng này, Hưng được TT Thiệu động viên (tuyệt vọng)
vào giờ thứ 25 sang Hoa kỳ van xin cứu viện. Nhiệm vụ của bs Nguyễn Lưu Viên và
Đs Nguyễn Xuân Phong chỉ có trên giấy tờ vì Bắc Việt từ chối nhóm họp và ào ạt
xua quân thôn tính Miền Nam. bất chấp các điều ký kết.
Vai trò đặc biệt của hai cố vấn Huỳnh Văn Trọng và Hoàng Đức Nhã
Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu từng gây xôn xao trong quần chúng bởi
xử dụng một số nhân vật tai tiếng như Nguyễn Cao Thăng, Vũ Ngọc Nhạ, Nguyễn Văn
Ngân, Huỳnh Văn Trọng, Hoàng Đức Nhã…Ba cố vấn của Thiêu bị điều tra, cách chức
hay đưa ra Tòa: Trọng, Nhạ (tình báo CS) và Ngân (xây dựng uy thế riêng). Bài
này chỉ đề cập đến Trọng và Nhạ vì cả hai liên hệ đến hoà đàm Ba Lê.
A- HÙYNH VĂN TRỌNG.
Năm 1958, khi người viết phụ trách Bộ Nội vụ thời Đệ nhứt Cọng
hoà, Bernard Hùynh Văn Trọng (Pháp tịch và công giáo) bị Đoàn công tác đặc biệt
Miền Trung lùng bắt trong vụ mệnh danh Gián điệp Tây ở Nhà hàng Morin, Huế. Y
thoát được qua Nam Vang và tại đây, móc nối với Ca Văn Thỉnh, trưởng đoàn đại
diện thương mại CS Bắc Việt. Trọng có bằng cử nhân luật, thông thạo Pháp – Anh
ngữ, từng làm thẩm phán ở Huế và năm 1950 giữ chức Tổng thơ ký Chính phủ và Bộ
trưởng Nội vụ trong Nội các Nguyễn Phan Long. Sau chính biến 1963, D.V.
Minh thả bừa bải tù nhân chính trị. Trọng trở về Sàigòn và tham gia cụm tình
báo chiến lược A22 do Vũ Ngọc Nhạ phụ trách. Để sinh sống, Trọng dạy tiếng Pháp
cho nhân viên ngoại giao Mỹ và nhờ cha Trần Ngọc Nhuận giới thiệu với TT Thiệu
. Y được Thiệu tin dùng và bổ nhiệm phụ tá Tổng thống về chính trị, ngoại giao.
Đầu 1969, vợ Trọng đến Văn phòng luật sư của người viết, đường Hàn Thuyên, nhờ
biện hộ trước Tòa trong vụ bị đuổi ra khỏi một khách sạn đường Lê Lợi Sàigòn vì
thiếu tiền thuê nhiều tháng. Trọng nói không dư dã tiền bạc tuy có chức vụ cao.
Tháng 11.1969, vụ án Điệp báo Cố vấn TT Thiệu gây chấn động dư
luận. Trọng nhờ tác giả bài này bênh vực trước Tòa án Quân sự vùng 3 Chiến thuật.
Trọng tiết lộ với người viết rằng y và cụm trưởng Vũ Ngọc Nhạ muốn giúp TT Thiệu
tìm ra với MTGPMN một giải pháp cho cuộc chiến, không ngờ CIA theo dõi và phá vỡ
mọi việc. Trọng còn cho biết năm 1968, để chuẫn bị hoà đàm taị Ba Lê, TT Thiệu
đã gởi Trọng cùng đi với linh mục gốc Bỉ Raymond de Jeagher (cựu cố vấn của TT
Diệm và một thành viên năng động trong Liên Minh Á châu chống Cộng) qua Hoa kỳ
vận động với Quốc hội, báo giới và nghiệp đoàn. Chuyến công du này không gặt
nhiều kết quả vì, theo Trọng, dư luận Mỹ chán ngán chiến tranh.
Vụ án kết thúc ngày 29.11.1969. H.V. Trọng rất sợ bị tử hình.
Người viết khuyên y bình tỉnh vì bên trong sân khấu chính trị, những dàn xếp bất
ngờ có thể xảy ra, Hoa kỳ còn một số phi công tù binh tại Hànội Hilton; hơn nửa,
trong vụ này, Trọng chỉ đóng vai trò “Lê Lai cứu chúa”. Vị Chánh thẩm cho phép
các bị can nói lời chót trước khi tuyên án. Vũ Ngọc Nhạ cường điệu tuyên bố
nhóm của y hành động vì quyền lợi quốc gia, họ tin sẽ thắng và hẹn có ngày trở
về vinh quang. Trọng lên tinh thần, ngổ ngáo lập lại trước Toà câu nói của người
viết: “Tôi chỉ đóng vai trò Lê Lai cứu Chúa, tôi không có tội.” Các sự kiện này
được kể lại trong quyển hồi ký Ông Cố vấn do CS xuất bản năm 1984 tại VN, với
nhiều khoản thêu dệt. Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thúy và Nguyễn Xuân
Hoè bị chung thân khổ sai, đày đi Côn Đảo. Sau 1975, chúng được CS giải thoát.
Nhạ thăng Thiếu tướng, ngành tình báo.
B- HOÀNG ĐỨC NHÃ.
Tuy không phải là thành viên của phái đoàn VNCH dự hòa đàm tại
Ba Lê, Nhã là người gây bực bội nhứt cho K. trong nhiều lần chạm trán. Trần Văn
Đôn (trong hồi ức VN Nhân chứng, trang 406- 415), Nguyễn Phú Đức (trong quyển
sách The VN Peace Negotiations, trang 400-403) và K (trong Ending the VN War,
trang 310) đề cập nhiều đến Nhã. N. P. Đức cho biết Nhã là cháu kêu ông Thiệu bằng
cậu, tốt nghiệp đại học Oklahoma, trở về VN trong Khối chuyên viên, tiến thân rất
mau trong các chức vụ liên tiếp: thông dịch viên, Bí thư tin cẩn của Tổng thống
và cuối cùng, Tổng ủy Dân vận /Chiêu hồi, phụ trách sau Hiệp ước Ba Lê mạng lưới
Thông tin Quốc ngoại có nhiều quyền lực. Ảnh hưởng của Nhã gia tăng từ tháng
8.1972 (khi K đề nghị Thiệu từ chức hai tháng trước ngày bầu cử với CS) và tăng
cao hơn sau ngày Hiệp ước được ký cuối tháng giêng 1973. Nhã luôn luôn có mặt
trong các buổi họp riêng giữa Thiệu và K, Haig và Bunker cũng như trong những
phiên nhóm Hội đồng An ninh Quốc gia để thông dịch vì Phó Tổng thống Nguyễn Văn
Hương, Chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền và Hạ viện Nguyễn Bá Lương không
rành Anh ngữ. Theo N P Đức, Nhã thiếu kinh nghiệm và sự già giặn để thảo những
công văn ngoại giao trao đổi giữa hai chính phủ Mỹ-Việt. Nhã nuôi nhiều cao vọng
chính trị và trong những ngày tháng chót của TT Thiệu, Nhã tìm cách gài phe
cánh vào Nội các tuy họ thiếu khả năng. Điều này làm cho chính gia quyến ông
Thiệu cũng lo ngại, đặc biệt Ngô Khắc Tỉnh và đại sứ Nguyễn Văn Kiểu (trang
403).
Trong Ending the VN War, K. viết như sau: “Nhã là cháu tâm phúc
của Thiệu, lối 30 tuổi, phụ tá báo chí, từng du học tại Hoa kỳ, tiêm nhiểm
gương thành công của các chàng trẻ lanh lợi trong phim xi-nê, ăn bận đúng mốt
Hollywood, tướng mạo hao hao giống Alan Ladd thời thanh xuân, nói tiếng Anh
trôi chảy và vẫn giữ lại từ bản gốc Việt Nam một khả năng mưu loạn vô biên, an
infinite capacity for conspiracy…Bunker và tôi đều đồng ý rằng Nhã đã gây nhiều
rắc rối bằng cách thổi phồng mổi sự hiểu lầm” (trang 310).
K. hậm hực kể lại trong hồi ký thái độ “bất nhã” của Nhã: ngày
19.10.1973, theo lệnh của Nixon, K. qua Sàigòn trình TT Thiệu tại Dinh Độc lập
trao bản dự thảo Thỏa hiệp. Sau khi đợi 15 phút, Nhã ra đón K. và Bunker
vào, Thiệu không có một lời xã giao, thản nhiên đọc và không phê bình bức thư
riêng của Nixon do K. trao lại, xong Thiệu mời hai vị khách bước sang phòng kế
bên để gặp Hội đồng An ninh Quốc gia. Giữa bầu không khí nặng nề, Thiệu giao
cho Nhã thông dịch mặc dù phiá VN nói được tiếng Anh. K. viết: Nhã “bắt đầu chế
diễu vai trò của mình” bằng cách chỉ tóm lược gần phân nửa lời thuyết trình của
K. Khi K. lưu ý về điểm này, Nhả đáp ngáo ngổ: “I am a master of
contraction, Tôi là bậc sư về khoa cắt ngắn!”. Ngày 21 tháng 10, theo chương
trình, K. và Bunker gặp lại Hội đồng An ninh lúc 2 giờ 30 trưa. Đợi đến 3 giờ,
Nhã điện thoại để thông báo – không cho biết lý do, không xin lổi – phiên nhóm
hoãn đến 5 giờ chiều. “ Y hịch theo kiểu cách của Humphrey Bogart mà có lẽ Nhã
đã học đòi đâu đó trên màn ảnh”. 5 giờ 30, vẫn không tin tức. Bunker bực
mình gọi Dinh Độc lập, đòi nói chuyện với Nhã, Văn phòng đáp Nhã vưà bước ra
ngoài. Một giờ sau- tức là trể gần 5 giờ theo ước hẹn – Nhã điện thoại báo tin
TT Thiệu sẽ tiếp K. và Bunker hôm sau lúc 8 giờ sáng. Bunker bắt bẻ: “Có sự chậm
trể ít nửa 24 giờ, giờ Hoa Thịnh Đốn!” Nhã gát điên thoại. K và Bunker hỏi
nhau: “Những hành vi xấc xược này phải chăng báo hiệu một vụ chạm trán sắp đến?
Về vấn đề gì? “
Hoàng Đức Nhã hiện ở Chicago. Đến nay, ông chưa kể lại đầy đủ những
kỷ niệm cá nhân. Mong được nghe thêm tiếng chuông chân thực của một nhân chứng
về giai đọan lịch sử này.
Những đặc điểm trong hồi ký của ba tác giả
1- Về Ts Nguyễn Phú Đức, hiện định cư ở Paris, tốt nghiệp trường
luật Hà Nội và Harvard, cựu Phụ tá Tổng thống về quốc ngoại và Tổng trưởng ngoại
giao VNCH sau Hiệp ước Ba Lê, K. phê bình châm biếm: “Ông Đức là một sản phẩm mỹ
lệ của hệ thống giáo dục Pháp, chuyên định nghĩa trừu tượng, kết luận lạc đề và
có tài cãi bướng” Trong lời tựa của VN, Pourquoi les Eùtats-Unis ont perdu la
guerre xuất bản 21 năm sau ngày Sàigòn thất thủ, ông Đức thanh minh rằng ông cần
đợi thời gian lắng đọng để phân tích thanh thản cuộc chiến VN. Quyển sách này
dày 410 trang, viết bằng tiếng Pháp, chia thành năm phần mổ xẻ chính sách Hoa kỳ
tại Đông Dương sau Đệ nhị thế chiến, sự can thiệp của Mỹ vào VN, việc Mỹ chuẫn
bị rút quân, kế hoạch Nixon và những ngày cuối của Miền Nam. Phần chót dài 66
trang, không đi sâu vào chi tiết cuộc hòa đàm Ba Lê. Đầu năm 2005, Ts Đức cho
phát hành tại Virginia, Hoa kỳ, quyển hồi ký thứ hai, The VN Peace
Negotiations, Saigon’s Side of the Story, nxb Dalley, dày 463 trang, gồm có ba
phần: mở đầu hòa đàm 1968-1969, những khúc quanh thương thuyết và chiến tranh
chấm dứt 1973-1975.
Cố vấn Nguyễn Phú Đức tháp tùng Tổng thống Thiệu ngày 18.7.1968
hội kiến với Lyndon Johnson tại Honululu (Mỹ hứa không áp đặt một chính phủ
liên hiệp taị Miền Nam VN) và ngày 8.6.1969 gặp Richard Nixon tại Midway (Mỹ
tuyên bố rút 25,000 quân). Mỗi lần, phái đoàn VNCH gồm có vài chuyên viên khác.
Ngày 29.11.1972, Ts Đức được phái qua Hoa Thịnh Đốn trình với Nixon quan điểm của
TT Thiệu hầu tránh hòa đàm Ba Lê bế tắc. Ông không có trách nhiệm trực tiếp
thương thuyết tại bàn hội nghị. Nói cách khác, ông là một luật gia phụ trách phần
“đấm bóp thời cuộc” hơn là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Tuy nhiên, một số
nhận xét của ông vẫn có giá trị. Đặc biệt, thay vì dùng danh từ vietnamization,
Việt nam hóa chiến tranh, Ts Đức đề nghị chữ de-americanization, kế hoạch giải
kết vai trò chiến đấu của Hoa kỳ, nhằm mục tiêu võ trang một quân đội quốc gia
VN đủ mạnh để giúp Mỹ rút quân tuần tự. Ngoài ra, về mối liên hệ giữa K và
Nixon, Ts Đức nhận xét rằng Nixon không tin dùng Bộ Ngoại giao, nhưng đồng thời
cũng bực bội không ít về cách tự đề cao ba hoa của K với báo giới, tự cho mình
là một “phù thủy hoà bình, a peace magician”, đặc biệt sau chuyến công du bí mật
của y qua Bắc kinh, làm lu mờ vai trò của Nixon về mặt đối ngoại. Tại sao Nixon
không hãm bớt K? Nixon không quên K đã phản Rockefeller và Đảng Dân chủ để giúp
Nixon (Cộng hoà) thắng cử năm 1968. Bởi thế, Nixon ngán K có thể trở cờ một lần
nữa vì quyền lợi cá nhân. (trang 337-338). Sau hết, Ts Đức lưu ý: Khác với
Eisenhower từng mời thượng khách Ngô Đình Diệm đọc diễn văn tháng năm 1957 trước
lưỡng viện Quốc hội Hoa kỳ, hai Tổng thống Johnson và Nixon đều tránh tiếp
chính thức ông Thiệâu tại thủ đô Washington, viện lẽ sợ phe phản chiến biểu
tình. Sau Hiệp định Ba Lê, Nixon miễn cưởng mời vợ chồng TT Thiệu qua San
Clemente, tiếp tại tư thất La Pacifica, để an ủi xã giao. Nixon và Thiệu gặp
nhau ba lần. Nixon đã gởi Thiệu trên 20 mật thơ hứa hưu, hứa vượn.
2- Ông Nguyễn Xuân Phong, tốt nghiệp đaị học Oxford, nguyên Tổng
trưởng Xã hội và Chiêu hồi, thay thế đại sứ Phạm Đăng Lâm sau 3.2.1973 trong
chức vụ Trưởng đoàn VNCH tại hoà đàm Ba Lê. Ông cho phổ biến “Hope and
Vanquished Reality, Hy vọng và Khắc phục Thực tại” năm 2001 tại New York, nhà
xuất bản là Center for A Science of Hope trực thuộc ICIS (International Center
for Integrative Studies), một tổ chức truyền giáo Thụy điển ở Hoa kỳ đấu tranh
cho nhân quyền và chuyên nghiên cứu về vai trò của Hy Vọng trong tín ngưỡng.
Ông Phong cọng tác trong Hội đồng Cố vấn ICIS từ 1988. Quyển hồi ký Hope dày
374 trang, chia thành 11 chương kể lại việc tác giả từ Paris trở về Sàigòn năm
ngày trước khi Sàigòn sụp đổ vào tháng tư 1975, 5 năm cải tạo trong trại học tập
Cộng sản, đời sống cơ cực ở VN khi được phóng thích năm 1980, những tang tóc
liên tiếp trong gia đình và thủ tục phiền toái để xuất ngoại. Ông Phong được
phép nhập cảnh Hoa kỳ năm 2000.
Hope & Vanquished Reality là cuốn sổ tay của một nhà ngoại
giao chấm phá ghi lại những âm vang gây trên đức tin của mình bởi sự phá sản của
chế độ mà y phục vụ nhiều năm. Người đọc có cảm tưởng tác giả muốn chứng
minh Hy vọng là ngọn hải đăng dắc dẫn ông vượt qua mọi thử thách gian nguy cá
nhân, mọi cảnh tan nát của Quê hương. Bởi thế N X Phong không đi sâu vào chi tiết
của Hòa đàm Bá Lê, không đề cập nhiều đến giai đoạn đấu khẩu gay go giữa hai
phái đoàn Bắc-Nam tại bàn hội nghị.
Sau khi Phạm Đăng Lâm qua Luân đôn nhận chức đại sứ tháng giêng
1973 và bs Nguyễn Lưu Viên rời vĩnh viễn La Celle Saint Cloud để trở về VN, ông
Phong phải một mình đảm trách tại Paris các công tác tồn đọng và tẻ nhạt: gặp
báo chí, dự các cuộc thảo luận không đi đến đâu và tiếp xúc với các phái đoàn.
Nhờ sự giao thiệp cởi mở và khả năng ngoại ngữ, ông Phong là nhân vật VNCH thường
có dịp trao đổi ý kiến ngoài bàn hội nghị với phiá Mỹ như Harriman, Cyrus
Vance, Negroponte và đặc biệt, Kissinger. Sự kiện đáng lưu ý là chương 11 trong
hồi ký “ The Longest Road: The Communicative Hope, Con đường dài nhất: Hy vọng
truyền nhiểm”, trang 290-392, kể lại việc Phong tiếp xúc và giữ liên lạc với
Nguyễn Cơ Thạch, thứ trưởng Ngoại giao, phụ tá cho Lê Đức Thọ, vai trò chính
trong phái đoàn Bắc Việt. Chính K đã giới thiệu Phong với Thọ và Thạch
trong một đêm tiếp tân của Ngoại trưởng Pháp Maurice Schumann, sau đó Thạch và
Phong gặp nhau lại nhiều lần ngoài phòng hội nghị, trao đổi ý kiến cởi mở và trở
nên “đôi anh em đối nghịch thành thực, true brother-enemies” tuy dị biệt về một
số quan điểm. Phong đánh giá Thạch “thông minh, hiểu biết, có văn hoá, không
quá khích và chủ trương thỏa hiệp hơn là hận thù”. Thạch và Phong đồng ý với
nhau ít nữa về một điểm: “Hatred and bitterness have never generated anything
really good in the end, Cuối cùng Hậân thù và Đắng cay không bao giờ sinh sản
điều gì tốt thật sự .”
Sau 1980, Phong ra khỏi trại cải tạo, phải đi dạy Anh văn để
sanh sống với số lương năm chục đô hằng tháng, Thạch trở nên một nhân vật của
Chính trị Bộ, Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng. Thạch có mời Phong đến Văn phòng
để hỏi ý kiến, đối xử lịch sự như trước, Phong thẳng thắn đề nghị cần đổi mới
kinh tế và bình thường hóa ngoại giao với Mỹ. Một thời gian sau, Nguyễn Cơ Thạch
mất ghế trong Chính trị bộ và Chính phủ vì bị xem như thành phần quá cấp tiến.
3. Ts Nguyễn Tiến Hưng cho ra mắt tại Little Saigon, Californie,
tháng tư năm nay, quyển hồi ký thứ hai “Khi Đồng Minh Tháo chạy” (KĐMTC) vào
lúc George Bush tiếp Phan Văn Khải taị Hoa Thịnh Đốn, cộng đồng người Việt hải
ngoại sôi sục chống đối. Việc giới thiệu sách thành công về thương mại. Giòng
tít lớn (và cũng là lời nguyền rủa của K) “Sao chúng không chết phứt cho rồi”
mà tác giả khôn ngoan cho in trên bià làm cho đồng bào ta muốn biết thêm, mua
sách. Hồi ức KĐMTC dày 705 trang, chia thành bốn phần: Làm sao thoát khỏi vùng
lầy, Thân phận tiểu quốc, Khi Đồng minh tháo chạy và Rước của nợ hay được của
có. Quyển sách in lại nhiều đoạn và tài liệu – như các bức thơ và mật điện trao
đổi giữa Nixon, Ford và Thiệu từ 1972 đến 1975, luôn cả lời nguyền rủa của
Kissinger – đã đăng trong Hồ sơ mật Dinh Độc lập (HSMDĐL), bản dịch ra tiếng Việt
của The Palace File xuất bản năm 1986, dày 908 trang.
Về cách bố cục nội dung, phương pháp sưu tầm, trình bày các chứng
liệu và ngay cả văn phong, HSMDĐL súc tích và có trọng lượng hơn KĐMTC, có lẽ
vì nhờ sự hợp tác khoa học của đồng tác giả Jerrold L Schecter, nguyên chủ bút
của tạp chí Time, và khả năng chuyển dịch của Cung Thúc Tiến và Nguyễn Cao Đàm
Trong Lời Nói Đầu của KĐMTC, Ts Hưng xác nhận ông chỉ làm việc
trực tiếp với tướng Thiệu trong những ngày tháng hấp hối của chế độ sau khi Hiệp
định Ba Lê được ký. Bởi vậy các ông Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, Trần Văn Lắm,
Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Phú Đức và Nguyễn Xuân Phong xác nhận với người viết
không có dịp tiếp xúc với Hưng. Ts Hưng than: “Trong cương vị điều hợp viên viện
trợ kinh tế cho VNCH, nhiều lúc tôi phải dẹp bỏ tự ái, lui tới Quốc Hội Hoa kỳ
như một người đi cầu xin” (trang 21). Khi tình hình an ninh trở nên bi đát,
quân đội cạn đạn dược / xăng nhớt, ngân sách hết tiền trả lương cho lính và cảnh
sát, ông Thiệu mới nghĩ đến việc sai đại tá Đức trao cho Ts Hưng đầu tháng
4.1975 một hồ sơ bià đen đựng các thơ mật nói trên để ông Hưng gắp đi lobby
(?!) chính khách và báo giới Mỹ. Ngày 15.4.1975, một tuần trước khi Thiệu từ chức
(21 tháng 4), Hưng đáp máy bay Panam qua Washington. Đây là một sứ mạng biết
trước vô vọng vì quá trể. Không còn nước để mà tát. Hoa kỳ đang xóa sổ đồng
minh. VNCH hết được coi như “tiền đồn của thế giới tự do” trấn giữ làn sóng đỏ.
Để sớm dứt điểm, Mỹ vận dụng mọi thủ đoạn: đi đêm với Bắc Việt, dành quyền
thương thuyết thế cho chính phủ Sàigòn, trấn an, tránh né, đe dọa ký riêng, hăm
cắt viện trợ, cam kết đầu môi và bảo đảm suông. Hoa Thịnh đốn – và Ngoại trưởng
Kissinger, gốc Do Thái – dồn viện trợ vào Israel, “tiền đồn bảo vệ dầu lửa ở
Trung Đông.” Chính sách đối ngoại của Mỹ thực tế, realpolitik, không nặng về
luân lý, ý thức hệ hay lòng chung thủy. Căn cứ vào quyền lợi mà thôi. Quyền lợi
thô bạo. “Who pays, commands, Ai chi tiền thì người đó chỉ huy” là câu châm
ngôn gối đầu ở nước này.
Vì nhận thấy Quốc hội Hoa kỳ phủi sạch tay về VN, Ts Hưng quyết
tổ chức cho kỳ được một cuộc họp báo kiểu nhà nghèo ngày 30.4.1975 tại khách sạn
Mayflower, đường Connecticut, Hoa Thịnh Đốn, với 3.000 đô vay của gia đình. Ông
không lấy ra được ngân khoản 20.000 mỹ kim mà TT Thiệu hứa miệng để trang trải
chi phí. Thầy củ của Hưng là Giáo sư Warren Nutter, cựu Phụ tá Bộ trưởng Quốc
phòng thời Nixon, hết lòng ủng hộ nhưng không giúp được gì nhiều. Ts Hưng làm
công việc của một người chửa lửa không có dụng cụ trong tay khi nhà cháy sắp
tan thành tro. Trong phiên họp báo, ông không đề cập đến những mật điện do Ford
gởi cho Thiệu và chỉ dùng vài bức thơ cam kết của Nixon để xin cứu vớt đoàn người
đang đổ xô ra Biển Đông. Kết quả là – cọng với áp lực của dư luận thế giới và đặc
biệt nhờ sự can thiệp mạnh của Tổng thống Jimmy Carter – Quốc hội HK chấp nhận
trợ cấp 455 triệu đô và mở cửa đón làn sóng tị nạn VN trên con số 50.000 người
dự trù lúc đầu. Tại Sàigòn lúc đó, ba chiến xa T54 của Bắc Việt phá cổng xông
vào Dinh Độc lập, trương cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Cố TT Thiệu cho người
viết biết: sau 1975, Ts Hưng có trở về VN làm việc trong lãnh vực tài chính. Mặt
khác, nơi trang 18 của quyển hồi ký “Câu chuyện một di dân tỵ nạn Việt” vừa xuất
bản năm nay tại San José, cựu trung tá không quân Trần Đổ Cung, trước kia từng
giữ chức Cục trưởng Tổng Cục Tiếp tế thời Nguyễn Cao Kỳ, hiện ở Monterey,
Californie, có ghi rằng năm 1988 Nguyễn Tiến Hưng từ Hà Nôi có nhờ một người bà
con của Cung là vợ của Tôn Quang Phiệt, một cán bộ cao cấp CS, nhắn Cung “trở về
giúp nước” nhưng Cung không nhận lời.
Kết luận.
Về cái chết của Miền Nam VN, TT Thiệu tuyên bố: “Tôi có trách
nhiệm nhưng tôi không có lổi”. Mặt khác, trong hồi ký Ending the VN War,
Kissinger viết: “Nếu không có sự sụp đổ của quyền hành pháp vì vụ Watergate,
tôi tin rằng chúng ta có thể thành công”. Một ngày sau Hiệp định Bá Lê, Phụ tá
Nixon là John Ehrlichmann hỏi VNCH tồn tại được bao lâu, K đáp: “Nếu may mắn
thì họ có thể cầm cự được một năm rưởi”. Chính phủ Sàigòn sống lâu hơn decent
interval ấy, khiến K mất kiên nhẫn, buông lời nguyền rủa thô bỉ.
Trong thất bại, thay vì trách người, ta phải tự trách mình trước,
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Watergate và Quốc hội Mỹ cắt viện trợ là hai yếu
tố làm Đệ nhị Cộng hoà tan rã nhưng chủ trương bỏ Miền Nam đã có trước cả
Watergate. Cá nhân TT Thiệu gánh chiụ trách nhiệm vì một số sai lầm tai hại:
1 – Quá tin vào sự ủng hộ của Hoa kỳ, nghĩ rằng Hoa kỳ sẽ không
bỏ rơi vì VN có nhiều dầu lửa (!). Thiệu không thông hiểu và không đánh giá đứng
đắn vai trò của Lập pháp và Truyền thông ở xứ này, coi thường công cuộc hoạt động
hành lang, lobby, và nhất quyết bám víu vào 30 bức thơ và mật điện trao đổi với
Nixon mà ông giữ kín như bảo vật đến giờ chót theo lời cam kết riêng tư. Thiệu
không dám tiết lộ vì sợ chính quyền Mỷ “tố cáo là bội ước“ (KĐMTC, trang 258).
Cuối cùng, TT Thiệu nhận thấy, nhưng quá trể! mình bị gạt vì chủ tâm của
Nixon và Kissinger là dấu không cho Quốc hội HK biết những hứa hẹn thiếu thành
thật.
2- TT Thiệu không có kế hoạch thiết thực cứu nguy Đất nước và đã
để xứ sở tùy thuộc Hoa kỳ quá sâu về chính trị, quân sự và kinh tài. Ông áp dụng
muộn màng những biện pháp hốt hoảng vào những ngày cuối cùng như tiết lộ các bức
thơ mật của Nixon, chạy vay tiền của quốc vương Saudi Arabia, thế chấp 16 tấn
vàng của Quốc gia Ngân hàng, thế chấp tiềm năng dầu hỏa, xuất cảng gạo..v..v..để
mượn tiền Mỹ. Đầu năm 1975, TT Thiệu làm chính trị như đánh bạc thử thời
vận. Chơi đòn thấu cáy, ông cho rút quân khỏi Cao Nguyên và Miền Trung trong một
kế hoạch “tái phối trí” mệnh danh “đầu bé, đít to” để trắc nghiệm lời cam kết
can thiệp của Nixon. Hoa kỳ dửng dưng trước hành vi của Bắc Việt xé bỏ thô bạo
Hiệp định Paris. Ông Thiệu hố lớn, cụt vốn lẫn lời, tàm tan rã Quân đội. Trung
tướng Ngô Quang Trưởng xác nhận với người viết rằng không có nhu cầu gấp rút bỏ
Huế và Đà Nẵng. Thay vì nêu gương ở lại chiến đấu với đồng đội sau ngày từ chức,
ông Thiệu bỏ xứ ra đi.
3- TT. Thiệu nắm trọn trong tay vận mạng của quốc gia, coi thường
hai ngành Lập pháp và Tư pháp, quyết định một mình việc bỏ rơi hỗn loạn Cao
nguyên và Miền Trung và ngang nhiên hành động vi hiến. Điều 39 Hiến pháp
buộc các hiệp ước về hoà bình (Hiến pháp dùng danh từ “nghị hoà”) phải được Quốc
hội chuẫn phê. TT.Thiệu phạm một sai lầm căn bản khi ông chọn không tuân hành
điều này vào tháng 10.1968 để tránh chạm trán với Johnson. Ông mời chủ tịch
Thượng viện và Hạ viện tham gia thảo luận trong Hội đồng An ninh Quốc gia để tạo
cảm tưởng Quốc hội chính thức chấp thuận các quyết định của Hội đồng. Trên thực
tế, Thiệu truất quyền của Lập pháp kiểm soát đường lối thương thuyết của Hành
pháp. Đồng lúc, TT Thiệu vô hiệu hóa luôn khả năng của Hành pháp (mà ông đại diện)
chống lại áp lực của Johnson và Nixon, để Hoa kỳ tự ý rút quân. Ông Thiệu có dịp
tâm tình với người viết rằng ông bị ám ảnh bởi vụ đảo chính và hạ sát TT Diệm
do Mỹ sắp xếp khi TT Diệm chống đối.
Ngày nay, ôn cố tri tân nhắc lại chuyện đau buồn đã qua, không
phải là để quy trách tiêu cực mà là để rút tỉa những bài học từ những thiếu sót
trong dĩ vãng hầu giúp cho thế hệ cầm quyền sắp tới đừng tái phạm. Mỗi lãnh tụ
đều gặp những khó khăn và khổ tâm riêng, đặc biệt khi hoàn cảnh bắt buộc, cùng
một lúc, đương đầu với một đồng minh đanh thép như siêu cường Hoa kỳ và một kẻ
thù gian ngoan như Cộng sản. Sau buổi phỏng vấn tại Dinh Độc Lập đầu tháng
giêng 1973, trước ngày ký Hiệp định Paris, nữ ký giả Ý Oriana Fallaci, (người
đã từng phỏng vấn Kissinger, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp), nhận xét: “Có ít
nhiều nhân cách trong TT Thiệu và thảm kịch của ông. Chúng ta có thật hiểu ông
hay không? Ít nửa, trong giờ phút đặc biệt này, ông không còn là con múa rối lố
bịch của người Mỹ như chúng ta tưởng..Tôi hoan hỉ tỏ lòng thương xót và kính trọng
đối với ông.” (Interview with History , Oriana Fallaci, trang 48). Với cố Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu, lời an ủi cuối cùng này một Requiescat in pace!
có đủ hay không?
Dân tộc là sức mạnh vạn năng, vạn thắng. Lảnh tụ thất bại vì
đánh mất lòng tin và sự ủng hộ của Dân tộc. Khi lảnh tụ thất bại và gục mặt ra
đi, chỉ còn lại Dân tộc. Dân tộc trơ trọi, dân tộc cô đơn, dân tộc đau khổ. Dân
tộc gánh chịu hết mọi oan khiêng và tủi nhục. Nhiều thế hệ trẻ vô tội phải trả
một cái giá rất đắt cho sự sai lầm của cha ông.
LÂM LỄ TRINH
THƯ TỊCH:
1 – “Điểm sách Ending the VN War của Kissinger, TT Thiệu và Hoà
đàm Paris” by Lâm Lễ Trinh 17.8.2001, trong tạp chí VN Forum , Đức quốc
2 – “Mạn đàm với Bs Nguyễn Lưu Viên, Từ Hội nghị La Celle Saint
Cloud đến những ngày VNCH hấp hối” by Lâm Lễ Trinh, 1.9.2001 trong Thời Luận,
Los Angeles.
3 – “Kissinger nhận định trong hồi ký Ending the VN War: Kinh
nghiệm VN và thế trận hiện đại” by Lâm Lễ Trinh, 9.10.2002 trong tạp chí Dân chủ
& Phát triển, Đức quốc.
4 – “Mạn đàm với cựu Ngoại trưởng Trần Văn Lắm: Bề trái trong
Hoà đàm tại Bá Lê” by Lâm Lễ Trinh, 9.8. 1999, trong tạp chí Hải Ngoại Nhân
Văn, Boston
5 – “Điểm sách: Nguyễn Thị Bình tiết lộ về Hoà đàm Bá Lê trong
“Chung một Bóng Cờ” by Lâm Lễ Trinh, 6.12. 2000, trong tạp chí Cánh Én, Đức quốc
6 – “Our Endless War, Inside VN” (Presidio Press, CA, 1978) và
VN Nhân Chứng, nxb Xuân Thu, CA, 1989, by Trần Văn Đôn
7 – Interview with History, by Oriana Fallaci, Houghton Mifflin
Co, Boston, 1976
Tháng 3.2005, Ts Đức cho phát hành taị Virginia quyển hồi ký thứ
hai, bằng Anh ngữ, dày 463 trang, với tựa “The VN Peace Negotiations, Saigon’s
side of the story, nxb Dalley, gồm có ba phần: mở đầu đàm phán 1968-1969, những
khúc quanh của cuộc thương thuyết và chiến cuộc chấm dứt 1973-1975.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét