CHƯƠNG 49
Cái cơ chế thị trường tự phát và cứ tồn tại
không chịu chết dù bị dẹp đi dẹp lại ấy đã dạy cho hắn biết rằng: Tháng Chạp âm
lịch là tháng căng thẳng nhất về thuốc. Từ đầu tháng mậu dịch đã không bán
thuốc ra nữa. Để chuẩn bị cho Tết Nguyên Đán. Thuốc đắt vọt.
Nhị Thanh, Trường Sơn cũng đắt như tôm tươi.
Khi đó nếu được “Đoàn chiền thanh xí nghiệp “ một tút thuốc Đrao coi như đã có
gần nửa tháng lương rồi. Đó là thời gian hốt tiền của mậu dịch viên bách hoá,
của những người ký giấy phân phối. Mỗi ngày một cửa hàng lọt ra thị trường vài
chục cây thuốc lá là có cả tiền nghìn. Mỗi mậu dịch viên có cả một đám “vệ
tinh” là “con buôn”. Cuối năm cái gì chẳng ra tiền. Chiếu, vải hoa, chỉ. Bát,
chén. Ô S mua xi-mi-li, ô nữ mua xa-tanh. Một vốn mười lời. Ai làm chủ hàng hoá,
người ấy làm chủ xã hội. Đến nhà các mậu dịch viên có cả những chủ nhiệm, giám
đốc, uỷ viên uỷ ban... Họ cũng cười nịnh các mậu dịch viên học lớp 7 dở dang,
nói ngọng... Họ tự nguyện xin việc: Chuyển cho chồng cô mậu dịch viên về du
lịch, bố trí cho con bà cửa hàng phó về bến xe khách, có cần xi-măng không, họ
chạy cho vài tấn v. v...
Nắm được quy luật khan hiếm trước Tết, nhưng
hắn không có cách nào khác. Hắn không có vốn mà dự trữ lấy mấy cân thuốc. Lúc
đó giấy cũng khan. Lại nhiều người hỏi thuốc. Có người ở tận quê cũng đến nhà
hắn. Lúc ấy cuộn thuốc thật tiếng tăm, danh giá.
Cô Miên cũng không có thuốc. Cô chỉ chạy được
ít chè. (Chè cũng khan). Cô bảo: “Phòng thuế, công an làm dữ lắm. Cả ngày hôm
qua chỉ có mười cân chè về đây thì cô được hai cân. Mất hết”. Rồi cô than thở
về cuộc sống khó khăn. Cô tiên đoán giá chè thuốc còn lên nữa. Cô nhắc đến
Giang. Và thế là cô lại bừng bừng nổi giận cái loại đàn bà chồng chết không ở
vậy được. Nếu con mẹ Thơi cũng như cô thì giọt máu cuối cùng của dòng họ Giang đâu
đến nỗi.
Hắn nghĩ đến chuyện đi Hà Nội mua thuốc. Phải
đi ngay. Le temps c est de l or. Thời gian là vàng bạc.
Hắn thu xếp tiền nong, cầm hơn một trăm đồng
lên Hà Nội. Vốn liếng hắn khá khá. Nhưng có buôn bán mới biết: Vốn bao nhiêu
cũng ít. To vốn nhớn lãi. Một trăm cũng chỉ được vài cân thuốc, một nghìn (tờ)
giấy là hết. Mà bây giờ mỗi ngày chí ít cũng giao được một ki-lô thuốc.
- Chợ thuốc à? ờ... ờ.
Lê Bàn nhíu mày:
- Hình như ở phố Hàng Mã. Tao vẫn mua thuốc
rời và giấy cuộn ở đấy mà.
Thuốc rời là thứ thuốc vụn từ nhà máy Thăng
Long. Bàn mua cả gói. Mỗi gói một lạng. Hút bại. Hắn bảo: “Thứ rời này cũng
cần. Độn ở giữa. Tốt lắm”. Bàn đèo hắn đến đó. Không có thuốc sợi. Chỉ còn mấy
lạng thuốc rời. Hắn mua tất. Bà bán thuốc bảo: Sáng mai ra đầu chợ Bắc Qua đón
tàu Bắc. Thế là hắn có một buổi chiều đến thàm bố mẹ Phương và một đêm trò
chuyện với Bàn, dù ruột gan hắn nóng như lửa đốt.
Đến nhà Phương hắn hình dung được tất cả những
gì bố mẹ hắn phải chịu, Ngọc phải chịu khi hắn đi tù. Những người trong xớm
nhìn cả vào mình, khi mình đi thẳng vào phía trong, qua vòi nước, qua nhà xí
tới hai gian bếp mái lụp xụp tận trong cùng. Họ nhìn vì ở đây chỉ có bố mẹ
Phương và một người con trai phản động đã bị bắt. Chỉ nguyên việc họ dừng mọi
công việc, nhìn Bàn và hắn đi vào cũng đủ hiểu hai ông bà phải sống trong một
không khí bao bọc như thế nào.
Chưa vào ngay buồng hai ông bà, phải dừng
trước cái xép Phương ở đã. Cửa khép. Đẩy vào. Không còn Phương nữa. Nhưng vẫn
còn cái giá sách, tấm hình Xamôilôva, cái giường ba xà thì vẫn như nghe thấy
tiếng Phương cười, giọng nói của Phương và Phương đang quanh quẩn đâu đây. Vẫn
là cảm giác trống vắng của người bạn đã chết, đã mang đi mai táng để lại. Nụ
cười sáng bừng trên khuôn mạt héo hon, dăn deo, tàn tạ của mẹ Phương mới đau
đớn làm sao. Nó nói rằng từ khi Phương bị bắt, rất ít người lui tới Mẹ Phương
cũng đứng ngoài cửa im lặng nhìn càn buồng của Phương.
- Bác giai ngủ ở đây. Bác ngủ dưới kia.
Bố Phương không có nhà. Bố Phương đi tiếp tế
cho Phựơng từ hôm qua, chưa về. Phương đã chuyển lên trại trung ương. Trại PL.
“PL”. Khi tập trung anh em số lẻ về VQ. cũng có nhiều người từ PL. tới. Địa
danh ấy không lạ với hắn. Những địa danh loại ấy không lạ với hắn. “Nó bị tập
trung cải tạo, mày ạ”. Bàn bảo vậy ngay lúc đang đèo nhau trên xe đạp đến nhà
Phương. Quả là tin chết người, nhưng hắn cũng đã lường trước cả. Bởi vì một khi
không có chứng cứ cụ thể thì chỉ có cái rọ ấy để bỏ vào thôi.
Arrester sans preuve . Chẳng lẽ lại nhận có
rải truyền đơn để được đem ra xử, rồi phản cung trước toà. Chẳng lẽ cứ nhận.
Nhận hết. Cái gì cũng nhận. Bịa ra mà nhận... Đến thăm nhà có người đi tù, mà
lại là tù tập trung cải tạo thật quá nặng nề, vì chẳng biết động viên gia đình
ra sao. Bây giờ hắn mới hiểu điều đó. Bây giờ hắn mới hiểu cái nặng nề của
những bạn bè đến thăm Ngọc ngày trước.
- Nó có khỏe không, bác?
Mẹ Phương lắc đầu:
- Thấy bác giai bảo khoẻ. Khoẻ làm sao được!
- Trại PL. cũng không căng lắm dâu. Cháu đã ở
với nhiều anh em PL.
Hắn lại nói dối. Những lời nói dối vô tác
dụng, vì hắn biết mẹ Phương cố tin lời hắn mà không tin được.
Vẻ mặt rầu rầu của bà như bảo hắn: “Trại nào
mà không khổ. Đi tù là khổ rồi, con ạ”.
- Nó về toán nào?
Thấy Bàn và mẹ Phương ngơ ngác, hắn vội nói rõ
hơn:
- Nó làm việc gì ở trên ấy?
- Gánh vệ sinh.
Thế nghĩa là được tin. Được là tù tự giác.
Được ra vào trại tự do. Nhưng phải làm cả ngày nghỉ, ngày lễ, ngày Tết. Vất vả.
Hôi thối. Cực nhọc. Gánh phân tươi cứ kìn kĩn, nặng trĩu bên vai, ám hết cả vào
người. Ngày Tết lại càng khổ, lại càng vất vả. Anh em nghỉ làm, có bao nhiêu
trút hết ở nhà xí trại. Nhưng không chỉ có vậy. Nhịn lâu, quanh năm đói chất,
bỗng có món lòng trâu, tiếp đến món xương trâu, lại ba lạng thịt trâu già kho,
đó là chưa kể món da trâu rắc vôi bột vất ở bờ suối được đem về bếp bung lên,
tanh khắm buồn mửa, anh em đi ỉa chảy rất nhiều. Cánh trẻ no bụng, đói con mắt,
khợp hết ngay một bữa. Những anh được bạc đu càng hăng. Không như hắn. Hắn ăn
dè. Vừa kéo dài cuộc sống vừa đảm bao bụng dạ. Hắn, Chí Lồng Sếnh, một anh tù
người dân tộc và già Gọi, người đã dám đứng lên xin ông Lâm, chánh giám thị
trại QN. được quăng lên rừng cho hổ báo ăn thịt hay vứt xuống sông trầm hà đáy
biển nếu như có tội, ba người chống đòn gánh đứng phía sau nhà xí.
Không sao kéo được thùng ra. Người đứng xếp
hàng đi ỉa ở đằng trước. Ôm bụng. Đứng chéo chân. Gập người. Nhăn mặt. Anh này
vừa đứng lên, anh kia đã chen vội. Vứt vào thùng cả quần đùi, quần dài, chăn
sợi. Bê bết cứt. Hố xí bên này phân tuôn như giội nước. Bên kia nổ một tràng
liên thanh xối xả và đột ngột tắt lịm. Bên kia nữa lục bục, lẹt bẹt như gõ
thúng, gõ mẹt đuổi gấu ăn giăng.
Già Gọi rơm rớm nước mắt:
- Giờ này tuổi tôi là ngồi giữa nhà, bà con
xóm làng, con cháu đến chúc Tết. Pha trà, rồi bưng mâm lên đây.
Chí Lồng Sếnh không nói. Cậy răng Chí Lồng
Sếnh cũng không nói. Suốt thời gian ở cùng toán với Chí Lồng Sếnh, trừ cái tối
xử án chuột, hắn chỉ nghe một lần Chí Lồng Sếnh nói. Đó là một đêm nghe tiếng
nai gộ ở thung lũng. Chí Lồng Sếnh trở mình nằm sấp, nhìn ra phía bìa rừng ánh
trăng bàng bạc, khe khẽ một mình:
- Con nai về ăn lá sắn non đấy.
Hỏi Chí Lồng Sếnh ngày Tết có nhớ nhà không.
Chí Lồng Sếnh chỉ cười. Chí Lồng Sếnh cười rất đẹp. Mặt trái xoan, răng đều,
lông mày thanh và dài, cong cong. Lông mi rợp. Nhưng khi cười đôi mắt Chí Lồng
Sếnh càng buồn. Đôi mắt u sầu như đôi mắt Châu Ro .
Hẳn Phương cũng có một tổ gánh cứt. Một già
Gọi nào đấy, một Chí Lồng Sếnh nào đấy. Hắn bảo:
- Gánh vệ sinh được là Phương nó có sức khoẻ
đấy, bác ạ.
Câu nói ấy có sức thuyết phục. Mẹ Phương tươi
lên đôi chút. Hắn lại bảo:
- Mong sao tình hình ổn định để nó chỉ ở đúng
một lệnh ba năm. Cũng gần được một năm rồi. Nhanh thôi.
Mẹ Phương nhất dịnh giữ hắn ở lại ăn cơm và
ngủ ở đấy. Nhưng hắn viện nhiều lý do để về chỗ Lê Bàn. Suốt dọc đường ngồi sau
xe đạp của Bàn, hắn bỗng thấy Hà Nội khác rồi. Hà Nội không còn là của hắn, của
Phương, của Ngọc của những người như hắn. Hà Nội vẫn đẹp biết bao, nhưng thờ ơ,
xa cách biết bao.
Câu chuyện ở nhà Bàn cũng không kém phần bi
đát nhưng dẫu sao hai người vẫn phá lên cười. Thì ra Bàn cũng đang bị treo giò.
Và đã bị thẩm vấn nhiều lần. Khi giấy gọi. Khi giấy báo. Chưa một lần được giấy
mời. Có thể do Bàn chơi với mấy người có vấn đề đã bị bắt. Trong đó có Nguyễn
Vũ Phương. Họ nắm được cả Bàn chơi với hắn, hắn đi tù về là Bàn đến thăm
ngay...
Sau những buổi gọi hỏi dồn dập, bẵng đi ít
ngày, họ đưa giấy gọi Bàn đến vào buổi tối. Cái giấy gọi buổi tối làm Bàn sầu
não, tuyệt vọng. Anh nghĩ mình không có tội, nhưng như vậy thì Phương, hắn và
nhiều người khác anh quen đã bị bắt là có tội hay sao? Họ cũng như anh! Chính
vì thế anh cho rằng lần này rất ít khả năng anh trở lại căn buồng hẹp của mình
ở phố Phùng Hưng. Anh khóa cửa, đạp xe đến nơi hẹn đúng giờ. Không có ai gặp
anh. Anh ngồi một mình giữa căn buồng rộng và ngọn đèn tròn sáng quá mức. Anh
ngồi. Lo lắng. Nghĩ ngợi.
Rồi một người vào phòng. Anh đưa giấy gọi.
Người ấy xem, giữ giấy và mời anh đi theo. Anh đi. Qua một hành lang vắng. Một
cánh cửa khép. Người ấy đẩy cửa bước vào. Anh đứng ngoài chờ người ta bật đèn,
vì trong đó tối om, nhưng cái ánh sáng anh mong đợi không thấy hiện lên.
- Anh Bàn, vào đây.
Người dẫn đường nhô ra nói với anh bằng một
giọng thân mật. Anh bước vào căn buồng tối. Thận trong đưa chân ra phía trước
dò đường.
- Anh ngồi xuống ghế.
Người dẫn đường bảo anh và khẽ ấn vai anh. Anh
quờ tay chạm vào cái thành ghế tựa. Anh lay lay ghế. Chân ghế chắc chắn. Anh
ngồi. Người dẫn đường bước ra, bỏ lại một mình anh trong căn buồng tối. Anh
căng mắt nhìn và khi đã quen với bóng tối, anh nhận ra những bức tường tràng
mờ, một tấm rèm sẫm đen, và hình bóng những chiếc bàn ghế.
- Chúng tôi...
Một giọng nói bất chợt vang lên. Bàn giật thót
mình. Có một người đã ngồi trước ở đây chờ anh. Anh hiểu ngay đó là thủ trưởng,
là người đối thoại với anh. Nhưng tại sao lại không bật điện. Sao lại như tiểu
thuyết thế này.
- Chúng tôi mời anh đến đây để nói với anh một
số việc mà theo chúng tôi là cần thiết.
Giọng trầm. âm vang. Rành rọt. Căn cứ vào
giọng nói, anh đoán người đó trạc tuổi anh, và đây là người phụ trách cơ quan
an ninh, phụ trách cơ quan điều tra. Một người có trách nhiệm, làm việc âm thầm
vì an ninh Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng. Một người có toàn quyền quyết
định số phận của anh. Với bản chất dễ xúc cảm, anh thấy như bóng tối trong
phòng đặc thêm, mặc dù anh có thể nhìn rõ màu sáng mờ mờ của những bức tường.
Anh thấy như anh đang ở trong một căn hầm và có tiếng xè xè của cánh cửa quay
lộ ra một cầu thang thăm thẳm xuống cửa đập sâu tít như trong Hầm bí mật bên bờ
sông Ô- đê mà anh đã đọc. Da anh rờn rợn lạnh.
- Trị bệnh cứu người là mục đích của chúng
tôi. Ngăn chặn là mục đích của chúng tôi. Chúng tôi chính thức báo cho anh
biết: Anh đã tê liệt tinh thần cảnh giác cách mạng. Không hiểu mình đang ở bậc
thang nguy hiểm nào đâu. Văn nghệ sĩ các anh là như vậy. Rất ngu ngơ về lập
trường. Rất non nớt mà cứ tưởng ta đây hiểu biết. Cái nguy là ở đấy. àm việc
với anh, nhắc nhở anh, cảnh giác anh, điều đó là cần thiết. Cần thiết cho anh.
Cần thiết cho cách mạng.
Những lời nói đanh thép, không cho cãi, những
lời của chân lý, của đạo đức, của giai cấp, của sự cứu rỗi, khi xa xăm, như
trên trời cao vọng xuống, lúc lại như ở dưới đất dội lên. Anh vẫn cố đoán mục
đích, ý nghĩa của “pha ly kỳ” này. Và anh đã hiểu ra khi giọng trầm pha lẫn bi
thương lại vang lên:
- Chúng tôi đánh giá anh đúng mức. Anh đi theo
cách mạng một cách hồn nhiên của một anh tiểu tư sản bấp bênh. Phải liên tục
rèn luyện để có thể phục vụ cách mạng được nhiều hơn. Tôi nghĩ đó cũng là
nguyện vọng của anh. Chúng tôi mong muốn rằng từ nay anh sẽ cộng tác chặt che
với cơ quan an ninh (anh cảm thấy hết trọng lượng của các từ ấy, sự thiêng
liêng của nó toả ra trong từng âm sắc của người nói) để bảo vệ thành quả cách
mạng. Anh cười nhạt không thành tiếng trong bóng tối.
Giọng nói vẫn vang lên như một mệnh lệnh:
- Anh hãy suy nghĩ. Điều đó chỉ có lợi cho anh
và phù hợp với những gì anh vẫn nói về bản thân anh. Anh có thể từ chối, đó là
quyền của anh. Nhưng anh hãy cân nhắc cái gì sẽ đến với anh. Chúng tôi đánh giá
anh trên cơ sở việc anh làm chứ không phải lời anh nói.
Bàn cố nhiệt tình nói với bóng tối:
- Thưa các đồng chí. Dù tôi có bị cách mạng
nghi ngờ thì dòng máu trong tôi vẫn là dòng máu cách mạng. Điều đó tôi không
cần ai tin. Một mình tôi tin là đủ Bởi vậy tôi không bao giờ tha thứ hay bao
che một tên phản cách mạng, chống dối lại chế độ.
Mãi sau này Bàn mới nghĩ đến cái máy ghi âm ở
nhà Bình và anh đoán tối hôm đó họ cũng đặt máy ghi âm, ghi lại buổi nói
chuyện. Anh thấy anh trả lời như vậy là đúng, là khôn ngoan, là kín. Và anh
nghĩ họ tuyển anh làm đặc tinh thật cao tay. Ai cũng biết anh là người thẳng
thắn, trung thực, có vấn đề với công an, anh là người tạo được yếu tố bất ngờ.
Do đấy anh sẽ nắm được tình hình nhìều người khác, cung cấp cho họ rất nhiều về
người khác.
Có một điều khốn nạn nhất là từ bấy đến nay
không ai in của Bàn nữa. Một bài báo cũng không. Cơ quan cho Bàn tạm nghỉ. Bè
bạn ở các báo, các nhà xuất bản đều tươi cười trả lại bản thảo của các anh với
những lý do chính đáng không chê vào đâu được.
- Thế nhưng việc của tao, tay hộ tịch lại
không biết gì, mày ạ.
Bàn chồm dậy vì nhớ đến chi tiết ấy.
Đó là lúc hai người đã buông màn và chuyến tàu
Bắc khuya đã sầm sầm lao qua dốc cầu về phía Cửa Nam.
- Dạo rằm tháng Bảy vừa rồi, ông đại diện tiểu
khu còn mời tao đi kiểm tra một số gia đình buôn bán vàng mã. Có cả tay hộ
tịch. Nửa đêm chúng tao xộc vào các nhà. Tịch thu bao nhiêu thứ. Có cả cháo gà
bồi dưỡng. Ông tiểu khu còn đề nghị tao viết bài cho số báo tường. Tao viết ký
tên đàng hoàng.
Hắn reo lên:
- Được ký nguyên tên trên số báo tường
Bàn nghiêm trang:
- Quan trọng đấy. Ký tên ở tiểu khu cũng quan
trọng đấy.
Rồi Bàn rinh rích:
- Tay hộ tịch thỉnh thoảng vào chơi, kể chuyện
nhà này, nhà nọ trên đường phố. Ai chứa điếm. Ai nghiện. Ai có ba thằng con đều
đi ăn cắp. Tay ấy bảo: Nhà nào cũng như nhà bác thì chúng cháu yên tâm.
Bàn lại cười ré lên, thú vị: “à! Tao còn được
dự họp tuyên giáo tiểu khu mở rộng. Phong bao cẩn thận!”. Hắn cũng cười. Cười
và mong chóng sáng. Để ra chợ xem có thuốc không. Tàu Bắc đã về rồi.
Sáng hôm sau, ăn mỗi người một nắm xôi, đôi
bạn chia tay. Bàn lên cơ quan xem có lương chưa. (Không được giao việc, nhưng
vẫn có lương). Hắn đảo qua chợ. Vẫn không thấy lái thuốc về. Cả chợ Bắc Qua, cả
chợ Đồng Xuân. Đành phải ở lại đến chiều thôi. Hắn nhảy xe buýt về nhà anh chị
Diệu. Hắn đã chia tiền thành mấy món, đút ở cả hai túi quần, còn một ít đút ở
túi ngực áo bông, ấn mãi xuống sâu đáy túi. Đứng trên xe buýt đông người, chật
chội, hắn căng người ra mà cảnh giác. Hắn đang mang trong người tất cả vốn
liếng, sản nghiệp nhà hắn. Một cái đụng nhẹ của ai đó cũng làm hắn tập trung sự
chú ý. Ai đi lướt qua mạt hắn, hắn cũng chờ đợi một hành động gì đó tiếp theo.
Như một con thỏ lắng nghe gió đưa đến mùi của sói. Bằng tất cả mọi giác quan.
Bởi thế nên khi hắn chen ra cửa ô-tô để xuống
xe ở bến đỗ phố Bà Triệu và bị kẹt giữa đám đông ùn lại cửa xe, hắn cảm thấy
ngay có ai chạm vào túi ngực hắn. Hắn nắm chặt tay người ấy, thét lên:
- ăn cắp!
Đó là một người mặc quần áo Tô Châu, mũ tai
bèo, lưng đeo ba-lô từ phía bên bước ra. Người ấy hất tay hắn, lách lên đứng
ngay trước mặt hắn, cái ba-lô phồng căng đẩy hắn về phía sau. Người chen chân,
hắn chỉ nhìn thấy cái mũ tai bèo cụp xuống gáy. Và một tiếng gầm còn to hơn
tiếng thét của hắn:
- Chính mày ăn cắp!
Nhảy được xuống đường rồi, anh bộ đội chưa đi
ngay. Anh ta đứng dưới lòng đường chờ hắn, chỉ tay lên phía cửa ô-tô nơi hắn
đang bước xuống:
- Bà con! Chính nó là thằng ăn cắp.
Không ai bảo sao. Không ai muốn dây vào cuộc
tranh cãi. Không ai muốn vạch mặt tên ăn cắp. Mọi người nhìn vào hắn, nhìn vào
người mặc quần áo bộ đội một cách tò mò, rồi tản đi. Theo phản xạ, hắn đưa tay
kiểm tra các túi tiền, và vẫn thấy còn nguyên. Đúng là ngón tay của người ấy đã
chạm vào ngực hắn. ở đó hắn đút một ít tiền, nhưng nó chưa mổ được vì tiền nằm
quá sâu.
Người ấy vẫn đứng dưới đường, xốc lại ba-lô,
hất mũ tai bèo ra phía sau, chờ đợi hắn, sẵn sàng làm cho ra nhẽ xem ai là kẻ
cắp. Một khuôn mặt loang. Một vết sẹo tràng chạy qua một bên má xuống tới cổ.
Bàn tay anh ta giữ quai ba-lô cũng bị vết sẹo loang. Kiểu cháy của bom na-pan.
Một anh thương binh ở trong B ra.
Người ấy gườm gườm nhìn hắn và reo lên:
- Anh Tuấn.
Hắn đã nhận ra. Họ nhảy bổ vào nhau trước sự
ngạe nhiên của mọi người. Hắn ôm chặt anh bộ đội, ôm cả cái ba-lô phồng căng,
thì thầm:
- Dự! Dự!
Hai người đẩy nhau ra và nhìn nhau một lần nữa.
Hắn cười. Sung sướng, ngạc nhiên và thích thú vì anh thương binh bị bom na-pan
ở B ra này lại chính là Dự. Dự mặt loang tay loang vì bị cháy ở trại V. Q. Dự
có con chuột được đem xử án. Dự hay bắt tóp Dự đã xuống nhà hắn, ăn cơm một lần
với hắn, xin hắn bộ quần áo, hôm sau còn đứng mãi ở bên kia đường nhìn sang nhà
hắn, thèm thuồng một mái nhà, một gia đình như hắn, rồi bỏ đi. Hắn hỏi khi hai
người đã sóng đôi trên hè phố.
- Min đâu?
- Vào kho rồi.
Dự đáp thản nhiên. Hắn bị bất ngờ:
- Vì sao?
- Tý nữa. Tý nữa em nói anh nghe.
Hắn thấy Dự thay đổi hẳn. Nhanh nhẹn. Xốc vác.
Tự tin trên đường phố Hà Nội này. Họ đi ngược lên bờ hồ Hoàn Kiếm gió lộng. Rét
xuýt xoa. Dự cười:
- Suýt nữa anh em mình xô xát.
Hắn nhìn Dự. Ngụ một câu hỏi. Dự hiểu:
- Em làm lính mổ. Chuyên trên tuyến xe buýt và
tàu điện nội thành.
Hắn ngắm nhìn bọ quần áo đại cán Tô Châu của
Dự. Và cái ba-lô, mũ tai bèo. Nhưng người ta còn có thể nghi anh bộ đội là giả
cầy nếu không có vết sẹo do bỏng ở trại V. Q. Dự đã hoàn toàn trở thành anh
thương binh từ trong khói lửa miền Nam trở về với gia đình miền Bắc. Dự hỏi:
- Giống không?
- Không chê vào đâu được.
Dự cười, rút trong túi áo đại cán bao thuốc
lá.
- Tam Thanh đàng hoàng. Phải tới hai đồng rưỡi
một bao đấy. Hai anh em hút. ấm cả cổ.
Hắn không ngờ Dự lại là lính mổ. Vì trong trại
Dự chậm chạp, hiền lành, cù mì ít nói. Dự bảo hắn: “May mà em làm được nghề
này. Lúc đầu cũng lo. Sợ lắm. Nhưng rồi quen. Em với Min. Min bị bắt tháng
trước. Có lẽ vì Min không có sẹo như em”. Dự cười: “Có cái sẹo này hoá may, cái
tay khoèo này nữa. Chẳng ai nghi ngờ gì”. “Nhưng tay này thao tác có ổn
không?”. Dự giơ bàn tay sẹo loang trắng trắng hồng hồng có mấy ngón co quắp
lên. Hắn chỉ thấy hơi gợn nhẹ ở ngực áo, mấy tờ giấy bạc đã nằm gọn trong tay
Dự. Dự cười và ấn trả lại vào túi hắn. “Được không? Túi áo bông hơi khó. Túi áo
sơ-mi dễ hơn”. Và Dự bảo hắn như Giang đã bảo: “Anh đừng để tiền ở túi áo”. Dự
rủ hắn đi ăn. “Anh em mình phải có bữa liên hoan kỷ niệm chứ. Em mới thắng một
quả đậm”. Thấy hắn ngần ngừ, Dự hỏi: “Anh có bận gì không?” Khi biết mục đích
của hắn đi Hà Nội, Dự reo lên: “Thuốc lá à? Em sẽ đưa anh tới một nơi. Bảo đảm
là có mà”.
CHƯƠNG 50
Họ ngồi đối diện trong một góc nhà hàng Tiểu
Lạc Viên. Phố Tạ Hiện, Phúc Long, Phúc Châu thân thuộc với hắn từ những ngày
làm ở báo T. Bọn hắn hay lên đây uống trà buổi tối. ở đây bao giờ cũng đông
đúc, tấp nập. Được hoà lẫn vào đám người đông vui, bận rộn và vô tư thật là thú
vị. Khi ấy hắn mới ngoài hai mươi tuổi. Khi ấy anh Diệu bảo: “Các cậu tuổi hăm,
sướng thật. Còn mình tuổi băm rồi, chán quá”.,
Đã hai mươi năm trôi qua. Bè bạn ở báo còn
nhiều đấy, nhưng hắn nghiệm ra hầu hết những người có tài, có khả năng làm báo
và sáng tác văn nghệ đều chẳng ra gì. Chẳng được tin cậy. Chẳng ai lên được
chức tổ trưởng, trưởng phòng. Biên uỷ lại càng xa xôi. Xa xôi như ta ngắm nhìn
sao Hoả vậy. Vì sao thế nhỉ? Tại lãnh đạo. Đã hẳn. Nhưng anh em cũng có lỗi một
phần. Anh em có một cái gì đó không khớp với thước đo, với khuôn phép. Nó cứ
vượt ra ngoài qui cách. Thừa một tý. Lại thiếu một tý. Thừa nhiệt tình, xông
xáo, lán lộn, nắm chắc thực tế, hiểu quần chúng nghĩ gì, muốn gì. Nhưng lại
thiếu cân nhắc khi phát biểu, đôi khi dẫn đến mất lập trường.
Thừa khả năng viết phóng sự, bút ký, điều tra,
những bài phông cho số báo đặc biệt nên đi vào sáng tác văn chương là thứ làm
ảnh hưởng đến việc viết báo. Thiếu tính khiêm tốn, thiếu sự tôn trọng trưởng
phó ban, biên uỷ là cán bộ chính trị sang phụ trách duyệt bài. Cho họ là viết
kém, không biết viết mà không nhìn thấy cái cơ bản là lập trường tư tưởng,
những cống hiến của người phụ trách. Thừa quyết tâm cải tiến tờ báo, nhưng lại
thiếu ý thức tổ chức và kỷ luật, thích là rủ nhau lên Tạ Hiện này uống trà
trong giờ làm việc. Thật ngược đời. Những người tên tuổi gắn liền với những
trang báo, được bạn đọc yêu mến lại là những phần tử phức tạp, phải uốn nắn,
đấu tranh trong nội bộ cơ quan.
Quán Tiểu Lạc Viên này hắn đã đến với bạn bè
những khi lĩnh nhuận bút, lĩnh tạm ứng. Bữa ăn cuối cùng trước khi bị bắt là
khoản ứng trước hợp đồng kịch bản phim “Những người đang sống” với Vũ Mạc, với
Nguyễn Vũ Phương cũng là ở đây. ăn xong Phương còn bảo: “Mày đưa tao mấy đồng.
Tao mua xăng”. Đúng ]à cái mô-bi-lét cũ của Phương ngốn xăng khá dữ...
- Anh ăn gì?
Dự hỏi làm hắn lúng túng:
- Gì cũng được.
- Không, anh gọi chứ.
Hắn nhớ tới thực đơn bữa ăn trước khi bị bắt
với bạn bè:
- Chim quay.
Bữa ấy cũng có chim quay. Nguyễn Vũ Phương
thích món chim quay. Còn Vũ Mạc thích ba ba, bia ba ba. Ai nữa nhỉ? Lê Bàn. Lê
Bàn bao giờ cũng giản đơn: Thịt gà luộc.
Dự gọi to:
- Hai chim quay.
- Một thôi. Để còn ăn thức khác. Có đủ tiền
không đấy.
- Anh yên trí. Đủ mà. (Gọi to) Một chim quay
thôi nhé!
Hắn: - Ba ba tần đi.
Dự: - Một ba ba.
Hắn: - Gà luộc nhé.
Dự: - Một gà luộc.
Hắn: -Thế thôi. Đủ rồi đấy. Quá nhiều nữa là
khác.
Dự:- Anh uống gì?
Hắn: - Bia.
Dự sung sướng rót bia:
- Anh ăn đi. Uống đi.
Đôi mắt Dự long lanh nhìn hắn. Hắn thì thầm:
- Nào. Khợp!
Dự cười tít mắt:
- Sột sệt.
- Có nhớ Q. N, V. Q không?
- Em gần như đêm nào cũng nằm mơ thấy mình vẫn
ở trong ấy.
- Đêm nào cũng vậy à?
- Có đêm em cùng với Xìn Cắm thái da trâu ở
bếp. Thái đến toét cả tay. Một ngón tay lòi cả xương ra, đỏ hỏn. Da trâu ngập
đầu, mùi khẳn như cóc chết. Xìn Cắm béo hơn lúc còn sống. Em vẫn nhớ là Xìn Cắm
chết rồi. Em hỏi chuyện dưới âm, Xìn Cắm không nói. Cứ nhìn em, chảy nước mắt,
buông dao đứng lên, đi vào rừng biến mất. Em định đi theo mà không sao đứng
được. Chân cứ nặng như chì. Nhũn ra.
Hắn nhớ đến người tù lưng cánh phản, ngoại
hình rất giống Hemingway, hàm răng trắng đều và nụ cười thơ trẻ, cho hắn cái
nắp ca. Hắn nhớ đến đám ma Xìn Cắm, đến cái quan tài Xìn Cắm nằm trên xe trâu
cùng với mai cuốc xuống dốc trại lộc cộc, lộc cộc. Đi đầu là ông Chắn, công an
y tá. Ba anh lâm sản đào huyệt theo sau. ánh đuốc bập bùng hắt lên khuôn mặt
Cương móm, trông càng giống hình vẽ trên bảng Nguy hiểm chết người. Rồi Hỉn Sán
đi cạnh bưng bát cơm lồng, trên có quả trứng luộc, cắm một đôi đũa vót xù ra.
Và một người nữa cầm một nắm hương đỏ hồng. Hắn nhớ đến sáng hôm sau, khi đang
đánh răng rửa mặt thì Cương sang đưa cho hắn củ sắn luộc: “Này Xôi cúng Lỷ Xìn
Cắm đây”. Hỏi ra mới biết mỗi anh đào huyệt được bồi dưỡng hai ki-lô sắn luộc.
Hắn vội hỏi sang chuyện khác. Sực nhớ tới tài
nghệ bắt chuột của Dự trong trại, hắn hỏi vui để chấm dứt đề tài ấy:
- Dự có nằm mơ thấy chuột bao giờ không?
Dự ngạc nhiên:
- Sao anh biết? Em luôn nằm mơ thấy chuột.
Không biết bao nhiêu là chuột. Mới đầu em đuổi một con chuột leo. Nó chạy vào
nhà mét. Em chạy theo. Em đuổi mãi. Trong ấy khói um. Bao nhiêu người đang sột
sệt. Khói không mở được mắt. Em quát: “Khéo cháy trại bây giờ! Có dụi đi
không?” Họ cứ rút mái xuống đun. Rồi nhìn em cười. Răng cứ dài ra. Hoá ra toàn
chuột. Phải đến hàng nghìn con xông vào cắn em.
Dự tỏ vẻ hoảng.
Có lẽ vì em ăn nhiều thịt chuột quá. Phải đến
hơn chục hôm toàn mơ thấy chuột. Con to, con bé, con mẹ, con con. Con cười, con
chơi, con chạy. Em thì chết rồi, mà hai con chuột cứ khoét mắt em. Sợ thật đấy.
Tỉnh dậy, toát mồ hôi.
ăn mấy miếng Dự lại bảo:
- Cũng chưa kinh bằng một lần em nằm mơ không
biết ở trại nào. Hình như ở Cổng Giời. Hay Phố Lu, hay V. Q. Tất cả trại không
còn một ai. Vắng ngắt. Mấy chục buồng chỉ có mỗi mình em. Còn toàn quản giáo.
Dễ đến mấy trăm. Họ điểm danh. Họ gọi toán tăng gia. Mỗi mình em. Toán chăn
nuôi. Lại mỗi mình em. Toán lò gạch. Lại em. Toán lâm sản. Cũng em. Toán may.
Cũng em. Em đã ra khỏi cổng đi làm. Lại có một em - khác ngồi ở sân, mỗi mình.
Chung quanh toàn áo vàng đeo súng lục. Mà áo xanh cũng đông. Vòng trong vòng ngoài.
Kinh lắm.
Dự cười. Hắn cảm thấy ghê ghê. Dự hỏi hắn:
- Anh có nằm mơ thấy nó không?
Hắn lắc đầu, buồn bã, nói một sự thật hắn đã
nói với già Đô:
- Mình mất khả năng nằm mơ rồi. Không mơ thấy
gì nữa.
Dự xuýt xoa:
- Anh sướng quá. Em chính thức mộng mị liên
miên. Hết trại này đến trại khác. Thành ra ngày đi hoạt động, còn đêm nào cũng
lại vào tù. Hắn nghĩ có lẽ Dự quá căng thẳng. Tác động đến thần kinh. Mà căng
thẳng là phải thôi. Cái sống cái chết chỉ trong gang tấc.
- Phải tìm cách chuyển nghề thôi, Dự ạ.
Dự như đã suy nghĩ kỹ về chuyện đó:
- Chưa được. Phải cố một năm nữa. Nếu thắng
quả đậm thì chuyển sớm hơn.
Và Dự cho hắn biết ý định: Dự cố dành dụm mua
một cái túp ở bên kia Gia Lâm. Một mảnh vườn. Thế là bắt đầu làm lại cuộc đời.
Giồng rau thơm. Nấu rượu. Nuôi lợn và lấy vợ nữa. Dự đã bàn với Min. Nhưng Min
chưa thực hiện được đã bị bắt.
- Bây giờ được kha khá chưa
- Khó khăn lắm, anh ơi. Kiếm không phải dễ
đâu. Có hôm đi từ sáng đến tối, vẫn Trần Văn Trều.
Bây giờ người ta cảnh giác lắm. Như anh đấy.
Ai động được vào túi anh. Em hết sức tiết kiệm mới để được hơn trăm.
- Tiền để ngay trong ba-lô này à? Ngộ nhỡ...
Dự gật gù:
- Min để trong ba-lô, bị bắt, mất hết đấy. Rút
kinh nghiệm Min, em chôn ở một nơi chỉ một mình em biết.
- An toàn không?
- An toàn. An toàn tuyệt đối.
- Chôn tiền à? Sợ mục mất.
- Em mua vàng. Anh yên tâm.
Hắn rụt rè hỏi Dự:
- Dự ơi, vì sao Dự bị bắt?
ở trong tù người ta không hỏi nhau điều ấy.
Không muốn tò mò, không muốn đi sâu vào bí mật
của nhau. Nhưng bây giờ hắn thấy cần phải hỏi. Dự trả lời thật bất ngờ:
- Em là dân công giáo. Đức cha xứ em giao cho
em mang một số giấy tờ tài liệu sang cho linh mục xứ đạo vùng bên. Trên đường
đi thì em bị bắt...
- Sao không thấy Dự chơi với bọn Cân, Hoá nhỉ?
- Bọn họ bảo em khô đạo. Họ nói thế là nhẹ
đấy.
Chứ em bỏ đạo rồi. Em không tín nơi Chúa nữa.
Nếu có Chúa thì Chúa đã chẳng để em và bao con chiên của Chúa như vậy. Chúa dạy
khác với cuộc đời nhiều quá. Làm theo lời dạy của Chúa cũng tốt, nhưng không
sống nổi. Chẳng ai cho mình sống đâu. Phải tự mình thôi. Em đã chầu chực ở ga
làm bốc vác. Không đến lượt. Em muốn làm xích-lô. Không có vốn mua xe. Em xin
vào lò gạch đóng gạch. Không ai mướn. Người đông quá. Dâu cũng thừa người, anh
ạ. Phải làm việc này thôi. Mà đã làm thì phải an toàn, phải thắng.
Họ vừa ăn vừa trò chuyện. Nhà hàng lúc ấy
vắng, chưa đến giờ cao điểm. Hơn nữa khách ăn có vẻ sộp, lại là thương binh,
loại khách cần phải chiều, đừng làm mất lòng họ, dù bất kỳ ở đâu, nữa là họ
đang ăn uống. Dù bây giờ họ đã ăn uống xong lâu rồi và chỉ ngồi hút thuốc.
ăn xong Dự trả tiền (hết hơn mười đồng tất
cả), hai anh em đến nhà người quen của Dự mua thuốc lá.
Lại quành ra phía đầu cầu. Ngoắt ngoéo vào sâu
trong ngõ. Qua một vòi nước có cầu rửa. Sát một hẻm con tường gạch mục, với
những ô nhỏ hố xí thùng. Thật không may. Chỉ có một đứa trẻ lên mười đang nấu
cơm. Dự cười:
- Ngọ đấy à? Nấu cơm cho chú với nhé.
Thằng bé reo lên khi thấy Dự:
- Sao lâu quá chú không đến?
Nó pha nước mời khách và cho biết bố mẹ nó sắp
về. Cách chuyện trò giữa nó và Dự làm hắn yên tâm.
Căn buồng tối, hẹp. Ngổn ngang những bản in
tiền, vàng âm phủ.
Rất thông thạo, Dự đi vào góc nhà tìm tìm, bới
bới và đu người lên gác lửng, sờ nắn...
- Yên trí. Anh yên trí.
Thằng bé con cười:
- Chú tìm gì?
- Có rồi. Bí mật. Bố mẹ đi có lâu không?
- Hai chú ngồi chơi. Bố mẹ cháu về bây giờ đấy
mà.
Hai người ngồi hút hất mấy điếu Tam Thanh nữa.
Dự hỏi thăm vợ con hắn, tình hình làm ăn của hắn. Hắn ngắm nhìn Dự. Lanh lợi,
tháo vát, từng trải, xốc vác. Dự hôm nay và Dự hôm ngồi cho hắn cắt tóc ở trại
Q. N thật khác hoàn toàn. Dự đã lột xác để trở thành một người khác. Đúng là
không thể nhận được ra Dự... Chỉ đến khi biết rồi, nhìn kỹ vẫn thấy là Dự ấy.
Phải đến tan tầm chủ nhà mới về. Chỉ một anh
chồng. Hơn tuổi bọn hắn. Xách một túi nặng.
Trông thấy Dự ở cửa, người ấy reo lên:
- Lâu quá mới gặp. Cứ tưởng...
Chợt thấy hắn, câu nói dừng lại ở đấy. Dự
cười:
- Tưởng em vào kho rồi phải không?
Và giới thiệu:
- Anh Tuấn bạn em. Đã ở Q. N, VQ. Anh Lợi cũng
ở QN đấy. Toán lâm sản. Lời giới thiệu ấy làm họ hiểu nhau ngay. Hai người hỏi
nhau về thời gian ở Q. N. Thì ra lúc hắn lên QN, thì Lợi đã được tha rồi.
- Nhà tôi còn ở lại chờ chuyến tàu sau. Thuốc
lá à? Người ta đặt hết cả rồi.
Mãi sau hắn mới biết vợ chồng Lợi bao thầu,
mua lại những gì mà tổ công an, phòng thuế trên tàu tịch thu. (Tất nhiên là
những thứ không đưa về trụ sở). Chủ yếu là chè, thuốc, những thứ nhẹ, còn sắn,.
gạo, gà qué Lợi không làm. Hàng Lợi mua không nằm trong sổ sách, để anh em bồi
dưỡng riêng. Lợi làm lâu rồi, đứng đắn và được tin cậy.
Tuy nói không còn thuốc, nhưng Lợi đã lại
thoăn thoắt leo lên gác lửng kéo xuống một bọc to.
- Tình hình chè thuốc năm nay còn gay. Họ làm
căng lắm. Không thoát một cân. Kiểu gì cũng không lọt. Để trong đàn ghi-ta cũng
mất. Ba-lô cho vào bao đổ sắn lên cũng mất. Mất mà không dám nhận. Bao này của
ai? Cái đàn này của ai Không dám ra xin. Cứ ngồi mà nhìn thôi. Chỉ béo bọn
phòng thuế, bọn thị trường. Thu cho nhà nước một, thu cho chúng mười. Nó cướp
được của người ta mà nó bán cho mình có rẻ đâu. Nhưng thôi, có hàng cho mình là
tốt rồi. Tôi mua được nhiều hàng là nhiều người chết lắm đấy anh ạ. Đây. Thuốc đây.
Anh lấy được mấy cân? Anh em mình với nhau cả. Anh bị bao nhiêu? Năm gậy à? Tôi
chẵn mười niên. Gấp đôi anh. May mà được cô vợ tốt. Tiếp tế đều đặn, chờ chồng,
nuôi con. Bây giờ còn đang phơi mặt ở ga. Chờ chuyến tàu sau. Kiếm miếng ăn vất
vả lắm, anh ơi.
Hắn lấy năm ki-lô. Sợi loại hai thôi. Giá rẻ
không ngờ: Mười bảy đồng một ki-lô. Lợi có cả giấy cuộn. Hắn làm một cây giấy
Sơn Thuỷ. Thuốc khô. Loại này một cân phải cuộn được nghìn mốt, nghìn hai trăm
điếu. Cho thuốc vụn quốc doanh vào giữa thì còn được hơn nữa. Thứ thuốc vụn ấy
rất ngon, không nóng, tàn trắng, đậm đà. Chỉ tội đen. Đen và vụn. Thuốc giao
được năm mươi. Bằng giá bán lẻ. Vậy là mỗi cân thuốc kiếm được đến ba chục bạc.
Với thói quen nghề nghiệp hắn nhẩm tính rất nhanh. Như nhẩm tính nhuận bút in
sách ngày trước. Loại mười tám đồng hay mười lăm đồng (một nghìn chữ). Tập sách
khoảng bao nhiêu chữ. Nhuận bút cơ bản. Số luỹ tiến. Hắn tính ngay ra con số
cuối cùng. Hắn trả tiền, cho thuốc vào túi, chân thành cảm ơn Lợi và cùng với
Dự đi ra phố. Hắn nắm chặt tay Dự bùi ngùi:
- Tìm Dự thì tìm ở đâu?
- Từ chín giờ tối trở đi em có mặt ở ga. Em
ngủ ở đấy.
- Có khi nào xuống P không?
- Chưa biết được. Nếu xuống dưới đấy, em sẽ
lại.
Hắn vừa đi vừa ngoái nhìn về phía Dự đang đứng
đón ô-tô-buýt. Dự tốt quá. Một tấm lòng vàng. Dù đang đi móc túi. Không biết có
còn gặp nhau nữa không. Mong Dự đừng như Min, đừng như Giang.
Kia rồi, một cái ô-tô-buýt vừa đỗ. Dự bám vào
tay vịn nhảy lên. Mũ tai bèo, ba-lô phồng. Quần áo Tô Châu bước khuất vào trong
xe. Ô-tô chuyển bánh ngoặt về một ngã tư.
Hắn đi về phía nhà anh chị Diệu. ở đó hắn đóng
chặt cửa lại, múc từng ca nước phun vào số thuốc lá mới mua được của Lợi. Hắn
chia số thuóc ướt đẫm nước ấy thành từng phần, rồi cho vào một túi ni-lông dày,
lật ngược cái ghế gỗ con như một thứ khuôn, hắn ép chặt thuốc lại, mới đầu lấy
tay đấm vào túi thuốc, sau đứng lên, nhún xuống, ghì xuống. Mấy cân thuốc bị
nén thành những bánh vuông vắn. Hắn lấy giấy báo gói riêng từng gói và đút vào
túi lưới trông như những cái bánh chưng. Kinh nghiệm trong tù dạy hắn: Hãy yểm
một cách hớ hênh nhất.
Hắn xin thêm anh chị Diệu tờ báo Cứu Quốc, cái
bìa lịch mới, đút áp vào mấy cái “bánh chưng”và buộc trên quai túi chiếc khăn
mặt. Mua được thuốc lá đã khó. Giữ được thuốc lá khó hơn nhiều. Còn quãng đường
từ đây về P nữa. Bao nhiêu trạm thuế, bao nhiêu công an, bao lần khám xét. Mà
hắn phải đem được tài sản này về cho vợ con hắn. Hắn dung dăng dung dẻ xách túi
đi lại trong buồng và cười toe toét hỏi chị Diệu:
- Trông em giống cán bộ đi công tác chưa, hở
chị?
Chị Diệu đã bao lần thấy hắn lên nhà chị để
làm việc với nhà xuất bản, để nhận sách bản quyền mới in; nhận tạm ứng tiền
nhuận bút, đem phác thảo bìa sách về ngắm nghía và góp ý với hoạ sỹ. Chưa bao
giờ hắn hì hụi một mình như thế này. Trước đây hắn vừa đặt chân lên Hà Nội là
tất cả bọn bạn hắn đều biết ngay. Chốc lại có người gõ cửa nhà chị:
- Chị Diệu ơi. Thằng Tuấn nó đâu rồi, hở chị?
- Chị Diệu ơi. Thằng Tuấn nó mới lên, hở chị?
Cũng có khi chẳng thấy hắn đâu, vẫn tưởng hắn
đang ở P, nhưng nghe bọn bạn hắn hỏi, chị biết hắn đã ở Hà Nội và y như rằng
một lát sau hắn đã có mặt tại nhà chị.
Chị biết đám bạn hắn giờ đây cũng đang gay go,
tan tác cả. Những Lê Bàn, Trịnh Bão, Vũ Mạc, Phạm Văn Định, những Nguyễn Vũ
Phương... Nhìn hắn đánh vật với mấy cân thuốc lá, nhìn hắn hí hởn đi lại trong
buồng, chị cười chua chát:
- Rõ vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay.
Vào nửa cuối năm 1974 hắn có ba cuộc gặp gỡ
quan trọng. Với ba người. Một người bạn tù. Và hai người khác mà cả hai đều có
thể quyết định số phận của hắn. Người bạn tù là già Đô. Hai người kia là ông
Hoàng và ông Trần. Ba người đại diện cho ba thế giới.
Già Đô là người của thế giới bên kia, thế giới
thống khổ hắn vừa trải qua và còn đang bám theo hắn. Bám riết không rời. Như
đuôi sao chổi bám vào nhân sao chổi. Hắn thích hình ảnh này. Dù sao hắn cũng
trót dại đi viết văn. Hắn thích tư duy hình tượng.
Và hắn thấy hình tượng ấy được. Con người nhỏ
bé mà đau khổ quá lớn. Không chạy đâu thoát. Dù có trốn vào đêm đen vũ trụ mịt
mùng, nỗi khổ đau vẫn bám theo, mênh mông như vũ trụ.
Ông Hoàng đại diện cho thế giới của một số ít
người (chắc là như vậy - càng về sau hắn càng tin như vậy) muốn làm được những
điều mình nói. Một người trung thực. Muốn thực thi luật pháp, muốn trả lại cho
hắn tất cả những gì hắn đã bị tước đoạt. Tóm lại ông là người tốt bụng, có
trách nhiệm, nhưng lãng mạn và không tưởng.
Người thứ ba là ông Trần, người có phép màu
làm thay đổi thế giới này của hắn. Đúng. Ông Trần có một chiếc gậy thần. Ông
cầm gậy chỉ một cái, thế giới của hắn thay đổi hẳn. Với một số người, ông là
tiên ông. Với hắn, ông là phù thuỷ. Ba cuộc gặp gỡ xếp theo trình tự thời gian:
ông Hoàng, già Đô, ông Trần.
Mùa thu năm ấy mưa ngâu rả rích. Ngọc thắp
hương cúng ràm từ mấy hôm trước. Ngọc bảo rằm tháng Bảy phải cúng sớm, để những
cô hồn không nhà không cửa, đói khát, lang thang vào nhà mình ăn uống được no
một bữa, rồi lại đi nhà khác kiếm ăn trong dịp xá tội vong nhân.
Hắn thấy Ngọc đã bước vào tuổi già, tuy nàng
mới ngoài ba mươi. Bạn bè cùng lớp tuổi, Ngọc chỉ chơi với Linh. Nhưng chính
Linh cũng như Ngọc, cũng bước qua tuổi trẻ của mình. Họ không chạy trốn tuổi ba
mươi, tuổi chín nhất của người phụ nữ. Chỉ giản đơn là cả hai đã ở tuổi già
trong lúc còn đang trẻ. ở cơ quan, hai người chỉ có nhau là bạn. Cả hai cùng có
những người bạn mới ngoài cơ quan, tuổi bốn mươi, nám mươi, sáu mươi, cùng họ
đi lễ các đền, các hội. Ngọc và Linh thuộc lòng ngày kỵ Đức Thánh Mẫu, ngày mở
hội Phủ Giày, ngày mưa rửa cửa đền Kiếp Bạc. Những gì dính dáng đến thế giới
này không hấp dẫn được họ ngoài chồng con, bố mẹ và các loại tem phiếu.
Họ đã nhìn thấy quá nhiều điều ở vào tuổi ấy.
Họ đã chờ đợi quá lâu rồi. Họ đều mong mỏi được hưởng may mắn trong số phận,
tuy mỗi người một hoàn cảnh đối lập nhau. Chồng Linh đi chiến đấu trong tự hào
vinh dự, chồng Ngọc đi tù. Giờ đây người nọ thèm số phận của người kia.
Ngọc quá hiểu nỗi khổ trăm đường của người có
chồng đi tù, túng thiếu nhục nhã, đau đớn ê chề, nàng thèm được như Linh. Còn
Linh nhìn Ngọc có chồng ở bên mà nghĩ đến chổng mình trong B, cái sống là rất
ít. Linh bảo Ngọc: “ Chẳng làm gì mà suy nghĩ, mà xấu hổ. Chồng mày không ăn
trộm, ăn cắp, không tham ô, hủ hoá...” Thực sự Linh cho là Ngọc cũng như Linh,
cả hai đều phải chịu mất mát, hy sinh cho cuộc kháng chiến này, cả hai đều phải
chịu mất mát hy sinh cho chiến thắng.
Điều Linh nghĩ cũng là điều hắn nghĩ. Với hắn
đó là sự thật. Chồng Linh vào rừng, xông pha bom đạn, đói khát, vất vả cho
chiến thắng. Còn hắn, hắn hy sinh cái quý nhất: Tự do. Là cũng để cho chiến
thắng. Hắn chịu đựng khổ nhục, đau đớn là để cho chiến thắng. Chiến thắng cần
phải được đảm bảo bàng sự an toàn tuyệt đối ở hậu phương, hậu phương pha-lê
hoá... ít nhất việc bắt hắn cũng có tác dụng răn đe những người khác, nếu hắn
không có tội. Đóng góp vào việc răn đe, hướng mọi người toàn tâm toàn ý vào một
mục tiêu duy nhất là sự đóng góp tích cực. Có nhiều cách đóng góp. Cách đóng
góp của hắn đáng kể lắm chứ. Nó cũng được làm bằng đời người. Nó cũng được làm
bằng nước mắt. Thực lòng hắn không tin chuyện hương khói. Hắn nghĩ: Chuyện con
người là của con người. Đó là cuộc đấu tranh muôn đời giữa cái thiện và cái ác,
nỗi thống khổ muôn đời của những kiếp người bị giày xéo, bị đày đọa, bị làm
những hòn chèn cho cái ghế ngồi của các ông quan và các vị vua chúa. Tuy vậy
nhiều lúc thấy Ngọc thành kính đứng trước bàn thờ, hắn mong những điều nguyện
cần của nàng biến thành sự thật. Hắn không tin, nhưng hắn vẫn cứ mong muốn có
các thánh để các thánh ban cho một phép mầu, để thánh thần thực hiện luật công
bằng, vay trả, trả vay, đã được thể hiện trong truyện cổ tích và trong các chủ
trương của Đảng, có công thì thưởng, có tội thì phạt. ờ hiền gặp lành. Kẻ ác bị
trừng trị.
Bàn thờ nhà hắn vẫn đặt trên nóc chiếc tủ Bình
đóng, sơn xanh, nom như cái quan tài dựng đứng. Dịp rằm tháng Bảy năm ấy, trời
đang mưa ngâu, ẩm ám, bỗng nhiên bát hương nhà hắn bốc cháy. Buổi tối Ngọc kê
ghế đứng lên, đặt hương hoa, bày đồ lễ, thay nước thắp hương, thì thầm khấn
vái. Rồi Ngọc bước xuống sàn, đến ngồi ở giường đan len. Đan thuê phải tranh
thủ từng phút. Đan ngay cho công ty Ngọc. Một lúc sau bát hương nhà hắn tự
nhiên bốc cháy. Ngọn lửa sáng bập bùng căn nhà hẹp.
Ngọc buông que đan bật dậy ra đứng trước bàn
thờ, kính cẩn chắp hai tay vái xuýt xoa “Lạy ngài, con chắp tay con lạy các
ngài hiển linh, phù hộ độ trì cho chồng con là Nguyễn Văn Tuấn, quê quán... trú
tại số nhà... được tai qua nạn khỏi, có công ăn việc làm, phù hộ cho con là Lê
Thị Ngọc 35 tuổi...” Vẻ mặt nàng còn hơn cả sự ngạc nhiên và thành kính. Đó là
vẻ mặt con chiên thấy Chúa hiển hiện. Và nàng chờ đợi. Nàng không dám nói
trước, mà im lặng chờ đợi điều gì đó đang đến. Không phải điều bình thường. Một
điều tốt lành to lớn. Hệ trọng. Có thể thay đổi cuộc sống của vợ chồng nàng.
Cho mãi khi ông Hoàng đã tới nhà, đã ra đi, Ngọc mới nói: Thế là diềm báo trước
của việc hoá bát nhang đã được ứng nghiệm.
Ông Hoàng đến vào buổi tối. Mất điện, nhìn
bóng người cao cao của ông đi ngoài hành lang, hắn ngớ ra, không tin vào mắt
mình và bật lên:
- Anh Hoàng...
Ông Hoàng không đi một mình. Có một thư ký
cùng đi. Người thư ký trạc tuổi hắn, khuôn mặt thông minh, cặp mắt sắc sảo, cái
cằm vểnh kiểu cằm Maiacôpski khiến hắn lại nhớ tới Nguyễn Vũ Phương đang gò
lưng gánh vệ sinh ở trại P. L (Phương cũng có cái cằm Maia). Đó là phó tiến sỹ
Huỳnh, sau này là thứ trưởng kiêm Tổng giám đốc của hắn. Nhà chỉ có hai cái ghế.
Hắn mời khách ngồi ghế còn hắn ngồi trên cái hòm giấy nện, nơi vẫn để những túi
ni-lông đựng số thuốc lá sợi đã aromatisé của hắn.
Ngọc và lũ trẻ ngồi cả ở giường. Hắn cảm động
đến mức luống cuống và mãi mới pha được nước mời khách. Ông Hoàng cầm chén trà,
người thư ký nói với hắn, nhưng chính để nhắc ông Hoàng:
- Anh Hoàng tối không uống trà.
Ông ngoan ngoãn đặt chén xuống. Ông nhìn quanh
căn buồng nghèo nàn. Nhìn mấy mẹ con Ngọc ngồi túm tụm ở giường, khuôn mặt rạng
rỡ vì sung sướng và xúc động. Thiên thần hiện ra ở nhà Lọ Lem cũng chỉ có thể
tạo cho Lọ Lem khuôn mặt như Ngọc mà thôi.
Ông Hoàng sẽ làm thay đổi đời hắn, thay đổi
đời nàng và trong lúc chờ đợi, bằng vào việc đến thăm nhà, ông đã đem lại cho
vợ chồng nàng niềm hy vọng lớn lao, sự nâng đỡ tinh thần và một cái vốn chính
trị to lớn biết chừng nào. Nhà nàng từ ngày ấy còn có mấy ai đến. Thế mà đây
không phải một người khách bình thường mà là một ông bộ trưởng, một ông bí thư
thành uỷ...
Ông hỏi thăm việc học hành của lũ trẻ. Ông chỉ
vào từng đứa. Thằng Hiệp lí nhí “Cháu học Chín ạ!” Ngọc sẽ còn mắng nó nhiều vì
câu trả lời ấy: “Thưa bác, cháu học lớp Chín ạ. Chứ ai lại nói cháu học Chín
ạ”. Ông chỉ vào con Thương, rồi thằng Dương: “Thằng này đẻ khi bố đi xa đây
phải không?” Lại thêm một ví dụ về những nỗi khổ đau của nhân dân bày ra trước
mắt ông. Những quyền cơ bản của dân đang bị vi phạm. Nhiều khi rất nghiêm
trọng. Mà chính vì những quyền ấy của nhân dân, Đảng đã ra đời, đã chiến đấu.
Chẳng cứ gì dân chúng, ngay trong số cán bộ, đảng viên, những đảng viên có cỡ
cũng có người chịu bao đắng cay, nhiều khi là những tai hoạ hiểm nghèo. Họ đến
ông, xin ông với cương vị của mình hãy tìm mọi cách giúp họ. Ông đã làm hết khả
năng mình vì chân lý, vì trách nhiệm trước con người, vì lý tưởng của Đảng, dù
nhiều khi phải chống lại cả một thế lực, một tập thể nhân danh tổ chức, nhân
danh Đảng, dù ông biết sẽ rất phức tạp, khó khăn và nguy hiểm nữa..
Nhưng ông không chọn con đường khác, cách xử
sự khác. Ông không trốn tránh. Ông nhận diện được kẻ thù nguy hiểm nhất của một
Đảng cầm quyền. Đó là sự xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mất đi sự nhạy cảm
với phong trào, với ước nguyện của nhân dân. Và mất đi điều quan trọng nhất của
người dẫn dắt: Khả năng dự báo. Ông vẫn giữ được mối liên hệ ấy một cách dễ
dàng, tự nhiên, không phải cố gắng chút nào. Ông đến với mọi người, mọi người
đến với ông, cởi mở, chân thành, tin cậy và yêu quý. Trái tim ông vẫn còn nhạy
cảm. Khối óc ông vẫn còn nhạy cảm. Hình như ông làm cán bộ lãnh đạo là một sai
lầm. Trong ông có máu của một nghệ sĩ. Lẽ ra ông phải là một nhà thơ hay một
nhà văn mới đúng. Ông nhìn lên nóc tủ. Nơi ấy là bàn thờ. Một ngọn đèn con. Một
nải chuối... Khói hương. Ông biết cách đây không lâu Ngọc còn là một nữ sinh
kháng chiến, theo chồng từ Hà Nội về đây với hy vọng, tin tưởng sẽ được góp sức
mình xây dựng cuộc sống mới, cuộc sống tốt đẹp chung cho mọi người và cho riêng
họ. Mất lòng tin ở thế giới này thì phải đặt lòng tin vào thế giới khác. Sống
cần được trao gửi niềm tin của mình vào đâu đó vì thuộc tính của con người là
cần được dẫn dắt. Cuộc sống bị những người trần thế xô đẩy vào bước đường cùng
thì chỉ còn trông cậy vào những thế lực huyền bí thay đổi lại. Ông nói vui với
Ngọc:
- Một con bệnh mà mời những hai ông lang chữa
chạy thì không được đâu. Ông lang này tự ái đấy.
Ông cười. Thoải mái, tự tin. Ông rút trong túi
áo khoác ra năm mươi đồng (một xấp giấy bạc một đồng còn mới). Ông lại cười:
- Tôi sẽ lo in sách cho anh. Và trong khi chờ
đợi, tôi cũng ứng trước tiền nhuận bút đây.
Hắn còn đang ngớ ra, thì ông hỏi hắn:
- Này Nhà xuất bản vẫn ứng trước tiền nhuận
bút. Có phải không nhỉ?
Cả nhà đều cười. Hắn đỡ lấy xấp tiền. Thật
ngoài sức tưởng tượng của hắn. Năm mươi đồng bạc dạo ấy rất lớn, nhưng còn lớn
hơn nhiều là tấm lòng ông. Hắn biết không nên nói lời cám ơn vì điều ấy sẽ làm
bình thường món quà này. Không, món quà của ông là vô giá. Tuy nhiên hắn vẫn
nói: “Xin anh. Cám ơn anh”. Mãi sau này khi về xí nghiệp đánh cá, đi làm ở đó
hắn mới biết đây là khoản tiền ông vay của công đoàn xí nghiệp. Ông nói với đồng
chí thư ký công đoàn và ông giám đốc cũng đang có mặt trong phòng làm việc của
công đoàn:
- Các anh có lên nhà, đừng nói gì với nhà tôi
và các cháu số tiền này nhé. Tôi sẽ trả sau.
Ông nghĩ số tiền này chỉ để cấp cứu hắn thôi.
Nó có giá trị động viên nhiều hơn. Cái chính là phải khôi phục lại công lý.
Việc đó khó khăn, nhưng dù sao cũng trong tầm giải quyết của ông. Nhưng một lần
nữa ông nhầm.
Sau này hắn nghĩ, ông Hoàng cũng có nhiều điểm
giống bọn hắn. Sự ngây thơ, nhẹ dạ đáng yêu. Ông không nên làm chính trị. Chính
trị đôi lúc hiện ra trước mảt hắn như những mưu mô, thủ đoạn, kiểu nói nước
đôi, giấu đi những ý nghĩ thực của mình. Chính trị còn là lý trí. Rất nhiều lý
trí. Để có thể lạnh lùng cầm bút tính toán số xương máu phải bỏ ra cho một trận
đánh, dự trù tổn thất cho một chiến dịch. Cần thiết thì chấp nhận một sự hy
sinh không tính toán. như nhữllg chi phí phải trả cho chiến thắng.
Hình như ông Hoàng không có những phẩm chất ấy
ông lại càng không nên làm chính trị, khi ông có thể nghe được nhịp đập trái
tim người khác, cảm thấy tiếng than thở trong mỗi nụ cười, hiểu rõ một câu hỏi
nghi ngờ, câm lặng trong một cánh tay giơ lên tán thành nghị quyết. Và điều
cuối cùng khiến ông là người lận đận vì ông vốn trung thực, ông gọi sự vật bằng
tên của nó.
Hắn đưa đơn gửi ông một buổi trưa, nhờ Cao,
một người cháu ông, cùng làm báo T. với hắn mang đến nơi ông làm việc. Khi đó
ông đứng đầu một ngành của chính phủ. Hắn đưa đơn cho ông với danh nghĩa ông
nguyên là bí thư thành uỷ.
Hắn đưa đơn và có bao nhiêu hy vọng trong lòng
hắn vận ra cho hết. Bởi vì việc này không liên can gì đến ông Hoàng. Ông thôi
không làm bí thư đến hơn chực năm rồi. Không biết ông có còn nhớ hắn không?
Chẳng bao giờ ông lại vì hắn mà đi gây chiến với ông K, ông Trần, xông vào
những việc trong vương quốc của các ông này. Bởi vì hắn đã viết không biết bao
nhiêu đơn. Trước tiên là đón đường, chờ ở cổng để đưa đơn cho các ông thường
vụ, phó bí thư, bí thư, chủ tịch... thành phố. Cũng là để bảo đảm nguyên tác
trước khi kêu lên trên thôi, chứ trong thành uỷ chẳng có một người nào ngu ngốc
đi bới chuyện của ông Trần, một ông thường vụ phụ trách nội chính bao gồm cả ba
ngành công an, toà án, viện kiểm sát. Các ông thành uỷ nhẵn mặt hắn khi hắn còn
làm báo, nay tránh mặt hắn. Không ăn thua nhưng cứ phải làm.
Âu cũng là để các ông ấy tự đánh giá mình
trước lương tâm. Thế thôi. Mong rằng lương tâm các ông ấy chưa bị móm. Nó vẫn
còn răng, nó vẫn còn cắn rứt. Rồi đơn lên Trung ương, lên các cơ quan quyền lực
cao nhất, lên Ban Thanh tra... Cầm tay trực tiếp. Chầu chực mà chẳng gặp được
người cần gặp. Và những đơn gửi qua bưu điện... Có lẽ đơn hắn không đến tay các
vị ấy. Cũng như Ngọc, hắn lại kêu vào thăm thẳm. Chắc chắn đơn của hắn đọng ở
văn phòng cùng với rất nhiều đơn khác. Vì vậy lần gửi đơn sau hắn kèm theo một
đơn riêng tới các ông bí thư, thư ký, lời lẽ thống thiết. Đại loại: Xin ông
thương đến, xin ông quan tâm, xin ông hiểu cho rằng sau những dòng chữ này là
một cuộc đời, là sáu con người một lòng theo Đảng, là oan khuất, là sự tái sinh
vân vân và vân vân. Hắn muốn lay động lòng trắc ẩn của những vị ấy, nhưng hình
như họ đã quá quen với những lời van xin dù tha thiết đến đâu.
Nói cho đúng hắn cũng được người có trách
nhiệm tiếp một lần ở Bộ Công an. Khi đưa đơn lên ông Bộ trưởng và ban thanh tra
bộ, hắn chẳng mảy may tin tưởng. “Bố nào chẳng bênh con”, “Người trên nào không
bênh thuộc hạ”. Ai cũng muốn nói với hắn những câu ấy, rằng kêu thì cứ kêu,
chẳng ăn thua gì đâu.
Kể cả Ngọc và Bình, những người thương hắn
nhất, hiểu hắn nhất, mong muốn điều tốt đẹp đến với hắn nhất. Họ khách quan hơn
hắn. Họ biết rằng sẽ không có ai đứng ra giải quyết. Người ta nhận, người ta
hứa hẹn và người ta xếp xó. Ai quan tâm đến đơn kêu, đơn khiếu, trong tình hình
này hẳn nhiều như nấm sau mưa. Họ biết trước rằng tất cả chỉ là việc mình đánh
lừa mình. Tốn kém mà chẳng ích gì. Hắn cũng biết vậy. Nhưng vẫn đánh lừa “sự
tỉnh táo để không bị lừa” của mình. Mọi người hãy thử đứng vào địa vị hắn.
Không có tội, bị bắt tù, khẽ thôi cũng năm năm. Tịch thu hàng nghìn trang bản
thảo của mười năm lao động miệt mài. Vợ đang học đại học, bị gọi về. Còn con
nữa, chắc chắn vào đại học sẽ khó khăn... Những điều đó xảy ra trong chế độ ta,
chứ đâu ở chế độ cũ. Điều không chịu được chính là chỗ ấy. Nó xảy ra trong chế
độ ta, chứ không phải chế độ cũ.
Nhức nhối lắm. Uất lắm. Hận lắm. Đau lắm.
Người ta chỉ sống có một lần, sự tồn tại của trái đất đã là một xác suất vô
cùng hiếm hoi trong hàng tỷ thiên hà. Được sinh ra trên trái đất lại là một xác
suất hiếm hoi của một xác suất hiếm hoi. May mắn. Vô cùng may mắn. Kết quả của
bao nhiêu ngẫu nhiên, thần bí. Đó là ân thưởng lớn nhất của số phận của trời
đất. Con người là kết quả của toàn vũ trụ và có trách nhiệm sống trong vũ trụ.
Sống là gì. Có lẽ hắn không nói được rạch ròi.
Nhưng chắc chắn sống không phải là Xìn Cắm cúi cúi trên những luống rau, cái
lưng đồng hun đẫm mồ hôi loá lên dưới nắng, giờ đã tan biến trong thinh không,
có còn chăng là cô hồn đang múa võ trên trời, Dự hỏi cũng chẳng nghe thấy, lẳng
lặng vào rừng. Sống không phải là anh Mán, chăn choàng phấp phới, đôi guốc mộc
to quá khổ kẹp ở nách, hẳn bây giờ đã quên tiếng mõ trâu và vẫn ngơ ngác lang
thang tìm kiếm một điều gì chính anh cũng không biết, không hiểu nhưng anh vẫn
đi tìm trên những vạt rừng chưa tàn lửa đốt nương.
Sống cũng không thể là già Đô luôn mang một
gánh nặng trên vai, lẫn lộn trong bị bọc hành trang tàu Commerce Maritime, Khải
Hoàn Môn, tiếng vang động ì ầm của Địa Trung Hải, tiếng gọi quê hương, cái ca
dùng làm ấm pha trà, nhà máy giấy, con rồng đất túi lạc tiên chín thơm lừng và
lúc nào cũng cô đơn như người xà lim, người dưới mộ.
Sống cũng không phải là Nguyễn Văn Phố tù 18
năm không án. Càng không phải là vợ Phố chờ chồng từ năm 33 tuổi đến năm 5l
tuổi vẫn còn chờ đợi và không chịu tuyệt vọng...
Sống đâu phải như hắn. Đêm đêm gặm nhấm nỗi
đau, ngày lo bữa ăn sinh vật và sợ hãi nghĩ đến tương lai. Sống vừa là nghĩa
vụ, vừa là quyền được sống trên trái đất này. Hắn không thể chấp nhận sự tiêu
diệt đời hắn. Giống như Đỗ, người cùng giam một dãy xà lim với hắn, được ăn một
bữa cơm có cả rượu, thịt gà, cá chép, rồi bị bịt mắt, trói và bắn chết, nhưng
cho đến phút cuối cùng vẫn không chịu chấp nhận cái chết. Hắn biết hắn đang vác
gậy chống trời. Luật pháp bây giờ trông mong vào sự quan tâm tốt bụng của một
số người. Luật pháp bây giờ trông mong vào sự tình cờ, may mắn. Thì hắn đi kiếm
sự quan tâm, lòng tốt bụng. Hắn đi kiếm sự tình cờ may mắn. Kiếm trong tuyệt
vọng. Để có thể nhen lên được một chút hy vọng. Mà sống cho đến khi chỗ hy vọng
cỏn con ấy đã cạn thì lại cầm đơn đi. Để lại nhen lên chút hy vọng mà gặm nhấm
mút mát, ăn dè qua ngày đoạn tháng... Biết làm sao, con người ta cần hy vọng để
sống.
Cái lần ấy hắn trở lại Bộ để xem đơn từ của
hắn kêu đã được giải quyết đến đâu. Lang thang ngoài phố thôi. Chẳng đến nhà ai
nữa. Đi bộ thì mệt. Mất thời gian. Đi xích-lô thì không có tiền. Hắn lễ phép
trình chứng minh thư và trình bày với người thường trực. Người ấy quay điện
thoại. Có tiếng trả lời trong máy. Người ấy gác máy, nói với hắn: “Bên Thanh
tra hiện nay không có ai ở nhà”. Hắn im lặng ngồi chờ. Có nhiều người đến. Hai
phụ nữ từ khu Bốn ra thăm chồng công tác ở Cục kỹ thuật cười nói rní rít và rủ nhau
đi. Ba ông ăn mặc lịch sự, lấy chứng nhận để làm hộ chiếu đi nước ngoài. Họ nói
chuyện cởi mở, tự tin, thân ái và bình đẳng. Vẻ thân ái bình đẳng của những
người đồng chí cùng nhau giải quyết việc chung. Họ đến và họ đi, cố nén niềm
vui sướng trong lòng mà khuôn mặt cứ người lên.
Còn hắn. Hắn ngồi im lặng như cái ghế. Không
ai chú ý đến hắn. Chờ người thường trực ngẩng nhìn, hắn đứng lên, xin đồng chí
(được gọi công an là đồng chí rồi. Không phải báo cáo ông nữa) gọi lại giúp
xem. “Tôi là Nguyễn Văn Tuấn, đã có đơn từ đầu năm...” Chắc là vẻ mặt hắn khổ
não lắm. Nên lại quay điện thoại. Lại nói: “Nhưng người ta ở mãi P lên. Tuấn.
Nguyễn Văn Tuấn”. Lại những tiếng nói trong ống nghe như từ nơi tung thâm,
huyền bí nào. Chắc chắn nơi ấy quyết định số phận của hắn. Người thường trực
nghe và bảo hắn:
- Bác chờ một tý.
Hắn hồi hộp quá. Hắn đă làm bao đơn. Đây là
lần đầu tiên đơn của hắn được người ta cứu xét. Một người cao gầy, quần bộ đội
Tô Châu cũ vá, áo sơ-mi trắng cũng vá và nhàu, khoảng năm mươi tuổi bước vào
phòng. Chỉ trông cũng biết con người khổ hạnh liêm khiết. Người thường trực hất
hàm vào hắn ra hiệu. Người ấy hỏi:
Anh là Nguyễn Văn Tuấn ở P?
- Vâng.
- Anh theo tôi.
Hắn đi theo người ấy vào phía trong. Tạt vào
một phòng bất kỳ, bàn ghế chỏng chơ. Bụi. Không có cả ấm chén. Rõ ràng là người
ta tiếp hắn tạm bợ, được chăng hay chớ.
- Anh có mang giấy tờ cá nhân gì không?
Hắn đưa cái chứng minh. Người ấy nghiêm khắc
nhìn hắn:
- Anh không có giấy tờ gì khác à? - Và không
che giấu sự nghi ngờ, vì nghi ngờ là một biện pháp nghiệp vụ: - Lấy gì chứng tỏ
anh vừa bị bắt ra.
Hắn sợ. Sợ ông ta nổi giận, hắn đã làm phiền
đến ông. Hắn nói để ông hiểu hắn chỉ có mỗi tờ lệnh tha, đã nộp cho công an
thành phố để làm hộ khẩu. Người ta đã thu tờ lệnh tha ấy. Hắn không dám man
trá, bịa đặt ra chuyện hắn bị tù năm nám để quấy rầy các nhà chức trách. Ngay
đến tờ giấy mời hắn ra đồn gặp ông Lan do bà Nguyễn Thị Yên ký cũng phải nộp
lại cho công an nữa là.
Người ấy cố giữ bình tĩnh, nhưng vẫn lộ vẻ bất
bình trong giọng nói để hắn tự biết rằng hắn là kẻ có tội, sự trừng phạt là
đích đáng, hai năm rõ mười nhưng hắn vẫn ngoan cố, không thành khẩn, không biết
điều, kiện cáo, khiếu nại, làm phiền đến cơ quan Nhà nước.
- Chúng tôi đã đọc đơn kêu oan của anh. Trong
đơn anh nói anh công tác tốt, không vi phạm pháp luật.
Người ấy cười nhạt và không kìm giữ được nữa:
- Anh nói vô lý. Thế thì ai dám bắt anh. Anh
lại không phải tề ngụy. Đang là phóng viên báo Đảng. Tự nhiên sao người ta bắt
anh? Điên à?
Hắn sợ. Ông ấy đã nổi giận. Người trực tiếp
thanh tra vụ án của mình nổi giận thì không còn chút hy vọng nào. Hắn thấy như
đang ngồi ở phòng hỏi cung, nghe ông Lan quát tháo, rồi lại giở mặt mềm mỏng.
Thất vọng, chết lặng đi, không nói được một lời hắn ý thức được đầy đủ thân
phận sâu kiến của hắn.
Và hắn nói. Lễ phép, rản rỏi, kiên quyết. Hắn
nhìn thẳng vào người đối thoại:
- Thưa ông Cho đến bây giờ chưa ai buộc tội
tôi. Chưa ai nói cho tôi biết tôi mắc tội gì. Nếu tôi có tội, tôi xin tình
nguyện đi tù một lần nữa.
Người ấy cười nhạt:
- Vậy theo anh vì sao công an bắt anh? Người
ta thù ghét anh à?
Thù ghét thì không. Còn tại sao người ta bắt
hắn thì chỉ có những người ấy mới trả lời được. Hắn chỉ có thể phỏng đoán. Hắn
phỏng đoán trên cơ sở những gì đã xảy ra và những gì các ông ấy đã hỏi hắn
trong các cuộc hỏi cung.
Thời gian đó ở Hà Nội đã phát hiện một tổ chức
chống Đảng. Toàn những cán bộ đảng viên. Có cả cán bộ cao cấp. P cũng phải có ở
mức độ nhẹ để hưởng ứng Hà Nội. Chúng tôi đã kịp thời phát hiện và ngăn chặn.
Chúng tôi đã bóp chết từ trong trứng. Người ta chọn hắn vì hắn chẳng mở miệng
chửi phim “Khi đàn sếu bay qua” và vẫn coi “Bài ca người lính” là một kiệt tác.
Hắn chẳng thể nào khen được cách mạng văn hoá Trung Quốc. Tóm lại hắn không nói
dối được. Hắn ngượng với chính hắn. Hắn lại có những yếu tố để dễ bất mãn. Hắn
mâu thuẫn với bí thư chi bộ. Hắn không muốn vào Đảng, hắn trọn đời là một nhân
sĩ yêu nước và tiến bộ. Hắn không giống mọi người. Hắn lại còn nói sẽ bẻ bút
không viết nữa. Bất mãn quá rồi còn gì. Hắn chơi bời với một số người ở Hà Nội,
người bị bắt, người đang bị theo dõi. Hắn bấp bênh về lập trường. Hắn tự kiêu,
tự đại. Hắn mất cảnh giác và dễ bị lôi cuốn. Sau này hắn còn được biết ông bí
thư thành uỷ K rất ghét hắn. Vì ông nghe tin là hắn khinh ông, coi thường ông.
(Không biết có kẻ nào đặt điều bảo rằng hắn nói ông K mồm thối. Điều ấy đến tai
ông K. Thật là một sự bịa chuyện bẩn thỉu, giết người). Thực ra hắn chẳng có
khái niệm gì về ông, ngoài sự coi ông như mọi người lãnh đạo khác của địa
phương mà hắn chẳng mảy may quan tâm...
Hắn thấy phải trả lời ông thanh tra một cách
thành thật nhất:
- Thưa ông, tôi không biết vì sao.
Chừng như hiểu rằng không nên đi quá xa trong
việc làm hắn hoảng sợ (phải giữ đúng vẻ cần thiết của một cơ quan tiếp dân -
hắn cũng là dân chứ), ông cán bộ thanh tra quần áo tồi tàn, cẩu thả và chắc là
rất nghèo và rất liêm khiết kia dịu giọng, vỗ về hắn, động viên hắn về nhà, yên
tâm chờ đợi”. Chúng tôi sẽ làm việc lại với những nơi hữu quan. Hãy tin tưởng ở
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Không để lọt một kẻ gian, không bắt nhầm một người
ngay”.
Ông thanh tra làm một điệu bộ như sắp đứng
lên. Hắn biết cuộc tiếp hắn đã kết thúc. Mặc dù ông đã gập sổ, cài bút vào túi
ngực, hắn vẫn ngồi, lấy hết can đảm, lí nhí:
- Xin lỗi ông, ông cho tôi được biết tên ông
ạ.
Hắn đã dùng quá nhiều tiếng ông trong một câu
nói. Lối đặt câu ấy đã thành tật trong những ngày bị tù khi nói với công an và
bây giờ vẫn được dùng để nói với các nhà đương cục. Hắn cần biết tên ông để
những lần kêu cứu vô tận trong tương lai hắn có thể nói với người ta rằng hắn
đã gặp những ai, ở đâu. Cho nên dù ông có cho là xấc láo hắn vẫn cứ phải hỏi.
Hiểu ngay lý do, người ấy nghiêm mặt, văng ra một cái tên như một lời thách
thức:
- Vũ Chí. Anh ghi đi. Vũ Chí.
CHƯƠNG 51
Hắn không ngờ đơn của hắn gửi ông Hoàng lại
được ông giải quyết nhanh như vậy. Cao, người cầm đơn hắn đến chỗ ông Hoàng,
hơn một tiếng sau đã lại có mặt ở nhà anh chị Diệu. Cao phấn khởi thuật lại:
Nói đến hắn, ông Hoàng nhớ. ngay và kêu lên Nó bị bắt à. Năm năm cơ à? ông lắc
đầu tỏ vẻ không tin.
Ông bảo Cao ngồi uống nước. Ông đọc ngay đơn.
Gọi ngay điện thoại về P.
- Ông Hoàng sắp về P đấy. Thế nào ông Hoàng
cũng gặp mấy ông dưới ấy.
Hắn cứ ngồi ngây ra. Thật hoàn toàn không ngờ
được. Cao lại bảo:
- Này. Tối nay ông Hoàng mời cậu đến nhà. Bảy
giờ.
Hắn không nói được vì xúc động. Cao nói số
nhà, còn nhấn mạnh:
- Đây đi xuống, qua nhà ông.. (Cao nói tên một
vị lãnh đạo có tên tuổi). Rồi đến nhà ông Hoàng. Hai nhà sát nhau. Nhà trước
cửa có bốt gác là nhà ông Hoàng.
Và cười:
- Bốt gác ở nhà ông Hoàng, mà cũng là gác cả
nhà bên cạnh. Hắn đến nhà ông buổi tối. Phố vắng, cây rợp. Rải rác những bốt
gác ở hè... Nhìn kỹ số nhà mờ mờ, hắn lễ phép nói với đồng chí bộ đội đứng gác:
- Tôi đến gặp anh Hoàng. Anh Hoàng có hẹn tôi
tối nay.
Hắn ấn chuông. Cổng sắt mở. Chính bà Hoàng ra
mở. Hắn đi theo bà qua một cái sân, bà dẫn hắn đi dọc sườn nhà, tới một cái
ga-ra ô-tô thì rẽ. Hắn không đi lối cửa chính. Hắn đi cửa dành cho người nhà
người thân thuộc trong gia đình. Vào trong nhà rồi, hắn lại quành trở ra phòng
khách. Ông Hoàng đang ngồi xem ti-vi.
ở đây tĩnh lặng. Cảm giác hắn nhớ nhất là hắn
đang đi vào một khu phố Hà Nội ngày mới tiếp quản. Vắng. Rộng rãi. Cây cối in
bóng trong ánh điện càng thêm huyền ảo. Quá khứ ấy đã qua rồi, nhưng vẫn còn ở
đường phố này, ở những biệt thự êm đềm, rộng rãi, vắng vẻ này. Một cái gì mong
manh như kỷ niệm, như truyện cổ tích của thời đại mới. Điều hắn nhớ nữa là ở
một góc nhà những quả tên lửa cháy sáng rực đang lao lên trời, kèm theo tiếng
rít của bom đạn. Cảm giác ấy rất lạ đến nỗi khi ngồi nói với ông Hoàng về
chuyện hệ trọng nhất của đời hắn, hắn phải cố gắng lắm mới không liếc mắt về
phía ấy, nơi đặt chiếc ti-vi Neptun. Lần đầu tiên hắn thấy sản phẩm ấy của trí
tuệ con người. Màn hình sáng xanh của nó có thể hiện ra tất cả. Ông Hoàng đứng
lên đón hắn. Ông nhìn hắn: “Ngồi đây”. Ông đã qua các nhà tù. Ông hiểu, hay ít
nhất ông cũng cảm thông được với hắn. Ông bảo hắn:
“Tôi không biết, tôi không biết gì cả”. Hắn lễ
phép trình bày với ông về vụ án của hắn, nếu có thể nói được như vậy. Bởi vì
hắn có án từ gì đâu. Ông Hoàng gạt đi: “Thôi. Tôi biết rồi, tôi đọc đơn của anh
rồi. Tôi sẽ điện về thành uỷ P. Sắp tới tôi về P, tôi sẽ làm việc với các anh
ấy”.
Ông nhìn hắn, muốn tìm trên người hắn những
dấu vết tù đày. Ông thấy ngay điều ấy. Đây là một phóng viên trẻ, tài năng,
xông xáo, là cây bút xuất sắc trong thành phố của ông. Là người ông đã chăm chú
theo dõi, đọc của anh ta từ những bài trên báo tới các sáng tác in ở trung
ương, ở địa phương. Anh ta là gương mặt tiêu biểu về văn học, báo chí của địa
phương. Ông đã bảo với Cao - cháu ông khi Cao ở Hà Nội về P công tác: “Thằng
Tuấn sẽ viết được tiểu thuyết lớn về công nhân đấy”. Ông tin như vậy. Đó là lời
dự báo của ông về hắn.
Ông nhìn hắn và se lòng. Dấu vết của tù tội,
của sự tiêu diệt hiện lên quá rõ. Không còn là một thanh niên tràn đầy sức
sống, nghị lực, quyết tâm, khiêm tốn, tự tin, cởi mở. Không phải là cặp mắt yêu
đời hăm hở. Không còn dáng điệu của một phóng viên trong các cuộc họp do thành
uỷ triệu tập, rút bút, lật sổ ghi chép, nắm bắt và suy nghĩ... Hắn ngồi trước
mặt ông xo xúi, khép nép, sợ sệt, ấp úng... Hắn lễ phép một cách hơi quá mức,
gần như khúm núm với chính ông. Dù ông biết rằng hắn quý ông, tin ông, bấu víu
vào ông và ông dành cho hắn sự tiếp đón thân tình nhất mà, ông nghĩ, hắn chưa
bao giờ được hưởng từ lúc đi tù về. Một lần nữa ông nhìn vào đôi mắt hắn. Xưa
thông minh, trong trẻo, mà nay sao buồn thảm, u tối. Ông cố động viên cho hắn
vui lên, nhưng nụ cười của hắn mới gượng gạo thảm thiết làm sao. Ông bảo hắn:
“Khổ lắm phải không?” Hắn cắn môi lễ phép: “Thưa anh, khổ lắm!”. Ông khuyến
khích hắn: “Kể đi. Kể chuyện tù cho tôi nghe đi!”. Hắn ngớ ra. Biết kể gì cho
ông bây giờ. Bao nhiêu chuyện. Xà lim 76. Xà lim 75. Toán tăng gia. Trại QN.
Tịch thu bản thảo. Chúng tôi có đủ kiên nhẫn. Lê Bá Di cho hắn bãi phân trâu.
Xìn Càm cho hắn nắp ca. Già Đô nằm cạnh hắn. Anh Mán nằm trên xe công nông. Vợ
hắn bị đuổi học...
Hắn quên không nhớ được đã kể những gì cho
ông. Đụng đến chuyện tù đày là nó ập đến như một thác nước làm lẫn lộn hết cả.
Hắn chỉ nhớ khi ở nhà ông về nhà anh chị Diệu thì đã muồn muộn. Anh chị Diệu là
những người quý mến, kính trọng ông Hoàng. Anh Diệu kể lại một cuộc họp phóng
viên các báo. Ông Hoàng nói chuyện về kinh tế và những biện pháp giải quyết.
Giữa lúc các ngành đang đẩy mạnh chiến dịch làm sạch vỉa hè, dẹp hết tư thương.
Ông nói quan điểm của ông: Buôn thúng bán mẹt còn tồn tại vì đó là yêu cầu của
cuộc sống. Chỉ dẹp được khi mậu dịch làm được nhiệm vụ ấy, làm tốt hơn những
người buôn bán nhỏ... Anh chị Diệu đều mừng cho hắn. Ông Hoàng can thiệp nhất
định hắn sẽ được giải quyết. Với P, ông là người có uy tín lớn. Những người phụ
trách thành phố hiện nay đều là cán bộ của ông...
Hắn thuật lại cho Ngọc và lũ trẻ nghe về kết
quả tốt đẹp của chuyến đi Hà Nội, hắn ôn lại những kỷ niệm giữa hắn và ông khi
hắn còn làm báo và phập phồng hy vọng.
Hy vọng tăng thêm khi sau đó mấy ngày, Phan
Lâm, nguyên tổng biên tập báo, đương kim giám đốc Sở Văn hoá, thành uỷ viên cho
người mời hắn đến cơ quan. Cái cơ quan văn hoá này trước đây hắn chẳng để ý gì
đến, nay khinh khỉnh nhìn hắn. Hắn bước vào phòng giám đốc. Phan Lâm bắt tay
hắn. Phan Lâm đã đến nhà thăm hắn khi hắn được tha về ít hôm. Đó là một người
tốt bụng, hiểu biết những oan khuất của hắn, nhưng đành ngậm miệng. Giữa lẽ
phải và sự cầu an, như tất cả mọi người, ông chọn cái thứ hai. Ông cũng đã khốn
đốn trong cải cách ruộng đất, bị đình chỉ công tác. Ông biết thảm hoạ của những
ai vướng vào mạng lưới vô hình...
Phan Lâm tươi cười, sung sướng vì được báo tin
này cho hắn:
- Anh Hoàng gọi điện về cho mình. Mình báo cáo
với anh ấy rất trung thực về cậu. Và mình bảo đảm với anh ấy rằng: Chắc chắn
cậu không phải là một tên phản động. Anh Hoàng có ý định sẽ giải quyết cho cậu.
Giải quyết toàn bộ đấy. Như vậy thì phúc cho cậu, phúc cho vợ con cậu.
Phan Lâm nhấn mạnh chữ phúc. Hắn cảm thấy
trước mắt là những lời hứa hẹn, hứa hẹn thôi. Khi ông Hoàng, Phan Lâm tin thì hắn
lại nghi ngại. Ông Hoàng giờ đây đâu còn là bí thư thành uỷ. Mặc dù Bình bảo:
ông Trần sợ ông Hoàng lắm. Ông Trần chỉ là một trưởng phòng khi ông Hoàng đã là
một cán bộ cao cấp của Đảng. Hắn hoài nghi tất cả. Vì hơn ai hết hắn biết người
ta không muốn hắn vô tội như thế nào. Người ta quyết tâm tìm tội của hắn như
thế nào. Người ta có đủ kiên nhẫn để bắt hắn phải nhận tội, người ta tàn bạo
với hắn, với vợ hắn như thế nào.
Ông Hoàng là một chuỗi liên tiếp những bất ngờ
với hắn. Ông đã làm cho hắn quá nhiều. Quá nhiều trong một thời gian ngắn. Rất
ngắn. Ông là người duy nhất hắn từng biết, từng gặp - có trách nhiệm với con
người, thực hiện được điều nhà thơ Roma cổ đại viết và Mác đã nhắc lại: “Tất cả
những gì liên quan đến con người không xa lạ với tôi”. Ông là một mẫu người
khác hẳn với “những hàng chức sắc”hiện nay. Không phải chỉ với hắn, ông Hoàng
còn giơ tay nâng dậy nhiều người bị đánh ngã. Một thường vụ thành uỷ đang khốn
đốn vì dám chống lại bí thư và phó bí thư đã được ông nhận về làm tổng cục phó.
Thành uỷ đã gửi đơn lên Ban bí thư khiếu nại, nhưng ông đã bảo vệ thắng lợi
quan điểm của mình. Ông nhảy vào trận chiến, phá vỡ thế gọng kìm của lãnh đạo
một bộ và một quận uỷ để cứu một anh hiệu trưởng trường kỹ thuật vô tội sắp bị
tiêu diệt... Lòng thương yêu con người ấy của ông đã hại ông. Ông có nhiều kẻ
thù. Đó là thói vô trách nhiệm trước con người. Đó là những vị thủ trưởng tìm
mọi cách tiêu diệt cán bộ dưới quyền để bảo vệ cái ghế của mình. Những kẻ cơ
hội tham quyền, cố vị. Những quan cách mạng lộng hành, những người như ông K,
ông Trần đã cho căng khắp thành phố những khẩu hiệu đỏ tươi để mọi người thực
hiện, trừ họ:
“Sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật “
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét