CHƯƠNG 34
Hắn ở nhà ba ngày. Ba ngày ấy, hắn sống bằng
cả ba kiếp sống. Cái hội chứng sống nhiều kiếp trong một lúc chỉ hắn mới có,
chỉ những người mới ở tù ra mới có. Thực ra hắn chưa biết có nó. Hắn chưa ý
thức được rằng mình mang bệnh ấy. Sống mà luôn nghĩ tới quá khứ, những ngày
chưa bị bắt và nhưng ngày ở trong ấy, từ chuyện này lan man sang chuyện khác.
Đúng là từ chuyện này lan man sang chuyện khác. Khi con Nguyệt nhổ tóc sâu cho
hắn, thủ thỉ bên tai hắn, hạnh phúc êm đềm đến thế, hắn lại nghĩ đến con Thương
ngày nào còn bé hơn con Nguyệt tẩm quất cho hắn. Và lại nghĩ đến Giang. Giang
cũng nhổ tóc sâu cho hắn. Rồi con Nguyệt kéo tay hắn hớn hở: "Con với bố
đi đến xem có bao nhiêu quả dứa đi. Năm nay dứa sai lắm, bố ạ". Hắn dẫn
tay con bé cùng đi dọc bờ những rãnh xẻ trong vườn. Hai hàng dứa trồng hai mép
rãnh đang ra những quả non. Hai bố con cùng đếm.
Con Nguyệt liến thoảng:
- Một, hai, ba, năm, cây này hai quả đấy, bố
ạ. Một quả chúc xuống rãnh đây này, bố trông thấy không, sáu, bảy...
Hắn cũng đếm. Hắn chỉ đếm được đến mười thì
nghĩ đến cái tên Vịt Bầu. Nghĩa là chậm. Vì số 10 là niềm tự hào của Vịt Bầu.
Vịt Bầu chậm, nhưng cũng tạt được khoai khi xới khoai. Vặn củ khoai non lau vào
vạt áo cho hết đất cát phân gio, rồi tém gọn vào mồm ngậm nhai. Khi xới ngô
cũng thổi ác-mô-ni-ca, cho bắp ngô vào mồm xoay một vòng là hết mấy hàng hạt...
Và nương dứa của trại ập đến. Nương dứa mênh mông vạc vào một bìa rừng, cỏ mọc
rậm rịt. Những bụi le cao vút chen với dứa, lá sắc như dao cạo che khuất hắn.
Nhưng dứa vẫn rất nhiều quả. Lại nhiều quả đang bắt đầu chín. Hắn lại chỉ đi
một mình. Thật là thiên tải nhất thì, nghìn năm có một. Hắn trẩy đúng mười quả.
Dễ lắm. Lấy chân đá vào cuống dứa.
Gẫy ngay. Toàn những dứa thơm căng. Cho vào
thùng, rồi quẩy lủi vào một bụi rậm giữa rừng. Khợp. Không có dao, hắn tìm một
chỗ gồ lên của rễ cây. Đập Quả dứa vỡ đôi. Hắn gặm. Ngon. Thơm. Ngọt lịm. Đúng
là cơ hội ngàn năm có một. Quả thứ hai vẫn ngon. Quả thứ ba đă thấy rát lưỡi.
Đã thấy lợi như bị cào. Nhưng vẫn ngon. Nước dứa ngấm vào người rần rật. Rát
lưỡi đấy, nhưng không được bỏ. Có thể yểm vào một chỗ, để dành, nhưng biết bao
giờ mới quay lại mà ăn. Tù nay làm đồi này mai làm đồi khác. có khi vài tháng
sau mới quay lại nơi làm cũ. Hắn gặm. Tiếp tục đập. Tiếp tục gặm. Lợi đã chảy
máu. Máu đỏ tươi khi hắn quệt mép. Máu đỏ hồng ở chỗ thịt dứa dính vào mảnh vỏ
hắn cầm trên tay.
Quả thứ bảy. Mỗi lần gặm đau như xé lợi. Máu
tươi chảy xuống tới càm.
Quả thứ tám. Lưỡi vừa chạm vào miếng dứa đã
rụt ngay lại như chạm vào sắt nung đỏ. Cố. Phải cố. Phải ăn hết. Không được bỏ.
Đây là lượng. Đây là chất. Nhai trệu trạo thôi. Rồi nuốt. Nhưng hàm ếch cũng
chảy máu tươi rồi. Cũng bong hết lớp da non, cũng rách toạc ra rồi.
Quả thứ chín. Khá lắm. Đã được tám quả. Còn
quả này nữa. Hắn đau đớn giàn giụa nước mắt. Giá có dao gọt, xắt thì đỡ hơn.
Đằng này lại gặm. Dứa tác động đến mồm miệng nhiều gấp mấy lần. Hắn thừ người
nhìn quả dứa thứ chín đã đập vỡ làm hai, Nước quả dứa bị giập trong khi đập ri
rỉ, óng ánh. Nước dứa dính bết tay hắn. ở miệng hắn, nước dứa dính lẫn máu hồng
hồng.
Hắn gặm nửa quả dứa thứ chín. Tra tấn. Đúng là
tra tấn. Giá mà để dành được. Đau. Mồm như bị lở loét xối lên óc. Hắn gặm nửa
quả dứa còn lại. Máu chảy nhiều quá. Hắn giằng mạnh cái lõi. Nó bựt ra, kéo
theo nhiều thịt dứa. Hắn gặm chỗ thịt ấy. Đỡ đau hơn khi nó còn dính vào vỏ,
lúc gặm thỉnh thoảng lại có một cái mắt dứa cào vào lưỡi như dao cạo khía.
Nhưng vẫn là tra tấn. Vẫn là máu me nhầy nhụa. Hắn ăn hết quả dứa thứ chín và
ngắm nghía cái lõi. Nó tròn tròn phủ kín một lượt máu, hồng hồng như một khúc
xương lợn còn dính thịt. Hệt như khúc xương lợn còn dính thịt nham nhở. Hắn vất
cái lõi hồng hồng ấy vào đám vỏ dứa đã gặm. Hắn nhìn quả dứa thứ mười. Hắn thở
dài, đứng lên, ném quả dứa vào bụi. Không ai có thể làm được một việc quá sức
mình. Hắn chỉ cố được chín quả. Dù là nghìn năm có một vẫn phải vứt đi thôi.
Hắn lần mò xuống suối. Mồ hôi như tắm. Bỗng
thấy ngứa ran khắp người vì nóng, vì muỗi đói, ruồi vàng. Hắn ngâm mình dưới
suối và thấy tỉnh táo trở lại. Bữa trưa hôm ấy, hắn chỉ xúc vài thìa lấy lệ. Vì
đau. Vì no. Chỗ cơm còn lại hắn phơi khô, để dành cho những sáng chủ nhật bị
treo mỏ.
Từ ấy Vịt Bầu không còn là Vịt Bầu nữa. Chỉ
Vịt Bầu mới tạt được một lúc mười quả dứa. Cứ bảo Vịt Bầu chậm mãi đi. Thần tạt
đấy. Nhưng sự đánh giá mới ấy không bền. ít lâu sau anh em trong toán lại trêu
chọc Vịt Bầu, vì Vịt Bầu cùng Dần đi tạt sắn bị Thuận sứt bắn rụng.
Hai người đã cẩn thận lắm. Không đi từ dưới
lên mà tạt từ rừng xuống. Chui vào giữa nương thì Dần bảo: Nghe như có tiếng mõ
trâu. Khéo thằng Thuận sứt ở đây đấy”. Hắn sợ. Thuận sứt chăn trâu không tha
một ai. Hắn và Dần nằm xuống thảm lá sắn nghe ngóng động tĩnh. Vẫn im ắng. Một
đàn chim thiên đường sặc sỡ từ đâu bay tới đỗ xuống bìa rừng. Nhớ đến một
chuyện của Hemingway viết về chiến tranh Tây Ban Nha, về con quạ trên cây thông
lối đi vào trận địa bay lên là bọn phát-xít tới, hắn bảo Dần theo dõi đàn chim.
Con chim cuối cùng vừa đáp xuống thì con đầu đàn đã tung lên kéo theo cả đàn.
Hắn và Dần nằm im một lúc nữa. Rồi cùng bò đến một gốc sắn mập đầy mắt. Đầu
tiên là phạt đứt cái chạc ba ngọn sàn đã. Để nó khỏi rung rinh. Và nhổ. Được
gốc đầu tiên. Bốn củ gẫy. Xoắn vặn bốn củ. Hơi tiếc vì phần ngon nhất còn nằm
dưới đất. Gốc thứ hai. Đất rắn quá. lâu không mưa. Cong lưng. Nín thở. Vãi cả
rắm mà không suy suyển. Nào. Cố. Hai ba nào. ị... ị... ự... ự... Bỗng Dần ngổi
phịch xuống đất, đưa tay về phía lưng kêu lên Khe khẽ:
- Bỏ mẹ rồi! Chết cha rồi! Sút lưng rồi!
Và nằm ngửa giơ bốn vó lên giời, quằn quại
trên lớp lá sắn khô.
Vừa lúc ấy một giọng khoái trá vang lên: “Các
anh làm gì ở đây. ”. Thuận sứt! Thuận sứt cười hề hề, nhặt bốn củ sắn gẫy về
báo cáo cán bộ. Trông rất đểu. Cái thằng chó má ấy chỉ chừa tật bẩm báo, khi
Hỉn Sán bắt quả tang nó đang “làm tình" với con trâu cái của toán ở dưới
suối. Nó đã vào rất sâu trong rừng. Nó đã tháo cả mõ trâu ra. Nhưng nó lại kêu
họ, họ lúc làm tình. Thế là Hỉn Sán túm được.
Mình chỉ bị hạ mức ăn. Dần còn bị sút lưng, nằm
ngổi dặt dẹo. Lẽ ra phải biết khi đàn chim văn công bay đi là chắc chắn có
người ở bên dưới. Lẽ ra để lùi lại Đừng tạt ngay hôm ấy...
- Nhưng làm sao chờ đợi được. Sắn đang xuống
củ. Tất cả trí tuệ hướng về nươhg sắn, mong được bữa bành.
- Bố bảo gì? Con đếm hết hàng này là một trăm
hai bốn quả. Bố đếm được bao nhiêu?
Con Nguyệt giật tay áo kéo hắn, ngước cặp mắt
long lanh nhìn hắn.
Hắn ép con vào sườn mình. Hai bố con cùng đi
đếm tiếp mà lòng hắn quặn đau. Con học giỏi mà làm gì? Đời con rồi khổ dấy. Con
không còn là một đứa trẻ bình thường nữa. Lỗi tại bố. Tất cả là tại bố. Con
chưa hiểu gì đâu. Nhưng bố thấy trước rồi. Đen tối lắm. Lý lịch của con sẽ ghi
"Bố. Đi tù ". Các cấp sẽ xác nhận: "Bố phản động. Đi cải tạo năm
năm”. Dòng chữ ấy bám vào con suốt đời. Không chỉ đời con. Đời con con nữa. Con
là thịt xương của mẹ, của bố. Giá con là con một người nào khác, đời con sẽ
không đến nỗi...
Hắn ôm lấy con gái. Hôn vào má nó. Hắn cứ
tưởng về quê với bố mẹ, hắn có thể thư thái lại. Như trước đây "bước vào
tới cổng là bỏ lại sau lưng tất cả”
Khi mới nhận giấy tha từ tay ông Quân, bước
những bước đầu tiên trong trại V.Q thấy nhẹ băng băng, hắn đã nghĩ tới cái lực
hút nhà tù không còn tác động đến hắn. Thật ngu xuẩn và nông cạn. Nó là cả một
từ trường như từ trường quả đất, luôn kéo mũi kim la bàn chỉ về hướng Bắc. Có
xoay la bàn thế nào chăng nữa, kim chỉ rung rinh chuyển động, rồi lại im lìm
một hướng quay về phía Bắc.
Cái kim la bàn trí não hắn có nghĩ tới chuyện
gì rồi cũng lại quay về đó.
Những chuyện trong tù cứ tự nhiên nó đến.
Nhiều khi chẳng cần một mối liên hệ nào. Khi bà Chân ngồi ở cửa bếp mổ cá, bà
gọi: “Nguyệt ơi! Trèo lên hái cho bà mấy cái lá me đi", hắn hiểu rằng mong
ước của hắn đã biến thành sự thật. Trong tù hắn đã ao ước được nhìn thấy mẹ đi
chợ về biết bao. Và khi từ 75 lên Q.N lần thứ hai, được giữ chân coi vườn, đem
màn xuống suối vây bắt cá, bắt những con cá suối bé tý gầy nhom bỏ vào ca, vẩy
cá bám vào tay, hắn nghĩ đến đúng cảnh này.
Vậy mà ngay lúc ấy, ngay lúc lũ gà xông vào mổ
vây cá, ruột cá trên thớt, mẹ lấy dao huơ đuổi làm chúng giạt ra, hắn lại thấy
trước mắt những ô vuông trên cánh cửa xà lim và những đôi mắt xà lim đầu tiên
nhìn hắn, hắn cũng đăm đăm nhìn lại. Những đôi mắt xà lim 75 im lặng ướm chườm
lên mắt hắn vào cái hôm hắn từ 76 chnyển sang.
Sau nửa nằm 76 không một bóng người, sang 75
lần đầu tiên nhìn thấy những đôi mắt ấy. Những đôi mắt trong những ô vuông xà
lim đối diện nhìn sang. Giống nhau. Rờn rợn. Câm lặng. Âm thầm. Khắc khoải. Dò
hỏi. Rã rời. Cam chịu. Nhẫn nhực. Chở đợi. Tò mò. Cảnh giác. Và hình như cả vui
vẻ nữa, vì có thêm người cùng chung cảnh ngộ. Những đôi mắt thoi thóp chút ánh
sáng còn leo lét bên trong. Những đôi mắt nói rất nhiều. Không thể diễn đạt
bằng lời những đôi mắt ấy. Chỉ có thể thể hiện nó bằng ống kính. Nhất là khi
mới chân ướt, chân ráo bước vào. Ngơ ngác vì sự chuyển buồng. Ngơ ngác với cái
chuồng mới của mình. Vất nội vụ vào một góc và bước ra cửa xà lim quan sát thế
giới qua cái ô vuông bằng bàn tay. Lom khom nhìn ra hành lang tối. Nhìn sang bên
kia. Bắt gặp những đôi mắt ở những ô vuông xà lim đối diện nhìn lại. Không thấy
người. Chỉ những đôi mắt. Lần đầu tiên thấy những đôi mắt xà lim. Những đôi mắt
xà lim nhất loạt hiện ra nhìn lại. Những đôi mắt từ đường chân trời bên kia
nhìn lại.
Ai? Họ là ai? Người. Không. Con người không
nhìn nhau như thế. Những đôi mắt như những tấm gương soi, soi rõ cuộc đời mình.
Mỗi ô vuông chỉ vừa đôi mắt. Không thấy mặt Không thấy người. Không biết tuổi
tác. Không thể chỉ bằng đôi mắt đã biến dạng mà biết được già hay trẻ, cao hay
thấp. Chỉ có hai con mắt. Con mắt cửa sổ tâm hồn. Con mắt cửa sổ xà lim. Con
mắt của những cuộc đời xà lim. những số phận khác nhau, lần đầu gặp gỡ quan sát
làm quen, bởi vì mãi sau mới là câu chào đón tiếp đầu tiên: "Bị lâu chưa?
” Những đôi mắt mà hễ ai nhìn thấy dù chỉ một lần cũng đủ cả đời ám ảnh.
Còn khi bố cầm chổi quét sân, tiếng chổi quèn
quẹt trong mảnh sân nhỏ còn vương lại ánh nhợt nhạt cuối cùng của một ngày và
trong nhà con Nguyệt đã châm đèn thì còn có thể nghĩ đến một cái gì khác, một
ai khác ngoài Sơn. Tiếng chổi cuối cùng của một ngày vẫn hứa hẹn một buổi tối
bình yên, đầm ấm, hạnh phúc, êm ả đến phẳng lặng của nông thôn sum họp bây giờ
đây nghe mà buồn đến tái lòng. Không thể tách bạch được dâu là tiếng chổi của
bố, đâu là tiếng chổi của Sơn.
Sơn kỹ sư bốc xếp, án ba nám, đêm đêm khoanh
tay nhìn bó hoa đen trên tường nhà mét, Sơn đã được giao quét trại khi anh tù
chuyên quét trại mãn án. Không thể không nhớ tới đôi lồ của Sơn. Nhớ tới cô
giáo Hạnh vợ Sơn lên thăm Sơn. Và nghĩ tới Phượng, dì Sơn. Người quen trong
thời oanh liệt, người mới biết trong nhà gặp mặt trại Q.N.
Lần đầu tiên gặp Hạnh hắn không để ý. Hắn chỉ
gật đầu chào Phượng. Lúc ấy Phượng đang ngồi cạnh Ngọc. Lúc ấy hắn mới biết Sơn
là cháu gọi Phượng bằng dì. Hai dì cháu chắc chỉ hơn nhau dăm tuổi. Thoạt nhìn
thấy Phượng hắn cảm thấy nhục nhã vì bộ quần áo tù hắn đang mặc trên người, vì
dáng vẻ tiền tụy của hắn trước các ông công an. Bởi Phượng là người đã chứng
kiến hắn từng sống như thế nào, bởi Phượng có một thời đã đem lòng yên hắn.
Phượng đánh máy ở cơ quan Ngọc. Ngọc vẫn nhờ Phượng đánh máy bản thảo cho hắn.
Những bản thảo đã in, chưa in, bị công an tịch thu đều do Phượng đánh máy hộ.
Coi như Phượng đã đọc toàn bộ sáng tác của hắn. Hình như Phượng quý hắn. Hắn
cảm ơn Phượng về sự giúp đỡ. Hắn ký tặng Phượng sách.
Ngọc mời Phượng đến ăn cơm những ngày chủ
nhật, những khi hắn có nhuận bút. Hắn để Ngọc tiếp chuyện Phượng. Hắn nấu án.
Hắn nấu ngay ở lò sưởi trong nhà và quay lại: Cô chủ, cô khách quay đi nhé. Tôi
nếm đây. Dạo ấy Phượng còn ở tập thể. Một mình Phượng trong căn buồng hẹp ở
công ty. Chồng Phượng dạy học trên Hà Nội thỉnh thoảng mới về. Cao lớn, nước da
bánh mật, răng trắng đều, lại được hai lúm đồng tiền bên má, đôi mắt lấp lánh,
Phượng rất tươi tắn và quyến rũ. Ngọc kể lại: ông phó chủ nhiệm công ty đã tán
tỉnh sàm sỡ với Phượng bị Phượng cự tuyệt thẳng thừng. Tuy nhiên để ông yên
tâm, hoàn hồn, Phượng nói với ông sẽ giữ bí mật cho ông chuyện đó, không báo
cáo với lãnh đạo. Phượng đã giữ lời hứa. Phượng chỉ nói với Ngọc thôi. Không
biết Phượng đã nói với Ngọc những gì về hắn mà một hôm đi làm về, Ngọc nửa đùa
nửa thật bảo hắn:
- Cái Phượng nó yêu anh đấy.
Hắn cười. Hắn biết Phượng là người ham đọc
sách, đã đọc hết tỉ sách còm cõi của hắn. Đã đọc nhiều sách khác. Phượng yêu
văn học. Phượng yêu những trang hắn viết. Rồi Phượng có cảm tình với người viết
những trang ấy. Có thể là như thế.
Một buổi sáng, hắn ở nhà viết bài thì Phượng
đến gặp hắn, chỉ giữa hai người thôi, không có Ngọc. Lần đầu tiên chỉ có hai
người, không có Ngọc.
Phượng đưa cho hắn những trang bản thảo quyển
Hải đang mới đánh máy xong. Cũng lại là lần đầu tiên Phượng tự mang đến. Những
lần trước Phượng đều gửi Ngọc cầm về. Hắn đỡ xếp giấy trong tay Phượng, cảm ơn
Phượng và nói. Phượng đánh máy đẹp quá.
- Anh viết đến đâu rồi. Đưa tiếp cho em.
Hắn đưa xếp bản thảo tiếp theo cho Phượng.
Phượng cúi nhìn những dòng chữ li ti của hắn, những chỗ hắn dập xóa, những chỗ
hắn thêm vào.
- Chữ tôi có khó đọc lắm không?
- Đọc được. Em quen với chữ anh rồi.
Phượng nhìn thẳng vào mắt hắn trìu mến:
- Văn anh đẹp lắm.
Và hỏi hắn về quyển Hải đăng, về những dự định
sáng tác của hắn. Đôi mắt Phượng lấp lánh. Nụ cười của Phượng càng sâu hơn
những vết lúm đồng tiền. Phượng bỗng trở nên nhí nhảnh, duyên dáng, hóm hỉnh,
nũng nịu. Hắn nhớ đến thời hạn nộp bài cho ban biên tập và hỏi Phượng mấy giờ
rồi. Phượng không trả lời. Tay Phượng đang để trên bàn: đỡ xếp bản thảo. áo
sơ-mi ngắn tay, bắp tay Phượng tròn đầy màu bánh mật. Cổ tay Phượng đeo cái
đồng hồ nhỏ xíu. Phượng hơi nhíu mày về sự quấy rầy của hắn, càng như mải chăm
chú đọc những trang mới viết của hắn và đưa cả cánh tay tròn trĩnh có đeo đổng
hồ sát về phía hắn. Để hắn xem giờ. Để hắn cầm lấy tay Phượng đưa lên mà tự xem
giờ. Đó là một kiểu mời yêl. Một kiểu nói: “Em yêu anh. Em là của anh”. Hắn cầm
lấy tay Phượng. Hắn cầm lấy cả cánh tay mát rượi có đeo đồng hồ ấy kéo về phía
mình. Phượng rời xếp bản thảo đứng lên, ngoan ngoãn bước lại gần hắn. Hắn cũng
đứng lên. Hắn ôm hôn Phượng. Hẳn Phượng vẫn chờ đợi cái hôn ấy, vì Phượng ép chặt
vào người hắn.
Hắn thở gấp. Phượng cũng thở gấp. Hình như mặt
hắn tái đi, vì mặt Phượng cũng tái đi. Hắn nhìn Phượng, thấy đôi mắt Phượng
trong trẻo long lanh như mắt thiếu nữ. Phượng bỗng trở thành thiếu nữ. Thiếu nữ
đến tuổi yêu, đang yêu và được yêu. Hắn nắm tay Phượng lần nữa, nhưng Phượng
khẽ khàng gỡ ra, lắc đầu chỉ ra cửa như muốn nói: "Chúng mình hãy cẩn
thận. Nhỡ có người lên”. Phượng vuốt lại tóc, cầm xếp bản thảo trên bàn, nhìn
hắn gật gật như hỏli “Em về nhé. Đồng ý nhé”. Và xuống thang. Phượng xuống
thang như nhảy từng bậc một dù vẫn nhẹ nhàng. Từng bước chân thiếu nữ nhún
nhảy, nhí nhảnh, nghịch ngợm, vai khẽ nhô lên hạ xuống theo từng bậc thang. Hắn
nhìn theo mà thấy Phượng trẻ lại như chỉ mời sáu mười bảy tuổi.
Câu chuyện xảy ra lúc mười giờ và kết thúc hai
tiếng đồng hồ sau đó khi Ngọc đi làm về. Không hiểu sao Ngọc đã biết tất cả. Đã
lâu quá rồi. Gặp Phượng ở nhà gặp mặt trại QN, những kỷ niệm ấy chỉ thoi thóp ở
một nơi nào đó của ký ức, không đủ sức cựa mình dưới chiều dày lớp chăn liệm của
thời gian và sự kiện. Cái hôn duy nhất thoảng qua của một thời đã chết và không
bao giờ còn tái sinh được nữa, chẳng gợi gì đói với một người đang sống trong
tù ngục với cái đói, với u uất, với xà lim, với lao động khổ sai, với tiên diệt
cuộc đời. Hắn chỉ cảm thấy xấu hổ vì tư thế súc vật của hắn. Và ngạc nhiên:
Không biết Phượng thăm ai. Nhà Phượng cũng có người sa vào thiên la địa võng
này ư? Ngọc bảo:
- Phượng lên thăm cháu. Cũng ở đây. Em với
Phượng cùng đi với nhau lên hôm qua. Phượng gửi cho anh gói cà-phê đây này.
Nhưng không biết các ông ấy có cho nhận không?
Nhìn Sơn ngồi đối diện với Phượng, hắn mới
hiểu vì sao hắn thấy Sơn quen quen, như đã gặp nhau ở đâu rồi. Sơn rất giống
Phượng. Ngày ấy Sơn đã khoanh tay đàm đăm đửng nhìn ngọn đèn không bóng, nhìn
bó hoa đen ở cửa nhà mét. Từ ấy hắn và Sơn thân nhau hơn. Hai người rủ nhau đi
xa kiếm vả. Không có vả chín, họ ăn vả ương và cả hai cùng bị say, nôn thốc nôn
tháo cho đến khi dạ dày chỉ còn nước chua. Rủ nhau vào các nhánh suối cạn. Lật
những hòn đá, bắt cua. Bắt nhái. Tìm ráy. Ráy hay mọc ở đầu những nhánh suối
cạn lúc nào cũng ẩm ướt và bên trên là cây cối dây leo chằng chịt. Tìm món này
có cái nguy hiểm là sẵn vàt. Giống vắt cắn rất êm. Không đau. Chỗ nó cắn máu cứ
chảy mãi. Phải lấy lá nón dán vào mười cầm được máu. Thuốc lào cũng chẳng ăn
thua gì. Có con cắn no máu về đến buồng giam cũng vẫn không biết. Nó hút máu
quá căng, nên rời ra chiếu rồi mà máu từ mồm nó vẫn cứ ựa ra đỏ tươi. Sơn bỏ
các thứ vào cặp lồng. Cả nhái, cả cua, cả rau tàu bay, mẩu khoai lang, ráy nấu
thành một thứ sền sệt. Đúng là sột sệt. ôi! Đại tiệc
Sau này đi làm miến với Giang, hai anh em ngồi
ở chỗ làm, đêm khuya nhìn con chim săn mồi vụt qua quầng sáng ngoài cửa sổ,
cánh vỗ êm ru, hắn lại nhớ đến Sơn. Vì hắn nghĩ đến những con chim rừng, những
con sóc cũng bay êm như thế. Rồi lại nghĩ đến tiếng vắt đo trên lá mục. Chim
bay êm, còn vắt đo lại nghe tiếng rào rào.
Hôm ấy, đang đi tìm ráy với Sơn, thì hắn thấy
vắt ngay trước mặt, chỗ hắn định đặt chân xuống. Hắn quay sang chỗ khác. Lại
vắt. Chỗ nào cũng vắt.
Hắn nhảy lên một gốc cây to bị cưa cụt gần đó.
Một gốc cây cao lưng lửng. Hắn đứng im trên gốc cây nhìn ra chung quanh. Nhìn
xuống xem có khóm ráy nào không. Nhìn lên xem có thấy dây gắm, quả vả nào
không. Vì hắn bỗng nghe như có tiếng rì rào. Hắn lắng nghe. Quả là có tiếng rì
rào thật. Hắn chăm chú nhìn xuống. Vắt. Vắt đói đo trên những lá mục. Cơ man là
vắt nhỏ nhít như những sợi tóc vàng vàng.
Bốn chung quanh, vắt ngóc đầu về phía gốc cây
hắn đứng. Mỗi chiếc lá mục phải đến mấy con vắt. Mà lá rừng thì nhiều vô kể.
Vắt ngửi thấy hơi người dồn đến. Vòng vây đang thít quanh hắn. Hàng vạn con vắt
hăm hở hướng tới quăng mình như những con sâu đo.
Hắn nhìn xuống gốc cây hắn đứng. Đoàn vắt tiên
phong đang leo lên gốc cây. Hắn hoảng sợ, nhún người nhảy vọt qua vòng vây của
vắt, chạy xuống suối, ngồi phệt trên một tảng đá, kiểm tra từng kẽ chân, vén
quần lên xem chỗ khoeo sau gối...
Hắn hú gọi Sơn. Có tiếng hú cúa Sơn đáp lại từ
xa. Một lúc lâu thấy Sơn xách về một củ ráy to. ở chân Sơn, mấy vết máu chảy:
Vắt cắn.
Khi anh tù quét trại mãn án, Sơn được thay
chân ấy. Hắn mừng cho Sơn. Đó là một công việc được tin tưởng. Sơn quét không
chê vào đâu được. Quét suốt ngày. Từng buồng giam. Cọ rửa nhà mét. Cái đòn gánh
luôn trên vai. Khi gánh nước. Khi đôi lồ. Và chổi. Các loại chổi. Chổi cùn cọ
nhà mét. Chổi dài - làm bằng một loại cành cây mềm đã rụng hết lá - quét buồng,
quét chung quanh. Luôn chân luôn tay. Khi đã sạch sẽ tất cả, Sơn ngồi vào chỗ
khuất nghỉ một tý. Nhưng chỉ thoáng thấy bóng ông quản giáo ông vũ trang mãi
ngoài cổng, Sơn đã đừng lên vờ lấy cái chổi. Lại quét.
Rõ ràng Sơn quét trại tốt hơn anh tù trước.
Rác rưởi cây que quanh nhà xí công cộng cũng không còn (anh em tù người dân tộc
chùi đít bằng cây que, đóm, nứa... vương vãi khắp nơi). Gánh nước cọ gần chục
nhà mét. Quét gần chục buồng giam. Quét chmg quanh các buồng. Quét lối đi. Dọn
nhà đái, nhà xí công cộng... Khối lượng công việc thật đồ sộ. Sơn im lặng làm.
Sạch sẽ. Cẩn thận. Chu đáo. Nhặt từng đầu mẩu thuốc lá. Từng cái đầu đóm. Cải
vỏ kẹo. Cái lá rụng. Không một ông quản giáo nào chê Sơn. Sức lao động Sơn bỏ
ra phải gấp mấy lần khi Sơn còn đi làm cùng với toán.
Bù lại, Sơn được ra vào trại tự do. Và nhất là
được biên chế vào toán nhà bếp. Được ngủ được ăn với toán nhà bếp. Được bành.
Bành, nhưng trông Sơn vẫn chẳng thấy khác đi tý nào. Vẫn cứ xanh bóng. Vẫn khó
đám đăm. Không biết về toán nhà bếp Sơn có còn đứng ở cửa nhà mét nói chuyện
với bó hoa đen nữa không? Cái vụ anh-giếch-tơ, béc vòi phun, Sơn kiếm được bao
nhiêu? Cái giá phải trả thật là ghê gớm. Rồi hắn cười chua chát:
- ít ra Sơn còn kiếm được tiền để phải trả giá
ba năm. Còn gần năm năm của mình là cái giá phải trả vì mình đi viết văn, đi
làm báo, vì những ý nghĩ ngu xuẩn, dại dột, ngông cuồng của tuổi trẻ. Đáng đời
thằng cáo!
CHƯƠNG 35
Những ý nghĩ bi quan nhất rồi cũng qua đi. Hắn
từ biệt cha mẹ ra phố với quyết tâm của một người lính xông vào cuộc chiến đấu
mới. Hắn tự nhủ: Tất cả đã qua rồi. Năm năm tù đã qua rồi. Nỗi đắng cay của
Ngọc đã qua rồi. Những lo nghĩ xót xa đau đớn của bố mẹ cũng qua rồi. Cả chuyện
thằng Hiệp đánh gẫy răng thằng bé thôn Nội cũng qua rồi. Cuộc sống ở phía
trước. Dối với hắn phía trước là gì nhỉ Chắc chắn nhất phía trước của hắn là
bốn đứa con. Là thằng Hiệp đã thành một thiếu niên. Là con Thương chịu thương
chịu khó. Là con Nguyệt quần phíp vá tung tăng đến trường. Là bé Dương nằm
trong lòng hắn hỏi hắn: “Bố ơi! Sao bố đi lâu thế, Bố già chưa, hả bố". Và
còn dặn đi dặn lại "Bố mẹ bắt gà ra cho con nhé". Chính vì bốn đứa
con mà hắn không thể lùi bước. Phải tìm mọi cách khôi phục công lý. Phía trước
của hắn là làm sao đền đáp được công ơn cha mẹ. ông Chân đã bảo hắn, khi hắn
trở ra phố.
- Bố mẹ chẳng mong gì hơn là con cháu khỏe
mạnh, bình an. Con về là bố mẹ mãn nguyện rồi. Con người ta tránh không khỏi
số. Bố mẹ được như thế này là quý lắm. Cảm ơn trời phật tổ tiên. Người ta còn
ông, mất bà. Còn bà, mất ông. Được song toàn hiếm lắm. Tuy tuổi cao, nhưng giời
còn để cho khỏe mạnh, kinh tế chưa phải nhờ đến con cái. Các cụ để lại cho mảnh
vườn, còn gọ gẵng sống được. Hơn người rồi. Bom đạn Pháp, Mỹ, gia đình ta
nguyên vẹn. Thế là phúc cả mả dày. Con ra ngoài ấy cố gắng cùng với mẹ Ngọc bàn
cách làm ăn. Mẹ nó tốt thật đấy. Có gian khổ mới thấy được. Làm dâu, làm vợ như
nó hiếm đấy.
Phía trước của hắn là phải gặp được ông Trần,
các ông thường vụ. Phải đòi được bản thảo. Phải tìm mọi cách đòi lại cuộc sống
đã bị tước đoạt.
Trở về P trên chiếc xe ô-tô khách hôm trước,
hôm sau hắn sắp xếp giấy tờ ra đồn công an đăng ký hộ khẩu. Hắn xem lại tờ lệnh
tha mà cô trung sĩ ở tổng trại V.Q đã đưa cho hắn. Có hai điều hắn nhớ:
- Tha hắn về địa phương hắn ở trước (thành phố
P).
- Hắn được tha vì cải tạo tốt.
Điều thứ nhất là vô cùng quan trọng. Người ta
có thể tha hắn về nguyên quán, nghĩa là về quê, nghĩa là hắn không thể đăng ký
hộ khẩu ở thành phố, nghĩa là không sổ mùn, không sổ gạo. Nghĩa là hắn phải ở
chui với Ngọc, với các con hắn. Điều thứ hai mang tính chất thủ tục nếu không
nói là hài hước. Ai được về mà không cải tạo tốt.
Ngày hắn trở lại 75, nếu được tha thì cũng đã
cải tạo tốt từ ngày ấy rồi. Về chữ cải tạo này, Dần lái xe kẹp chết người đã có
ý kiến nghe cũng có lý: "Cải tạo là thay đổi bản chất. Những người bản
chất tốt vào đây sẽ được xấu đi. Có đúng không nào? "
Hắn suy nghĩ: Sao người ta lại tha hắn nhỉ.
Hắn vẫn làm đơn kêu oan. Hắn vẫn không chịu nhận những gì người ta muốn hắn
nhận. Người ta có thể kéo dài thời hạn đi tù của hắn. Làm gì được? Có thể họ
vẫn còn một chút lương tâm, một chút lòng trắc ẩn. Có thể có người nào thấy năm
năm ông ta sống với vợ con đã là lâu, nên sực nhớ ra năm năm tù của hắn cũng là
quá lâu rồi so với cái tội chủ quan, tự kiêu tự đại, viết nhiều, không muốn vào
Đảng của hắn. Kể ra năm năm cũng là lâu chứ. Quá nửa cuộc trường kỳ chống Pháp
còn gì. Hẳn phải có ý kiến ông Trần. Chắc ông Trần trong một cuộc họp nào đó đã
cười bảo bọn ông Quảng, ông Lan:
- Thằng Tuấn tù thế cũng đủ rồi đấy. Các cậu liệu
làm thủ tục cho nó ra đi.
Thế là hắn được tha. Được về, được thoát khỏi
tù tội. Hắn nộp giấy tờ ở đồn mà lo. Nhiều người đi tù về không được đăng ký hộ
khẩu đấy. Dù lệnh tha có ghi rõ. Người ta nhận giấy, nhận sổ hộ khẩu và bắt hắn
làm đơn hứa sẽ nghiêm chỉnh chấp hành chính sách sửa chữa khuyết điểm... Hắn
làm đơn. Người ta bảo hắn chờ.
Hắn chờ.
Đó là thời gian nhiều bạn bè đến thăm hắn. Họ
đã biết hắn về. Người ta đến thăm hắn cho phải dạo. Để có thể nói với người
khác: "Tuấn về rồi, biết chưa. Mình mới đến thàm xong " Câu ấy có
nghĩa: Mình là người trung thực. Không sợ hãi. Thtỉy chung như nhất.
Hắn biết vậy vì những người đó chỉ đến thăm
hắn có một lần thôi. Rồi biệt tăm. Cái máu sĩ của anh em văn nghệ vốn rất nặng.
Tiếp những người bạn cũ hắn nghi nghi hoặc
hoặc. Ai cũng có thể là đặc tình của công an. Đặc tình là chữ hắn học được ở
trong tù. Đó là cộng tác viên (lâu dài hay một vụ việc cụ thể) của công an. Hắn
nghi có cơ sở. Hắn vấn không hiểu vì sao các ông công an đến khám nhà hắn lại
thông thạo như vậy. Vào nhà là kéo ngay cái hòm đựng sách. Mãi sau này mới biết
cỏng an có bộ phân kỹ thuật, chuyên mở khóa trộm, hắn nghĩ: Cũng có thể công an
đã mở khóa vào nhà hắn nhiều lần khi hắn đi vắng. Trong những ngày chờ đợi hộ
khẩu, hắn và Bình tha hồ trò chuyện cùng nhau. Đó là hai người bạn hiểu nhau,
hiểu từng chân tơ kẽ tóc, đến từng cái xấu của nhau, có thể nói hết mọi chuyện
cùng nhau như nói với chính mình. Và dù có phải xa nhau bao lâu, khi gặp lại,
họ vẫn có thể nói chuyện với nhau về tất cả, như chỉ mới chia tay nhau hôm
trước và tiếp tục câu chuyện dở dang.
Giờ đến lượt Bình kể về những ngày Bình sống
xa hắn. Nỗi nhớ hắn mỗi khi heo may về.
- Những ngày ấy tao sờ thấy kỷ niệm. Thèm được
kéo mày ra một quán cà-phê. Uống và im lặng nghe heo may. Thế thôi. Những lúc
ấy tao càng thấy thiếu mày.
Hắn cũng đã biết tình cảnh của Bình khi hắn bị
bắt qua những thông tin vắn tắt vào trại và những câu chnyện bập bõm Bình nói
mấy hôm trước đây. Nhưng hắn không ngờ người ta làm ghê gớm thế. Bmh bị gọi
hỏi, căn vặn. Hẳn rồi. Người ta nói với Bình rất đúng:
- Hai anh là một mà lại. Có điều gì các anh
không nói với nhau.
Người ta hỏi Bình về bài thơ chống thuế nông
nghiệp của hắn. Bmh cả quyết không có bài thơ nào như vậy. Đến khi các ông công
an đưa ra những bằng chứng cụ thể, thì Bình ngớ người vì đó là một bài nhại thơ
Chinh phụ ngâm của Yên Thao. Hắn đọc. Để cười. (Con người ta cũng cần cười
chứ).
Thuở trời đất nổi cơn thuế má
Bọn nhà nông nhiều gã lao đao
Xanh kia thăm thẳm tầng cao.
Vì ai gây dựng nên tao thế này
Trống ngoài đình lung lay bóng nguyệt...
Hắn cười:
- Đúng! Đúng. Trong ấy họ cũng hỏi tao về bài
thơ ấy. Tao nói rõ đầu đuôi và khẳng định, nếu bài thơ có nói về thuế thì đó là
thuế chế độ cũ vì có câu Trống ngoài đình lung lay bóng nguyệt. Chế độ ta không
có trống thúc thuế.
Hắn chẳng thể nào nói được với các ông ấy về
tài nhại thơ của Yên Thao, là người hắn không quen mà chỉ nghe Vũ Mạc nói lại.
Hắn bảo Bình: Trong ấy họ hỏi tao rất nhiều về mày.
- Họ hỏi những gì?
- Không chịu rèn luyện, lập trường tiểu tư sản
bấp bênh. Coi thường đảng viên. Tự kiêu tự đại. Tự do vô tổ chức. Nhưng hỏi
nhiều nhất là truyện Người chết không cô độc của mày.
Bình cười nhạt. Anh lại cảm thấy mình rơi vào
một trò ngu ngốc. Đó là truyện đạt tới giá trị nhân bản cao của anh. Và người
bạn bao giờ cũng khắt khe với những gì anh viết là hắn cũng đánh giá nó cao.
Truyện viết về một người bị bệnh ung thư, biết rõ thời hạn sống còn lại của
mình. Trong những ngày cuối cùng ấy anh ta sống như thế nào với những người
chung quanh, kẻ xấu người tốt, người anh yêu, người anh ghét. Truyện chưa in.
Không hiểu sao họ cũng biết và hỏi anh dữ thế.
Gọi hỏi Bình là một việc. Họ còn cử hàng đoàn
trinh sát theo Bình không rời. Đó là điều đến bây giờ hắn mới biết. Hắn tròn
mắt, nhớ lại câu nói của Vũ Lượng về điều gì cũng có thể xảy ra, kể cả có một
ông trời gõ cửa đi vào nhà mình uống chè. Bình bàng hoàng khi biết mình có
"đuôi ". Đến lúc ấy anh mới thực sự hiểu điều bạn anh đang chịu là sự
mất tự do. Anh như ngửi thấy cái mùi của nhà tù. Anh bắt đầu biết anh bị theo
dõi vâo một buổi chiều thứ bảy, khi đèo Thao về một làng ngoại thành thăm hai
đứa con trai sơ tán ở nhà chú em. Anh đang mải miết đạp, Thao ngồi ở poócbaga
bỗng bấu vào tay anh, nói khẽ:
- Hình như đang có ai theo dõi chúng mình.
Đó là đòn đánh ngang đầu. Là đất sụt nơi mình
đứng. Là cuộc đời bỗng nhiên không còn là cuộc đời nữa.
Trời đất đảo lộn. Cuộc sống dù sao cũng là cuộc
sống. Vẫn có trời. Có gió. Có mây. Có cánh đồng, có đường phố. Có lúc giận vợ.
Có lúc nô đùa với các con. Và viết. Nay sắp mất tất cả. Không. ăn bánh nắp hầm,
ăn ngô bung cũng được. Sống với sự giả dối cũng được. Nhưng đừng bị vào tù. Bởi
vì còn sống còn hy vọng. Bị bắt là chết. Chết cả chút hy vọng cuối cùng. Cuộc
sống với bao vất vả khó khăn lo lắng, nhiều lúc đến mụ mị đi của anh có thể bị
tước đoạt bất kỳ lúc nào. Giờ đây anh tính từng ngày, như người ung thư trong
Người chết không cô độc. Nghe vợ báo tin có người theo, anh thấy trống rỗng ở
ngực. Cảm giác ấy anh đã thấy một lần vào buổi sáng thứ sáu họp cơ quan, nghe
Phan Lâm nói: Tên Tuấn đã bị bắt
- Em để ý lâu rồi. Hai đứa.
Giọng Thao run run:
- Cứ thấy họ đi cách mình một quãng. Mình đạp
nhanh, họ đạp nhanh. Mình đạp chậm, họ đạp chậm. Đừng. đừng quay lại. Cứ thế.
Kệ em.
Thao áp hẳn vào lưng anh mà nói. Anh nghe rõ
từng tiếng, dù gió mùa đông bàc ào ào qua tai. Anh sôi lên vì sợ hãi, tuyệt
vọng. Và có cảm giác của một con thú bị nhốt trong chuồng lồng lộn nhưng không
sao thoát được. Thì ra họ có toàn quyền làm những việc họ thích. Họ huy động cả
guồng máy khổng Iồ để hại mình. Đạp xe đi, anh cứ thấy vương vướng ở phía lưng.
Dinh dính ở gáy. Một cảm giác lạnh ở phía sau. Lạnh. Và bẩn. Và dính. Anh thở
dài. Cuộc đời đến thế là hết. Lẽ ra mình phải biết trước. Mình chủ quan như
thàng Tuấn chủ quan. Cứ nghĩ rằng mình hoàn toàn vô tội thì không bị bắt. Lẽ ra
phải biết người ta có thể bắt mình bất cứ lúc nào. Anh điên lên đạp như người
mất trí. Thao kêu khẽ:
- Anh làm gì thế? Chậm thôi!
Thao biết chồng đang nghĩ gì. Thao biết Bình
đang sôi sục.
- Họ cũng đạp nhanh. Hoàn toàn đúng rồi.
Bình đột ngột phanh xe, bảo vợ:
- Đái
Anh đưa xe cho Thao giữ, bước những bước thong
thả và đưa mắt nhìn rất nhanh về phía sau. Cách chỗ anh đứng khoảng năm mươi
mét có hai người vừa dừng xe đang làm ra vẻ thản nhiên giơ tay chỉ trỏ về phía
làng xa... Anh bật diêm châm một điếu Trường Sơn. Thứ thuốc này đắng ngắt và
anh cũng chẳng thèm thuốc, nhưng anh cần kéo dài thời gian để xem những người
bạn đồng hành kia diễn những trò gì, diễn bao lâu nữa. Anh thấy họ vẫn đứng múa
chân múa tay như đang tranh luận sôi nổi lắm. Anh lững thững xuống bờ ruộng và
đi mươi bước. Anh làm cái việc tiểu tiện. Tiểu tiện thật. Thong thả anh quay trở
lại Lúc này tha hồ nhìn. Hai người, áo bông xanh cả. Một quần xanh công nhân.
Một quần màu sáng. Xa quá. Vả lại đã chiều tà. nên anh không nhìn thấy mặt họ,
nhưng trông dáng người anh biết họ còn trẻ.
Họ đang chụm đầu lại. Cũng hút thuốc lá. Hình
như họ chuẩn bị lên xe vì thấy anh đã nắm vào ghi-đông và ghếch một chân qua
yên. Đúng lúc ấy, anh bảo Thao: Em đi giải đi.
Thao hiểu ý anh. Thao đi. Đi xa hơn Bình. Tìm
chỗ khuất. Bình đứng trên vệ đường làm ra vẻ bình thản. Anh quay nhìn tứ phía
cho có vẻ vô tư, rồi mới nhìn phía sau. Họ đã lên xe đạp. Đạp được mấy vòng một
người xuống xe. Người kia cũng xuống. Họ cúi cúi như kiểu lồng lại cái xích bị
tuột. Đó là vở diễn của họ. Nghiệp vụ của họ.
Đủ quá rồi. Hiểu quá rồi. Khi Thao khẽ ngồi
lên xe, anh đạp một mạch. Không thèm quay đầu lại. Thao cũng im lặng. Chỉ một
lần anh nghe Thao nói:
- Chúng nó vẫn theo.
Cái cảm giác mình như một con mồi và họ như
những người thợ săn đến với anh lúc đó. Anh biết anh chưa bị bắt thôi, chứ anh
đã bị mất tự do rồi. Không thể gọi là tự do khi mình đi đâu, làm gì (kể cả đi
đái), gặp ai, trò chuyện bao lâu cũng có người quan sát và ghi vào sổ: “Đối
tượng P2 về thăm con. Không đi la cà các nhà hàng xóm. Ngủ ở nhà... ”Vì chắc
anh cũng phải có một bí số. Nhưng không biết họ đặt cho anh bí số gì nhỉ? P2
hay A18? Hay T5? Thật là một trò chơi chết người. Và thật buồn là mình lại ở
trong vòng chơi đó.
Vợ chồng anh dắt xe vào căn nhà quen thuộc của
chú em. Anh ôm hai đứa con trai và nghĩ đến những đứa con của Tuấn. Nghĩ đến
bạn anh lúc bị bắt mà không biết trước rằng sẽ bị bắt như anh. Từ nay cái gì
cũng nhắc anh nghĩ đến nhà tù, đến những hình phạt bạn anh đã chịu và anh sắp
phải chịu.
Anh uống trà với chú em mà không biết mình
uống gì. Anh đang nghĩ đến những cái đuôi. Cẩn thận thật. Những hai cái đuôi.
Hai cái đuôi hôm nay cũng có mặt ở đây. ở làng này. Mà không ai biết. Vậy là họ
đã theo anh lâu rồi. Từ bao giờ nhỉ? Mình đã mất tự do từ lâu rồi, nhưng vẫn cứ
tưởng là mình tự do. Mình vẫn vô tư, vẫn cứ tưởng mình như những người bình
thường khác. Được là người bình thường sung sướng biết bao.
Anh ra sân, đứng nhìn trời đêm. Làng quê ban
đêm thật im ắng và buồn tẻ. Mới chập tối đã chẳng thấy tiếng động nào. Ngoài
tiếng chó sủa. Cả làng không ai biết có một cuộc săn đuổi chết người, một trò
chơi chết người cũng êm ả như thế này đang xảy ra ở đây. Những người dân quê
bao giờ cũng chất phác và đơn giản. Anh thèm được như họ. Anh thèm đánh đổi
những hiểu biết của anh, cái đầu của anh lấy cái đầu của họ. Anh thèm đánh đổi
số phận của anh lấy số phận của họ.
- Tao thấy Đông và Tây gặp nhau. Bố tao nói:
Ngu si hưởng thái bình. Còn Gribôiêđôp có vở kịch Nỗi khổ vì có trí tuệ. Tao đã
bao lần căm thù cái trí tuệ ít ỏi nghèo nàn mà mình trót có. Giá tao cứ ở quê
cày ruộng thì sao bị bắt.
Hắn tạm ngắt câu chuyện Bình kể. Bình cười:
- Và trước đây chính chúng mình đã phê phán
nộị dung tiêu cực trong câu nói của các cụ. Nó mang cái bi quan của người làm
nô lệ. Giờ đây chúng mình là chủ. Không phải chỉ là chủ xã hội, chủ chế độ. Còn
làm chủ khoa học, làm chủ thiên nhiên và...
Hắn rống lên cùng với Bình, như song ca:
- Làm chủ bản thân mình
Cả hai được một trận cười. Hắn nói những điều
đã nghiền ngẫm:
- Chúng ta quá rành việc phê phán. Chúng ta
vạch những hạn chế của tất cà những người, những chế độ, những chủ nghĩa đi
trước chúng ta và chỉ có chúng ta mới đúng. Chúng ta đứng cao hơn họ. Hêghen
hạn chế. Cách mạng Pháp hạn chế. Hugo hạn chế. Tolstoi hạn chế. Nguyễn Du hạn
chế. Hạn chế bởi nhân sinh quan. Hạn chế bởi giai cấp. Bởi triết học. Bởi lịch
sử. Bởi thời đại. Vân vân và vân vân. Chúng ta là chân lý. Chúng ta cao hơn họ
một đầu. Nhưng người ta đọc Hngo. Đọc hàng thế kỷ. Tất nhiên không phải ai cũng
là Hugo, cũng là Nguyễn Du. Nhưng cái điều phải soi lại mình thì không làm.
Phải tìm xem tại sao các nhà văn Việt Nam viết về những người đang sống, viết
về người ta mà người ta lại không đọc, hoặc đọc rất ít. Người ta xô nhau tìm
đọc một ông Sha kespeare đã chết từ đời nào bên Anh viết về những người L mã
cách đây hàng bao thế kỷ? Đó là cái gì?
Bình trở lại câu chuyện về những cái đuôi:
Đêm ấy tao đang đứng ở sân một mình, nhìn trời
nhìn đất cho tĩnh trí thì một bóng đen ở phía vườn bước ra. Tao giật mình.
Tưởng họ đến. Tưởng họ đến đọc lệnh bắt. Nhưng hóa ra Thao. Thao vừa đi vừa xem
xét xung quanh nhà. Tao nghĩ thương Thao quá. Mày đã biết từ trước tới nay tao
chưa hề yêu Thao. Thao chưa được tao đối xử một lần như mày đối với Ngọc. Tao
ôm lấy Thao ở giữa sân. Thao khóc. Tao đoán không phải Thao khóc vì sợ, mà khóc
vì được tao thương yêu. Thao thì thầm:
- Anh đừng nói gì với chú Tụy (thằng em tao)
cả nhé.
Tao đáp:
- Tất nhiên rồi.
Đó là đêm ghê gớm nhất của Bình. Còn sau này
anh cũng dần quen với việc có đuôi. Dần quen với ý nghĩ sớm muộn mình cũng bị
bắt. Anh hiểu rằng nếu Tuấn bị bắt, thì anh cũng có đủ tiêu chuẩn để bị bắt.
Tuấn có tội, anh cũng có đủ số tội Tuấn mắc. Ai chả có lúc kêu ca mậu dịch. Ai
chả có lúc kêu độn nhiều ngô quá. Nhận xét các đồng chí đảng viên có thật còn
là những người tiền phong gương mẫu không là bậy bạ rồi. Lại còn đụng đến bí
thư nữa. Người bí thư bao giờ cũng đại diẹn cho một đảng bộ. Đụng đến bí thư
Bách là đụng đến Đảng. Ai chẳng thấy phần lớn những sáng tác hiện nay rơi vào
công thức sơ lược, minh họa một chiều. Ai cũng muốn viết hay hơn, nhữg nhân vật
với những số phận, những kẻ thù có thực, những nhân vật với chiều sâu nội tâm,
chứ không phải là những người phát ngôn chính sách, hoặc những người lười
chuyển biến. Nhưng không ai nói gì. Còn mình thì cứ bô bô. Sau khi Thao phát
hiện anh bị theo dõi chặt chẽ, không rời nửa bước, anh hiểu tai họa có thể ập
xuống bất cứ lúc nào.
Càng choáng váng hơn trong tinh mơ thứ hai,
khi hai vợ chồng đạp xe về thành phố. Dậy sớm. Đồng hồ báo thức để lúc hai giờ.
Cả hai đều mới chợp mắt. Cả đêm trằn trọc suy nghĩ, sợ hãi và căm phẫn. Khẽ
khàng ra khỏi chăn. Hai đứa con vẫn ngủ. Đánh răng rửa mặt. Pha một ấm trà.
Nước phích từ tối qua ngưội. Nhưng không sao. Đã thành thói quen. Cứ phải uống
một tý vào buổi sáng. Tuy cũng đã dậy. Nhìn các con đang ngủ mà quặn lòng. Đưa
tay nhẹ lên má chúng, ấm sực. Bụng nghĩ: "Nếu chưa bị bắt thì hết học kỳ
này phải đưa chúng về phố thôi. Nếu mình bị bắt thì vẫn phải để chúng ở đây,
một mình Thao trông sao nổi" Lại nghĩ: "Không biết cá chìm còn ở đây
không? ”
Cả ngày hôm qua chủ nhật. Thao trong khi chợ
búa đã để ý, nhưng không bắt gặp họ. Họ lặn ở đâu? Rất kỹ. Sương xuống. Xuyên
qua áo bông. Buốt vai. Trăng tròn và to chênh chếch đỉnh đầu. Hai vợ chồng đạp
xe đi áo bông, khăn bịt tai mà vẫn run. Cả làng còn ngủ. Thanh bình quá. Con
đường trục chạy qua làng, trăng sáng gập ghềnh. Không một ai. Đi trong hun hút.
Sớm thế này chắc đuôi chẳng biết. Hai vợ chồng không nói, nhưng cùng chung một
cặp mắt dò tìm. Hoang vắng. Không cả tiếng chó. Chỉ có sương và trăng đỏ chênh
chếch phía Tây. Tiếng Thao xuýt xoa ở ngay lưng.
Đã qua một chỗ ngoẹo và sắp tớí nơi họp chợ.
Một người đang đi bách bộ trong ánh trăng suông ở giữa đường. “Kia rồi",
Với mẫn cảm của người bị săn lùng, cả hai cùng nghĩ như vậy và cùng bấu vào
nhau thay lời nói. Im lặng đạp xe đi tới. Người ấy vẫn đi bách bộ, như không
quan tâm đến ai, như đang mang trong lòng một nỗi phiền muộn lớn. Nhìn thẳng
vào người ấy từ xa. Lúc đi ngang qua cố nhìn rõ mặt. Đó là tự nhiên thôi. Đêm
hôm gặp người, ai chẳng cố nhìn cho rõ mặt. Không nhìn mới là không tự nhiên.
Người ấy cũng nhìn mình.
Một khuôn mặt trẻ, bình thản nhẫn nại trên đôi
vai so lại dưới sương. Đã vượt qua người ấy. Hẳn Thao nhìn rõ hơn. Họ theo dõi
mình ghê quá. Như một đối tượng cực kỳ nguy hiểm. Một con thú lớn. Bình không
ngờ bộ máy chuyên chính mà anh vốn kính trọng và lãng mạn hóa qua những cuốn
tiểu thuyết phản gián lại huy động đến mức này để thực hiện sự chuyên chính với
anh. Chắc Tuấn cũng bị theo dõi chặt chẽ như vậy mà không biết. Có lẽ như nó
lại hơn. ít nhất nó vẫn được sống bình thường cho tới khi bị bắt.
Đi quá chợ mươi mét, anh thấy thấp thoáng sau
bờ tre thưa một ngôi nhà có ánh lửa. Một người đang đi ở sân. Quần áo tề chỉnh.
Rõ ràng người thành phố. Thì ra họ chốt ở nhà này. Nhà ai nhỉ? Nhà thằng Tâm,
một ngụy binh đã bị ta bắt, nhưng cho “hướng lượng khoan hồng". ở nhà này
thật tiện. ít khách khứa ra vào. Bất ngờ. Lại sát ngay đường cái.
Bình đạp xe thong thả. Để cho hai cái đuôi
khỏi vội vã. Để cho họ thấy anh chẳng biết gì, hoặc có biết nhưng rất bình
tĩnh, tự tin. Khỏi đầu làng, quay lại, thấy hai cái đuôi đen đen đã ở một cự ly
thích hợp. Cự ly theo dõi đường trường.
Sao đêm ấy trăng to đến thế. To đến mức kỳ lạ.
Quá ác. Và đỏ. Đỏ như máu đỏ. Sương xuống. Giá buốt. Cánh đồng đất ải trắng mờ.
Im lặng tuyệt đối. Đi mãi vẫn một vầng trăng to, đỏ như máu. Một cánh đồng đất
ải vắng tanh, sương giăng mù mịt. Và hai bóng đen im lặng phía sau.
- Chúng tao sang phà. Còn vắng. Thấy hai bạn
dắt xe xuống. Đứng xa chỗ chúng tao. Chúng tao đạp xe đi quành lối phà K sang
Nhuế. Phà K vắng. Không thấy bọn họ. Tưởng là nó thôi không bám nữa. Hai vợ
chồng đạp xe và không thấy có người theo. Bắt đầu trò chuyện, nhưng đến gần Ngọ
Đường, dắt xe dọc đường tàu, lại thấy sau lưng mình hai cái bóng ấy. Mày hình
dung được không?
Bình nhăn mặt vẻ ghê sợ. Cho đến bây giờ anh
vẫn còn thấy rõ mồn một cảnh tượng kỳ quáỉ đó. Nó kỳ quái như một chuyện của
Jack London: Trên Bắc cực mênh mông tuyết trắng, không một sinh vật, một con
sói bò theo một con người. Cả hai im lặng bò. Quyết bò đến chết. Quyết bò đến
sống. Như đó là mục đích sinh ra ở đời này.
Anh đã quen với những cái đuôi. Và anh dễ dàng
nhận ra nơi họ đạt vị trí để theo dõi anh khi anh về nhà anh ở thành phố. Một
lần anh đạp xe ra cổng và bất chợt thấy cánh cửa chớp ngôi nhà bên kia đường
hơi giật mình. Thoáng một bóng người sau khe hở dọc cánh cửa sổ và bờ tường chỗ
bản lề. à, họ đứng rình mình ở đó. Thản nhiên, anh đạp xe đi. Và đưng lại mua
một điếu thuốc lá. Anh nhìn thấy đuôi. Đuôi đưng mỗi khi anh đưng. Nhưng cũng
có lúc đuôi đạp xe qua và chờ anh ở phía trước. Có lần thử cắt đuôi. Đạp nhanh,
rẽ vào những lối ngoắt ngoéo. Anh đã làm được. Nhưng chỉ để thử thôi. Chứ anh
biết đó là cả một thiên la địa vọng, không thể nào thoát được. Anh phát hiện ra
đặc điểm dễ nhận nhất của đám trinh sát này là: Trẻ. Dép nhựa Tiền Phong trắng,
có quai hậu, thứ hàng cực hiếm và sang trọng, giá mậu dịch chỉ có mấy đồng,
nhưng giá chui những hai mươi nhăm đồng, nửa cái cán sự mỗi , nửa cây xoan của
anh. Vậy là móng trắng.
Thế rồi một hôm Bình thấy một thanh niên đi
vào nhà ông bà Toàn ngay bên cạnh nhà Bình. Còn trẻ, dép nhựa trắng Tiền Phong
có quai hậu. Móng trắng dắt xe đạp. ở poóc ba-ga có buộc một cái hòm gỗ thông
còn mới đánh dầu bóng màu đỏ, đi thẳng từ bậc cấp qua mảnh sân nhỏ bên nhà ông
bà Toàn vào nhà và ở lì trong đó.
- Mày còn nhớ bà Toàn không nhỉ?
Bình hỏi. Hắn vừa cười vừa gật đầu:
- Nhớ. Nhớ chứ.
Một chuỗi hồi ức sống lại. Bà Toàn, răng đen,
ngoài năm mươi, chỉ cao một mét ba thôi, nhưng tất cả mọi người trong căn nhà
đông hộ Bình ở phải kiêng nể. Cái miệng bà quang quác, quang quác. Giành nhau
một tý đất. Một chỗ để sọt rác Chửi mèo mắng chó. Nghe xem nhà ai động dao
thớt, nhà nào rán mỡ. Ai mua đâu mà được cả xe mùn. Cây chuối nhà sát cửa gầy
gò mà ra một buồng quá to... Bà chẳng sợ ai, sẵn sàng đấu khẩu lẫn phê bình...
vũ trang. Bà quắc mắt hỏi một bà ở dãy nhà ngang:
- Tay bo à? Tay bo thì tay bo!
Bà vỗ đùi nhảy lên để nhấn mạnh cho lời thách
đấu. Sự phẫn nộ, vẻ khinh bỉ lộ rõ trên nét mặt bà đang hừng hực ý chí quyết
thắng.
Bình đã tổng kết: Trong một số nhà trước đây
chỉ có một chủ, nay lúc nhúc nhiều tổ ấm, những tổ ấm này lại đang sinh sôi nảy
nở, ắt phải xảy ra tình trạng thập nhị sứ quân và sẽ tiến lên "thế chân vạc”.
Rồi đến tập quyền. Một vị có đủ phẩm chất, sẽ
chiến thắng các sứ quân khác, trùm lợp lên tất cả. ở chỗ Bình, người chiến
thắng là bà Toàn.
Nhà Bình và nhà bà Toàn là hai căn buồng liền
nhau, vuông vắn, xinh đẹp nhất chỗ đó. Hai căn buồng ở và tiếp khách của chủ
Tây ngày trướẹ, thông nhau bằng một cánh cửa, phía dưới bưng bằng gỗ, phía trên
là những ô kính nhỏ. Những ô kính vỡ đã được bịt kín bằng giấy. Tuy nhiên văn
không ngăn được tiếng động. Bên kìa kéo ghế, bên này nghe tiếng. Nghe được cả
tiếng ho. Để kín hơn nữa, bên ông bà Toàn căng một cái rèm. Bình đặt vào chỗ
hõm của bờ tường (cánh cửa ở phía ông bà Toàn nên phần bờ tường hõm là của anh)
những thanh gỗ làm giá sách. Và để những thứ linh tinh: ống đựng bàn chải đánh
răng, phin pha cà-phê, gói thuốc lào hút dở, lọ thuốc đau mắt... Đôi bên cách
biệt hơn trước. Cách âm cũng tốt hơn trước.
Phía trước nhà hai người có một mảnh sân. Cuộc
đàm phán ngăn đôi mảnh sân kéo dài, vì ở phía nhà Bình có hai cây xoan. Nhà bà
Toàn chẳng có cây nào. Cuối cùng anh đồng ý chia đôi: mỗi người một cây. Anh
bắt chặt ngay. Để khỏi muỗi. Bà Toàn đẵn xoan mang về. Còn cây xoan của Bình,
Bình bán. Bà Toàn bảo: "Để tôi mua cả một thể". Ông Toàn bảo:
"Tôi giả anh cái cán sự mỗi". Nghĩa là năm mươi đồng, tương đương với
lương cán sự một. Bình đồng ý ngay, tuy cây xoan giá những cán sự ba, nghĩa là
sáu tư, sáu nhăm đồng. Đẵn xoan xong, đến việc rào ngăn. Bà Toàn bảo bà chưa có
điều kiện, chưa có tiền mua cây que, vì bà biết một mình Bình, Bình cũng làm.
Qnả nhiên, đúng vậy.
Không chịu được cách khôn lỏi, quá đáng của bà
Toàn, Bình quyết phản công. Phản công êm dịu. Một cách tấn công hòa bình. Hay
đúng hơn, một thứ tâm lý chiến. Bình xuống bếp (làm ở ngoài sân, gần bếp nhà bà
Toàn) đem dao thớt ra chặt nhát một như người chặt thịt gà. Những nhát đanh.
Lại gọi vợ:
- Sang bác Tuấn suốt mấy cái là chanh nhé.
Thịt gà không lá chanh như anh không nàng.
- Mua ớt chưa? Cơm không ớt như quật thớt vào
mặt.
- Lần sau mua con gà non non tý nhé. Con này
khí cao tuổi đấy. Làm một tý "rạo " (rượu) nữa chứ nhỉ?
Bình cứ oang oang những mệnh lệnh "âm sâm
" như vậy. Và phải nói Bình ứng tác nhưng câu tục ngữ về ăn uống rất cừ.
Thao và hai cậu con giai chết lặng vì cười. Vừa thở như sắp đứt ruột vừa rên
rỉ, lại phải cố trả lời với một giọng điệu tự nhiên, sao cho đừng có tiếng nào
vỡ toác ra vì cười.
- Con xin lá chanh rồi.
- Làm gì cứ ầm ĩ lên thế?
Bình không cười. Bình vẫn tỉnh khô. Anh đang
tưởng tượng ra một con gà nằm trên thớt và tập trung tư tưởng vào những nhát
dao. Những nhát dao đúng là chặt thịt gà, những nhát dao nhói lòng hàng xớm.
Nhà Bình có mọt con gà. Kể ra nó cũng có vẻ gà
trống thật. Trụi. Trụi cả lưng, cả bụng. Da đỏ hon hỏn. Mào to đỏ đọc rủ về một
bên mắt, trông càng dữ. Như một chú gà trống choai choai. Thế nhưng nó đẻ
trứng. Hai cậu con giai gọi bố í ới ngay chỗ chuổng gà cạnh hàng rào thưa mới
ngăn hai nhà:
- Ơ, bố này, con gà sống nhà mình nó đẻ, bố ạ!
- Đâu?
- Trứng đây này, to không?
Ba bố con cầm con gà trụi, da đỏ, mào đỏ rủ về
một bên măt ấy lên, vuốt ve âu yếm như nó là một con gà đẻ ra vàng vậy. Nó đẻ
cách nhật, nhưng ngày nào ba bố con cũng reo:
- Lại một quả trứng nữa đây này!
Con gà đẻ mà cứ im thin thít, chẳng thấy cục
ta cục tác. Đúng là gà trống đẻ thật rồi. Trứng lại to, đỏ au.
Bà Toàn giả điếc, không thèm để ý đến chuyện
vặt ấy. Nhưng rồi bà không chịu được. Như chính bà vừa bị mất cướp. Bà kêu lên:
- Nhà người ta trồng lau ra mía. Nhà mình
trồng củ tía ra củ nâu.
Mấy bố con lại cười. Cười lặng lẽ. Khi đó Bình
đã bảo hắn:
- Chẳng còn gì vui nữa. Thì vui bằng sự đau
khổ của người khác vậy.
Hắn cũng đã bảo lại Bình:
- Và ngược lại, thấy người khác hơn mình thì
mình đau khổ. Thế mới bỏ mẹ chứ!
Khi thấy móng trắng vào nhà ông bà Toàn. Bình
giật mình. Anh cài trái cửa và rón rén đi về phía giá sách, áp tai nghe ngóng,
êm ả. Chẳng nghe được tiếng nói chuyện. Họ làm gì mà im ắng thế. Có tiếng kéo
ghế. Rồi lại im lặng.
Đứng lâu quá, mỏi chân, muỗi đốt. Bình lăn ra
giường. Hẳn là họ đến đặt máy ghi âm. Cái hòm gỗ thông quang dầu mới tinh ấy
hẳn là đựng máy móc. Không biết họ mới đến lần đầu hay đến nhiều lần rồi? Cũng
có thể anh ta là khách hay con cháu bà Toàn đến chơi. Bình tự tranh cãi. Nhưng
anh này trông rất lạ. Chưa thấy đến lần nào. Dù sao cũng phải cảnh giác. Chờ
đến khi nghe tiếng líp xe đạp giòn lách tách từ sân ra cửa, anh nhỏm dậy và
nhìn thấy phía lưng người đó. Đặc một dáng vẻ của những cái đuôi anh vẫn gặp.
Cái hòm gỗ thông cũng không còn trên poóc ba-ga xe đạp nữa. Cố trấn tĩnh, anh
ra sân. Ông bà Toàn cũng vừa bước ra. Bà Toàn hỏi anh:
- Anh Bình hôm nay không đi làm à?
Câu hỏi đầy ẩn ý. Nụ cười của ông Toàn cũng có
vẻ thế nào ấy. Rõ ràng họ đã biết hết chuyện về mình. Họ biết mình bị đình chỉ
công tác. Biết mình bị theo dõi.
- Không, hôm nay cháu mệt, nghỉ ở nhà.
Bình trả lời một cách thản nhiên. Anh quay vào
buồng. Lại cài trái cửa. Im lặng. Khẽ khàng nhấc từng quyển sách ra khỏi giá.
Từng thứ trong cái đống vạt vãnh của sinh hoạt gia đình. Đến lúc ấy anh mới
biết cái rèm nhà ông bà Toàn không treo nữa. Và thấy đầu một sợi dây đồng nhỏ,
sáng từ bên ông Toàn xuyên qua một tờ giấy dán thay cho một ô kính bị vỡ. Anh
khom khom nhìn đầu sợi dây đồng. Anh giơ tay định sờ vào sợi dây. Bàn tay anh
chững lại khi gần chạm vào nó. Có tiếng gõ cửa. Anh giật mình. nhìn đống sách
vở ngổn ngang. Anh im lặng nghe ngóng. Gõ cửa nữa.
- Ai?
Không thể để cho họ thấy cảnh anh đang dọn
dẹp, tìm tòi này. Tiếng Thao:
- Mở cửa cho em.
Bình thở phào. Bước vào nhà, Thao giật mình:
- Làm gì thế này, anh?
Bình giơ tay huơ huơ ra hiệu im lặng. Anh cài
cửa và hỏi Thao:
- Em về sớm thế?
- Còn sớm gì nữa. Mười một giờ hơn rồi.
Đến lúc ấy anh mới biết đã tan tầm. Đã trưa
rồi.
Anh kéo Thao, chỉ cho Thao mẩu dây đồng mới
sáng đỏ lên. Hai vợ chồng xuống bếp nói chuyện. Thao im lặng. Rồi Thao thì
thào:
- Có thể là một sợi dây ông ấy buộc cái gì đó.
Nó đâm sang. Nhưng mình cứ phải cảnh giác. Để em sang xem...
Vốn rất tháo vát nhanh nhảu, Thao vớ cái bát
con và cái cùi-dìa, xăm xăm sang ông bà Toàn. Bình chỉ biết nhìn Thao, lo lắng,
không dám gọi Thao lại dặn dò.
Anh nghe thấy tiếng Thao vui vẻ trong buồng
nhà ông bà hàng xóm:
- Ông bà còn mỡ không, cháu vay một thìa. Nhà
chẳng có cái gì ăn. Định chưng ít mắm tôm mà lại hết mỡ.
Một thoáng sau, Thao cầm thìa bát trở về, nói
to từ sân bên ấy:
- Ông bà cũng hết mỡ rồi, anh ạ.
Và Thao kéo Bình ra góc xa nhất, ghé sát tai
Bình, nhưng Bình đã nói to:
Thôi, ăn mắm tôm sống cũng được.
Thao thì thầm:
- Cái hòm. gỗ thông để ở giáp cửa an sang nhà
mình. Phủ vải. nhưng em vẫn nhận ra. Cao đúng bằng đầu giường chúng mình.
Bình thót ruột. Tai họa đã đến gần lắm, sát
đầu giường anh. Thao im lặng. Cả hai khe khàng xếp lại sách vở trên giá. Không
gây ra một tiếng động nhỏ.
Bình và Thao định chuyển giường về đầu buồng
kia, không kê ở sát giá sách nữa, cho xa sợi dây đồng. Nhưng bàn đi tính lại,
lại thôi. Cứ phải giữ nguyên sự sắp xếp như cũ. Để không ai có thể nghĩ mình đâ
biết, đã đề phòng. Chỉ có điều bây giờ nằm trên giường chớ than thở về những
khó khăn. Lại càng không được kêu ca bất cứ chuyện gì. Đừng thở dài. Chỉ được
nói chuyện vui. Đúng. Tương kế tựu kế. Chỉ nói chuyện vui. Chỉ lạc quan cách
mạng. Không bao giờ bi quan. Lại càng không bất mãn. Nhưng cả hai đều rất vụng
về. Năm ấy sương muối, rét đậm. Lúa chiêm mới cấy chết khô. Hoa màu cháy lá.
Cau rụng xuống gốc từng đống. Nhưng vừa nằm vào giường Thao đã láu táu:
Năm nay thời tiết thế này được mùa lớn đấy anh
ạ.
- Được mùa chứ. Các hợp tác xã bây giờ thâm
canh ghê lắm. Có những huyện đạt 5 tấn rồi. Bây giờ Thái Bình đang quyết tâm
xây dựng toàn tỉnh đạt 5 tấn.
- Được mùa vài năm chẳng mấy chốc mà sướng.
Bình định nói một câu đầy phấn khởi nữa tiếp
theo, nhưng thấy Thao cười rung cả chăn, anh cũng cười, hai vợ chồng cười không
thành tiếng. Bình trở mình ôm lấy Thao, thì thầm vào tai Thao: “Nói như cứt
ấy". Và luồn tay vào người Thao. Hai vợ chồng càng cười dữ hơn. Vẫn không
thành tiếng. Sức cộng hưởng làm giát giường rung cành cạch...
Mỗi tối một chuyện. Họ phải thống nhất đề tài
trước khi lên giường, ai nói trước, ai nói sau, không quên rút kinh nghiệm vở
diễn tối hôm trước. Địa điểm hội nghị là giứa sân. Không phải trong bếp. Vì
dưới bếp cũng sợ. Biết đâu đấy. Hai người ngồi xổm giữa sân. Âu sầu, ủ ê lo
lắng, nhưng cũng có lúc tinh nghịch, hài hước, vì cũng cần cười lên tý chút,
căng thẳng quá lâu rồi, chán quá rồi.
- Báo cáo đồng chí chứ... - Thao nói khẽ với
giọng phát biểu trong các cuộc họp cơ quan, - đề tài chiến đấn hơi nhiều rồi
đấy. Hay là chuyển sang mục ngành thương nghiệp xây dựng tổ lao động xã hội chủ
nghĩa đi. , thực hiện điều Bác dạy: Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, đưa
hàng đến tận tay người tiêu dùng.
Bình đáp lại lời vợ bằng giọng lưu manh đường
phố.
- Tớ vẫn thấy cần phải nói về nông nghiệp. Vì
nông nghiệp là cơ bản. Nhưng đăng ấy phát biểu đếch ra làm sao. Đang sương muối
bỏ mẹ đi. Lúa chiêm xuân chết gần hết, đằng ấy lại bảo thời tiết thuận lợi...
Thế là trên chiếc giường sát với cửa ngách
thông sang nhà ông bà Toàn, hai vợ chồng tối nào cũng nói những lời ca ngợi,
hôm nay là nhà máy xi-mảng khôi phục sản xuất, ngày mai là giọng hát Tường
Vi...
Bình cảm thấy không chịu đựng được nữa rồi.
Nhiều lức anh nghĩ: Thà bị bắt ngay còn hơn lo sợ phấp phỏng mãi thế này. Những
lúc ấy anh mong được như hắn.
Suốt ngày một mình quanh quẩn như một cái bóng
trong căn buồng im lìm vắng lặng. Không ai đến chơi với anh nữa. Người ta sợ
anh như sợ bệnh truyền nhiễm. Rất tự trọng, khinh bỉ cuộc đời đen bạc, khinh bỉ
những người từng xoắn xuýt, cởi mở với anh, nay tìm cách lánh xa anh, anh làm
như không quen họ. Cho nên anh thật sự sung sướng, cảm thấy hạnh phúc, một niềm
an ủi lớn lao, khi Lê Bàn xuống thăm anh.
Anh đang ngồi dựa lưng vào tường đọc sách và
chờ đợi điều sẽ phải đến thì có tiếng gõ cửa. Anh giật thót người. Nhìn ra: Lê
Bàn. Lê Bàn từ Hà Nội về. Anh bật dậy, ra đón. Lê Bàn nắm chặt tay anh, nhìn
anh như không tin vào mắt mình. Cái nhìn sung sướng, nhưng vẫn còn vẻ hoảng sợ
của một người vừa thấy người thân sống lại.
- Thằng Bình! Chúng nó đồn ầm lên là mày bị
bắt rồi.
Tiếng Bàn xen lẫn tiếng thở ví xúc động. Bàn
vẫn có kiểu nói oang oang như vậy. Bình giơ tay lên miệng ra hiệu "suỵt”
và ghé vào tai Bàn thì thào:
- Khẽ chứ. Nói gì ra ngoài. Nhưng hãy vào đây
uống nước đã.
Bàn nhìn lên trần nhà, rồi lại nhìn quanh. Anh
hiểu Bình đang bị theo dõi chặt chẽ.
- Thao đâu?
- Bà ấy đi làm chưa về.
- Thằng Vũ Mạc gặp tao. Nó bảo nó gặp thằng Lê
Phong. Thằng Lê Phong bảo nó là mày bị...
Bàn lại bỏ dở câu nói. Anh chưa quen được với
cách nói chuyện lúc to, lúc thì thầm, cùng một lúc diễn ra hai cuộc nói chuyện.
Một cuộc nói chuyện công khai để cho người thứ ba nghe và một cuộc nói chuyện
bí mật chỉ có hai người.
Bàn nhíu mày khe khẽ:
- Chúng mày gay quá nhỉ?
Và anh nói to:
- Uống nước đi, trà ngon quá.
Nhưng anh không nống nước mà ghé tai Bình:
- Thăng Vũ Mạc cũng định xuống thăm cái Ngọc
luôn thể, nhưng nó bị ngã, gẫy chân. Nàm bệnh viện năm ngày rồi. Bó bột. Khổ
quá, anh em...
Bình nhìn Bàn và cười. Niềm vui của Bình quá
lớn. Đã bao lâu rồi anh không có một người bạn để mà trò chuyện, mà tâm sự, mà
trút nỗi niềm. Anh cứ đọc một mình câu thơ của Trần Dần. Câu thơ chưa in, anh
chỉ được nghe Vũ Mạc đọc lại:
Hãy chỉ cho tôi nơi nào tôi đổ bớt được tôi đi
Anh quen Lê Bàn, Vũ Mạc qua hắn. Cả đám bạn Hà
Nội của hắn là bạn anh. Tuổi trẻ, nghề nghiệp và nhất là cách sống đã gắn bó họ
lại.
Sau khi hắn bị bắt, Lê Bàn đã về thăm Ngọc.
Biết Ngọc đi học, Bàn chọn ngày xuống thăm. Ngày lễ Noel. Bàn cùng Ngọc chuẩn
bị đồ tiếp tế cho hắn. Bàn gửi vào bọc quà của Ngọc tý chút của anh: Hai gói
thuốc lá (Anh còn định gửi nhiều nữa, nhưng Ngọc bảo thôi vì ở 75 người ta cho
nhận ít. lắm). Bình làm cơm mời Bàn và Ngọc. Lúc đó Bình chỉ blết là mình sẽ
gay go thôi, chứ không ngờ lại đến mức này. Bình kéo Bàn xuống bếp, nhưng rồi
lại thấy không an toàn, anh và Bàn ra giữa sân ngồi:
- Mày về đây cũng bị theo dõi đấy. Thôi, đừng
về nữa. Nguy hiểm lắm. Căng quá nhỉ"
Bình gật.
- Cái Ngọc có nhà không?
Bình lắc.
Bàn thở dài:
- Lâu quá tao không gặp cái Ngọc. Có tin tức
gì về thằng Tuấn không?
- Nó không có thư ra.
Vừa chuyện, Bình vừa để ý bên nhà ông Toàn. Bà
Toàn đi xuống bếp, rồi lại đi lên. Một cách rất đáng ngờ. Bình lại kéo Bàn vào
trong nhà. Lấy sách ra đọc.
Và đi chơi phố. Bình để ý: Có đuôi bám. Bình
bảo Bàn: “Có đuôi đấy”. Tức mình, vào một hiệu cà-phê bất chợt. Chẳng cần biết
đuôi ngồi đợi ở chỗ nào.
Bàn ở lại với Bình đến chiều và trở về Hà Nội
bằng tàu tối. Bình nhớ lời dặn của Bàn:
- Có gì bảo Thao báo chúng tao ngay nhé! Hai
người chia tay mà đều nghĩ không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau.
Bàn đi. ít ngày sau, lại một biên tập viên một
nhà xuất bản ở Hà Nội về công tác, gặp Bình ngoài phố. Anh ta gọi Bình rất to,
vẻ mừng rỡ:
- Lên Hà Nội đi. Cần đấy. Thu xếp lên Hà Nội
mấy ngày. Thật đấy.
Bình hiểu ý anh biên tập viên tốt bụng. Trên
ấy đã ầm lên cái tin anh bị bắt. Sự hiện diện của anh là một lời cải chính.
Nhưng anh không lên Hà Nội. Việc đó không cần thiết. Vả lại anh đã thoát khỏi
hiểm nghèo đâu. Anh vẫn chờ tai họa đến.
Anh có một thói quen mới: Tới đâu cũng phải
nhìn trước nhìn sau, quan sát xem họ có đặt máy ghi âm không. Kể cả nhà chú em
ở ngoại thành. Anh không được tự do trên chiếc giường anh nằm, ngay trong căn
buồng của anh. Những lúc ngủ với vợ, anh cũng không dám gây ra những tiếng
động. Không dám thì thầm vào tai vợ những điều anh bất chợt nghĩ ra lúc đó. Cứ
lặng lẽ. Hùng hục. Như những con vật Anh không nghĩ ra được điều gì nữa. Anh
chỉ nghĩ đến cái máy ghi âm. Anh không muốn làm trò cười cho họ qua cái băng
ghi âm khi họ chụm đầu nghe lại. Hóa ra anh đã phải làm vụng làm trộm cái việc
này với vợ anh. Nhưng vẫn có một cặp mắt lạnh lùng ở đâu đấy chăm chú im lặng
nhìn anh. Một thời gian dài anh không làm được việc ấy, mặc dù trước đây anh
vốn là người chăm chỉ. Một thời gian dài anh hoàn toàn bị liệt.
Đuôi vẫn bám. Họ thay đuôi luôn. Anh biết mình
đang đứng sát bờ vực thẳm. Chân trong nhà tù. Chân ngoài nhà tù. Anh nằm quay
mặt vào tường, lẩm nhẩm một mình, ca ngợi mậu dịch, những người làm dâu trăm
họ. Chửi phim Số phận con người, Bài ca người lính là sợ hãi chiến tranh, ca
ngợi hợp tác xã nông nghiệp là một biện pháp để làm giàu tập thể, đi lên sản
xuất lớn.
Bình cười. Nước mắt, nước mũi giàn giụa, như
đứt hơi:
- Lúc đó tao nghĩ đến mày. Nếu mày sang, thấy
tao như vậy hẳn mày lạ lắm. Tao sẽ giải thích mày hiểu tao đang luyện để khi
nằm mơ cũng không nói sai chính sách.
Bây giờ Bình cười. Chứ lúc đó Bình lo đến mụ
người. Bản thảo đưa về nhà chú em, hóa ra không ổn. Lại phải đưa đi nơi khác.
Anh bảo Thao giắt bản thảo vào người mang dần ít một đến gửi ở nơi bất ngờ
nhất: Nhà ông anh họ Thao làm giám đốc trưởng Đảng. Khi về, Thao bảo anh: "Xong
rồi. Anh yên tâm. Không có ai theo em cả. Em đã kiểm tra cẩn thận". Anh sợ
những bản thảo của anh bị cơ quan đặc trách văn hóa thu, rồi để mục nát trong
kho như hắn đã bị như vậy. Người có thể bị bắt, nhưng cố cứu lấy bản thảo. (Sau
này, một trong những bản thảo ấy là quyển tiểu thuyết Năm tháng đã qua được
giải thưởng viết về công nhân).
Thao vốn đoảng, ít săn sóc tới Bình, nay bỗng
trở nên chu đáo. Thao mua thêm cái màn một. Thao mua vải bảo chồng cắt thêm bộ
quần áo. Thao xin ở đâu về cái ba-lô con cóc bộ đội cũ. Nhìn cái ba-lô, Bình
hiểu ngay ý nghĩa mục đích (Hai vợ chồng đã quen nói chuyện bằng cách nhìn
nhau). Rồi quần đùi, áo may ô. Khăn mạt, bàn chải, thuốc đánh răng. Bình im
lặng nhìn vợ loay hoay, nhấc ra xếp vào, chăm sóc cái ba-lô. Thao khẽ hất hàm
như muốn hỏi anh:
- Được chưa?
Anh gật đầu.
Ngày nào Thao cũng phải mở ba-lô một lần. Hôm
cho thêm vào đó nắm thuốc lào, cái lược. Hôm chục bao diêm, dăm gói thuốc lá
Berati. Hôm mấy tờ báo để đi vệ sinh. Hôm gói tăm. Anh lục trong tủ sách lấy ra
hai quyển Chuông nguyện hồn ai anh thích. Anh cho vào ba-lô cùng với quyển học
tiếng Nga. Chớ có quên món sách. Vào trong ấy không có gì đọc, buồn chết. Thao
xuống bếp cầm lên cái ca, cái cùi-dìa. Rồi lại một thứ quan trọng: Cái chăn Nam
Định. Chưa hết. Hôm sau lại thêm một cân đường. Một gói thuốc APC. Chẳng khác
gì một cửa hàng tổng hợp. Anh nhấc chiếc ba-lô nạng và phồng căng, khoác lên
vai, đi bách bộ quanh nhà như đang tập hành quân. Anh toét miệng cười:
- Được rồi. Cứ thế này đi...
Anh bỗng im bặt và ghé sảt tai Thao thì thào:
vào 75 được rồi.
Thao nói to:
-... đi biển. Kỳ này anh định đi biển bao lâu?
Đây là câu nói dành cho máy ghi âm, câu nói
tiếp vào câu nói dở dang của Bình. Không thể để máy ghi âm ghi câu nói lơ lứng
của Bình: “Được rồi. Cứ thế này đi " mà không thêm vào đó một ý cho trọn
nghĩa.
Hai vợ chồng cứ thế âm thầm chuẩn bị cho việc
đi tù của Bình. Và chính thời gian đó họ sống như trong tuần trăng mật. Rất ít
khi đụng đến kim chỉ, giờ đây Thao ngồi hàng tiếng đồng hồ đính lại những cúc
áo bị đứt, khâu lại những chỗ bị sứt chỉ trên quần áo của Bình. Rủ nhau đi ăn
phở. Đi uống cà-phê. Trong chuyện "sinh hoạt văn hóa " (danh từ Bình
gọi việc vợ chồng yêu nhau) Bình đã xác định lại “Không thể để như người
impuissant " . Như thế là không được. Là thua. Là đã bị nốc-ao. Không thể
đo ván sớm thế. Tự do là sự nhận thức được tất yếu khách quan và hành động theo
tất yếu. Ta đã biết tất yếu khách quan. Ta phải giành lại phần tự do tối thiểu.
Họ lại yêu nhau chăm chỉ. Cả ban ngày lẫn ban đêm. Họ tạm quên đi những lủng
củng vẫn chia rẽ họ.
Cứ mỗi lần anh nhận đước giấy mời (và cả giấy
gọi nữa) lên Sở Công an thẩm vấn, anh lại nhìn cái ba-lô. Anh nghĩ mình có thể
đi luôn. Không quay lại nữa. Nhưng chẳng lẽ lại khoác ba-lô đi để người ta thẩm
vấn. Người thẩm vấn anh là ông Quảng, trưởng phòng đặc trách văn hóa. Ông Quảng
hỏi anh về hắn. Về anh. Cái logic ông Quẫng đưa ra là: Bọn anh là những kẻ bất
mãn. Từ bất mãn cá nhân đi đến nhận thức sai lạc về xã hội và bất mãn đối với
chế độ. Thật là một logic quái đản, quá sơ lược và hạ thấp con người. Nhưng anh
không bắt bẻ cái logic ấy. Anh trình bày rằng anh không bất mãn cá nhân. Anh
được cơ quan đánh giá đúng mức. Anh được tạo điều kiện thâm nhập thực tế, viết
bài, sáng tác.
Họ hỏi anh về "Người chết không cô
độc". Anh nghĩ: Thật ra đó là một chuyện rất lành, ca ngợi con người mới,
nhưng nó trở thành con ngoáo ộp vì cái tên của nó.
Ông Quảng cười nhạt:
- Anh và anh Tuấn đã nói với nhau là sẽ bẻ bút
không viết nữa cơ mà.
Anh lại thừ người suy nghĩ. Khi đã nhớ và hiểu
ra, anh nói cho ông trưởng phòng đặc trách văn hóa biết hai cảm giác đối lập
của người viết văn: Lúc tự cho mình là thiên tài, coi thường tất cả. Lúc lại
thấy mình hoàn toàn bất tài, bất lực, ngu ngốc: "Những lúc đó, chúng tôi
tự thấy mình nên bẻ bút, đừng tự huyễn hoặc mình. Nên chấm dứt hoàn toàn việc
viết lách đi thôi".
Ông đặc trách văn hóa lắc dầu, không che giấu
thất vọng về sự thiếu thành thật ấy:
- Anh đừng ngụy biện. Thái độ tốt, nhất của
anh là chân thành. Điều đó có lợi cho anh hơn Anh và anh Tuấn phản đối đường
lối văn nghệ của Đảng, phản đối viết "người mới, cuộc sống mới”
Anh nghĩ: Có lẽ ông Quảng muốn nói người thật,
việc thật. Đúng là văn chương nếu quá nhấn mạnh người thật việc thật như hiện
nay thì thật đáng buồn. Đó là chủ nghĩa thực dụng đến thô thiển, là giết chết
nền văn học và ngu xuẩn. Nhưng anh trả lời đúng vào câu hỏi của ông Quảng:
- Chúng tôi không phải là Nguyên Hồng, Nguyễn
Tuân để có thể viết về cuộc sống cũ. Chúng tôi chỉ có thể viết về cuộc sống
mới. Vì vậy chúng tôi không có lý do gì phản đối viết người mới, cuộc sống mới.
Và thực tế những sáng tác đã in hay đang viết của chúng tôi đều viết về người
mới, cuộc sống mới.
Họ kể cho anh nghe những tội lỗi hắn đã nhận
trong tù (mà anh biết ngay là bịa đặt). Anh lễ phép trả lời
- Đến bây giờ tôi mới biết.
Qua những buổi thẩm vấn, anh hiểu rằng họ
không buộc tội được hắn, không kết luận được hắn mắc tội gì. Khi Ngọc ở trường
về anh sang nói cho Ngọc biết mọi diễn biến chung quanh việc họ hành anh. Mặc
cho đuôi bám. Mặc cho việc đó đến tai Sở Công an. Anh không thể bỏ mặc Ngọc
trong cơn hoạn nạn. Con ngựa đau cả tàu chê cỏ. Anh cố gắng đối xử sao cho bằng
một con ngựa. Anh đưa cho Ngọc gói bích-quy, gói chè để Ngọc gửi vào cho hắn.
Anh nói Ngọc cố học, đừng bỏ dở. Ngọc biết anh lúc nào cũng như trước đây, thầm
cảm ơn anh vì anh đã động viên Ngọc rất nhiều. Nhưng Ngọc không biết rằng chính
Ngọc đã có sức mạnh động viên vợ chồng Bình sống. Nhìn thấy Ngọc, họ hiểu ngay
rằng họ vẫn còn quá hạnh phúc.
Anh nói cho Ngọc biết những suy nghĩ của anh:
Hắn sẽ được tha vì họ không buộc tội được hắn. Đến bây giờ họ vẫn còn đang tìm
tội hắn. Tìm làm sao được vì lẽ giản đơn: Hắn không có tội mà tìm. Bình hỏi:
Tôi biết trong ấy Tuấn rất triệt để và giữ vững nguyên tắc. Điều ấy là một bảo
đảm an toàn cho tôi. Đến giờ phút này tôi tin rằng họ không bắt tôi đâu. Đó là
nhờ Tuấn.
Ngọc im lặng. Ngọc không tin ở điều gì nữa.
Bình tiếp:
- Một hòn đá, không nhá được. Nhá thêm hòn đá
nữa làm gì.
Nghe Bình kể, hắn bảo:
- Tính tao mày biết. Có thì nhận. Không có thì
không nhận. Dù điện giật, dùi đâm, dao cắt lửa nung . Dù phải ở năm năm, sáu
năm xà lim như người tù huýt sáo bài “Qũavez vous fait de mon amour" cũng
vậy thôi. Chỉ có điều các đồng chí đối với tao quá thể.
Bình không bị bắt. Không bị tù nội trú như
hắn. Bình tù ngoại trú. Hắn bật cười vì từ ngữ mới lạ ấy. Bình tròn mắt:
- Chữ ấy không phải của tao, của thằng Lê Bàn
đấy. Không khác gì tù thật mà. Chỉ không bị bắt thôi. Mày cô đơn trong tù thì
tao cô đơn ở ngoài tù. Mày suy nghĩ căng thẳng, tao cũng vậy. Mày bị nhốt thì
tao bị giám sát. Mày không được viết, tao cũng vậy.
Hắn biết Bình bị đình chỉ công tác gần một
năm. Nhưng hết đợt hỏi cung ấy Bình vẫn sáng tác. Quyển tiểu thuyết giải A của
Bình được hoàn thành trong thời gian ấy. Hắn hỏi:
- Quảng, trưởng phòng đặc trách văn hóa. Quảng
người thế nào nhỉ?
- Hơn tuổi chúng mình. Cao lớn, mặt mũi đầy
đặn, phúc hậu.
Mãi gần hai nằm sau khi ra tù hắn mới gặp ông
Quảng, ông trưởng phòng đặc trách văn hóa trong buổi gặp ông Trần. Đúng như
Bình nói: ông Quảng cao lớn, đầy đặn, phúc hậu, đáp ứng được điều mong mỏi của
hắn về diện mạo. Vì trước khi gặp ông Quảng, hắn thấy những người sát hại hắn
đều có vẻ mặt dữ dằn độc ác. Ông Trần có dáng dấp gian hùng. Ông Lan thì mặt
ngựa. Ông chánh giám thị V.Q da sát xương... Mà nếu tả như vậy người ta sẽ bảo
hắn là xuyên tạc, là bôi xấu các ông ấy. Tự hắn cũng phản đối cách miêu tả như
vậy. Văn chương ta hay rơi vào công thức ấy. Vì sao lại tả Mỹ như con khỉ đột?
Tả ngụy như con quỷ hiện hình. Họ cũng như chúng ta, là những con người, là bố,
là chồng, là anh, là em. Họ có những khuôn mặt con người.
Những đao phủ thời nay, có những kẻ tai dơi
mặt chuột, nhưng nhiều người có lời nói dịu dàng, nhân đức, có bộ mặt đầy đặn,
phúc hậu, nụ cười của đức Phật tòa sen. Bát Lê hiện đại là như vậy. Bát Lê
không hoa mắt. Bát Lê chỉ cứu người. Khuôn mặt béo tốt, đầy đặn, dáng người bệ
vệ của ông Quảng đã đáp ứng được những điều hắn mường tượng về người đao phủ
mới. Đình chỉ công tác một năm, Bình lại được viết báo. Nhưng phải ký tên khác.
Bình ký: Anh Lê. Có nghĩa là anh Lê Bình. Tưởng rằng chỉ ký tên ấy một thời
gian thôi. Ai ngờ lâu thế. Hắn hỏi:
- Thế liệu bao giờ mày ký tên Lê Bình?
Bình cười:
- Cứ thế thôi. Anh Lê. Rồi ông Lê. Rồi Cụ Lê
thôi.
Bình đã đem cho hắn mấy số báo “để có cái mà
đọc cho đỡ buồn ". Có số đăng bài của Anh Lê. Sắc sảo, súc tích, chữ nghĩa
rất khá. Trau chuốt. Bao giờ Bình viết cũng hơn hẳn các phóng viên khác. Tội
nghiệp. Có anh còn chưa biết đặt câu. Viết tin chưa xong. Phổ biến là kiểu này:
Để hưởng ứng đợt thi đua chào mừng ngày Quôc tế lao động 1-5. Chấm. Chấm luôn ở
đây. Rồi mới đến xí nghiệp X đã tổ chức đợt thao diễn. . So sánh Bình với nhứng
người ấy là sỉ nhục Bình. Hắn không bao giờ đi so sánh như vậy. Bằng những bài
báo chất lượng, Bình muốn nói với mọi người: đưng vùi dập một con người. Bình
muốn tỏ rõ mình làm việc tốt và bình tĩnh trước mọi biến cố. Bình vẫn là Bình.
Như trước đây. Và tất nhiên là vẫn như trước đây cả trong quan hệ với hắn. Khi
hắn chuyển lên trại Q.N, Bình lên thăm hắn. Phải có giấy tờ. Bình xin cơ quan,
xin tổng biên tập Phan Lâm. Phan Lâm không cho giấy. “Báo không làm việc này.
Đồng chí xin giấy của công an". Đó là điều Bình không làm được. Công an
không cấp giấy cho Bình. Công an chỉ cấp giấy cho Ngọc. Bách bảo:
- Đồng chí định đi thăm anh Tuấn, cái đó tùy
đồng chí. Nhưng theo tôi thì không nên. Anh Tuấn phạm pháp, bị pháp luật xử lý.
Đồng chí nên tỏ rõ lập trường trong lúc thử thách này. Thử thách với đồng chí
là nghiêm trọng đấy. Báo chtúng ta là báo Đảng.
Có thể những điều Bách nói là chân tình. Anh
cũng chân tình đáp lại:
- Cảm ơn những điều đồng chí đã khuyên tôi.
Tôi nghĩ: Nếu anh Tuấn có tội là có tội với Nhà nước, với Đảng và đã bị Đảng,
Nhà nước trừng trị. Tôi với anh Tuấn là bạn. Tôi đi thăm động viên anh ấy cải
tạo cũng là điều tốt chứ ạ. Bình tới Q.N vớì thẻ nhà báo của mình. Đi với Ngọc.
Dù anh biết đó là điều nguy hiểm. Nó như một kiểu thách thức dư luận. Như một
kiểu chọc tức các nhà chức trách, mặc dù anh không nghĩ thế. Anh chỉ nghĩ: Nếu
anh còn là anh thì anh phải lên thăm hắn. Và chỉ đến lúc đó Bình mới hiểu nỗi
vất vả, gian khổ trong mỗi chuyến đi thăm chồng của Ngọc. Bình đã chuẩn bị cho
cái xe Thống Nhất tòng tọc của Ngọc ở trạng thái tốt nhất. Anh lau dầu, thay bi
moay-ơ, trục, phuốc. Anh rút lại dây phanh. Anh mang theo kìm, cờ-lê, nhựa vá.
Anh bảo Ngọc: Yên tâm rồi. Chỉ còn mỗi đứt xích là chịu thôi.
Lời Bình rất độc. Xe đứt xích. Đứt xích lúc
Ngọc đầm đìa mồ hôi gò lưng leo dốc, những cái dốc đường rừng ngủ mơ thấy cũng
sợ. Cái xích quá cũ. Đạp cứ cời lên. Lên dốc nó không chịu nổi. Chữa ở đâu đây.
Bốn chung quanh là rừng núi. Hai người dắt xe đi mãi mới thấy một quán sửa xe
ven đường vắng vẻ. Sung sướng, mừng rỡ như vớ được của.
Sửa xong xe lại mải miết đạp. Không ai nói một
câu. Đường heo hút, cô quạnh. Tới một chỗ gió mát. Bến đò kia rồi. Ngọc động
viên anh:
- Qua bến đò đi bảy cây số nữa là đến thôi.
Hai người dừng xe thở. Triều xuống kiệt. Chỉ
thấy một dòng nước mãi xa. Một con đò cắm mãi xa. Còn là bãi sa bồi thoai thoải.
- Mày không thể hình dung được cảnh buồn như
thế nào. Mặt trời đã lặn. Phía xa một dòng nước không biết về đâu. Bãi sú...
Tao cởi dép, xắn quần vác xe có bọc tiếp tế lội xuống bãi lầy. Lút đến gối.
Ngọc vác xe không. Rút mãi mới kéo được chân lên. Cái xe đè ở cổ. Loạng choạng.
Lội mãi tới nơi. Lúc lên đò phù sa ở chân trơn suýt ngã. Ông lái đò cởi trần
chít khăn đầu rìu, chắc như nắm cơm, đen đủi, phong sương chống sào đẩy thuyền
ra. Đến giữa sông mới hỏi: "Sao cô chú đi muộn thế" Hẳn là ông ta đã
chèo đò ở đây bao năm rồi và ông biết những khách qua đò của ông sẽ đi tới chốn
nào. Chúng tao vác xe lội bùn lên bờ, còn nghe thấy ông ấy nói: "Đạp
nhanh, không tối đấy, Hai thằng lại mải miết đạp. Rừng chiều buồn thật. Càng
buồn vì đường đi đến nhà tù. Tới trại, Ngọc còn phải lo biết bao việc: Trình
báo giấy tờ. Mượn nồi nấu cơm ăn tối và để sáng mai nấu cơm nếp cho mày... Đêm
ấy dù đạp xe mệt nhừ người, nhưng chẳng làm sao ngủ được. Tao nằm gian đầu này.
Ngọc nằm gian đầu kia. Chỉ mong trời sáng. Chưa sáng đã mở cửa đi về đầu nhà
phía Ngọc. Tao gọi: "Ngọc dậy chưa? " Bà ấy trả lời ngay giọng rất
tỉnh táo: "Anh Bình đấy à? " Và mở cửa ngay. Thì ra bà ấy cũng không
ngủ và đang ngồi chờ sáng.
Hắn cắn môi. Cắn chặt môi để khỏi thở dài. Vì
hắn lại thấy nhói đau. Lần ấy ra gặp mặt, trông thấy Bình mà nước mắt hắn cứ
trào ra. Đấy là lần duy nhất hắn khóc - mà khóc vì trông thấy Bình. Gặp Ngọc,
hắn chưa khóc bao giờ. Hắn khóc vì hắn đã làm bạn vất vả, vì những điều khổ ải
hắn đã chịu vì thương cho thân phận hắn và vì bất lực trong uất hận. Hàn khóc
vì Bình lên thăm hắn, vì cuộc đời vẫn dành cho hắn những điều tốt đẹp đến thế.
Hắn cắn môi vì thương Ngọc. Giá Ngọc lấy người khác thì đâu đến nỗi.
Theo chồng về biển, biển ly loạn
Thương cho đời mẹ, hận cho chồng
Những câu thơ của ai đó hắn vẫn đọc cho Ngọc
nghe, không ngờ lại là sự thật.
- Lần đần tiên tao thấy một trại tù. Tao cứ
nhìn lối đi vào trại mà nghĩ, mà tưởng tượng mày đang nằm trong ấy. Không biết
trong ấy thế nào. Đúng là một thế giới khác, bí mật, không ai có thể biết. Tao
chỉ muốn được nhìn thấy chỗ mày ngủ, được sờ vào cái bờ rào nhốt mày. Lại cái
đận lên V.Q. Tao choáng người vì nó bảo mày cải tạo không tốt, không được gặp.
Tao công nhận Ngọc bình tĩnh. Không có gì tỏ ra buồn hay thất vọng, mặc dù tao
biết Ngọc choáng như thế nào. Tao cũng choáng cơ mà. à, cái tay thượng sĩ ấy
tên là gì nhỉ?
- Ông Thanh Vân.
- Tên hay đấy nhỉ! Nghe quê đặc. Cố làm ra
tỉnh, nhưng vẫn lộ chất quê ra. Ngẫm cho cùng tay ấy là người tốt.
Hắn cười:
- Khi tốt, khi xấu, chẳng biết ra làm sao.
Giáo giở nhỉ thời tiết vậy.
Ông Thanh Vân, ông Quân, ông Lâm... Những con
người tạo thành kiếp trước của hắn. Hắn mới xa các ông ấy chưa được nửa tháng
mà như đã lâu lắm rồi. ở đây thời gian không được đo bằng chiều dài thông
thường. Một ngày không phải tính bằng một vòng trái đất tự quay quanh trục.
Thời gian được tính băng chất lượng cuộc sống.
Hình như phải đến hai tháng sau khi được tha,
hắn mới được hộ khẩu. .
Anh hộ tịch cầm quyển sổ họ khẩu đến tận nhà
đưa cho hắn, kèm theo giấy mời hắn ra đồn. Đồn phó Nguyễn Thị Yên ký. Vậy là
hắn đã được đăng ký hộ khẩu. Quyển hộ khẩu do Ngọc đứng chủ họ. Dòng chữ ghi
tên hắn ngay dưới tên Ngọc đã bị xóa đi - Một dòng chữ bên cạnh: Đi cải tạo
ngày 08- 11- 1968. Nay tên hắn dưới tên bé Dương. Dòng cuối cùng Một hàng chữ
ghi chú: Đi cải tạo về ngày... tháng... năm... Bây giờ lại là một giai đoạn
mới. Đến phòng lương thực xin tiêu chnẩn gạo. Đến phòng thương nghiẹp xin tiêu
chuẩn thực phẩm, công nghệ phẩm. Rồi về cửa hàng gạo đăng ký, cửa hàng thực
phẩm đăng ký... ở đâu cũng một chồng sổ cao, ở đâu cũng dày đặc người. ở đâu
cũng là khổ ải? Những chuyện đó làm được đến đâu thì làm. Từ từ cũng được. Quan
trọng nhất là hộ khẩu. Hắn đã làm xong. Và hắn ra đồn theo giấy hẹn.
CHƯƠNG 36
Hắn đến đồn đúng giờ. Cái giờ hẹn lửng lơ:
Chín giờ sáng. Hắn đưa giấy cho anh công an thường trực. Người thường trực chỉ
vào buồng trong. Phòng trong đông người. Những bộ sắc phục công an màu vàng bao
giờ cũng làm hắn nhớ đến những năm tháng vừa trải qua ở các nhà tù. Những giây,
phút, giờ, ngày, đêm, tháng, năm ấy dù đã qua rồi nhưng vẫn chưa đi vào kỷ
niệm. Nó lừng lững bên hắn. Đổ bóng xuống hăn như đỉnh Phan Si Pan chất ngất đổ
bóng xuống người đứng ở dưới chân.
Bà Yên một phụ nữ còn trẻ, thu lại cái giấy do
chính bà ký và đưa hắn vào một phòng bên cạnh. Một người mạc thường phục đang
ngồi trước bàn làm việc chờ hắn.
Hắn có trấn tĩnh để đứng vững.
Để khỏi ngã.
Để khỏi bật ra một tiếng kêu thảng thốt.
Để bình tĩnh nhìn vào định mệnh.
Ông Lan! Hắn lại nhìn thấy ông Lan. Hắn nhìn
thấy ông Lan đang ngồi chờ hắn. Bà Yên ngồi xuống chiếc ghế ở đầu bàn. Hắn ngồi
xuống cái ghế đối diện với ông Lan, theo lời mời của bà Yên. Hắn hiểu bà Yên-
chỉ ký giấy mời hắn ra dồn. Người đối thoại với hắn là ông Lan.
Ông Lan vẫn như vậy. Nghiêm khắc. Không có
tuổi. Sắc lạnh. Quyền uy. ý thức được công việc mình làm là cao cả thiêng
liêng. Vững tin ở sức mạnh trong tay để bắt hắn quy phục dù hắn có cựa quậy,
chống đối. Ông hỏi thăm tình hình hộ khẩu của hắn, tem phiếu của hắn. Đấy quả
là điều quan trọng nhất đối với cuộc sống con người, đối với hắn. Nhưng hắn
hiểu ông Lan không quan tâm đến điều ông vừa hỏi. Ông thừa biết hắn đã được hộ
khẩu. Câu hỏi thăm nhập đề của ông dịch nghĩa ra là lời kể ơn: "Chúng tôi
đã tạo điều kiện thuận lợi cho anh”. Hắn thành thật cảm ơn ông Lan, bà Yên, cả
Sở Công an nữa về điều ấy. Khi cầm quyển sổ hộ khẩu có tên hắn. hắn đã thấy nét
mặt Ngọc sáng lên như thế nào. Điều ấy mang giã trị to lớn về mặt pháp: công nhận
hắn dủ tiêu chuẩn nhập hộ khẩu thành phố bảo dảm mọi tiêu chuẩn cho hắn như
những công dân khác, xác nhận hắn được ở với vợ con hắn.
Có thể ông Lan tin những lời cảm ơn của hắn là
thành thật vì ai cũng biết điều ấy mang lại cho hắn nhiều thứ cơ bản lắm. Ông
hỏi về dự kiến tổ chức cuộc sống của hắn. Hãn thở dài. Hắn cũng chưa biết sinh
sống bằng cách gì. Vấn đề đó sẽ phải nghĩ đến, nhưng bây giờ thì chưa. Hắn cũng
còn một ít tiền. Tiền các anh chị cho. Bình cho. Mười cân gạo của bố mẹ mà Ngọc
đèo đi. Một người anh em kết nghĩa của anh Chân là thợ gò, rất quý hắn cho hắn
những năm chục. Quần áo cũng kha khá. Mỗi người cho một bộ. Hơn nữa hắn lại
quen kham khổ. Ngọc cũng vậy. Cả lũ trẻ nữa. Đều quen kham khổ.
Hắn chẳng cần thuốc men bồi dưỡng. Hắn chỉ cần
nghỉ ngơi ít ngày. Hắn lễ phép nói với ông Lan:
- Thưa ông, tôi cũng chưa nghĩ được rằng mình
sẽ sống bằng cách nào. Làm gì để sống. Không ngờ được gặp ông hôm nay, tôi xin
ông cho tôi xin lại số bản thảo của tôi. Đó là công sức mười năm lao động của
tôi.
Ông Lan nghiêm khắc nhìn hắn:
- Chúng tôi sẽ trả anh vào một thời điểm thích
hợp.
Đó là một cách nói không cho bàn cãi, van xin.
Như cách nói của một ngườl giàu có đuổi người ăn mày ngày nào cũng được mình
cho của bố thí nay lại đến quấy rầy trong lúc đang ăn.
- Đi đi, để lúc khác.
Hắn dị ứng với hai tiếng thời điểm của ông.
Một cách hẹn trả để không bao giờ trà. Hắn biết nói nữa cũng vô ích. Hắn ngồi
im. Ông Lan động viên hắn ở nhà tích cực chấp hành chính sách, nhìn về tương
lai. Con cái hắn đã lớn đang cần sự có mặt của hắn, của người bố. Chính vì vậy
mà Sở đã để cho hắn về. Và tin rằng hắn sẽ biết rút kinh nghiệm, trở thành
người công dân tốt.
Điều nhân đức của ông làm hắn nhếch mép cười.
Không kìm giữ được, hắn nói thẳng với ông Lan.
- Thưa ông. Việc đầu tiên tôi phải làm là
trình bày vấn đề của tôi trước Đảng. Điều ấy chứng tỏ tôi còn tốt, tôi vẫn có
lòng tin. Nếu tôi không đặt vấn đề ra để Đảng xem xét lại nữa thì tôi xấu rồi,
tôi mất lòng tin rồi.
ở đồn công an về, hắn cứ bàng hoàng mãi. Hắn
không ngờ lại gặp ông Lan. Không ngờ số phận hắn gắn chặt với ông Lan đến thế.
Ông Lan vẫn không buông. tha hẳn. Vẫn không quên hắn. Năm năm rồi ông vẫn không
quên hắn. Cả khi hắn đi các trại. Cả khi hắn được tự do, hắn được ra tù. Hắn
hiểu quãng đời còn lại của hắn thế là hết. Bởi vì nó gắn chặt với ông Lan, với
Sở Công an. Họ không rời hắn. Như Gia- ve không chịu rời Jean ValJean. Không.
Không đúng. Sự so sánh ấy khập khiễng. Jean Valjean ít ra còn có tội. Hắn thì
không. Chưa ai buộc tội hắn. ông Lan cũng không phải là Giave. Thật ra Giave là
một cảnh sát rất có trách nhiệm, tận tụy và vô cùng trung thực. Đất nước này
đang cần những Giave.
Gặp ông Lan hắn lại nhìn rõ những ngày hắn mới
bị bắt. Hắn cùng ông Lan soạn đống bản thảo. Phòng hỏi cung vắng vẻ. Dãy xà lim
76 hoang vắng. Dãy xà lim 75 tối tăm. Những trại tù. Những người tù mòn mỏi và
những vùng rừng trùng điệp heo hút.
Và điều khủng khiếp nhất đã đến với hắn trong
suốt một thời gian dài sau đó. Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp lại bạn tù
cũ. Nhìn những người đi trên đường, hắn giật mình: "Quái nhỉ. ở trại nào
nhỉ. Quen quá. Không biết đã gặp ở đâu rồi. Được về bao giờ nhỉ".
Những người đi trên đường khóng một ai cười.
Giống nhau. Xam xám. Đăm chiêu. Khắc khổ. Suy nghĩ. Uể oải. Mệt mỏi. Đi mà
chẳng nhìn thấy gì, chỉ thấy nỗi lo mang nặng trong lòng. Đi như co người lại.
Như kéo lê quá khứ. Và sợ hãi tương lai.
Đó là một cảm giác kỳ lạ. Hắn luôn gặp những
khuôn mặt tù quen quen. Những khuôn mặt tù ngờ ngợ. Không biết ở trại nào. Hẳn
họ cũng như hắn. Mới được ra trại. Thoạt đầu hắn cho là hắn mắc bệnh quên. Trí
nhớ hắn suy giảm, nên hắn không nhớ được những người bạn tù ấy.
Nhưng rồi hắn giật mình: "Chẳng lẽ lại
nhiều người đi tù về đến thế. Đất nước lắm người đi tù đến thế? ”
Và hắn hoảng lên: “Mình hỏng mất rồi! Đầu óc
mình hỏng mất rồi”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét