41.
ĐỊNH MỆNH CON
NGƯỜI
Chúng tôi năm anh chàng trong phe chiến bại, đang bị một cô
gái trong phe chiến thắng ”hành” ngày thứ Bẩy, Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa như
mọi khi. Bỗng có tiếng ồn ào, quát tháo từ phía ngõ, khu Sơn Tây, chúng tôi
đang quét và nhặt rác, thông những ống cống ở mấy con đường hẻm gần nhà thờ Nam
Hòa, đều ngừng tay ngửng lên: Một cô gái tóc uốn, chừng 18 hay 19 tuổi, nước da
trắng hồng, với bộ mặt tương đối khả ái. Toàn bộ thân hình của cô không hề có
một mảnh vải, không phải cô gái nào cũng có một thân hình cân đối như cô. Cô
rảo bước từ phía ngõ Sơn Tây đi đến, có mấy đứa trẻ con trai mươi, mười hai
tuổi hò hét chạy theo nhìn, nhiều tiếng quát của người lớn là để gọi con cái
họ, không được đi theo nhìn.
Tôi và mấy anh kia,
cũng đều bàng hoàng đờ cả người ra. Quay lại phía cô công an Ngọc Anh, thì cô ả
mặt đỏ như mai cua luộc, gục mãi đầu vào một cánh cửa sổ của một ngôi nhà. Tình
thế bất ngờ !
Lẽ ra phía phụ nữ,
những bà lớn tuổi, phải ra can thiệp, hoặc đưa vải hay khăn che cho cô ta.
Nhưng chả có một ai ra giúp đỡ giữa khoảng 10- 12 giờ trưa, nếu ở gần nhà tôi,
tôi sẽ gọi Hoa đưa tạm cái khăn, hay miếng nylon ra che cho cô ta. Tôi cũng
không dám đến gần cô, để tìm hiểu vì sao lại có một sự việc ”ngàn năm một thuở”
như thế này?
Bố mẹ và nhà cô ở đâu?
Khi đến dong nhà thờ, cô rẽ ra đường Bắc Hải để sang khu Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa
cũ. Chúng tôi đang lao động có người chỉ huy, nên chả đi đâu được. Tuy chẳng
một ai trong chúng tôi biết lý do, nguyên nhân, nhưng chắc bốn anh kia cũng như
tôi, làm sao mà quên được:
Cái buổi ” chết người ”
lao động ấy!
Ngàn năm chưa dễ đã
ai………quên!
Nó độc lập với ý chí
của con người, dù có muốn quên đi nhưng vẫn còn nhớ mãi. Tôi về kể chuyện lại
cho Hoa, Hoa lại cười ré lên, như con gà tây gại ổ:
- Như vậy là anh vớ ”
bở ” rồi!
Tôi chả biết đến ”bở”
hay ”sượng” nhưng rõ ràng sự việc này, nó cũng luồn sâu bên trong là vấn đề xã
hội. Từ sự việc này, nếu ai chịu suy nghĩ đều đã nhìn thấy, nhiều mặt của cái
xã hội ấy.
Hôm nay đi làm về, vừa
đến cửa Hoa đã chạy ra, mặt em tươi roi rói, em nói ríu rít:
- Vừa khi nãy có một
anh chừng ba chục tuổi đi xe Honda vào, anh ta nói là anh em của một Biệt Kích
nhẩy Bắc, muốn gặp anh? Tên anh ta là Vân.
Tất nhiên, tôi chả biết
anh ta, vì tôi chưa gặp lần nào, có địa chỉ ở gần Cống Bà Xếp Hòa Hưng. Cứ để
đấy, cuối tuần tôi sẽ đến thăm, xem sao? Không ngờ hôm sau gần 5 giờ anh ta lại
đến. Tôi về đến nhà, ngoài cửa một chiếc Honda còn ”láng coóng“, mới và đẹp hơn
xe của chú Tuất, chồng em Xuân. Một cậu rất tư cách, tỏ là giới ”lõi” của thành
phố, cậu ta tự giới thiệu là Vân, em rể của Hoàng Văn Chương, một biệt kích ra
Bắc 1968.
Cậu đã ra Bắc thăm
Chương, cùng với cô Hoàng Thị Phúc, chị vợ. Cô Phúc cũng là em của Chương, như
thế tôi hiểu: Hoàng Văn Chương, rồi cô Phúc và còn một người em gái nữa. Người
em gái này là vợ của Trần Vân. Thái độ của Vân rất niềm nở, mới gặp mà như đã
quen nhau lâu rồi. Ngay buổi chiều ấy Vân mời tôi cho bằng được ra một hiệu phở
ở Ông Tạ, Vân mời cả Hoa, nhưng Hoa đã từ chối, phải ở nhà cơm nước, săn sóc
ông bà cụ.
Nói chuyện với Vân, tôi
biết nhiều điều mới của Sài Gòn dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Mấy ngày sau, Vân
đã đèo tôi về nhà gặp vợ Vân. Vân ở mãi dưới Long An, nhưng thường xuyên đi về
bà nhạc ở Hoà Hưng. Tôi cũng đã gặp cả cô Phúc là em của Chương, cô Phúc cũng
đạt dào tình người. Tôi hiểu Trần Vân có một số khả năng, nhìn được một số kẽ
hở của xã hội mới, nên cậu ta đã lách vào những kẽ trống đó để giải quyết cuộc
sống của gia đình, mà còn thảnh thơi, thong dong.
Cậu ta chạy ”mánh”
thuốc lá, thuốc Tây; chơi thì có trọng điểm, theo cậu ta, màng lưới CA và quan
thuế dầy đặc. Đã gọi là màng lưới, thì phải có mắt lưới và nút lưới, nút lưới
là chỗ chốt của CA hay quan thuế. Vì thế, điều cần thiết là phải nhìn được ra
đâu là mắt, đâu là nút, hơn nữa với những kỹ thuật thực hư, hư thực của CA và
thuế quan, phải nắm vững chỗ nào, mắt trở thành nút và ngược lại. Thấy anh
chàng Vân này tuy chưa có kinh qua về tình báo; chỉ do kiến thức thiên phú tự
nhiên mà cũng tương đối sắc sảo, tôi khích lệ và bổ sung những chỗ tôi biết cho
Vân.
Đi với Vân, tôi vừa học
hỏi thêm kinh nghiệm lại có bồi dưỡng, bù đắp những ngày nắng hạn trước đây. Để
thưởng thức một ”pha” làm ăn của Vân, hôm đó sau khi trình diện xong, Vân và
tôi ra Xa Cảng. Mối cũ của Vân, tôi ngồi sau xe Honda, ôm 900 bao thuốc lá ba
số 5, trong một cái bao tải gạo cũ, luồn lách qua nhiều đường hẻm, đã đưa về
nhà Vân an toàn. Theo Vân tiền lời của ” cú đó, có thể mua được một tạ rưỡi
gạo.
Có lần cô Phúc một
Honda, Vân đèo tôi trở lại thăm nhà hàng Thanh Thế, nơi 1962 tôi và bạn bè hay
ra ngồi, vợ Vân bụng to; Hoa cũng bụng to nên phải ở nhà.
Đã mấy lần cô Phúc và
Vân ca tụng một bà thầy tướng, ở một ngõ trong khu Đắc Lộ, nhã ý của hai người
muốn mời tôi cùng đến xem một lần để thẩm định, tôi đều từ chối, phần vì tôi
sống bằng sự nỗ lực, của chính bản thân tôi. Hơn nữa, mỗi lần xem giá 30 đồng
cho một người, đành rằng do Vân và cô Phúc trả; nhưng tiền của ai thì cũng là
tiền. Nếu có một chút ý thức tự trọng, thì tiền của người khác, cũng ý nghĩa
như tiền của mình.
Tôi đã đánh giá Vân là
người khá sắc sảo, bén nhậy, mà còn ca ngợi cô thầy tướng, nào là: không phải
ngẫu nhiên mà nhiều người ở xa đến xem tướng phải nằm chực, nằm chờ vì vào
nhưng giờ cô thầy không coi, hoặc vì đông quá v.v… Những người từ Lục Tỉnh lên,
người từ Thanh Hóa, Nghệ An vào, anh cứ đi đến xem anh có ” oversea ” được
không? Tôi đã từ chối nhiều lần, đưa ra nhiều lý do, không hiểu sao Vân và cô
Phúc lại muốn tôi cùng đi xem?
Hơn một tuần sau, Vân
cho biết, hôm qua cô Phúc và Vân đã đi xem rồi, bà thầy nói như người quen biết
từ lâu với mình, biết rõ quá khứ, tương lai của một người. Một tuần có hai ngày
bà không xem, dù trả gấp đôi hay gấp ba; đó là thứ Ba và thứ Bẩy. Tôi hỏi, thế
Vân có hỏi tại sao bà thầy, lại không xem hai ngày ấy? Bà thầy đã nói: Bà cũng
muốn coi, vì khách chờ lâu, nhưng bà nhìn được vận mệnh của người khác là do
lộc, do ý của Thánh. Thánh đã dậy, bà chỉ biết tuyệt đối vâng lời!
Đến đây thì tôi đã hiểu
Vân muốn tôi đi coi, một người đã đi tù hết cả tuổi xuân trong nhà tù, xem bà
ta có biết không? Vả lại theo Vân, tôi cũng có những nhận xét tương đối về
tướng số và bói toán. Thực sự tôi không hề biết về những món tướng số, tử vi,
bói toán. Những năm tù ở trại trung ương, do tiếp xúc với một số thầy tướng,
thầy ngải, thư, ếm bùa người dân tộc, người Kinh đều là loại danh tiếng, có cỡ
cộng sản mới bắt vào tù. Tôi tiếp xúc với các vị, chẳng có một chủ trương gì,
ngoài cái tính tò mò, và cũng tùy tiện, nghĩa là gặp chăng hay chớ, chứ chẳng
để tâm làm gì.
Tôi lại chợt thoáng nhớ
tới ngày 30-4-1975, những tờ báo cộng sản tha hồ huênh hoang nhiều chuyện, có
một chuyện đăng ngay trên tờ Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân. Chúng còn ra rả đọc ở
trên đài phát thanh, khi chúng vào tiếp quản Dinh Độc Lập, một tổ ba người (tôi
không nhớ tên), được lệnh đặc biệt lục tìm những tư liệu mật và tài sản giấu
đút của Nguyễn Văn Thiệu. Chúng đã thấy ngay ở đầu giường của Tổng Thống Việt
Nam Cộng Hòa, có ba quyển sách quý: Một cuốn về tướng số của con người, hai
cuốn kia là tử vi phong thổ, nổi tiếng của thế giới và miền Nam.
Ngay ở trong tù, anh em
chúng tôi nghe đến đấy, đều ồ lên cười đùa? Nhiều anh em tù miền Bắc đã nói: ”
Chắc ông Thiệu không chịu nghiên cứu kỹ, nên đã phải chuồn đi từ ngày 16-4″.
Hầu hết những biệt kích chúng tôi đều cúi xuống, để tránh mắt mọi người.
Về vấn đề tâm linh, tín
ngưỡng nó cũng có những cái chung: Cuộc sống càng cơ cực, lầm than; thất bại
tràn lan, mạng sống quay cuồng trong bão tố, thì con người càng tìm đến thần
linh để cứu giúp, che chở. Ngược lại, cơm no, áo ấm thừa thãi, muốn cái gì cũng
đạt theo ý mình, thì càng lửng lơ xa lìa thần thánh. Dưới chế độ cộng sản vô
thần, chúng coi thần thánh là kẻ thù, chúng đả phá tiêu diệt. Nhưng người dân
quá cơ cực đói khát, thiếu thốn lầm than nên họ càng tìm đến, với thần linh.
Nó trở thành mâu thuẫn
đến vô lý, của hai hệ thống xã hội. Thế giới tư bản tự do, hữu thần: Người dân
thờ ơ, coi thần linh tôn giáo như một hình thức trang trí, làm cảnh. Thế giới
cộng sản độc tài vô thần: Người dân thành kính đến với thần linh, tôn giáo, coi
thần linh, tôn giáo như một cứu tinh của đời họ. Tôi nhớ đến một chuyện tướng
số, thời gian tôi ở tù: Có một giai đoạn, khoảng 1969- 1971 ở trại trung ương
số 1 Lào Cai.
Giai đoạn này tôi mới
lên trại, chưa có tay nghề mộc khá, để có thể có năng suất kiếm một vài đồng,
mua thuốc hút. Một đêm tôi nghĩ ra một cách ” ma giáo ” để kiếm thuốc hút. Tôi
hiểu con người ta có nhiều cái riêng, nhưng cũng có nhiều cái chung. Anh thấy
cái đó đẹp, người khác cũng thấy cái đó đẹp, anh thấy ăn cái đó ngon, người
khác cũng thấy ngon. Trong cuộc sống anh sợ hãi cái đó, người khác cũng sợ hãi
cái đó vậy v.v. ..
Phải chấp nhận: muốn
kiếm tiền, hay sống bằng nghề nghiệp gì cũng phải mất tâm trí, công sức về cái
đó, ít hay nhiều tùy theo. Nghề bác sĩ thì phải mất nhiều tâm trí, công sức hơn
(học nhiều hơn) nghề sửa xe đạp. Chuyện tôi chỉ cần kiếm điếu thuốc hút ở trong
tù, nên chỉ cần suy nghĩ qua loa một chút: Tìm một số điểm chung của con người,
mới thoáng nghe lại tưởng là cái riêng. Phải khoét sâu vào tâm lý, và cũng phải
biết chế ngự, giới hạn.
Tôi nói chuyện với mấy
bạn nằm bên cạnh: Ngày xưa, nhớ hồi còn học trung học (tất nhiên ở Sài Gòn), do
tình cờ tôi đọc được một cuốn sách của Pháp nhan đề: Định mệnh con người
(L’homme et sa destinée), tôi thấy họ vẽ những bàn tay với những đường chỉ tay,
của mỗi người khác nhau. Từ những đường, những điểm khác nhau này, để người này
có cuộc đời khác với người kia (ai mà chẳng quan tâm đến ngày mai của cuộc đời
mình). Cuốn sách này được giới thiệu là của ” Hội nghiên cứu về số phận của con
người do một nhóm giáo sư đại học biên soạn “.
Mấy anh ngồi cạnh đều
xôn xao giơ tay, để xem cuộc đời mình ra sao? (ở tù thì đời anh nào chả bế
tắc). Tôi lửng lơ, tỏ ra không muốn mất thì giờ, vào những chuyện vẩn vơ, để
rồi tôi đưa ra điều kiện: Thôi bây giờ thế này, tôi thì không biết gì về tướng
số, tôi nhìn tay bạn, nó giống như trong sách điểm nào thì tôi nói theo: Chuyện
tương lai thì chẳng ai kiểm chứng được, vậy chỉ là sự việc đã qua và hiện tại.
Nếu tôi nói ba điều, mà các bạn không thừa nhận là đúng, thì tôi không xem nữa.
Ngược lại, nếu bạn thừa nhận là đúng thì tôi phải được thường một điếu thuốc
lá, hoặc là ba điếu thuốc lào? Ai đồng ý thì tôi bắt đầu! Nhiều anh đưa tay lại
tôi đồng ý.
Tôi cầm tay một anh,
mặt tôi tỏ vẻ mô phạm, đăm chiêu, xoay ngang, xoay dọc, xem từng đường chỉ tay:
Đường đời, đường học vấn, đường tình duyên, miệng lại nói tiếng Pháp như minh
giải. Rồi nói như quyết đoán theo sách: ” Bàn tay này nội tâm rất nặng! ” Anh
đó hơi ngơ ngác chưa xác định được; tôi nói thêm thí dụ: Bạn gặp một sự việc,
một người quen mới, một chuyển đổi mới v.v. . . Người khác chỉ nghĩ đến một
chút rồi quên đi, bạn thì cứ vẩn vương trong óc, có khi đến đêm còn nhớ lại,
anh ta xác nhận là đúng!
Tâm lý bị đánh lạc, hay
bị dụ, bị mê hoặc là sách của Pháp. Tỉnh táo sẽ thấy đây là cái chung, của mỗi
người. Câu thứ hai: “Lạ thật! Bàn tay này nặng tình với người thân hơn, là
người thân đối với mình “. Người thân có nghĩa là cha mẹ, anh em, vợ chồng, bạn
bè v.v. . . Nghĩ một lúc rồi anh ta thừa nhận là đúng! (cái này có đo được đâu
nên thế nào cũng đúng). Sau khi được thừa nhận hai câu là đúng, tôi lại ngó
nghiêng bàn tay, thậm chí phải kéo ra chỗ sáng, rồi nói như quyết đoán: Cứ
những gò ”thiên chường”, rãnh ”nguyệt đàm” của bàn tay này, thì sách nói là một
người có ý chí mạnh, làm bất cứ việc gì đều quyết làm cho xong; chỉ bất đắc dĩ
chứ không muốn nhờ vả ai cả.
Người thì tôi nói: ”bàn
tay này có một lần tường chết, nhưng lại hóa giải được“, vì có một âm hồn phù
trợ. Anh này suy nghĩ cho kỹ, 30 – 40 tuổi ai mà chả một lần thoát chết? Kể cả
lúc mới đẻ v v. Nhiều người cùng nghe, và tôi tiếp tục có thuốc hút, mà hút một
cách không phải đi xin. Người này bảo người kia, sang cả những buồng bên cạnh.
Tâm lý của người đời, khi muốn ca tụng, thì cứ mở thêm ra. Lúc đó tôi lại quy
định giờ xem, vì tôi đã có đủ thuốc hút, không cần mấy nữa. Vả lại, phải tỏ ra
kênh kiệu như thế, nó mới càng có giá, người ta càng tin.
Nếu tôi chủ trương để
kiếm sống bằng nghề ”Ma giáo” này, thì phải dày công nghiên cứu, sưu tra như
một nghệ thuật, rồi nghề dậy nghề, do thời gian càng điêu luyện. Như tôi đã nói
từ đầu, đây là do ”ma giáo” của tôi, phần vì tôi đã kiếm được cách có thuốc
hút, vì tay nghề (mộc) khá hơn nên có năng suất. Phần khác là chính tôi, không
cho phép tôi làm những việc như vậy nên tôi đã dứt khoát, không xem cho ai nữa.
Thế mà giờ đây Vân, lại
muốn tôi đi xem tướng cái cô ở Đắc Lộ. Nể tình của Vân, một hôm tôi đồng ý để
chiều lòng người bạn trẻ, và cũng xem trình độ, của cô thầy tướng Đắc Lộ này
cao đến đâu, để hiểu biết thêm. Thế là một buổi hẹn, Vân và tôi, phóng chiếc
Honda đến khu Đắc Lộ để gặp cô ”Thầy “. Tôi đã giao hẹn Vân ”để tôi hoàn toàn
tự do, không được nói một tí gì về tôi cả“. Vân đồng ý, vì Vân muốn tôi đi, Vân
phải chịu điều kiện của tôi.
Vào một căn hẻm, đến
nhà cô thầy, bên ngoài có 7- 8 chiếc Honda và Mobylette xếp dựng theo hàng, 4-
5 chiếc xe đạp ở một góc. Căn nhà lợp tôn, hai buồng xây gạch và một buồng nhỏ
vách gỗ. Trong nhà phía gian nhà gỗ, đàn ông, đàn bà lố nhố hơn một chục người
nằm, ngồi. Qua dáng dấp và vài hiện tượng kết hợp, tôi đã hiểu là những người
khách chờ cô ”thầy” xem tướng ở những nơi xa về. Có một bà hơn bốn chục tuổi
ghi sổ sách và điều hành đám khách hàng chúng tôi, thay cho cô ” thầy.
Căn nhà cũng như những
nhà khác trong xóm, không có một miếng giấy hay tấm bảng nào, ghi là chỗ hành
nghề của cô thầy. Vân dựng xe xong, bước vào trong nhà. Chúng tôi phải đến ghi
tên chỗ cái bàn con, theo bà điều hành nhắc nhở, rồi bà ta dẫn đến một buồng
xây phía trái. Dù có một tấm liếp che, tôi vẫn nhìn thấp thoáng thấy những
người phía bên căn nhà gỗ.
Chừng nửa giờ sau, có
tiếng xôn xao của mấy bà bên ấy: “Cô thầy đã tới!“. Tôi, Vân đứng lên, ngó ra,
một cô chừng 29-30, mặc chiếc áo khoác mầu xanh đậm, tóc quăn bồng cao phía
trước. Đôi mắt sáng, sắc như dao cau, một đứa bé gái chừng 10 tuổi, ôm cái tráp
đi phía sau, từ phía trái căn nhà gỗ đi ra. Ngay từ xa tôi đã thấy mắt cô ta
như điện, đã nhìn sang khắp chúng tôi, nhưng khi đi gần tới, lại coi như chưa
nhìn thấy chúng tôi. Trong lúc nhiều người đứng lên lễ phép trang trọng chào cô
thầy, tôi thoáng thấy một tên ”áo vàng” đã đứng tuổi, cũng từ phía sau căn nhà
gỗ đi ra, rồi rẽ vào một hẻm khác.
Tôi chợt nghĩ như thế
CA và cô ” thầy ” phải ” ăn có “với nhau, thì mới có số người lạ, nằm đêm tụ
tập mới ổn được. Đột nhiên cô ”thầy” chen vào giữa mấy ông bà bên căn nhà gỗ,
cô chỉ tay vào một ông mặc chiếc áo sơ mi mầu gụ có cầu vai, giọng của cô thầy
sang sảng: ”Chuyến này, ông không đi được! Nguy hiểm tính mạng! Hôm nay tôi
không xem cho ông, sang năm trở lại đây!“. Nói rồi cô ”thầy“đẩy cửa đi vào căn
buồng giữa. ông sơ- mi mầu gụ mặt trắng bạch, chới với định hỏi gì, nhưng cô
“thầy” đã đóng cửa rồi. Tôi và mấy người xô đến hỏi han: Được biết, ông đó từ
Vĩnh Long lên chiều hôm qua, đến nhờ cô thầy xem chuyến này đi có trót lọt
không?
Điều lạ kỳ là; ông ta
chưa gặp cô ”thầy” mà sao cô đã biết là ông định đi ”vượt biên” và còn nói đi
không được, nguy hiểm nữa? Càng bàn tán thì sự việc càng thấy ly kỳ hơn, uy tín
của cô ”thầy” càng được dàn rộng và càng ngấm thẩm vào bên trong số người này.
Trong lúc bà quản lý gọi một số người trước vào buồng cô ”thầy“. Vân cứ trừng
trừng nhìn tôi, miệng mỉm mỉm như muốn nói: ”Anh đã thấy cái tài ”thần thông”
của cô thầy chưa? “.
Tôi không thể có ý kiến
trong trường hợp này, hơn nữa công sức và thời gian đâu, để chuyện trò tìm hiểu
với cái ông áo ”sơ-mi mầu gụ” để hỏi ông, từ hôm qua ở đây ông đã nói chuyện
với bất cứ ai về chuyện ông định đến xem về chuyện ra đi của ông? Không kể lý
do, giai đoạn này, nếu không nói là hầu hết thì cũng chiếm đa số, những người
đến đây xem tướng số, đều phải tính đến ít nhiều, về chuyện vượt biên? Điều
đáng để ý là tại sao cô ”thầy” phải làm cái kiểu ”muốn tỏ tài” thần thông
”trước nhiều người? “.
Đến lượt tôi được gọi
vào, từ đầu Vân đã giới thiệu Vân với tôi là hai anh em ruột, Vân đã xem rồi,
thấy hay, thấy đúng nên về đưa ông anh lại coi. Nhân dịp người anh là tôi, mới
ở trên trại định cư Cái Sắn về Sài Gòn chơi, do đấy cả hai chúng tôi đều được
vào căn buồng giữa.
Mở cửa đã thấy mùi
hương nhang ngào ngạt. Hơi đặc biệt, một bàn thờ đơn giản có bát nhang khói bay
nghi ngút, trên có hai tấm tranh thờ, một là đức Trần Hưng Đạo, và một là ông
Quan Công ở bên Tàu. Cô ”thầy” ngồi bên trong một chiếc bàn con, đôi mắt long
lanh như hạt sương trong ánh đèn. Theo ý tôi, Vân dẫn tôi đến chào cô ”thầy”
giới thiệu: ”Đây là anh trai mới xuống chơi” rồi sang cái chõng tre phía vách
bên kia ngồi.
Từ lúc vào, tôi như
người có bệnh kinh niên, tôi vẫn vịn vai Vân, dáng đi và cử chỉ tỏ mệt mỏi,
chậm chạp. Cô có cái thước nhôm 1/ 2 hình tròn có phân, ly để đo những đường
chỉ tay, mặc cô đo tôi cứ nói chậm rãi:
- Tôi bị té từ trên mái
nhà, gãy một xương sườn, một bên lá lách vỡ nát, tường chết. Bạn bè tôi đều
nói, chỉ ở ngoại quốc mới chữa được bệnh của tôi. Tôi liều sẽ đi ”vượt biên”
tôi nhờ cô xem , có đi được không? Chết thì tôi không sợ (bệnh này chết khỏi
đau đớn), nhưng tôi sợ nhất là ở tù, cô chú ý xem cho, bàn tay này có phải ở tù
hay không?
Tôi cứ thủng thẳng nói,
trong lúc cô đo, cô xem tay tôi. Để hỗ trợ cho việc đánh lạc hướng, tâm lý cô ”
thầy “; tôi ngoái sang chỗ Vân, hỏi nhẹ:
- Chú Vân ơi? Có phải
tôi té, từ tháng 7/1973 phải không? Tôi chẳng còn nhớ năm nào?
Tôi hỏi như vậy, có
nghĩa năm 1973 tôi vẫn ở miền Nam. Cô ” thầy “đã thấy tôi lo sợ nhất là ở tù,
cuối cùng cô đã nhấn mạnh để tôi tin tưởng:
- Không phải ở tù,
chuyến đi trót lọt! Tương lai sẽ gặp nhiều thuận tiện, đời tôi ăn về hậu vận
v.v. . .
Để xác định rõ ràng,
tôi nói to cho cả Vân cùng nghe:
- Thưa cô, cô xem kỹ
lại, bàn tay này có bị ở tù không?
Cô nói khẳng quyết là ”
không “.
Tôi còn ” láy “lại:
- Có nghĩa bàn tay này
không bao giờ sợ phải vào tù?
Cô nhìn tôi một lúc,
rồi gật đầu, tôi vui ra mặt, thấy tương lai của mình như sáng sủa ra.
Vân hôm nay ra về, nét
hả hê đã dàn đầy trên khuôn mặt. Dắt Honda ra tới ngõ, Vân còn ngoái lại nhìn
căn nhà của cô “thầy” rồi quay lại nhìn tôi. Đôi mắt của Vân hấp him lóa ra mầu
hoàng kim, cái mầu chắc nịch của tâm hồn. Tôi chẳng hỏi, nhưng tôi nghĩ rằng
Trần Vãn, chẳng còn trở lại để gặp cô ” thầy nữa.
Trên đường về Vân có
nhã ý hỏi tôi: Muốn ăn bất cứ món gì Vân sẽ phải ăn theo. Để đáp lại tôi, đã
chiều theo ý của Vân, vừa lúc ấy Honda đã về ngang Ông Tạ. Cái mùi chả ”Chó” nó
phả ra đầy đường, từ ngày về tôi chưa một lần thực hiện được một ý thơ, của một
người bạn tù:
Đã là trai…đất Bắc Phải
biết… lúc… lắc… với… chả cầy.
Một cái chồi ”hứng” đã
ngỏng lên trong lòng, tôi đã đồng ý vào một hiệu ”Cây Còn” gần chéo Ngã Ba ông
Tạ. Tôi và Vân cùng tương đắc cái món ”nghiền” của dân nhậu Bắc Hà, nên đã thả
lỏng lòng thưởng thức ”Mộc Tồn“. Cái món mà nhiều thế hệ cha anh, đến chết còn
phải băn khoăn:
Sống ở trên đời, ăn
miếng dồi chó.
Chết xuống âm phủ, còn
có hay không ?
Hôm nay tôi hân hạnh
gặp cụ Lưu Linh nữa, nhưng tôi chỉ dám tiếp ”cụ” xã giao, vì tôi còn phải gặp
cô Ngọc Anh 7 giờ, và còn phải họp tổ dán phố, 8 giờ tại nhà ông trùm Lộc.
42.
HOA KẾT TRÁI
Sau khi họp tổ dân phố về, người tôi hãy còn mệt, thì em
Hoa kêu trong người thấy khác thường, tôi xuống nhà hỏi mẹ, em Hoa cũng mệt
nhọc lần cầu thang xuống theo. Mẹ tôi quả đã có nhiều kinh nghiệm, người chỉ
bắt mạch tay của Hoa, người đã nói: ” Con vào xóm gọi xích – lô, rồi con sang
báo cho bà Chức “., Tôi hộc tốc sang bên bà mẹ vợ, rồi vào xóm gọi xích- lô.
Trong xóm có ba người
hành nghề xích – lô, tôi phải đến nhà người thứ hai là ông Nhân mới gặp. Tôi và
bà già vợ chuẩn bị tíu tít những thứ cần thiết cho Hoa nở nhụy. Mẹ Hoa cùng
ngồi xích – lô với Hoa, vào nhà thương Hùng Vương. Tôi đêm ấy, phải coi nhà bên
mẹ vợ, vì chỉ có cô em út Kim Anh 12 tuổi ở nhà. Sáng sớm mai tôi phải, phóng
sang Phú Nhuận để xin nghỉ ”vợ đẻ“. Khoảng gần 10 giờ từ trên tổ mộc Thành Công
phóng xe đạp về tới nhà, thì được biết bà Chức sáng sớm, đã về báo Hoa sinh con
gái được 2 kg 800 lúc gần sáng, ”mẹ tròn con vuông“. Tôi chạy vội về nhà báo
tin vui cho thầy mẹ của tôi, mẹ tôi miệng thì cười, nhưng lại phải lấy khăn lau
nước mắt. Người cứ luôn miệng lẩm bẩm: ”Cảm tạ Chúa và mẹ Maria“. Tôi trèo lên
giường thầy tôi, thầy tôi đang nằm, nghe tôi nói Hoa đã đẻ con gái, thầy tôi bò
dậy ôm lấy tôi, miệng người thì thào:
- Thầy vui… mãn
nguyện….. lắm!
Tôi xuống bếp gầy vội
nồi cơm cho thầy mẹ, rồi còn phải ra chợ mua một hộp sữa, do tiền mẹ tôi đưa,
để đưa sang bà nhạc mang vào nhà thương cho mẹ con Hoa. Tôi nóng lòng muốn nhìn
mặt con gái của tôi, khi nãy bà nhạc đã cười, bảo tôi:
- Anh đặt tên cho con
gái, tí nữa mẹ vào báo cho nhà thương!
Như vậy tôi đã có con,
tôi đã làm bố rồi, điều mà trước đây tôi có bao giờ nghĩ tới đâu? Tôi chạy sang
bà mẹ vợ, tôi chạy về nhà, tôi chạy xuống bếp, tôi leo lên gác. Tôi chẳng biết
chạy đi đâu! Và tôi chạy để làm gì? Tôi cũng không biết nữa? Tôi nghĩ đến thằng
Lợi, thằng bạn thân thương nhất của tôi, con gái của nó tên là Linh, tôi cũng
muốn đặt tên con gái của tôi là Linh nhưng phải khác một tí là Lynh. Tôi nhìn
cây mai ở nhà, cây mai tươi tốt nhưng chưa một lần có hoa, mấy hôm trước lại có
một cái nụ duy nhất. Cây mai, tôi đã đứng cạnh, để chiêm ngưỡng em Hoa lần đầu.
Vậy tôi sẽ đặt tên con gái của tôi là Mai Lynh. Tôi chạy vội sang bà nhạc để
nhờ mẹ vào nhà thương đặt tên cho con gái là Mai Lynh.
Tôi vừa bước chân về
nhà, hôm nay tôi thấy lạ ! Ngồi trong màn thầy tôi thò tay ra vẫy tôi vào, tôi
trèo lên giường, trong nỗi vui vì con gái tôi, còn đầy ắp trong lòng. Thầy tôi
rút trong người ra, đưa cho tôi một cái bút Parker đút trong một cái túi nhung
đen con. Chiếc bút mầu mận chín còn mới tinh, chưa có mực. Chiếc bút ”made in
USA . Không biết thầy tôi cất giấu từ bao giờ, nhưng chắc phải từ trước
30-4-1975. Tôi chỉ biết ôm lấy thầy, miệng hổn hển:
- Con xin cảm ơn thầy!
Lòng còn đang xốn xang
với vợ và con gái trong nhà thương, nên tôi đã cất chiếc bút vào túi, tôi lại
vào giường trong nói chuyện với mẹ tôi. Lòng tôi vẫn thấp thỏm băn khoăn với
chiếc bút Parker 51 trong túi, cũng như lọ mực Waterman thầy tôi cho, hơn một
tháng trước. Tôi vẫn không hiểu được ý của thầy tôi? Chẳng lẽ người muốn tôi đi
học? Tôi đã 44- 45 tuổi rồi, còn đang chạy ăn từng bữa một thì học hành gì? Hay
thầy tôi cho bút mực để viết kiểm điểm với các cơ quan của CA? Hỏi mẹ, hỏi vợ
cũng không đoán ra, nên tôi đành cất đi? Tôi chợt nghĩ đến đứa con gái mới đẻ,
tôi đã đặt tên rồi mà, bố vẫn chưa thấy mặt của con. Hay người cho bút mực để
con gái của tôi đi học? Điều này thì tôi chưa thể xác định, điều trước nhất là
hai giờ chiều nay, tôi phải lên tiểu ban Quản Lý Những Người Học Tập Được Về.
Hôm qua có giấy gọi tôi
phải lên đúng hai giờ để biết rõ: Lệnh tạm trú ba tháng của tôi, sau khi làm
kiểm điểm ba, bốn lần rồi! Có được lòng nhân đạo của Đảng cho gia hạn tạm trú,
để phụng dưỡng bố mẹ mù lòa, lẩn thẩn hay phải đi vùng kinh tế mới? Rồi lá đơn
xin Đảng và Nhà Nước mở vòng tay của người cùng một nước, cho tôi trở lại nhà
tù? Tôi đã viết và nộp hơn ba tháng rồi? Bây giờ vợ lại đẻ ! Bao nhiêu những
gậy gộc, dao, búa chĩa vào tôi đe dọa. Cả hạt gạo, cũng trở thành hung dữ, ghét
bỏ tôi, đe dọa cuộc sống của tôi.
Rã rời mệt mỏi, ngồi
trên chiếc xe chân không muốn đạp, chiếc xe hình như cũng góp phần với gạo
nước, củi lửa làm cho tôi càng mệt thêm, trên đường đến tiểu ban QLNNHTĐV. Tôi
đã chuẩn bị những lời xin xỏ, chống đỡ, tai cũng sẵn sàng nghe những lời nạt
nộ, quát tháo như mọi khi. Nhưng tôi đã ngỡ ngàng ngạc nhiên, cũng là tên trung
úy Bội trước đây, hôm nay y ăn nói nhẹ nhàng, tình cảm. Hơn một năm tôi chưa hề
thấy ở y, nhất là sau khi tôi báo là vợ tôi đẻ con gái ngày hôm qua, nhưng tôi
cũng chưa được nhìn thấy. Y chúc mừng tôi, y khuyên tôi phải giữ đạo làm con
đối với bố mẹ già yếu tàn tật. Y đã cho tôi nguồn sinh lực cụ thể, y nói rõ
ràng:
- Y chấp nhận, tôi được
tạm trú nhà bố mẹ thêm ba tháng nữa. Vài ngày nữa, đứa con có khai sinh, cầm
giấy ra trại của tôi, giấy khai sinh của con, giấy chứng minh nhân dân của vợ,
giấy hộ khẩu của bố mẹ, sang phòng lương thực của Quận. Y đã có ý kiến với bên
đó, họ sẽ cấp tem, phiếu gạo và thực phẩm, như mọi người. Riêng về quản chế tôi
vẫn như cũ. Nghĩa là vẫn hàng ngày, tôi phải trình diện CA khu vực. Sáng thứ
Hai mỗi tuần, phải ra trình diện ở cơ quan Phường. Thành phố, tiểu ban và Quận
cần sẽ có giấy gọi. Chấp hành mọi quy chế ở tổ phố, như cũ .
Tôi có cảm tưởng như
trước đây hai lỗ mũi của tôi bị nút kín, chỉ còn cái miệng, thở được chút nào thì
hay chút ấy, nghĩa là khó thở, nghẹt, hoặc không thở được trong cuộc sống, bây
giờ tôi được tháo nút ra một bên mũi.
Tôi vẫn xin cảm tạ cuộc
đời!
Chiếc xe đạp, lúc đi
thì ngang bướng, lỳ lợm; khi về thì ngoan ngoãn dễ bảo, chỉ thấy một tí đã về
đến nhà rồi. Cũng căn nhà của bố mẹ, mỗi ngày tôi đi lao động trở về nhìn nó
xám, nó xỉn lại, nó khắc khổ, rũ rượi, thế mà hôm nay rõ ràng nó tươi tắn hẳn
lên. Nó như mở to mắt mà còn cười đón tôi về. Tôi đã ôm lấy thầy tôi, ôm lấy mẹ
tôi báo cho các người: Tôi và con gái đã có tem phiếu gạo, tôi chạy sang cả bên
bà mẹ vợ để báo tin vui này. Hôm nay, tôi chạy ra chợ chiều muộn, để mua một bó
rau đay và cua rốc. Đặc biệt thêm là mua cà ghém sống, món mà bố mẹ, Hoa và tôi
thèm đã từ lâu, nhưng chỉ được ăn cà ghém nén, nhà bà Lân.
Cái món cua rốc mẹ tôi
vẫn khao khát thèm, hôm nay tôi ra sức làm một bữa rau đay cua đồng, ăn với cà
ghém chấm mắm tôm chanh. Tôi hì hục giã cua, lọc cua, chiếc cối là chiếc mũ sắt
và chiếc chầy đã lâu ngày quên cả mùi cua rốc. Thành ra nó gật lấy, gật để vào
những con cua liên hồi. Tiếng chầy giã cua nhịp nhàng, réo rắt như điệu
“Rumba”. Chỉ một loáng đã nhuyễn, cái mùi cua rốc là cái mùi của ruộng đồng,
của đất, của nước, của quê hương. Khi nó sôi lên, mùi đất nước, mùi quê hương
ngạt ngào phả khắp dưới bếp, trên nhà. Mẹ tôi từ trong màn gọi vội ra:
- Con làm cho nước
miếng của mẹ, ứa ra mấy lần rồi!
Nghe mẹ nói, lòng tôi
mát rười rượi, có cần gì phải giầu sang, tiền bạc đưa cho mẹ? Chỉ cần một tấm
lòng chân thật, với những thức ăn của ruộng đồng mộc mạc, giản dị của quê
hương. Một bữa cơm đơn sơ, tràn ứ tình phụ mẫu, nghĩa phu thê về chiều. Cơm
xong, tôi tranh thủ mang sổ đến nhà cô Ngọc Anh trình diện, về đến nhà, vội
vàng dọn dẹp, rửa chén bát rồi lên gác đi ngủ sớm. Tôi đã có chủ định, sáng sớm
mai, sẽ vào thăm em Hoa và nhìn mặt cô con gái Mai Lynh của tôi.
Nhưng nằm xuống, đâu có
ngủ được, cô vợ và đứa con gái cứ thập thò đứng bên cạnh chuyện trò lúc rõ, lúc
mờ. Hình ảnh tên Bội của tiểu ban QLNNHTĐV cũng mò vào, miên man, tôi chợt nhận
ra lòng nhân đạo của Đảng đối với tôi. Sâu hiểm thật!
Một ông già lẩn thẩn
gần tám chục tuổi, một bà cụ mù lòa là một gánh nặng cho xã hội. Một tên tù xác
xơ, lại cho nó vào tù nữa, như một con vật phế thải, bỏ đi, để nó ở nhà nhưng
đóng đai lại để nó lo lắng phục vụ bố mẹ già của nó, vừa làm cho những chòm
xóm, thân bằng, gia đình nó thấy được độ lượng nhân ái thương dân của Đảng; lại
vừa nhẹ gánh cho chính quyền địa phương. Chỉ cần quản lý nó chặt, lấy bớt một
nút ở lỗ mũi của nó, cho nó dễ thở một chút, nó mới có sức làm công việc phục
vụ hai ông bà già mù lòa, tàn tật này, không ai làm công việc này, tốt hơn nó.
43. THẦY VỀ VỚI TỔ TIÊN
Rồi tôi chui tuột vào trong giấc ngủ Nam Kha lúc nào không
hay, bỗng nghe có tiếng gọi giật gọng của mẹ tôi:
- Bình ! Bình ! Bình ơi
!
Mắt nhắm, mắt mở, tôi
chồm xuống thang, lật màn mẹ, thì mẹ tôi đã nói như thúc giục:
- Con xem thầy con thế
nào?
Tôi quay vội sang màn
thầy! Thầy tôi nằm xoay ngang ra cái giường, người đang khò khè lúc to, lúc
nhỏ, tôi vội ôm thầy tôi, đặt nằm ngay ngắn, gối đầu cho người cẩn thận. Tôi
hướng sang màn mẹ tôi, nói khẽ:
- Con đã đặt thầy, nằm
thẳng lại rồi.
Nói rồi tôi mò lên gác
vì mệt và buồn ngủ quá! Chừng hơn một giờ sau, tôi còn đang chập chờn ngao du
vào xứ mộng, thì mẹ tôi lại gọi nữa:
- Bình ơi! Con, con
xuống xem thầy ra sao? Mẹ thấy khác thường lắm !
Tôi cũng thấy trong
lòng một cảm giác lạ thường, vừa nóng, vừa lạnh như trong mùa Đông không đủ áo.
Tôi hấp tấp leo xuống thang, nhìn vào màn thầy, thầy tôi vẫn nằm trong tư thế
khi nãy, tôi cầm tay thầy tôi gọi khẽ:
- Thầy ơi ! Thầy !
Không còn có tiếng khò
khè lúc trước, tôi gọi to hơn:
- Thầy, Thầy ơi!
Tôi để một ngón tay vào
mũi người, người không còn thở nữa, tôi quay sang màn mẹ tôi, nói trong nước
mắt:
- Mẹ ơi! Thầy đã chết
rồi!
Mẹ tôi gào lên:
-Ối ông ơi! ông bỏ tôi…
ông đi!
Mẹ tôi vật vã, gào
thét, tôi vào ôm lấy mẹ tôi, cổ tôi nghẹn lại không nói ra lời, nhưng nước mắt
của tôi cứ cuồn cuộn giàn ra. Bà Chức đã chạy sang, tôi chỉ kịp quay lại nói:
- Mẹ trông nhà giùm
con, con sang nhà cô chú Tuất, con về ngay.
Sang tới nhà cô Xuân
bên Lăng Cha Cả, tôi đập cửa, mới 5 giờ sáng, tôi chỉ kịp nói với em Xuân:
“Thầy chết khoảng 4 giờ sáng!”. Vội vàng, tôi dặn thêm:
- Em cho các cháu đi
báo cho cô Thu, mợ Út, họ hàng. Em bảo con Lan hay thằng Cường lên Hồng Ngự
báo cho chị Hai và các cháu nhà thím Lý.
Tôi phóng vội về nhà vì
nhà không có một ai. Về đến nhà thì đã đầy người, bà con, hàng xóm, không biết
ai báo. Cô Thu đang ôm mẹ tôi ở trên giường, người cứ vật vã, khóc không còn ra
tiếng nữa. Chỉ là những tiếng khào khào, như tiếng con ngan đực gọi vợ, gọi
con, gọi đất trời!
Càng về trưa, nhà tôi
đông nghẹt các ông, các bà, không có trầu mà cũng chả có nước uống, nhưng tất
cả mọi người đều thông cảm cho cảnh huống neo đơn của gia đình tôi. Nhìn đám
đông các ông bà già cả, trẻ con, người lớn, xúc động, tôi thấy được nghĩa tình
của xóm phố, luồn sâu vào trong đó có cả cái nghĩa của người cùng một nước.
Nhiễu điều phủ lấy giá
gương.
Người trong một nước,
phải thương nhau cùng.
Một mặt khác, cũng phải
có một sợi tơ tình nhỏ bé là trước đây cuộc sống của bố mẹ tôi đối với xóm
giềng cũng phải có tình, có nghĩa, có thủy, có chung.
Những anh em biệt kích
và những bạn tù địa phương ngoài Bắc của tôi, như Tuấn Nguyệt, Mạc Lịch v.v…
cũng đến viếng xác thầy tôi. Chắc anh này báo cho anh kia, tôi không thể báo
được cho ai. Điều này cho tôi càng thấy rõ: Trong cuộc sống tiền tài, vật chất
thật là quan trọng, nhưng xuyên suốt toàn bộ, tình và nghĩa là quan trọng nhất,
là Kim Chỉ Nam của kiếp sống con người.
Do cuộc sống quá cực
khổ, lầm than dưới nanh vuốt của con Hồng Tuộc, hầu hết người dân thấy tiền là
trên hết:
Tiền là Tiên….là
Phật…là sức bật…v.v…
Nó chỉ đúng 80 – 90
phần trăm, chứ dứt khoát không phải tất cả Trước đây ông bà mình có câu: “Có
tiền….mua tiên cũng được !”
Nhưng chắc chắn không
thể mua được lòng Trời, dù cho có bao nhiêu tiền, chúng ta dù ai, cũng phải
thừa nhận: Có những sự việc, những loại không phải có tiền mà mua được! Có
những loại tình, loại nghĩa không thể mua được bằng tiền. Sự già, sự trẻ, chết
và sống v.v. . . Đầy dẫy những thứ không phải từ đồng tiền.
Do những tấm lòng của
thân nhân, họ hàng, bạn bè và bà con xóm giềng, có cả Cha Bình, Cha làm phép
cưới cho tôi và Hoa, Cha vào làm phép xác tại nhà. Ba ngày sau đưa thầy tôi ra
nghĩa địa ở Nam Hòa. Đi theo đám, ngoài mẹ tôi (có cháu Lan dìu), các em, các
cháu, họ hàng và bà con thân thuộc. Tôi là người con trai duy nhất chống gậy,
đội mũ rơm đi sau quan tài.
Có một số điều kỳ diệu:
- Thầy tôi cố chờ tôi
tròn 20 năm (1962- 1982)
- Cháu đích tôn của
người vừa ra đời ngày hôm trước, thì người vào cõi vĩnh hằng, ngày hôm sau.
Như thế sau này, cứ
ngày sinh nhật của cháu Mai Lynh, hôm sau là ngày giỗ của ông nội.
Cũng thật là một sự
việc khó quên, hai mẹ con Hoa ở nhà thương về phải ở bên bà nhạc. Thậm chí khi
đưa đám thầy tôi rồi, mà mẹ tôi dứt khoát chưa cho mẹ con Hoa về nhà, vì người
không muốn bà đẻ có hơi hướng tử khí. Người muốn phải để một vài ngày, cho
không còn hơi hướng và phải rẩy nước phép cả trên gác dưới nhà. Tôi hiểu không
hợp lý tình lắm giữa tâm linh và khoa học. Tốt nhất là tôi phải vâng theo ý của
người, nhưng chắc chả ai cấm được cái chân và khóa được trái tim của tôi, với
vợ và con gái yêu của tôi. Thành ra trong ba ngày tôi phải phục tang, hễ khi
nào nghỉ ngơi, ăn uống là tôi thay quần áo tang, để chạy vội sang chuyện trò
với vợ con, một ngày chả biết mấy lần.
Con gái cưng của tôi nó
như con chó con, cái mũi tí hon, cái tay bé tí, đôi mắt của nó nhỏ xíu, long
lanh như hai hạt kim cương, cứ trừng trừng nhìn tôi. Con ngươi của nó, chuyển
hết từ mầu hồng sang mầu xanh, rồi chuyển lại mầu hồng như muốn nói:
- Con đã biết, bố là bố
của con rồi nhé !
Tôi cúi xuống thường cho
nó một cái hôn nồng nhiệt, con gái của bố mới có bốn, năm ngày mà đã thông minh
thế!
Một lần tôi bế nó trong
lòng, nó dám run rẩy giơ bàn tay “ngọc” lên cằm sờ râu của tôi (mấy ngày lo đám
ma, không cạo). Tôi tức mình “quắc” mắt lên ”lườm”nó, như muốn cho nó biết
“oai” :
- “Cô nương” dám sờ râu
“cọp” à ?
Lườm thì lườm, nhưng
tôi vẫn hôn lấy, hôn để, cái mùi thơm từ khi lớn lên tới giờ, tôi chưa bao giờ
được ngửi mùi thơm kỳ diệu, nó như… tôi chịu, tôi phải nhờ những nhà văn nào có
tài, may ra mới lột tả được! Tôi chỉ thấy nó… tuyệt vời lắm, như hơi của “tiên
nga” vậy. (Tôi đã được hôn đâu, mà biết?).
Sau đám tang của thầy
tôi chừng một tháng, một hôm thằng Lợi mách và bầy mưu cho tôi:
- Tao có quen một bác
tên là Nhiên, bác thầu nhiều công trình để tu sửa, bác là người của chế độ cũ,
nên bác trả lương cho người công nhân, rất “biết điều”. Hiện nay bác đang thầu
sửa chữa bệnh viện tâm thần ở Biên Hòa, tao có nói chuyện về mày, bác sẵn sàng
giúp đỡ mày! Bác sẽ cấp cho mày cái giấy, nhận mày vào làm công nhân sửa chữa.
Mày có giấy này, mày làm đơn xin với công an xem nó có cho mày đi một tuần. Cứ
một tuần về trình diện một lần, có giấy chứng nhận mày làm việc, ở bệnh viện
tâm thần Biên Hòa!
Tôi đã làm một lá đơn,
đầy đủ tình lý lên Tiểu Ban Quản Lý Những Người Học Tập Được Về, rồi ra Phường,
lên Quận, xuống CA khu vực, cả chữ ký của ông trùm Lộc (khu phố), lại lên Thành
gần một tháng trời, đi về. Cuối cùng, tôi được chấp nhận cho trình diện mỗi
tuần, với điều kiện phải có giấy xác nhận của Bệnh Viện Tâm Thần Biên Hòa, hàng
tuần.
Đúng là đường đi của
tôi từ chỗ lội bì bõm bùn lầy đã lên đường đi, dù là đường đất nhưng không còn
chỗ lầy lội. Tôi đã được gặp bác Nhiên, bác chừng 60 tuổi, bác đang ở tạm tại
nhà của một đại úy công an, trong khu Tam Hiệp gần bệnh viện tâm thần Biên Hòa.
Tôi cũng được quen biết vợ chồng Phạm Lộc là con của bác Nhiên. Vợ của Lộc là
cô Liên, cả hai vợ chồng đã lên nhà tôi chơi nhiều lần ở Ông Tạ. Để tiện công
việc làm ăn, tôi cũng được ăn ngủ ở nhà anh đại úy CA, với bác Nhiên.
Anh đại úy CA này tên
là Trường, người Lái Thiêu, vợ của anh là chị Hiền, là con gái của một ông Giám
Đốc hay Thứ Trưởng Bộ Y Tế thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. (Được biết, ông
này ngoại giao giỏi, nên ngoại quốc giúp đỡ thuốc men nhiều, vì thế cộng sản
vẫn dùng để ông này xin thuốc). Cuộc tình giữa con gái của một thế gia, với một
đại úy CA, hẳn cũng có nhiều vấn đề xã hội. Anh chị Trường + Hiền ở một căn nhà
to có vườn cây chung quanh, anh chị đã có hai đứa con bốn năm tuổi.
Hàng ngày, tôi đi làm
với bác Nhiên, bác phụ trách một đội công nhân tu sửa bệnh viện, chừng gần hai
chục người. Anh Trường và tôi thường hay tâm tình, anh thường vui vẻ nói đùa:
“Anh (chỉ tôi) 18 năm tù, còn tôi cũng suốt 18 năm đi phục vụ Cách Mạng, sống
heo hút trong núi rừng “.
Anh Trường có cái thú
uống trà và hút thuốc lá ba số 5, ở một phòng khách nhìn ra vườn cây. Những
ngày mưa dầm, những đêm trăng tỏ, tôi và anh đổi trao hai mảnh đời ở hai chiến
hào đối nghịch. Và hiện nay, anh ở phía chiến thắng có tiền, có quyền, có vợ
đẹp con khôn. Tôi ở phía chiến bại, không tiền, mất quyền công dân, hàng ngày
đi làm cu- li, nắng mưa trèo leo, chui rúc để kiếm miếng cơm cho mình, cho mẹ
già và vợ dại con thơ. Cứ chiều thứ Sáu, cùng với “ông” xe đạp ra tàu, đi về
với vợ con để chiều Chủ Nhật, trở lại bệnh viện làm cu- li.
Những buổi sáng, những
buổi trưa, ngồi nhâm nhi ly trà hoặc cà phê “vị đời” trong những quán nước
trước cổng bệnh viện chờ giờ mở cửa. Đủ mọi thành phần công nhân, chuyên môn,
cán bộ, từng nhóm ồn ào hay trầm lắng. Do những “vi ba” của sóng mắt, tôi quen
biết một cậu tên là Lê Hiệp. Cậu có nước da bánh mật, chừng 29- 30 tuổi, đôi
mắt cậu “lắng đọng” trầm ngâm, hay dõi nhìn những đám mây trời đen trắng.
Để rồi tôi được biết
cậu là bác sĩ chuyên về não bộ, cậu còn là bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản
của bệnh viện. Cậu là con một điền chủ, của một cơ sở cách mạng thuộc tỉnh Cần
Thơ. Cậu đã có ba năm y khoa dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, mấy năm cuối và ra
trường dưới chế độ này. Như tôi đã trình bày quan điểm từ trước: Nếu muốn tiếp
xúc với cuộc đời bằng những bàn tay xòe mở rộng, thì sẽ gặp những bàn tay mở
rộng, xòe cả năm ngón. Ngược lại bằng những bàn tay nấm chặt khư khư, thì cũng
sẽ có những nắm đấm đối xử lại. Gieo bắp thì thu lượm bắp, gieo lạc thì sẽ thu
hái lạc.
Sau khi cậu biết tôi từ
trong hang tối chui ra, cậu lại rất quý mến, nhiều buổi cậu đã bỏ những đám bác
sĩ, y tá áo trắng đồng nghiệp để, đến bàn một anh chàng cu- li, người chẳng
giống ai để tâm tình, trò chuyện. Qua nhiều những dò dẫm, lòng ướm thử lòng,
cậu đã nói rõ:
- Anh tìm được đường
nào “oversea”, anh báo, gọi em sẽ theo anh. Ngược lại, nếu em có “mối”có
“đầu”anh sẽ đi với em !
Nhiều những ước định
hẹn hò thỏa thuận, nếu như mưa thuận, gió hòa, gặp thời cơ thì sẽ nẩy mầm sinh
hoa, kết trái cho đời. Cậu là một người trí thức đã đắm mình trong lò máu mê và
độc dược, của con Hồng Tuộc. Điều cậu băn khoăn khắc khoải nhất là: Hiện nay
dân tình lầm than đói khổ, xã hội bị khóa chặt trong một căn nhà. Người dân bị
bịt mồm, bịt mắt, thuần phong, đạo lý bị đảo lộn, tình người như nắng hạn kinh
niên.
Vậy tại sao cái chế độ
phản dân chủ đó vẫn tồn tại? Tôi hiểu đây là một vấn đề lớn của đất nước, và
của thời đại, không thể vội vàng hồ đồ thiếu sàng lọc cân nhắc! Vì thế tôi xin
hẹn cậu một bữa khác, sẽ cho cậu biết cái chủ quan hạn hẹp của tôi.
Ở giữa mảnh vườn rộng,
nhà đại úy công an Trường có một căn nhà con, chắc xưa kia là nhà để hạt giống
và dụng cụ làm vườn. Vì tôi thích thoải mái, phóng khoáng nên tôi đề nghị với
anh Trường và chị Hiền, tôi dọn dẹp và sửa chữa căn nhà đó, kê được một cái giường
và một số đồ lặt vặt. Tôi sẽ ra đó ở và ngủ đêm, để nghe chim hót, côn trùng ca
nhạc và những tiếng thì thầm, trong đêm thâu của cây vườn.
Đã hơn ba tháng, căn
nhà với tôi đã hít thở, đánh hơi nhau như người nhà, như bạn bè gần gũi thân
quen. Một đêm vào khoảng 2 giờ sáng, tôi còn mê mệt sau một ngày leo trèo trên
mái nhà, để đảo ngói (vì dột) một căn nhà rộng, thuộc khu da liễu của bệnh
viện. Bỗng có nhiều tiếng huỳnh huỵch của bước chân, tiếng lách cách của sắt
thép, rồi tiếng hô giật giọng, của một người giọng Bắc rặt:
- Bò dậy và giơ tay
lên!
Tôi choàng ngồi dậy,
ánh đèn bấm loang loáng, hai người đứng đầu và cuối giường, lăm lăm chĩa hai
khẩu AK 45 vào tôi. Hai người nữa đeo súng ngắn, mặt tên nào cũng đằng đằng sát
khí, chúng bắt tôi đưa giấy tờ, tôi chẳng có một giấy tờ gì, ngoài cái giấy ra
trại của bộ nội vụ. Thấp thoáng phía bên ngoài còn hai tên nữa, cũng lăm lăm
hai khẩu CKC thập thò ngoài cửa. Hai tên đeo súng ngắn, đeo lon thiếu úy và
trung úy, chúi đầu xem tờ giấy ra trại rồi chúng nhìn nhau. Bốn mắt chúng vừa
như vui mừng, vừa như ngơ ngác nhìn một con thú lạ, mà chúng chưa xác định
được, là loại gì?
Chúng bật hẳn đèn điện
lên, dù ngọn đèn chỉ có 25 watts cũng đủ để thấy rõ mắt của hai tên cầm giấy
càng trắng ra, như không tin vào đôi mắt của mình. Tên trung úy cầm giấy, còn
chiếu đèn bấm vào cái giấy ra trại, của tôi xem lại. Tôi suy đoán qua thái độ
của hai tên chỉ huy, giấy này là của bộ nội vụ, nghĩa là từ trung ương Hà Nội.
Mười tám năm tù giam từ 1962, từ khi chúng còn là một cậu bé 9 – 10 tuổi, cái
tội gián điệp, chỉ cái từ này hình như đã “dị ứng” với chúng ở giai đoạn ấy.
Mấy ngày nay, anh Đại
úy Trường CA đi công tác xa không có nhà, hai tên đeo súng ngắn thì thào với
nhau một lúc, rồi chúng yêu cầu tôi theo chúng về đồn. Hai tên mang CKC đi
trước, hai tên cầm hai khẩu AK theo phía sau. Khi trở về sân nhà, chị Hiền và
bác Nhiên nhìn tôi đi giữa 6 người súng ống, mặt lầm lì. Bác Nhiên và chị Hiền
nhớn nhác lo sợ. Tôi bình thản nói với chị Hiền và bác Nhiên:
- Chị và bác giúp tôi,
cho người về Sài Gòn báo cho vợ tôi biết nhé ! Và cứ yên tâm!
Chúng dẫn tôi đến một
chiếc xe đò Đồng Nai, đã xỉn mờ đi hai ba chữ, đậu khuất nẻo trong một khóm tre
đầu ngõ. Thái độ của chúng đẩy tôi lên xe, súng ống bố trí trước sau, cứ sợ như
tôi chạy trốn, tôi đã định ghé vào tai tên Trung úy người Bắc nói cho y rõ :
“Tôi đã làm đơn trở lại
nhà tù từ 7- 8 tháng nay rồi, tại sao tôi lại chạy? “.
Tuy vậy, tôi cũng thấy
lóe ra một vấn đề của anh Đại úy Trường, đang đêm súng ống vào nhà một Đại úy
CA để bắt người, lại bắt vào lúc anh không có ở nhà, kết hợp với những đổi trao
tâm tình nhiều lần giữa anh và tôi. Chúng dùng một tên người Bắc chỉ huy vụ bắt
bớ này, rõ ràng chúng đã không còn tin tường hoàn toàn vào anh Trường! Anh vẫn
có, vẫn còn cái tính bộc trực thắng thắn của người miền Nam. Anh lại lấy con
gái của một công chức cao cấp của chính quyền “ngụy” thì hẳn những quan hệ,
những giao tế sớm muộn dần dà đã nẩy sinh tự nhiên trong cơ thể của anh một số
chất “miễn nhiễm”đối với những nọc độc, thuốc lú, thuốc mê của chủ nghĩa cộng
sản bịp bợm.
Về tới đồn CA mới gần 4
giờ sáng, trời hãy còn tối đất nên chúng giam tôi vào một cái buồng con bằng
tre, nứa phía sau đồn. Nhìn những phên nứa, nhìn những dây lạt buộc những thanh
tre của cửa và vách. Tôi tự nghĩ nhà giam tôi lúc này, không phải là căn buồng
này, mà là cái đầu của tôi thôi.
Cho tới trưa ngày hôm
sau, chẳng có ai hỏi han gì đến tôi, thoáng mấy tên CA đi lại từ xa, tôi gào
gọi để hỏi, thì tên nào cũng trả lời không biết ! Cũng chẳng có cơm nước gì!
Mãi tới chiều mới có tên tù hình sự, đưa vào cho tôi một bát cơm gạo hẩm, với
miếng cá khô. Đói khổ đã quen, nên không trở thành vấn đề lấm ! Chỉ cần ngày
một bát cơm như thế thì tôi chịu được.
Đúng như rằng, ngày hôm
sau, cũng chẳng hỏi han đến và cũng chỉ một bát cơm hẩm như vậy. Nhưng tôi tin
rằng với những phương tiện liên lạc có thể như điện tín, hay xe cộ v.v. . .
chúng đã hỏi hay báo về Biên Hòa; có khi về tới Sài Gòn rồi.
Sáng hôm sau nữa,
khoảng 10 giờ, một tên CA vào mở buồng, giọng Biên Hòa rổn rang:
- Anh mang hết đồ đi ra
ngoài!
Ra đến sân đồn, y dẫn
tôi vào một văn phòng, cậu Tập đang ngồi với một tên Trung úy CA, quay ra cười
với tôi. Tên Trung úy CA, cầm tờ giấy ra trại của tôi, y cười rồi đưa trả lại
tôi. Cậu Tập đứng lên bắt tay với y, rồi ra hiệu cho tôi theo cậu ra sân. Tôi
cũng chẳng cần chào tên Trung úy, bốn năm tên CA nữa thập thò phía trong, cậu
Tập dẫn tôi đến một chiếc Honda dựng ở một góc sân. Ý của cậu Tập là đưa ngay
tôi về Sài Gòn vì bà cụ (mẹ tôi), vợ tôi đang nóng lòng mong đợi tôi ở nhà.
Tôi đề nghị cậu Tập,
đưa tôi vào Tam Hiệp đến nhà chị Hiền đã, và cái tôi cần giải quyết đầu tiên,
khi nhìn thấy một quán nước bên đường. Tôi đã ăn hết một cái bánh tét và ba quả
chuối tiêu to .Tất cả 1 đồng 20.
Bác Nhiên và anh Trường
không có nhà, chỉ có chị Hiền và mấy đứa nhỏ, nội dung sự việc:
Đã từ lâu CA Biên Hòa
đã rình để bắt Cao Xuân Huy (hiện ở Califomia, viết “Tháng Ba Gãy Súng”). Được
báo Huy là sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, đang bí mật tổ chức vượt biên, chúng dò
được Huy vẫn lén lút đi về ẩn náu trong nhà của Đại úy CA Trường. Anh Trường
lại là phó phòng ngoại vụ, của sở CA Biên Hòa, nhưng đã có nhiều biểu hiện tiêu
cực, nên chúng để lại như một hình thức; mà không còn thực quyền. Chính vì
những mâu thuẫn lằng nhằng này nên chúng đã vồ “hụt” Cao Xuân Huy, nhưng lại vớ
được tôi, một tên gián điệp do CIA đào tạo, đã ở tù 18 năm ngoài Bắc. Giấy còn
ghi rõ, không có quyền công dân trong 5 năm.
Ngay ngày hôm chúng bắt
tôi, bác Nhiên đã mang giấy chứng nhận của bệnh viện tâm thần Biên Hòa: “Tôi là
công nhân hàng ngày làm việc, trong đội sửa chữa của bệnh viện”. Anh Trường về
đã giận dữ phản đối . Tóm lại với giấy tờ thật của bộ nội vụ, và sự xác nhận
của bệnh viện Biên Hòa, chúng đã biết bị lầm. Nhưng từ xưa những việc chuyên
chính với thành phần đối kháng, thì lầm cũng không bao giờ có lỗi.
Cậu Tập, là ủy viên tài
chánh của một phường, ở Sài Gòn lên lĩnh cháu về. Dù sao tôi cũng biết ơn cậu
Tập, đã có công lên đón tôi về, đã nói lên tấm lòng của cậu mợ, quan tâm đến
đứa cháu rể .
Sau này nói chuyện lại,
lúc đầu bác Nhiên, chị Hiền và cả anh Trường tưởng tôi bị bắt, vì do tôi bí mật
hoạt động gì đó, nên mọi người đều xanh mắt lo lắng. Khi biết rõ là lầm, bác
Nhiên mới lo giấy tờ xác nhận của bệnh viện, anh Trường mới nổi nóng phản đối,
vào nhà anh, một đại úy CA để bắt tội phạm. Điều này cũng đã nói lên nhiều vấn
đề.
Tôi lại tiếp tục hàng
tuần đi làm việc ở bệnh viện tâm thần Biên Hòa. Một buổi sáng, tôi và mấy người
lúi húi sửa tường và mái của một căn nhà kho, trong một cái hẻm của bệnh viện, thoáng
một bóng trắng từ khu nhà thí nghiệm len lỏi vào chỗ chúng tôi đang thi công.
Từ xa tôi đã biết là bác sĩ Hiệp, tôi tiến ra, cậu đã vồ lấy tay tôi, như gặp
lại một người thân lâu ngày xa cách:
- Anh làm em mấy đêm
không ngủ, em lo cho anh quá!
Giọng miền Nam của cậu
đã được giao thoa, trong cộng đồng dân tộc, nghe như mưa rào cuối xuân của Đà
Lạt. Mai là ngày nghỉ của cậu, cậu có nhã ý muốn tôi đến chỗ cậu ở trong đêm
nay, trưa mai cậu sẽ đưa tôi trở lại bệnh viện để làm việc.
Cái chính là, những lần
trao đổi tâm tình với cậu, tôi tỏ ra là người rất say đắm thiên nhiên, cậu cũng
đồng quan điểm thưởng ngoạn như tôi. Theo cậu, nơi cậu ở hiện nay, phong cảnh
rất có nghĩa tình với cậu, nên cậu muốn tôi cùng thẩm nhận với cậu, như cùng
khao khát một món ăn của tinh thần.
Tôi biết ngoài những
công việc chuyên môn bận rộn, lại ôm một trọng trách là bí thư, của chi đoàn
thanh niên cộng sản của cả bệnh viện, phải là một người đỏ cả chân tay, mặt
mũi, nếu không (ít ra con Hồng Tuộc đã tin) cơ thể, tim, óc của cậu đã được ướp
ngâm, dầm trong rãi, rớt đầy nọc độc, mê, lú của nó, như đã được cấy “sinh tử
phù “.
Bác Nhiên đang có mặt ở
trong nhà kho, tôi vào tỏ ý xin nghỉ buổi sáng mai, bác sắp sếp người thay tôi.
Bác Nhiên đã nhìn thấy bác sĩ Hiệp, đứng nói chuyện với tôi, Hiệp lại là thành
phần lãnh đạo của bệnh viện, nên bác vừa gật đầu, vừa chớp con mắt, đang nhiều
lòng trắng của bác, như một dấu “hỏi” to tướng và đen ngòm. Tôi lại trở ra với
Hiệp, ngay sau buổi làm chiều hôm ấy, tôi gửi “ông“xe già của tôi ở một buồng
quen.
Tôi và Hiệp rong ruổi
trên chiếc Honda, trở về xã Bình Trước Biên Hòa. Không ngờ chỗ Hiệp ở, gần rẻo
một nhánh của sông nước Đồng Nai, những cây trái và những ngọn dừa, cành lá
rung rinh xào xạc như reo vui, mừng đón chúng tôi về. Mới nhìn thấy cảnh mà lòng
tôi đã lâng lâng dạt dào cảm xúc, chả trách Hiệp đã ngẩn ngơ ca tụng, với tôi
mấy lần. Nhà Hiệp mướn là một căn nhà nhỏ, xinh xinh ở cách gần 100 mét , một
xóm quần tụ gần hai chục căn, lẫn lộn nhà gỗ và nhà gạch. Ở giữa khu xóm là một
căn nhà cao, có lá cờ đã ngâm trong máu, đã ướp nhiều độc dược và thuốc mê.
Nhìn lá cờ đang ngoe nguẩy giẫy dọn trên mấy ngọn dừa, tôi có cảm tường nó đang
rắc những phấn độc, phấn lú để mọi người không thể nhìn rõ được thân hình, tim
gan của nó.
Trong nhà của Hiệp chỉ
có sách vở và treo những hình ảnh của Marx, Engel và Lénine to tướng ở trên
cao, phía dưới lúc nhúc 7- 8 tấm hình nhỏ hơn, của các nhà lãnh đạo cộng sản
Việt Nam trong đó có ông già không có gia đình, nhưng lại có nhiều vợ nhiều bồ
và con rơi. Một chiếc tủ con hầu hết là sách vở chuyên môn y khoa của Liên Sô,
Tiệp, Đức v.v… Một chiếc tủ to, nhiều tầng đầy sách đã phì hơi của chúng ra đầy
phòng, mùi tanh của máu và súng đạn, thoáng có cả cuốn Tư Bản Luận, và cuốn
Lénine Toàn Tập.
Hiệp xuống bếp vào
buồng, lo chuyện của chủ nhà, khi ra nhìn thấy tôi đang tần ngần ngắm nhìn
những tấm hình, Hiệp tiến lại gần hạ giọng:
- Chiếc áo choàng của
em đấy mà!
Tôi quay lại, lắc đầu,
dịu dàng nhìn cậu:
- Hiệp không cần thanh
minh! Bây giờ, anh em mình định ăn món gì?
- Vì không định trước,
chỉ có cá lóc kho và có ít sò huyết hôm qua.
- Tôi hỏi vậy thôi? Món
ăn “tinh thần “ngoài kia, còn nhiều quá! Vậy “vật chất” chỉ cần qua loa, ăn ít
cái này thì mới ăn nhiều cái kia được!
Tôi xắn tay, chạy xuống
bếp cùng với Hiệp loay hoay làm một bữa cơm “nhẹ chất, nặng tình”. Nhìn một rổ
sò huyết, tôi không tin Hiệp lại tìm mua những thứ này. Nó không biện chứng,
hợp lý với một người chỉ cặm cụi vào học hành, sách vở lại còn yêu thiên nhiên?
Nghĩ thế tôi hỏi thử sự suy đoán của mình:
- Hiệp cũng chịu khó,
tìm được món sò huyết rất quý!
Hiệp đang thái hành,
ngẩng lên nhìn tôi đăm đăm, như xét đoán cách nói và thái độ, của tôi là thực
hay đùa? Rồi Hiệp chậm rãi:
- Có bao giờ em lại đi
mua những thứ này! Họ biếu, họ tặng nhiều thứ lắm! Em đã đẩy ra từ chối nhiều
lần, nhưng không phải lần nào cũng theo ý mình. Anh quên, em là bí thư chi bộ?
Trời tháng Bẩy, cứ đòi
“nhẩy” lên giường, vừa mới cơm nước xong, bên ngoài trời đã cập quạng, gà đã
lên chuồng. Hai anh em dọn dẹp, chén bát xong, đom đóm đã lập lòe ngoài phên
dậu.
Một điều thú vị nữa, là
Hiệp với tôi lại cùng có một sở thích lạ đời “thích bóng tối“ không phải để làm
những chuyện mờ ám. Bóng tối thường có sự tĩnh lặng đi cùng. Mỗi khi trong cuộc
sống gặp những sự việc khó khăn trở ngại, đêm thâu, tôi thích ngồi một mình,
ngâm, dầm trong bóng đêm, để nghe những nỗi niềm da diết đầy vơi của nỗi buồn
trong lòng, để suy nghĩ tìm một phương hướng chống đỡ, chuyển đổi những khó
khăn vây quanh.
Hôm nay tôi thích đi
trong đêm tối, bắt những con đom đóm để tìm lại một chút hơi hướng ngày “thơ”
của tôi. Tôi đề nghị với Hiệp, trong ánh sáng của ngọn đèn 40 watts lủng lẳng
giữa nhà, mắt của Hiệp long lanh như hai vì sao nhỏ, miệng cười khìn khịt:
- Em đang định rủ anh
ra ngoài !
Đi với một anh đít đầu
đều đỏ choét, như mặc chiếc “áo giáp”thật dầy, chống cả “lam sơn, chướng khí “.
Hiệp và tôi đã đuổi bắt được mỗi người 5, 6 con đom đóm trong tiếng gió lướt
thướt, dứt day với những cành lá của cây vườn. Đây đó trong bóng đêm, một vài
chùm sáng lóe lên từ những ngôi nhà như những miếng bạc, miếng thiếc trong chậu
mực Tàu. Một lần Hiệp đuổi vồ được một con đom đóm, xô vào một gốc cây, Hiệp
cười ré lên, kéo tôi ra một đường làng, nói văng vào luồng gió:
- Em không nghĩ tâm hồn
của anh còn “ngây thơ” thế?
Tôi cũng “quẳng” vào
tiếng xạc xào của lá cành:
- Bù trừ kỳ diệu của
cuộc đời, mà Hiệp!
Dưới ánh sao mờ, bốn
người từ trong một đường giong tiến ra, đèn bấm lóe lên:
- Thủ trưởng đi thực tế
tình hình !
Bốn người lại tiến vào
một giọng khác! Qua dáng dấp và thập thò khẩu súng trên vai, tôi đã đoán ra
rồi, nhưng Hiệp vẫn nói:
- Du kích xã này, họ
đều là đoàn viên .
Sáng hôm sau, tôi dậy
thật sớm, mới 5 giờ, trời còn tối, vừa là thói quen, vừa muốn thăm cảnh lạ,
nhìn Hiệp vẫn say sưa với những chạy nhẩy của tối hôm qua, tôi lẹ làng lách ra
ngoài, không gây một âm thanh. Tôi muốn gặp cây vườn để hít thở cái khí hậu mát
rượi trong lành, của buổi sớm mai. Một tiếng còi tàu nhớn nhác
te…..te……..cù……cú……..cu từ trong xóm, luồn vào luồng gió sớm vọng về, như gọi
vừng Đông trở dậy.
Nhìn một con đường nhỏ,
nhiều lá khô dẫn đến một cây đa già, cành lá xum xuê, to cao nhất vùng, tôi rảo
bước tiến về phía cây đại thụ. Cây đa gốc rễ rườm rà ôm cả một khoảnh đất rộng.
Một cái am quét vôi trắng, như chiếc rương con trong một cái hốc của gốc cây,
có một bát nhang đã hương tàn khói lạnh. Trời êm ả dần, tôi nghe thấy cả tiếng
thỏ thẻ của một đôi chim sớm, đang âu yếm dựa nhau trong một khóm lá, thập thò
liếc nhìn tôi.
Phía Đông đã rạng ra,
rồi đỏ dần lên rừng rực, làm vàng ửng cả lá lẫn cành đa. Một vệ đất thoai thoải
dài xuống một con rạch cạn, vì nước triều đang xuống dần, tôi ngồi xuống một
gốc soan, nằm nghiêng dài bên cây mít mật, đeo lủng lẳng những trái. Tôi ngồi
đăm chiêu, nghe tiếng lá khô, khẽ thì thào với gió nhẹ, để chờ mảnh mặt trời
ban mai bò dậy.
Tiếng con dế mèn ré lên
ro ro cao vút, ở dưới gốc cây soan tôi đang ngồi, như ru hồn tôi vào cõi mộng.
Một bàn tay êm ái đặt nhẹ vào vai tôi. Cậu Hiệp đã ngồi bên tôi từ lúc nào, đã
làm tôi tỉnh hẳn, Hiệp nói như trách, như hờn:
- Sao anh không gọi em
dậy?
- Nếu gọi Hiệp dậy, thì
làm sao tôi nghe được tiếng hờn trách lúc này? Cũng như ông mặt trời hôm nay,
biết là có người đợi, nên ông ở lỳ, không chịu “nhò” mặt ra.
Tôi đứng dậy kéo tay
Hiệp:
- Trời còn sớm, anh em
mình xuống dưới con rạch, nhìn mấy con cáy ra ràng!
Hai anh em lần theo mép
nước mé rạch, tôi kéo vội Hiệp nấp vào một bụi si dại, tôi chỉ cho Hiệp một con
cò trắng đang lom khom bắt mồi dưới một dòng nước cạn. Chúng tôi nín thở, lách
gần đến chỗ con cò, để xem nó bắt mồi. Không phải cò mà là con hạc, hai cái
chân cao lêu khêu và cái cổ dài ngoẳng.
Nó không hề biết, có
hai anh chàng đang theo dõi, ngắm nhìn dung nhan của nó, rõ ràng hai cái chân
của nó run lên bần bật trong nước. Tôi lại trách ngầm nó: “Anh chàng hay cô nàng,
ra đây kiếm ăn sớm làm gì cho lạnh ?” Nhưng tôi chợt nhận ra, không phải‟ nó
run. Mỗi lần cái chân phải run bần bật, cái mỏ vàng nhọn hoắt, dài đến hai ngón
tay lại chộp lấy, chộp để trên mặt nước. Thì ra cái chân phải của nó giậm xuống
bùn cát, để xục những con mồi chạy tóe lên mặt nước, cho cái mỏ nó chộp.
Tôi chợt nhớ, ngày tôi
còn 7- 8 tuổi, có lần đi học về trên con đường làng, dọc theo con sông đào, đầy
bèo bồng. Tôi đã mải mê theo ông đánh giậm hàng giờ, chân của ông cũng giậm
giậm cái càng tre như con hạc bây giờ.
Hiệp ngửng lên nhìn
tôi, đôi mắt lấp lánh trầm trồ:
- Lần đầu tiên em nhìn
thấy!
-Ơ tù mất nhiều năm,
nên tôi cũng là lần đầu!
Hiệp nói, chỉ hơn 100
mét nữa là ra sông Đồng Nai, vì đây là cửa của con rạch. Trên đường đi, có lẽ
hình ảnh con hạc vẫn còn chen chúc trong óc của Hiệp, nên quay sang hỏi tôi:
- Có phải hạc làm chân
nến, ở đền thờ phải không anh?
- Đúng! Vì chân dài, cổ
cao, hơn nữa dáng của hạc sang và đài các hơn là cò.
Con sông Đồng Nai đã
nằm ngửa, phơi mình phía trước mặt, làn gió hè vẫn nhè nhẹ phe phẩy lá cành.
Dòng sông rộng, nhìn bờ bên kia hãy còn mờ mờ trong sương sớm, tôi chỉ mặt nước
chỗ gần bờ, phía đầu gió hỏi Hiệp:
- Hiệp nhìn mặt nước
chỗ này, hình dung và cảm tưởng ra sao?
- Như một tấm gương để
ngửa , đến nỗi chỉ nhìn mặt nước, em thấy hai con cuốc đen, đang dài cổ đuổi
nhau sang bên kia bờ.
Thấy cảm xúc của Hiệp
có dồi dào, tôi chỉ tay ra phía gần giữa sông, đầu làn gió mới tạt đến mặt
sông, hỏi tiếp:
- Còn chỗ kia?
Nét mặt đăm đăm rồi
sáng hẳn ra, nhìn tôi:
- Em thấy nó hơi nhăn
nhăn như da trái bưởi, đến mùa thu hoạch.
Vồ vập chỉ mặt nước sát
phía bờ bên kia cuối gió, tôi hỏi tiếp:
- Chỗ kia Hiệp hình
dung giống cái gì?
Không do dự, Hiệp vừa
cười vừa nói, nghe như đậu sào giá:
- Theo em, trông nó như
chiếc bánh tráng (đa), nướng già than.
Tuyệt vời! Tôi quên
béng, nên vỗ tay đôm đốp. Vừa đúng lúc một chiếc thuyền từ đầu nguồn đi sát
ngay gần bờ. Trên thuyền, phía đầu mũi có một ông cụ già và một cô gái, tường
tôi vỗ tay gọi vào, hay trêu cô gái đẹp? Ông cụ giơ tay khoắng lên như hỏi, làm
cho cả tôi và Hiệp đều giơ tay lắc lia lịa, rồi quay lại nhìn nhau cười, như
ngỗng hét gọi sao.
Thấy cảm giác phong phú
sinh động khác thường của Hiệp, một nhà khoa học rõ ràng, tôi đâm ra băn khoăn
suy nghĩ nghề nghiệp có thể khác nhau do cuộc sống, nhưng tâm hồn có thể “cùng
ngồi một chỗ, cùng đi một chiều”. Tò mò, tôi thử đi sâu hơn tí nữa, tôi quay
lại Hiệp thành thật:
- Tôi thừa nhận óc
tường tượng của Hiệp thật là phong phú, có khi nào Hiệp hình dung ngay chỗ Hiệp
và tôi, đang đứng. Trước đây, hàng trăm, hàng nghìn năm xưa đã có nhiều người
đặt chân đến, qua lại? Của nhiều thời đại, nhiều thế hệ? Từ đấy suy ra: có khi
ở giữa rừng sâu, hẻo lánh hay ở giữa thành phố tráng lệ, do những biến thiên,
loài người xã hội, chuyển đổi có khi lại là ngược lại với nhau, tang thương
vũng thành đồi?
Thấy tôi lan man đi vào
những lãnh vực không cần thiết, nên Hiệp đã kéo tay tôi quay về. Mặt trời đã
cao hơn một con sào!
Chuyến đến thăm nhà cậu
Hiệp, chỉ ngủ có một đêm, nhưng đã làm cho lòng tôi ghi nhớ mãi. Chuyến đi đã
làm cho tôi và cậu hiểu thêm nhau, và tin tướng nhau hơn.
Đã từ hàng tuần lễ
trước, sắp sửa đến ngày kỷ niệm 100 ngày của thầy tôi, do chủ trương ấp ủ trong
lòng, mỗi khi hai mẹ con ngồi bên nhau trong bóng đêm. Từ ngày thầy tôi chết,
mẹ tôi gầy hẳn đi, người ít nói hẳn. Sáng tối người ở lại ngoài nhà thờ lâu
hơn. Trước đây là hai ông bà chậm chạp lầm lũi, dẫn nhau đi nhà thờ. Buổi lễ
sáng sớm cũng như buổi chầu chiều muộn, bây giờ có khi do tôi, do Hoa, có khi
bà Chức. Cũng có ngày do một vài cô gái trẻ 16-17 trong ca đoàn dẫn mẹ tôi đi,
hoặc dẫn về.
Để phần nào thể hiện
bổn phận làm con của tôi đối với thầy tôi, và an ủi mẹ tôi phần nào, tôi sẽ xây
mộ cho thầy tôi, trong dịp tròn 100 ngày.Mẹ tôi rất vui, một buổi người dúi vào
tay tôi cái nhẫn hai chỉ, tôi bán được gần 100 đồng, cô Tuất góp 60 đồng, cô
Thu 45 đồng, đặc biệt cháu Thanh Lan cũng góp 10 đồng để xây mộ cho ông.
Tôi và cậu Quang (cháu
của Hoàng Ngọc Chính) đã đi mua gạch, cát và ciment. Tôi và Quang chẳng biết gì
về thợ nề, nhưng đã có anh Tuấn Nguyệt, anh đã làm thợ nề và làm đội trưởng xây
dựng nhiều năm, ở trong tù. Tuấn Nguyệt và Quang đã nồng nhiệt tích cực cùng
với tôi, cuối tuần này sẽ xây mộ cho thầy tôi.
Chỉ hai ngày, thứ Bẩy
và Chủ Nhật, ba chúng tôi đã xây xong ngôi mộ của thầy tôi, tương đối là hoàn
hảo, so với những ngôi mộ khác chung quanh. Mẹ tôi muốn ra tận nơi, để người
được sờ tận tay, ngôi mộ mới của thầy tôi, tôi đã làm vừa lòng người.
Một điều cũng thật là
kỳ diệu! Cây mai, từ ngày anh Tuấn Nguyệt cho, Tuấn Nguyệt đã nói:
- Từ khi anh đi tù về,
đã có cây mai này ở nhà, đã mấy năm rồi, chẳng bao giờ có hoa.
Nhà ông cụ của anh, có
nhiều loại cây cảnh. Tôi đã đèo chậu mai từ trên Hạnh Thông Tây về, và nó là
cây duy nhất trong ngôi nhà khô cằn nhựa sống, của thầy mẹ tôi. Cũng đã hơn một
năm, tôi thay chậu, bón phân chăm sóc, mỗi ngày mỗi tốt tươi, nhưng cũng chẳng
có hoa bao giờ. Đã có một lần nó ra một chiếc nụ, rồi rụng đi.
Tháng ngày trôi, cháu
Mai Lynh ra đời, thầy tôi giã biệt cuộc đời. Hôm nay sau khi xây mộ cho thầy
tôi 100 ngày, một buổi sáng, cây mai nở ra một chiếc hoa to đỏ chót. Tôi mới
biết nó là loại Mai Tứ Quý .
Cây mai đã “xấn” vào
đời tôi nhiều dấu mốc, tôi đã đứng cạnh cây mai này, để buổi đầu nối duyên đời
với em Hoa, vợ tôi và cũng cây mai này, đã có tên Mai Lynh con gái cưng của tôi
Bây giờ lại nở một bông hoa đỏ chót như chào đón tôi, như tươi cười hân hoan
run rẩy trong làn gió nhẹ, mỗi khi tôi đến gần.
Một buổi sáng chủ Nhật,
tôi đã bế con gái tôi xuống đến sát bà “Mai bốn quý”. Tôi đã cho phép tôi ghé
mũi đặt chiếc hôn đầu, lên cánh hoa đang thì mới lớn, có một mùi hương ngầy
ngậy, làm rạo rực lòng tôi. Và tôi cũng đưa dần chiếc bàn tay thiên thần nhỏ
xíu, của Mai Lynh sờ nhẹ vào cánh “bích mai” đang hơ hớ trong nắng sớm, của một
ngày.
Vào một ngày thứ Bẩy,
sắp hết giờ Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa, tôi và mấy bạn thuộc phe chiến bại đang
cắm cúi quét rác và móc lỗ cống, trước chợ Nam Hòa. Bỗng có tiếng Honda từ ngoài
Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa đường Bắc Hải đi vào. Một anh chàng đang ngơ ngác thăm
hỏi mấy người đi đường, tôi có nhìn lầm không? Rõ ràng là anh chàng Lê Hiệp,
làm sao tôi có thể tin được, vì chẳng bao giờ, tôi nghĩ tới. Tôi đã chạy xô
đến, để hỏi
- Hiệp vào đây để làm
gì?
Hiệp nhìn thấy tôi, như
tìm thấy một món đồ cậu đã đánh rơi, cậu vồ vập, dựng xe vội vàng rồi ôm chầm
lấy tôi:
- Em đang . . . đi tìm
anh? Em hỏi thăm đến ba, bốn người rồi !
Tôi cũng bấn loạn dồn
dập:
- Có ngờ đâu Hiệp lại
mò đến đây! Làm sao biết tôi ở khu vực này?
- Em hỏi bác Nhiên và
phải đến Phạm Lộc mới biết, hoàn cảnh sống của anh, vì thế em quyết định một
buổi phải đến thăm bà cụ và đứa con gái “rượu“của anh. Hơn nữa em phải gặp anh
để lấy một món nợ…………
Tôi vẫn chưa nghĩ ra,
tôi còn thiếu Hiệp món nợ gì…?.. thì Hiệp đã hạ giọng:
- Món nợ ân tình… ở
cổng Bệnh Viện Tâm Thần..anh đã khất em… một bữa khác… ấy mà ?
Mắt trái của Hiệp hơi
khép lại hai cái, tôi đã chợt hiểu và lòng thấy một niềm hân hoan nở rộ lên.
Điều này đã nói rõ nỗi khắc khoải thực sự, của một anh chàng trí thức, với quê
hương dân tộc.
Từ nãy, mấy anh cùng
phe “chiến bại” và cả cô nàng Ngọc Anh trong phe “chiến thắng” cũng đang thô lố
mắt, nhìn cảnh tôi và Hiệp gặp nhau. Chỉ còn nửa giờ nữa thì mãn giờ lao động,
tôi đã dẫn Hiệp đến cô Ngọc Anh, vừa là giới thiệu, vừa là nhân chứng xin cho
nghỉ vì có bạn ở xa tới bất ngờ. Hiệp và Ngọc Anh đã nhỏ to trao đổi, và chắc
Ngọc Anh đã minh định được, một bác sĩ trẻ cùng phe với cô nàng, chứng cớ cô
nàng đã giục tôi:
- Anh Bình hãy nghỉ
tay, cũng sắp hết giờ rồi!
Tôi cảm ơn và chào mấy
anh bạn của tôi, tôi dẫn Hiệp về trước. Hiệp đã ân cần thăm hỏi sức khỏe của mẹ
tôi, con gái bốn tháng của tôi, Hiệp đã chuẩn bị từ trước, có một số thuốc cho
mẹ tôi và con gái của tôi. Tôi đã bế con gái, để Hoa lo một bữa cơm giản dị,
cho cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa tôi và Hiệp.
Tôi thấy Hoa đã chạy
ra, chạy vào, ra chợ rồi sang cả nhà mẹ, ôm về một bó củi. Tôi chợt nhớ, củi đã
hết từ hôm qua, Hoa tất tả ngược xuôi, nhưng bữa cơm cũng chỉ có hai món: Một
đĩa tôm rang và một đĩa đậu rán. Qua thái độ và ánh mắt, Hiệp lại tỏ ra càng
đồng cảm, trong cảnh sống của tôi. Hiệp đã chậm chạp, tâm sự:
- Em rất thương bà cụ !
Một mẹ già mù lòa vì đứa con trai ra đi biền biệt, gần hai chục năm. Nay trở
về, nhưng cũng không nhìn thấy mặt con, lại mang bệnh lao phổi nặng, thương yêu
cháu mà không dám bế cháu của mình!
Chiều hôm ấy Hoa đã bế
con về bên mẹ, cho cháu chơi với bà ngoại. Tôi và Hiệp lên căn gác hẹp, cũng có
một ấm trà với bao thuốc lá Hoa Mai.
Đã từ lâu, tôi đã xác
định, càng thêm thời gian thì càng được thẩm thấu, như một phương châm hành xử:
“Cả cái tuổi thanh xuân
của một đời người, tôi còn coi nhẹ, huống chi bây giờ bất kể một việc gì, nếu
việc đó có góp phần lớn, nhỏ cho dân tộc tôi, cho quê hương tôi được tự do ấm
no thực sự, thì tôi sẵn sàng kể cả mạng sống” .
Tôi chỉ ân hận một
điều: Tài tôi hèn, trí tôi thiển, không đóng góp được bao nhiêu, trong phương
châm hành xử của tôi. Hôm nay nằm bên Hiệp, một trí thức trẻ, một mầm non đang
lớn của con “Hồng Tuộc”của thời đại, khắc khoải, băn khoăn về sự lầm than, quằn
quại của người dân, dù tôi không đủ kiến thức quán triệt, thì cứ làm được đến
đâu, hay đến đấy. Chả lẽ phải đợi cho đủ, cho chín mới làm? Tôi vẫn thấy thà
còn thiếu vẫn hơn là không làm. Tôi cũng nói rõ cho Hiệp hiểu như vậy, còn nguy
hiểm thực sự tôi không hề nghĩ đến.
Cứ cho là Hiệp sẽ báo
cáo, đầy đủ tư tưởng của tôi với lãnh đạo của Hiệp, thì tôi vẫn cứ làm. Hai
điều xấu là bị bắt vào ngục tù trở lại, điều này tôi đã làm đơn xin trở lại
rồi. Điều thứ hai là bị bắn chết, hay giết chết. Ngay từ 1962 khi tôi xông vào
bức màn sắt, tôi đã xác quyết chết đối với tôi là “hòa”vì tôi có biết cái quái
gì nữa đâu. Điều mà Hiệp băn khoăn nhiều đêm ngày là tại sao chế độ cộng sản bị
toàn dân (đa số) chán ghét đả phá, mà nó vẫn tồn tại, hết năm này lại đến năm
khác?
Để nói về vấn đề nóng
hổi, lớn lao này phải nói nhiều, diễn giải nhiều, hay viết hàng vài trăm trang
giấy mới lý giải, minh chứng được cốt lõi. Vậy tôi chỉ đưa ra một vài nét cơ
bản, rồi chính cái đầu của Hiệp, sẽ dần dần “đục đẽo” hết nó ra.
Từ cái mâu thuẫn nội
tại là tâm lý và tư tưởng của con người, càng no đủ càng tự do dân chủ, thì mâu
thuẫn này càng hằn rõ. Mâu thuẫn nội tại, là đã nằm sẵn, như một chất hữu cơ,
có tự do, dân quyền thì phải có cái đó:
- Tính đố kỵ tự nhiên
của con người.
- Cái tôi to lớn, ai
cũng tự cho mình là một trung tâm, “mục hạ vô nhân”.
- Thờ ơ, không quan tâm
những nguyên nhân xa, mà chỉ chú ý những điều sát sườn, trực tiếp: Hết gạo thì
ra sức chạy gạo, mà không chịu tìm hiểu nguyên nhân vì đâu:
- Có gạo ăn no đủ.
- Cùng cực, lầm than,
đói khổ.
Riêng ở Việt Nam của
chúng ta hiện nay (1982) ở trong nước: Một số ít người do đặc quyền, đặc lợi
thì không kể, hầu hết mọi tầng lớp người dân, đều phải sống trong cảnh lầm than
đói khổ, khẩu súng và nhà tù đã khóa miệng, bịt mắt mọi người dân. Họ đều mong
muốn đổi thay cái chế độ tàn bạo, vô nhân tính này.
Ở ngoài nước (Việt
Kiều), những người đã di tản, vượt biên chạy trốn cái chế độ phi nhơn, vô thần
này. Đương nhiên họ muốn lật đổ, thay đổi cái chế độ hiện hành. Dù cho cộng sản
là con “kỳ nhông” luôn đổi mầu, đổi sắc để tồn tại. Như vậy cái câu dậy bảo của
tổ tiên, ông cha từ ngàn xưa: ý dân là ý trời, đã không đúng nữa hay sao?
Tôi xin tạm thời dùng
hình tượng, giả dụ như sau: Tất cả những người dân Việt đều quần tụ sinh sống
trong một cái khu hẻo lánh, chung quanh có núi cao, hào sâu, chỉ có một hướng
cửa mở duy nhất, để mọi người ra vào, sinh hoạt, một hòn đá to lớn như một
chướng ngại chặn ngang lối ra vào. Mọi người trong khu, bất kể thành phần nào,
ra vào đều phải vất vả, cực nhọc trèo qua hòn đá này. Lúc đầu vì chưa hiểu rõ,
hoặc vì những quyền lợi cá nhân nên những người lãnh đạo trong khu, ra sức lắt
léo thuyết phục mọi người: Hòn đá to lớn chắn ngang càng làm cho khu ở chúng ta
thêm đẹp, thêm hùng tráng. Không những che chắn, gió độc, gió chướng mà còn ngăn
cản cướp trộm, giữ gìn an ninh, cho mọi người trong khu v.v . . .
Nhưng cũng đã từ lâu,
trải qua thực tế, hầu hết mọi người trong khu, đều thấy hòn đá bất tiện, gây
nhiều trở ngại cho cuộc sống, nhất là với giới gánh gồng, kéo xe. Ngay cả một
số người lãnh đạo trong khu, cũng đã thấy những trở ngại của hòn đá. Mọi người
đều muốn lật hòn đá ra chỗ khác. Cũng đã có một số người, một số đoàn này, đội
kia định xô đẩy hòn đá xuống hồ, xuống biển. Nhưng hòn đá to quá, không thể
làm gì được.
Đã qua và hiện nay, là
như thế. Muốn nhấc hòn đá, xô đẩy lật nhào nó xuống biển, thì tất cả mọi người
dân trong khu đều phải ra mó tay vào hòn đá. Chưa hết, khi đã hô hào được mọi
người trong khu ra cùng mó tay vào hòn đá, nhưng không cùng một lúc; khi người
này nhấc, thì người kia không, hay ngược lại thì hòn đá ấy vẫn nằm đấy. Phải có
một người, một tổ chức có uy tín, có thực lòng (đa số chỉ có ở miệng, không
phải ở tim) mọi người trong khu đã thấy, đã tin tướng. Người đó, tổ chức đó yêu
cầu mọi người trong khu ra đều mó tay vào hòn đá, rồi hô một hiệu lệnh thống
nhất: Một, hai, ba: Mọi người đều hất, đều xô thì hòn đá sẽ lăn xuống biển,
xuống hồ.
Hòn đá ấy là chủ nghĩa
cộng sản, là cái bộ chính trị, là những tên lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam
hiện nay.
Hiệp đã đứng hẳn lên,
đến ôm lấy cổ tôi, hổn hển:
- Em cảm ơn anh!
Khi ấy đã 10 giờ! Đêm
hôm đó, mẹ con Hoa ở bên bà ngoại, Hiệp vẫn không muốn nằm chiếc giường duy
nhất, anh chị Hiền cho mượn trong dịp cưới. Hiệp thích tôi trải chiếu xuống sàn
gác, để cùng thường thức cảnh đời của giai cấp vô sản. Trước khi ngủ Hiệp còn
thì thầm như nói với chính mình:
- Chuyến đi đáng đồng
tiền bát gạo!
Hơn một tuần sau, vợ
chồng Lộc+ Liên xuống chơi. Lộc cho biết, qua sự giới thiệu của Nguyễn Hữu Lợi,
biết là tôi muốn “oversea”. Hiện nay, Phạm Lộc kết hợp với một vài người nữa,
bí mật tổ chức một chuyến đi cho chính mình. Lộc đã biết điều kiện, hoàn cảnh
nghẹt thở của tôi, chỉ riêng một mình tôi, nếu đồng ý đi thì chuẩn bị. Nếu đắm
tàu, hay cướp biển chết cả, thì có gì để nói, nếu thoát ra tới ngoại quốc phải
thanh toán, cho vợ chồng Lộc + Liên ba cây vàng.
Nếu tôi chưa được tiếp
xúc trước đây với Lộc+ Liên, đã hiểu lòng tự trọng và danh dự của nhau, và nếu
không có sự giới thiệu của Lợi, chẳng bao giờ có sự thỏa hiệp với một điều kiện
lý tưởng như thế ở giai đoạn ấy. Chẳng nói thì ai cũng biết là tôi đã gật đầu
đồng ý, đến “sái” cả cổ. Hôm nay tâm tình bằng những bàn tay “xòe” nên tôi được
biết Phạm Lộc, không phải là con trai của bác Nhiên. Do bối cảnh loạn ly của
đất nước, Cao Xuân Huy là anh cùng mẹ khác cha với Phạm Lộc. Vì vậy, chuyến đi
sẽ có cả Cao Xuân Huy, dự trù vào cuối năm 1982.
44.
THĂM MỘ CỤ NGÔ LẦN HAI
Lộc sẽ liên lạc, báo trước cho tôi hàng tuần, để tôi chuẩn
bị. Qua một số hiện tượng, tôi hiểu đây là chuyến đi thực sự chứ không như
chuyến thứ hai, tôi mất công thấp thỏm một đêm trong bụi cây găng già. Vì đã đi
hụt hai chuyến, nên tâm tư của tôi vẫn lặng lờ như đất trời, có thể nắng và
cũng có thể mưa, nhất là thời gian ấy, chẳng phải chuyến đi nào cũng đến bờ.
Tuy vậy với Hoa, người
vợ hiền thương yêu của tôi, do điều kiện ngặt nghèo tôi không thể đưa được vợ
con đi, để nếu có làm mồi cho cá thì cũng vui lòng cùng nhau. Ngược lại, thành
công thì cùng được thở hít bầu không khí tự do, đúng với kiếp sống của con người.
Đã phải nhiều đêm,
nhiều lúc tâm tình, khích lệ, động viên, trang bị tư tưởng cứng rắn chịu đựng
cho Hoa. Dù trong hoàn cảnh nào, cũng phải can trường đứng thẳng, bằng chính
đôi chân của mình. Cũng do hoàn cảnh đẩy xô của dòng đời, và bối cảnh đau thương
của dân tộc, đời tôi đã lăn lóc trong bãi rác và bùn lầy, nên tôi muốn con gái
của tôi, cũng phải có ý chí nhẫn nại, chịu đựng những bão tố của cuộc đời. Từ
những tâm ý này, những lần tôi chơi đùa với con gái 5 tháng tuổi, tôi đã tập
dần, tung con tôi lên cao, rồi bắt lấy như một quả bóng. Mẹ nó nhìn thấy, đã
nhiều lần hết hồn, kêu thét lên. Từ ăn, ngủ hay chơi bời đều với tâm ý rèn
luyện của tôi. Thâm tâm tôi, mong muốn sau này con tôi, dù có được bọc trong
nhung lụa, nếu cần nằm đất, bờ cát, cũng là chuyện bình thường.
Quan điểm của tôi vẫn
muốn, ít nhất là những người thân của tôi : ”Là hạ sĩ hay sĩ quan nhưng phong
cách, hành xử là người lính”. Tôi rất đả phá lối “người lính tính quan”.
Còn người mẹ khốn khổ mù loà, nhưng tôi càng kính yêu người
hơn. Đã nhiều lúc, nhiều đêm tôi ngồi ôm mẹ tôi hàng giờ, có những lúc để dòng
nước mắt rỉ chảy vào tim, nhưng cũng có nhiều lúc giàn cả ra mặt. Nhìn đôi mắt
của người hoắm sâu vào, tôi đã thấy tôi bé nhỏ lại, như ngày còn thơ ấu. Tôi
nhớ tôi đã có cảm giác: Ngôn ngữ trên thế gian này không còn, hay không có một từ nào đủ
để nói được cái bao la, êm dịu, lồng lộng nhân từ thương yêu của đôi mắt người
mẹ.
Nhưng bây giờ, người
phải chịu đựng khổ đau biết chừng nào, không làm sao nhìn được con trai vì
thương khóc nó nên bị mù. Qua ánh điện chiếu vào màn, nhìn mẹ tôi gục đầu thiểu
não, một nỗi xót xa héo hắt từ trái tim bầm tím của tôi rỉ chảy ra, tôi đã ôm
lấy cổ mẹ rên rỉ:
- Mẹ có biết con thương
mẹ nhiều lắm không mẹ? Con thương mẹ hơn là thương đời con!
Người xoa đầu tôi như
ngày tôi còn bé, nhưng người không nói một lời. Tôi đã thong thả thưa với người
chi tiết buổi nói chuyện với Phạm Lộc.
Người nghe tôi trình
bày chuyến đi sắp tới với Phạm Lộc, người đã nói với tôi những lời mà tới nay
và cho tới khi tôi lìa đời tôi vẫn không quên:
“Mẹ mù loà, cô đơn,cần
con lắm! Vợ dại, con thơ của con cần con lắm! Nhưng con phải đi, ở dưới nhà
nước này, con chỉ là con trâu, con ngựa.”
Con xin kính vâng theo
lời mẹ! Con rất tự hào, trong huyết quản của mẹ có truyền thống trinh liệt của
bà Trưng, bà Triệu. Con quỳ xuống kính cẩn lạy mẹ!
Đã từ lâu, từ cái ngày
tôi đến kính viếng thăm mộ Cụ Ngô và ông Nhu ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi đã hơn
một năm rồi, tôi đã có ý định khi có thời gian tôi sẽ đến thăm các người một
lần nữa. Nhưng con Hồng Tuộc nó quần thảo tôi như chong chóng, chả còn thời
gian nào. Kỳ này lỗ mũi của tôi đã được tháo ra một bên, mỗi tuần trình diện có
một lần nên cuộc sống đã thong dong, thoải mái đôi phần .
Tối khuya hôm qua, đạp
xe từ ga (xe lửa Biên Hoà đi Sàigòn) về tới nhà, em Hoa vẫn chờ tôi ở cửa như
mọi khi . Hoa nói ngay:
- Thứ tư, anh Tuấn
Nguyệt dẫn một anh là Mạc Lịch lại thăm anh. Có chào mẹ và bế Mai Lynh.
Thật là vui. Mạc Lịch
là dân sport, dân “thổ công” của Hà Nội, cũng đã được ra chiếc lồng to, bây giờ
lại ở Sàigon nữa. Tôi định hôm nào có thời gian, sẽ lại thăm anh. Tôi và Lịch
có nhiều kỷ niệm ở trong tù. Nhưng, ngày mai thứ bẩy không lao động XHCN, tôi
đã có chủ trương sẽ lên nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi viếng Cụ Ngô.
Lần này, tôi muốn mang
cả vợ lẫn con gái của tôi đến chào và thăm viếng hai vị. Tôi đã dặn Hoa: Chúng
ta không có điều kiện, vậy chỉ cần mua hai cái hoa hồng, hai cây nến và hai cây
nhang là đủ rồi. Các vị cần tấm lòng chứ đâu cần lễ vật?
Đã chuẩn bị từ hôm
trước, sáng thứ bẩy, với “ông” bạn già thủy chung, mẹ con Hoa ngồi ở yên sau,
hướng về nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, tôi “giấn” bàn đạp. Trên đường đi nghe con
gái í óe phía sau với mẹ nó, tôi có cảm tưởng, dù tôi là kẻ chiến bại, không
còn một cuộc sống bình thường như mọi người; tôi vẫn gồng gánh bảo bọc được cho
vợ con tôi, một gia đình nhỏ bé trong cuộc đời này.
Trời hôm nay hơi đùng
đục mầu sữa đặc, cổng nghĩa trang còn mờ mờ trong sương sớm. Sau khi gửi xe,
tôi ôm con gái, Hoa ôm nhang, nến và mấy cánh hoa hồng còn trong bọc giấy. Một đàn
sáo đá năm, sáu con đang ríu rít trên cổng, đều cúi xuống hót toen toét như một
điệu kèn mở màn cho ngày hội, khi chúng tôi bước vào. Nhìn những ngôi mộ to,
nhỏ xây cao thấp mập mờ trong làn sương mỏng, tôi nhớ đến một ý thơ:
….Ở đây sương khói mờ
…. nhân ảnh……
Lòng tôi cũng nao nao
về kiếp nhân sinh, trong cõi thế tình. Mặt trời đã thức dậy, những ngọn cây
vàng ửng lung linh, lắc lư, cả khu nghĩa trang như được lọc hết những sương mờ.
Hơn hai chục con sếu cổ dài, từ hướng Đông bay đến ngọn cây thông đầu đàn, kêu
quàng quác, như đội quân cảnh đang điều hành giữ an ninh trật tự, cho ngày hội.
Trời cũng trong xanh hẳn lại. Phía Tây Nam từng đống mây trắng, đang đùn lên
như một đám cháy rừng.
Đã có ý niệm từ lần
trước, tôi dẫn vợ con tôi ngoằn ngoèo tiến về phía hai ngôi mộ. Khí hậu êm ả
trong làn gió nhẹ, đột nhiên ồn ào như tiếng thác chảy đầu ghềnh, một đàn cò
trắng đến hơn ba chục con, tranh nhau đậu xuống hai cây muỗm già, ở phía đầu
hai ngôi mộ. Chẳng biết chúng bàn tán gì mà cứ kêu: Cò… Cò… cò… inh ỏi. Cây
muồng đã đội cái xuân nửa chừng, phía bên trái cũng có đám con chèo bẻo ở đâu
mới mò đến. Cái loại chèo bẻo này, lúc nào cũng ra vẻ chính nhân, trông mặt thì
mô phạm, nghiêm trang nhưng trong lòng, thì chứa nhiều uế khí.
Trong khi Hoa đang cắm
bông, đốt nến, thắp nhang ở hai ngôi mộ, tôi đặt con gái của tôi lên chiếc nắp
bằng, ngôi mộ cụ Ngô, để mặc cho nó lân la, bò trên ấy. Tôi đi vặt những nhánh
cỏ may, mọc trườm ra, hết mộ cụ Ngô lại sang mồ ông cố vấn. Tôi ôm con gái của
tôi, đứng bên cạnh vợ, bắt đầu làm dấu thánh giá, nguyện kinh, theo thủ tục tôn
giáo.
Thật là lạ kỳ, một đàn
năm con bồ câu từ mãi phía mặt trời mọc, sà đến cây bằng lăng, ngay đầu ngôi
mộ. Chúng rúc mỏ vào cánh của nhau, rồi cùng nhìn xuống chúng tôi, đầu chúng cứ
gật gù , miệng kêu : hù hù . . . . .lù . . . . . . hì, nghe như nốt nhạc mở đầu
của một bài ca “Tôi yêu “:
Tôi yêu…..quê tôi…..yêu
mãi…bây giờ càng yêu.
Yêu chim bay qua…mang
đến tin mừng thái hòa.
Yêu anh, yêu em, yêu
nước, yêu trời gần xa
Và yêu mối tình nở
hoa….ngàn năm không hề phai nhòa
Chẳng hiểu từ một nguồn
cảm thầm kín nào, tôi nghe chim câu gù, lại ra bài ca của Trịnh Hưng, từ ngày
còn cụ Ngô. Rồi óc tôi nhớ, mắt tôi nhìn rành rọt một buổi cụ Ngô và đoàn tùy
tùng, đến đặt vòng hoa trước đài chiến sĩ trận vong năm 1956. Tôi nhớ nguyên
văn lời cụ Ngô:
“Chúng ta thành kính, nghiêng mình trước anh
linh các chiến sĩ quân dân chính, đã bỏ mình vì chính nghĩa, để kiện toàn cuộc
cách mạng giải phóng con người.
Ngô Đình Diệm”
Hôm nay tôi cũng thành
kính, nghiêng mình trước anh linh của cụ và ông cố vấn. Tôi là người có tội với
dân tộc, xin cụ và dân tộc tha tội! Nếu rồi đây tôi có chui vào lòng biển cả,
xin cụ và ông cố vấn để một con mắt, đến vợ con và người mẹ mù lòa, của tôi.
Hoa quay lại tôi, giọng
đẩy thắc mắc:
- Sao ở đây, có nhiều
chim thế hở anh?
Tôi định nói: “Anh cũng
thấy lạ !” nhưng tôi lại nói như giải thích:
- Trong nghĩa địa nhiều
cây, lại yên vắng nên chim thường hay đến nghỉ ngơi, chuyện trò.
Hai con bướm trắng xanh,
như hai bông hoa nhài thời con gái, từ đám cỏ úa vàng phía sau mấy ngôi mộ lớn,
bay đến. Chúng khỏa cánh dập dờn quanh chúng tôi, rồi một con đậu vào cái lẵng
đựng đồ của mẹ con Hoa, đang để dựa vào thành mộ cụ Ngô. Một con khỏa một vòng
nữa, rồi đậu ngay vào đầu bé Mai Lynh. Đôi cánh thong thả mở ra, khép vào như
một bàn tay vỗ về con gái tôi. Nhìn Hoa đang mở to mắt, ngắm con bướm trên đầu
Mai Lynh, lòng tôi bỗng co lại lượn lờ vào cõi siêu hình.
Tôi ôm Mai Lynh, không
dám cả thở mạnh, vì con bướm chỉ cách mặt tôi, chừng hơn gang tay. Tôi nhìn rõ
hai chấm vàng và đỏ cạch, hai bên cánh, một mùi hương hoa thiên lý vung lên rắc
đều, trộn lẫn với khói nhang, thành một cái hương vừa thần bí, vừa man mác
thanh cao. Con Lynh hình như cũng cảm nhận, thấy có cái gì ở trên đầu, nó rút
bàn tay bé xíu ở túi áo ngực của tôi, ngọ ngoạy giơ tay lên đầu. Tôi muốn bảo
con tôi, bỏ tay xuống, nhưng mãi cũng không thể phát ra lời. Hai con bướm đã
như hẹn, cùng bay lên, theo nhau đảo một vòng về phía chúng tôi, rồi cùng bay
trở về đám cỏ vàng, phía mấy ngôi mộ lớn, như những chiếc đền, chiếc miếu con.
Mặt trời đã lên gần
đỉnh đầu, một tay bế con, một tay kéo sát Hoa lại và hướng vào hai ngôi mộ, đều
cúi đầu nói to:
- Chúng tôi kính chào
hai vị!
Hoa đã nhắc từ lúc đi,
khi về phải ghé vào nhà ông Cả Nhưỡng mua thuốc đánh răng, vì đã hết hai ngày
rồi. Loại thuốc ông tự pha chế, giữa xà phòng và vôi bột, cứ hai đồng một lọ
sành con.
Từ ngày tôi về, cũng
chả quen biết gì chuyện đánh răng, vì đã quên béng từ dạo trong tù. Nhưng từ
ngày đón Hoa về, cô nàng bắt ra nhà ông Cả Nhưỡng, mua loại thuốc vôi với xà
phòng phát minh trong nhân dân này. Tôi phải ngoan ngoãn chấp hành sự điều hành
của “nội tướng”. Nàng còn khoe, chiều nay sang bà Cần lấy hai kí mì vụn xuất
khẩu, nàng đã mánh mung móc ngoặc từ hàng tuần lễ trước. Tôi chỉ nghe, thực tế
tôi chưa được thưởng thức cái món mì xuất khẩu, nó ra làm sao. Thế mà chiều nay
tôi sẽ được đã đầy … mà ngây ngất, dù là vụn vẫn còn hơn là không biết gì.
Chưa có ăn, nhưng viễn
tưởng đã như một ngọn “thu phong” cuối hè ùa vào lòng. Mới tới cửa nhà, Hoa đã
nhẩy xuống đưa con cho tôi, rồi nàng ghé sang nhà bà Cần ngay. Tôi ôm con vào
trước đưa cho bà, rồi ra dắt “ông” bạn đứng dựa tường từ nãy đi vào.
Chỉ thoáng nghe tiếng ọ
ẹ của cháu, mẹ tôi đã vén màn, mặt người tươi roi rói, người vội vàng lấy chiếc
khẩu trang đeo vào. Đã từ hơn một tháng trước, Hoa phải đạp xe sang bệnh viện
Hồng Bàng, để hỏi bác sĩ chuyên môn: “Mẹ tôi bị bệnh lao phổi, người quá thèm
khát bế cháu, có cách gì giải quyết được, không bị lây nhiễm cho cháu?” . Ông
bác sĩ chuyên môn, dặn chỉ cần rất đơn giản: “Trước khi bế cháu phải rửa tay xà
bông, và đeo khẩu trang! Tuy vậy cố gắng hạn chế “bế cháu”.
Từ dạo ấy, mẹ tôi đã
giải quyết nỗi bức xúc của người, mặt của mẹ tôi có sinh khí hẳn lên. Hoa cũng
rất băn khoăn về vấn đề này, nhưng tôi khích lệ và xoa dịu:
- Em thông cảm với mẹ,
người chả còn sống được bao lâu nữa!
Thậm chí, tôi đã nói
thầm cả với con gái của tôi:
“Con chịu khó làm vui
lòng bà, Chúa sẽ ân thưởng cho con sau này”.
Khi tôi đã dựa “ông”
bạn vàng vào phía trong cửa sổ, quay lại, thì một tay người bế cháu, một tay
người móc túi đưa cho tôi một lá thư, ngoại quốc. Lá thư từ Cali (Mỹ), do một
bà bạn của mẹ tôi, tên là Lưu.
Đọc lá thư giản dị vài
dòng, nhưng đã làm cho lòng tôi bồi hồi xúc động. Như vậy tình người, tình quê
hương hãy còn thấm đượm như thế ư? Một bà vợ của một ông trung tá, di tản từ
1975. Bà này là khách hàng quen biết của mẹ tôi, từ ngày mắt của mẹ tôi còn
sáng, bán hàng tấm ở chợ Nam Hòa, rồi cho tới khi mẹ tôi bị lòa, vì nhiều đêm
ngày khóc thương đứa con trai cả đi… đi mãi không về với mẹ.
Người bạn đó, vẫn một
lòng, đến từng nhà thương thăm hỏi, cho tới khi mẹ tôi bị mù hẳn ở nhà. Bà ấy
đã nhờ chồng, lái xe đến nhà để thăm hỏi, giúp đỡ mẹ tôi, những tháng năm còn
dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Bây giờ nơi xứ người,
hẳn sau những tháng năm ngơ ngác tảo tần đã tạm thời ổn định, bà vẫn chưa quên
người bạn lòa ở quê nhà. Bà ấy gửi về một chút quà, để nói lên phần nào tấm
lòng của bà ấy với người bạn bất hạnh này. Chừng nửa tháng sau, có giấy báo từ
Cục Hải Quan Tân Sơn Nhất, để mẹ tôi ra lãnh đồ. Lần đầu tiên từ ngày đất nước
sang trang, mẹ tôi có quà ở ngoại quốc gửi về.
Trước ngày tôi đi nhận
quà, nhà hết gạo, củi, con không có tiền mua sữa hộp. Cứ mỗi tuần con tôi uống
một hộp sữa đặc “Ông Thọ” để bồi dưỡng, theo yêu cầu của chuyên môn. Con gái
tôi bị suy dinh dưỡng cấp 2.
Bấn quá! Tôi đã lục lọi
nhiều thứ, cái gì có thể đổi thành gạo, thành củi ở trong nhà. Hoa đã phải nhặt
nhạnh dần, đưa ra chợ trời Tân Bình, từ cái búa, cái kìm, vài cái bát, cái nồi,
phích nước. Hôm nay còn cái áo “veste” của thầy tôi, người đã cho tôi khi còn
sinh thời, như một gửi gấm cho đứa con trai, còn lại trên cõi đời.
Chính vì tôi thấu hiểu
ý nghĩa tấm lòng của người, nên dù tôi thiếu đói, cũng quyết giữ lại như một di
vật của tình phụ tử. Nhưng giờ đây, con gái tôi thiếu thuốc, không sữa trong
suy nhược, tôi làm sao duy trì được sự quyết tâm trước đây? Đã mấy đêm trăn trở
giằng co với chiếc áo, tôi chưa mặc một lần, để rồi sáng hôm nay, tôi phải đưa
cho Hoa, ra chợ Tân Bình.
Hai bố con ôm nhau, với
căn nhà rỗng không còn gì để bán và hai cái bụng cũng rỗng, như căn nhà. Phải
nói là ba cái, hẳn người mẹ lòa của tôi, cũng chẳng khác gì bố con tôi, và cả
người mang chiếc áo đi! Tôi thương Hoa quá! Vì đẻ con nên đã bỏ việc, vì người
mẹ mù lòa, bệnh tật và vì anh chồng không có tài xoay xở. Anh chồng đó lại bị
con Hồng Tuộc quấn chặt trong vòi của nó, nên cũng đã buộc chặt cả đời Hoa.
Khoảng quá trưa, mãi
gần 2 giờ Hoa mới về. Tâm trạng của tôi ngồi ôm con chờ Hoa, nỗi khắc khoải chờ
mong thấp thỏm, như ngày tôi còn bé nơi quê nhà, ngoài miền Bắc mong mẹ của tôi
về chợ. Thoáng một tiếng động cửa, một bóng người thoáng qua, cánh cửa sổ dưới
nhà, một nguồn nóng ấm lại trào ra trong cõi lòng heo hút vắng lạnh. Đời trai
ngang dọc, để rồi giờ đây ngồi ôm con bất lực, than vãn ư? Nỗi niềm vơi đầy cứ
gậm nhấm đay nghiến, dằn vặt, vò xé trái tim đã rỉ máu, của tôi.
Một chiếc áo vét, thầy
tôi mới mặc một lần, Hoa mang đi, chiều Hoa mang về 1 kí 5 gạo, và một hộp sữa
Ông Thọ, không còn đủ tiền mua thuốc an thần cho mẹ. Dù gì cũng cảm ơn Hoa, một
cô nữ sinh lớp 11, bây giờ phải ngắc ngoải đứng ở chợ trời. Càng ghi nhớ công
ơn những tay chân của ông già không vợ, nhưng nhiều con rơi, đã vào “giải
phóng” cho đồng bào ruột thịt miền Nam, đói khổ.
Trưa hôm nay, tôi từ
bên khu Thanh Đa chỗ vợ chồng Lợi, đạp xe về, thấy một chiếc xe đạp lạ dựng bên
ngoài cửa. Vào nhà tôi còn nghi ngờ cả mắt tôi. Lầu Chí Chăn to lớn (người
nhái) đang ôm đứa con gái sáu tháng của tôi. Như thế Chăn đã được về do áp lực
của Quốc Tế. Gia đình Chăn, đã bồi dưỡng u hề cho Chăn, bên Chợ Lớn gần hai
tháng rồi, mặt của Chăn hây hây hưng phấn như con hổ, vừa thoát ra khỏi chuồng.
Chăn chỉ còn mẹ và các
anh ở cây da sà Chợ Lớn. Một điều hơi đặc biệt, Chăn ghé tai tôi nói nhỏ: “Chế
độ Việt Nam Cộng Hòa đã trả tiền tử tuất, nhưng gia đình Chăn do khá giả nên
còn giữ nguyên vẹn cho tới ngày bất chợt, Chăn được trở về”. Chăn rất thương
cảm con gái nheo nhóc của tôi, và hẳn từ sớm, Chăn đã thăm hỏi mẹ tôi, Hoa và
cũng đã nhìn rõ cảnh sống nhiều ngõ hẹp của tôi.
Hoa cũng thật tài ba
đảm đang xoay xở, nàng đã chạy vạy ở đâu ra hai quả trứng vịt, để có một bữa
trứng tráng già lửa, thơm phức cả nhà. Trong bữa cơm duy nhất, chào mừng người
bạn tù mới xổ lồng. Ngoài trứng chỉ có món mắm tôm chưng cố hữu, món ăn phù hợp
với bà đẻ ăn kiêng, mẹ tôi bệnh phổi, mù lòa cũng phải ăn kiêng và tôi lại cũng
thích ăn kiêng trường kỳ.
Cảnh đời của tôi, đã
nhiều đêm ngày đẩy đưa tâm tư của tôi trở về, cảnh đời của “chị Dậu”, bà phó
Đoan, cô Loan, anh Vọi và cậu Điệp v. v … Chả trách gần đây, tướng Trần Độ, ông
Phạm Quế Dương, Trần Dũng Tiến phản kháng bộ chính trị và trung ương đảng cộng
sản đòi cho bằng được: Để người dân được sống , được hưởng như cảnh đời của
người dân, dưới thời thực dân Pháp thuộc, cách đây gần một thế kỷ?
Chăn đã làm tôi ngạc
nhiên, lúc ra về, Chăn đã rút túi lấy tiền, đút vào tay đứa con gái sáu tháng
của tôi, một tờ giấy bạc to nhất mới ra, của nhà nước: 100 đồng. Để thấy giá
trị của 100 đồng lúc ấy: Cái áo vét còn mới của thầy tôi, ra chợ Tân Bình chỉ
được 17 đồng, đủ mua hộp sữa và lkg 5 gạo. Tôi đã dứt khoát từ chối, dù là tôi
không có tiền, nhưng Chăn đã nói rõ ràng:
- Tôi không đưa tiền
cho anh chị! Đây là tiền của một ông chú, cho đứa cháu gái! Anh chị không có
quyền từ chối! Chỉ có nó, nhưng nó đang cầm, với đôi mắt long lanh vui mừng!
Nhìn tờ giấy 100 đồng
con Mai Lynh đang mân mê cầm, tôi liên tưởng đến hình ảnh Lầu chí Chăn, chui
vào kho vẹc-ni múc ra một ống bương veni, gần hai lít, ở trại trung ương số 1
Lào Cai. Và gần nhất, Chăn đã khênh cả một bao tải lạc (đậu phụng) trong kho,
của trại Thanh phong, Thanh Hóa.
Ăn cướp chứ không cắp,
trộm lèm nhèm! Hai hôm sau, tôi đi lĩnh được một hộp quà, của bà bạn mẹ tôi, ở
Tân sơn Nhất, gồm hai chục mét vải “soa” đen may quần, hai chục mét vải
popeline trắng để may sơ-mi, hai lọ thuốc lao phổi. Đặc biệt có một “tuýp”
thuốc đánh răng Colgate, loại kem đánh răng quý báu, có thể chữa được chứng đau
bụng “khan “, nghĩa là không phải đau bụng đi ngoài (lỏng).
Rất nhiều anh em, kể cả
những anh chàng tu sĩ, chủng sinh, người dân tộc, khi bị đau bụng bất thường,
trại không có thuốc, bấn quá đã lấy thuốc Colgate uống, mà lại khỏi. Và rồi sau
đấy, cứ đau bụng nhiều người uống khỏi, để trở thành thuốc đau bụng thần diệu,
ở trong tù.
Cho nên trong cuộc sống
chuyện gì cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Người ta vẫn nói: “phúc bất trùng lai,
họa vô đơn chí “, nhưng kỳ này, tự nhiên Lầu Chí Chăn mang đến cho 100 đồng,
rồi người bạn của mẹ, từ mãi bên Mỹ lại gửi cho quà.
Tôi chạy ra nhìn bông
hoa mai Tứ Quý đỏ chót, đang lắc lư, rung rinh với gió. Một ý tướng mơ hồ, lảng
vảng vào tâm hồn tôi: “Có còn niềm vui, niềm may mắn nào nữa không? Xin thỉnh
cầu!” Kỳ này, chúng tôi mua được một số thuốc cho mẹ, trước đây không đủ tiền
mua, cháu Lynh cũng thế, sữa hộp được tăng cường lên hai hộp một tuần. Em Hoa
và tôi cũng “bốc” với hương đời một tí, cho nên chúng tôi dám thưởng thức những
con cá chiên nóng đòn, những quả cật, qủa tim, lòng heo còn tươi rói.
Bữa cơm, nhìn mẹ tôi ăn
những miếng thịt kho tàu mà hằng năm, người không nghĩ đến, ruột tôi nở ra
từng khúc. Trông nét mặt người hân hoan, lòng tôi mát dịu như được đón nhận làn
gió sớm mùa xuân, dù rằng số tiền bán mấy chục mét vải cũng chả được bao nhiêu.
Vả lại, “tiền vào nhà
khó, như gió vào nhà trống” nhưng trong cảnh mẹ, con và vợ như những cây rừng,
lâu ngày nắng hạn, cằn cỗi, tại sao có chút nước, lại cất đi, để dành?
Chỉ hơn một tuần sau,
tôi nhìn mẹ tôi, nhìn con, nhìn vợ tôi và ngay tôi đã có khí sắc như mọi người.
Cảnh sống bươn chải cực khổ, lầm than thì gia đình nào cũng vón cục lai, kể cả
anh em, ruột thịt, bạn bè, ai cũng phải tự lo để tồn tại.
Một buổi chiều tối vợ
chồng Phạm Lộc đến báo cho tôi biết, chuyến đi sẽ vào ngày 26-11-1982. Đúng 2
giờ chiều sẽ đón tôi tại một địa điểm, trên đường Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận.
Chỉ còn hai ngày nữa để chuẩn bị. Theo yêu cầu của mẹ tôi, và cũng là ý định
của tôi, ngày mai tôi sẽ dẫn mẹ tôi, vợ con tôi ra thăm mộ và đọc kinh, cho
thầy tôi.
Hôm sau Hoa cũng phải
lo mua một cây nến, ba nén nhang và một bông hoa hồng. Chẳng biết ý tưởng của
tôi thế nào, tự nhiên tôi vào bếp lấy con dao ra, tôi chọn, tìm một cành mai
đưa ra cho thầy tôi. Có thể khi ấy, tôi nghĩ tới những ngày người còn ở với mẹ
con tôi, cả tới khi tôi đã cưới vợ. Tôi thường thấy thầy tôi đứng ngắm nghĩa
cây mai thật lâu, sau mỗi lần người làm một điếu thuốc lào. Tôi đã chọn một
cành mai, tôi ưng ý nhất, cắt mang ra mộ, gọi là thể hiện tình người con trai
hẩm hiu, đối với phụ thân trước khi ra đi vào đại dương nhiều bão tố, và nhiều
những sự việc không biết trước.
Hoa bế con, một tay tôi
xách chiếc lẵng có cành mai, nến, nhang và một đóa hồng tươi duy nhất. Giống
như thăm mộ cụ Ngô và ông cố vấn. Một tay tôi dắt người mẹ bất hạnh của tôi,
chúng tôi bồng bế, dắt díu nhau lần mò ra nghĩa địa Nam Hòa. Mới có hơn ba
tháng, từ ngày xây mộ, thế mà hôm nay, cỏ đã mọc um tùm. Tôi để mẹ tôi ngồi ghé
trên mộ, tôi dọn sạch cỏ chung quanh, cả mấy ngôi mộ bên cạnh, hàng xóm của
thầy tôi. Hoa vừa bế con, vừa thắp nhang đốt nến, mùi nhang lẫn vào cỏ tươi vừa
mới vặt, tôi có cảm tưởng là mùi của thầy tôi, sau mỗi lần người hút thuốc lào.
Một điều cũng hơi một
chút lạ, tôi thấy như có sự trùng hợp, khi chúng tôi râm ran đọc kinh, theo
nghi thức tôn giáo. Một con bướm trắng có hai cái lông mào trên đầu, đỏ như cái
mầu bông mai Tứ Quý ở nhà, con bướm cứ lượn lờ đến mấy vòng quanh ngôi mộ. Hai
chiếc cánh trắng như đôi mắt con nai rừng, cứ nhắm vào rồi lại mở ra nhìn tôi trừng
trừng. Tôi đã ôm lấy mẹ tôi, tay người lần hạt, miệng người vẫn mấp máy đọc
kinh, nhưng hai dòng lệ lại giàn chảy ra, từ đôi mắt hoắm sâu của người.
Tim tôi như muốn ngừng
lại, niềm xúc động cuồn cuộn tràn ứ, làm mờ cả mắt tôi. Tôi nói hết làm sao được
lòng thương yêu, của tôi với người. Người sẽ phải vĩnh viễn, sống trong đêm tối
! Âm thanh càng đào, càng khoét, càng quấy, chọc trái tim quắt queo, như chiếc
lá môn khô già, đang thối rữa của người. Mẹ ơi! Con thương mẹ lắm! Óc của tôi
ngắc ngoải tiếng gọi đó, nhưng miệng của tôi không phát được ra thành lời.
Hôm nay, không những
tôi kính chào, từ biệt thầy tôi nằm dưới mộ, tôi cũng kính chào từ biệt người
mẹ mù lòa, tôi hiểu tôi ra đi trái tim của người càng tàn lụi, thối rữa thêm vì
nhớ thương. Nhưng mẹ tôi đã thể hiện quyết tâm rồi, người còn đủ sáng suốt để
phân định, giữa nghĩa nước và tình nhà.
45.
RA KHƠI LẦN THỨ BA
Vì Hoa muốn đưa tới nơi, họ đón tôi ở Nguyễn Huỳnh Đức, nên
từ hôm qua Hoa đã nói trước với mẹ Hoa giữ dùm cháu ngoại Mai Lynh. Hoa đã dẫn
xe đạp ra ngoài cửa đứng chờ, mà tôi còn ôm mẹ tôi, chưa muốn rời tay. Tôi
ngoái nhìn mọi đồ vật trong nhà một lần nữa, vừa bước ra tới cửa, lại nghe
tiếng mẹ gọi giật lại:
- Bình, con ơi! Cho mẹ
cắn con một cái!
Quay vào, mặt mẹ tôi
tươi roi rói hấng mãi ra, nhưng mẹ có nhìn thấy tôi đâu? Mắt tôi đã mờ đi vì
nước mắt lại dàn ra, tôi đã ôm chặt cổ mẹ, và áp má vào mặt mẹ. Mẹ đã ghì chặt
tôi hơn và người cắn vào má tôi. Tôi đau nhưng lòng rủn ra, tim tôi như bị ép
lại, người tôi như muốn xiêu đổ. Để rồi Hoa phải quay vào, cũng nước mắt dầm
dề, kéo tay tôi đi ra. Đã ngồi lên xe đạp, tay tôi còn sờ má, chỗ mẹ vừa cắn,
lòng tôi vẫn còn hổn hển chưa thở được bình thường.
Tôi đã đèo Hoa ra Ông
Tạ, đến một tiệm vàng, chiếc nhẫn trơn duy nhất một chỉ vàng, đã từ lâu tôi vẫn
cất ở trong bóp. Chiếc nhẫn này, từ một cây vàng do chị Hai Công cho, tôi còn
cất giấu. Tôi phòng hờ, bị công an hay du kích bắt, đút cho nó mà chạy, từ
chuyến vượt biên lần thứ hai không thành.
Tôi đã giữ chiếc nhẫn,
như giữ bàn tay của tôi. Nhưng hôm nay, trong cảnh này, vợ dại con thơ, mẹ mù
lòa còn ở lại, tôi đã đưa cho Hoa, phòng để cứu chết. Hoa đã gục đầu vào lòng
tôi, nước mắt vơi đầy, đầu lắc quầy quậy. Hoa nói trong nức nở không rõ lời:
- Anh ơi! Anh đi đầy
nguy hiểm, như chuyến anh Lợi, cả tàu bị bắt, anh lấy cái gì để xoay xở? Anh
hãy cầm đi!
Tôi hiểu, chỉ vì lòng
thương tôi, nên Hoa đã quên cả thân mình, quên luôn cả người mẹ mù lòa và đứa
con 7 tháng rưỡi. Là một người chồng, một người cha và một người con trí thiển,
tài hèn, nhưng tôi cũng không đờ đẫn đến nỗi quên, cả trách nhiệm và bổn phận.
Hai bên cứ khăng khăng
từ chối cũng chỉ vì nghĩa, vì tình. Cuối cùng chỉ còn một giải pháp dung hòa,
đó là lý do tôi dẫn Hoa đến một tiệm vàng ở Ông Tạ. Tôi đã nhờ người thợ, cắt
chiếc nhẫn ra làm hai. Sau khi cắt, Hoa đã chộp lấy một phần non, phần của tôi
đưa lên cân là 5 phân 3, như thế phần của Hoa là 4 phân 7, mỗi bên đều giữ kỹ ở
trong người. ông thợ cám cảnh của một đôi vợ chồng nghèo, ông đã dõng dạc:
- Tôi không lấy tiền
công, của anh chị!
Mới gần 2 giờ, trời còn
nắng chang chang mà xe cộ ngược xuôi trên đường Thoại Ngọc Hầu, vẫn còn nườm
nượp người đi. Một đám mây hồng rừng rục đỏ, đang đùn lên từ phía đường Trương
Minh Giảng. Hai chú ngỗng trời trắng toát, vươn mãi hai chiếc cổ dài kêu oét .
. .oét, sà thấp như đuổi theo Hoa và tôi quẹo vào Nguyễn Huỳnh Đức, để rồi
chính Hoa đã vỗ vào lưng tôi, nói nhẹ:
- Hai con chim như nó
bay theo mình. . . . .anh kìa !
Từ sớm, tôi lơ mơ cứ
tưởng do ảo xúc của tôi, nhưng giờ tôi đã hiểu, đó là thật! Tôi còn ngửng hẳn
đầu lên nhìn hai con ngỗng trời, miệng lẩm bẩm:
- Xin chào và cảm ơn
các bạn!
Đến chỗ hẹn vẫn còn sớm
gần hai chục phút, nơi đó cũng chả xa nhà thằng Đạt. Để Hoa đứng tại chỗ chờ,
tôi vội vàng 5 phút ghé nhà Đạt, nếu gặp thì thay cho lời chào. Vợ chồng anh
chị Đạt đều đi chạy chợ, chỉ có cháu Thủy và mấy đứa em nhỏ. Không ngờ, gặp lại
cháu Thu Thủy từ chuyến đi bị bắt cả tàu. Thủy là con gái mới được tha gần một
tháng, sau khi bị giữ 8 tháng ở trại Gáo Dừa Minh Hải. Cháu Nguyễn Đức Thắng là
con trai (dù 16 tuổi) vẫn còn bị giam giữ, với nhiều người khác ở cùng tàu.
Cháu Thủy mới từ trại tù ra, nghe tôi chào để ra đi, cháu đã rối rít đòi đi
theo nữa.
Do lòng háo hức ra đi
như một con chim non, chưa mọc cánh mà đã đòi bay. Muốn đi phải hẹn trước, hàng
tháng, ngay đến vợ con của tôi, mà cũng đành bỏ lại. Nhưng việc này, tôi không
quên được cháu Thủy, chỉ vì cháu lại đề nghị:
- Chú ơi! Chú hãy đổi
cái áo với bố cháu, thì có thể lại thành công?
Lưỡng lự, không tin
lắm, nhưng tôi đã chiều theo ý cháu Thủy, nói vội vàng:
- Chú cần chiếc áo càng
cũ, rách càng tốt!
Tôi đã hấp tấp vừa cài
cúc, vừa phóng xe trở lại điểm hẹn, cũng vừa lúc chiếc xe đò đông người, chờ
bắt đầu chuyển bánh. Tôi chỉ còn kịp bỏ ông bạn thủy chung của tôi lại, cho Hoa
và ôm chặt Hoa, để còn kịp trèo lên xe với nhiều tiếng giục giã:
- Lên đi! Cho kịp giờ,
đón người khác!
- Chúng tôi đã chờ 5 phút
rồi !
Tôi chỉ biết xin lỗi,
vì một việc ngoài ý muốn! Xe đi đón hai người nữa rồi, một mạch phóng ra phía
Vũng Tàu.
Trên xe đã có 16 người,
không kể bác tài, một anh hơn 30 tuổi tên là Tuyến, bên ngành sư phạm, là bạn
của Phạm Lộc, đón khách ở đường giây này. Từ lúc lên xe, có một cậu mặt mũi
sáng sủa, nhìn tôi trong ánh trao đưa nhiều thiện cảm, một luồng lãng tử giao
cảm của mắt tôi, đã trở thành gần gũi, cậu là Bùi Thiện, một chủng sinh trở về
đời. Qua đồn Cỏ May xét hỏi giấy tờ xong, xe hướng về vùng Chu Hải. Đến một
trũng của một rẻo đước già, xe ngừng lại. Theo sự dẫn đường của một ông hơn bốn
chục, cao và gầy. Trong đoàn có vài người phụ nữ, cứ lếch thếch lầm lũi đi sâu
xuống cái trũng.
Mặt trời đã chui dần
xuống đám cây xanh ở phía Tây, càng đi cây rừng càng rậm rạp, không còn phân
biệt được phương hướng. Đến một cái lũng thưa cây, ông cao gầy căn dặn:
- Các vị ngồi nghỉ nơi
đây, chờ bắt với đường dây khác. Phải chờ, cho tới khi tôi trở lại!
Tôi kéo cậu Thiện đến
một gốc cây to đổ, nằm nghiêng. Được biết bây giờ là lúc thủy triều xuống,
triều lên thì vùng này ngập cả. Chừng một giờ sau ông Cao gầy trở lại, dẫn theo
một đoàn cũng hơn chục người. Đã 8 – 9 giờ tối, cả đoàn người lại theo ông cao gầy
đi tiếp, người này theo người kia, trượt ngã oành oạch, tiếng í. ..óe của mấy
cô gái và đàn bà ré lên đây đó, rồi lại chìm nghỉm vào màn đêm. Ngoài cậu
Thiện, tôi chẳng phân biệt ai với ai? Lạ thật! Trời lại rạng dần, à ra cô Hằng
16 đã lấp ló nhìn chúng tôi qua những cành lá, mặt của cô tròn vành vạnh (trăng
16 tròn hơn trăng rằm) và mát rượi, đăm đăm nhìn chúng tôi di chuyển.
Ông “cao gầy” lên tiếng
từ phía người đi đầu, rồi người này truyền đến người kia:
”Hãy rảo chân, đến một
khu đất cao, còn gần một cây số nữa, nước triều đã bắt đầu lên! “
Càng rảo chân thì càng
mệt, tiếng ót . . . oét của phụ nữ lại càng oét . . . .ót hơn. Đúng là lên như
nước thủy triều, vừa chạy qua thì nước đã ngập lên rồi. Lo chạy nước thủy
triều, quên béng cái rình rập, chặn bắt của CA hay du kích địa phương. Mãi tới
khi đến một mảnh đất trồi lên như một con bơn, cây cối rậm rạp um tùm.
Theo ông cao gầy, thì
đây là chỗ nằm nghỉ, để liên lạc đón thuyền. Chỉ qua một vài hiện tượng đưa,
đón, liên lạc, tôi đã cảm thấy người tổ chức chuyến đi này có khá nhiều kinh
nghiệm, nhất là lại vào một đêm trăng tỏ.
Thông thường những
chuyến oversea tổ chức vào những đêm tối trời. Người này đã làm trái với những
quy luật thường tình. Ngay cả hải quan, CA hay du kích thường rình mò, nằm ếm
chỉ chú ý vào những đêm tối, đầu hay cuối tháng. Những đêm rằm sáng tỏ là lúc
chúng nghỉ ngơi, đi tìm những hưởng thụ.
Mỗi người, mỗi nhóm tự
tìm lấy chỗ nằm thích hợp cho mình. Qua tôi và Thiện, tôi tin rằng tuy nằm nhắm
mắt, nhưng chắc chẳng một ai ngủ được. Tôi không hề nghe thấy một tiếng ngáy có
chăng chỉ là những tiếng thì thào của lá rừng, tiếng tỉ tê, róc rách của sông
nước chuyện trò. Đôi khi, một tiếng cú rúc dài, như tù và cầm canh ở một điếm
chòi, xa xa vọng đến.
Cô Hằng đã về sớm, để
hẹn hò với bồ bịch, da trời đã đổi mầu, từ tím đen sang mầu nước biển về chiều.
Tôi đã nhìn rõ những lá rừng to, nhỏ vẫy tay chào nhau buổi sáng. Tôi còn đang
gửi hồn vào mông lung, thì mấy cậu thanh niên đã hớt hãi chạy đến, tôi cũng
choáng người bò nhổm dậy. Ba, bốn cậu choai choai 15-17 rối rít chỉ trỏ, vào
mãi phía trong rừng:
- Ong vò vẽ, chúng cháu
chạy thoát thân, hàng đàn ong đuổi đốt chúng cháu, gần đến đây!
Cậu thì giơ tay, giơ
mặt sưng đỏ lên như những quả táo dầm, tôi buồn cười vì các cậu cũng như tôi
hồi nhỏ. Tò mò, sục sạo, lại đi trêu vào những tổ ong, để mặt mũi sưng tếu. Ông
cha mình vẫn nhắc nhở, như cảnh giác đàn con: ” Muốn béo (mập) thì ghẹo ong bầu
“. Như một luồng điện tín: ” Nơi đây có tổ ong, cũng có nghĩa vắng người! không
có tụi áo vàng hay lui tới, rình rập “. Tôi hỏi một cậu:
- Có gần đây không? Tổ
ong có to không?
Hai, ba cậu đều rối
rít:
- Gần đây thôi, chú ơi!
- Tổ to lắm, trong một
bụi mây rừng!
Trải qua những lần mặt
bị sưng tím khi còn nhỏ, tôi lục trong tay nải, xé mấy miếng giẻ rách, đút túi
quần, rồi theo các cậu đi sâu vào rừng. Lội qua mấy dòng chảy, vì nước đã lên,
lách vào một khu toàn mây và song rừng.
Còn bé, tôi nhớ một
lần, có một tổ ong rất to lủng lẳng trên một cành đa già, chùa làng bên. Cành
đa nằm dài, sà xuống ao chùa, tôi và một thằng bạn, công trình nối buộc hai
cành hóp dài đến 4 mét, lấy hai chiếc áo cũ trùm kín mặt, mò mẫm khẽ trèo lên
cành đa.
Tổ ong vàng to như một
quả mít hai ký, ong vàng đai đen (vò vẽ) bâu kín cái tổ như lông nhím. Từ xa
tôi và thằng bạn, nhẹ nhàng lách thò chiếc que tới, định đẩy đứt cái cuống tổ,
cho nó rơi xuống ao chùa. Nhưng trời ơi! Đàn ong bị động, chúng ùa ra theo
chiếc que, túm vào tay, vào cổ tôi đốt. Người tôi nhói, buốt, tê cứng ra, nên
rớt xuống ao chùa, cao hàng chục mét.
Tôi chìm nghỉm, hàng
chục con ong vẫn bay trên mặt nước, chờ tôi. Tôi vừa ngoi đầu lên mặt nước để
thở, chúng túm lại châm, đốt, tôi lại phải lặn xuống nước. Nhưng rồi lại phải
nhô đầu lên, vì không thể nín hơi được nữa, trong khi chúng vẫn là là trên mặt
nước . Mấy ông sư trong chùa chạy ra quát ầm ầm:
- Lặn xuống? Lặn xuống!
Cả thằng bạn của tôi
cũng đang trối chết như tôi ở trong ao, đàn ong đuổi cả các ông sư, để châm
đốt. Các ông sư cũng chạy thoát thân vào trong chùa đóng cửa lại. Tôi vừa mệt,
người lại nhức buốt, cứ phải lặn dưới nước thì sẽ chết. Trong lúc ý chí tự tồn
của con người trỗi dậy, tôi chợt nghĩ ra một cách, trước khi nhô đầu lên, hai
tay tôi hất tung nước lên túi bụi. Ong có cánh bị ướt rơi xuống nước ngay, mà
rơi xuống nước thì chết, không thì cũng làm mồi cho cá.
Trước khi chết, ong
giẫy dọn vùng vẫy như chiếc mồi nhử, cá đớp liền. Đàn ong trên mặt ao, còn con
nào cũng tháo chạy, bay về tổ. Ngay từ lúc thấy nước hữu hiệu, tôi đã gào gọi
bạn tôi làm như tôi. Tóm lại nước đã cứu chúng tôi, ong đốt chỗ nào, thì nhúng
nước ngay, nó sẽ giảm sưng, giảm buốt, nếu nhiều con đốt sẽ làm sốt, nóng lạnh.
Bốn cậu dẫn tôi đến một
chỗ, đều đứng lại, chỉ trỏ vào mãi phía trong, giữa đám mây già:
- Tổ ong ở trong đó !
Tôi hiểu các cậu vẫn
còn chờn, sợ ong. Nhìn còn xa hàng 7- 8 chục mét, tôi quay tìm một cành cây
thon, dài gần 3 mét, một mình tôi lầm lũi tiến vào. Quẹo mãi tới một bụi mây
già rậm rạp, to um tùm, tôi khẽ len lỏi tiến vào. Từ 5 – 6 mét, tôi đã nhìn
thấy tổ ong, hình nó như cái loa kèn, đầu nhọn, ở dưới loe ra, những con ong
vàng, chen chúc nhau bâu kín. Nhẹ nhàng, tôi rút mấy miếng giẻ trong túi, quấn
chặt vào đầu chiếc cành mang theo.
Ong kỵ nhất là khói và
lửa, tôi bật quẹt đốt đầu giẻ, khi lửa cháy, có khói, tôi từ từ thò vào phía
dưới tổ ong, tôi đưa dần, đưa sát, ong như vỡ tổ, bay toán loạn, tôi huơ khói
và lửa. Còn dăm mười con cố thủ chịu trận liều chết, không muốn bỏ đám con ở
trong tổ. Nhưng ong làm sao khôn bằng người, nên cuối cùng đã bay chạy hết. Tôi
lần mò, kiễng chân với lấy tổ ong, tổ ong nặng chịch, to như cái bát chiết yêu,
đầy nhóc những con nhộng ong. Tôi đường hoàng cầm tổ ong to đi ra, trước những
con mắt mở to của các cậu.
Cậu Thiện lúc này cũng
đã mò đến, tôi hỏi các cậu có muốn thường thức, món nhộng ong không? Khó có
chất tăng lực nào bằng, cậu Thiện lắc đầu, sợ không dám ăn, bốn cậu kia mừng ra
mặt. Còn một chút giẻ, tôi bẻ mấy cành khô, đã có một ngọn lửa nhỏ, đủ hơ chín
cả tổ ong, tôi xé cho bốn cậu một nửa, còn phần tôi một nửa. Món này tôi vẫn
thích từ nhỏ, bây giờ tôi lại đang cần bồi dưỡng, để chuẩn bị với những trận
say sóng, cố hữu của tôi.
Chuyến đi này cũng có
một điềm lạ, tôi đã được bồi dưỡng một tổ ong, ngay ở chỗ nằm ếm, trước khi
khởi hành. Mặt trời đã lên đến một con sào, ông “cao gầy” mới dóng dả mọi người
theo ông, đi ra thuyền.
Xa xa ở một vụng bãi,
một con thuyền to với cánh buồm nâu tươi nhọn hoắt đang nhấp nhô, lắc lư như
đầu một chiếc bút lông đang vẽ, viết lên nền trời xanh lam. Con thuyền buồm duy
nhất, nhấp nhô một mình trong bến vắng. Đoàn người, lần lượt lên thuyền, hơi ngạc
nhiên, tôi ghé hỏi nhỏ ông cao gầy:
- Thuyền có máy không
vậy ông?
Ông cười nhẹ, rồi lườm
tôi, xong cũng nói nhỏ:
- Tình báo mà phải hỏi!
Tôi quay lại, nhìn ông,
mí mắt trái tôi cũng hơi động đậy. Ông này là ai, mà đã biết về tôi? Tôi cũng
hiểu luôn, ông này đã đánh giá về tôi sai lầm. ông tưởng tôi đã biết, nhưng
thực sự tôi chưa hề biết gì cả, nếu có chăng chỉ là một chút phản xạ tức thời.
Thuyền có máy! Qua cách ông hỏi và ông lườm tôi, nếu ông bình thường, tôi phải
hỏi người khác nữa hay người chủ tàu.
Mặt trời như một bóng
đèn pha cực mạnh, thỉnh thoảng lại ló mặt ra nhòm, sau những tảng bông gòn lổn
nhổn, hỗn độn. Đoàn người lần lượt chui xuống hầm thuyền, mỗi người, mỗi gia
đình tùy theo tìm một chỗ cho mình, một tiếng khàn khàn dõng dạc phía mũi
thuyền:
- Hãy căng buồm lên?
Tiến?
Đã biết nhược điểm của
mình. . ., ngay những giờ đầu phải quan sát cảnh vật. . . ..được ít nào, sóng
lùng của sông nước sẽ đè tôi nằm bẹp. Nghĩ thế, tôi bò ra sát chiếc cửa sổ con,
ở mé thuyền.
Một đôi chim hải âu
trắng toát từ phía bên kia bờ, xoải cánh đến đậu ngay trên đầu chiếc cột buồm,
kêu en….ét, như chào, như tiễn biệt con thuyền viễn xứ. Buồm căng gió, con
thuyền tiến dần, rồi rẽ nước tiến chui về phía trước. Tiếng bì bạch của sóng
nước, vỗ vào mạn thuyền, nghe mơ hồ như dư âm của bài Thuyền Trăng vương vãi,
vào gió mặn:
Gió đưa… con thuyền dạo
chơi…xứ thơ…
Thuyền hỡi… nhớ về cùng
bến….mong chờ.
Thuyền lướt theo gió
chừng nửa giờ, bỗng một tiếng phì dài nghe như tiếng xì hơi của xe lửa Thống
Nhất, làm nhiều người đều ngửng đầu nhơ ngác. Có tiếng nói nhỏ phía cuối
thuyền, rót vào trong gió:
- Cá voi !
Tôi thò đầu, ngoái hẳn
ra ngoài: phía bên kia chừng hơn 100 mét, hai đuôi con cá voi to như hai chiếc
quạt giấy khổng lồ, mầu trắng xám dựng ngược, đang chìm dần xuống mặt nước.
Những tiếng phì phì phun ra những luồng hơi nước trắng xóa trên sóng nước. Lần
đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy, có một cụ già giọng khào khào:
- Đấy là điềm may!
Tiếng phì phì cứ đeo
đẳng, hình như mấy con cá voi đang nô đùa đuổi nhau, theo con thuyền. Bóng ông
cao gầy từ sàn trên đi xuống, nhiều người đều hướng mắt về ông; có lẽ ông thấy
sự băn khoăn của mọi người, ông nói nhè nhẹ:
- Đàn cá voi con!
Thuyền đã ra cửa biển!
Đột nhiên có hai phát
súng từ phía xa réo lên, làm xanh mắt mọi người. Ông cao gầy chạy vội lên sàn,
đóng cửa, tôi liếc nhanh phía bên ngoài, một chiếc ca- nô từ góc xa bên kia,
đang chĩa mũi tiến về phía con thuyền. Nhiều tiếng quát tháo ở sàn trên:
- Bỏ lưới ra !
- Kẻo càng cản ra!
- Hạ lưới xuống!
Chiếc ca nô đã đến gần,
chỉ còn khoảng gần 200 mét, mặt ai cũng trắng bạch ra, tôi chuẩn bị tư thế làm
lại như chuyến trước ! Ở đây chỉ cách bờ hơn trăm mét! Chiếc ca- nô chỉ còn
chừng hai, ba chục mét, tôi đã trông rõ 7- 8 tên CA biên phòng, đeo súng ống lố
nhố.
Giữa cái phút giây ranh
giới tù đày và tự do này, thì phía xa bên kia bờ sông, có một chiếc thuyền đang
lao vút ra phía cửa biển. Mấy tên trên chiếc ca- nô chỉ trỏ về phía chiếc
thuyền lạ, rồi chúng quay mũi ca nô về chiếc thuyền lạ phía xa, khi chiếc ca-nô
quay mũi, thì chỉ cách thuyền buồm còn hơn chục mét, tôi đã nhìn rõ hai ngôi
sao trên một vạch vàng, của một tên mặt bèn bẹt như lưỡi xẻng, xúc phân heo.
Hẳn chúng đã nhìn rõ
chiếc thuyền buồm đánh cá, nếu có thời gian thì chúng cũng lên hoạnh họe hỏi
giấy tờ. Vòi, moi, tí chút cà phê, thuốc lá, nhưng lại có con thuyền đang vùn
vụt chạy máy ra khơi, chúng phải bỏ cái ”bóng” để bắt cái ”mồi “. Hiểu chuyện,
thì cả chiếc thuyền buồm phải cúi đầu tạ ơn chiếc thuyền lạ ” cứu tinh “.
Tôi vẫn tin đời là kỳ
diệu!
Khi chiếc ca-nô chạy xa
chừng hơn 100 mét, thì những giọng quát tháo, hò hét lẫn lộn luồn vào trong gió
lộng.
- Căng buồm theo gió !
- Kéo cản và lưới lên!
Ông cao gầy lại mò
xuống sàn dưới, lần này ông đến gần khu giữa, cúi xuống nhấc một cánh cửa mở
ra, ông thò đầu xuống hô
- Mở máy lên!
Con thuyền như rùng
mình, rồi vùn vụt tiến ra khơi! Thật là nhịp nhàng kết hợp giữa nghệ thuật, nỗ
lực của con người với sự giúp đỡ thần bí của đất trời. Tôi chợt thấy, nếu vì lý
do gì bị chết máy, như lần trước, thì cánh buồm vẫn chậm chạp đưa thuyền đến
bến. Một ý nghĩ phảng phất: Con thuyền này thân với thằng Lợi, biết đâu chả có
ý kiến của nó, cho chuyện cánh buồm này?
Gió biển khơi càng
lộng, buồm càng căng phồng ôm gió mặn, tiếng máy rù rì lẫn vào sóng nước, như
một bản cộng hướng giữa khoa học và thiên nhiên, giữa cánh buồm và công suất
của máy, con thuyền rẽ sóng đi vùn vụt. Mấy người ở sàn trên chuyện trò, bàn
tán đã rắc lọt qua những kẽ hở, xuống dưới hầm:
- Chẳng một tàu CA
nào, đuổi kịp chiếc thuyền này!
Phần vì đã tạm yên
lòng, phần vì các bà thần sóng đã bắt đầu hành tôi. Người tôi nôn nao, chẳng
cần biết nước, trời ra sao nữa, tôi nằm vật vào một góc thuyền mê man. Đã chuẩn
bị sẵn, nên tôi không dám ăn uống hàng giờ, trước khi lên thuyền. Hai chiếc túi
giấy, luôn để sẵn trong tay nải, thế mà tôi vẫn nôn thốc, nôn tháo, mật xanh,
mật vàng vào túi giấy hết, tôi chẳng còn ý niệm giờ giấc, ngày và đêm. Tôi nằm
lịm đi chẳng biết là bao lâu, mở mắt ra, người nằm mà cứ lắc lư như đua võng.
Tiếng gió, tiếng sóng và tiếng máy thuyền rì rì, chả hiểu con thuyền đã đi được
bao lâu?
Đã có những bài học từ
những lần say sóng trước, tôi lục tay nải lấy hộp sữa đặc, tôi mút một ít sữa
lấy lại sức. Sàn thuyền nằm la liệt đầy người. Tôi mút thêm tí sữa nữa, quấn
gọn chiếc tay nải, rồi tôi mò lên sàn trên, bầu trời đêm tím ngắt như hoa sim
đầu mùa Thu. Đồng hồ chỉ hơn hai giờ, gió biển lạnh thốc vào mặt, làm tôi tỉnh
ra hơn. Buộc chặt chiếc tay nải vào người, tôi trèo hẳn lên sàn thuyền, sóng
bạc đầu trắng xóa, đột nhiên một đàn cá đen xì, to như những con trâu mộng cứ
nhào lộn đuổi theo con thuyền, một cảm giác huyền bí lạnh xương sống xâm chiếm
hồn tôi. Tôi tưởng như những con quỷ biển đang đuổi theo để bắt, để nuốt những
sinh mạng trong con thuyền nhỏ bé giữa đại dương bao la, bí hiểm.
Hàng chục con, vật lộn
với những lớp sóng bạc đầu, gần đuổi kịp con thuyền. Có một con đen trũi, to
như con voi ”ma-mút ” nhào tới sát đuôi con thuyền kêu en ét….hồng hộc, kéo dài
như còi tàu hỏa: Nghe như tiếng rú gào của quỷ biển, đòi “nộp mạng”. Một luồng
gió lạnh rót vào xương sống, làm người tôi nổi gai ốc! Thật lạ lùng, cảm giác
của tôi giống như đã có lần, trong chuyến đi thuyền thằng Lợi, gần hai năm
trước. Tôi đinh ninh tất cả những sinh mạng trong con thuyền, đã đến giờ phút
chôn vùi, trong lòng đại dương huyền bí này.
Cảm giác tâm lý của con
người, cũng kỳ diệu! Cũng những con cá này, nhìn chúng ở Aquarium, ở những hồ
bơi trong thành phố, chúng như một món hàng ngộ nghĩnh, hiền lành, để ta đùa
vui chiêm ngưỡng. Nhưng trong lúc này, thấy chúng huyền bí, có nhiều quyền lực
linh thiêng làm chúng ta chết và sống! Tôi vẫn coi thường sự hiểm nguy coi cái
chết là ” hòa “, vì có còn biết gì đâu mà sợ? Thế mà lại lạnh xương sống, nổi
da gà trong lúc này?
Trong ánh sáng mập mờ
của biển khơi, của trời rộng, rõ ràng, tôi nhìn thấy một con chim đứng co ro
trên cái chạng ngang, đầu cột buồm. Có phải con chim không? Tôi không tin ở mắt
mình! Chung quanh chỉ có nước với trời, làm gì có con chim nào, lại đậu ở trên
thuyền?
Như một luồng điện
nhoáng lên trong óc tôi! Đúng rồi! Nó là một trong hai con hải âu ở vùng Chu
Hải Vũng Tàu, đã đến chào tiễn biệt con thuyền viễn xứ này mà? Vậy còn một con
nữa ở đâu? Không biết cho đến giờ đã mấy ngày đêm rồi? Rõ ràng nó chẳng có cái
gì ăn, uống, chẳng được nằm, cứ đứng chịu lạnh trong gió lộng suốt đêm ngày.
Lòng thương cảm giàn ra, tôi muốn gọi nó xuống, tôi sẽ vào hỏi bà con trong
thuyền kiếm cho nó chút lương thực, nhưng tôi loay hoay không biết cách nào để
nói chuyện với nó. Sao nó lại không biết đây là một con thuyền vượt đại dương?
Có phải nó đến chào con thuyền? Một người bạn nữa đã đi đâu? Hàng chục điều,
tôi muốn hỏi nó mà đành câm nín.
Người tôi vẫn lao đao,
cồn cào với con thuyền lắc lư, nhưng vì tình thương con chim, nó còn đang phải
chịu đựng những cái khó khăn, mà chính tôi không thể gánh chịu được. Chính vì
niềm lắt lay với con chim, bệnh say sóng của tôi đã giảm đi rõ rệt.
Tôi nhìn, ở mãi góc gần
buồng hoa tiêu, có một cái thang nhỏ chừng hai mét. Lảo đảo tôi mò đến, tháo
cái thang. Khi dựng vào cạnh cột buồm, con thuyền cứ nghiêng ngả, ngay cái
thang không, cũng còn không đứng vững, nếu trèo lên thì sẽ đổ ngã.
Đổ ngã ở đây là xuống
biển chơi với mấy con cá đang đợi chờ. Hơn nữa với con mắt ước lượng, dù có
trèo lên thang thì cũng không tới con chim, vì lòng cảm xúc với con chim đang
gặp cái khó khăn nghiệt ngã, nên tôi cứ định trèo lên để cứu nó.
Tôi đã lướt qua, không
lượng định hết những điều, tôi không thể làm được:
- Không thể trèo được,
trong khi con thuyền nghiêng ngả.
- Có trèo được, cũng
không với tay tới.
- Nó có đồng ý để tay
tôi, cầm vào người nó hay không?
Từ nãy, tâm trí của tôi
để hết vào chuyện con chim. Một người từ sớm, trong phòng hoa tiêu đã theo dõi
mọi hành động của tôi. Anh ta đã lách ra từ phòng hoa tiêu, cầm theo một thanh
gỗ dài gần hai mét, lom khom đến gần tôi, chỗ cột buồm. Chính là cái anh chàng
cao gầy đã lườm tôi một lần, khi tôi hỏi “thuyền có máy không?”. Gió bắt đầu
lộng thêm, rồi có mấy tia chớp lằng nhằng, vạch ngang dọc ở một góc trời (tôi
chả còn biết là hướng nào). Những tiếng nổ gầm ghì, rung rinh cả biển, lẫn
trời.
Lộp độp những hạt mưa
to tướng gõ vào sàn thuyền, như đàn gà mổ thóc trên cái nia. Trời như bị rách,
rạn ra, do sấm chớp, nước đổ xuống ào ào, mưa như trút nước, tôi chưa thấy mưa
nhiều và to hạt như vậy trên đất liền.
Con thuyền càng chồm
lên, ngả nghiêng, nhưng anh chàng cao gầy vẫn đặt cái thang vào cột buồm, rồi
ghì đè chặt, tiếng anh quẩn vào hạt mưa:
- Tôi giữ, anh trèo lên
đi!
Lại có một người nữa
không ngại mưa gió như mình, tôi đã cầm lấy thanh gỗ và nhìn xuyên mưa, vào mắt
anh. Tôi không nói ra lời, nhưng tôi tin anh đã hiểu, tôi muốn nói qua ánh mắt:
“mưa gió không cản trở chúng ta được”. Bản thân tôi cũng không ngờ, mưa và gió
đã làm cái bệnh say sóng của tôi, từ từ giã biệt tôi
Con chim càng giúi đầu
vào cái khe cánh buồm, ướt như chiếc giẻ dúng vào thau nước, nó đờ đẫn mê dại
không còn cái rụt rè sợ sệt, của một con chim. Lúc đầu tôi đưa thanh gỗ đến, nó
không hiểu, nên như muốn tránh, có thể sau nó đã hiểu ra, hoặc ” cu cậu ” chả
còn cách nào khác nên đã ngoan ngoãn bấu chặt vào đầu thanh gỗ tôi đưa đến. Tôi
đã ôm nó vào người, như muốn sưởi ấm cho nó, nhưng tôi quên mất là người tôi
cũng ướt chẳng khác gì nó.
Tôi và con chim, đã
theo anh cao gầy vào phòng hoa tiêu. Trong phòng, có một bác gần sáu mươi tuổi,
qua ánh mắt và đôi cánh tay đang điều khiển con thuyền, đã nói lên phong độ con
người của bác, và một thanh niên trẻ gần hai mươi, là con trai của bác. Tôi
lạnh và con chim cũng lạnh ướt, anh cao gầy cũng ướt át dẫn tôi xuống hầm máy,
để sưởi và thay quần áo. Ngoài trời biển vẫn sấm chớp mưa rơi tầm tã, nửa giờ
sau con chim đã tỉnh dần, cu cậu thoáng nhìn cái cóng gạo tôi đưa đến, đã mổ
lấy mổ để, chẳng cần đợi tôi mời. Tôi muốn hỏi nó:
- Mày là con trai hay
con gái?
- Ở vùng Chu Hải chúng
mày muốn đến chào tiễn chúng tao đi hay chính chúng mày cũng muốn vượt biên?
- Người bạn của mày, vì
sao bỏ lại mày một mình?
Còn nhiều câu hỏi nữa,
nhưng tôi đành chịu chết, tự suy đoán mà hiểu.
Bây giờ thì tôi đã
biết, con thuyền đã đi được hai đêm với một ngày rưỡi, với sức máy và cánh buồm
kết hợp, qua anh cao gầy, con thuyền có thể đi hàng chục hải lý một giờ. Khi
sưởi ấm ở cạnh máy thuyền, tôi được biết anh cao gầy là Trần Ngọc Nghĩa, anh là
đại úy, binh chủng mũ đỏ, với mầu mũ này anh đã vùng vẫy ngang dọc trên khắp
bốn vùng chiến thuật. Đơn vị của anh là mũi dùi cởi vòng vây An Lộc, anh đã bị
thương nhẹ một lần, và anh cũng nằm ấp hơn sáu năm. Điều lý thú là anh cũng đã
từng ở trại T 52 Hà Sơn Bình, anh mới được ra tù đầu 1982. Lúc đầu gặp anh, ở
khu vực nằm ếm Chu Hải, tôi và anh lạnh lùng, tưởng không ưa nhau. Nhưng chính
do con chim hải âu vượt biên, là một giây nối, để rồi có điều kiện cùng sưởi
quần áo, trong hầm máy với nhau. Anh đã thân quen với vợ chồng Phạm Lộc+ Liên,
nên hẳn anh đã biết một chút về tôi như Phạm Lộc. Vậy với những điều Phạm Lộc
biết về tôi, để nói chuyện với Nghĩa. Một điều lý thú nữa, Nghĩa ở trường sĩ
quan trừ bị Thủ Đức ra, tôi vội hỏi, ra trường năm nào và học khóa nào? Nghĩa
nói với vẻ mặt tự hào, hơi một thoáng đăm chiêu:
- Tôi ra trường cuối
1963, học khoá 12.
Tôi không thể ngờ Nghĩa
lại ở khóa sát tôi, ít ra cũng cùng một mái trường, dù tôi chỉ hơn một tuần lễ,
nhưng tôi đã không hề đề cập vấn đề này với Nghĩa.
Chỉ ngày hôm sau, con
chim đã quen với người. Có người cho nó ăn, cái này, cái khác. Thậm chí mấy đứa
nhỏ cho nó ăn cả kẹo, con chim mến người, có lúc nó lên cả sàn thuyền, nhưng nó
vẫn không bay đi! Tôi chợt nghĩ: Nếu nó có muốn bay, thì bay đi đâu? Chỉ có
trời với nước, hơn nữa ở lại, có đủ thức ăn cho nó sống. Còn một điều nữa: ”
Tôi nghĩ thầm” Đã cùng là người tỵ nạn trên một con thuyền, phải gắn bó sống
chết với thuyền, như mọi người.
Một buổi trưa, tôi chìm
vào một giấc ngủ bù mê mệt, chẳng biết bao lâu, có người lay tay tôi dậy. À con
chim! Chiếc mỏ mầu lá mai già cứ ngậm vào ngón tay cái của tôi, cắn nhẹ rồi lại
cắn liên tục, nó như có ý muốn ngả nằm cạnh tôi. Tôi dịch lại, và nó đã nằm sát
ngay bụng của tôi, một hơi ấm lăn tăn chuyền qua giữa chim và người.
Mắt nó vẫn mở trừng
trừng như đeo kính, con ngươi của nó mầu hồng hơi hung đỏ, giữa một vòng mầu
vàng bắp chín không động đậy. Tôi cũng chưa biết hải âu ngủ có nhắm mắt không? Mắt
tôi dìu xuống, lơ mơ, dòng tư tưởng của tôi vẩn vơ về con chim, cứ cho là nó
cũng có ý vượt biên đi ra ngoại quốc như chúng tôi.
Chúng tôi rõ ràng là vì
chính kiến ngược chiều với lũ cầm quyền, vậy nó thì vì sao? Tôi không thể tìm
ra một lý do nào khác, ngoài vấn đề kinh tế, một xã hội quá đói khổ, con người
còn vật lộn tìm cái ăn, còn đâu có thừa thãi cho chim? Một ý tường chợt lóe
lên, nó cũng vì chính trị nên đã vượt chạy ra nước ngoài.
Khi người dân thiếu
đói, nếu thấy chim, hay bất cứ con vật gì đều tìm cách bắt hay bẫy, ráo riết
hơn, cuộc sống của chúng nó cũng không yên lành. Tôi mở mắt ra nhìn con chim,
mắt nó vẫn thao láo không động đậy, nhưng cái nhìn của tôi bây giờ là nhìn một
sinh vật đồng cảnh tị nạn, khác với những ngày trước. Tôi chợt nhìn xuống lưng
phía cánh phải của nó, bị cháy xém đen một đám. Tôi bò giựt dậy, làm con chim
cũng thức đậy đứng lên.
Tôi nhìn quanh, không
hiểu ai đã làm con chim bị cháy thế này? Nhiều người nhìn tôi, có hai cậu thanh
niên, lách người tiến đến, một cậu nhìn chỗ cháy xem của con chim, rồi quay lại
tôi:
- Chúng em xin lỗi, khi
nãy vô tình vất một cái tàn thuốc lên lưng nó, nằm góc kia. Khi có khói, chúng
em dập ngay, chỉ xém mấy cái lông, người nó không sao!
Tôi vạch chỗ đó, thì
quả như vậy, hơi buồn, nhưng tôi đã ca ngợi các cậu là những người có lòng tự
trọng, có bản lĩnh, dám nhận cái lỗi, dù nhỏ của mình.
Tôi ôm con chim mò lên
sàn thuyền, mặt trời đã ố vàng ngả dần xuống mặt nước về hướng Tây. Trên sàn
lúc này cũng có nhiều người, có thể con thuyền đã đi được 4 – 5 ngày, đã nằm
ngoài hải phận Quốc Tế, không sợ tàu Hải quân cộng sản nữa.
Niềm hy vọng đã thập
thò, le lói ra từng khóe mắt của mỗi người. Đã có những gia đình, mang cả bạt,
cả chiếu trải ra để nằm, ngắm trời, mây, gió, nước, nhất là từ chiều, gió giảm
nhẹ dần.
Cánh buồm hơi đói gió,
chỉ còn một mình sức máy vừa đủ, đẩy con thuyền đi từ từ. Mặt trời còn cách mặt
nước chừng hai con sào, thì gió lộng dần, sóng bắt đầu nhổm dậy cuồn cuộn,
trắng cả đầu. Cột buồm hình như gù xuống, bụng phình to ra, một vài tiếng gầm
ghì của sấm rền mãi chân trời, phía dưới nước. Con thuyền tôi có cảm tưởng, như
một người khách bộ hành, khi sớm đang thả bước nhàn du, ngắm trời, nước, ngắm
thiên nhiên; nhưng trời đã chiều, nhà còn xa, nên rảo bước nhanh hơn. Một
thoáng lòng tôi chạnh nhớ đến Bà Huyện Thanh Quan, trong đoản thơ Hoàng Hôn Nhớ
Nhà 2, vần ” ôn “.
Trời chiều bảng lảng
…….bóng hoàng hôn.
Tiếng sấm xa nghe………lẫn
sóng dồn.
Gác mái ngư ông ……về
viễn phố.
Gõ sừng mục tử…..lại cố
thôn.
…….
Kẻ chốn trang
đài………người lữ thứ…..
Lấy ai…..mà
kể…….nỗi……hàn ôn.
Bây giờ thì người khách
bộ hành, đã ba chân bốn cẳng chạy như điên, người ta sợ gió lộng, và có thể mưa
nên đã kéo nhau dần hết xuống dưới sàn. Cái người ta sợ, người ta không thích
thì tôi lại ưa, tôi quàng cái áo của thằng Lợi phế thải, từ mấy tháng trước để
đi làm ở Biên Hòa. Tôi ủ con chim vào bên trong, mò ra một góc khuất phía sau
buồng hoa tiêu phía cuối thuyền. Một chỗ ngồi lý tưởng để nghe gió lộng, để
nhìn những núi sóng cuồn cuộn gào rú và để cảm nhận cái thú ” một thuở ngàn năm
” ngắm mảnh mặt trời chiều, chui xuống biển.
Từ sớm tôi đã lách vào
phòng hoa tiêu (do anh Nghĩa tôi đã quen), hỏi bác thuyền trướng nhiều kinh
nghiệm, là thuyền đi về hướng nước nào? Bác là Lý Văn Bang, đã dè dặt cho biết:
“Do ba ngày trước, khi
ra khỏi Côn Sơn, gặp một đoàn thuyền đánh cá; bác biết là từ đảo Phú Quốc, bác
đã chạy tránh, nên hơi bị sai lệch tọa độ. Vì thế, bác không thể xác định 100
phần trăm, chỉ biết gần đúng! Thuyền có thể đến Mã Lai hoặc Indo, và cũng không
biết chắc, là từ 3 hoặc 5 ngày nữa “.
Tôi đang ngồi lắng đọng
thả hồn vào tiếng sóng dào dạt, réo gọi gió, tôi giật mình, có ai bẹo, chí vào
bụng tôi. Ối giời ơi ! Con chim chó chết! Tôi thông cảm cùng cảnh ngộ, nên ủ
vào người cho cu cậu (hay cô nàng) yên ấm. Không ngờ, ” cu cậu ” lại dùng mỏ ”
bẹo, chí ” bụng của tôi. Tôi thò một tay vào nắm nhẹ đầu nó, hơi ve vuốt, thế
là cu cậu lại ngoan ngoãn nằm yên.
Con chim đã làm cho
ruột gan tôi như quấn, cuộn lại với nỗi nhớ thương người mẹ mù lòa của tôi,
không biết bây giờ người ra sao? Nhưng tôi biết rõ, và tin như thể tin tôi, là
mẹ tôi vẫn ngày đêm dõi theo bóng dáng người con trai này của mẹ; ruổi rong
sống và chết trong biết bao nhiêu tình huống người không thể biết. Vì thế, chắc
chắn người vẫn cầu khấn Chúa và Đức Mẹ, cho người con trai này. Một nỗi nhớ cồn
cào về người mẹ kính yêu, lẫn vào trong tiếng sóng, tiếng gió tôi nghe rõ những
lời của bài “Lòng Mẹ” của Y Vân:
Lòng mẹ bao la như
biển… … Thái Bình…. dạt dào.
Tình mẹ tha thiết như
dòng…. suối hiền…. ngọt ngào
Lời mẹ êm ái…. . như
đồng lúa chiều …. . rì rào… … … …. Thương con…. thao thức bao đêm trường
Con đã yên giấc mẹ
hiền….. vui sướng biết bao
Thương con khuya sớm…..
bao tháng ngày
Lặn lội gieo neo…..
nuôi con tới ngày lớn khôn
Dù cho mưa gió…. không
quản thân gầy….. mẹ hiền
Một sương hai nắng….
cho bạc mái đầu buồn phiền
Ngày đêm sớm tối vui
cùng….. con nhỏ một niềm
Tiếng ru êm đềm…. mẹ
hiền năm tháng….. triền miên
Bao năm nước mắt…. như
suốí nguồn
Chảy vào tim con, mái
tóc chót….. đành đẫm sương … ….
Dù cho phai…. nắng
nhưng lòng thương chẳng lạt màu
Vẫn mong quay về….. vui
vầy dưới bóng….. mẹ yêu.
Tôi đã nhắm mắt lại, và
lịm đi cho hồn tôi ngâm giầm vào lời ca, tiếng nhạc. Rồi cũng chính con hải âu
đang nằm trong bụng tôi lại ngó ngoáy, cựa quậy để cho hồn tôi lại chảy dài về
với người vợ thương yêu và đứa con gái yêu của tôi. Con tôi còn nhỏ quá chưa
biết gì, nhưng chắc chắn em Hoa yêu thương của anh cũng nát lòng, dù cho em có
là người được trời phú cho dễ ngủ.
Anh vẫn tin chắc, em đã
có những trận cuồng phong, bão tố ở trong lòng. Có thể người chồng của mình ra
đi sẽ:
- Gặp cướp biển
- Bị hải quân tuần tiễu
của lũ cộng đuổi bắt!
- Cuồng phong, bão tố
của biển khơi, đã nhận chìm xuống lòng biển!
- Đến nơi, đến bờ nhưng
đã thay lòng, đi với người khác?
Nghĩa là, người chồng
ấy đến 90 phần trăm là ra đi không trở lại. Một mình lẻ bóng, ôm đứa con thơ
với người mẹ mù lòa, giữa chợ đời đói khổ !
Nhìn về phía Đông Bắc
tím thẫm trong dáng chiều, mấy vạt mây đen nằm trải dài sát mặt nước. Tôi hiểu,
nơi ấy là quê hương, tổ quốc của tôi, có mồ mả ông cha, tổ tiên, có người mẹ
mù, người vợ trẻ và đứa con thơ của tôi. Ruột tôi như cuộn vò lại, em Hoa ơi!
Để lòng anh phần nào đỡ
nẫu, nát trong nhớ thương, anh nhớ khi chúng ta nên đôi chồng vợ, có một lần
anh hát tặng em bài ca Hoa Biển. Chỉ vì bài ấy có cái tên là “hoa”. Giọng của
anh như cơm nguội, ăn với nước dưa chua.
Bây giờ, trong hoàng
hôn lộng gió giữa biển khơi, trên con thuyền vô định, anh sẽ dùng tiếng gào của
sóng biển thay tiếng đàn, và tiếng gió quất đập của cánh buồm, thay nhịp trống.
Một mình, anh hét, hò giữa trời, nước mênh mông, không sợ ai nghe:
Ngày xưa … … …em anh
hay hờn dỗi!
Giận anh khi anh chưa
kịp tới… …
Trùng khơi…….nổi gió
lênh đênh triền sóng…..
thấy lung linh rừng
hoa.
Mầu hoa ….thật trắng,
ôi hoa nở thắm…….
ngất ngây lòng thêm…….
Vượt bao hải lý……chưa
nghe vừa ý…….
lắc lư con thuyền đi,
Chỉ thấy bọt nước, tan
theo ngọn sóng…….
dáng hoa kia mịt mùng……
Em ơi………buồn phiền…….x
in như hoa sóng…. tan
trong đại dương
(Hoa Biển của Anh Thy)
Mặt trời đã chìm xuống
lòng biển từ lâu, phía trái một mảnh trăng gầy đúng một nửa, như con mắt của dạ
thần đang lườm nguýt, con thuyền đơn độc giữa đại dương. Nhìn mảnh trăng sầu,
tôi nhớ đến một ý thơ, đã trở thành ca dao phổ cập:
Vừng trăng… …ai xẻ làm
đôi?
Nửa in gối chiếc……nửa
soi …….dặm trường. . …
Một làn hơi lạnh ngóm
luồn vào trong gió, lách vào cổ, vào tai làm cho tôi rùng mình. Hẳn đã 9 – 10
giờ đêm, tôi mò xuống sàn về chỗ nằm. Tôi lục cái tay nải, tìm cái túi gạo con
con, tôi đã xin được của một gia đình. Tôi bốc ra một nắm để vào cái cóng sữa
bò. Chỉ một bóng đèn dầu treo mãi phía vách thuyền gần ca-bin, ánh sáng le lói
một vài tia mờ mờ vươn tới; thế mà con chim vẫn mò mẫm ăn cho bằng hết chỗ gạo.
Tôi cố gắng lảo đảo đem
chiếc cóng lại bồn nước lấy đầy cho nó. Tôi loay hoay tìm chỗ ngả lưng, quay
laị con chim đã mò uống hết cả nước rồi. Phần tôi đã 4-5 ngày với hộp sữa Ông
Thọ khi nào quá mệt tôi lại mút một ít. Hôm nay đã cạn rồi, tôi mượn cái mở hộp
của một bà có con nhỏ, tôi xin ít nước sôi cho vào khoắng uống hết. Tôi lại ôm
con chim vào lòng, nằm kềnh ra để nghe tiếng nhạc kẽo kẹt của con thuyền, lướt
về phương trời mờ mịt.
46.
RA KHƠI ĐẾN BỜ
Đã mấy ngày rồi, con chim và tôi đều như muốn tìm một chút
hơi ấm của nhau, trong chiếc áo nhựa. Nó cứ rúc mãi vào sát bụng tôi, hồn tôi
đang liu riu lững lờ vào giấc mộng bập bềnh, của con thuyền. Bỗng có tiếng xôn
xao:
- Có ánh đèn!
Như một tiếng ” phèng ”
trong đêm đen choảng vào con thuyền! Tôi và nhiều người nhớn nhác bò nhổm dậy,
tôi nhào tới cửa, rúc lên sàn thuyền. Giữa cái thẫm đen mịt mù của trời và
nước, rõ ràng có một vũng rạng ra, trắng như chiếc ngà voi, tưởng rằng có một
ánh sao trong làn mây. Nhưng rồi như có một mảng mây dầy, chậm chạp che dần,
rồi trở thành một mầu đen thẫm, như chung quanh.
Người ta kéo xuống hầm
thuyền dần, tôi còn ngồi lại cố mong chờ trong chỗ mù mịt tối đen ấy, sẽ có một
nguồn sáng để mang niềm hy vọng cho con thuyền. Phần vì mấy ngày nay giấc ngủ
chông chênh, cứ khi nào mệt quá thì thiếp đi một lúc. Phần khác, có thể sức mòn
vì thiếu ăn, vẫn chỗ ngồi dựa một góc khuất sau buồng hoa tiêu, tôi đã đi vào
miền mất cảm giác lúc nào không hay.
Mãi tới khi như có
người sờ vào cổ tôi gãi gãi, mở mắt đã thấy nước trời đổi thành mầu lá nhãn.
Tôi đã nhìn thấy mầu trắng của những làn sóng bạc đầu. Con chim tị nạn đã chui
ra khỏi bụng tôi từ bao giờ, nó đứng sát ngay mặt tôi, một chân trên vai, một
trên ngực. Cái đầu nó cứ dụi vào cổ tôi, như muốn đánh thức tôi dậy, phía chân
trời đã rạng hồng, rồi đỏ lên. Tôi đã ôm con chim vào lòng như một lời cảm ơn,
gọi tôi dậy để tận hưởng ánh bình minh của đất trời. Nhưng rõ ràng, lẫn vào
tiếng rì rào của sóng, có mấy tiếng kêu:
U oách… u… . .oách… khu… . .oách… khách …
khách… Rồi bỗng nhiên, chính
con tị nạn ở ngực, vai tôi cũng rối rít kêukhu… oách… khu … oách… Từ ngày tôi cứu nó, chưa
bao giờ tôi thấy nó kêu. Nó làm cho tôi quên cả mệt, cả đói, tôi ngồi hẳn dậy.
Một nửa cái nia đỏ như nhuộm máu bò, đã thò lên khỏi mặt nước, từ mặt biển phía
Đông, làm đỏ hồng cả cánh buồm và con chim. Một đàn bảy con hải âu trắng toát
đang bay lượn quanh con thuyền, miệng kêu: Khu … oách… khu . . . .oách… . Con
tị nạn, mắt chớp lia lịa, lại giụi đầu vào cổ tôi, thái độ hưng phấn khác
thường. Nó giang hẳn hai cánh ra vẫy vẫy, như đáp lại đàn hải âu đang bay lượn,
nó ngửng hẳn cổ lên trời miệng lại kêu: Khu oách… . khu… . oách… .Tôi đờ hẳn người ra, chưa kịp
phản ứng, con chim lại nhẩy lên vai tôi, rồi lại giụi đầu vào cổ tôi như khi
nãy. Tôi chợt hiểu, nên tôi khẽ vuốt đầu nó, và tôi gật gật.
Nó sải cánh một cái rồi bay vụt lên theo đàn hải âu bay đi
mất hút chỉ còn vẳng lại những tiếng khu… oách. . . ..khu … .oách…nhỏ dần. Tôi bần thần cả
người, con chim đã bay đi rồi ư? Tôi ngồi xuống mạn thuyền, lắng đọng đăm
chiêu: Như thế vừa rồi, tôi đã lầm, tôi tưởng con chim giụi đầu gọi tôi dậy, để
ngắm ánh bình minh của đại dương? Nó gọi tôi dậy, chào tôi để ra đi với đồng
loại, dù sao nó cũng có nghĩa, có tình, tôi bằng lòng. Một cánh tay đặt lên vai
tôi, anh Nghĩa, giọng đứt quãng của anh quẩn vào gió mặn:
- Anh đã giúp nó toại
nguyện! Tìm được khung trời tự do!
Nghĩa đã biết tôi ngồi
suốt đêm qua, phía sau buồng lái, một ý thoáng đến, tôi vồ vào vai anh Nghĩa: ”
Gần đây phải có đảo hay đất liền ! ” Nghĩa đã nắm chặt tay tôi, nói như gà gại
ổ đẻ:
- Thấy đàn chim, từ sớm
chúng tôi đã nghĩ như anh!
Như vậy họ đã biết
trước tôi rồi! Cũng có nghĩa ánh đèn sáng mơ hồ đêm qua, không phải trong hồ
mơ? Anh Nghĩa kéo tôi vào buồng lái, tôi gặp lại bác Bang, tôi mới hiểu bác và
Nghĩa có họ hàng. Nghĩa lôi ở một cái hộc ra gói bánh ngọt, chính bác Bang cũng
đang băn khoăn, theo bác phải hai ba ngày nữa mới tới Indo hoặc Mã Lai, nhưng
khi thấy đàn chim thì đảo hay đất liền phải gần đây, dù sao cũng mang nhiều hy
vọng.
Nhìn nét mặt cương
nghị, từng trải của bác Bang, tôi rất mến mộ, bác cũng tỏ thiện cảm, bảo Nghĩa
cầm lái. Bác kéo cái “phích” có cà phê nóng, bác rót một ly con đưa cho tôi,
với thái độ “gió sương” không mời. Từ lúc Nghĩa chưa lôi gói bánh ngọt ra, cái
mùi mê người của nó, đã luồn ra chọc tứ tung vào mũi tôi rồi, nên khi bác đẩy
bọc bánh đến vẻ “khinh tài” thì sao tôi từ chối?
Bác thăm hỏi một số nét
về tôi, tôi cũng sơ lược, đi tù về là phải từ giã quê hương ra đi v.v. . .
Xuống hầm về chỗ nằm, nhìn thấy cái cóng con đựng gạo, không biết con tị nạn
bây giờ đã đi đâu? Hẳn nó đã có một cảnh đời mới ! Như cụ Nguyễn Công Trứ đã
kết luận: Rút cuộc lại… … … mỗi người, riêng mỗi kiếp!
Gần trưa lại có tiếng
ồn ào phía cuối thuyền, giọng một bà lanh lảnh:
- Có chiếc tàu to lắm!
Một số người xô nhau
trèo lên sàn, tôi hơi mệt, nhưng cũng là những người đầu tiên mò lên sàn thuyền,
chỉ chừng 8- 10 cây số, một chiếc tàu trắng toát, trông như một toa xe lửa,
hay chiếc xe “buýt” dài ở gần. Không thể nhìn thấy cờ nên không biết là tàu
nước nào. Bà con vui mừng hô hoán, có người nhẩy lên gào, vời, nhưng con tàu
hình như bé dần lại.
Mấy người nhanh trí đã
lấy giấy báo và giẻ cũ đốt lên, con tàu cứ mỗi lúc bé lại và mờ đi, để rồi lẫn
vào những lớp sóng bạc đầu mất tiêu. Con tàu hình như không hề trông thấy con
thuyền buồm đơn độc, như một chiếc lá tre khô trên dòng Cửu Long cuồn cuộn
chảy. Hay lương tâm nhân loại, đã chuyển thành lá cây, của mùa Đông?
Con thuyền như gần lửa,
sôi lên, nhưng một trận mưa rào đã làm ngọn lửa tắt rụi. Hôm nay đã là ngày thứ
sáu, của con thuyền buồm, nhiều người đã tỏ ra mệt nhoài, ăn uống ngủ nghê thất
thường, cộng với tinh thần căng thẳng lắng lo với công an cộng sản, cướp biển,
bão tố v.v… Chưa nói nếu ai lại bị say sóng như tôi thì chỉ có nằm bệt. Còn
hàng chục thứ khác giằng co, vò xé trong đầu của một người bỏ nước ra đi.
Mảnh mặt trời chiều
đang chui dần xuống mặt nước, mầu gạch cua của da trời chuyển thành mầu lá mồng
tơi già, phía Tây Nam lại rạng ra mầu nghệ non. Rõ ràng, không thể chệch vào
đâu được nữa, tôi đã xô vào buồng lái gào, gọi bác Bang và anh Nghĩa :
- Bác và anh Nghĩa hãy
coi kia !
Tay tôi chỉ về hướng có
mấy ngọn đèn lẫn vào lớp sóng trắng đầu, lúc nhô lên, lúc lại mất đi. Bác Bang
đã chuyển mũi hơi chếch về phía Tây Nam và những điểm sáng mỗi lúc càng sáng
tỏ. Bà con chỉ có vài người mò lên, sợ cũng như những lần trước, thậm chí tôi
đã trông thấy những bóng cây và cây tháp có bóng đèn, có lẽ là ngọn hải đăng
của những vùng ven biển.
Lúc này thì bà con xô
lên như vỡ đê; có lẽ ai cũng muốn chính mắt mình, phải nhìn thấy một lần cái
bóng dáng tương lai có giống, ở trong đầu? Tôi vào gặp bác Bang, anh Nghĩa để
biết ý kiến, không ngờ lại gặp cả Phạm Lộc, vì không một ai biết rõ đây là đâu?
- Thuyền của mình chưa,
phải ở tình trạng cấp cứu.
Do đấy họ đều quyết
định hãy bỏ neo ở bên ngoài đêm nay, sáng mai, nhìn rõ hãy cho thuyền tiến dần
vào, rồi tùy theo để quyết định. Tôi thấy họ giải quyết như thế là có thận
trọng và hợp lý. Tôi cũng thấy mệt quá rồi, bà con kéo lên đầy trên sàn chuyện
trò bàn tán rôm rả, tôi lại mò xuống tìm một chỗ yên vắng nằm nghỉ một đêm cho
lại sức. Tôi gặp cậu Thiện, lại có chăn ấm, thế là tôi nằm ngay cạnh cậu, vài
câu chuyện đổi trao, rồi tôi vào giấc ngủ say, sau khi được một bữa bánh ngọt
không mong mà có buổi sáng nay. Tôi ngủ mê man, như chưa được ngủ bao giờ.
Tôi cảm thấy ngực của
tôi bị ai đè, thì ra một cái chân nặng chịch, vắt lên cổ và ngực tôi. Trong
bóng đêm không nhìn được bàn tay, tôi đẩy cái chân xuống, không biết chân của
ai, da thịt mềm như tơ, và mát như lụa Hà Đông, tôi đờ người ra. Sau khi đẩy
cái chân ra rồi, nằm im, tôi không dám cựa quậy, tôi cố hé mắt nhìn để phân
định là ai? Không thể nhìn được gì, tôi nằm chịu trận, óc phán đoán: ” Trong
cái chỗ đông đầy người, tâm tư căng thắng sống và chết, chắc là những người nằm
gần chung quanh? “.
Do lòng háo hức, nên
mới rạng sáng tôi đã bò dậy, định lên sàn, nhìn vào phía đất liền để phán đoán.
Qua vị thế, tôi đã nhìn thấy người gác chân lên ngực tôi đêm qua, là một cô gái
chừng 17 – 19, vẫn còn nằm mê mệt với mấy người phụ nữ khác.
Trong làn sương mỏng của buổi sớm, tôi đã nhìn thấy cây
xanh và một số mái nhà mầu nâu nhạt. Bỗng một đàn hải âu từ hướng trái bay đến,
chúng chao đảo, lượn vòng với những tiếng kêu quen thuộc: Khu oách… . khu … . oách…
Không biết có con tị
nạn không? Tôi nhìn lên thấy con nào cũng giống con nào? Liếc vào phòng hoa
tiêu, loáng thoáng thấy bóng người, tôi đến ngó vào, 4 – 5 người, ngoài bác
Bang và anh Nghĩa, có mấy người lạ. Họ định kéo buồm cho thuyền tiến dần vào,
tùy theo, nếu thuận tiện thì làm tê liệt cái máy ngầm phòng hờ của thuyền, để
họ thấy con thuyền chỉ chạy bằng buồm. Thực ra cái máy công suất rất nhỏ, chỉ
đủ sức đẩy thuyền đi từ từ, chầm chậm, phòng hờ khi thuyền không có gió.
Chúng tôi đã nhìn rõ,
đây đó có những căn nhà sàn gỗ lợp tôn, nhìn toàn bộ cảnh vật, mọi người vẫn
không thể suy đoán ra nước nào phía cực Nam Châu Á? Nhưng chắc chấn không phải
là Việt Nam.
Có một đám người lố nhố
nhìn ra con thuyền, mấy đứa nhỏ chạy loăng quăng, thoáng trong đám người đó, có
hai người mặc quần áo Ka Ki quân đội. Xôn xao, ồn ào, rối rít tiếng Anh, tiếng
Việt và một thứ tiếng lạ, đan chéo vào nhau như mạng nhện. Dần dần hiểu ra, họ
yêu cầu cử người xuống nói chuyện với họ, khi ấy tiếng Anh của mọi người như
cóc ngồi trong hang, thỉnh thoảng thò cổ ra kêu ộc… ..ệch một tiếng lại rụt cổ
vào, chắc chỉ có ông trời mới hiểu.
Rất may, trong thuyền
giới thiệu một chị tên Châu, cử nhân Anh văn. Chị Châu chừng 30 – 35 tuổi, đã
cùng với ba người đàn ông nữa, họ đỡ nhau lội xuống, nước trên đầu gối để lên
bờ. Gần hai giờ sau, phái đoàn đi đàm phán trở về thuyền, chúng tôi được biết:
Đây là một hòn đảo
NATUNA thuộc Indonesia, cách những đảo chính từ 50 đến 100 hải lý. Dân INDO ở
đây chỉ có khoảng hơn 300 người. Đảo trưởng hay chúa đảo, có chừng hai trung
đội binh sĩ giữ an ninh. Hơn một năm trước, cũng có một chiếc thuyền Việt Nam
tị nạn vào đây, hơn sáu chục người. Họ phải tự túc lương thực, gần hai tháng
sau mới đón được tàu rước đi, họ đói khát khổ cực lắm! Dân ở đảo hầu hết là
đánh chài lưới. Chúa đảo không muốn nhận người lạ vào đảo nữa.
Có thể do chị Châu là
phụ nữ, lại khéo ăn nói, nên chúa đảo chấp nhận, với điều kiện phải tuyệt đối
chấp hành luật lệ của đảo và tự túc lương thực. Một số người trong thuyền có vẻ
lưỡng lự, muốn ra đi tiếp về những đảo chính. Với tôi, phải đi từng bước, tạm
thời ở đây mới có điều kiện liên lạc với Cao Ủy Tị Nạn. Riêng trường hợp của
tôi và có thể ở một số người nữa, trong thuyền: Bất cứ nơi đâu, trên trái đất
này, không có vòi con Hồng Tuộc đều là “Đất Hứa” cả.
Sau khi, hầu hết đều
đồng ý, hãy lên đảo đã rồi chờ liên lạc với cao ủy. Lên đảo, nên phải đếm
người. Trẻ con người lớn cả thuyền 53 người. Họ dẫn đoàn người vào giữa đảo rồi
tiến vào một căn nhà sàn tương đối rộng cho 53 người. Một vài hiện tượng và hình
vẽ ngược xuôi trên vách, chứng tỏ đã có người Việt ở đây và đã rời đi lâu ngày
rồi. Già một nửa căn nhà trên mặt nước, tôi bước qua một cái cửa ngó sơ qua cái
bếp, một số bà đang lúi húi đun nấu lại những thức ăn đã 6 – 7 ngày.
Bếp lạnh, tro tàn, lại
không có củi, họ phải dùng nhữmg giấy gói đồ, nấu, đun lộn xộn. Ngay cạnh cửa
sổ bếp, nhìn ra cái hẻm vịnh, thoáng bóng hai cô gái đang ngồi trên một cái bao
tải áo quần.
Qua dáng dấp tôi đã
biết cái cô trẻ hơn, có làn tóc dài óng mượt là người, ngủ đã gác chân lên ngực
tôi. Tôi cũng muốn nhìn xem mặt cô như thế nào? Tôi còn đang loay hoay không
biết làm cách nào để thực hiện lòng tò mò cửa mình một cách tự nhiên. Bỗng một
bà có đứa con nhỏ, vẫn chơi với con chim “tị nạn”, và đã cho gạo, quay lại thấy
tôi; bà hỏi một cách sôi nổi:
- Con chim của anh đâu
rồi?
Câu hỏi bất ngờ, làm
tôi ngắc ngư, niềm hưng phấn được đặt chân lên đất liền, còn quấn quít, tôi hỏi
lại như đùa vui:
- Bà hỏi để làm gì?
Câu hỏi lại của tôi,
một giây im lặng, mọi người đều đỏ mặt, chính ngay cái bà hỏi, hai má cũng au
lên mầu mận chín. Hai cô gái đều quay lại, mặt cô trẻ hiền lành, thuỳ mị như
con Đức Mẹ Đồng Trinh. Cái liếc 17 hơi cau lại lườm tôi, còn vương vãi mấy sợi
tơ vàng trong khóe mắt. Hồn thập thò định bay đi, tôi nói một câu giải tỏa, mà
không hiểu hết ý:
- Con chim đã bay theo
đàn!
Bỗng xôn xao ngoài phía
cửa, tôi chạy ra, hai người lính Indo đang khênh vào một bao tải gạo đặt ở giữa
nhà. Chị Châu và nhiều người xô đến: ông chúa đảo có nhã ý tặng tám chục ký
gạo. Đây là của gia đình ông!
Như một luồng sinh khí
cho người suy nhược, cả thuyền vui như đón ngày mồng một Tết. Cả nhà kéo ra
cửa, để tiễn hai người Indo, thay cho lời cảm ơn nồng nhiệt. Người lính gác cửa
và giữ an ninh, đôi mắt sáng lên long lanh, như chìm vào nỗi hân hoan của con
thuyền buồm.
Bác Bang kéo hai thanh
niên vào đống đồ từ dưới thuyền chuyển lên, lôi ra hai cái nồi nhôm lớn. Mọi
người quyết định, ngay chiều nay sẽ nấu hai nồi cơm, mỗi nồi 10 kg gạo, ăn để
bù lại 6 – 7 ngày đói khát thất thường. Những cá nhân, hay gia đình còn chút đồ
ăn nào, đều tự nguyện đóng góp. Người thì ít cá khô, người thì chút tôm kho,
hay thịt muối v.v…
Một bữa cơm ngay tại
sàn nhà, tôi nghĩ rằng khó tìm hay tạo được một bữa cơm, nhiều nghĩa tình,
nhiều niềm hưng phấn, như bữa cơm hôm đó, trong tương lai đối với tất cả mọi
người trong thuyền. Được biết họ chỉ cung cấp muối ăn, còn gạo, củi, con thuyền
buồm tị nạn hãy lo lấy cho mình.
Tuy ngôn ngữ bất đồng,
tiếng Anh tiếng U của cả những người lính gác, cũng như trong thuyền như cóc
kêu, thỉnh thoảng khọt khẹt một vài tiếng. Chúng tôi cũng hiểu một chút giá
sinh hoạt: một lượng vàng 400. 000 Rupias (tiền Indo) 12 đ ở đây ăn 1đ VN, 100
dollars là 80.000 rupias.
Cái mà tôi tò mò, băn
khoăn đầu tiên: những cỏ, hoa, cây cối, cảnh vật có khác gì với quê hương của
tôi không? Vì thế, ngay từ lúc đi theo hàng, lần lượt vào ngôi nhà sàn, tôi đã
sà xuống mé cửa, lấy tay lặt, vuốt mấy ngọn cỏ dại để ngắm nhìn.
Những đám trẻ con,
người lớn Indo, kéo đến nhìn chúng tôi. Họ thường có nước da mầu nâu nửa mạc,
cũng lếch thếch, lôi thôi như trẻ con Việt Nam thường xử dụng, chân không giầy,
dép. Để giải quyết vấn đề quan trọng bậc nhất cho cả con thuyền, mấy thanh niên
và đàn ông, lật vài miếng ván phía sát vách của căn nhà sàn, che chắn, tạm một
chỗ cho mọi người, nhất là các bà, các cô giải quyết tự do xuống dưới biển.
Cũng đôi lúc tôi không
yên lòng, ra vào thỉnh thoảng, lại va chạm vào cái lườm 17 như có điện từ, tôi
đã được biết tên cô là Hằng, và người chị là Hoài. Thuộc một gia đình công chức
thương gia ngày xưa, quen biết về phía vợ chồng Phạm Lộc+Liên.
Một cái giếng rất to ở
giữa một vườn dừa rộng. Dừa Indo thật là nhiều và cao lêu nghêu như những cây
phướn ở quê nhà. Nhìn những chùm quả dừa, mầu nâu da bí ngô, mãi tít trên cao
lộng gió, như nhìn mây bay ở trên trời. Chiếc giếng cách nhà khoảng 200 mét,
hầu hết đàn ông, con trai tắm giặt ban ngày; đêm khuya dành cho đàn bà con gái.
Đến ngày thứ 5 thứ 6
thì hết gạo và thức ăn cũng chẳng còn. Những người có điều kiện gia đình còn
cầm cự. Tôi và một số đông các cậu, ruột gan nóng rát vì ngày nào cũng sát
muối. Nhìn xuống chỗ đi cầu, dưới làn nước biển trong xanh, những khi thủy
triều xuống, lảng vảng có những con cua bể to nhỏ, đến tìm hơi của lạ .
Khó khăn đẻ ra sáng
kiến, đó là lẽ sinh tồn của mọi sinh vật. Mấy cậu lần mò, hý hoáy dùng chỉ buộc
vào một tép tôm khô, thả xuống. Mấy chú cua tranh nhau tìm của lạ. Các cậu, hò
reo kéo con cua lên, nhưng cứ lưng chừng, lại rơi trở lại biển. Thấy thế tôi
lấy một cái nón của các bà, thò xuống, một cậu lại kéo con cua lên, tôi lẹ làng
hứng lấy trước khi con cua nhả mồi rơi xuống.
Hôm đó, bắt được 5- 6
con, các bà giã nát ra trộn muối rang thành một món ăn, làm mở to mắt, mỗi khi
ai được nếm thử.
Tuy đói, tuy thiếu,
nhưng nét mặt của mọi người luôn luôn hân hoan, hưng phấn. Điều này đã chứng tỏ
hùng hồn: Thà đói, thiếu mà tự do, còn hơn ăn no mà phải làm nô lệ, mất hết mọi
quyền tự do.
Sáng hôm nay, tôi và cậu Thiện đi lang thang ra khu vườn
dừa. Do tính sục sạo, tò mò thích tìm những cảnh lạ của thiên nhiên, tôi rẽ xuống
một cái hũng rậm rạp, toàn dừa non. Thoáng thấy một cây thánh giá đã gẫy cánh
trái, bằng một thanh dừa khô , có hàng chữ Nguyễn V . . tôi
suy đoán, có thể là Nguyễn Văn . . chẳng
có ngày tháng.
Trở về hỏi những người
lính gác an ninh, tôi được biết sơ sơ. Chuyến tàu trước, có một ông Việt Nam,
đến đây gần một tháng bị té dừa chết, họ đã chôn ở dưới một cái hũng. Tôi hiểu
cũng như hiện nay tâm trạng mọi người, hàng trăm thứ lo lắng nhét đầy trong óc,
còn tâm hồn đâu nghĩ đến những chuyện không trực tiếp?
Ngày hôm sau, tôi lại rủ Thiện mò đến chỗ cây thánh giá gẫy
một lần nữa. Như thể hiện một chút nghĩa tình, của người cùng một nước. Ông hay
anh Nguyễn Văn. . . đã
bỏ nước, bỏ nhà, bỏ người thân ra đi . . . để rồi đã nằm xuống nơi một hòn đảo
hẻo lánh không người biết. Bố mẹ anh, vợ con, người thân của anh có biết không?
Hay vẫn tháng năm mòn mỏi đợi chờ, tin tức người ấy trở về? Đau thương nghiệt
ngã này do đâu?
Hôm nay những con cua
bể, có thể đã khôn ra, hay chỗ đó chỉ có mấy con, mấy giờ đồng hồ mà chỉ câu
được có một con. Mấy ngày sau, ông thiếu úy trưởng an ninh, mang lệnh của chúa
đảo đến:
- Do sự phản đối của
người dân đảo, và sự an ninh:
Từ nay: 11-12- 82 ,
buổi sáng 2 giờ (từ 8:00 đến l0:00 giờ), nam nữ ra giếng tắm giặt, kiếm củi,
sinh hoạt.
Buổi tối 1 giờ, (từ
8:00 đến 9:00 tối): Chỉ dành cho phụ nữ tắm giặt. Toàn thuyền phải chấp hành
nghiêm chỉnh.
Từ hai ngày hôm trước,
do đóng góp của toàn thuyền, đã nhờ được chúa đảo mua cho một tạ gạo, giá
80.000 Rupias. Tối hôm qua, tôi và cậu Thiện mò mẫm sang mãi phía Đông, chỗ có
một chòm xóm, nơi có một cửa hàng tạp hóa duy nhất của đảo.
Cửa hàng vì không có
bảng hiệu nên không thể phân biệt với nhà khác bên cạnh. Một căn nhà cửa mở,
vào bên trong, giữa nhà có một số kẹo, bánh đựng trong những cái chĩnh sành,
một ít khoai tây, rau v.v… để trên một cái sạp gỗ ở giữa nhà. Khách vào xem,
chỉ có tôi và cậu Thiện, tôi có nửa cái nhẫn cưới cần gạ bán, để có tiền đóng
góp mua gạo.
Rất may, người chủ hiệu
có thằng con trai 17 tuổi, học ở một trường trung học bên BRUNEI về nhà, trong
dịp nghỉ nửa tháng, cậu này cũng bập bẹ tiếng Anh bằng tôi. Lúc đầu phải ngoáy
tay, nhắc đi nhắc lại một chữ nhiều lần, nhưng dần dần đã hiểu nhau.
Nói về tiếng Anh, tiếng
U của tôi, nó cũng nổi trôi với cuộc đời của tôi nhiều chặng. Tôi nhớ khoảng
1957- 59, do từ người bạn Nguyễn Vĩnh Lý, tôi đã chơi bạn bè Pen- Pal
Corresponding địa chỉ cái Club này ở Đan Mạch. Vì vậy, tôi đã có mấy người bạn
ở Mỹ, Nhật, Anh.
Khi đó thì tôi miệt mài
say mê, với thư từ chữ nghĩa, chứ chưa hề nói chuyện với một người Anh, người
Mỹ nào. Mãi tới đầu 1960 do những kéo, đẩy của nghề nghiệp, tôi phải tiếp xúc
với Brown, Dale, và Horry v.v. . . Rồi bị tuột tay, chìm nghỉm vào miệng con
Hồng Tuộc.
Tôi tự xác định, không
chết sớm thì cũng chết muộn, ở trong mồm của nó. Nên suốt 20 năm tôi đã buông
rơi, nếu không nói là giũ, vẩy, gần sạch cái thứ “tiếng lai căng”, không phải
của cha mẹ đẻ, cho nó nhẹ người. Cho nên, nếu còn sót tí nào, là nó bị kẹt, bị
vướng lại, khi tôi giũ mà thôi. Tôi đâu có nghĩ có ngày tôi lại phải đi bòn
mót, nhặt nhạnh nó trở lại để sinh tồn?
Cuối cùng tôi đã bán
nửa cái nhẫn, được 20.000 Rupias. Một điều đã gây một ấn tượng hằn sâu, vào ký
ức của tôi. Cũng buổi tối ấy, tôi đã đờ đẫn nhìn những hình ảnh trong chiếc ti
vi mầu. Từ xưa suốt ở Sài Gòn, rồi tù đày ở miền Bắc, tôi chỉ nhìn hình ảnh
trắng đen của truyền hình.
Tôi không thể tưởng
tượng được, con người và cảnh vật ở ti vi mầu nó lại tươi đẹp, đến như vậy.
Nhìn hình ảnh của ông tổng thống Shoharto, và đoàn tùy tùng của Nam Dương đẹp
như những ông bà tiên, trong tưởng tượng. Tôi đứng ngây ngất ngắm nhìn Ti vi,
tôi chẳng hiểu họ nói gì, tôi chỉ ngắm con người và cảnh vật, xe cộ của thành
phố Jakarta.
Đầu óc tôi miên man nhớ
lại trước thập niên 1970, tình hữu nghị của Hồ Chí Minh với Shokamo sôi nổi gắn
bó. Đài Hà Nội khi ấy, ra rả ngày đêm ca ngợi Shokamo như một vị anh hùng, của
những nước trung lập không liên kết. Tưởng như Mao Trạch Đông sẽ nhuộm đỏ Nam
Dương đến nơi, không ngờ tướng Shoharto bất ngờ đem quân đội đè bẹp, tận diệt đám
Tàu Cộng ở Nam Dương, mở ra nước Cộng Hòa như ngày nay.
Cả ngày hôm qua, 4- 5
cậu mà chỉ câu được có hai con cua. Năm mươi ba người hầu như chỉ còn muối, mà
không có hơi cua. Tính sục sạo thích làm những việc ít hay chưa ai làm, đã thúc
giục tôi. Tôi lách rồi chui xuống sàn, dùng tay để bắt những con cua có kinh
nghiệm, đưa mồi đến miệng nhưng nhất định nó không cắn nữa.
Thủy triều càng cạn
dần, tôi bảo các cậu buộc dây thả xuống cho tôi một cái thùng 20 lít vẫn đựng
gạo. Say sưa mải mê, săn tìm những con cua trong những hốc đá, hay trong hang
lỗ chỉ còn từng vụng nước nhỏ, nước chỉ tới đầu gối. Hơn hai giờ sau, tôi đã
xách thùng về với hơn hai chục con cua, có những con to cả kí lô. Hẳn ai cũng
biết cua bể của Thái Bình Dương, khác hẳn với cua bể Đại Tây Dương.
Cua Thái Bình Dương mầu
xám xanh, hai gọng cái to và nhọn hoắt, rất nhanh và dữ. Chính những người lính
Indo, cũng không tin ai dám dùng tay, để bắt những con cua bể ở dưới nước hay
trong hang? Nhiều người lính Indo đã đi theo tôi, để nhìn tận mắt, và vì vậy,
mỗi ngày khi nước thủy triều xuống, họ chỉ cho tôi và cậu Thiện xách thùng đi
theo, được ra ngoài.
Dù tôi cũng có một chút
kinh nghiệm, nhưng những con cua bể quá nhanh, quá dữ nên tay tôi cũng bị nhiều
lần ra máu. Một lần tôi vẫn còn nhớ chi tiết: Một chiếc thuyền vỡ, cũ đã chìm ở
một ven bờ, nước thủy triều xuống chỉ còn xăm xắp dưới đáy. Tôi biết bên dưới
sẽ có nhiều hang cua, nước còn đến gần đầu gối. Tôi cúi xuống, luồn tay vào một
cái hang, một con chộp cắp, vào hai ngón giữa và đeo nhẫn. Khi nó đã cắp, tay
mà nhúc nhích nó càng nghiến chặt hơn, vậy chỉ còn cách chịu trận đứng yên rồi
nghe, chờ thấy nó hơi nhẹ nghiến (vì nó cũng mỏi) giật mạnh tay ra. Nhưng con
cua này, không biết to bao nhiêu, nó cắp tay trái của tôi rồi, lại cứ lôi sâu vào
trong hang.
Người tôi thì cúi, hai
chân chịu trận hàng mười phút, con cua lại cứ lôi tay tôi vào tiếp. Lưng mỏi,
tay đau, lại không được nhúc nhích, tôi nổi máu liều, tay phải tôi xục xuống
đất cát, lựa thọc vào phía trong hang, rồi xục tay lên. Mục đích để chặn không
cho con cua kéo tay tôi, vào thêm nữa. Không ngờ, có một con khác, không hiểu
vợ hay chồng của con đang cắp tay trái, nó cắp ngay ngón trỏ và ngón cái, tay
phải vừa đau, hai chân mỏi quá, tôi phải khuỵu quỳ xuống nước. Hai tay chịu
trận hai con cua cắp, mặt tôi cố ngửng lên để mũi không gục xuống nước.
Biết cậu Thiện đứng ở
trên bờ, nhưng không ai cứu được tôi lúc này cả. Vả lại, cậu Thiện hay ai dám
thò tay vào với cua bể? Tôi đã nhìn thấy máu loang ra nước nhưng vẫn phải cắn
răng, không dám động đậy.
Hơn hai chục phút, tôi
nghe ngóng con tay trái cắp mãi, chắc cũng đã mỏi, nó lơi lỏng, tôi giật mạnh
tay ra. Lấy tay ra khỏi nước, mà máu vẫn rỉ chảy có giọt. Con tay phải hơi nhẹ
nghiến tôi lại giật được ra, nhìn hai tay đều bị chảy máu, nhưng lòng tôi khó
chịu lắm. Hai tay bị thương, mà hai con cua vẫn không bắt được Cậu Thiện ái
ngại nhìn tôi, cản lại:
- Thôi anh ơi? Đi bắt
con khác?
Tôi nhìn thoáng thấy
một thanh gỗ con mục, dài đến 50 phân, tôi chạy đến, cởi phăng cái áo của tôi,
dùng thanh gỗ giấn, chẹt lấy phía cuối hang cua. Áo cuốn tay, thò vào, sau vài
phút, tôi đã lôi được cả hai con cua chồng vợ vào thùng. Hai con cua đang thời
kỳ sung mãn, mẩy chắc nịch, mầu đất sét.
Khi về nhà cả thuyền
vây đến coi. Giữa sàn, tôi bắt hai vợ chồng con cua, ra ngoài trình diện. Mấy
cậu thanh niên đi ba ta, đi dép, lấy chân định đè nó xuống sàn, nhưng nó nhanh
như cắt, đã chộp lấy dép, lấy ba ta, làm các cậu giật hất tung cả giầy, dép ra
sàn. Các cậu và nhiều người, không nghĩ là nó dữ và nhanh, như thế. Đấy là ở
trên bờ, khi nó đã bị bắt, chứ dưới nước như hổ ở trong rừng, là đất của nó, nó
còn hống hách làm tàng, đến độ thế nào.
Các bà, các cô và trẻ
con chạy vón, dạt vào sát vách. Một cái tay phía sau để nhẹ vào vai tôi:
- Bình bạo gan thật!
À ! Ra anh Trường!
Không ngờ có anh Trường
trong thuyền, hôm nay tôi mới gặp. Tôi quay lại cầm tay anh vồn vã:
- Bạo gan làm sao bằng
anh được? Có chị và các cháu không?
Mặt anh buồn rười rượi,
lắc đầu, chúng tôi đã kéo nhau ra phía sau hàn huyên nỗi niềm. Đầu tôi luẩn
quẩn một ý nghĩ xanh mầu trời:
Một người đã lách ra
khỏi bùa mê, thuốc lú, độc dược, của con Hồng Tuộc.
Hai tay của tôi máu vẫn
còn rỉ ra, các bà đưa ra một sáng kiến, sẽ khâu cho tôi một cái túi tay, bằng
vải dầy, đôi tay của tôi đã bị nhiều vết sứt sẹo do cua cắp. Có thể do máu của
tôi lành, phần khác nước biển mặn, diệt trùng nên chỉ một vài ngày là khỏi.
Dù chưa khỏi sưng, khỏi
đau, ngày nào nước thủy triều xuống tôi vẫn đi bắt cua. Tự nhiên tôi trở thành
một người giải quyết thức ăn cho cả con thuyền. Nhiều cậu, nhiều bà thường đùa
vui gọi tôi là ”vua cua ” rồi trở thành cái tên ở trong thuyền. Các bà, các cô
làm đủ mọi kiểu: Rang muối, luộc, nướng, cắt ra từng miếng đập dập v.v… Lúc đầu
còn háo hức, dần dần mọi người phát sợ, ngấy lên vì cua. Sáng ăn cua, chiều
cua, hôm sau lại vẫn cua, nhất là tôi mới phát hiện ra một cái mánh bắt cua bể.
47.
ĐẤT NƯỚC VẠN DỪA
Một buổi, như mọi khi tôi và Thiện ra mãi vùmg xa, cách nhà
đến một cây số. Một ven biển dài khi thủy triều xuống, lè ra bao nhiêu bãi đất
cát. Chăm chú, tôi chợt nhìn thấy như con ruồi trâu, nhúc nhích trên cát và
đất. Tôi vẫy tay cho Thiện cùng ngồi xuống, yên lặng. Rõ ràng con ruồi nhồ lên,
rồi lại chui xuống cát, tôi từ từ tiến đến, và bà con ơi ! Là hai cái mắt của
một con cua bể kềnh.
Chúng tôi chỉ cần ngồi
im, quan sát, sẽ thấy những cái mắt cứ thò lên nhìn, rồi lại cụp xuống. Tôi chỉ
việc lẹ làng bới cát, là một chú cua nằm đấy, căng phồng, vàng óng như lụa Hà
Đông. Tôi suy đoán, những con cua này, vừa khôn lại vừa lười, nước triều xuống,
việc gì phải chạy theo nước, rồi lại phải trở lại theo nước?
Tại sao, chỉ cần bới
cát rồi đằm mình xuống đấy, vừa được nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng mơ màng, chỉ một lúc
là nước lại lên như cũ, bấy giờ chỉ cần lách ra kiếm ăn như thường. Như thế,
cái tốt, cái lợi chẳng phải lúc nào cũng dành cho cua khôn, cua lười!
Một việc chiều hôm qua,
vẫn còn vấn vít hồn tôi cho đến bây giờ. Tôi ngồi ngoài một cái chái hồi phía
sau cửa nhà bếp, tay mân mê xoa nắn ngón tay, vì hôm qua một con cua kẹp khá
lâu hãy còn sưng tím. Cô Hoài, cô Hằng cùng với một cậu bé chừng 10,11 tuổi mặc
quần đùi, ngập ngừng đến trước mặt. Cô Hằng giơ ra hai cái túi con, mầu lá mạ
xinh xinh, mặt cô hồng lên như mới tăng thêm máu, giọng rụt rè:
- Chú … mang thử… có
vừa không?
Bàng hoàng, tôi lúng
túng ra mặt, mãi tôi quýnh quáng chưa xỏ buộc được. Cô Hằng đã ngồi xuống xỏ
vào tay tôi. Nhìn đôi bàn tay “ngó cần”, mó máy, ngọ nguậy trước mặt, hồn tôi
cứ thập thò định lỉnh ra ngoài.
Chẳng muốn, nhưng hình
như, tôi cũng bị bơm máu lên, mặt tôi nóng bừng bừng. Cô đã thấy tay tôi run
run, nên cô nhìn thẳng vào mắt tôi như đóng đinh, tay cô bóp nhẹ ngón tay trỏ của
tôi. Tôi ngửng nhìn, hãy còn những hạt phấn vàng óng ánh vương vãi phía đuôi
con mắt của cô.
Tôi không tìm được một
lời nào để nói, nên tôi càng như đang bay trong mây, để rồi cả ba người đã kéo
nhau đi, mà tôi vẫn ngồi yên. Tôi chợt, định với theo để cảm ơn, nhưng họ đã
vào trong nhà rồi. Trở lại chỗ ngồi, khe khẽ, nhè nhẹ, tôi tụt hai cái túi ra
gấp lại.
Hai cái túi như được
hấp, được giầm trong làn hơi đặc quánh của búp sen 17, nó còn ngạt ngào, quyện
quấn chung quanh. Tôi cứ ngồi bần thần để nghe tiếng đời xua động, và tiếng kẽo
kẹt, của võng lòng đu đưa, thì em Hoa lù lù, một tay bế con gái Mai Lynh, một
tay dắt mẹ tôi, tiến đến.
Như vỡ toang một giấc
mộng ngày, tôi đứng lên, chậm chạp đi vào nhà, để rủ cậu Thiện đi làm nhiệm vụ
cho cả thuyền.
Tôi với cậu Thiện vừa ra đến mom đảo, nghe nhiều tiếng kêu
quen thuộc khu… oách, khu… oách. Một đàn hải âu, cánh vàng ửng
dưới ánh chiều đại dương, chúng chao đảo, ngang dọc trên cái nền xanh “ái ân”
của bầu trời. Cảm thấy khác thường với mọi khi, tôi ngửng lên cố tìm người bạn
quen thuộc ngày ấy, nhưng đành chịu, con nào cũng như con nào. Một thoáng vấn
vương trong lòng: Đã hơn một tháng rồi, chẳng biết con chim “tị nạn” bây giờ ở
đâu? Nó có bạn mới chưa? Cuộc sống đã ổn định và gặp may mắn không? Tôi cứ đi
trong huyễn tưởng, bất chợt giọng cậu Thiện đã giật tôi trở về:
- Anh Bình! Con chim
của anh kìa?
Tay cậu đang chỉ về
phía sát mí nước, sáu con hải âu, đang đứng như xếp hàng nhìn về phía chúng
tôi, rõ ràng có con ” tị nạn ” thật! Làm sao tôi quên được vệt cháy xạm đen,
trên cánh của nó.
Tôi đã bỏ cậu Thiện, để
tiến đến đàn chim. Chúng nó như không biết sợ người, tôi ngồi hẳn xuống, năm
con hơi giãn ra, nhưng con ” tị nạn ” vẫn đứng yên ngắc ngư cái mỏ, nhìn tôi.
Không kìm được lòng, tôi ôm lấy con chim, nó mập và lông óng hẳn ra, đôi mắt
mầu vàng bây giờ như có viền một chút mầu xanh tương lai.
Hai tay tôi ôm, ủ con
“tị nạn” vào lòng, tôi đưa hẳn nó lên gần mắt, để nhìn cho rõ cái mặt và cái
mắt đầy thoải mái, nhàn du, nhởn nhơ của nó. Tôi lại muốn hỏi nó:
- Mày là con trai hay
con gái!
- Mày đã có bồ chưa?
Cũng như lần đầu gặp
nó, tôi đành chịu và tự suy đoán. Điều chắc chắn tôi nhận thấy, là bây giờ nó
đẹp và tươi hơn khi cứu nó trên ngọn cây cột buồm, trong một trận giận khùng
của biển khơi. Tôi tự hiểu mỗi người, kể cả chim đều phải có trách nhiệm với
cuộc sống của mình. Tôi phải đi với cậu Thiện để lo cho thuyền, và hẳn con tị
nạn cũng phải giải quyết thích ứng với bạn bè của nó. Tôi mừng vui vì con chim
có cuộc sống như ngày nay, có một phần nhỏ, góp công sức của mình.
Tôi đã đưa con chim lại chỗ đàn chim, để xuống bãi cát, tôi
trở lại kéo tay Thiện xuống một cái hẻm, có nhiều hang cua. Trên trời vẫn những
tiếng khu… oách…, khu… oách… níu
chặt vào gió mặn, của đại dương.
Thật là hưng phấn cho
cả con thuyền, tin của chúa đảo cho hay:
“Cao Ủy tị nạn sẵn sàng
đón nhận đồng bào đến Kuku, nhưng Cao Ủy không có phương tiện đón. Do đó trong
thuyền tự đóng góp sao có 160. 000 Rupias, tương đương với 200 dollars giai
đoạn ấy”.
Do tinh thần đùm bọc
truyền thống của dân tộc, người có hoàn cảnh, người không. Người nhiều, người
ít đều đóng góp, đã đủ số ngân khoản, mà chúa đảo yêu cầu.
Trong những ngày chờ
đợi thuê tàu, cậu Sinh, một cậu chừng 24- 25 tuổi ở ngay vùng Chu Hải. Cậu cũng
từng vật lộn nhiều với núi đồi, biển cả của Vũng Tàu, hôm nay cậu trổ tài leo
lên một cây dừa cao ngất, hái về hàng mấy chùm dừa tươi. Tôi chợt nhớ đến anh
Nguyễn Văn . . đã nằm lại đảo vì trèo dừa. Tôi đi theo sát cậu Sinh, để lượng
định những điều có thể.
Cũng thật là thiên phú,
đôi chân của cậu như một con vượn, thoăn thoắt leo tít lên mãi trên mây, cả
tàu không ai làm được, mà ngay người Indo cũng lắc đầu, mở to mắt mà nhìn.
Thành ra gần ngày đi, thức ăn đã có dừa kho, dừa ăn vã. Cái điều tôi băn khoăn
là, tại sao từ hàng tháng trước, thức ăn chỉ có muối, Sinh không đi hái dừa cho
bà con? Một hôm, tôi lựa lời hỏi thẳng, thì Sinh đã cười như ngỗng đòi ăn:
- Cua biển ăn mới ngon,
dừa chỉ chống đói! Vả lại khi ấy, em hay bị đau bụng!
8:00 giờ sáng mai,
21-01-1983 tất cả thuyền sẽ ra tàu về đảo Kuku, một điểm đón nhận người tị nạn
của những năm đó. Mới 6 giờ tôi đã dậy, ra ngoài làm vài động tác hít thở, tôi
vẫn duy trì từ ngày còn ở trong tù. Nhìn những miếng giấy vụn, manh chiếu rách,
miếng giẻ đã hết thời, vất, ném đây đó. Tôi vào gặp bác Bang, anh Nghĩa và cả
Phạm Lộc, tôi đề nghị:
- Để thể hiện lòng tự
trọng dân tộc, chúng ta hãy hô hào bà con mỗi người một tay hãy dọn sạch sẽ khu
vực chúng ta đã ăn ở hơn một tháng nay. Nếu không làm được sạch, đẹp, gọn ghẽ
hơn, thì phải làm như khi chúng ta mới đến căn nhà này.
Bác Bang và tất cả đều
đồng ý, bác hô hào bà con, và chính bác cũng đi nhặt từng cọng rác. Chỉ một giờ
sau, căn nhà sàn rộng nhớp nhúa, bừa bộn đã sạch sẽ gọn gàng. Dù người khó tính
nhất, cũng phải nở nụ cười.
Mọi người đã ôm đồm, bế
bồng con cái ra xếp hàng dài phía trước cửa. Anh Nghĩa, chị Châu và Phạm Lộc
dẫn đầu ra, về phía cầu tàu Trong lúc tôi đang lúi húi vơ vài chiếc quần áo cũ
và mấy thứ lặt vặt, cho vào chiếc tay nải đã rách, thủng vài lỗ, cô Hằng lẹ đặt
một cái túi xách bằng nhựa mầu xương rồng, trước mặt tôi. Mắt cô nhìn tôi như
muốn “photocopy”, miệng ngập ngừng, khe khẽ:
- Chú… dùng đi!
Nói rồi, cô vội vàng
lách vào trong góc nhà, tôi cũng chẳng cảm ơn được, như khi cô đưa hai chiếc
túi tay. Không nói được lời nào nên đã gói lại, dồn sâu vào mãi trong cùng, chỗ
trân quý nhất của tôi.
Chiếc tàu nhỏ mầu cánh
cam đang nhấp nhô, thở khò khè ngoài bến bãi. Từ xa, tôi đã nhìn thấy ông chủ
đảo và mấy người lính bên cạnh chiếc tàu. Phải nói là canot thì đúng hơn, nó
chỉ nhỉnh hơn chiếc thuyền buồm của chúng tôi một ít.
Một đám người dân Indo
quanh vùng, cả mấy đứa nhỏ, cũng ra tiễn hay tò mò, nhìn đám người bất hạnh, đã
đánh mất quê hương? Ông chủ đảo đã vồn vã bắt tay từng người, cả những đứa nhỏ
tí còn bế trên tay. Chúng tôi xin cảm tạ những người dân Indo anh em, các người
đã dậy cho chúng tôi thế nào là tình nhân loại. Con tàu đã rời bến, nhìn về
hòn đảo Natuna hiền hòa, như một dấu ấn khắc ghi, vào tâm hồn một đời, cho
những ai lỡ đường ghé đến.
Hàng chục con hải âu trắng toát, vùng vẫy trong gió lộng,
với những tiếng khu … oách , khu … oách , khu… oách, quyện vào tiếng
sóng gào. Tôi cố dõi mắt nhìn từng con như muốn tìm, như băn khoăn thấp thỏm,
vương vấn hồn vào đám mây trời trên cao. Mọi người đã xuống hết dưới khoang
tàu, tôi vẫn còn ngồi phía sau chòi hoa tiêu, rõi nhìn hòn đảo Natuna mờ dần.
Tàu rời bến chừng mươi
phút, rõ ràng, lẫn vào lớp sóng bạc đầu có hai chấm vàng sậm, rõ dần là hai con
Hải Âu. Tôi đến ngỡ ngàng, mỗi con sà đến đậu vào một bên vai của tôi, cánh nó
khỏa đập cả vào tai, vào đầu tôi. Ối giời ơi! Con ”tị nạn” chiếc cánh bị cháy
xém đã mờ, nó vừa thở vừa nhìn tôi, cái mỏ cứ cắp vào tai tôi như trách… Sao đi
mà không cho nó biết ! Hay như xin lỗi… nó đến chậm? Tôi tự suy đoán. Còn con
kia, đôi mắt hiền như bồ câu, hay sáo đá, có vẻ e ấp như một cô gái, lông má đã
nhú dài.
Như vậy, đã cho tôi
hiểu con chim ”tị nạn” là một anh chàng. Vậy cái con ở lại Chu Hải Việt Nam là
bồ hay là vợ? Tại sao không cùng đi oversea với chồng? Do con ”tị nạn” đẩy lại,
phải về nhà với con, hay cô ả ”nhát” ở lại, hoặc lưỡng lự hai lòng?
Con ”tị nạn cắn mạnh vào tai tôi, rồi bay lên cùng
với con kia. Hai con lượn một vòng quanh chiếc tàu, rồi sải cánh chui vào mây
trời với những tiếng khu… oách, khu… oách rớt
lại.
Thoáng một bóng người,
trong phòng hoa tiêu lách ra, cao lớn mầu da bánh mật, chừng 4 chục. Y nói líu
ríu cái gì nghe như : Khoét … loét … choét… Tôi chẳng hiểu gì cả . Chắc ông ta
đã thấy nét mặt của tôi… nên ông ta cũng là con cóc cố kêu được mấy tiếng : I
am… very…surprised! Với đôi mất mở to nhiều lòng trắng. Tôi giơ tay ” shake
hand ” rồi lí nhí kêu : Thank…You ! Tôi mỉm cười với ông ta . Vội vàng tôi cũng
mò xuống dưới khoang.
Chừng 4 giờ sau, tàu
ghé bến Kuku. Nhìn ngay bến tàu, vóc dáng nhà cửa, tôi đã hiểu Kuku là một hòn
đảo lớn hơn nhiều lần Natuna, thậm chí còn thấy xe đạp, mô tô chạy qua lại. Một
số người lố nhố ở cửa bến tàu, lẫn mũ Kê-pi mầu đen trắng, với mũ mầu chiến
trường.
Chúng tôi phải đi lên
đảo hàng một, để họ điểm người.
Cũng chị Châu, anh
Nghĩa và Phạm Lộc dẫn đầu để giao tế. Đoàn người rẽ phía phải vào một căn nhà,
mọi người lần lượt đến một bàn giấy có 3 người Indo để khai tên tuổi.
Tôi nhìn hai bên cửa,
có hai tấm bảng to phủ lưới thép, trong bảng có nhiều loại giấy tờ:
- Giấy chứng minh nhân
dân.
- Giấy khai sinh.
- Giấy bệnh viện chợ
Rẫy.
- Giấy thông hành.
- Giấy có những tấm
hình v.v. . .
Trên bảng có ghi chữ
to, bằng phấn trắng:
”Nếu ai biết những
người có giấy tờ này, hãy báo tin cho gia đình, họ đã chết ở biển Indo “
Tôi đọc thoáng có những
cô gái 20 tuổi ở đường Cô Giang Sài Gòn, một ông 40 tuổi ở Bến Tre, một bà 35
tuổi ở đường Lê Văn Duyệt Cầu Bông. Nhìn đọc những giấy tờ, lòng tôi trĩu nặng
đầy vơi về kiếp người, về nỗi ai oán thương đau của dân tộc. Gia đình thân nhân
có biết rằng những người này, chạy trốn cái vòi hút máu của con Hồng Tuộc, đi
tìm tự do, nhưng đã không may chìm vào lòng biển cả, trong những trận bão hay cướp
biển hãi hùng?
Đàn ông con trai vào
một buồng, đàn bà con gái vào một buồng, được lệnh phải cởi hết quần áo, xếp
hàng lần lượt đi qua một bàn giấy.
Phía đàn ông chúng tôi,
có người ngượng ngùng chưa cởi những quần si- líp. Nhưng rồi mọi người đều phải
cởi hết, có một tên Indo mặc áo blouse trắng, bắt chổng mông, nắn chim khám xét
Tôi không biết phía bên phụ nữ đàn ông hay đàn bà khám?
Thôi thì những người
mất quê hương, phải gánh chịu những niềm tủi nhục này, mỗi người mặc lại áo
quần. Sau đấy tất cả được dồn vào một buồng rộng, lần lượt đến một bàn giấy
rộng, có mấy người mũi lõ, mắt xanh để khai báo lý lịch, thân thế với đại diện
Cao Ủy Tị Nạn.
Tôi nhớ đến lượt tôi,
khi họ hỏi anh bị đi cải tạo mấy năm? Tôi nói bị tù 18 năm, cái ông Cao Ủy quắc
mắt hỏi lại:
- Tại sao lại là
“eight”?
Theo họ, người tù nhiều
nhất khi đó cũng chỉ 7 năm, từ 1975-1982, tại sao tôi lại 8? Tôi đã trả lời:
- Không phải eight mà
là eighteen!
Cả ba, bốn người đều mở
to mắt, kể cả chị Châu ngồi đấy thông dịch cũng ngạc nhiên, để rồi tôi thành
cái tên “ông tù 18 năm” độc nhất thời gian ấy, ở Indo.
Xong hết, chúng tôi
được dẫn đến một khu có hàng rào thép gai, cách đấy 300 mét, trong này có hai
căn nhà gỗ lợp tôn to, họ gọi là barrack. Trong barrack có những sàn gỗ, một
vài vết tích, tôi đã hiểu trước đây có những đợt người vượt biên ở rồi. Đặc
biệt bên cạnh có một nhà thờ con nho nhỏ, bụi bám đã lâu ngày.
Tôi và cậu Thiện đã
kiếm được cái chổi cùn, quét dọn sơ sơ, cậu cũng theo đạo Thiên Chúa, nên chúng
tôi đã quỳ gối cảm tạ Chúa, chúng tôi đã đến nơi này an toàn. Không ngờ, cũng
có nhiều người khác trong tàu, vào quỳ dưới cây thánh giá, cả gia đình bác
Bang, cậu Sinh, một số ông già, bà cả. Tôi rủ cậu Thiện ra ngoài lang thang đến
một hẻm đồi, có cây thánh giá to, nơi đây có 7 ngôi mộ cỏ dại, lá khô đã phủ
dầy. Hai cây thánh giá con thứt thẹo, ghi tên người Việt. Như vậy hẳn đây là
những người bất hạnh, nhưng vẫn còn một chút thỏa lòng, được gửi xác trên mảnh
đất tự do, ngoài nanh vuốt của con Hồng Tuộc.
Tôi và cậu Thiện đã cúi
đầu, như chào, ngậm ngùi cảm thông với các vị nằm trong mộ. Thoáng có bóng
người, làm cho tôi đến đờ đẫn bàng hoàng. Cô Hằng và cậu bé, cô thường dắt
theo. Nét mặt hiền dịu “con Đức Mẹ” lấp loáng trong làn tóc huyền giẫy giọn,
với gió chiều Kuku, đã làm cho nơi vắng lặng khô cằn, đìu hiu này, như nở một
nụ cười rạng rỡ hẳn ra. Tôi đã đến bên xoa đầu em nhỏ, nói nhè nhẹ, như hỏi:
- Cô Hằng … cũng là
công giáo?
Mặt cô lại tăng máu, cứ
au lên, lí nhí:
- . . Cháu ….. không
phải!
Ý tôi định cảm ơn cô,
đã cho tôi túi xách và đôi túi tay, nhưng lại nói ra ý khác:
- Cảm ơn…Hằng … .đã đến
thăm viếng… những người bất hạnh!
Môi cô như mím lại, dẹp
ra, mắt hơi cau lại nhìn tôi, như muốn “ăn”, làm cho hai tay tôi như quờ quạng
giơ lên, đẩy ra. Tôi đã kéo tay cậu Thiện lủi vội ra về. Cô Hằng và cậu nhỏ
cũng theo ra. Có lẽ cô chẳng yên lòng đứng lại nơi cô tịch, với những người đã
nằm yên?
Ngay chiều tối hôm ấy,
dưới ánh trăng 18 của Kuku, tôi kéo vợ chồng Phạm Lộc ra chiếc cầu gỗ phía sau
barrack. Ngồi nhìn chị Hằng Nga nhấp nháy, trong nước triều dâng mấp mé, tôi đã
trang trọng nói với, cả hai vợ chồng Lộc:
- Dưới mặt trăng và
trên chị Hằng (một chị Hằng dưới nước), tôi xin cúi đầu biết ơn Lộc + Liên, lời
của một người tự trọng hàm ơn. Khi đến nước thứ ba, tôi sẽ nỗ lực với trí óc và
đôi bàn tay, bằng mọi cách tôi sẽ thanh toán 3 cây vàng ân tình, ưu tiên hàng
đầu trong cuộc sống.
Cả hai vợ chồng đều
cười rộ:
- Chúng em đã đòi đâu?
Còn 6, 7 người nữa ở trong thuyền, nhưng anh là người nói đầu tiên, chúng em
vui lòng rồi?
Khoảng 5 ngày sau, một
đêm tôi đang mê mệt trong giấc ngủ nhiều mầu xanh dương, tôi giật mình thức
giấc. Tiếng gào, tiếng rú của gió Kuku, xa xa nghe tiếng biển, sôi lên ùng ục.
Gió réo vào mái, vào vách, mưa như đổ nước, căn barrack rung lên như động đất.
Chiếc thuyền 61 người tối hôm qua ghé đến Kuku, đang ở banack bên cạnh. Mấy ông
bà chạy túa ra cửa nhìn nhớn nhác.
Barrack bên này cũng
nhốn nháo dậy cả, dưới ngọn đèn 100 watts của cả khu, hai bên nhìn nhau bằng
những đôi mắt chẳng có lòng đen. Chẳng ai nói một lời, nhưng hẳn tự thầm suýt
soa nổi da gà: ” Nếu thuyền mình còn ở ngoài khơi, chắc chẳng còn nhìn nhau
bằng những đôi mắt thất thần ?”. Gió hung hãn xoáy rồn rột như cây đổ, đá rơi.
Sáng sớm hôm sau, tin
tức còn tối đất, do phòng kiểm thính Kuku, có một chiếc tàu chở 106 người đã
chìm xuống đáy biển bên phải đảo Binkulu, cách Kuku 16 hải lý.
Xin cảm ơn những tâm
hồn “đứng thẳng” của các vị Cao Ủy ở Indo. Mới tờ mờ sáng, một chiếc tàu của
Cao Ủy với dáng dấp của mấy vị đã xét hỏi tôi mấy ngày trước, họ đã rẽ sóng
tiến về Binkulu, may ra còn cứu vớt được người nào. Cả hai con thuyền 53 người và
61 người đều ra mé biển, ngóng về hướng con tàu đắm, cầu xin trời Phật hãy cứu
giúp những kẻ khốn cùng.
Mãi gần buổi chiều, con
tàu Cao Ủy mới trở lại, tôi làm sao quên được cái hình ảnh một đời. Cái ông
Cao Ủy bụng to, bước lên bờ đầu tiên, tên ông là Bob người Canada, người đã đếm
đốt ngón tay cười với tôi, khi biết tôi tù 18 năm: ” Như thế cả tuổi trẻ của
anh trong nhà tù? “.
Ông Bob hai tay cầm hai
cái que gỗ dài, mỗi que xọc đeo hơn chục chiếc dép, guốc xanh đỏ, cả dép Thái
Lan. Theo ông, tàu Cao Ủy đã cố công tìm kiếm phía sau đảo san hô Binkulu. Chỉ
có hơn một chục xác chết đàn ông, đàn bà, con gái trẻ con dạt vào bãi, vài chục
chiếc dép guốc rải rác đó đây, còn tất cả, cả con tàu đều biến mất, chỉ còn
nước với trời.
Điều đặc biệt, tàu đã
kiếm được một người duy nhất còn sống, anh ta nằm rúc đầu vào một tảng san hô.
Khi lôi ra thì tim anh còn đập, nhưng không hề biết một điều gì, trong giấy tờ
tên là Lý Minh, người Việt, gốc Tàu 34 tuổi. Cao Ủy đã đưa trước về phía bên
kia Kuku, có bệnh xá.
Do tính sục sạo tò mò,
ba ngày sau, tôi đã rủ cậu Thiện đi bộ hơn ba cây số, đến tận bệnh xá, để nhìn
cái người duy nhất còn lại, của một chuyến tàu định mệnh 106 người. Sau một
lúc tìm tòi thăm hỏi, chúng tôi đã đến chỗ giường nằm của cậu Lý Minh, mặt và mắt
của cậu trắng bệch như không còn máu. Có thể quá hãi hùng nổi chìm trong nước,
trong những cơn sóng thần sầu, để rồi thần biển đã nhét đầu cậu vào một tảng
san hô.
Cả 106 người, chỉ còn
một mình cậu sống sót, nhưng hồn vía cũng chẳng còn. Không biết bố mẹ cậu, vợ
con cậu, anh chị em của cậu, có cùng đi chuyến tàu xóa sổ này không? Có chăng
chỉ xin hỏi ông trời, nỗi uất nghẹn thương đau này vì đâu?
Tôi vừa về tới barrack
thì cậu bé đã đến bên, ghé tai:
- Chú ơi! Chị Hằng mời
chú, ra phố uống nước!
Ngạc nhiên, đắn đo,
nhưng những chuyện khác thường vẫn có sức lôi cuốn lòng tôi, nghĩ thế tôi đã
gật đầu với cậu bé. Cậu bé về một lúc, Hằng và cậu bé đi ra phố, tôi để cho
Hằng đi một quãng, tôi đi theo.
Cô Hằng như có mắt phía
sau, cô đi vòng đến gần một đồn cảnh sát, nơi có một số nhà, mấy cửa hiệu tạp
hóa. Đặc biệt chỉ có một tiệm bán đồ giải khát, thấy cô và cậu bé ngồi mãi một
cái bàn phía trong, tôi cứ tiến vào. Trước mặt cô và cậu bé, mỗi người có một
lon Coca với cái ly, một lon và một ly để đối diện, cô đã giơ tay mời tôi ngồi.
Thực sự, tôi cũng chưa
bao giờ nhìn thấy Coca, chứ đừng nói là thưởng thức, tôi cũng nói thực, tôi
chưa hề uống cái loại này. Cô vừa mở, vừa rót vào ly cho tôi và cũng chân
thành:
- Hằng… cũng mới uống
một lần ở …. Sài Gòn !
Hôm nay Hằng lại xưng
tên, tôi cũng ngập ngừng nhìn vào đôi mắt nhiều điện từ, hỏi thẳng:
- Làm sao … tôi được
ngồi đây … hôm nay?
Hằng nhìn ra một khung
trời, ngoài cửa sổ:
- Để mừng … chúng ta
còn sống … và cảm tạ đất trời !
Tôi vẫn không rời đôi
mắt, nhiều điện thế:
- Rồi sẽ đi … .một con
đường thật dài !
Hằng đã biết ý lấp
lửng, nên cằm cô hơi ưỡn ra một cái, một tí lưởi đỏ lè ra giữa cặp môi mím,
giống hệt một nụ đào đầu xuân bất đầu hé. Tôi quờ quạng, vớ vào ly Coca đưa lên
miệng, như muốn đè bớt nguồn rạo rực bốc lên hừng hực. Giữa lúc ấy, vợ chồng
Phạm Lộc từ ngoài cửa bước vào. Đôi mắt của Lộc +Liên quắc lên như xì khói,
nhìn Hằng và tôi, rồi quay ngoắt ra.
Cậu bé, tôi đã biết tên
là Thành, gọi với theo: ”Cô Liên ơi! “
Nhưng hai người như
không nghe thấy, đi khuất vào đám đông.
Tôi đang dự định uống
hết ly nước, rồi kiếu từ, nhưng thái độ của Lộc + Liên, tôi lại ngồi lại nữa.
Nụ đào hơi nhếch lên như cười nhưng rèm mi hơi khép lại, nét mặt rắn cương ra.
Hằng quay lại tôi, rành rọt:
- Chú … có thích thiên
nhiên?
Câu này đáng lẽ tôi hỏi
Hằng, nhưng tôi lại nói một câu không đâu:
- Trăng nước Kuku vừa
dữ lại vừa hiền!
Hằng nhìn như muốn vẽ,
vào miệng tôi:
- Chú có thể … .nói rõ
với Hằng?
Cô này có trình độ, nên
tôi cứ thực lòng:
- Tôi ngắm mãi nàng
trăng tối hôm qua, nét mặt chất phác hiền hòa, nhưng tôi có một cảm giác không
lành. Dù bộ mặt như ”ma soeur” nhưng cứ nghĩ chuyến tàu 106 người, tôi lại
thấy nàng trăng Kuku nhiều bí hiểm.
Đã hơn một giờ chuyện
trò ngoài quán nước, tôi xin từ giã, vì có hẹn với cậu Thiện. Được biết cô Thu
Hằng ở phía bên Tân Thuận, vì trục trặc hơn hai năm, nên bây giờ cô vẫn còn
đang học lớp 11. Tôi cũng hơi ngạc nhiên về thái độ của vợ chồng Lộc+ Liên;
định hôm nào thuận tiện, tôi sẽ hỏi thẳng.
Giống như tối hôm qua,
lại một mình tôi mò ra phía cầu gỗ phía sau barrack, để nhìn nàng trăng lạ
Kuku. Để nghe nước biển chuyện trò với gió lộng và để nhìn về phía quê hương,
và có lúc lắng đọng để nghe lòng mình nhún nhẩy, đong đưa với cảnh đời mới.
Quê nhà đã vào tháng củ
mật nên đêm thật dài, mới hơn 6 giờ chiều chim muông đã sải cánh về tổ ấm, gà
qué đã ậm oẹ lên chuồng.
48.
VÕNG LÕNG ĐU ĐƯA
Mãi 8 giờ chị Hằng mới mò lên chịu soi gương xem mặt mình.
Nước triều lênh láng, gió dìu dịu như đèn cạn dần dầu. Tiếng quậy của một con
cá ở dưới cầu, tôi ngoái lại, một làn hương lạ, quyện vào gió chiều. Tôi không
tin được, trong bóng tối sáng lờ mờ, cô Hằng đang lò dò tiến ra cầu, dáng đi
rụt rè vì sợ té hay vì ngại ngần? Vì cái gì, tôi cũng quay lại. Tôi đã cầm tay Hằng
dẫn cô đi một đoạn cầu, không biết tay tôi run hay tay cô run, nhưng rõ ràng
mát như lụa, mát như cái cảm giác ban đầu cô ngủ mê, gác chân lên ngực tôi.
Cái buổi ban đầu… lưu
luyến ấy
Ngàn năm… chưa dễ … đã
ai quên?
(ai quên hay quên đi
tùy theo tâm trạng)
Chỉ một đoạn cầu, ý
tưởng của bác Nguyễn Bính đã sồng sộc, xốc vào hồn tôi. Do mỗi người đều có
lòng tự trọng nên tôi và Hằng đã ngồi cách xa nhau một cánh tay. Cô Hằng giọng
ngọt như nước mưa đầu mùa:
- Chú …. hay ra đây
ngồi một mình?
Nhìn làn tóc óng ả đen
huyền, mềm như sóng lùng trong vụng, tôi nôn nao, thở nhè nhẹ, lẫn vào gió:
- Để.. nhìn về ….quê
hương!
Hằng “hứ” lên một cái,
nghe như tiếng con nai tơ “hực” lên mỗi khi gặp con dê mật, đang gãi sừng trong
rừng thu. Nhìn vào hai đốm sáng, tôi hỏi đùa:
- Đã khi nào Hằng nhìn
thấy ba mặt trăng một lúc chưa?
Giọng cười khèn khẹt
như gà giò mới biết gọi trống:
- Thôi! ” Đốt ” chú đi!
Tôi định nói cho vui
như nỗi niềm hơ hớ nhựa trong lòng: “đốt ” tức là ” nướng “, vậy Hằng định ăn
hết hay một nửa? Nhưng khi nghe những tiếng cười khúc khích của mấy đôi, phía
bên cầu barrack kia, tôi nói như giải lý nghiêm trang:
- Một chị Hằng ở trên
trời, một chị ở dưới biển và một cô em Hằng ngồi trước mặt!
Trong barrack tự nhiên
có tiếng đập vào cửa phành phạch liên hồi, như tiếng xe bình bịch nổ máy. Hằng
đứng lên. Đưa Hằng trở vào rồi, tôi trở lại, ra cầu tiêu. Tôi đã chỉ cho Hằng
một ngọn thông cao nhất, trong một khoảnh rừng non sát mé biển. Xa chừng 300
mét phía trong phố, để cho Hằng yên lòng, tôi nhấn mạnh rõ ràng: ”Đúng 6 giờ
chiều mai tôi đã có mặt ở đấy rồi“,
Hằng đã yên lặng gật
đầu.
Thật sự cái đêm hôm ấy,
tôi nằm mà cứ như đang bơi trong nước, hay bay trong mây. Tôi nằm để nghe, để
cảm nhận từng ngóc ngách tâm trạng của một người có “hẹn hò” nó sẽ như thế nào?
Mỗi ai hồi tướng lại, cái buổi “hẹn hò” đầu đời của mình, mới thấy cái rạo rực,
run rẩy. Lúc thì rõ ràng quang đãng, như trời không mây; lúc lại lờ mờ, như
sương mù tháng củ mật, của lòng tôi lúc này.
Chuyện riêng… ai chằng…
một lần mím môi?
Ngỡ ngàng là … tiếng
lòng tôi
Bâng khuâng là cả ….nẻo
trời bâng khuâng.
Chiều hôm sau, tôi đã
rời barrack ngay từ 5: 30, tôi len lỏi đến tận gốc thông già, và đã vặt những
cành lá thì mới lớn, để chuẩn bị một chỗ ngồi. Tiếng dạt dào, xao xác của sóng
biển vọng đến, lẫn với những tiếng re re của dế cơm, dế chũi. Mà cũng lạ ,
tiếng dế chiều của Indo, khác hẳn với tiếng dế của quê nhà . Tiếng dế của đồng
nội quê hương mình nó ngọt, nó êm; nó không dằn dỗi tức tưởi, như tiếng dế ở
đây.
Một chiếc lá rơi, một
tiếng chim hắng dạng, cũng làm tôi quay lại, tướng như “người ấy” đã … thập
thò.
Rồi một làn hơi lạ,
thoang thoảng như mùi hoa móng rồng xoắn cuộn vào hơi lá cây rừng. Trong ánh lờ
mờ, Hằng từ trong ấy rụt rè tiến ra, không một lời nói. Như có một lực hút của
nam châm, tôi và Hằng đã ôm chặt, như không còn ôm được nữa. Hằng hổn hển áp
mũi và mặt vào cổ tôi. Cái mùi hoa móng rồng, như cả chùm, úp chặt vào mũi tôi,
tay của tôi tự nhiên như mất hết sức, rủn ra. Tôi tường như phải ngã đổ kềnh
ra, thì một hồi trống cà rùng gióng lên, ngay phía bên ngoài.
Năm, sáu cậu thiếu niên
14- 15 tuổi đuổi nhau, chạy xổ vào trong đám rừng non. Các cậu mặc quần áo boy
scoot, hò hét tiếng Indo, tôi và Hằng chẳng hiểu gì. Như một thùng nước lạnh
dội vào người đang ngủ, Hằng đã lủi ra đường, và tôi đờ đẫn nhìn mấy cậu Indo
đùa dởn , như nhìn một chiếc thuyền câu, gió đổi chiều.
Tôi chưa muốn trở về
barrack, tôi lang thang đi vào mấy phố lạ, trong bóng điện mập mờ chỗ sáng, chỗ
tối. Tay này sờ lay kia, tôi sờ cổ, sờ má. Thậm chí, tôi sờ, tôi xoa cả bên
ngoài chiếc áo sơ mi như tôi muốn tìm lại, một chút quen quen vừa mới đây. Cả
cái mùi nhè nhẹ vương vấn, của móng rồng còn quấn, quẩn vào quần áo của tôi.
Đến một con đường hẹp,
từ trong một ngõ hẻm, bóng một phụ nữ Indo, bế một đứa con nhỏ đi ra, tóc của
người mẹ thật dài, đứa nhỏ cứ vơ lấy cuốn vào cổ nó. Cũng như có một lực hút
ngầm, chân tôi đã quẹo đi theo hai mẹ con. Một luồng lực âm từ chui xộc vào tâm
hồn, làm tôi quặn thắt lại. Em Hoa, người vợ tận tụy thủy chung của tôi, đang mòn
mỏi ở quê nhà, tại sao tôi còn đu đưa tìm hương sắc lạ?
Tôi đã đi theo hai mẹ
con cả một đường phố dài, cho đến khi họ rẽ. Tôi lững thững lần ra nơi có tiếng
sóng gọi, mời. Tôi cứ bước những bước đi vô định, trên bãi cát lạ, vắng người.
Tai nghe tiếng sóng gầm ghì dạt dào, như những lời oán trách, chửi bới của
người mẹ mù lòa, và người vợ thơ dại trằn trọc trong những canh khuya. Người
con, người chồng đã ra đi vào giông bão để cứu mình, cứu gia đình và may ra góp
được một phần nhỏ bé, cứu quê hương?
Chân tôi đã mỏi dừ, mà
lòng vẫn còn vặn vò khắc khoải. Tôi ngồi hẳn xuống một phiến đá lồi, dõi mất về
hướng quê nhà. Tôi cứ nhìn mãi về phía xa xôi mờ mịt ấy, như muốn nguồn cơn với
biển, với trời, chẳng lẽ con người của tôi lắt lay không có hướng như vậy?
Mới đến KuKu gần 10
ngày, đang chờ tàu cao ủy đến đón, đưa về nơi chính là trại Galang. Những buổi
chiều muộn, buổi tối khuya từng cặp của cả hai barrack, ở trên cầu hay ngoài
bãi. Không thể phủ nhận được một điều, sau một chuyến hãi hùng đi qua một cửa tử
thần. Riêng tư, cá biệt không kể, hầu hết tâm tư của mỗi người đều mở rộng, như
một kiếp đời mới để đón nhận, một cảnh đời nhiều mầu xanh phía trước. Nếu không
nhìn rõ tâm trạng này, sẽ không thể thấu triệt, nhìn những sự việc khác thường,
trong cảnh đời tị nạn nơi xứ người.
Tôi cứ ngồi mãi, để
lòng tôi tâm tình, chuyện trò với sóng, với gió, với đất, với trời và với mây.
Chẳng phải do những tiếng phành phạch đập cửa, càng không phải do những cái
quắc mắt của vợ chồng Phạm Lộc. Những cái đó chỉ càng làm cho tôi chạy nhanh,
chạy đường hoàng hơn tìm cái tôi muốn. Cái khác, cái không nhìn thấy nhưng lại
có sức mạnh áp đảo là nhân cách, đạo đức của một người. Mấy tiếng đồng hồ, tôi
ngồi một mình trong khu biển vắng, đã phân định rõ con đường phía trước, dù cho
có nhiều chông gai, lầy lội cũng chẳng thể làm đổi hướng. Tôi chỉ nỗ lực vượt
qua, như tôi đã vượt qua những hầm hố, những tử sinh của đời.
Tôi trở về đến barrack
đã 11:30 đêm, để rồi sáng hôm sau, 6 giờ tôi đã ra khỏi barrack, lại trở ra
vùng sóng gió, tôi cứ dọc theo ven bờ, tôi đi mãi để nhìn những cảnh vật chưa
bao giờ thấy. Điều chính yếu, tôi nói với tôi, chưa đủ uy lực để chống đỡ với
sóng điện từ, của một đôi mắt trong như nước giếng chùa Láng, giữa Thu.
Mãi chiều tối hôm ấy,
tôi mới trở về, được tin sáng mai có tàu Cao ủy từ Galang, đến đón cả hai
thuyền. Sáng sớm hôm sau, một chiếc tàu tương đối, ghé bến KuKu đón cả hai
thuyền, thuyền buồm chúng tôi 53 người, và thuyền kia 61 người. Đó là ngày
30-01-1983.
Vì tôi thích gió, nên
tôi ngồi ngay mũi của chiếc tàu, ngồi nhìn những lớp sóng bạc đầu đuổi nhau,
tư tưởng của tôi bay nhẩy như một cánh bướm, trong một vườn hoa nhiều loại,
nhiều mầu. Chợt một thoáng về con “tị nạn”, lại lang bang về bến bãi Chu Hải
Vũng Tàu. Tàu đi cứ mỗi ngày mỗi to hơn, Natuna tới Kuku, rồi hôm nay từ Kuku
đến Pulau Galang.
Nhìn những làn sóng
cuồn cuộn đầu trắng như bông lại thấy thơ mộng, chẳng còn thấy hung dữ, bí hiểm
như ở Chu Hải. Nhìn một đám mây vàng đang lướt thướt ở trên cao, cái đúng với
lúc này, lại sai ở lúc khác. Chỉ mấy tháng trước, tôi thành khẩn làm đơn xin
Đảng, và nhà nước mở rộng bàn tay nhân đạo, cho tôi trở lại nhà tù.
Nếu khi ấy Đảng lại
chấp nhận lời xin xỏ của tôi, thì làm sao tâm hồn tôi lại la đà bay trên ngọn
sóng, hôm nay? Cho nên ngay công lý không những phụ thuộc vào không gian, thời
gian, mà còn phụ thuộc theo điều kiện, hoàn cảnh nữa.
Mới khoảng 3 giờ chiều,
đã nhìn thấy ngọn cờ Cao Ũy Tị Nạn trắng nõn, dẫy dọn ở một khu có nhiều nhà.
Mãi đầu mỏm Galang, lá cờ Indo đỏ trắng, cũng đang vẫy chào, như mời gọi những
con người tha phương bất đắc dĩ, vì Tổ Quốc bị thằng con côn đồ, rình đâm lén,
đang còn nằm dưỡng thương.
Tàu ghé bến Galang,
lần lượt theo thuyền của mình, được dẫn đến một khu nhà gỗ lợp tôn, mỗi nhà dài
3 – 4 chục mét, cũng gọi là barrack. Nhìn trải dài chung quanh, có rất nhiều
khu nhà barrack, như một thành phố trù phú dân cư. Thoáng chợt một cái gì gần
gũi, nhưng quý trọng thiêng liêng, tôi có nhìn lầm không? Rõ ràng, lá cờ vàng 3
sọc đỗ, đang lắc lư xa xa phía
trong, như Tổ Quốc kính
yêu nhớ thương, biền biệt của tôi từ hơn 20 năm rồi.
Mặc kệ bà con sắp xếp
tìm chỗ nằm, tôi kéo tay cậu Thiện rảo bước, hướng về lá cờ Tổ Quốc, xa chừng
hơn nửa cây số. Lắt léo một số đường ngang dọc chắn ngang, tôi vượt hết, cậu
Thiện cũng bở hơi tai chạy theo tôi. Tôi và cậu đã đến chân cột cờ. Đó là khu
ban đại diện của cộng đồng Việt Galang. Thảo nào khi nãy, có một số ông niềm nở
ra đón, và đưa chúng tôi vào barrack.
Nhưng lá cờ Tổ Quốc đã
thu hết tâm hồn của tôi rồi! Tôi ngước nhìn lá cờ vàng rực rỡ, tôi khoanh tay
cúi đầu như kính chào. Một đứa con lạc lõng bơ vơ, mấy chục năm dài trong hang
rấn, tổ sài lang.
Nhìn lá cờ nhún nhẩy
như nụ cười đôn hậu của tổ tiên, hồn thiêng của sông núi., tôi có cảm tường như
biết bao nhiêu hồn thiêng, của đồng bào và chiến sĩ đang quắn quít, chung quanh
lá cờ.
Tôi và Thiện khoanh tay
và kính cẩn cúi đầu lần nữa, kính chào tạm biệt ông cha, chúng tôi chạy vội về
barrack để lo chỗ ăn, chỗ nằm. Barrack của chúng tôi số 33 thuộc Zone hai . Tối
hôm đó chúng tôi đã được biết sơ sơ:
Hiện nay, tổng số đồng
bào tị nạn ở trại trên 14,000 người. Những người của chiếc thuyền buồm chúng
tôi, đã có địa chỉ để liên lạc thư từ, với thân nhân ở ngoại quốc.
Boat : Đ N 2013 CA ,
INS 7881 34 Banack 33, Zone II Refugee Camp, Galang I INDONESIA
Tôi xin thưa cùng quý
vị:
Một phần tôi có những
chi tiết thời gian, không gian và sự việc, do 1992 vợ tôi (Hoa) sang Mỹ đoàn
tụ, đã mang theo những lá thư đầu tiên tôi đến Galang. Tôi gửi về cho mẹ tôi,
cho Hoa qua những địa chỉ của chú Thương ở Pháp, bạn bè BK ở Mỹ, và những phái
đoàn Caritas đến thăm trại tị nạn.
Hoa cũng đem theo:
- Những cuốn vở trình
diện, hàng ngày của tôi.
- Giấy tạm trú nhà bố
mẹ, 3 tháng một lần.
- Các giấy tờ tiểu ban
QLNNHTĐV, công an Thành, Quận, Phường, khu vực nên có tên thật và chức vụ của
họ.
- Giấy chứng nhận, của
Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa, (nơi tôi làm việc)
- Cả tờ giấy nháp tôi
xin Đảng trở lại tù.
- Giấy kiểm điểm vắng
nhà, hàng tuần lễ vượt biên, không thành v.v…
Thậm chí có cả một
chiếc bí-tất dầy bằng những giẻ chùi trong cầu tiêu, để chống muỗi ở xà lim I
Hỏa Lò. Cả một chiếc lược nhôm, tôi tự làm với Lê Sơn ở trại E, phố Lu Lào Cai
1968.
Galang do mưu sinh,
nhiều người tạo lập những quán hàng, nên có một đường phố dài, nhà cửa chắp vá
hai bên, để rồi có một rạp ciné, có nhà thờ, có chùa, có trường học cho các em
nhỏ, và không thể thiếu có một đồn cảnh sát Indo dù ban đại diện cộng đồng đã
có một tiểu tổ trật tự, để giải quyết những vụ việc tất nhiên, trong cộng đồng
hơn chục vạn người, mà quyền tự do mỗi ngày mỗi tăng ở trong lòng mỗi người,
một quần thể đông đúc, người cùng một quê hương , cùng chạy cộng sản trong giai
đoạn này.
Riêng với tôi, vì nhiều
lý do để tâm trạng của tôi, dần dần vón cục lại, dù 14 ngàn người này, đủ mọi
thành phần xã hội. Khi tôi từ miệng con Hồng Tuộc trở về: Bố mẹ, em gái, bạn
thân còn không nhận ra tôi, nên hầu như ở đây tôi không có ai là người quen
biết.
- Tâm tư còn đặc sệt
máu và mủ của quê nhà ngày đêm còn nặng mùi nên chẳng ai muốn gần ai.
- Những lo toan danh và
lợi của mọi người làm cho tôi lạc lõng, cô đơn, quạnh hiu.
Tôi xin nói sơ về giá
sinh hoạt khi ấy (đầu 1983) ở Galang để quý vị có một chút khái niệm:
1 đồng Việt Nam = 12
Rupias (tiền Indo)
1 lượng vàng = 400,000
rupias.
Bó rau muống độ 20 ngọn
giá 100 rupias; quả bầu 3kg giá 500 rupias; mướp 1 quả giá 200 rupias; bát phở
giá 500 rupias; 1 vé ciné 500 rupias; 1 lon bia 600 rupias; ly cà-phê đá 200
rupias.
Tàu của tôi khi đó đến
80 phần trăm có thân nhân ngoại quốc gửi tiên cho bằng money order, money
transfer cứ 100 Mỹ kim= 80,000 rupias.
Do hoàn cảnh riêng tôi
chẳng để ý đến những thứ ấy. Ngoài những ngày phải đi interview, khai báo với
các phái đoàn, sáng sớm dậy tôi đã ra khỏi barrach để đi vào một khu rừng non ở
gần đấy tới khi trời tối mới trở về barrack. Khi đó Cao Ủy phát cho mỗi người
hai gói mì khô mỗi ngày. Nhiều người, nhiều gia đình họ đem mì đổi gạo v.v..
xoay sở. Nhưng với tôi đã quá đủ rồi, hai gói mì: sáng một, chiều một.
49.
SƯỚNG KHỔ, KHÔNG CÓ TIÊU CHUẨN
Tôi làm được một cái chòi con ở giữa rừng, đủ để ngồi che
mưa, nắng. Bên cạnh có một dòng suối con róc rách, cứ như Thiên Thai của cụ Văn
Cao. Túi tôi thì rỗng, nhưng đầu tôi thì không còn chỗ chứa: tiếng chim hót,
tiếng suối reo, gió mưa, cảnh vật không còn chỗ xếp. Tôi vào rừng như thế có 3
mục tiêu chính:
- Cần đi vơ vét nhặt
nhạnh lại Anh ngữ trước đây đã rơi rụng gần hết.
- Giữ tâm hồn đi một
con đường, tránh những dòng điện giật.
- Thưởng thức cái tự do cho cả cơ thể lẫn tinh thần và hoà
nhập với thiên nhiên, thực hiện lời dạy của cụ Nguyễn: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ….”
Chính trong cái tĩnh
lặng, thanh vắng, tư tưởng mới chui luồn sâu vào từng ngóc ngách của mỗi sự
việc. Tôi hiểu, nếu trong cuộc sống, mình muốn cái gì cũng được thì cuộc đời
đâu có còn ly kỳ, hấp dẫn nữa?
Cho nên sự khổ đau và
hạnh phúc chỉ là sự tương đối, không có tiêu chuẩn nào cả. Có bao nhiêu của
cải, nhà cửa, ruộng vườn là hạnh phúc? Còn đói khát, tù đày, mù loà, tàn tật
thì khổ đau?
Đó là sự huyền diệu, kỳ
bí tạo hoá đã ban cho loài người! Tôi nhớ một sự kiện nhỏ mà bản thân tôi đã
trải qua:
Thời gian: khoảng cuối
1969 đầu 1970 sau khi HCM chết.
Không gian: phân trại E
của trại trung ương số 1 phố Lu Lào Cai.
Khi ấy do Trung Úy
Hoàng Thanh làm giám thị, trại ở vào một nơi hẻo lánh, giữa một khu rừng già,
xa với người dân. Tù nhân trong trại khoảng trên dưới 350 người.
Thành phần: hầu hết là
tù chính trị, gồm chừng 70 người dân tộc: Mường, Mán, Mèo, Nhắng, Núng, Thái,
Thổ v.v…VC ghép chung cho cái tội là thổ phỉ, cướp rừng.
- Có khoảng 20 người là
tu sĩ, chủng sinh (Đi tu ở chủng viện VC đóng cửa, bắt về nhà lấy vợ)
- Chừng 30 BK gián điệp
trong Nam ra Bắc hoạt động chống VC, còn lại hơn 200 là người ở các tỉnh trên
miền Bắc, VC ghép chung cho cái tội là, phản tuyên truyền, phản cách mạng.
Cũng như nhiều các trại
tù của VC trên miền Bắc, ăn uống đói khổ: Ngô, khoai, sắn, bo bo độn vào gạo.
Không biết vì lý do gì, bặt đi hàng tuần lễ không hề có tí gạo nào, chỉ có sắn
và bo bo.
Đúng là không có tự do,
mới thấy giá trị cần thiết, của tự do. Không có ánh nấng, mới thấy ánh nắng, là
kỳ diệu tuyệt vời. Chúng tôi bắt đầu nhớ và thèm cơm, rồi đến tuần thứ 2, thứ 3
thì bất cứ lúc nào mệt ngủ đi, chứ không thì bất cứ ở đâu ngoài nương khoai,
vườn sắn, hay trong rừng chặt tre, đốn gỗ, ở lán thủ công nơi tù lao động, lúc
nào tâm tư, cũng như chuyện trò, ai cũng chỉ nghĩ và nói về cơm. Rồi tuần lễ
thứ 4, thứ 5 thì trại bắt đầu đi kiết lỵ nhiều, mặt anh nào cũng tái ngắt, mắt
trắng dã nhìn nhau.
Thương hại nhất là các
bác già, răng đau hoặc không có, móm mém ăn bo bo không nhai vỡ hết nên, khi
đại tiện ra còn nguyên hạt. Nhà xí, nhà cầu của trại cũng không còn hôi thối
nữa. Ăn phải có mắm muối, hay ít cá thịt thì phân mới thối. Do đấy có những anh
đói qua, tiếc rẻ của trời đã chui vào thùng phân, hót nhặt những hạt bo bo còn
nguyên. Khi đi lao động ra suối rửa, rồi cho vào ống nứa, nấu lại mà ăn.
Qua bản thân, tôi xin
thành thật mà nói: Giai đoạn này, bất cứ đêm hay ngày, cuộc đời, cha mẹ, họ
hàng, anh em, miền Nam, cả tổ quốc, quê hương chẳng cần và không còn lúc nào
tôi nghĩ tới nữa, mà chỉ nghĩ đến ăn, đến cơm, đến những bữa ăn tưởng tượng.
Nếu khi mệt thiếp ngủ đi mà mơ, cũng mơ đến ăn mà thôi, ngày 2-3 người chết là
thường.
Chả trách VC họ giữ ổn
định vững vàng, chế độ của họ được là thế ! Bất cứ người dân nào, từ cán bộ,
công chức thợ thuyền v.v.. ai cũng chỉ đêm ngày, tính toán cho cuộc sống gia
đình, không thiếu hụt, đói khát mà thôi. Có thể (tôi suy đoán), ban giám thị và
cán bộ, thấy tình trạng này thì tụi tù, sẽ chết dần hết. Họ họp nhau, sau đó
quyết định thứ Bẩy này, sẽ cho tụi tù ăn, một bữa cơm.
Tin còn bí mật, nhưng
có thể một tên cán bộ nào đó chỉ nói riêng với một tên tù thân tín, như tổ
trưởng, toán trưởng v.v. . . là chiều thứ Bẩy này, trại sẽ có một bữa cơm, nhớ
chỉ một mình anh biết thôi ! Tin quan trọng như vậy, mà bảo chỉ mình anh biết.
Anh đó phải có người thân tín khác, cho nên chỉ ngày hôm sau, cả trại hơn 300
người ai cũng biết cả .
Còn một ngày nữa, mới
tới cái bữa cơm chiều thứ Bẩy, mong chờ ấy. Thế mà tù nhân, gặp nhau bất cứ ở
đâu, lúc nào, mắt cũng sáng long lanh như nhắc nhở: “Còn một ngày nữa thôi đấy
nhé!”. Để rồi cho tới đêm hôm thứ Sáu. Qua tôi, tôi tin rằng, đêm ấy là cả một
trời thơ mộng, cho chiều mai của mỗi người tù. Ngay sáng hôm sau, toàn trại tập
họp để đi lao động như mọi ngày. Dù không cần nhìn cũng phải thấy, mặt mọi
người tù, như có một khí thế khác thường. Mắt ai cũng như sáng hẳn ra, mấy bác
già khó tính, miệng cũng hay nở nụ cười, bao dung với mọi người .
Và chiều hôm ấy, (thứ
Bẩy tuyệt vời) chưa về tới trại, hãy còn lưng chừng, gần trại E thôi. Mùi cơm
nồng nàn từ bếp thơm phức đã tỏa phì ra, để những anh chàng tù, ai cũng muốn
cong mũi lên hà hít, rồi nhìn nhau mỉm cười.
Vào trại, nhìn cảnh tù
ríu rít chạy như con thoi, người ta bảo “vui như ngày tết “! Cá biệt một vài
anh không thể kìm hãm lòng mình được, khi còn đang cân cơm đổ vào từng bát ở
ngoài sân, anh ta đã chộp lấy phần của anh, dù chia chưa xong, bốc lấy bốc để,
mắt trợn ngược, mồm há hốc đút cơm vào rồi.
Một số những người trầm
lắng, họ thong thả đường hoàng, đưa cơm về chỗ đậy lại. Nếu không thể chế ngự
được cái háo hức trong lòng, để nuốt vào những giọt nước rãi thèm khát rỉ ra,
thì chỉ nhón một vài hạt cơm, cho vào miệng, khe khẽ nhai mà thôi !
Cá biệt có vài anh, dứt
khoát, cương quyết không động vào một hạt cơm, đợi cho cán bộ vào buồng điểm
xong, bấy giờ về chỗ mới bỏ màn xuống. Không sáng lắm vì ánh điện yếu lại ở
trong màn, thì chịu khó rờ rẫm cũng sẽ phân biệt, từng hạt cơm để mà hường thụ,
để mà thường thức dần dần cho đã niềm thương nhớ, nỗi thèm thuồng của gần 2
tháng trời chứ có ít đâu!
Tạo hóa đã ban cho loài
người, một kỳ vật cao quý như vậy, mà nhiều người lại coi thường. Ngay tôi, bây
giờ ở bất cứ nơi đâu, dù cả ở xứ Cờ Hoa này, cơm, bánh, thực phẩm, loại đắt
tiền nhất tràn lan, u hề chung quanh, làm sao tôi tìm lại được bữa ăn có cảm
giác thèm khát háo hức ngon, như chiều thứ Bẩy ở phân trại E, tù ngày ấy?
Từ đấy, nhìn vào thực
tế cuộc sống xã hội, những người chán đời tự tử, từ bỏ cuộc sống; không phải là
những người bị mù lòa, tàn tật hiểm nghèo nhất. Cũng không phải là những người
trong hoàn cảnh đói khổ, nghèo túng nhất. Chúng ta đều đã suy ra khổ đau và
hạnh phúc trong cuộc đời, chỉ là một sự tương đối.
Điều quan trọng là phải
biết ứng dụng; nâng cao ý chí chịu đựng và chuyển đổi hoàn cảnh của mình.
Có những buổi chiều
tối, từ trong rừng trở về, tôi thường lang thang về một đường phố dài nhiều
hàng quán, do người tị nạn tạo lập Những cửa hàng của người Tàu, người miền
Nam, miền Bắc, miền Trung, đủ kiểu đủ loại. Tôi có cảm tưởng như chợ Đại Cống
Thần của đồng bào Hà Nội tản cư, hồi trước 1954.
Có một cửa hàng trái
cây của người Hoa, tôi cứ lượn qua, lượn lại nhiều buổi tối. Nhìn những quả
táo, cam, chùm nho, những loại tôi đã nhìn thấy ở chợ Bến Thành trước khi chui
vào miệng con Hồng Tuộc, tôi đã được biết mùi. Nhưng có một trái lạ, tôi đã hỏi
những người cùng mua hàng, tôi được biết là trái lê, nhìn cái da của nó trắng
nõn như ngà voi, tròn như trái táo.
Lục lại cái hố sâu của
tâm tưởng, rõ ràng tôi chưa hề được nếm mới của lạ này, nó ra sao? Tôi nâng
quyết tâm, dứt khoát mình phái được nếm, tôi băn khoăn, vấn vương nhiều buổi
tối mỗi khi bước qua ngôi hàng này, chỉ vì cái túi của tôi, đã từ lâu thường
dán chặt vào nhau.
Thậm chí mấy cái tem
gửi thư, tờ giấy viết, đã làm cho tôi phải lao đao, vấn vít lẫn vào, tiếng suối
reo, tiếng chim hót và cả tiếng ve sầu kêu ở trong rừng. Thế mà một buổi tối
tôi trở về, mới bước vào cửa barrack đã có mấy người rối rít:
- Anh Bình có loa gọi
lên ban đại diện nhận money order!
Như trong hầm tối, tìm
thấy cửa hang, nhiều sợi tơ vàng quấn quanh giấc ngủ của đêm hôm ấy. Ông ân hay
bà ân nào của bốn phương trời, lại ngó một mắt, đến nơi hẻo lánh xa xôi này
Không ngờ người đó, lại
là Lầu Chí Chăn, một người ” nhái ” được về sau tôi, nhưng lại có hoàn cảnh đến
bờ trước. Hai mươi dollars, nhưng làm sao định giá của nó được, trong cảnh đời
của tôi lúc bấy giờ?
Tôi đã chạy như có
người đuổi, về chỗ cô nàng ”lê” có nước da ngà voi, được gói gọn trong cái giấy
hồng lụa mềm, chỉ có 50 cents. Tôi đã ôm gọn cái tôi chưa biết mùi, chạy bay
vào rừng, về căn lều đụp, và bên dòng suối Nghê Thường, không có chỗ nằm, tôi
ngồi dựa vào một thân cây làm cột lều. Lôi tuột của lạ xuống, để ngay ra trước
mặt, trước khi cắn, tôi nhìn kỹ lưỡng một lần nữa. Một làn hương chưa bao giờ
ngửi thấy, đã đẩy tay tôi đưa áp vào mũi, phê qua, không chịu được nữa rồi.
Một con chim mầu xanh
lam đầu đỏ chót, đứng trên một cành quen, chéo trước mặt nhìn tôi, cất tiếng
hót: Hì … lá …..hì …….lá……cứ như đòi muốn chia phần. Tôi quắc mắt, lườm lại nó,
rồi tôi đã cắn một miếng từ lúc nào, nghe cuống họng kêu rồn… rột. Tôi nhai
ngấu nghiến, chỉ hơn hai phút, quả lê nõn nà đã mất tiêu vào cái vụng, cung cấp
sự sống từ bao giờ. Con chim đầu đỏ đã bỏ đi từ, lúc tôi lườm.
Tiếng suối hôm nay nghe
như một đám trẻ con đang cười đùa, đuổi nhau ở sân đình. Tôi đứng dậy thả bách
bộ vào mãi chiếc đầm con, cạnh dòng suối. Miệng vẫn ngọt vì nước của trái lê
còn dư vị.
Tư tường của tôi đã
nhẩy phắt về quê nhà, thoáng thấy mẹ, vợ và con gái; lại vút về KuKu với con
tàu đã nuốt sống 105 mạng người. Hẳn bây giờ chỉ còn xương rải rác đây đó dưới
đáy biển, hay trong bụng những con . . .cá to. Còn một người vô thức nằm lại
KuKu, nhìn chung quanh cảnh rùng im vắng, chợt một ý thơ lâu ngày của một cổ
nhân: Trần Tử Ngang (651-702) đời nhà Đường xọc vào trí óc của tôi:
Nhìn phía trước người
xưa vắng vẻ. Ngoảnh về sau quạnh quẽ người sau Ngẫm hay trời đất dài lâu Rừng
hoang sầu lắng ngậm ngùi mình tôi …
Một điều đáng được biểu
dương, như một truyền thống tâm linh, của dân tộc. Đồng bào ở Pulau Galang đã
dựng xây một ngôi chùa to lớn với những trang trí của hoàn cảnh tị nạn. Nơi tụ
tập cử hành, những ngày lễ trang nghiêm tôn thờ Đức Phật Như Lai và Quan Thế âm
Bồ Tát. Một nhà thờ cao ráo nằm dài, cạnh một đồi thông, tôn thờ Chúa Giê – Su
Hài Đồng và Đức Mẹ Đồng Trinh. Vào những ngày Chủ Nhật, người công giáo đến
tham dự lễ đông đúc khác thường. Cha Dominici, Ngài tận tụy tha thiết phụng vụ
người tị nạn, như cho chính người.
Có thể mỗi người vừa
trải qua những ngày gian truân, hiểm nguy sống và chết, lòng mộ đạo được củng
cố phát triển lũy tiến.
Kỳ này trên khu Cao Ủy
nhộn nhịp khác thường, nhiều phái đoàn của Canada, Úc Đại Lợi và nhất là của
Mỹ mới được tăng cường. Tôi đã nhìn, nghe nhiều cảnh, nhiều tình huống cười ra
nước mắt, nhưng cũng có lúc ngậm ngùi xót xa. Sáng hôm qua tôi vừa đến khu của
phái đoàn JVA (Mỹ) thấy một đám đông nhốn nháo. Một ông hơn 40 tuổi là đội
trưởng một đồn cảnh sát ở Nha Trang, không hiểu vì lý do gì, bị phái đoàn Mỹ từ
chối, ông đã kéo theo đứa con gái 8 tuổi, nhẩy xuống chiếc giếng sâu, phía sau
khu Cao Ủy.
Người ta hô hoán, cảnh
sát Indo đã phải giòng dây leo xuống cứu. Cả hai bố con đều bất tỉnh nhân sự,
ông bố bị gãy chân trái, đứa con gái vỡ đầu máu chảy lênh láng, đỏ cả chiếc áo.
Họ cho lên một chiếc xe Indo, chở đi nhà thương cấp cứu, tôi chưa biết nhà
thương ở đâu? Xa hay gần?
Từ hơn một tháng nay,
hệ thống truyền thanh của trại thường nói về cuộc vượt thoát oai hùng, bằng
đường bộ của Lý Tống. Anh ta đã bơi qua eo biển giữa Mã Lai và Singapore. Một
cái eo biển được thế giới biết đến, vì có rất nhiều cá mập. Một vài tờ báo ở Mỹ
đã gọi anh là ” A man never seen “. Đài truyền thanh của trại, thường phát về
chiều tối và buổi sáng sớm. Nhiều chi tiết tường thuật về anh, nhưng một chi
tiết tôi để ý: ” Theo đài khi anh vượt qua Campuchia đến Thái Lan, ông Đại sứ
Mỹ ở Thái Lan đã đến thăm anh, với những thành tích vượt thoát nhiều lần trong
nhà tù của cộng sản. Ông có hỏi Lý Tống:
- Anh có một phương
sách gì hữu hiệu, để tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản?
Lý Tống đã chỉ vào một
tập giấy, viết tay ở đầu giường, trả lời:
- Tất cả đường lối, kế
sách để triệt tiêu cái chế độ vô thần tàn ác cộng sản, đều nằm trong tập giấy
này!
Tôi rất ngưỡng mộ, thèm
muốn có một ngày nào đó được đọc, để học hỏi, những điều kỳ diệu ấy.
Rồi được biết anh Lý
Tống cũng đã có mặt ở Galang này. Tấm lòng của anh cũng rất đặc biệt, do cái
quỹ nào đó ở Mỹ đã tặng anh 500 dollars, anh đã tặng lại ngay phòng giáo dục
trại, để mua sách vở cho các cháu thiếu nhi, ở trại Galang. Đã có một số anh em
mới quen biết ở trại, nói với tôi:
-Ở trại tị nạn Galang
này gần 2 chục ngàn người, có hai người đặc biệt: Lý Tống và anh là một điệp
viên, đi tù 18 năm.
Lý Tống thì danh tiếng
như cồn, còn anh như con gà giò, may mắn thoát khỏi mồm con lang, thì lại chui
vào bụi rậm, nằm im thin thít! .
Tôi đã cười, chậm rãi
nói với các anh:
- Một người đi trên máy
bay gào mây, thét gió, một người thì lò dò lặn lội ven bờ ao. Cao và thấp đã rõ
ràng!
Một buổi chiều muộn, tự
nhiên thấy lòng cồn cào, lắt lay về Thành Đô yêu dấu. Tôi mò lang thang ra đầu
một cái mỏm Galang, hướng về quê nhà. Trong dáng chiều nghệ non, rải rác đây đó
hàng chục những cặp đầu xanh, lẫn đôi mái đầu tiêu nhiều muối ít, như dính chặt
vào nhau, trong cái dạt dào, ồn ào của sóng biển.
Tâm hồn của họ đã biến
đổi, từ khô cằn vàng úa, sang mầu xanh mượt mà, tương lai. Lòng nhiều người đã
mở cửa, đón nhận hương sắc của đời. Da
trời chuyển thành mầu
tím ngắt, như cà ghém tím vào mùa. Tôi đăm chiêu rõi nhìn về phương trời xa, mờ
mịt, rồi lặng lẽ trở gót, tôi quay về barrack. Mặc cho dòng đời, chênh vênh
ngược xuôi, chìm nổi.
Ngày hôm sau, tôi len
lỏi vào mãi phía trong sâu của mảnh đất nhiều sỏi đá, nhưng đã khắc dấu tự do
vào tâm hồn nhiều người Việt. Xa xa một ven đồi nhiều đại thụ, rõ ràng một
chiếc cổng sơ sài, mộc mạc bằng cây rừng. Một miếng gỗ dài, quét vôi trắng,
viết chữ: Chiêu An Tự, mực Tàu, đen nhánh, treo trên một chiếc cổng thô sơ,
như muốn lôi kéo lòng tọc mạch, của khách lãm du.
Quả thật, khi tôi gần
đến nơi, đã thấy thấp thoáng bóng người. Qua những con đường lắt léo leo trèo,
mùi hương trầm đã phảng phất, trộn vào mùi hăng hắc, ẩm mốc của cây rừng. Bước
vào trong cổng, càng đi tôi càng ngạc nhiên, con đường nho nhỏ gập ghềnh, nhưng
tỏ có bàn tay người săn sửa hằng ngày, dẫn vào một ngôi chùa nhỏ. Phải nói là
một ngôi nhà gỗ lợp tôn fi-bro, đã mốc meo. Càng đến gần, mùi hương khói càng
đặc sệt. Tiếng mõ đều đều, thong thả vọng ra: Cốc . . cốc . cốc
Hồn tôi như du vào cõi
thinh không, một thoáng trở về gặp tiền bối Chu Mạnh Trinh:
Thoảng bên tai một
tiếng chầy kình,
Khách tang hải giật
mình trong giấc mộng.
Thấy tôi ngấp ngó nhìn
vào trong điện, một vị sư chừng gần 5 chục tuổi, từ trong một cửa ngách đi ra.
Như một cơ duyên của hai tâm hồn riêng biệt, tôi đã được đàm đạo với thượng
tọa, gần hai tiếng đồng hồ về kiếp nhân sinh, về nhân quả, luân hồi của kiếp
người. Tôi nhớ vị thượng tọa đó là Thích Thắng Hoang. Hơn 20 năm rồi, chẳng
biết thượng tọa hiện nay, ở phương nào?
Chiều hôm đó tôi trở về
barrack, được biết tôi có một lá thư Việt Nam, nhìn đồng hồ, chỉ còn 7 phút nữa
BĐD đóng cửa. Tôi chạy hộc tốc lên ban đại diện, như đuổi theo một chuyến xe đò
vừa bắt đầu lăn bánh. Đến nơi, cửa đang đóng cánh cuối cùng, thì tôi bước vào.
Cầm lá thư đầu tiên từ
quê hương, sau hơn 5 tháng mờ mịt chân mây. Như một hành động vô thức, đôi tay
tôi đưa lá thư lên tận mũi từ bao giờ. Tôi có cảm tướng lá thư còn hơi hướng
của mẹ, của vợ, của con và còn cả cái mùi ngan ngát của quê nhà thương nhớ, của
riêng tôi.
Tôi hiểu có nhiều điều
bất ngờ lắm trong lá thư, nhưng tôi cương quyết không xem lúc này. Tôi đút lá
thư vào trong ngực, chỗ trái tim tôi đang thổn thức vơi đầy. Tôi sẽ ôm lá thư
ngủ một đêm, với bao nhiêu điều dật dờ, lơ lửng bất ngờ trong lá thư đầu, từ
ngày xa những người thương yêu nhất, của đời tôi.
50.
MẸ ĐÃ ĐI VỚI THẦY
Sáng sớm hôm sau, xách hai gói mì, tôi chạy vào ngôi “biệt
thự ” giữa rừng hoang, của tôi. Trang trọng, nhóm lửa, ca nước sôi, vừa uống
vừa ăn mì xong, tôi ghé ra dòng suối tiên rửa mặt, rửa tay, chải đầu, bấy giờ
tôi mới nhẹ nhàng khe khẽ, bóc lá thư. Từng chữ ngọt ngào của vợ tôi như múa,
như giẫy lên đành đạch trước mắt tôi.
Tôi nhắm mắt ngồi im,
chỉ còn tiếng gió rừng thì thào, tiếng suối rỉ rả cười, khóc triền miên. Tôi
lại mở mắt ra đọc lại lá thư lần nữa, cố coi như ấn tượng khi nãy chỉ là ảo
giác. Người mẹ kính yêu của tôi đã về với thầy tôi‟
Người đã mất 36 ngày
rồi, lá thư Hoa đã viết ngày 8 tháng 5 1983, sau khi mẹ tôi đã mất đúng một tuần.
Một ý tưởng dậy bảo của Đức Không Phu Tử, lấp ló trong đầu:
Phụ mẫu tại đường..-…bất khả viễn du..-…
(Cha mẹ già còn sống,
con cái không được đi xa)
Tôi có lý do vững vàng,
nhưng mắt tôi vẫn mờ đi. Hai giọt nước mắt đã rơi xuống đùi, chính mẹ tôi đã cho
phép, và giục giã tôi ra đi. Cũng một ý tưởng khác chợt đến, làm cho mắt tôi
sáng dần ra. Mẹ tôi sống ngày nào trong mù lòa tăm tối, xa chồng, xa con, càng
mòn mỏi héo hon. Như vậy mẹ tôi về với thầy tôi sớm ngày nào, tôi phải vui
lòng, tuy còn một chút co xoắn vặn vò: Tôi chưa đi hẳn tới bờ, nên mẹ tôi chưa
hề được nếm thử một trái ngọt, hoa thơm, mà người đã bỏ công vun trồng.
Bù lại, trong lá thư
tôi đã để lại một giọt máu nữa, trong Hoa. Không biết là trai hay gái, gần 7
tháng rồi, vợ tôi bụng chửa, con còn dại, giữa chợ đời khoai sắn, cũng không
đầy bao tử.
Lá thư có mỗi một điều,
làm cho bụng tôi cũng phải nở nụ cười, Hoa nói: ” Cô Ngọc Anh CA khu vực đã
trợn mắt nói với Hoa: Anh Bình vẫn nói: Còn người mẹ mù lòa, tàu có đến đón,
cũng không đi.”. Thế mà đã biến rồi, ai ngờ được ?
Tôi cười bụng, vì tôi
đã lừa được chúng. Hai ngày sau, tôi đã được phái đoàn Mỹ chấp nhận. Họ hỏi
tôi:
- Anh không có thân
nhân nào ở Mỹ, vậy anh muốn đến tiểu bang nào?
Tôi đã trả lời rành
rọt:
- Tôi xin ghi lòng,
nhân dân Mỹ đã mở bàn tay nhân đạo, đón nhận tôi. Bất cứ nơi đâu trên thế giới
này, không có mùi tanh hôi mủ máu của con Hồng Tuộc, là thiên đàng của tôi rồi.
Còn 13 ngày nữa, tôi sẽ
được đi chuyển vào Galang II, là khu cho những đồng bào, đã được phái đoàn Mỹ
chấp nhận. Già một nửa thuyền của tôi không được Mỹ đón nhận, họ đi Úc,
Canada, v.v…
Đặc biệt có anh Trường,
đại úy công an, không được đi Mỹ. Lại có dư luận về tới Việt Nam, là do tôi,
có ý kiến với phái đoàn Mỹ.
Thân tôi cũng bèo bọt
như những người tị nạn khác. Nếu tôi được làm theo ý, anh Trường là người được
ưu tiên nhất đi Mỹ. Anh đã thực sự kinh tởm cái chế độ phi nhân tính, anh đã
tẩy trừ được máu độc, bùa mê của con Hồng Tuộc trong con người của anh. Anh
đáng được khích lệ, biểu dương hơn nhiều người của chúng ta, trong đó có tôi.
Một buổi trưa, tôi đang
ngồi cặm cụi nhặt lưọm một số từ Anh Văn trong căn lều con giữa rừng thì có
bóng một người thấp thoáng tiến vào. Cô Hoài! Cô là chị của Hằng, làm cho tôi
đến ngỡ ngàng. Căn lều chỉ đủ chỗ cho hai người ngồi, vậy mà cô cố lách vào.
Điều chính yếu là cô
muốn khoe với tôi, cô đã được phái đoàn Mỹ nhận và cô cũng sắp vào Galang II.
Ngồi trong căn lều chật, hơi hướng của cô phả ra như mưa bụi, nhiều lúc tôi
phải nín thở để đè ngọn lửa, cứ đòi phực lên trong lòng. Lẽ thông thường, mèo
đi lùng sục tìm mỡ, nhưng hôm nay, do hoàn cảnh tị nạn đã đến được bờ tự do.
Lòng của ai, to nhỏ tùy
theo đều mở, nên mỡ đã bò đến miệng một con mèo. Con mèo này cũng thèm lắm,
nhưng có một sức mạnh vô hình áp đảo, nên đành dội cho tắt ngấm ngọn lửa ở
trong lòng.
Hơn một giờ chuyện trò,
có lúc cô đã rủ tôi ra bên dòng suối mơ, đứng nghe tiếng cười róc rách của
những giọt đời khua khoắng. Sau khi tiễn cô ra, tôi lại mò mẫm vào căn lều, hãy
còn đầy ắp hơi hướng của cô Hoài.
Từ ở Natuna, Kuku, cho
đến Galang tôi chưa một lần nói chuyện hai người, kể cả những điện từ của đôi
mắt với cô. Hẳn cô thấy từ 6, 7 tháng nay tôi và cô Hằng, không còn liên hệ gì
với nhau? Thôi cứ để cho dòng đời tôi theo những nẻo riêng, của mỗi người. Tuy
vậy, cô Hoài cũng đã khuấy rối lòng tôi, cả buổi chiều hôm ấy. Ngồi, nhìn những
từ ngữ tôi đang cần thu nhặt, chúng cứ ngoáy lên chẳng chịu chui vào trong tiềm
thức.
Nghe một tiếng chim kêu
lạ, tôi chui ra khỏi lều, một con chim to như con thỏ non đến thì, có cái đuôi
cánh chả dài như đuôi công. Đầu nó có một chùm lông, trông như một cái ngù vàng
và đỏ, tưởng như nó đang đội một cái mũ cánh chuồn. Nó nhìn xuống dòng suối,
rồi lại nhìn tôi, kêu:
Kê … tai … kê … tai … mà tôi nghe như kề tai …. .kề … tai … .Tôi
định dướn lên hỏi nó: ” Kề tai để làm gì ? ” Nhưng tôi chợt kìm lại, làm sao nó
hiểu được tiếng người? Tôi chưa hề trông thấy một con chim nào như vậy ở quê
hương. Tôi đã ngẩn ngơ nghe nó kêu lâu lắm, cho đến khi nó cất cánh bay đi.
Nhớ lại, lúc nói chuyện
với cô Hoài, tôi được biết vợ chồng Phạm Lộc, cả gia đình bác Lý Văn Bang, cả
cậu Sinh vua trèo dừa, cũng sang Úc. Và cậu Sinh cũng sẽ là rể tương lai, của
bác Bang. Ngay buổi chiều hôm ấy, tôi đã gặp vợ chồng Lộc. Vì người ân, và vì
món nợ danh dự 3 cây vàng, Lộc+ Liên chưa có địa chỉ ở Úc. Tôi và Lộc đều lờ
đi “cái quắc mắt lườm” hôm ấy. Có thể thấy tôi và Hằng như không còn liên hệ,
nên vợ chồng Lộc lại vồn vã như xưa. Phái đoàn Mỹ đã cho tôi một cái địa chỉ ở
Mỹ, để liên lạc thư từ.
Hội IRC 140 Boyston st.
MA. 02101.
Tôi chẳng biết nó ở
đâu, tôi cứ đưa cho vợ chồng Lộc để sau này phòng hờ, liên lạc. Ngày 8 – 6 tôi
được chuyển vào Galang II, cách Galang I chừng 3 cây số. Galang II lúc ấy có
khoảng 4.000 đồng bào, cũng có một ban đại diện.
Từ hơn một tháng trước,
do tình cờ tôi quen một anh đại úy pháo binh, tên là Đỗ Văn Thịnh. Cái lon Đại
Úy của anh phải đeo hàng chục năm, chỉ vì anh là loại người đứng thẳng bằng
đôi chân của mình, và đầu của anh cũng không biết cúi. Đấy cũng là điều tôi
trọng quý anh.
Sau khi anh biết sơ
lược về chuyện tù đày của tôi, và thấy tôi cứ hay vào rừng một mình. Anh khích
lệ, là tôi cần phải hòa đồng với mọi người.
Anh đã trên 50, và anh
lại là người từ chối, không đi Mỹ, dù anh đã đi tu nghiệp ở Mỹ gần 2 năm. Anh
đã xin đi Úc. Cũng chính do anh giới thiệu, nên khi vào Galang II tôi đã đảm
nhận phần việc Trưởng phòng tiếp liệu. Vì anh đã hiểu tôi, nhìn lợi và danh,
như nhìn lá cây trong rừng.
Phòng tiếp liệu ở một
trại tị nạn, cũng chẳng có gì. Tuy vậy, do buổi đầu nhiều khó khăn thiếu thốn,
cũng đã làm cho nhiều người khúc mắc. Cụ thể, mấy ông trưởng phòng trước, cũng
có một vài vấn đề. Cũng chẳng có gì: Mì gói, gạo, cá khô, xà phòng, trứng vịt,
gà. Đôi khi có chăn màn, văn phòng phẩm v .v…do Cao ủy tị nạn cung cấp.
Tôi cũng đã đắn đo mấy
ngày, dù chưa bao giờ có, nhưng danh và lợi đối với tôi vẫn bàng bạc như lá
thu, còn cõng hè. Nhìn lại suốt 18 năm tù ngục, ở cả các trại tù trung ương.
Nếu ham muốn, tôi cũng tạm đủ khả năng làm trật tự thi đua, buồng trưởng, đội
hay toán trưởng. Nhưng cao nhất chỉ là tổ trưởng một tổ mộc kỹ thuật, về chuyên
môn, đó cũng là chỗ đứng của tôi ở trong tù. Nếu không thì sẽ cũng như anh
Luyện, “ăn đói nằm co, còn hơn ăn no, vác nặng”. Nhưng mà nằm “co” một chỗ thì
làm sao hiểu, biết được những sự việc ở bên ngoài trại chung?
Huống chi ở đây là làm
cho mình, cho những đồng bào tị nạn cộng sản như mình, nên tôi đã nhận lời.
Ban đại diện khi đó, do
anh Vũ Minh làm trại trưởng, bác sĩ Vũ Linh Huy là tổng thư ký và có 4 phòng:
Trật tự, giáo dục, thông tin và tiếp liệu.
Phòng tiếp liệu có 5
nhân viên phụ giúp, lương tượng trưng mỗi nhân viên 500 Rupias, trưởng phòng
800 Rupias. Tôi ở thuộc Zone D, mỗi Zone từ 5 đến 7 banack. Tôi nhớ Cao Xuân
Huy cùng tàu khi ấy, cũng là Zone trưởng một Zone.
Galang II bắt đầu có
chủ trương mới, mọi người được nhận vào Galang II để đi Mỹ, đều phải được khảo
sát về trình độ Anh Ngữ. Tùy theo trình độ để phân bổ thành các lớp học từ 3
đến 5 tháng. Sau đó, phải học thêm nếp sống văn hóa của nước Mỹ. Như thế, lớp
cao nhất là C.O (Cultural only), nghĩa là, chỉ cần học để có khái niệm, về nếp
sống văn hóa ở xã hội Mỹ.
Tôi do may mắn, và cũng
có thể do ấn tượng, trong lúc trao đổi khảo sát, của những giáo viên Anh Ngữ
Indo. Khi họ biết tôi đã được CIA huấn luyện đào tạo, ở Sài Gòn (hơn 20 năm
xưa), nên tôi chỉ phải tham dự lớp C.O. Họ chăm chú, tò mò hỏi những chuyện,
một mình tôi dám xông vào bên trong bức màn sắt của cộng sản?
Trong một cái trại tị
nạn cộng sản hơn 4000 người, thì hàng ngày có nhiều những sự việc, tình huống
xẩy ra. Có một sự việc vẫn còn đeo mắc, trong lòng tôi đến ngày hôm nay. Hôm ấy
là một ngày phát phần thường mãn khóa cho các lớp học Việt Ngữ, của các cháu
nhỏ từ 7 đến 15 tuổi.
Hàng mấy trăm các em
thiếu nhi, hàng nghìn phụ huynh và đồng bào trong trại, có quan khách Indo và
Cao ủy tham dự. Ngoài sân trại ban đại diện, lá cờ vàng 3 sọc đỏ tươi roi rói,
uốn éo sóng đôi với lá cờ Indo, mầu trắng đỏ, đứng bên cạnh.
Sau bài quốc ca chào cờ
của Indo, đến khúc nhạc chuẩn bị chào Quốc Kỳ Việt Nam. Đứng trong hàng ban đại
diện, tôi dõng dạc, hùng hồn cất cao lời ca, hòa đồng với hàng ngàn cái miệng,
làm nóng sôi, râm ran bầu không khí của cả một vùng. Nhiều chỗ, tôi phải dựa
vào chung quanh để gào, hát Quốc Ca từ hơn 20 năm không được dự hưởng.
Mắt tôi ngước nhìn lá
cờ vàng, của Tổ Quốc giẫy dọn, như đang cuốn hồn dân tộc, khí thiêng của sông
núi trong ánh hào quang của mặt trời, lòng tôi thổn thức rung rưng sung sướng.
Nhiều người lên nói chuyện tôi đã quên rồi, nhưng ông Siu Năng Năng đại diện
của Galang, nhìn xuống các em thiếu nhi Việt Nam, nhắc nhở:
- Rồi đây các em sẽ đến
sống lập nghiệp ở một nước thứ ba (nước Mỹ). Các em hãy luôn luôn ghi nhớ mình
là người Việt Nam, thì phải biết tiếng Việt Nam!
Bằng những âm sắc hơi
là lạ của tiếng Anh, ông đã làm tôi xúc động đờ đẫn:
“Một người Indo, lại
quan tâm nhắc nhở con em của dân tộc tôi. Nhưng chính chúng tôi, những ai còn ý
thức tự trọng mình là người Việt Nam? Tôi xin cảm ơn ông Siu Năng Năng mãi mãi
“.
Ông đã dậy cho tôi một
bài học ý nghĩa.
Một thoáng chợt về gặp
cụ Bàng Bá Lân:
Đừng lo đàn con dốt Anh
Văn! Mà sợ chúng quên gốc, quên nguồn, mà thôi.
Một buổi trưa, tôi đang
ngồi làm tổng kết cho quý hai, thoáng một bóng người lấp loáng, ngoài cửa văn
phòng. Một anh chừng 4 chục tuổi, giọng Nam Trung nhẹ như ca, như hát:
-Ông là trưởng phòng
hả? Vui lòng cho tôi xin một lọ corrector!
Sau khi được biết anh
là Lý Tống, như thấy được món hàng tôi đang cần tìm. Dịp may đưa đến, tôi đã
vồn vã, cả buổi chiều hôm ấy, anh và tôi đã say sưa đưa nhau ra hội trường vắng
vẻ, đổi trao những chuyện quê hương và những chuyện đời. Khi đã là bạn bè, tôi
đã trầm trồ muốn được đọc, xem cái kế hoạch tiêu diệt cộng sản anh đã nói với
ông đại sứ Mỹ ở Thái Lan. Anh đã trả lời tôi là: ” Anh quá nhiều sách vở, giấy
tờ, bây giờ không biết để lẫn vào đâu? ” Anh hứa sẽ tìm. Những lần sau tôi hỏi
đến, anh vẫn chưa tìm thấy.
Một kế hoạch thần kỳ
như vậy, thật đáng tiếc cho quê hương, cho nhân loại!
Cho tới ngày sang Hoa
Kỳ, khóa học trước, sau, mỗi người một hướng, trong cái bao la của nước Mỹ với
vạn nẻo đường tị nạn quê người, chưa một lần nào Lý Tống và tôi gặp lại. Dù khi
chia tay ở Galang Lý Tống đã viết vào cuốn sổ của tôi một địa chỉ ở đại học
Harvard để liên lạc, khi đến Mỹ. Thậm chí 2002, tôi đã lên đài Sống Trên Đất Mỹ
để ca tụng những chiến công có một không hai của anh ở Việt Nam, ở Cuba.
Một lần, đài Sống Trên
Đất Mỹ đã mời hai diễn giả trong một buổi lễ kỷ niệm của đài, là Lý Tống và
tôi. Nhưng thật không may ngày ấy, dù ông Vạn Võ đã gửi vé máy bay sang, một lý
do bất khả kháng, tôi không đi được. Tôi đã tưởng buổi ấy, để Lý Tống biết được
tác giả Thép Đen chính là người đã quen nhiều với Lý Tống ở Galang.
Đã có những chuyện ngộ
nghĩnh như một anh đại úy Dù (quen ở Galang), đã mua hai cuốn l+ 2 Thép Đen,
gửi cho tôi với lời đề tặng:
“Đây là một tác phẩm
đáng giá, anh cần phải đọc” (Tôi vẫn giữ để kỷ niệm).
Cũng thật là hiếm trong
lĩnh vực văn chương, mua sách của tác giả, để tặng cho tác giả. Cho đến bây giờ
anh bạn đại úy ấy, cả Lý Tống và nhiều người nữa, vẫn hiểu ĐCB và người quen
biết cũ, là hai người.
Một buổi trưa, tôi ở
phòng tiếp liệu trở về barrack, bà con kháo nhau là cái cô Hoài rất ăn diện.
Đêm qua, có một anh trung úy hải quân đã từ buồng của cô trèo qua cửa sổ ngã,
phải đi băng đầu gối. Tôi thấy chuyện như vậy là bình thường. Biết bao nhiêu cô
gái thích ăn diện lại không có tiền, trong khi thoát khỏi sự kiềm tỏa của gia
đình.
Tôi đã đau lòng với
những cô gái Việt, sóng đôi, hoặc thậm thụt với cảnh sát Indo. Tràn lan những
chuyện ngược xuôi não ruột, thậm chí có cô bụng chửa, có cô đẻ con. Những vấn
nạn này, nguồn gốc do đâu?
Một ngày chủ nhật, tôi
rủ cậu Công và cậu Ngọc Anh (tên giống cô công an khu vực) lần mò ra cái nghĩa
địa ở một nơi hẻo lánh, giữa Galang I và II. Tôi và hai cậu cứ lang thang cả
buổi, hết ngôi mộ này đến ngôi khác. Gần hai chục nấm mồ vô chủ, đã nằm lại nơi
đất khách. Như một chút lòng của người cùng một nước, chúng tôi thăm viếng.
Hai cậu đều là nhân
viên phòng tiếp liệu, do một sự tình cờ năm 2001, tôi gặp lại cậu Ngọc Anh ở
một Super Market. Mãi tôi mới nhận ra, cậu đã có sự nghiệp, nhà cửa vợ con ở
thành phố Milton, cùng tiểu bang MA.
51.
ĐÀM ĐẠO, BẠN BÈ INDO
Do những quen biết với một vài giáo viên Anh Văn người
Indo, một ông 38 tuổi dậy văn hóa Mỹ lớp tôi là Darko Sin. Anh này rất thích
nói chuyện với tôi, từ khi anh sát hạch, biết sơ qua CIA, đã đào tạo tôi ở Sài
Gòn. Anh rất tò mò muốn biết nhiều chuyện tù đầy, trong chế độ cộng sản miền
Bắc VN. Vì thế, anh đã tổ chức một bữa cơm, có tôi và 5- 6 người bạn của anh.
Mục đích, anh muốn tôi nói những nét chính yếu, tôi đã ra Hà Nội đầu 1962. Để
hỗ trợ Anh ngữ ngập ngọng của tôi, tôi đã mời theo anh Vũ Linh Huy, tổng thư ký
của ban đại diện trại.
Mở đầu bữa cơm, có
nhiều chuyện đề cập, nhưng đều có chung một quan điểm: Trong sự quen biết giữa
người với người, điều quan trọng bậc nhất là sự chân thành, dù có lúc gồ ghề,
thô kệch, nhưng sẽ dài lâu.
Mấy người Indo, có anh
là cảnh sát trưởng phòng hình sự Galang, và một ông trong ban Cao Ủy Tị Nạn.
Các anh tỏ ra xề xoà thẳng thắn, đã nói thực:
“Vì có các anh là Việt
Nam, chứ chỉ riêng chúng tôi thường dùng 10 chiếc đũa trời, chẳng cần thìa,
đũa, bát”.
Các anh nói là thực,
chính tôi đã nhìn thấy những nhà dân Indo, thường ăn bốc.
Cơm nước bia, rượu đã
lưng chừng, anh Darko Sin đứng dậy yêu cầu tôi tường thuật sự việc v.v. . . Anh
cũng khỏa tay với mấy người bạn anh, là cũng muốn biết diễn tiến, của sự việc.
Để đáp lại tình giao hảo, với tiếng Anh phải dùng tay phụ họa, tôi đã lần lượt
tường thuật lại sự việc tôi ra Bắc, và trả lời mọi câu hỏi của các anh. Cuối
cùng các anh dồn hết vào một câu hỏi:
- Tại sao nước Việt
Nam, tình huống thế nào để bây giờ, các anh phải bỏ nước ra đi?
Một câu hỏi đơn giản,
nhưng thật nhiêu khê để trả lời. Tôi và bác sĩ Huy nhìn nhau, anh Huy đã định
trả lời, nhưng không hiểu nghĩ sao, anh lại bảo tôi cứ nói, rồi anh phụ.
Tự biết mình có nhược
điểm ăn nói, uống một hơi bia đầy, hỗ trợ, ngồi trầm lắng một phút, tôi thấy sự
việc lổn nhổn như một đống xà bần. Tôi nghĩ không gì bằng, hãy theo lời dậy của
đức Khổng Phu Tử: tìm một thí dụ để minh giải, chỉ cần cho các bạn, hiểu khái
niệm diễn tiến chính. Nghĩ như thế, tôi giơ tay làm hiệu, xin nói. Cả bàn ngồi
yên, tôi nói đại:
- Thưa các bạn, khả
năng Anh ngữ của tôi yếu kém. Tôi đưa ra một thí dụ để minh giải, xin các bạn
cố gắng để hiểu tôi:
” Có hai ông bà cụ kia
tuy quê mùa, nhưng rất hiền hòa, đôn hậu. ông bà sống với một đàn con ngoan.
Ông bà giữ nền nếp gia phong, thường dậy đàn con: Con trai thì phải tuân theo
ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Con gái thì phải ứng dụng tứ đức: Công,
Dung, Ngôn, Hạnh “. Tâm linh với đất, với trời, với thượng đế, với tổ tiên.
Một tên giầu có ở
phương Tây sang chiếm ngôi nhà, lấy lý do là khai phá dạy bảo, cho biết văn minh.
Thực tế nó bất cả nhà làm nô lệ, phải phục dịch nó, nhưng nó không hề động đến
nền nếp gia phong, mà còn khuyến khích mọi người tôn thờ thần linh các tôn
giáo. Tuy có lam lũ, khổ cực nhưng cuộc sống cũng tạm qua ngày.
Mấy nhà hàng xóm chung
quanh, cũng bị những tên giầu có khác, cũng ở phương Tây đến chiếm nhà. Cảnh
sống của những nhà hàng xóm đó, cũng khổ cực lầm than, như gia đình ông bà cụ
Một thằng con của ông
bà cụ đi tha phương cầu thực trở về đã khích lệ, vận động ông bà cụ và các anh
chị em, hãy đứng lên đuổi tên nhà giầu ác ôn đi. Ông bà cụ cũng như anh chị em,
đều đồng ý góp tiền, góp công vất vả gian lao đã đuổi được tên nhà giầu chó
chết đi.
Nhưng thằng con tha
phương đã bắt anh chị em và cả ông bà cụ phải ăn, ở có tiêu chuẩn. Không được
sang nhà hàng xóm chơi, và cũng cấm hàng xóm sang nhà mình. Nó còn cấm cả nhà
không được thờ cúng ông bà tổ tiên, thần Phật hay Chúa nữa.
Thấy thằng con ngỗ
ngược côn đồ, ông bà cụ và những người con khác định lấy tình cha con, anh em
khuyên bảo cho êm ấm hoà thuận gia đình.
Nhưng tên con côn đồ
ngỗ ngược đã không nghe, mà còn xúc xiểm, chia rẽ anh em cha con. Thậm chí, nó
còn thủ tiêu anh chị em nào cứng cổ, đứng lên phản đối. Nó còn hành hạ bịt
miệng cả bố mẹ và anh chị em, để rồi phải đánh nhau tơi bời.
Chín năm trường, đuổi
được tên ác ôn nhà giầu trước đây là công lao của cả nhà, nhưng tên con ngỗ
ngược này, nó dành hết là công của nó. Thực tế, đã đến giai đoạn, các tên nhà
giấu phương Tây khác, cũng phải trả nhà dần hết lại cho hàng xóm, vì: Thế đã
đến thời.
Cuối cùng căn nhà êm ấm
của ông bà cụ phải chia đôi, thằng con ngỗ nghịch bịp bợm, rủ rê được một số
anh chị em ngây thơ nhẹ dạ, ở nửa phần phía Bắc. Một số anh chị em đã biết mặt
thằng đểu, đều về phía Nam căn nhà. Bố mẹ cũng biết dã tâm của thằng con ngỗ
ngược, nên đã về phía Nam sống với.đàn con hiền hòa, ngoan ngoãn, biết thờ cha
kính mẹ, giữ truyền thống đạo lý của gia đình, tổ tiên.
Không ngờ dã tâm của
thằng con ngỗ nghịch ở miền Bắc, dùng trăm mưu nghìn kế, làm sao để nó chiếm cả
ngôi nhà. Bố mẹ cũng biết là thằng con mất dạy, nhưng vẫn không ngờ là nó đâm
lén cả bố nó gần chết, nên nó đã chiếm được cả ngôi nhà. Ông bố bị nó dán băng
kín cả miệng đang nằm dưỡng thương một chỗ. Chúng tôi đã biết cái máu rắn độc
của nó, bố nó mà còn bị đâm lén, bịt miệng, bịt mồm, huống chi là anh chị em.
Cụ thể anh em nào phản đối, nó giết hoặc cho vào nhà tù. Chúng tôi là những
người chạy thoát sang đây. Cả 6 – 7 người đều đứng dậy vỗ tay, anh Darko Sin đã
cười nói:
- Thằng con ngỗ nghịch
là Hồ Chí Minh!
Rồi ông Cao Ủy cũng
dõng dạc:
- Ông cụ bị đâm lén và
các đứa con ngoan, là Việt Nam Cộng Hòa?
Tôi không định mà tay
vỗ đồm độp, tự thưởng cho tôi đã sắp xếp tạm đống xà bần, đồng thời cùng mọi
người nâng cốc, thêm rượu. Anh cảnh sát trưởng hình sự đã đứng lên mặt đỏ bừng,
nhìn tôi mắt trợn trừng, tưởng như anh sừng sộ với tôi. Tay của anh chặt chặt,
vào không khí:
- Ngày 30-9-1965 đến
tháng 3-1966 chúng tôi đã chặt cổ hết tụi nó!
Tôi và BS Huy đều ngơ
ngác, thì anh Darko Sin đã đứng lên từ tốn, rành mạch:
- Để đáp lại tôi cũng
xin tường thuật vài nét sơ lược, về đất nước tôi:
” Khoảng cuối thập niên
50 và đầu thập niên 60 ông Shokarno làm tổng thống, đứng đầu những nước trung
lập, lãnh đạo khối thế giới thứ ba. Ông ta được các nước cộng sản nhiệt liệt
hoan nghênh, nhất là Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Khi ấy HCM đã thổi Shokarno
như một anh hùng sáng chói của thế giới, những bài ca ra rả trên đài như:
Shokarno… .Hồ Chí Minh.
Đất nước vạn dừa .xanh.
Anh nhìn sang đây, tôi
nhìn sang đây………..
Trong khi Mao tung cán
bộ vào Indo, vì có nhiều người Hoa kiều ở khắp các đảo, chúng bí mật tuyên
truyền lập nhiều tổ đảng cộng sản, ở khắp các cơ quan đầu não. Trong quân đội
chúng có những đường dây chằng chịt, để rồi đêm ngày 30- 9- 1965, bất ngờ chúng
bắt tất cả những tướng chủ chốt, của quân đội gồm 7 tướng và làm một cuộc đảo
chính. Chúng đã giết và chặt cổ 6 vị tướng, một vị tướng đã trốn thoát là
Shoharto.
Ông ta mau chóng, kịp
thời củng cố quân đội, và những vệ binh cảnh sát Quốc Gia, quyết liệt phản công
lại lũ cộng sản. Cho tới sáng ngày hôm sau, một phong trào rầm rộ của quần
chúng nhân dân, đã cùng với quân đội lùng sục mọi tàn dư của đảng PKI (đảng
cộng sản Indo). Lòng phẫn nộ của quân đội và nhân dân trong một năm đã giết,
chém cổ gần một triệu (1 000 000) tên côn đồ, phản tổ quốc này. Giữa tháng
3-1967, toàn dân nhất trí bầu ông Shoharto lên làm tổng thống, theo chế độ Cộng
Hòa. Nước Indonesia đã gia nhập trở lại Liên Hiệp Quốc và hiệp hội ASEAN.
Ông Shokarno đã ngả
theo và dung túng cộng sản, nên bị quần chúng quản thúc, giam ở trong tù và đã
chết ngày 21-6-1970. Hiện nay tổng thống của Indo là tướng Shoharto.
Anh Huy và tôi, cả
những người Indo đều đứng dậy vỗ tay cảm ơn anh Darko Sin. Tôi tưởng bữa cơm
họp mặt hôm ấy, đã tạm thời ổn thỏa.
Nhưng sau đó, cái ông
trong Cao Ủy (rất tiếc tôi không thể nhớ được tên) đã nhìn tôi, rồi đưa ra một
vấn đề băn khoăn khó hiểu, của ông. Ông đã đứng hẳn lên thong thả rõ ràng:
- Chế độ cộng sản đã
đưa đến nghèo đói, lầm than cho mọi người dân, trong nước. Mọi quyền tự do, kể
cả tôn giáo đều bị bóp nghẹt. Tại sao trên thế giới còn rất nhiều cá nhân, đoàn
thế, nhất là giai cấp trí thức, vẫn nồng nhiệt, nếu không nói là say mê, ủng hộ
làm lợi cho cộng sản?
Anh Huy và tôi lại nhìn
nhau, anh Huy lắc lắc đầu nhìn tôi như muốn nói gì. Tôi hiểu ý của anh là: ”
Lại một vấn đề hắc búa, không phải chỉ trả lời một câu đơn giản “. Đã có hơi
men, giữ nhịp độ ca-lo-ri trong người, thái độ của anh Huy như thế, làm nhịp độ
trái tim “cuồng” của tôi phồng hơn. Như một đòn bẩy vào chỗ coi trời, bằng hòn
đảo JAVA. Tôi đứng dậy nhìn thẳng vào ông Cao Ủy Tị Nạn:
- Xin cảm ơn ông đã hỏi
một câu khá độc đáo. Một sự việc đang nóng bỏng trong thời đại, của chúng ta.
Để làm sáng tỏ điều băn khoăn của ông, phải nói nhiều, nói dài, mà bữa cơm của
chúng ta hôm nay đã tối muộn.
Vả lại điều thắc mắc
của ông thực tế, đã được trả lời rồi. Qua nội dung thắc mắc, ông là người rất
quan tâm đến xã hội và thời đại. Do thời gian và sự kiện, có rất nhiều bí ẩn
lịch sử đã được bạch hóa.
Xin ông hãy lắng đọng,
một mình nghĩ suy và tìm lại báo chí tài liệu: Những trí thức thiên tả, thiên
cộng sản của Indo, cụ thể là một tổng thống Shokarno. Ở nước tôi: một số trí
thức từ Pháp, từ Đức về nước theo cộng sản.
Ngoài thế giới, đầu
tiên là Phong trào Caucaise vùng Tây Bá Lợi Á, mà Lênine đã lợi dụng như thế
nào. Biết bao nhiêu cá nhân mà cụ thể là triết gia, bác học Bertrand Russell
người Anh, giải thưởng Nobel văn chương 1950 (18-5-1872, chết 2-2-1970). Mới
đây là cô đào Jane Fonda đã vẻ vang tự hào, ngồi trên mâm pháo của Việt Cộng.
Ngay mới đây là những trí thức và mặt trận giải phóng, tức Chính Phủ Lâm Thời
Cách Mạng Miền Nam. Những nhà trí thức khoa bảng như Nguyễn Hữu Thọ, Đào Sĩ
Chu, Nguyễn thị Bình, Hoàng Phủ Ngọc Tường v.v. . . nhiều lắm.
Muốn nhìn rõ bản chất
sự việc, phải đào sâu, xét kỹ hoàn cảnh cá nhân, gia đình điều kiện xã hội, chủ
quan, khách quan, không gian, thời gian. Rất nhiều nguyên nhân, yếu tố nhưng có
một cái chung: Mỗi người giỏi, xuất sắc về một lĩnh vực. Các ông, các bà tiến
sĩ, thạc sĩ, bác học, họ đã đầu tư gần hết trí óc và thời gian, miệt mài để có
những bằng cấp của họ.
Vì vậy, ở những lĩnh
vực khác họ lơ mơ, phiến diện, nhất là lĩnh vực chính trị, nên hầu hết là ngây
thơ nông cạn. Khi đã giỏi, xuất sắc một lĩnh vực, thì các lĩnh vực khác kém,
nông cạn là một điều tất yếu, bình thường, của một người.
Nhưng một điều ngộ nhận
của đa số quần chúng, và chính bản thân những vị trí thức này: Những người có
bằng cấp cao như thế, thì lĩnh vực nào cũng giỏi, cũng quán thấu. Do đấy họ
nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản chỉ trên lý thuyết, sách vở (Lý thuyết và sách
vở thì chủ nghĩa cộng sản đẹp và lý tưởng lắm), rồi họ hành xử, phát biểu
đàng sau cái bằng cấp, của họ.
Tôi hiểu ông Cao Ủy, và
mọi người chưa thỏa đáng lắm, sự trả lời của tôi, nên tôi nói tiếp:
- Thưa ông và các bạn,
tôi vừa đưa ra chỉ có tính cách gợi ý, đề nghị các bạn tự suy ngẫm, tìm hiểu
thêm trong thực tế. Một điều nữa xin các bạn lưu ý: Chủ nghĩa cộng sản do thời
gian và thực tế đã có chiều hướng, không còn phù hợp với con người tự nhiên.
Muốn duy trì, chúng phải bịp bợm, lôi kéo, gây mâu thuẫn, để chia rẽ, phía thế
giới tự do của chúng ta. Chúng nghiên cứu mọi cá nhân, đoàn thể có uy tín với
quần chúng. Một câu nói, một việc làm do vô tình của người này, đoàn thể kia,
chúng chộp ngay, đề cao, thổi phồng. Nếu không tỉnh táo, chúng ta vội vàng phản
đối, chê bai. Người ấy, đoàn thể đó đã tách ra và bị lôi dần về phía cảm tình
với cộng sản.
Đột nhiên anh cảnh sát
trưởng phòng hình sự đứng lên, điềm đạm đưa ra ý kiến:
- Tôi biết ngay trong
đám người tị nạn ở đây, có nhiều người hoạt động bí mật cho cộng sản. Từ đấy
suy ra trong các cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại, không thiếu những
người vẫn bí mật, làm việc cho cộng sản. Anh có thấy như thế không?
Tôi không ngờ người
Indonésia, hiểu biết nhiều về cộng sản, như vậy. Họ đưa ra toàn những vấn đề
phải đàm đạo, mổ xẻ truy nguyên từng chi tiết. Tôi chỉ nói ngắn gọn, vì đã đến
giờ mọi người ra về :
- Từ trước tới bây giờ,
thế giới cũng như riêng Việt Nam, biết bao nhiêu tấm gương người thực, việc
thực về những người nằm trong xã hội tư bản hoạt động bí mật cho cộng sản. Các
người này có thấy hay ít ra cảm thấy: cộng sản kỵ nhất, nhưng vẫn phải dùng
những người đã biết và nếm mùi của xã hội tự do tư bản!
Chúng biết những người
này sớm hay muộn, sẽ lửng lơ không chịu ngoan ngoãn trong khuôn khổ sắt máu độc
tài của chúng. Vì vậy, mỗi người chúng gửi đi nước ngoài, chúng phải nắm chắc
được xương sống của người đó. Coi như chúng đã cấy “Sinh tử phù” người đó, phải
hoàn toàn ngoan ngoãn, làm theo ý của chúng.
Rồi sẽ đến một ngày,
như một lũ chó săn, đã hết mồi, không còn giá trị lợi dụng nữa, nuôi chúng
trong tay chỉ có hại. Điển hình vừa đây nhất là: Vũ Ngọc Nhạ và Phạm Xuân Ẩn.
Những người nằm vùng, hoạt động cho cộng sản, ai đã có công lao to lớn bằng Nhạ
và Ẩn? Bây giờ cuộc sống ra sao?
Chúng là loại chiến
lược: Nhạ là Cố Vấn tin cẩn nằm trong phủ Đầu Rồng của Tổng Thống Thiệu. Còn Ẩn
đã được thời cụ Diệm đưa đi học lớp báo chí nhiều năm ở Hoa Kỳ. Để rồi hầu hết
những tờ báo lớn của Mỹ và phương Tây, thậm chí cả những cơ quan tình báo của
CIA, đã là những vỏ bọc vững chắc cho Ẩn. Y đã dễ dàng lấy được hầu hết những
tin tức chiến lược, hay tung hỏa mù làm lạc hướng, các cơ quan có trách nhiệm.
Đến khi cộng sản chiếm
được miền Nam, để làm mồi câu những con chó săn khác, sau này. Chúng phong cho
Ẩn là Đại Tá, rồi mới đây (1980), chúng gán cho cái lon Thiếu Tướng, phụ trách
những việc không thực quyền, ngồi chơi xơi nước. Người quen tôi ở Sàigòn cho
biết: năm 1982 Ẩn sống một mình, âm thầm trong một cái villa với 6, 7 con chó,
trên đường Kỳ Đồng, Dòng Chúa Cứu Thế.
Lý do những tên nằm
vùng của cộng sản, về cuối đời thường cô đơn, sống lủi thủi bó chặt nỗi ẩn ức.
Chủ không dùng nữa, để cho ngồi chơi xơi nước, chứ không có thực quyền. Tâm
trạng tên nào cũng ôm ấp, ít nhiều lòng kiêu hãnh tự tôn, với chung quanh.
Nhưng bạn bè, thậm chí họ hàng thân quyến, cho đến quần chúng, không ai ưa loại
người sống lá mặt, lá trái, nên chẳng ai muốn quan hệ.
Nói tới đây, tôi và anh
Huy nhìn nhau, đều đứng dậy, vì trời đã tối muộn quá rồi. Với những cái bắt tay
nồng nhiệt, anh Darko Sin còn nói to:
- Chúng ta sẽ gặp lại,
còn nhiều điều phải đàm đạo.
52.
BẦU TRỜI TỰ DO
Anh Huy và tôi đã khoác tay nhau trở về khu trại. Khi nãy
phải trả lời những điều mà tôi vẫn chưa quán triệt, nhưng vì lòng tự trọng một
người Việt, nên tôi đã nhờ cụ Lưu Linh hỗ trợ hơi nhiều. Bây giờ chân tôi bước
có lúc cảm tường người nhẹ bổng, bay được. Anh Huy đập vào vai, làm tôi lấy hồn
lại. Anh chỉ lên trời, phóng giọng vào gió lộng:
- Anh Bình có nhìn thấy
một cái tai bạc, to tướng kia không?
Đúng rồi, trăng nửa một
tí thừa dựng đứng, như một cái tai người, dán lên mầu xám sậm của bầu trời
Galang.
Sáng hôm sau tôi đã
nhận được giấy báo 5 ngày nữa, cùng một số đồng bào rời Galang đi xứ Cờ Hoa,
ngày 18-1 1-1983. Lộ trình “diện chùa” của tôi: Singapor – Tokyo – San
Francisco – Denver- Boston. Ngày đi, một số bạn bè tiễn đưa, mấy giáo học Indo
trong có anh Darko Sin. Đặc biệt, bác sĩ Huy đã tặng tôi tập nhạc VietNamese
English, khổ công sưu tập của anh, qua trí nhớ của mọi người. Tôi rất quý tập
sách nhạc đơn sơ này, như gói ghém một chút hành trang văn hoá, của Mẹ Việt
Nam.
Kính thưa quý vị, chí
của ai cũng muốn đào sông lấp biển, nhưng khả năng thì có hạn. Cho nên, tôi chỉ
làm những điều, tôi có thể làm được.
Tôi xin cảm tạ sự kỳ
diệu, nhiệm mầu của đời đã hỗ trợ tôi, trả nết món nợ nhỏ của một người vô
danh, với dân tộc, với Tổ Quốc.
Boston, ngày 9- 10- 2004
Đặng Chí Bình
LỜI
KẾT
Hình ảnh những bộ xương còn di động trên chốn lao trường,
những nấm mồ hoang lạnh giữa rừng sâu, dư âm những tiếng thở dài lê thê xen lẫn
những tiếng rên siết quằn quại trong đêm dài tăm tối… và những cặp mắt khát
khao nhắn nhủ ngày tôi chia tay, vẫn lảng vảng vấn vít trong hồn; tất cả như
đang khẩn nài, gào thét, đòi hỏi tôi phải thực hiện “Bản di chúc sống của họ“.
Đó là mấy dòng trích
đoạn LỜI TÂM SỰ khi tôi bắt đầu viết và in Thép Đen I. Bây giờ tôi đã viết xong
tập IV, coi như kết thúc cuộc hành trình gian khổ, chiếm trọn giai đoạn thanh
xuân nhất của đời tôi. Từ khi bắt đầu viết Thép Đen I, đến hết Thép Đen IV,
thời gian là 20 năm. Có giai đoạn hàng chục năm, tôi cầm bút lên rồi lại hạ bút
xuống, làm hết quyết tâm này đến quyết tâm khác, hết bạn bè thúc đẩy cho đến
giao kèo với con cái…
Bây giờ tôi như cất
được một gánh nặng cuộc đời, gánh nặng trách nhiệm đối với quê hương, với bạn
bè mà phần lớn đã nằm xuống lòng đất lạnh, chìm dần trong quên lãng. Tôi cũng
thấy trang trải được món nợ với các thế hệ con cháu, ghi lại cho chúng về một
giai đoạn, một hệ quả thương đau đến tận cùng nhân tính và nhân phẩm do chủ
nghĩa cộng sản gây ra.
Tuy vậy, giữa đống
xương khô, sình lầy máu mủ đó, tôi đã nhặt ra một viên ngọc quý.
Trong cuộc sống, mỗi
khi tôi gặp khó khăn trở ngại, buồn nản, tưởng không thể vượt qua, nghĩ lại 6
năm dài cơ cực, quằn quại đói rét, cùm khóa ở xà lim Hoả Lò Hà Nội, như có một
nguồn sinh lực thần kỳ đã nâng cao ý chí chịu đựng của tôi, nỗ lực vượt lên.
Tôi lại lạc quan yêu thương đời như mọi người.
Quả vậy, ngay trong
sinh hoạt bình thường, tôi nằm, tôi muốn để chân ở đâu thì để, đâu có phải đút
chân vào cái cùm hộp sắt, trở mình cũng đau buốt khó khăn. Đầu tôi, đâu có phải
chui vào cái túi vải, khâu bằng giẻ chùi của các bà cán bộ trong nhà cầu, mỗi
đêm để chống muỗi? Ngứa chỗ nào, tự do gãi chỗ ấy, muốn đi tiểu, đi tiêu , tôi
bò nhổm dậy vào nhà xí, đâu phải vặn vẹo người, nghiến răng buốt nhói, ngồi
trên cái “bô” rỉ, đưa lên sàn “ciment” mình nằm?
Hơn nữa, nỗi buồn, niềm
đau cay chua nghiệt ngã lại là chất men, nước mầu rắc tưới cho cuộc sống, như
cánh sen ngát hương thơm trong chiếc ao đời.
Sau hết, tập hồi ký
Thép Đen đã quấn cuộn hết cuộc đời, ngấm thẩm cả hồn tôi, vào từng trang sách.
Đặng Chí Bình
Tấm
hình kỳ diệu của đời
Một đêm 6/1972, tại K3 trại Trung Ương số 1 phố Lu, Lào
Cai, bốn người này ngồi ủ rũ, tâm tư mỗi người trăn trở vơi đầy của những kiếp
tù khác nhau. Nhưng có một cái chung là đều nghĩ chẳng bao giờ được về sống
ngoài xă hội như mọi người. Lầu Chí Chăn (người nhái) đă phát biểu:
-Uớc gì khi chúng mình
chết, được chết no!
Hình này chụp ngày
6/3/2005. Sau 33 năm, với bao nhiêu đổi thay, chìm nổi của quê hương, cuộc đời
và thế giới, 4 người này lại ngồi với nhau tại Westminster, CA.
Xin vài phút lắng đọng,
suy tư để thấy cái kỳ diệu của kiếp người (ngay ở xứ Hoa Kỳ, mỗi người ở mỗi
nơi. TG ở mãi bên bờ Đại Tây Dương)
Tác giả ngồi đối diện
với Nông Văn Hinh, Lầu Chí Chăn ngồi sau TG, đối diện với Lưu Nghĩa Hưng. Nhắc
chuyện xưa, Chăn lại phát biểu:
-Bây giờ, chúng ta lại
sợ chết no!
Tóm
lược thêm vài sự kiện
* Đầu năm 1992, tôi đã đến ngôi nhà của Karl Marx ở thành
Trier ( Tây Đức ). Do một sự may mắn, tôi đã được gặp và hầu chuyện một số đồng
bào đầu tiên, chạy từ Đông sang Tây Đức trong một trại tị nạn, (có những chuyện
sốt dẻo đặc biệt) khi bức tường Bá Linh bị phá đổ.
* Tháng 11- 2003 do
tình cờ tôi đã gặp lại anh BS Huy ở nhà thờ Saint Williams, Dorchester tại
Massachusetts, sau tròn 20 năm, không có tin gì về nhau. Anh không nhận ra tôi,
nhưng tôi đã nhìn ra anh.
Lúc đầu, trong đám đông, tôi vờ xô vào anh. Quay lại anh
vẫn chưa nhận ra, để tôi phải nói: “Bác sĩ Vũ Linh Huy, Tổng Thư Ký Ban đại diện Galang”,
bấy giờ anh mới ôm lấy tôi. Hiện nay anh làm việc ở Carney Hospital,
Dorchester.
Ngày vợ con anh đến nhà
tôi chơi. Tôi đã đưa tập nhạc với lời tặng của anh từ tháng 11-1983. Ngay tại
bàn ăn anh đã phóng bút 20 phút, một bài thơ anh ghi thêm, vào bìa trong tập
nhạc:
Gặp lại anh Bình
Gặp nhau ngắn ngủi tại
Ga- Lăng
Ít lời nhưng thanh khí lẽ hằng
Bởi mong đất nước mau thống nhất,
Suýt cho Hồ tặc, sớm vào lăng.
Biệt giam, cùm xích, tâm không nhụt,
Hát hò, tranh đấu, chí càng hăng.
Hai mươi năm chẵn, giờ gặp lại,
Mừng anh tiết tháo vẫn khăng khăng.
Ít lời nhưng thanh khí lẽ hằng
Bởi mong đất nước mau thống nhất,
Suýt cho Hồ tặc, sớm vào lăng.
Biệt giam, cùm xích, tâm không nhụt,
Hát hò, tranh đấu, chí càng hăng.
Hai mươi năm chẵn, giờ gặp lại,
Mừng anh tiết tháo vẫn khăng khăng.
Vũ Linh Huy
Tôi không ngờ, anh Huy
có khả năng xuất khẩu, thành thơ.
* Cũng do một sự may
của đời, qua tài liệu Nhà Trắng, ông Tourison (Viết Secret War, Secret Army)
tên Phan hay François một người trực tiếp huấn luyện tôi. Tôi đã đề cập nhiều
đến trong Thép Đen 1, lại là người CS đã mua chuộc, dụ dỗ được. Năm 1997, một
người bạn Nhái (biệt hải) sang Mỹ sau, có gặp Fan ở Sài Gòn. Tên thực là Đỗ Văn
Tiên, y cũng có nhiều công lao với Việt Cộng, nhưng bây giờ chúng cũng cho ngồi
chơi, dậy tư Anh Văn kiếm sống. Đi Mỹ thì không dám, sợ phải trả những món nợ
của anh em Biệt Kích, Gián Điệp. Riêng tôi từ quan điểm nhân bản tình người,
chuyện gì thì cũng đã qua. Tôi có ý tưởng nếu có điều kiện, tôi muốn gặp lại
hết những cán bộ cộng sản, tôi đã gặp trong trại giam. Nếu còn ai tất nhiên đều
là những cụ già, gạt hết mọi chuyện đã qua, chỉ gặp lại để thăm hỏi sức khỏe
của nhau.
Từ quan điểm này, tôi
đã viết một lá thư ngắn mươi mười lăm dòng, cũng gạt chính trị ra ngoài lề, gửi
cho Đỗ Văn Tiên. Để tôn trọng và tỏ lòng kính nhi, tôi đã mua 3 chiếc tem (Quốc
Tế) để anh ta trả lời. Nhưng cho đến nay vẫn không có hồi âm, không biết Phan
có còn trên dương thế ?
* Cha Tông nhà thờ cửa
Bắc Hà Nội, do một sự tình cờ năm 2000, tôi mới được giải đáp vì sao tôi bị
phản gián Hà Nội phát hiện, ngay từ nhà thờ Cửa Bắc? Tôi mất nhiều đêm không
ngủ vì đau đầu. Có ngờ đâu, tôi dùng mọi khả năng nghiệp vụ len lỏi về đến Hà
Nội, và đã tự mang mỡ đến nộp cho mèo. Chính cha Tông đã nhận nhiệm vụ với tình
báo của cộng sản. Bất cứ một người nào trong Nam ra, đến gặp cha thì phải báo
cho phản gián Hà Nội.
Hiện nay 10-2004, Cha
Đỗ Tông đã bị liệt (do tai biến), cấm khẩu nằm chờ chết ở một gian phòng vắng
trong Nhà Chung, Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Do linh mục TTK, cũng bị liệt một chân,
buồng bên cạnh, cho biết. Tôi muốn nói với Cha Tông vài lời, nhưng đành chịu
(người không nói được).
* Hoàng Thanh tên hung
thần ở phân trại E, trung ương số 1 Lào Cai 1968, tôi đã gặp.
Hoàng Đình Mỹ, một biệt
kích duy nhất, là công nhân (đểu) ở trại Thanh Lâm (Thanh Hóa) được đi phép về
Nam (12/1980). Anh vượt biên đến Thái Lan, rồi đã gia nhập phong trào Phục quốc
của ông Lê Quốc Túy, trở về Việt Nam hoạt động. Xâm nhập Đá Bạt, Cà Mâu
(2/9/1981) Việt cộng đã chờ sẵn để bắt lại. Anh bị chúng kết án chung thân. Do
áp lực của Quốc Tế (20/7/1998) CS tha về. Ngày 12/8/2002 anh đã đến San José
CA.
Anh cho biết Hoàng
Thanh hiện là cục trưởng Cục Lao Cải, thay Lê Hữu Qua. Mới đây y lại kiêm thêm
Cục An Ninh đặc biệt nữa.
Ngay từ cuộc di cư từ
Bắc vào Nam, 1954 Việt Cộng đã cài người lẫn lộn theo đồng bào di cư để hoạt
động cho chúng. Huống chi 30- 4-1975, kỹ thuật của chúng càng cao, càng tinh
vi: Di tản, vượt biên, HO, đoàn tụ gia đình, sinh viên du học v.v… Chúng toàn
quyền nhào nặn (giấy tờ, huấn luyện. . .) trong những bàn tay phù thủy bịp bợm.
Điều đương nhiên ở khắp nơi trên hải ngoại, nơi nào có cộng đồng người Việt đều
có người của chúng, nhiều tầng, nhiều loại. Bất cứ một cá nhân hay một tổ chức
đảng phái nào, muốn chống Việt Cộng phải tập họp, những người cùng tâm huyết,
tinh thần.
Từ đấy, ngay trong
những hạt nhân đầu tiên này, trong bộ tham mưu của tổ chức, đã có người của
chúng. Lúc đầu, chúng ủng hộ tạo điều kiện, để phát triển. Mỗi lần là một mê
lưới, bắt dần những con tôm lớn, nhỏ, chìm, nổi, chống chúng. Mục tiêu tối hậu,
là duy trì chỗ ngồi của chúng vững chắc yên lành. Cho nên, Hoàng Đình Mỹ được
chờ sẵn là tất yếu.
* Năm 1994, Lưu Nghĩa Lương
đi HO sang Hoa Kỳ. Tôi và Lương đã gặp nhau nhiều lần. 10/03, tôi sang CA gặp
một số anh BK, để thẩm định lại, một số sự kiện. Trong số anh em, tôi gặp có
Lương. Một hôm, chợt như Lương nhớ ra một việc, quay lại tôi như khoe:
- Anh Bình còn nhớ Tằng
toét không ?
Ngạc nhiên, không hiểu
sao Lương lại nói đến tên Tằng? Tuy vậy, tôi vẫn cười, trả lời:
- Nó có quên anh, chứ
anh muốn quên nó, cũng không được !
Lương nói như phát kiến
một ý lạ :
- Anh có biết không,
đầu 1992, em gặp anh Mạc Lịch và Tuấn Nguyệt ở Bà Chiểu. Anh Lịch kể lại tuần
trước, anh tình cờ gặp Tằng Toét, đeo hàm Thiếu Tá. Tằng cho biết y mới vào
Sàigòn chơi, hơn một tháng. Y rất vồn vã cởi mở, y nói: “Tôi có vào Sàigòn, mới
biết, tôi cũng bị lừa, tôi xin lỗi các anh!”.
Nghe Lương thuật lại,
đầu tôi vẩn lên: Chẳng qua, chủ nghĩa CS mới bị phá sản ngay tại cái “nôi” sản
sinh ra, tên Tằng chưa biết ra sao, nên y tỏ ra như vậy (nên không thể tin
được). Vả lại, chúng ta đã thấy, ngay những tên Bộ chính trị, hay trung ương
đảng, những loại bậc thầy của Tằng Toét, nếu còn duy trì cái chủ nghĩa lỗi thời
cũng chỉ vì cái ghế, hay nồi cơm của họ mà thôi. Chẳng biết tên Tằng có nghe
thấy ông Gorbachev (người thầy của những người thầy tên Tằng) tuyên bố chắc
nịch: Chủ Nghĩa cộng sản, chỉ có thể thay thế, chứ không thể thay đổi.
* Cô Vân y tá Hỏa Lò.
Một vị linh mục trẻ ở
CA là một độc giả của Thép Đen. Vị linh mục này chạnh lòng muốn tìm gặp, để
giúp đỡ ba nhân vật: Đào Thị Bắc, Phùng Văn Trí, và cô Vân y tá Hỏa Lò. Vị này
đã tìm gặp tác giả. Do một sự kỳ diệu của đời, tôi đã liên lạc với cô Vân ở Hà
Nội. Rồi năm 2003 do vợ chồng một anh bạn cùng khóa 11 Đồng Tiến ở CA đi du
lịch, đã đến tận nhà cô Vân ở Hà Nội để ghi hình ảnh. Cảnh sống của cô khá giả
hơn tôi ở Mỹ, nên tôi cũng thoải mái lòng.
* Toán Biệt Kích Hector
A.
Toán BK Hector A, gồm
14 người. Ra Bắc ngày 22/6/66.
Toán trường là Bùi
Quang Cát, cố vấn của toán là Nguyễn Hữu Luyện. (Đặng Đình Thúy là cố vấn của
toán Hector B, 12 người, tôi đã tường thuật). Từ ngày Hoàng Đình Mỹ sang CA,
tôi trao đổi phone với Mỹ và Bùi Quang Cát cùng ở San José nhiều lần, mới nhất
(9/2/05). Sau đây, tôi xin sơ lược về toán Hector A: Địa bàn hoạt động ở
Cà-Roòng Quảng Bình (đường mòn HCM). Toán xuống đúng một tháng, một ngày thì bị
bắt:
· Bùi Quang Cát, toán trưởng hiện ở San
José.
· Nguyễn Hữu Luyện, cố vấn hiện ở MA
· Nguyễn Văn Toán, truyền tin trưởng hiện
ở Mỹ.
· Trần Hữu Tuấn, vũ khí phá hoại hiện ở
Mỹ.
· Nguyễn Văn Thùy, truyền tin phụ hiện ở
WA.
· Đỗ Văn Tính, toán viên hiện ở Hoà Lan.
· Đinh Văn Vượng, toán viên hiện ở Mỹ.
· Trần Văn Tiếp, toán viên hiện ở TX.
· Trần Hữu Thức, toán viên hiện ở Xóm Mới
Gò Vấp VN.
· Vũ Đình Giao, toán viên hiện ở Mỹ.
· Hoàng Đình Mỹ, toán viên hiện ở San
José.
· Nguyễn Ngọc Lâm, toán viên hiện ở Santa
Ana.
· Nguyễn Mạnh Hải, liên lạc dẫn đường, vì
ở Thái về. Biết tiếng Thái và dân tộc thiểu số. Vượt biên, bị chết ở Thái Lan.
· Đỗ Văn Tư, toán viên. Tư có cái nhẫn,
bị cướp vào nhà, lột. Tư chống cự, bị cướp giết 1992 tại đường Nguyễn Thế Hiển,
Chợ Lớn.
Toán vì sao bị lộ, bị
bắt ? Tôi nghe nhiều tình huống, nhưng không phải chủ trương của người viết,
nên tôi không tường thuật chi tiết. Toàn toán phải bị dong đường bộ từ Quảng
Bình về đến Hoả Lò, Hà Nội hơn 1 tháng trời.
Bài
viết của Phan Thanh Vân
Hôm nay đã là 29 tháng chạp, chỉ còn vài ngày nữa là Tết
rồi. Tết năm nay là Tết Tân Hợi (1971) và đúng là cái Tết thứ 10 mà mình sống
bơ vơ, xa gia đình, xa quê hương xứ sở.
Chiều hôm nay, sau khi
hoàn thành xong chiếc giường đôi rẻ quạt, gã chính ủy (ủy viên chính trị) quản
lý hợp tác xã mộc Đồng tiến ở thị xã Ba vì, tỉnh Sơn Tây gọi tôi lên văn phòng
và nói:
-Anh nghỉ việc sáng hôm
nay, về lán thu xếp để chuẩn bị ngày mai về Hà nội.
Tôi thắc mắc:
-Dạ, báo cáo cán bộ,
tôi về Hà nội có chuyện gì và về bao lâu?
Gã lạnh như tiền:
-Anh đừng thắc mắc, đó
là lệnh trên của Trung ương, tôi cũng không biết lý do. Anh cứ chuẩn bị sẵn
sàng đi, và có lẽ anh sẽ không trở về đây đâu.
Ra khỏi văn phòng cán
bộ, tôi trở về lán thu xếp đồ nghề mà trong lòng nghĩ ngợi miên man; lại cái gì
đây?Được đưa về đây sống quản thúc ở hợp tác xã mộc này đã gần 2 năm nay, ngày
ngày tháng tháng lòng mình lúc nào cũng thấp thỏm lo âu với cái tội nặng nề
thầm kín mang trong người là “giặc lái Mỹ ngụy”
Năm 1961, sau khi lãnh
cái án tù 7 năm, là từ Hỏa Lò Hà Nội đến trại này trại kia, cuối cùng là trại E
Phố Lu (Lao Cai), tôi đã “ngoan ngoãn” cải tạo tư tưởng để trở thành “thành
phần tiến bộ”, để sau khi hết án 7 năm tù, được hường thêm 2 năm “tự giác” ở lại
trại giam. Và cuối cùng cho đến năm 1969, tôi đã thở phào nhẹ nhõm người khi
được nhân dân, Đảng và nhà nước trả tự do, đưa về đây quản thúc với nghề thợ
mộc,”ngày động tối điểm” (ban ngày lao động:cưa xè, đóng bàn, đóng giường, tối
điểm danh trước khi đi ngủ).
Tối hôm nay trằn trọc
mãi, không tài nào ngủ được, lo nghĩ lại chuyện gì sẽ đến với mỉnh đây, tại sao
lại bị đưa về Hà nội, tại sao…tại sao…nằm mãi không ngủ được thôi thì dậy, phì
phèo vài điếu thuốc lào.
Ngoài lán các “đồng
chí” đang quây quần bên đống lửa to, canh nồi bánh chưng. Nghĩ lại nếu không có
cái lệnh đi Hà nội thì giờ này mình cũng ngồi ngoài đó vì ban sáng mình đã được
phân công canh nấu bánh chưng tối nay.
Sáng rồi, chưa tới 9
giờ thì thấy đã có một chiếc xe Molotova loại nhỏ như xe Jeep của Mỹ, đậu sẵn ở
trong sân của Hợp tác xã. Tôi cũng đã sẵn sàng khi đồng chí cán bộ quản lý
xuống kêu lên văn phòng gặp cán bộ trung ương.
Vào đến văn phòng là
tôi khựng lại, nghĩ thầm trong lòng: Lại cái ông Toán này nữa, cái ông cán bộ
công an đã săn sóc mình trong mấy năm qua, từ khi mình được trở thành ngườI tự
do.!!
Sau khi anh quản lý bảo
tôi ngồi xuồng rồi đi ra, ông Toán mới chậm rãi:
Anh có được khỏe không?
Hôm nay tôi lên gặp anh để đưa anh về Hà nội và sau đó đưa anh ra sân bay để
anh đi Pháp đoàn tụ với gia đình. Đảng và nhà nước đã rất khoan hồng đối với
anh và đã chấp thuận lời xin của gia đình người chị của anh ở bên Pháp, cho anh
về Pháp sum họp gia đình.
Nghe đến đây tôi như
tắt thở, mừng đến nỗi nhịp tim đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài, tuy nhiên vẫn
cố lấy bình tĩnh để nghe tiếp những lời lải nhải của đĩa hát cũ đã rè, lập đi
lập lại, nào là anh phải biết ơn nhân dân, biết ơn Đảng và nhà nước, nào là anh
phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để thành người tiến bộ, trở về phục vụ nhân dân,
phục vụ Đảng và nhà nước v…và v…
Ông Toán nói tiếp:
Đây là giấy thông hành
tạm cấp cho anh để anh dùng đi đường ra nước ngoài, còn đây là giấy máy bay của
hãng hàng không Pháp Air France đi từ Hà nội đến Paris . Giấy máy bay này do
người chị của anh mua và gởi sang cho chúng tôi để nhờ đưa lại cho anh dùng.
Thôi chúng ta chuẩn bị lên đường kẻo trễ, anh còn có ý kiến, còn muốn phát biểu
gì không?
Tôi lập bập:
Dạ báo cáo cán bộ, dạ
dạ thưa không!
Đứng dậy ra xe chân
mình bủn rủn, đi hết muốn vững. Đâu có ngờ!
Ra đến xe thấy cán bộ
quản lý chạy lại:
Anh cầm lấy túi bánh
chưng này, đây là quà Tết của hợp tác xã tặng anh, cầm theo mà ăn đi đường.
Xe lăn bánh rời Ba Vì,
bon bon trên đường hướng về Hà nội. Ngồi trên xe mà lòng tôi lâng lâng, nửa
tỉnh nửa mơ, mừng lo lẫn lộn, vì chưa hẳn dám tin đó là chuyện thật, hai bên
đường cây cối trơ trụi, bụi đường tung tóe theo lằn bánh xe lăn, nhưng sao mình
thấy cái gì cũng vui tươi, cái gì cũng đẹp sáng, tưng bừng như…Tết.
Mải triền miên với trăm
nghìn ý nghĩ trong đầu, tôi không để ý đã băng qua Hà nội lúc nào và đang trên
đường tiến vể sân bay Bạch mai
Xe đến cổng phi trường
thì chạy chậm lại, tài xế lái xe vào đậu ở gần nhà ga hành khách, ông Toán bước
xuống quay lại bảo tôi xuống xe theo ông vào trong làm thủ tục giấy tờ.
Tôi liếc nhanh quanh
sân bay, ngoài bãi đậu xa hai ba chiếc máy bay rải rác đậu, một chiếc máy bay
kiểu Illouchine 14 của Nga (loại máy bay vận tải chở hành khách loại nhỏ đang
chuẩn bị, năm ba người nhân công chạy chung quanh, người đổ xăng, người đi vòng
phi cơ kiểm tra.
Tôi nghĩ bụng mình sẽ
đi với chiếc phi cơ này. Sau khi theo ông Toán vào quầy hành khách để trình
giấy tờ, giấy thông hành, giấy máy bay…làm xong thủ tục, ông Toán nói:
-Thôi đến giờ rồi, anh
theo ra máy bay đi, anh đi mạnh giỏi và hãy nhớ những gì anh đã tiếp thu được
mà cố gắng trở thành người tốt.
-Dạ báo cáo cán bộ, dạ
tôi xin cám ơn!
Mình lập bập, hối hả
theo sau độ năm mười người nữa ra hướng máy bay đậu. Nhìn những hành khách
khác, không biết là Việt hay Tàu, người nào cũng áo bốn túi, cổ Mao, chắc toàn
là cán bộ đi công tác, còn mình thì chả giống ai với bộ bà ba nâu, chân đi dép
cao su Bình Trị Thiên, tay quẩy túi bánh chưng bây giờ mới để ý thấy có bốn
cái, mình lững thững bước lên vào tìm chổ ngồi trong phi cơ. Nhìn anh phi công
cao lớn, da đỏ có lẽ là người Nga, mặc đồ phi hành dân sự, đi giữa hai hàng ghế
hành khách để lên buồng lái, tôi ngẩn ngơ nhớ lại… ngày nào!
Chiếc vận tải cơ
Illouchine 14 của hãng hàng không Nga từ từ chuyển bánh ra phi đạo, ngừng lại
chỗ thử máy và sau đó cất cánh nhẹ nhàng.
Toàn thân tôi rung mạnh
theo đà máy bay lăn trên phi đạo rồi từ từ rời đất liền và theo chiều cao bay
lên, bỗng dưng hai mắt tôi nhắm nghiền lại, người tôi tự nhiên thấy ớn lạnh khi
chợt nghĩ đến… một chuyến bay!!!
Rồi những kinh hoàng,
hãi hùng của những giây phút rùng rợn gần 10 năm xưa dần dần tiếp diễn qua tâm
trí tôi như một cuốn phim:
Tôi nhớ rõ chiếc máy
C47 trắng ngần do tôi lái khi vượt qua vĩ tuyến 17, bay là sát mặt biển xâm
nhập vào bầu trời của miền Bắc, dù còn ở ngoài khơi của biển Đông, cả 7 người
trong phòng lái chúng tôi đều bắt đầu thấy thần kinh căng thẳng; người này lo
lắng liếc mắt nhìn người kia, không ai nói vơi ai một lời. Khi máy bay vào sâu
nội địa, tôi còn nhớ lúc ấy khoảng hơn 1 giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng lên
như ánh chớp màu da cam ngay trước mặt tôi trong bầu trời như bức màn đen, máy
bay tự nhiên rung giật mạnh, không hề nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh
gì, hai tay tôi ôm cứng lấy tay lái, cố giữ thăng bằng cho chiếc máy bay, mắt
tôi còn thoáng thấy anh Mậu điều hành viên và anh Thích phi công phụ ôm chầm
láây nhau, rồi…tôi không còn biết gì nữa!
Không biết mãi bao lâu
sau, khi thấy lạnh run, tôi cố mở mắt nhìn trong đêm tối đen kịt, người tôi như
vỡ nát ra trăm mảnh, tôi không cử động được tay chân, đau đớn tận cùng hồn tôi
lửng lơ, tôi tưởng như tôi đã chết rồi, hay đang… chết. Sau đó dần dần một lúc,
tôi mới cảm thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau, tôi không nhìn thấy
gì cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên mặt để
rửa. Nước bùn nhầy nhụa hòa với một thứ nước mằn mặn trên gương mặt loang lổ
của tôi, “máu “ mặt tôi đày máu, tôi cố mở mắt nhiều lần nhưng vẫn không thấy
gì, đầu tôi như có ai cầm chiếc gậy đập đều đều, tôi lại mê man, tâm trí như có
một khoảng trống rỗng, chẳng còn ý niệm gì về thời gian, không gian.
Tôi cũng chẳng biết là
cho đến bao lâu nữa, mãi khi tai tôi chợt nghe văng vẳng trong gió lao xao của
đêm khuya:
-Chết tôi rồi, chết tôi
rồi, nóng quá, nóng quá, chết…tôi rồi!
Tiếng kêu thảm thiết
của những người đang chết cháy! Tôi không nhúc nhích gì được, cả một nửa người
của tôi đã ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt to: xa xa cách chỗ tôi “đứng”
độ vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt và những tiếng
thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi như nửa tỉnh nửa mê, chợt lờ mờ
có ý niệm rằng chiếc C47 do tôi lái đã bị bắn rơi xuống đây và đang bốc cháy!
Tôi lại mê man bất tỉnh
cho đến khi mở choàng mắt ra, lúc này đã nhìn được lơ mơ thấy khung cảnh đồng
ruộng sình lầy, đầu tôi đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi nghe
rõ tiếng người hò hét xa xa, tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng trong gió đêm.
Một ý thức bừng dậy
thành phản xạ của sự sống còn ập đến như một đòn bẩy, tôi cố vùng vẫy, nhô
người lên khỏi đám sình lầy, nhưng tôi quá yếu, bất lực!
Tiếng quát tháo lẫn lộn
của đàn ông lẫn đàn bà càng lúc càng gần cùng với những ngọn đuốc lập lòe di
động đốt sáng cả một góc trời, phần vì khắp người đau như dần với bao nhiêu
thương tích, phần vì quá khiếp sợ, đầu óc tôi tê đi, cho đến lúc họ đã quát
tháo ầm ầm bên tai tôi mà tôi vẫn đứng im như một xác chết. Họ hò nhau túm lấy
tay chân tôi, kéo tôi ra khỏi sình lầy.
Lúc này trời đã sáng
tỏ, tôi lờ mờ thấy không biết bao nhiêu người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh
tôi, súng ống gậy gộc, họ hầm hè như muốn nhai xương, nuốt sống, ăn thịt tôi
tôi đau đớn sức tàn, tôi sợ quá, nhắm mắt lại, rồi lịm đi, văng vẳng nghe tiếng
quát, tiếng chửi rủa ập ngoáy vào tai tôi:
-Coi chừng, coi chừng,
nó hãy còn sống, đập chết nó đi, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của Mỹ
Diệm!
Cuốn phim đến đây tự
nhiên tắt ngay, tôi giựt mình bừng tỉnh dậy. Tôi đang ngả người trên chiếc ghế
nhung của hành khách, máy bay đang bay êm, tiếng máy đều đều…trong máy bay gió
lạnh nhưng người tôi ướt đẫm mồ hôi, ướt thấm cả bộ quần áo nâu tôi đang mặc,
tôi cảm thấy lạnh, lạnh ớn xương sống…với giấc chiêm bao vừa qua!
Với tay với cái mền đắp
lên người mới nhớ ra các giấy tờ mang theo trong người, lần mò móc ra xem,
ngoài tờ giấy thông hành tạm, đóng dấu đỏ của Bộ Công An Hà nội là giấy máy bay
của hãng hàng không Pháp Air France, trong đó ghi chặng đường đi:Hà nội,
Canton, Hồng kông. Paris .
Tôi nghĩ thầm trong
bụng: tại sao ghé qua Quảng đông (Canton) đó là đất đai của Trung cộng, nếu mà
lôi thôi trở ngại biết làm sao?
Mãi loay hoay với ngàn
ý nghĩ lo lắng, tôi không để ý đến đèn báo hiệu buộc dây an toàn bật cháy, cho
đến khi người chiêu đãi viên đến nhắc tôi vì máy bay chuẳn bị đáp. Phi trường
Quảng đông vắng tanh, lạnh ngắt, không thấy một sinh hoạt nhộn nhịp nào như các
phi trường dân sự khác, không thấy một chiếc máy bay nào khác đậu ở sân bay,
ngoài chiếc máy bay tôi đang đi, từ từ vào bến đậu, ngay trước nhà ga hành
khách. Tôi được mời xuống máy bay theo sau lẻ tẻ hai ba người hành khách khác,
đi vào trạm nhà ga.
Vì đã quen với cách
thức đi lại của các phi trường quốc tế, tôi tìm ngay đến quầy tiếp khách đại
diện của Air France . Sau khi trình giấy tờ, giấy máy bay của tôi cho người
nhân viên, một người tầu, bập bẹ nói tiếng Pháp, anh ta xem xong rồi nói:
Hiện tại chúng tôi
không có đường bay nối tiếp (connection) giữa Canton và Hồng kông, theo lộ
trình đã được chỉ định và trả tiền trước, chúng tôi sẽ lo liệu cho anh đi
Hongkong bằng đường xe lửa, và khi đến Hong kong anh sẽ tiếp tục lấy máy bay đi
Paris, anh chuẩn bị theo tôi ra xe để tôi đưa anh ra nhà ga xe lửa cho kịp giờ.
Ngồi trên xe theo người
nhân viên Air France từ phi trường ra ga xe lửa, quang cảnh hai bên đường xe
chạy lạ hoắc, nhưng tôi đâu còn tâm trí nào để nhận xét! Nhà ga xe lửa Quảng
đông thật nhộn nhịp ồn ào khác thường, đặc nghẹt hành khách và hành lý. Người
nhân viên Tầu dắt tôi len lỏi qua đám người, chen chúc đến quầy lấy vé và đưa
tôi lên một toa giữa con tầu để tìm chỗ ngồi, may mắn tìm được một chỗ trống
gần cửa sổ, anh ta chỉ cho tôi ngồi xuống và đưa tay bắt tay tôi chúc may mắn
(bonne chance)
Khi xe lửa bắt đầu lệnh
khệnh lăn bánh, một kiểu xe lửa từ thời chiến tranh 1914-18, cũng là khi tôi
thấy đói lả, mệt nhừ! Chợt nhớ túi bánh chưng xách tòn ten theo từ khi rời Hà
nội, tôi mở ra lấy một cái, bóc lá, nhỏm nhẻm ăn ngon lành, thả hồn thưởng thức
hương vị của bánh chưng Tết, mặc kệ cho quang cảnh ồn ào chung quanh, tiếng
cười, tiếng nói “xí xí ngộ cỏn” của các hành khách nông thôn Tầu đù loại, đang
chen chúc nhau trong toa tàu chật hẹp.
Trời đã xế chiều, tôi
không có ý niệm chính xác về thời gian, đoán chừng là đã 4, 5 giờ chiều thì xe
lửa từ từ dừng lại vì đã tới trạm ranh giới giữa Quảng đông và Hồng kông. Sau
khi xe lửa ngừng hẳn, giữa cảnh ồn ào nhốn nháo của hành khách, tôi thấy hai
người mặc quân phục, một người Anh và một người Tầu, tôi đoán là nhân viên của
Sở Di trú (Immigration) lên toa xe để kiềm soát giấy tờ.
Khi họ đến chỗ tôi ngồi
và sau khi xem xét giấy thông hành tôi trình ra, nhân viên người Anh lật qua
lật lại tờ giấy của tôi, xem xong rồi chậm rãi nói:
-Với giấy thông hành
này của CS Hà nội cấp cho anh đi đường, vì không phải là sổ thông hành chính
thức, chúng tôi chỉ chấp nhận cho anh đi qua(transit) đất Hông kông 24 tiếng
đồng hồ mà thôi, sau thời gian đó, anh phải đi ra khỏi Hong kong, nếu không
chúng tôi sẽ bắt giữ anh và trục xuất anh về Hà nội, anh có hiểu rõ lời tôi nói
không?
Tôi xanh mặt, lẩm bẩm
trả lời:
Yes, yes Sir!
Tay run run cầm tờ giấy
thông hành người nhân viên Anh đưa trả lại,bụng nghĩ thầm:
-Chết cha thằng nhỏ
rồi, rồi đây biết lo liệu làm sao?
Xe lửa ngừng hẳn ở nhà
ga Hong kong, hành khách chen chúc nhau đi xuống, tôi đặt chân xuống nền gạch
sạch mát của nhà ga, lòng tự nhiên thấy hả hê, vui lây với quang cảnh sinh hoạt
của thế giới tự do!Tôi nhìn đồng hồ nhà ga, đã hơn 6 giờ chiều, tôi vội vã len
lòi ra khỏi nhà ga, tìm đường mò về phi trường Kaitak vì biết chắc đó là phi
trường quốc tế của Hongkong
“Thả cọp về rừng”, may
là đường xá ở Hong kong đâu có xa lạ gì với tôi khi tôi còn lái cho Air Vietnam
và đã từng ghé qua ăn cơm bữa ở đây. Cất bước như vừa đi vừa chạy, băng ngang
qua các phố xá đông nghịt người vui nhộn như cảnh Tết, nhưng tôi đâu có dám
dừng chân để thưởng thức gì, vừa mệt vừa lo sao cho kịp đến phi trường Kaitak
để bắt cho kịp chuyến máy bay Air France đi Paris.
Vào đến phi trường là
lúc phố xá đã lên đèn, người tôi mệt nhoài, tôi hổn hển tìm đến quầy vé hãng
Air France, trình giấy máy bay đề đi cho kịp chuyến AF 1002, cất cánh lúc 20
giờ đi từ Hong kong sang Paris theo như trên bảng khởi hành (departure) mà tôi
đã nhanh mắt nhìn qua.
Người nhân viên hãng
Air France sau khi ghi nhận và xem xét giấy thông hành của tôi, anh ta nói:
-Đây nhé, chúng tôi rất
tiếc là không thề nhận cho anh đi trên chuyến bay này vì anh mang trong mình
giấy tờ cùa CSBV và máy bay của chúng tôi phải làm transit ở Bangkok, tôi e
ngại rằng nhà cầm quyền Thái lan sẽ làm khó dễ cho anh, tôi khuyên anh nên nhẫn
nại chờ chuyến sau, hoặc bay thẳng, hoặc ghé nơi nào có thuận lợi cho anh hơn
thì anh hãy đi.
Cầm giấy tờ người nhân
viên đưa trả lại mà tôi “hỡi ơi, sao lại gặp rắc rối quá trời như thế này”.
Chân đi không vững, tôi lần mò ra ghế băng ngổi nghỉ đợi, trong lòng “trống
đánh thùng thùng”, lo âu cứ nghĩ đến giờ sẽ bị trục xuất! Chợt có ai đằng sau
vỗ vai tôi và một giọng phụ nữ vui vẽ nói bằng tiếng Pháp:
-Ê có khỏe không? Anh
có phải là anh Vân, captain Air Vietnam ? Đi đâu mà ăn mặc kỳ cục không giống
ai hết vậy?
Tôi ngỡ ngàng quay lại,
một người đẹp trong bộ y phục chiêu đãi viên hàng không tươi cười đưa tay cho
tôi bắt:
-Anh quên tôi rồi
sao?Tôi là Francoise,hôtesse Lufthansa nè!
Tôi ngạc nhiên,sượng
sùng nhìn người thiếu phụ quen quen không nói được một lời, chị ta tiếp tục
huyên thuyên kể lể.
À! thì té ra là
Francoise Dupuis, nữ chiêu đãi viên bay cho hãng hàng không Đức, người mà thời
xưa, lúc tôi còn lái cho Air Vietnam, đã từng được tôi mời mọc, ăn uống mỗi khi
gặp nhau ở các escale Hongkong hay Tokyo…
Tự nhiẽn tôi thấy thoải
mái, mừng lây với cái vui mừng vồn vã, hồn nhiên của người xưa, nay gặp lại
nhau, tự nhiên tôi thấy có can đảm để “bốc” với nàng, đem “nghề của chàng” kể
lể cuộc đời đã qua với hoàn cảnh hiện giờ của tôi cho nàng nghe. Nghe xong nàng
vui vẻ:
-Anh đừng lo, tôi sẽ cố
gắng thu xếp giúp anh. Anh đưa vé máy bay của anh cho tôi, tôi sẽ lo liệu cho
anh trên chuyến máy bay Lufthansa của tôi, cất cánh đi Francfort lúc 10 giờ
đêm, có ghé qua Paris, có điều là tôi dặn anh phải nhớ, khi đáp xuống Bangkok
để tiếp tế xăng và lấy thêm hành khách, anh phải giả bệnh nằm lại trên phi cơ,
tôi sẽ tìm cách thu xếp ổn thỏa cho anh tránh khỏi qua sự kiểm soát của Thái
lan, anh nhớ nhé. Thôi anh đi theo tôi làm thủ tục cho kịp.
Tôi vui mừng vô cùng,
lững thững đi theo người đẹp mà trong lòng thầm nghĩ sao lại còn may mắn gặp
được cảnh “thánh nhân đãi kẻ khù khờ”.
Sau bao nhiêu gian
truân trắc trở, lo lắng trên đoạn đường đời của một người “từ cõi chết tìm về
tự do” cuối cùng tôi đặt chân xuống phi trường Orly (Pháp) ngày 7 tháng 2 năm
1971.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét