1.
Giã Từ Hỏa
Lò
Mưa vẫn nhì nhẹt rả rích lê thê, gió Đông hàn từng làn tái tê,
vẫn gầm rít vi vu, cả bầu trời xám xịt đìu hiu. Chiếc xe vẫn nặng nề, lầm lủi
tiến ra ngoại thành, phía Bắc Hà Nội.
Từ nãy, tâm tư tôi đầp
ắp bao nhiêu nỗi niềm đầy vơi trong nỗi chia cắt, mối yêu đầu của người con gái
đất Hưng Yên nhiều màu mỡ và trong cảnh giã biệt Hỏa Lò, nơi sáu năm dài đằng
đẵng, chồng chất bao nhiêu cuồng phong bão tố của đời tôi.
Những hình ảnh lúc chia
ly ở cổng Hỏa Lò, đang bao trùm đè nặng tâm trí tôi. Mắt tôi mở nhưng như mơ,
chẳng nhận rõ vật gì, thì đột nhiên một tiếng quát giật giọng “Đứng lại” của
một tên công an vũ trang, làm tôi bàng hoàng như choàng tỉnh một cơn mê.
Chiếc xe ọp ẹp cũ kỹ
đang từ từ ngừng lại. Nhanh như một con sóc, tên công an vũ trang vừa quát đã
nhảy xuống đường. Tên cảnh sát ngồi ở trên chỗ tài xế cũng đã nhảy xuống theo.
Hai tên đang hộc tốc đuổi theo một chiếc bóng con con chạy lủi vào một đám cây
xanh, phía bên phải đường. Thì ra đây đã là con đường lên Hòa Bình, đã xa Hà Nội
rồi.
“Đoàng!” Một tiếng súng
nổ rổn rang vào mưa Đông, rồi hai tiếng súng nữa liền nhau. Một tiếng hét rống
lên như con dê bị thọc tiết, trải dài vào mưa gió nghe thật thê lương thảm
thiết. Trong xe ồn ào, nhiều đứa trẻ nhấp nhổm nhớn nhác. Tên công an vũ trang
còn lại trên xe vật ngang khẩu CKC, lách cách lên đạn quát:
- Tất cả chúng mày ngồi
im, đứa nào lộn xộn tao xử lý!
Lúc này tôi mới để ý
toàn bộ trong xe; ngoài gần hai chục đứa nhừng nhừng nhỡ nhỡ lại có sáu, bảy
đứa con gái, trong đó có hai đứa lớn, mười lăm, mười sáu tuổi. Tôi nhớ lại lúc
ở cổng Hỏa Lò, khi lên xe vì tay tôi bị khóa thằng Trung Lý Thu đã quát con
Thanh Móm:
“hãy ôm gói đồ cho chú
Bình”.
Thế mà tâm hồn tôi đã
bị người Hưng Yên cuốn hút hết, đến bây giờ con Thanh Móm ôm gói đồ quần áo của
tôi, ngồi ngay bên cạnh mà tôi đâu có để ý.
Tôi lướt mắt nhìn thằng
Trung Lý Thu, thằng Tiến Ga, con Tuyết Còi và con Thanh Móm, những đứa lớn nhất
và có vẻ tinh nhanh nhất, đứa nào cũng ngồi yên phăng phắc, mắt đều lấm lét
nhìn qua làn mưa giăng về phía những tiếng nổ và tiếng thét khi nãy.
Kia rồi, trong màn mưa
bay dầy hạt, từ phía một cái hủng đất cây lá rậm xì, một bên là tên công an vũ
trang, một bên là tên cảnh sát ở Hỏa Lò đang xách hai tay của một đứa nhỏ,
chừng mười bốn mười lăm tuổi. Người nó ốm nhom như con chão chàng. Một bên mắt
sưng tím gồ lên như một quả ổi, máu đang rỉ ra theo nước mưa chảy xuống đỏ cả
mặt. Chiếc chân phải đã gãy lìa từ dưới đầu gối, lủng lẳng trong ống quần, cũng
đã bị rách còn dính một tí. Chiếc ống quần đỏ lòm lẫn với bùn đất của nó, đang
dật dờ nhấp nhô theo chỗ đất cao thấp mà hai tên công an đang kéo lê đi.
Mấy tiếng ồn ào thốt ra
từ lũ trẻ đang ngồi:
”thằng Hoàng Sún chợ
Mơ”.
Đã về đến xe, mắt thằng
Hoàng nhắm nghiền, mồm dề ra méo xẹo, vẫn rên rỉ:
- Lạy các chú tha cho
cháu, cháu xin chừa, cháu muốn về với mẹ cháu!
Từ ở trong mấy đường
hẻm, hai bên đường đã có năm sáu tên du kích đeo súng ống nhớn nhác chạy tới.
Những cặp mắt mở to băn khoăn, háo hức muốn biết là chuyện gì. Một chiếc xe
Commanca bộ đội chạy ngược chiều, đến đó cũng dừng lại. Ba bốn tên đeo quân hàm
trung úy, thiếu úy chạy bổ sang ngơ ngác. Chúng nhìn toàn bộ suốt lượt trên xe,
rồi nhìn thằng Hoàng Sún, bây giờ đã được xách bỏ lên phía cuối xe. Quần áo ướt
át đầy bùn đất, lẫn với máu đang gào ư ử như con lợn bị cắt tiết đã ra gần hết
máu, miệng nó vẫn thều thào hổn hển ngắt quãng:
-
Lạy…các…chú…tha…cho…cháu!
Tên cảnh sát Hỏa Lò
quay lại lạnh lùng nói với những tên bộ đội và du kích như muốn xua đuổi đi:
- Có gì đâu, trốn tù
đấy mà!
Nhưng một tên trung úy
bộ đội, chừng ba mươi tuổi nghiêm mặt, tay chỉ vào chiếc chân gẫy của thằng
Hoàng Sún:
- Đồng chí phải đưa nó
vào bệnh viện băng cho nó ngay. Máu ra và bùn đất thế kia thì nó chết mất!
Mấy tên công an tỏ vẻ
rất bực bội, cuối cùng tên cảnh sát Hỏa Lò nhìn thẳng vào tên trung úy gằn
giọng:
- Chúng tôi có công vụ
đặc biệt, không phải đi chơi!
Nói rồi y ra hiệu tay
cho tên công an vũ trang:
- Lên xe đi, muộn rồi!
Xe đã chuyển bánh.
Những tên bộ đội và những tên du kích nét mặt người nào cũng trầm tư, vẫn đứng
dưới mưa bay nhìn theo chiếc xe. Họ nghĩ gì, thì làm sao tôi biết được. Nhưng
có một điều, dù họ có nghĩ gì chăng nữa cũng không thể rời khỏi cái nồi cơm, là
chỗ họ đang đứng hiện nay trong xã hội này.
Tiếng máy xe già cũ kỹ
vẫn rống lên trên con đường lồi lõm đầy ổ gà, cũng không làm át được tiếng rên
đau đớn, quằn quại, nghe đến não nùng của thằng Hoàng Sún.
Nhìn bàn chân gãy đã
xám đen trong bùn và máu; nhìn chỗ đầu gối nó một mảnh xương vỡ nhọn hoắt phủ
mấy miếng thịt lầy nhầy đã xám ngoét, máu vẫn rỉ ra, người tôi nóng lên. Liếc
nhanh hai tên công an, thằng Trung Lý Thu; rồi nhìn đôi tay trong khoen cùm,
tôi mạnh bạo quay sang con Thanh Móm nói to:
- Cháu cởi bọc của chú
ra lấy một cái quần trại đưa cho thằng Thu nó quấn buộc chặt phía trên đầu gối
cho nó, đừng để máu chảy mãi!
Con Thanh hơi rụt rè,
lấm lét nhìn tên vũ trang, nhưng rồi nó đứng dậy làm ngay. Thằng Thu lách ra
khỏi chỗ, hăm hở buộc quấn cho thằng Hoàng Sún. Hai tên công an mặt vẫn lạnh
lùng, không nói một lời. Chúng vờ quay đi nhìn cảnh vật hai bên đường. Thấy
vậy, thằng Tiến Ga cởi ngay cái ruột áo bông nó đang mặc, đắp cho thằng Hoàng.
Bây giờ mặt thằng Hoàng
đã xám đen lại; vết thương ở trên mắt nó không còn chảy máu nữa. Có mấy đứa
thốt lên “nó chết rồi”, nhưng một tiếng rên ai oán như xé tim người nghe, rồi
vẫn những tiếng thều thào, lảm nhảm không rõ:
Lạy… chú…!
Chúng tôi đều đưa mắt
nhìn nhau, mặt rầu rầu. Con Thanh Móm và một đứa con gái nhỏ nước mắt đoanh
tròng. Nhiều đứa khác, mắt cũng đỏ lên. Con Thanh gục hẳn vào vai tôi, vai nó
cứ run lên thổn thức. Có lẽ nó cũng chạnh nỗi niềm cho cuộc đời lầm than gió
bụi không nhà không cửa của nó chăng? Chính tôi, lòng cũng quặn thắt, rối bời.
Nhìn quê hương, dân tộc
lầm than rên xiết, rồi nghĩ đến chính mình, tấm thân tù tội đang đi vào rừng
sâu nước độc tăm tối nơi đâu. Nhìn những giọt nước mắt thơ ngây thổn thức vơi
đầy của chúng, tôi có cảm nghĩ rằng đây cũng là nước mắt của tôi đang khóc cho
quê hương, tuổi trẻ và cuộc đời.
Đột nhiên thằng Hoàng
Sún thét rống lên một tiếng rồi giãy đành đạch. Mắt nó mở to trợn trắng dã, làm
những đứa ngồi gần nó xô dúm lại với nhau. Mồm nó cứ nhóp nhép nói kêu cái gì
đó nhưng không nghe thấy tiếng. Đôi tay và chân nó xuội dần rồi im bặt. Hai bên
mép nó rỉ ra hai giòng máu tím xậm. Đôi mắt chỉ còn lòng trắng cứ tưởng như
đang ngước lên nhìn tên công an vũ trang ngồi trên ghế, chếch phía đầu nó để
xin chú tha cho.
Chiếc quần trại của tôi
quấn buộc chỗ đùi nó, bây giờ ướt đẫm máu. Những đứa con gái bắt đầu kêu gào,
khóc râm ran cả lên. Ngay nhiều đứa con trai cũng la hét om sòm. Bây giờ thì
chính mắt của tôi cũng thấy cay cay, cồm cộm rồi.
Xe đỗ lại, tên chuẩn úy
cảnh sát Hỏa Lò mở cửa xuống xe. Y tiến lại nhìn vào xác thằng Hoàng Sún lúc
này đã nằm duỗi dài phía sát cuối thùng xe. Mồm tóm tém, mắt y quắc lên sắc
lạnh:
- Chúng mày khóc cái
gì? Im ngay! Đứa nào muốn trốn, trông gương đấy, tao sẽ bắn bỏ hết!
Tiếng quát của y đã làm
tụi trẻ con im bặt, đưa những đôi mắt trắng dã lấm lét sợ sệt nhìn y. Hai tên
công an vũ trang và y lùi ra bàn với nhau một lúc, trong khi tên tài xế chừng
bốn mươi tuổi, cũng mặc bộ đồ vàng công an nhưng không đeo quân hàm, đi xuống
cúi vào nhìn xác thằng Hoàng rồi lại lạnh lùng lên xe ngồi. Hẳn y đang cho đây
cũng chỉ là một câu chuyện bình thường, y có lạ đâu.
Đã gần mười giờ, mưa
bay đã tạnh, trời hừng sáng dần. Chúng trao đổi với nhau lâu lắm. Có lẽ chúng
thấy để xác thằng Hoàng trên xe, không có cái gì che đậy mà đưa đến trại sẽ tác
động đến tư tưởng của nhiều đứa khác, lại còn ảnh hưởng đến chính trị nữa. Cuối
cùng tên chuẩn úy, một mình đi rẽ vào một đường giong về phía làng xóm bên
trong.
Một tên công an vũ
trang ra phía hông xe đem theo một cuộn dây thừng dài, hì hục buộc những mép
bạt. Chỗ khi sáng thằng Hoàng đã lợi dụng lúc xe chậm chạp bò lên dốc, nhẩy
xuống chạy trốn.
Khoảng nửa giờ sau, tên
chuẩn úy Nhượng (Tiến Ga đã cho tôi biết tên, y mới đổi về Hỏa Lò) từ trong
đường hẻm đi ra với một tên khoảng ngoài bốn mươi mặc áo bốn túi. Theo sau có
hai tên thanh niên du kích cắp một chiếc chiếu rách. Chắc chúng đã trao đổi với
nhau từ trước. Đến xe, sau khi tên mặc áo bốn túi ngó qua xác thằng Hoàng, y
hất hàm ra hiệu cho hai tên du kích nhấc xác thằng Hoàng, bỏ vào chiếc chiếu đã
trải sẵn dưới đường. Chúng quấn lại rồi mang vào một đường hẻm khác chỗ nhiều
cây cối rậm xì. Tên mặc áo bốn túi còn đứng lại nói gì một lúc với tên Nhượng
rồi mới đi theo về phía hai tên du kích.
Xe lại bắt đầu chuyển
bánh. Tôi nghĩ đến chiếc quần của tôi sẽ theo thằng Hoàng về lòng đất lạnh, rồi
tôi liên tưởng đến những tiếng kêu xin của thằng Hoàng trước khi chết. Bây giờ
nó đã đạt được ý nguyện là các chú đã đồng ý thể hiện lòng nhân đạo của Đảng,
tha cho nó về với mẹ!
Chuyện của thằng Hoàng
cứ ám ảnh lòng tôi. Tôi cúi gầm, óc cứ miên man suy nghĩ về những cảnh đời, của
những kiếp người thì có tiếng thì thào vào tai tôi:
- Bố mẹ nó ở chợ Mơ. Bố
nó là bộ đội phục viên đấy chú ạ!
À thì ra thằng Trung Lý
Thu. Trong lúc lộn xộn nó đã len lách ngồi bên cạnh tôi từ lúc nào. Tôi liếc
nhìn tên công an, rồi quay lại cũng nói nhỏ:
- Cháu hãy nhớ lấy địa
điểm này, khi nào được tha ra nhớ về báo cho bố mẹ nó biết.
Nó đặt một tay lên
chiếc còng số 8 của tôi vừa mân mê vừa nói thì thầm:
- Chú yên trí, chẳng
cháu thì nhiều đứa khác nó cũng về báo.
Trẻ con thì cũng thường
dễ vô tâm. Mới lúc nãy, đứa thì khóc, đứa thì kêu, dúm dó sợ sệt, thế mà bây
giờ đã lại trêu chọc nhau chuyện trò ầm ỷ, để tên công an vũ trang thỉnh
thoảng, lại phải quay vào đe nẹt.
2.
Đường Lên Núi Rừng…
Trời gần trưa đã hừng nắng. Tự nhiên một số đứa nhấp nhổm lố nhố
chỉ trỏ nhìn chéo về bên phía trái đường làm cho bao nhiêu con mắt đều hướng về
phía đó kể cả hai tên công an vũ trang. Tôi cũng nghểnh đầu liếc theo ra. Từ
chéo mải phía trong của một nghĩa trang “liệt sĩ” có hai ngôi mộ nằm song song
nhau, đất còn vàng au:
- Mả phi công Mỹ!
Lại có đứa nói:
- Mả phi công của ta
nữa!
Lung tung beng, tôi chả
hiểu ra sao thì thằng Thu đã ghé vào tai tôi thì thầm:
- Có gì đâu chú! Gần
hai tháng trước, ầm cả Hà Nội lên về chuyện màng lưới cao xạ phòng không ở Kỳ
Sơn này. Một buổi trưa thấy có hai máy bay quần đuổi nhau từ phía Hà Nội lên
đây. Họ tập trung cao xạ bắn như pháo rang. Cuối cùng hạ được cả hai cái đó.
Hai phi công lái hai chiếc máy bay đó đều bị chết. Nhưng có một điều là một phi
công của ta và một của Mỹ. Vì lộn xộn nên cũng không biết cái nào đuổi cái nào
và đều lầm tưởng là máy bay Mỹ cả. Nhất là lúc đó Hà Nội đang có trận không tập
của nhiều máy bay Mỹ. Vì vậy họ đã chôn cả hai viên phi công cạnh nhau, cùng
một nghĩa trang.
Khi xe đi rẽ vào một
con đường thì những đứa trẻ lại nhốn nháo lên; thì ra đã đến trại Kỳ Sơn rồi!
Lúc xe ngừng, trong lúc chúng ồn ào, í ới gọi nhau khi được lệnh xuống, tôi
chưa biết ra sao nên vẫn cứ ngồi yên.
Con Thanh Móm định mang
luôn cả gói đồ xuống cho tôi, thì tên chuẩn úy Nhượng đã hẩy tay ra hiệu:
- Anh ngồi lại đấy!
Chỉ một mình thằng
Trung Lý Thu kịp cầm tay tôi lắc lắc:
- Chắc họ đưa chú đi
trại trung ương. Thôi, chú đi khỏe nhé!
Tôi chỉ mỉm cười chào
lại nó, không nói một lời. Lúc này tôi mới thấy buồn heo hút. Nhìn đàn trẻ ríu
rít như đàn sẻ tranh nhau ăn, lòng tôi nặng chĩu bời bời. Biết thân mình trôi
dạt về đâu? Nhìn đôi tay chắp lại trong khoen cùm, đến những đàn trẻ đang xếp
hàng đôi đi vào cổng trại cho một tên công an đang cầm cái bút và quyển sổ điểm
số. Qua chiếc cổng trại bằng tre nứa ghép lại thành một cái khung có chòi gác,
tôi nhìn lướt vào phía trong. Có bảy tám dãy nhà tranh dài thượt cứ song song
hai cái một. Màu đất của sân, của vách còn ẩm sau trận mưa đêm hãy còn xám xịt.
Bao bọc chung quanh trại là hai hàng rào thép gai dựng cao chừng hai mét. Phía
ngoài, bên trái trại trong những lùm tre xanh um tùm, có bốn năm cái nhà cũng
bằng tranh. Một ngọn cờ máu, sao vàng đang lơ láo ngơ ngác, giẫy dụa trên ngọn
một cây luồng dài. Có lẽ đấy là khu của ban giám thị và công an vũ trang coi
trại. Nhìn sang phía phải của trại là hai dãy lều xiêu vẹo cột tre, không có
vách, trống trơn. Bảy tám con trâu gầy giơ xương. Mắt con nào cũng đầy rỉ, đang
nhai rơm do hai đứa nhỏ bốc từ một chiếc xe bò bên ngoài vào.
Một đoàn các cậu loai
choai đi hàng dọc, đang từ một con đường hẻm phía sau trại, tiến về phía cổng
trại; có một tên công an áo vàng vác súng đi phía sau. Cậu nào cũng è vai gánh
hai sọt sắn (củ mì) nặng trĩu, mặt đỏ gay.
Khi đoàn gánh gồng đi
ngang qua khu chuồng trâu, một cậu nháy mắt với một cậu đang bốc rơm cho trâu.
Cậu gánh sắn, cố lắc gánh đẩy rơi xuống đường một củ sắn bằng bắp tay. Cậu bốc
rơm, lợi dụng chờ tên bộ đội phải đi một khúc quành che khuất. Nhanh như một
con sóc, xông ra nhặt ngay củ sắn nhét vào cạp quần bên trong tà áo. Nhưng
không kịp nữa rồi, tên bộ đội cũng vừa thò mặt ra khỏi chỗ khuất đã nhìn thấy.
Y hộc tốc chạy lại quát:
- Mày vừa ra ăn cắp sắn
phải không?
Cậu ôm rơm, chừng mười
lăm hay mười sáu tuổi, hai cẳng chân đen đũi, khẳng khiu như hai ống nứa ngâm.
Mặt tái mét, hai tay chắp vào nhau vặn vẹo lúng túng:
- Thưa chú, cháu không
dám! Cháu chỉ ra…
”Bốp” một cái báng súng
CKC quật ngang vào hông đã chặn mất câu nói của cậu bé. Cậu ngã đổ vật ra bờ
cỏ. Củ sắn từ trong bụng lăn lông lốc ra ngoài. Tên công an định tiến đến đánh
nữa, trong khi cậu bé đang cong lưng lên, mồm méo xệch, mặt nhăn như chiếc giẻ.
Nhưng không biết y nghĩ thế nào, y chỉ cúi xuống nhặt củ sắn rồi đi theo đoàn
tù gánh gồng đang đặt những gánh sắn trước cổng trại chờ điểm số. Trước khi đi,
tên công an còn quay lại dứ dứ khẩu súng vào cậu bé đang nằm vặn vẹo.
- Ta tha cho, lần sau
đưa vào trại lập biên bản kỷ luật!
Một lúc sau, cậu bé mới
lào cào bò dậy. Hai tay ôm bên hông ngắc ngoẻo mà còn ngoái bộ mặt nhăn nhúm
lại những gánh sắn đầy ắp xa xa phía cổng trại, như luyến tiếc. Chân cậu chậm
chạp đi dần về phía chuồng trâu, khác hẳn với dáng điệu khi ra vồ củ sắn.
Ngồi một mình trên xe
cùng với tên công an, tôi ngẩn ngơ theo dõi cảnh đó bầy ra trước mắt. Một tiếng
thở dài không chủ định xì xì dần ra như muốn đẩy bớt nỗi tủi nhục đắng cay của
những cảnh đời trâu ngựa. Tôi liếc mắt nhìn tên công an đang dựa lưng vào thành
xe. Tay y hờ hững cầm khẩu CKC dựng trước mặt; mắt hướng về mấy ngọn tre đang
lắc lư với gió bên hông trại.
Giòng suy tư của tôi
vẫn cứ chìm nổi miên man, cho tới lúc nhìn thấy một anh chừng ba mươi tuổi, mặc
chiếc áo bông rách đã vá chằng vá đụp. Anh ôm một bọc quần áo cũ với hai nắm
cơm trèo lên xe. Anh chìa bàn tay sần sùi đưa cho tôi một nắm cơm bọc trong một
miếng lá chuối:
- Phần anh đấy, tôi cũng
đi trại đây!
Hai tay tôi giơ ra đỡ
nắm cơm; chưa kịp nói, hỏi gì thì đã nghe tên Nhượng ở dưới xe đã nghiêm giọng
nói với anh:
- Chiếu cố anh là thành
phần tự giác tiến bộ, tôi không khóa tay. Nhưng nếu trên đường đi anh lộn xộn
tôi sẽ xử lý ngay!
Anh mới lên, mặt tươi
hẳn ra, có vẻ xum xoe:
- Thưa cán bộ, cháu đã
được ban giám thị cho làm tự giác ở trại này một năm rồi. Án cháu chỉ còn một
năm nữa thôi, cháu chả dại đâu!
Nói rồi anh ta ngồi vào
một góc thùng xe, bẻ nắm cơm ăn với vẻ hí hửng ra mặt. Thấy thái độ của anh ta
như vậy, tôi trở nên rất lạnh lùng như một người câm không biết nói trên suốt
đường đi. Xe lại chuyển bánh rẽ ra phía đường cái.
Lúc này mới quá trưa
thế mà trời đã sầm lại. Phía Đông Bắc xám xịt, từng cuộn mây đen đang túa về
trùm lấp cả bầu trời. Một đàn cò trắng từ những triền đồi trọc phía ấy đang vội
vàng theo gió bay về chân trời phương Nam xa xa. Vài nếp nhà tranh chìm lần vào
những lùm cây xanh hai bên đường.
Mưa lại bắt đầu nhì
nhẹt rả rích của buổi cuối Đông. Từng làn gió bấc đẩy những luồng lạnh cắt da
vào xe. Không gian mờ mịt tím ngắt như cõi lòng tôi lúc này. Lạnh run, tôi muốn
lấy cái màn từ trong bọc ra quấn vào người cho đỡ rét, nhưng hai tay tôi loay
hoay mãi mà không mở được mấy nút buộc của chiếc tay nải. Chỉ vì tôi không ưa
anh ngồi cùng xe, nên nhất định thà chịu lạnh chứ không nhờ. Hình như anh ta
cũng thấy nét lạnh lùng của tôi, nên anh ta ngồi quay mặt về phía đầu xe, dựa
đầu vào thành xe nhắm mắt.
Bụng đói cật rét, người
tôi lạnh run lên. Dù hai tay bị khóa chặt tôi vẫn cố gắng gặm dần nắm cơm hẩm
với muối rang mà anh tù tự giác vừa đưa cho tôi lúc nãy. Xe đã chạy được gần
một tiếng. Có lẽ bây giờ cũng phải gần hai giờ chiều. Tôi đang nhắm mắt, người
vẫn dập dờn rung rinh theo chiếc xe đang lầm lủi trên con đường dài thì những
tiếng trống thùng thùng. Rồi tiếng loa gào ré lên: “Nỗ lực, tích cực, tất cả
cho vụ mùa Đông Xuân”. Tôi mở choàng mắt ra thì hai bên đường đã là những cánh
đồng lúa. Chung quanh xa xa đã có nhiều những dãy núi cao dựng đứng, mây đen
phủ kín ngọn. Một cánh đồng trải dài tới chân núi, đây đó đã có nhiều chỗ lúa
chín vàng. Hương nồng, ngào ngạt, của lúa chín, lùa vào đầp ắp trong xe.
Qua làn mưa giăng mờ
mịt, ở ngay chéo bên một con đường làng ăn ra đường cái, một đoàn đến hai mươi
người, đa số là đàn bà con gái. Người thì khoác áo tơi lá, người thì khoác
miếng nylon đang cúi gò lưng, bì bõm gặt lúa. Trên bờ cắm mấy lá cờ đỏ đang rũ
rượi vì ướt. Hai băng khẩu hiệu trắng chữ đỏ cắm ngay trên đường làng:
“Không bỏ trời mưa,
không chừa trời nắng”
“Không xa mặt trời,
không rời mặt trăng”
Một anh cũng khoác
chiếc ni-lông, đội mũ cối, cầm chiếc loa đi trên bờ đang hò hét. Xe đã chạy xa
rồi, tôi chỉ còn trông thấy chiếc loa khua lên, khua xuống nhưng không nghe
thấy lời. Nhìn cảnh người nông dân cặm cụi làm việc trong cái lạnh cắt da, tôi
chợt nhớ đến một bài học thuộc lòng khi tôi lên mười, hay mười một tuổi, học
tiểu học dưới chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” ở quê tôi:
“Hôm qua, hôm nay, lại
ngày mai.
Người dân quê còng lưng
cho khó nhọc.
Từ ngàn năm đè chĩu lấy
hai vai.
Họ làm việc, làm việc
và làm việc.
Từ tinh sương dậy trước
cả đàn gà.
Đêm tối mù giá lạnh
sương sa”.
Bài học thuộc lòng này,
những người cộng sản đã khêu gợi, nêu lên những nỗi đắng cay, lầm than, tủi
nhục của người nông dân dưới sự thống trị tàn bạo của thực dân phong kiến. Tuy
hai thời đại, nhưng vẫn cùng một cảnh đời. Có hơi khác. Cũng vẫn gò lưng bì bõm
đất trong mưa phùn gió bấc. Nhưng bây giờ có trống, có loa và có cả khẩu hiệu.
Còn một điểm khác nữa do công lao của người cộng sản: ngày xưa người nông dân
gặt lúa xong phải đưa về nhà. Còn bây giờ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt,
lương tâm của loài người thì người nông dân gặt xong được gánh lúa đó lên nhập
kho của nhân dân.
Mải đắm chìm trong mớ
bòng bong thế sự ngược xuôi, chiếc xe ngưng lại lúc nào tôi không hay. Cho đến
lúc thấy tên công an vũ trang nhẩy xuống đường rồi quay lại xẳng giọng:
- Đi xuống!
Tôi hơi bàng hoàng, vội
vàng kéo bọc quần áo về cuối thùng xe. Loay hoay mãi tôi mới xuống đất được.
Trời vẫn sụt sùi mưa bay nhè nhẹ. Một con đường đất chênh vênh ngoằn ngoèo chia
hai ba ngã. Nẻo nào cũng khuất hút vào những triền đồi bạt ngàn là sắn và khoai
lang. Ngay phía trái trên một bãi bằng rộng là một bức tường thành xây bằng đá
hộc cao 4-5 mét. Bên trên tường chăng nhiều đợt dây thép gai, nhiều chỗ đã ngã
xiêu vẹo. Dưới chân, lau, cỏ đã mọc có chỗ đến lưng bức tường. Ngay mặt đường,
cách khoảng 300 mét phía đầu xe là một chiếc cổng to xây kiên cố. Hai cánh cổng
không còn nữa. Bên mép tường chỉ còn lại những chiếc bản lề to tướng đã cáu rỉ.
Bên trên cổng là một
căn nhà lầu có nhiều phòng quét vôi vàng đã loang lổ. Nhìn chéo vào bên trong
cổng, không còn một căn nhà nào.
Rải rác đây đó là những
đống gạch vữa trên những nền nhà cao thấp, cỏ dại mọc um tùm. Chứng tỏ chỗ này đã
bỏ hoang phế hàng năm. Dù tôi chưa có ý niệm một trại tù tuy chưa biết vì sao
lại bỏ hoang.
Tên Nhượng sau khi đã
dặn dò người tài xế, y quay lại tôi và anh tù hình sự (dọc đường tôi đã biết,
khi nghe anh ta nói chuyện với tên công an vũ trang). Tay y chỉ con đường dốc
phía bên phải:
- Đi theo con đường
kia!
Đến lúc này tôi buồn đi
tiểu quá rồi nên tôi nói thẳng với y. Thật là buồn cười. Gần một ngày trời ngồi
chết dí ở trên xe thế mà y còn nhìn tôi với ánh mắt vừa nghi ngờ vừa khó chịu.
Cuối cùng, y quay lại tên vũ trang:
- Đồng chí đưa anh ta
đi tiểu!
Chỉ là một bụi cây dại
ngay gần cạnh mé đường, thế mà tên công an cũng phải cầm súng đi sát ngay phía
đàng sau. Thật là khó khăn lúng túng chỉ vì hai tay chặt cứng trong khoen cùm.
Tuy đau mỏi rã rời, tôi cũng phải mỉm cười: đi tiểu cũng có kẻ cắp súng theo
hầu. Hai tên công an to khỏe lực lưỡng, một tên súng dài, một tên súng ngắn mà
vẫn phải nể sợ một thằng tù gầy ốm khỏng khoeo. Chúng không dám mở khóa tay cho
tôi. Cũng vì vậy, trên đường đi tôi thật vất vả với bọc quần áo.
Đường dốc, ướt át trơn
như xoa mỡ. Từng luồng gió lạnh như kim châm vào da thịt. Cảnh núi rừng hoang
vắng trong mưa. Tấm thân gầy gập ghềnh bước cao, bước thấp ngã nghiêng. Đường
lầy lội có hai tay làm thăng bằng thì dễ đi. Hai tay đã chắp lại, rồi phải xách
gói đồ nên khi đến một đoạn chênh vênh ngang lưng đồi, tôi bị trượt chân ngã
nằm ngửa chơ hơ. Bọc quần áo tung mải vào vườn sắn bên cạnh đường. Quần áo tay
chân đầy bùn đất, tôi phải cố gắng nhiều mới đứng dậy nổi.
Chắc hai tên công an
cũng đã thấy nỗi cực nhọc, khó khăn của tôi. Phần khác, chúng thấy tôi đi thật
chậm chạp, tên Nhượng chỉ tay lớn tiếng với tên hình sự:
- Anh hãy ôm bọc quần
áo cho anh ta!
Tôi ngạc nhiên, vì thấy
mặt anh tù hình sự tỏ ra rất tươi, lăng xăng đến ôm gói đồ của tôi. Chỉ một lúc
sau tôi đã hiểu: Anh ôm gói đồ chẳng phải vì muốn giúp tôi mà là anh thích thú
được làm theo lệnh của tên công an.
Con đường đi dần vào
một rừng nứa rậm um tùm. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nứa rừng, rậm rạp với những
ngọn cao lêu nghêu đầy lá, đang vật vờ ngã nghiêng theo từng cơn gió. Những
cành lá rũ rượi lao xao, xào xạc như tiếng rền rĩ than van triền miên của núi
ngàn cô tịch. Vài tiếng chim hú lên, mãi trong rừng sâu càng làm cho lòng tôi
thêm lạnh. Những hạt mưa bay dồn cuốn vào nhau từng đợt phả vào mặt người như
xát muối. Đôi tay lạnh cóng trong khoen cùm cứ phải giơ ra ngoài mưa gió.
Xa xa chéo phía dưới
chân đồi trước mặt, một lá cờ đỏ ối đang vật vờ giẫy giụa, giữa cái nền xanh
đen bạt ngàn của núi rừng. Đây đó khuất nẻo trong những lùm cây, mấy dãy nhà
tranh thấp thoáng nằm rải rác chung quanh chiếc cột cờ mầu trắng.
Tôi cứ lần mò lê bước
trên con đường mòn gồ ghề chênh vênh ướt át. Khi đến một lối rẽ xuống một triền
đồi trọc, một đoàn tù hơn 30 người đang đánh luống trồng khoai lang ngay cạnh
đường đi.
Tôi bàng hoàng bâng
khuâng dõi mắt nhìn. Họ còn quá trẻ, chỉ từ 18 đến 25 là cùng. Quần áo đủ kiểu
lam lũ rách vá tả tơi, không đủ che kín những tấm thân gầy khẳng khiu co ro,
run rẩy trong mưa phùn gió bấc. Người cuốc, người xẻng, cứ hai người một luống
đất dài. Ở một góc xa, trong chiếc lều con ọp ẹp che bằng mấy tấm phên nứa, một
tên công an áo vàng đang ngồi chỉ trỏ gì đó với một anh tù đang đứng khóm róm
cạnh lều. Ngay trên đường, một tên công an vũ trang trùm kín cả người và súng
bằng một chiếc áo tơi nhựa mầu xanh bộ đội. Y đang đi đi lại lại coi đoàn tù
lao động.
Khi còn ở Hỏa Lò, tôi
đã được nghe nói nhiều về những người tù phải đi lao động ở các trại giam trung
ương. Nhất là khi tôi được biết, rồi tôi sẽ phải đi tù ở những nơi đó. Tuy vậy,
tôi vẫn chưa thể hình dung đầy đủ được những cảnh đời tù tội nơi núi rừng biên
cương hẻo lánh. Lúc tôi đi ngang qua, nhiều người dừng cuốc đưa những đôi mắt
trắng xám trân trân nhìn theo.
- Tù mới chúng mày ơi!
- Cán bộ thì phải!
Những âm thanh cụt
ngủn, dội lên rồi tắt ngủm trong mưa Đông. Họ sẽ nghĩ gì khi thấy súng dài,
súng ngắn áp giải một người bị khóa chặt đôi tay; lại còn có một người ôm bọc
quần áo theo hầu nữa.
Tên Nhượng, mắt vẫn
hướng về khu có lá cờ. Lạnh lùng, hắn không hề một lời chào hỏi tôi với người
đồng chí của hắn ở bên đường.
3.
Cố Nhân Bất Đắc Dĩ
Càng về chiều trời càng âm u, ảm đạm. Nhìn hình ảnh đoàn tù đói
khổ lao động bên đường, giữa rừng núi hoang vắng, tôi liên tưởng đến những ngày
tới của đời tôi. Những nỗi niềm ưu tư dâng đầy, bủa kín lòng tôi theo từng bước
chân lặn lội, gập ghềnh, rã rời trong mưa gió cho mãi tới khi rẽ ra một lối đi
khang trang, sạch sẽ. Một căn nhà lá, được dựng ngay bên bụi nứa nằm phía trái
đường đi. Tuy chỉ là một gian nhỏ, nhưng thật gọn đẹp, nền và vách còn au lên
mầu đất mới. Một chiếc băng con mầu trắng hình chữ nhật, kẻ hai chữ “phòng đợi”
mầu đỏ tươi, nét chữ thật mềm.
Tên Nhượng nói gì với
tên công an vũ trang áp giải tôi, rồi quay lại nhìn tôi, tay y chỉ vào vĩa hè
đất nghiêm giọng:
- Cho anh ngồi đây
nghỉ, chờ. Đi đái phải báo cáo ông cán bộ này.
Phần vì mệt nhọc, phần
vì tâm tư đang rối bời với bao nhiêu những bỡ ngỡ, lắng lo cho cảnh đời sắp
tới, nên tôi chỉ dạ khẽ, đầu gật nhẹ như đã thấy lời của y dặn, rồi tôi ngồi
bệt xuống vỉa hè của căn nhà. Vẫy tay ra hiệu cho tên hình sự đi trước, rồi y
quầy quả cắp cặp hồ sơ đi theo sau, trên con đường đất rất phẳng phiu không một
nhánh cỏ, dẫn vào khu nhà có lá cờ. Dọc theo hai bên của con đường nhỏ, thỉnh
thoảng lại thấy một bụi hoa vạn thọ hay thược dược. Có thể đây là khu nhà của
ban chỉ huy trại cũng không chừng.
Tôi liếc nhìn vào căn
nhà nhỏ. Ngay giữa nhà là một chiếc bàn và hai cái ghế dài còn mới. Trên đường,
dưới tấm hình lão Hồ râu dài là chiếc băng khẩu hiệu đỏ loét: tất cả cho miền
Nam ruột thịt.
Lúc này tôi mới để ý
đến tên công an vũ trang áp tải tôi từ Hà Nội. Y chỉ chừng 20 hay 21 tuổi. Nhìn
y đang vặt từng chiếc lá nứa non, ném xuống đường mương bên cạnh. Mắt y đang
bâng khuâng đờ đẫn hướng về mấy dẫy núi cao, mây mù phủ kín ngọn ở phía xa xa.
Tôi nhớ lại buổi sáng, lúc thằng Hoàng Sún trốn chạy, chỉ còn một mình y là
công an ở lại xe. Y đã lên đạn, hung hăng quát lũ lau nhau, trong đó có cả tôi
đang ngồi:
- Chúng mày ngồi im,
đứa nào lộn xộn tao xử lý!
Mặt y lúc ấy thật là
lạnh lùng cô hồn. Tôi ghét y từ đấy, nên suốt trên quãng đường đi, tôi chả thèm
gợi chuyện nói với y một lời. Nhưng bây giờ, nhìn mặt y còn non choẹt; hơn nữa,
thỉnh thoảng y liếc nhìn tôi với ánh mắt dìu dịu, xen lẫn nét băn khoăn, tò mò.
Để giải quyết cái sầu hoang vắng trên đất lạ, tôi mỉm cười nhìn y:
- Ông đã lên đây lần
nào chưa?
Y quay lại hơi ngỡ
ngàng, rồi dè dặt chậm rãi:
- Chưa bao giờ!
- Có lẽ ông Nhượng đã
lên đây nhiều lần? Ông ta chả phải hỏi thăm ai và rất quen thuộc đường lối.
Mở to mắt nhìn tôi, rồi
như một con rùa rụt cổ vào mai, mặt y đanh lại, im lặng không trả lời. Ngay khi
tôi vừa cất mồm lên hỏi, lưng chừng đã thấy, tôi thật quá lố, vô duyên. Cũng
may vừa lúc đó, một bóng người đang bước những bước dõng dạc tiến ra từ phía
khu nhà có lá cờ. Khẩu súng ngắn đeo trễ cạnh sườn y, đang lắc lư với những
bước thật dài của một thân hình cao lớn. Tay cầm mấy tờ giấy, khi y tới gần,
tôi chỉ thoáng thấy mấy dấu triện đỏ ối. Ve áo chỉ có chiếc lon hạ sĩ, thế mà
phong độ của y nghiêm nghị, lạnh lùng có vẻ như là một sĩ quan. Ngay từ còn ở
xa, y đã nhìn tôi chằm chằm; lúc tới nơi, y và tên công an vũ trang hơi gật đầu
chào nhau. Hất hàm về phía tôi rồi nhìn tên vũ trang, y buông một câu gọn lỏn
như ra lệnh:
- Đồng chí hãy mở khóa
cho nó!
Chẳng phải vì chiếc lon
hạ sĩ, mà chính vì tác phong của y đã làm cho tên vũ trang vội vàng, lấy chìa
khóa để mở còng tay cho tôi. Khi tên vũ trang vừa tháo xong còng, tên hạ sĩ
nhìn tôi, tay chỉ vào phía trong, khu nhà có lá cờ, gằn giọng:
- Ôm quần áo vào đó!
Tên công an vũ trang
sau khi đút chiếc còng vào túi áo mưa, quay lại, tươi nét mặt, chắc định nói
hay chào tên hạ sĩ. Nhưng mắt y đã chùng xuống nét sượng sùng, vì tên hạ sĩ đã
xoay gót đi theo tôi như quên mất y rồi. Mặc chúng nó đối xử với nhau, tôi nghĩ
vậy. Hai cánh tay và hai vai ê mỏi rã rời, tôi đứng dậy vươn vai mấy cái; đôi
tay đã mất tự do suốt từ sáng sớm ở dưới Hỏa Lò. Tôi ôm bọc quần áo chậm chạp
đi trước, tên hạ sĩ lẽo đẽo đi phía sau. Khi đi qua mấy căn nhà có vẻ khang
trang ngăn nắp; thấp thoáng mấy tên bận đồ vàng, nam cũng như nữ đang ngồi làm
việc bên trong, với những tiếng máy chữ tí tách liên hồi.
Chéo phía bên kia cột
cờ, chỗ có mấy luống hoa lớn là một căn nhà mái ngói đỏ au, mà sau này tôi hiểu
là một loại nhà “kiến thiết cơ bản” của miền Bắc. Tôi đang bâng khuâng tự hỏi,
từ nãy đến giờ, không hề thấy tên Nhượng đâu nữa, thì tên hạ sĩ phía sau giật
giọng:
- Rẽ phía phải!
Y dẫn vào một con đường
mòn, vòng ra phía sau một bụi nứa lớn, rậm um tùm. Ngay trước mặt là một căn
nhà bếp rộng, ngọn lửa trong lò hừng hực đun hai chiếc chảo lớn đang sôi sùng
sục, bốc khói nghi ngút. Ba, bốn chị phụ nữ quần đen, áo vải; người thì lặt
rau, người lúi húi quét dọn. Tên hạ sĩ dẫn tôi vào. Y chỉ cái phản gỗ, cạnh một
bể nước con:
- Anh ngồi đây, cấm
không được đi đâu!
Rồi y bước lên đường
hiên của một căn nhà cạnh đó. Mấy chị phụ nữ đều quay lại nhìn tôi với những
đối mắt tò mò, lấm lét. Tôi đưa mắt nhìn ra núi rừng bên ngoài; trời đã hết mưa
phùn, nhưng lúc nào cũng âm u, đầy sương mù. Tôi không thể đoán lúc này là mấy
giờ chiều. Một tên cán bộ áo xanh (công an vũ trang mặc đồng phục xanh, tới sau
hội nghị Paris, chúng mới mặc đông phục mầu vàng như công an) chừng 40 tuổi,
đeo lon trung úy, từ trong phía sau bếp đi ra, đến bên tôi. Chậm chạp, y hỏi,
giọng quê một cục:
- Ở “Hà lội nên” à?
Thấy nét mặt y không có
vẻ gì ác ôn lắm, nên tôi khẽ “dạ” như thừa nhận. Y quay lại mấy người phụ nữ,
ra vẻ băn khoăn như ngạc nhiên, sao không có vũ trang dẫn giải? Thì một chị đã
nhanh trí, chỉ tay về phía ngôi nhà trên:
- Báo cáo ban, cán bộ Ý
vừa lên đó!
Chị đang nói thì cũng
là lúc, tên Ý ở trên đó đi ra. Đến trước mặt tên trung úy, y chụm chân, giật
đứng người, giơ tay nghiêm chào, đúng tác phong quân sự. Tên trung úy gật đầu
nhè nhẹ:
- Đồng chí dẫn giải
“ló” vào trại E?
Rồi y kéo tay áo xem
đồng hồ, giọng lại thúc hối:
- Ba rưỡi rồi đấy, đi
ngay đi!
Trên đường đi, tuy đôi
tay không còn bị khóa, nhưng nhìn con đường mòn hun hút, chui mãi vào rừng sâu.
Hết đồi tre, lại nứa rồi lại đồi vầu; mới 3 rưỡi chiều mà sương lạnh đã phủ kín
chân đồi. Tâm tư nặng trĩu đầy vơi, tôi chớt nhớ đến một vần thơ hoa
mộng:“Chiều nay sương khói mờ nhân ảnh. Ai biết lòng ai…..”
Tôi đang đắm chìm,
buông hồn nhấp nhô theo từng bước chân, thì đột nhiên tên Ý đi sau nhẹ nhàng
cất tiếng hỏi làm gián đoạn nguồn tư tưởng của tôi:
- Ngoài cái tên Đặng
Chí Bình, anh còn cái tên gì khác nữa?
Tôi hiểu, có lẽ y thấy
suốt từ lúc gặp, tôi tuy lạnh lùng không nói, nhưng vẫn ngoan ngoãn làm theo ý
của y; hơn nữa, đường vắng chỉ có 2 người, buồn tình nên y hỏi tôi chăng? Vì
vậy, tôi cũng nhã nhặn:
- Tôi còn một tên nữa
là Lê Viết Hùng.
- Thế, tên nào là tên
thật, lúc còn nhỏ của anh?
- Dạ, Đặng Chí Bình!
Lâu ngày, nên đi đã
thấy mỏi chân, tôi đang định hỏi y trại E còn phải đi xa không thì tôi đã thấy
thấp thoáng, từ một lủng rộng xa xa, mờ mờ trong sương đục; một lá cờ máu đang
ngúng nguẩy, nhăn nhó trong gió chiều. Như vậy chỉ cách khu trại chính khoảng 2
cây số, đường chim bay. Lúc này thì khu nhà đó đã hiện ra, gồm 3 – 4 cái to,
nhỏ. Tuy rằng chỉ bằng gỗ, lá nhưng chắc hẳn là nơi ở và làm việc của ban chỉ
huy trại E. Vì tôi cũng đã nhìn thấy về phía trái không xa là một chiếc cổng gỗ
to, cao lênh khênh. Trên chòi, một tên công an vũ trang đang đeo súng ngồi bên
một chiếc kẻng sơn đen xì, làm bằng một cái vỏ của quả bom 50 kg.
Đến nơi, tên Ý dẫn tuột
tôi qua cổng, vào hẳn trong trại. Y chỉ khoảng sân trống, cạnh một bụi chuối
già phía trong cổng. Giọng y đã bớt lạnh lùng:
- Anh đứng đấy chờ!
Chân tiến đến khóm
chuối, nhưng mắt tôi đang chăm chú nhìn vào những dẫy nhà trong trại. Loáng
thoáng một vài người chống gậy, đang đứng ở hiên nhà nhìn ra, nên tôi cũng chả
trả lời tên Ý. Trước khi ra cổng, y còn ngửa cổ lên chòi, nói với tên công an
vũ trang gác cổng, cũng đang nghiêng đầu ngó xuống:
- Đồng chí cho gửi tên
phạm!
Rồi y cắp chiếc cặp
đen, bước những bước thật dài về phía khu nhà có lá cờ, ngay chéo cổng vài chục
thước. Tôi mệt mỏi, ném bọc quần áo xuống sân rồi ngồi lên trên trốc, mắt vẫn
vươn qua cái sân trại, hướng vào 3 ngôi nhà dựng theo một hàng dài.
Lúc này cảnh vật chợt
hồng lên, vì phía Tây mặt trời hơi ló ra khỏi đám mây dầy, để nhìn lại cảnh
chiều của núi ngàn. Một vài ánh nắng quái vàng ửng, nhún nhẩy trên mấy nóc nhà
và những ngọn nứa khô của cái hàng rào thật dầy, chung quanh trại. Tôi còn đang
mải mê nhìn một ông già tóc bạc phơ, lụ khụ chống gậy ở một góc sân, thì một
tên cán bộ đeo lon trung úy từ ngoài cổng đi vào. Một tay y cầm quyển sổ, một
tay cầm cái bút, tất tả đi vào giữa sân. Y chỉ tay vào chỗ 2 – 3 người đang
đứng sớ rớ trên hè, quát to:
- Vào gọi trật tự ra
đây.
Một tiếng dạ thật sốt
sắng, rồi một người nhanh nhẩu đi về phía cuối trại, trong khi tên cán bộ quay
lại phía tôi. Cái nhìn của y thật sỗ sàng, hách dịch để tỏ quyền uy. Có lẽ vì
tôi vẫn còn ngồi yên trên bọc quần áo, mà lẽ ra phải đứng dậy, khi thấy y đến.
Vì vậy, với vẻ hằn học y quát:
- Mở bọc quần áo ra, để
kiểm tra!
Thấy thái độ của y như
vậy, mặt tôi cũng lạnh lùng, không nói một lời. Ngồi xịch ra, tôi cúi xuống
loay hoay cởi chiếc bọc. Cũng chẳng có cái quái gì, vài bộ quần áo, một chiếc
màn cá nhân Phúc “Thổ” và Thọ “Lột” các cậu ấy chuẩn bị cho từ dưới Hỏa Lò. Khi
tôi đã mở tung bọc quần áo để rải ra sân, y hất tay lên người tôi:
- Cởi cả quần áo ngoài!
Tôi hơi cau mày, vì
trời rét lại ở ngoài sân, thì cũng là lúc mắt tôi chợt nhìn thấy tên trật tự.
Tay y xách một cái hộp gỗ con đang từ phía trong tiến ra, dáng dấp thật quen
thuộc. A, tên Tân, Phạm Huy Tân. Tên chó chết đã ăn cả vỏ chuối; đã gạ đổi
thuốc lá lấy cơm của tôi ở buồng số 4 xà lim II, Hỏa Lò. Đã gần 5 năm rồi, lúc
này trông y mập ra. Hai con mắt của y, hình như lồi ra hơn, có rất nhiều những
tia máu đỏ, nổi gân ngoằn ngoèo trên tròng trắng. Mãi đến lúc y đến sát chỗ
tôi, và khi tên cán bộ bảo y khám thật kỹ; đóng dấu vào hết quần, áo tư trang
của tôi, thì mắt y chợt sáng ra một chút, rồi trở lại lạnh lùng ngay. Tôi đã
hiểu, y đã nhận ra tôi. Ngay từ nãy, y cứ nhìn chằm chặp vào miệng tôi, chỗ 3
chiếc răng gẫy hàm dưới với đôi mắt vừa như băn khoăn, vừa như lạ lùng. Y ngờ
ngợ là phải, vì khi tôi và y ở buồng số 4 xà lim II thì răng tôi đâu đã gẫy.
Tôi trù trừ đắn đo một
lúc rồi, cũng đành phải cởi áo và cởi quần ra. Sau khi nắn nót, lục xét từng ve
quần, xống áo, y lấy con dấu bằng gỗ có hai chữ “cải tạo” to tướng, dầm vào một
cái khay đựng hắc ín đen xì. Tôi đã thấy cái ác ý của y là dầm thật đẫm hắc ín,
rồi mỗi ống quần một dấu; áo thì một dấu phía sau lưng và hai dấu, hai bên vạt
phía trước. Hắc ín đẫm đến nỗi, thấm cả sang những lần vải không đóng. Chỉ cái
mùng cá nhân con mà nó đóng đến 8 cái dấu. Hắc ín đen nhẻm, nhớp nhúa hết đống
quần áo. Mặt nóng lên bừng bừng, tôi định cho nó gục ngay xuống đó. Nhưng tôi
nhìn tên cán bộ và khung cảnh của trại giam, một niềm nhẫn nhục đã đè xẹp nỗi
uất hờn vào tim. Ngay khi còn từ Hỏa Lò, tôi đã hiểu tên Tân là một loại tiểu
nhân, đồng thời còn là loại Zoóc (antenne trong Nam) nỗ lực nhất nữa. Vậy từ
nay tôi sẽ chờ, khi có điều kiện hợp lý để giải quyết với nó.
Tuy trong lòng tôi đã
có chủ trương như thế, nhưng khi tên Tân đứng lên, xách hộp đóng dấu mang đi,
vẫn còn phải tránh ánh mắt, có lẽ hãy còn nhiều lửa của tôi.
4.
Người Xưa Mới Thật Là…Người Xưa
Nhớ lại khi nãy nghe tên cán bộ hỏi tên Tân thì hôm nay là ngày
15 tháng, như vậy chỉ còn 15 hay 16 ngày nữa là đã Tết rồi. Tụi cán bộ Hỏa Lò
để vừa đúng 15 ngày, hết hạn chống án, chúng đã vội vàng giải tôi đi ngay. Mà
chỉ đi có một mình.
Giòng tư tưởng của tôi
còn đang chảy dài về Hà Nội xa xôi thì tên cán bộ đã hối thúc:
- Ôm quần áo về buồng
rồi hãy xếp!
Rồi y chỉ chiếc chiếu
con và một chiếc chăn đơn đã nửa mục, khi nãy tên Tân đã mang đến:
- Chiếc chiếu và chăn
kia phát cho anh. Phải triệt để bảo quản tài sản xã hội chủ nghĩa.
Mặc y nói, tôi cắm cúi
túm vội bọc quần áo, rồi ôm chăn, chiếu đi theo y về phía căn nhà nằm ở giữa.
Tay ôm bọc quần áo, nhưng mắt tôi đã bị mấy luống hoa dài, nằm dọc theo phía
trước hè của mấy căn nhà cuốn hút. Nhìn thoáng qua những cánh hoa bách hợp, cúc
đại đóa đang lắc lư, rung rinh theo từng làn gió nhẹ như đón chào, đã làm cho
tâm hồn tôi giãn nở ra, bâng khuâng một vài giây trong cái dồn dập của buổi ban
đầu đến trại.
Tôi theo tên cán bộ
bước hẳn vào trong buồng. Căn nhà, trông hun hút thật dài, sàn trên, sàn dưới
bằng gỗ để mộc, làm dọc theo hai bên vách nhà, để chừa ra một lối đi ở giữa nhà
rộng chừng 2 mét. Cả buồng trống trơn, sàn dưới chỉ có 2 người nằm đắp chăn ở
trong góc đang vội vàng bò dậy. Tên cán bộ chỉ cho tôi một chỗ ở sàn dưới, phía
bên trong, gần ngay cửa ra vào. Tôi vừa để bọc quần áo và chiếc chiếu xuống
sàn, y đã đưa cho tôi 2 tờ giấy in sẵn, nghiêm giọng:
- Từ ngày mai, đi lao
động theo toán, nhưng tối về phải học thuộc 4 tiêu chuẩn cải tạo, 10 điều nội
quy và 12 điều nếp sống văn hóa mới này. Trong một tuần, tôi sẽ gọi lên sát
hạch, nếu không thuộc, anh sẽ chịu trách nhiệm.
Ngỡ ngàng, xốn xang với
nhiều thứ mới, nên cho tới khi tên cán bộ đã ra rồi mà tôi vẫn còn ngồi ghệ vào
mép sàn như bất động. Tay tôi vẫn còn mân mê 2 tờ giấy, mắt nhìn khắp căn
buồng. Hai anh ở trong góc bây giờ đang lúi húi hút thuốc lào ở chỗ chiếc đèn
con dưới gầm sàn. Kiểu chiếc điếu nứa này thật lạ, tôi chưa bao giờ nhìn thấy.
Nó có một chiếc nõ dài nghêu đến gần một gang tay. Tôi mỉm cười chào, khi 2 anh
cũng vừa cười vừa tiến lại phía tôi. Một anh chừng 40 tuổi, dáng cao gầy cất
tiếng khàn khàn hỏi tôi:
- Anh mới bị bắt vào?
Thấy tiếng anh trọ trẹ
không rõ, tôi chỉ gật đầu và hỏi lại:
- Anh không đi lao
động?
Xịt mũi mấy cái rồi anh
từ từ:
- Hôm qua tôi có cái
bệnh sốt!
Chỉ trả lời mấy tiếng
mà anh cứ ngập ngừng, lúng túng mãi, tôi hỏi ngay:
- Anh tên gì?
- Tôi là Lý A Chén và
anh này là Sín Cà.
Vừa nói anh vừa chỉ anh
kia, đứng phía sau. Giữa lúc này thì đột nhiên nghe có tiếng ồn ào, sùng sục
như chạy giặc ngoài phía cổng trại.
- Trại đã về!
Anh Chén vẻ nhớn nhác
nói xong, rồi cả 2 anh hấp tấp về chỗ nằm đắp chăn như những người đang bệnh.
Sau đó là những bước chân chạy rầm rập, đầy người chen chúc nhau vào buồng.
Tiếng vất nón, ném áo tơi, tiếng bát nhôm, bát sành cọ xát, tiếng gầu tôn,
thùng gỗ chạm nhau; tiếng chân chạy thình thịch, lẫn với những tiếng gọi nhau í
ới buồng này với buồng kia. Tôi cứ ngồi ngây ra, mắt mở to nhìn một cảnh đời
tất bật, lam lũ, lầm than. Hầu như ai cũng quần áo rách và nhem nhuốc, chỉ dăm
ba người hoặc có chiếc quần lành hay áo không vá còn tươi mầu tro xậm.
Sau này tôi mới hiểu:
một năm trại phát cho mỗi người 2 bộ quần áo. Phần vì sợi vải tạp không được
bền, phần khác, lao động nặng nhọc quần quật với gió mưa, với mồ hôi, bùn đất
nên chỉ 3-4 tháng là đã mục rách rồi. Cho nên ai cũng phải biết vá đụp cho lành
nhất là vào những vụ Đông hàn. Cũng do khả năng và ý thích của mỗi người khác
nhau, nên rất nhiều kiểu mũ, áo chằng đụp đủ mầu để che đầu, che tai.
Tôi đang ngẩn ngơ nhìn
cảnh người chạy ngược xuôi vội vã trong nhà cũng như ngoài sân thì một bóng
người mặc cái áo bông tã mầu nâu đất, to xù xụ. Chân anh đi dép râu dính đầy
bùn, trèo lên sàn ngay cạnh tôi, để lấy 2 cái bát sắt to, tráng men mầu lá
chuối non, cóc đã gặm nham nhở trên cái kệ phía trên đầu nằm. Tôi hơi ngỡ ngàng
khi thấy anh chột một mắt. A, à Phan Thanh Vân đây mà! Trung úy phi công C47,
trong điệp vụ máy bay bị bắn rơi ở Cồn Thoi, Ninh Bình năm 1960. Cũng là lúc
mắt anh mở to nhìn tôi không chớp, nhưng có lẽ những thúc hối của việc cơm nước
nên anh chỉ nói vội vàng:
- Tối vào buồng chúng
mình sẽ nói chuyện.
Rồi hấp tấp, anh mang 2
cái bát sắt chạy ra sân. Tuy anh đã đi rồi, mà tôi vẫn còn băn khoăn ngạc
nhiên. Lúc nhanh lại ký ức đầy hình ảnh xưa. Không! Chỉ có tôi mới biết về Vân,
chứ Vân chưa hề biết về tôi. Do đấy, mai đây tôi sẽ phải làm sáng tỏ điều băn
khoăn này của tôi.
Mãi lúc này mới thấy
một anh chừng 40 tuổi, tay cầm một tập sổ sách vào buồng. Cởi chiếc mũ trùm
tai, vất xuống chỗ sàn nằm ngay cạnh cửa ra vào, anh quay lại cười, chào tôi và
niềm nở:
- Tôi là Lân, toán
trưởng mà cũng là buồng trưởng. Anh có gì đựng cơm, canh đem ngay ra cho họ
chia?
Lúng túng ra mặt, tôi
làm gì có bát đĩa. Ngay lúc ấy, một anh ở sàn trên phía đối diện, cúi rạp người
thò xuống một cái rổ con, bé như cái bát to:
- Tạm thời, cho anh
mượn cái này để đựng cơm.
Chưa biết anh là ai,
tôi chỉ biết giơ tay đón nhận tình anh và mỉm cười tỏ ý biết ơn. Anh Lân dẫn
tôi ra sân, đến một chỗ túm tụm 9 -10 người đang đứng vây quanh 9 -10 cái vừa
bát, rổ, rá con và một soong nhôm cơm ngô xay vàng ươm (hạt ngô xay vỡ thành
nhiều miếng như tấm) đặt cả xuống nền sân đất. Một anh đang cầm cái môi con làm
bằng một mảnh gáo dừa. Nhẹ nhàng, anh xúc từng môi cơm vào một cái bát nhôm,
rồi đặt vào một cái cân do một anh đang cầm điều chỉnh. Cái cân thật đơn giản
nhưng lại thật bén nhậy, chỉ vài hạt cơm hơn, kém đã thấy khác rồi. Nó chỉ là
một chiếc que gỗ vót tròn, giùi 3 cái lỗ, khắc vài chỗ làm dấu nhất định, vài
sợi dây và một hòn đá hay miếng gạch con là được rồi.
Khi anh Lân dẫn tôi đến
nơi thì mấy người đều quay nhìn ra. Anh Lân quay lại cầm cái rổ ở tay tôi đặt
xuống sân cạnh những bát khác. Tay anh chỉ vào con số viết bằng phấn ghi ở cạnh
cái soong nhôm cơm:
- Anh Đồng, đây là anh
Bình mới nhập trại, cùng ăn mâm của anh. Số soong ghi là 11 đấy!
Một vài anh quay lại
mỉm cười với tôi như chào rồi lại tập trung mắt vào cái cân cơm. Bỗng một anh
kêu tướng lên:
- Có chết cha người ta
không chứ! Từ nãy, mình cứ đinh ninh 10 suất như mọi khi. Thấy soong cơm đầy,
mình cứ lẩm nhẩm tạ ơn đảng, ơn bác mãi. Bây giờ thì xin rút!
Chỉ một mình anh nói,
mọi người mặt vẫn lạnh lùng, không một ai hưởng ứng. Một vài ánh mắt rụt rè
liếc về phía tôi. Anh Lân lại kéo tôi sang một đám bên cạnh cũng có 10 cái bát
vừa nhôm, vừa sành đủ loại, Một soong nhôm canh, rau và nước đen sì, nhìn mãi
mà tôi chưa hiểu là canh gì. Cho đến khi, một anh gắp từng miếng sau vào từng bát,
tôi mới biết là lá rau cải bắp già. Nhưng không hiểu họ nấu với muối hay mắm gì
mà lại có mầu đen. Anh Lân lại lên tiếng:
- Anh Bình đây chưa có
bát đĩa, ai có tạm thời cho anh mượn bữa nay?
Một anh còn rất trẻ,
chỉ chừng 20 hay 21 tuổi là cùng, quay lại vồn vã kéo tay tôi theo anh vào
buồng. Anh trèo lên sàn trên, lấy cho tôi một cái rá con tý đã bục rách một bên
cạp. Anh lục mãi trong bọc lôi ra một miếng ny lông xám đã cũ, nhẹ nhàng khéo
tay, anh lót vừa vào chiếc rá để đựng canh. Tôi được biết tên anh là Toàn.
Trong lúc trở ra chỗ chia canh, Toàn hỏi khẽ:
- Anh ở đâu đến?
- Hà Nội.
Toàn ghé gần vào tai
tôi thì thầm:
- Em ở Thái về 1956.
Tôi đang định hỏi tiếp
thì nhiều người ở phía mâm cơm đã hối hả giục:
- Mau lên còn vào buồng
chứ!
5.
Một Mảnh Đời Tù
Sau khi đã đặt cái rá lót ny-lông xuống sân để lấy canh, tôi đưa
mắt nhìn rãi ra chiếc sân trại dài. Đầy sân, lố nhố chừng mươi người một nhóm,
ồn ào, xôn xao, như đang mổ bò lúc làng vào đám. Chợt có tiếng huỳnh huỵch, ầm
ầm ở gần bụi nứa phía cuối hội trường, ngay dưới cái khẩu hiệu dài nền trắng,
chữ đỏ choét: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Một
anh chừng 40 tuổi thấp lùn, và một anh chừng 30 tuổi gầy nhỏng. Cả hai đang
trợn trừng mắt chồm vào nhau để thoi, trong khi tên trật tự Tân đang cầm cái
roi, phải nói là cái gậy vì bằng một đoạn song dài đến một thước, đang chạy từ
phía nhà bếp đến.
- Mày qua mắt anh em
sao được. Đã nhiều lần rồi, mày cứ xúc cơm trên đã bốc hơi cân cho bát của mày.
Cơm dưới hoặc vừng, tảng còn ướt thì mày cân cho người khác. Lưu manh, lưu manh
chính trị!
Anh thấp lùn đang choi
choi xỉa tay về phía anh gầy, hổn hển nói từng lời ngắt quãng. Anh gầy cũng
chẳng vừa. Anh dề cái miệng, cong cái môi nhọn ra như môi con heo nái:
- Im mẹ cái mồm đi! Cứ
làm ra cái vẻ trí thức, mồng 2/9 vừa qua đứa nào bưng soong thịt của toán từ
nhà bếp lên, bốc thịt bỏ túi? Trí thức vét phân!
Tên Tân vừa chạy đến
nơi, thấy không còn đánh nhau nữa. Dù vậy, có thể muốn chứng tỏ cái quyền uy
của một người trật tự, y dứ dứ cái roi song về phía 2 người còn đang cãi nhau:
- Các anh là con người
hay con vật? Miếng ăn mà cũng hục hặc đánh nhau!
Nghe tên Tân mắng 2
người, tôi liên tưởng tới thời gian y ở buồng số 4, xà lim II dưới Hỏa Lò Hà
Nội, tới cái bánh chưng tới điếu thuốc. Một nỗi đầy vơi, khắc khoải với trò đời
đen, trắng đang rỉ dần ra trong lòng tôi. Khi có những cảnh đời tốt đẹp, người
ta thường dễ quên những ngày tối tăm, khổ đau của họ. Cảnh sôi động huyên náo
như vậy mà chỉ 15 – 20 phút sau lại im phăng phắc, vì lúc này cơm, canh đã chia
xong. Tùy theo chỗ dăm người, chỗ 3 người hoặc một mình, tìm một nơi riêng biệt
để tận hưởng của ngọc thực ông trời đã ban cho loài người.
Một tay cầm chiếc rổ
cơm, một tay cầm cái rá con đựng canh, tôi đang ngác ngơ, lúng túng để tìm một chỗ
ngồi thì Toàn giơ tay vẫy vẫy tôi. Toàn đang ngồi ăn một mình trong một cái bàn
khuất nẻo phía mấy tấm bảng đen trong nhà hội trường. Hội trường, hay cũng gọi
là nhà ăn. Tuy có bàn ghế, nhưng trời mùa Đông, mới 5 giờ trong nhà đã mờ mờ
tối nên đa số anh em thường trải những mảnh chiếu rách ngay ngoài sân ngồi ăn
với nhau. Chỉ có một số người vì không có chiếu, hoặc thích ngồi trong bóng mờ
để tìm cái thú vị trong cái ăn mới mò vào hội trường.
Tôi đã đặt cơm canh lên
bàn. Tôi liếc nhìn đây đó tìm cách để ăn vì không có thìa, đũa thì Toàn đã moi
trong chiếc túi con một cái cùi dìa bằng nhôm đã gãy cán, đưa cho tôi giọng
niềm nở:
- Hãy dùng tạm cái này
ăn rồi mai kia sẽ kiếm.
Tôi hơi xúc động đón
nhận niềm dạt dào tình người của Toàn. Sau một vài câu chuyện thăm hỏi, Toàn
lại ghé gần tai tôi vẻ thân tình:
- Anh Bình hãy dè dặt,
thận trọng, ít ngày nữa anh sẽ hiểu.
Rồi Toàn thấp giọng nói
như thì thào:
- Coi chừng Phan Thanh
Vân nằm cạnh anh.
Tôi khẽ gật đầu và nhìn
Toàn bằng ánh mắt đã hiểu ý. Ngay từ lúc mọi người đi lao động về, giữa biết
bao nhiêu người tôi đã trông thấy hoặc đã gặp, có những ánh mắt nhìn tôi vừa
như tò mò, soi mói, vừa như muốn làm quen. Nhưng hình như họ bị một áp lực chìm
lẳng nào đó để rồi những ánh mắt ấy vừa chợt sáng, nụ cười vừa động đậy, đã rút
lại ngay nghiêm nghị lạnh lùng. Qua những phút trao đổi của buổi mới gặp, tôi
biết sơ qua là Toàn năm nay 23 tuổi. Lúc 9 – 10 tuổi, Toàn theo bố mẹ về nước.
Vì có họ hàng thân nhân ở Hà Nội nên bố mẹ Toàn được nhà nước cho về sinh sống
ở Ngọc Hà, vùng ngoại ô. Toàn đã đi học nhiều năm dưới mái trường xã hội chủ
nghĩa. Nhưng qua những năm tháng, dần dần đời sống của gia đình càng khó khăn
khổ cực. Ngay ăn uống hàng ngày cũng bữa đói, bữa no nên Toàn càng chán nản
không thể học hành được nữa. Hơn nữa cuộc bắn phá của máy bay Mỹ cũng càng ngày
càng ác liệt.
Chiến tranh và cuộc
sống đã giằng co, kéo đẩy để Toàn cùng một người bạn nữa cũng ở Thái Lan về; rủ
nhau tìm cách vượt biên bằng đường bộ, qua Lào trở về Thái. Sau bao nhiêu khó
khăn nguy hiểm, khi tới biên giới Lào Việt thì không may bị bắt. Người bạn kia
phải đi trại giam khác. Riêng Toàn, bị giam ở Hỏa Lò, Hà Nội 6 tháng rồi đưa
lên trại trung ương số I Lào Cai và được chuyển ngay về phân trại E này từ đầu
1965. Toàn cũng bị án lệnh tập trung cải tạo 3 năm, đến nay đã quá hạn hơn 6
tháng rồi. Giai đoạn này Toàn tỏ ra rất bất mãn.
Toàn thích tâm sự thì
tôi ngồi vừa ăn vừa nghe, chứ trong lòng tôi cũng đang rối bời với bao nhiêu
lắng lo cho những ngày tới của cuộc đời. Suất cơm ngô tuy chỉ khoảng 2 bát cơm
ở gia đình nhưng sau khi ăn xong, mắt tôi mới nhìn cảnh vật được rõ ràng. Quá
mệt và đói từ sáng sớm tới bây giờ! Mãi lúc này tôi mới để ý nhìn 2 bông hướng
dương to như 2 cái bát chiết yêu ở ngay đầu luống trước cửa buồng tôi. Mắt tôi
cứ đăm đăm hướng về những đóa hoa vàng tươi mơn mớn đang đong đưa nhún nhẩy
dưới mưa bay căng phồng sức sống đương thì. Chập chờn tôi gửi hồn về miền xuôi
Hà Thành lẩn quất với dáng hình ai buổi sáng sớm hôm nay, thì một hồi kẻng rổn
rang lên lanh lảnh làm rung rinh những ngọn nứa già đang lắc lư xào xạc với gió
chiều.
Tiếng ồn ào lại réo lên
như nồi cơm sôi già lửa. Mỗi người, mỗi nhóm tráng rửa qua thìa, đũa, bát bằng
nước chứa trong những chiếc gầu tôn hoặc gỗ. Để kịp thời gian, ai cũng phải
xuống chiếc giếng phía cuối nhà bếp lấy nước về trữ sẵn ngay từ lúc đang chia
cơm. Tuy ai cũng ghé xuống chiếc rãnh giọt gianh cạnh hội trường để rửa, dưới
rảnh vẫn sạch trơn, chẳng hề có một hạt cơm hay cọng rau nào; cho nên vẫn không
vi phạm điều nào trong 12 điều nếp sống văn hóa mới.
Sau hồi kẻng dứt là mọi
người ở buồng nào vội vàng, đôn đáo vào buồng ấy; thứ tự ngồi hàng đôi. Theo
quy định, người nằm sàn dưới ngồi phía trong, người nằm sàn trên thẳng chỗ,
xuống ngồi phía ngoài. Mọi người đều ngồi xếp chân bằng tròng, thẳng lưng, hai
tay để hai bên đầu gối; yên lặng, không một tiếng rì rầm.
Tên Tân xách chiếc đèn
bão theo sau tên trung sĩ lúc sớm khám tư trang của tôi. Bây giờ tôi đã biết
tên hắn là Cẩn, Chu Huy Cẩn, cán bộ trực của phân trại E. Y là người dân tộc
thiểu số. Chẳng hiểu y có dính dáng gì với tên tướng Việt cộng Chu Huy Mân hay
không? Một tay y cầm cuốn sổ điểm và chùm chìa khóa, một tay cầm cái bút. Khi
tới trước cửa buồng, tên Tân đứng lại, tên Cẩn bước vào. Y thẳng đứng người,
bước những bước đều nhau theo hướng phải. Mỗi bước chân là một đôi, y đi vòng
chung quanh cái lối đi ở giữa nhà. Những lúc phải bước ngoặt sang phía trái hay
phải, y đều xoay gót chân theo đúng tác phong quân sự.
Khi quành ra tới cửa,
trong lúc y hý hoáy ký vào sổ trực, thì tên Tân đóng 2 cánh cửa lớn, khóa rồi
chốt then ngang, bằng một súc cây bản 5 phân, 10 phân dài ngang qua cả hai cánh
cửa.
Trong buồng, dù có một
ngọn đèn bão thòng dây treo lủng lẳng ở giữa nhà nhưng ánh sáng chỉ mờ mờ,
nhiều chỗ tối, chả nhìn rõ mặt người.
6.
Sinh Hoạt Tổ, Toán
Sau khi điểm xong, anh Vân quỳ lên (sàn trên, sàn dưới cách
khoảng 1 mét 50, đứng lên không đủ) cứ lục đục sắp xếp quần áo với cái túi bát
đĩa của anh trên cái kệ. Chiếc kệ gỗ làm dọc theo sát vách phía dưới của gầm
sàn trên. Kệ đó ngay trên phía đầu nằm dùng để chăn màn, quần áo và những thứ
vặt vãnh của mình. Mỗi người cũng được một khoảng dài 70 phân, bằng chiều rộng
của chiếc chiếu mình đang trải nằm ở dưới sàn. Mãi một lúc lâu, Vân mới ngồi
xuống, quay lại từ tốn. Giọng anh vẫn còn pha giọng miền Nam:
- Bình từ Hỏa Lò lên,
đi cả ngày chắc mệt lắm?
- Lúc sớm, chứ bây giờ
thì đã đỡ rồi!
Tôi vừa cười nhẹ, vừa
trả lời. Để có “thượng phong” khi sớm Vân đã tỏ ra như đã biết rõ về tôi, tôi
ghé sát gần Vân, hạ giọng:
- Vân chưa biết gì về
tôi, chứ tôi đã biết về Vân hơi nhiều và…đã lâu.
Trong bóng tối mờ, một
mắt của Vân mở to, long lanh đầy vẻ lắng lo lẫn ngạc nhiên. Anh hỏi hơi gấp:
- Anh biết về tôi thế
nào?
Vân chưa nói hết câu,
tôi đang được cái thích thú đã “trộ” ngược lại Vân thì anh Lân phía sàn bên
kia, vừa kéo một điếu thuốc lào xong đứng ra giữa nhà nói to:
- Đề nghị các anh toán
2, hút thuốc rồi vào sinh hoạt tổ ngay để nghỉ sớm.
Tiếp theo đó, một anh
có cái thân hình ngũ đoản. Đặc biệt có đôi môi dầy xám ngoét, cong tớn bọc lấy
mấy chiếc răng cưa mốc thếch hô ra, to như những con nhộng tằm. Anh chừng 40
tuổi, tôi đã biết anh là Đinh Khắc Sản, do Toàn chỉ cho tôi khi còn ở ngoài
sân. Anh ngồi từ trong sàn dưới phía cửa, thò đầu ra chỗ sáng nghễnh cổ, cao
giọng nhưng vẫn khàn khàn như vướng đờm trong cổ:
- Tôi cũng đề nghị các
anh toán 3 hút thuốc rồi ta sinh hoạt sớm.
Cả buồng lại ồn lên như
một động cơ máy nổ lúc mới khơi động. Chỉ sau một, hai phút, các dáng hình đen
thẫm tản mạn sàn trên, sàn dưới đã vón tồ lại từng cục rải rác khoảng cách đều
nhau ở sàn dưới. Mỗi cục, tùy theo mươi hoặc mười lăm người là một tổ.
Từ lúc vào buồng tôi đã
hơi có khái niệm: hiện nay tôi ở toán hai, là toán làm một thủ công do anh Lân
làm toán trưởng. Toán này có 4 tổ gồm tất cả là 49 người. Toán 3 là toán xẻ gỗ
do anh Đinh Khắc Sản làm toán trưởng. Anh có cái dáng dấp là một anh trương
tuần ở nông thôn, mà tôi vừa nói đến ở trên. Tuy trong thực tế, trước đây anh
là con một ông chánh tổng ở Phùng (Sơn Tây). Toán 3 chỉ có 2 tổ xẻ gỗ và một tổ
rèn gồm 45 người. Toán xẻ này, động tác nghề nghiệp đơn giản; chỉ có kéo xẻ
bằng tay, nên không phức tạp, rắc rối như bên toán làm mộc.
Như vậy, buồng số 2
(tức buồng ở giữa) tổng số là 95 người, kể cả tôi mới nhập. Do thế, toàn thể
phân trại E tôi đã có thể dự đoán xấp xỉ trên dưới 300 người; sống âm thầm ở
một nơi khuất nẻo sâu mãi trong rừng già.
Thì ra Phan Thanh Vân
là tổ trưởng, tổ II của toán 2. Họ ngồi quây tròn, sinh hoạt ngay sát chỗ tôi.
Riêng tôi, vì chưa được phân bổ về tổ nào nên đem mấy tờ nội quy, tiêu chuẩn
cải tạo ra đọc. Thực ra tâm tư của tôi lúc này cũng đang bồng bềnh, chìm nổi
với bao nỗi niềm ngược xuôi của một kiếp tù. Tôi chỉ muốn những phút vắng lặng,
nằm yên hay ngồi trầm lắng để lần giở da diết cõi lòng. Vậy mà những lời phát
biểu của cái tổ II ở bên cạnh cứ ngoáy, chọc vào lỗ tai của tôi.
Tiếng của Phan Thanh
Vân reng rẻng cố ra vẻ nói tiếng Bắc nhưng nhiều chỗ vẫn te te, cà cà của miền
Nam:
- Hôm nay tổ ta cũng
sinh hoạt như thường nhật. Hiện nay, tổ mình có nhận của toán một kế hoạch nhỏ
là hoàn thành 50 giường cá nhân, thời gian ấn định là 15 ngày. Nhưng trong đợt
thi đua lập thành tích góp phần cùng cả nước chào mừng nhân dân ta anh hùng đã
hạ 2000 máy bay của giặc Mỹ xâm lược. Tổ ta sẽ hạ quyết tâm, ra sức phấn đấu
vượt chỉ tiêu 3 ngày. Như chúng ta đều hiểu: lao động là phản ảnh của tư tưởng.
Muốn lao động tốt, đạt được hiệu quả cao thì phải có tư tưởng tốt. Vậy anh em
hãy xoáy mạnh vào vấn đề tư tưởng trong buổi sinh hoạt hôm nay.
Vân đã phát biểu xong,
miệng hãy còn tóm tém. Cục hầu ở cổ chạy lên, chạy xuống mấy cái, có lẽ nuốt
nước bọt vì Vân vừa nói hơi dài. Một con mắt của Vân ngó nghiêng, chớp chớp như
một bên mắt của con gà mái đang mắc đẻ. Anh lướt nhanh một vòng như thúc giục,
cổ vũ trong tổ phát biểu ý kiến. Gần một phút chết, nặng nề với những nét mặt
đăm đăm, đắn đo nhìn nhau như dọ dẫm, đợi chờ. Bỗng một anh giơ tay cao nói rất
đanh:
- Tôi có ý kiến!
Trong bóng mờ, tôi nhớ
không lầm, chính anh này lúc chiều chia cơm đã phát biểu “biết ơn đảng và bác”.
Vân, nét mặt đang nặng nề tươi lên roi rói:
- Hoan nghênh anh Khải,
người nổ phát đầu hôm nay. Xin anh phát biểu!
- Tổ tiên mình đã dạy:
“có thực mới vực được đạo”. Tôi muốn một người làm việc bằng hai, bằng ba lắm.
Nhưng nếu muốn cho cái máy nó chạy 10 giờ thì dầu phải đổ đủ 10 giờ, nếu chỉ đổ
cho 6 giờ thì 4 giờ nữa máy làm sao chạy?
Môi anh Khải vừa dề
xuống để ngắt câu, mắt ai cũng loáng sáng lên như ngọn đèn cạn dầu được đổ
thêm. Chứng tỏ, ai cũng thấy sướng cái tai nghe anh Khải phát biểu như thế.
Nhưng chỉ một thoáng rất nhanh, nét hân hoan như ánh đèn pin lướt qua trong đêm
tối rồi tắt ngủm. Mắt họ lại sầm xuống lộ dần lên nét phản đối. Họ đều nhao
nhao lên, 3 người giơ tay xin phát biểu ý kiến.
Mặt Vân cũng đã bốc máu
hồng. Anh chỉ tay vào một bác có đôi tai to như ông địa, chỉ có khác là cái mặt
quá dài và hai bên má hõm vào nên hàm răng càng vẩu ra:
- Mời bác Chánh phát
biểu trước!
Ông Chánh hơi dướn
người lên, liếc nhanh khắp lượt rồi quay về phía anh Khải, giọng miền Nam đặc
sệt:
- Ngay từ đợt tổng kết
cuối năm vừa qua, anh Khải đã nhiều lần phát ngôn bừa bãi. Cụ thể nhất, anh ta
mới được tha kỷ luật ra mươi ngày trước đây. Nhưng anh vẫn chưa gột rửa được
những tàn tích phong kiến trong bộ óc đã đen kịt, cáu rỉ của anh, nên anh nhìn
sự việc chỉ một chiều, cục bộ. Trong khi cả nước mọi người như một vì miền Nam
ruột thịt. Anh lại cũng không nhìn thấy bao nhiêu anh em đồng phạm khác làm và
đã làm nhiều hơn anh mà không hề kêu đói. Họ vẫn hăng say lao động để tạo ra
nhiều của cải vật chất cho trại. Trên quan điểm khắc phục mọi trở ngại khó
khăn, họ xả thân thi đua trong phong trào “một người làm việc bằng hai” để góp
phần cùng toàn dân đánh thắng tên đầu sỏ đế quốc Mỹ thì anh Khải vẫn lẩn quẩn
trì trệ. Tôi thấy đây là chỗ khúc mắc tư tưởng của anh Khải, đề nghị tổ phải mổ
xẻ để giúp đỡ anh.
Không khí tổ II căng
lên. Trong khi các tổ khác cũng đang có nhiều anh phùng mang, trợn mắt; tay
chân hất lên, hất xuống say sưa phát biểu. Tôi cố cúi xuống đọc bản “12 điều
nếp sống văn hóa mới” mà tôi chả hiểu gì cả. Mặt chữ cứ hoa lên nhẩy chồm chồm
vì bầu không khí ngột ngạt, đầy những tranh giành, cấu xé lọc lừa nhau trong
buồng đã lôi cuốn hết tâm trí của tôi rồi. Nỗi ưu tư càng lúc càng tràn ắp lòng
tôi.
Mãi hơn một tiếng đồng
hồ sau, anh Nguyễn Huy Lân, toán trưởng từ trong một tổ phía góc buồng lại đứng
ra giữa nhà cao giọng:
- Hôm nay chỉ sinh hoạt
thường lệ của tổ, đề nghị các anh tổ trưởng ghi nhận những vấn đề chính để ngày
mai thứ sáu sinh hoạt toán sẽ cùng đưa ra thảo luận. Bây giờ hãy tạm nghỉ!
Nhiều người ở những tổ
của toán 2, sau khi nghe anh Lân tuyên bố đã đứng bật dậy vặn người, vươn vai
làm cho toán 3 cũng giải tán dần. Đa số đều dồn ứ về phía nhà xí, chen chúc chờ
vào tháo cống. Mấy chiếc điếu cầy, thi nhau rít lên như những tiếng kêu van,
rên xiết của những kiếp người bất hạnh đang ngập chìm trong tăm tối lầm than.
7.
Ân Tình Chiến Hữu
Mặc dù tôi đã được Toàn và một anh nữa chưa biết tên, khi gặp
anh trong nhà xí đã nói nhỏ với tôi phải coi chừng Phan Thanh Vân. Tôi vẫn có
chủ trương, tối nay hoặc những ngày tới phải hỏi chuyện Vân để biết rõ về quan
điểm tư tưởng thực sự cũng như về điệp vụ chiếc C47 bị bắn rơi. Hơn nữa, còn
một điều tôi vẫn băn khoăn từ sớm, vì sao mà Vân đã tỏ ra như đã biết về tôi
rồi? Vì sao như vậy, thì tôi cần phải tìm hiểu. Thực ra chỉ có tôi biết về Vân
trước là do một buổi sáng nghe đài ở Cấp (Vũng Tầu). Rồi, một ngày Chủ Nhật,
khi tôi mới bị bắt vào Hỏa Lò nhìn thấy Vân ngồi ở gốc một cây bàng ở sân. Sau
đó, tôi được chuyển về buồng 4, xà lim II. Trong một buổi tối nghe Vân đọc bản
kêu gọi anh em binh chủng không quân lái máy bay vào vùng giải phóng theo cách
mạng v.v… Vả lại, những ngày còn lang thang trên khắp các phố phường của Hà
Nội, khi chưa bị bắt, tôi đã mua và đọc cuốn C47. Điệp vụ máy bay xâm nhập
không phận miền Bắc bị bắn rơi ở Cồn Thoi, thuộc tỉnh Ninh Bình mà cộng sản đã
xuất bản thành sách ở miền Bắc, nên lại càng biết rõ về Vân hơn.
Lúc này chả biết là mấy
giờ. Nhìn ra bên ngoài qua cánh cửa sổ mở hé, trời đã đen kịt. Đột nhiên nghe
tiếng léo nhéo, rè rè, nho nhỏ tiếng nhạc khởi đầu của đài phát thanh. Dưới ánh
sáng mờ mờ của ngọn đèn bão, tôi nhìn lên chiếc loa nhỏ vuông vắn, bằng gỗ gắn
liền vào vách phía trên cửa ra vào. Tôi đang lạ lùng, bần thần lắng nghe tiếng
nói quá nhỏ của chiếc loa thì anh Lân buồng trưởng đã lớn tiếng dõng dạc:
- Đề nghị toàn buồng im
lặng để nghe đài!
Sau tiếng nói của anh
Lân, buồng đang râm ran, ồn ào bỗng im bặt. Chỉ còn những tiếng rầm rì thì
thầm, chỉ đủ cho một người ngồi gần sát nghe. Giọng người con gái xướng ngôn
viên nhỏ và rè quá. Tôi có cảm tưởng như cô ta đứng nói trong một cái tủ kín để
xa tôi hàng chục mét. Tiếng đài nói nhỏ như thế, họa chăng chỉ có một số người
nằm gần chung quanh phía cửa mới nghe được mà thôi. Anh Vân từ trong nhà cầu
ra, ghé về chỗ. Sau khi tháo đôi dép râu ở chân, đút sâu vào gầm sàn, (sàn dưới
cao hơn nền nhà chừng 30 phân) ngửng lên, thấy tôi đang nhìn anh. Hơi cười bằng
ánh mắt, anh chỉ vào đôi dép của tôi dưới nền, thì thào:
- Bình hãy đút dép vào
gầm sàn. Gót của dép vừa bằng mép sàn theo quy định.
Tôi liếc nhanh toàn buồng.
Dưới gầm sàn dưới, dép được để đều đặn trong gầm sàn, thẳng tắp với mép sàn; vì
thế, tôi khẽ gật, cúi xuống làm theo lời Vân. Nê vào bên trong phía đầu sàn,
Vân quỳ lên lúi húi phía trên kệ tối mò vì không có ánh đèn. Lôi xuống một
chiếc túi vải nâu, anh ghé nghiêng về tôi, khẽ nói:
- Ở đây còn nhiều điều
quy định lắm, rồi Bình sẽ biết!
Vừa nói anh vừa dịch ra
chỗ ánh sáng đèn (do ngọn đèn treo ở trên cao, giữa nhà nên sàn dưới chỉ có ánh
đèn từ giữa sàn trở ra). Anh móc trong túi vải ra lủng củng một số thứ. Mãi tôi
mới hiểu, khi anh mở đến một bọc giấy, trong có một nhúm thuốc lá sợi, mầu nâu
xám. Mở một gói con có ít cơm ngô lúc chiều, anh nhặt từng hạt cơm riêng ra
phết, dính. Sau đó, với một chiếc hộp gỗ con con, trong đó có mấy bộ phận đơn
giản: chỉ một tí anh đã cuộn được một điếu thuốc lá bằng giấy rơm mỏng, vàng
khè mà anh đã cắt sẵn từng tệp. Dùng chiếc kéo con, nhẹ nhàng anh cắt những sợi
thuốc thừa ra khỏi hai đầu giấy. Tôi đang mở to mắt theo dõi anh làm thì anh đã
giơ điếu thuốc đầu tiên vừa cuộn xong về phía tôi. Một mắt của anh chớp chớp,
miệng anh mấp máy:
- Bình hút thử xem!
Tôi vừa cảm ơn, nhận
điếu thuốc anh mời, thì anh Lân từ sàn đối diện vừa mỉm cười, vừa tiến lại chỗ
tôi và Vân. Dịch vào phía trong để chỗ cho anh ngồi, mắt tôi vừa thoáng nhìn
đây đó trong ánh đèn không đủ sáng. Sàn trên, sàn dưới có nhiều con mắt đang
hướng về phía chúng tôi. Ngay sàn trên, phía đối diện, Toàn và anh Đồng đang
ngồi trùm chăn nhìn xuống, Vân cũng cầm một điếu thuốc lá đã cuộn rồi đưa cho
anh. Lân vừa lơ đãng giơ tay cầm điếu thuốc, vừa quay sang tôi vồn vã:
- Sáng mai, Bình đi làm
theo toán 2. Khi ra lán sẽ tùy theo cán bộ toán phân bổ công việc.
Anh hạ giọng nói tiếp:
- Bình án hay tập
trung?
Tôi đang nhăn mặt nhả
làn khói thuốc, mà tôi thấy đắng và khét lẹt; còn hăng hăng như nhai ớt. Hơi
ngỡ ngàng chưa hiểu ý Lân thì Vân đã giải thích:
- Án là đem ra tòa xử,
còn lệnh tập trung cải tạo 3 năm thì không có án.
Chợt hiểu, tôi trả lời
hơi đắn đo:
- Án tôi 18 năm, và 5
năm mất quyền công dân.
Cả hai đều nhìn tôi đăm
đăm. Anh Lân phà hết khói thuốc, hơi nheo mắt hỏi tiếp:
- Xử ở đâu, đã lâu
chưa?
- Hà Nội, mới nửa tháng
trước đây!
Trong khi anh Lân đang
nói về người tập trung thì tiêu chuẩn mỗi tháng là 13 đồng, còn có án thì chỉ
12 đồng. Vì thế, tù tập trung mỗi tháng được lĩnh phụ trội 1 đồng, thì cái tên
“Lân” đã làm óc tôi chợt gợi lại câu chuyện toán Boone biệt kích mà tôi đã nghe
từ dưới Hỏa Lò. Để thăm dò, hơi ngập ngừng, tôi hỏi anh Lân:
- Xin lỗi, anh họ gì?
- Nguyễn, Nguyễn Huy
Lân!
Vừa trả lời, anh vừa
quay hẳn lại nhìn tôi; mắt anh đổi mầu vàng vẻ dò hỏi. Tôi đã ngạc nhiên đến
ngỡ ngàng. Chẳng lẽ thằng Long Châu Sa nói, đây là chuyện có thật ư? Để chắc
chắn là sự thực ở ngay trước mặt tôi, nên tôi hỏi ngay:
- Phải anh là toán
trưởng toán Boone biệt kích?
Đến lượt Lân, mắt anh
nhìn tôi tưởng đến lồi hẳn ra rồi gật đầu. Cả một cái cảnh buổi sinh hoạt đấu
tố Lê Văn Lượng ở buồng số 5 dưới Hỏa Lò như mới hôm qua, hôm kia hiện ra trước
mắt tôi. Tôi đưa cả hai tay cầm chặt tay Lân vồ vập:
- Câu chuyện không thể
tin được, anh có biết không? Một người đã bị cả buồng sinh hoạt, sỉ vả suốt một
buổi sáng và bị 15 ngày kỷ luật vì chuyện của các anh đấy!
Tôi chưa nói hết câu,
nét mặt Vân và Lân đều bị lôi cuốn, háo hức muốn biết diễn tiến của sự việc,
thì đột nhiên một hồi kẻng gióng lên lanh lảnh, âm thanh nhọn hoắt chĩa vào tai
mọi người. Trong khi Vân xếp vội đồ nghề cuộn thuốc vào trong chiếc túi thì anh
Lân đã đứng lên nói nhỏ:
- Kẻng cấm rồi, mai
mình sẽ nói chuyện tiếp.
Nhìn sàn trên, sàn
dưới, mọi người đang vội vàng, ai về chỗ nấy, cũng là lúc tiếng loa vẫn rả
rích, ẽo ợt nói thầm im bặt. Thấy Vân giở chăn chuẩn bị đi nằm, tôi cũng kéo
chiếc chăn đơn từ chiều vẫn gập để trên phía đầu sàn để ngả lưng . Đầu óc tôi
đang ngổn ngang bởi bao nhiêu thứ mới lạ của một cảnh đời tù tội thì Vân khẽ
ghé sang thì thào:
- Chín giờ kẻng cấm,
tuyệt đối không được ai nói chuyện. Ai cũng phải về chỗ nằm, dù muốn ngủ hay
không!
Đã cuộn chăn nằm rồi,
tôi chợt nhớ đến cái lõi chì mật. Buổi sáng ở dưới Hỏa Lò ra đi, vì chưa thể
biết sẽ đi về đâu, với tình huống bất trắc thế nào nơi xa xôi núi rừng mờ mịt,
nên tôi đã thận trọng nhét vào hậu môn. Trong chăn, tôi nhẹ, khẽ lần mò rút ra,
nhét vào chiếc lỗ nhỏ dưới gấu vạt áo, nơi tôi vẫn để miếng dao nhỏ ở dưới Hỏa
Lò. Có lẽ Vân thấy tôi hãy còn rục rịch chưa ngủ, cố ghé hẳn sang rỉ tai:
- Ngày mai có ai hỏi
thăm, anh đừng nói nhiều, không có lợi đâu!
Một nỗi hoang mang,
lắng lo đang len dần vào lòng tôi. Tuy mỏi mệt suốt từ sáng, từ dưới Hỏa Lò
lên, đến bây giờ, biết bao nhiêu sự việc trong cảnh đời tù mới lạ nơi rừng núi
thâm u. Một cảnh mà trước đây, tôi chỉ được đọc trên sách báo. Cho nên tôi cứ
trằn trọc, thao thức mãi, không ngủ được. Trong đêm trường đầu tiên ở giữa rừng
già, tôi chỉ nghe tiếng gió ngàn xào xạc. Thỉnh thoảng, có những tiếng hú dài
lê thê xen lẫn những tiếng kêu cụt ngủn, ngoắc ngoải, không biết là tiếng của
loài thú hay loại chim gì từ trong rừng sâu vẳng ra, càng khoét sâu niềm băn
khoăn, thấp thỏm trong lòng tôi.
8.
Tình Người Trong Mớ Bòng Bong
Tôi đang mơ màng đi dần vào giấc ngủ muộn rã rời, mỏi mệt thì
đột nhiên có tiếng ai đó vang lên trong đêm:
- Báo cáo ông cán bộ,
tôi xin đi tiểu!
Tiếng báo cáo giật
giọng như gọi mọi người thức dậy của một người ở sàn trên, làm tôi giật mình mở
choàng mắt. Vài tiếng ho húng hắng, xen lẫn tiếng trở mình, rồi tất cả lại chìm
vào im lặng.
Cứ như vậy cho đến
sáng, thỉnh thoảng đây đó, sàn trên hoặc sàn dưới lại dội lên tiếng báo cáo thì
làm sao tôi ngủ được. Nhìn những người khác, tôi thấy họ vẫn ngủ đều. Có thể họ
đã quen hàng đêm từ lâu như vậy rồi.
Vì không ngủ được nên
tôi cũng mót đi giải. Tôi cứ nằm rụt rè đắn đo mãi, trong cái lần đầu phải báo
cáo cái rắc rối này. Cho đến khi tưởng không còn có thể rụt rè nữa thì may quá
vừa lúc đó có một anh ở sàn bên báo cáo; tôi cũng ngồi dậy báo cáo và theo họ
vào nhà cầu.
Nhà cầu là một gian hẹp
phía cuối buồng, chỉ rộng chừng một mét. Một đầu là một bệ xi măng nhỏ, chỉ có
một chỗ cho người đi đại tiện. Một đầu là một cái giá gỗ ba tầng úp đầy những
nón lá và áo tơi. Ngay phía giữa, sát dưới nền đất có cái máng bằng xi măng để
cho gần một trăm người trong buống đi tiểu tiện. Vì vậy khi tôi bước vào, một
mùi khai nồng nặc xông lên làm cho mắt cay xè. Tôi vừa đi tiểu, vừa nghênh ngó
nhìn chiếc đèn dầu hỏa con con treo sát vách tường chiếu ánh sáng lờ mờ, không
rõ. Một anh vào trước đã đi tiểu xong, quay lại: tôi hơi tò mò vì anh cũng chỉ
một mắt như Phan Thanh Vân, tuy rằng anh còn quá trẻ. Anh mỉm cười gật đầu chào
tôi rồi hơi ngập ngừng dè dặt:
- Anh ở trong Nam ra ạ?
Nghe giọng nói hơi
ngang, không rõ âm tiếng Việt nên tôi mỉm cười gật đầu. Anh sôi nổi:
- Em cũng là biệt kích
ở trong Nam ra.
Tôi mở to mắt nhìn anh.
Anh tiếp:
- Toán em bảy người,
hiện nay ở đây có năm người.
- Ủa, thế tên cậu là
gì?
Tôi hơi ngạc nhiên hỏi.
- Em là Shè Khửu Sáng.
Tôi hơi đắn đo:
- Thế Sáng là người dân
tộc à?
Anh đã mở cửa đi ra,
còn ngoái lại nói khẽ:
- Em là người Nhắng,
quốc tịch Việt.
Khi trở về chỗ nằm mãi,
vẫn không ngủ được, tôi nằm nghe tiếng đêm thâu với bao nhiêu nỗi khắc khoải
cho ngày mai của cuộc đời. Bên cạnh tôi, Vân vẫn ngáy đều đều, ngay từ mười giờ
tối.
Tôi đang chập chờn chìm
dần vào cơn ngủ khuya thì một hồi kẻng rền rĩ, xé tan cái tĩnh mịch, âm u của
núi ngàn làm tôi choàng tức dậy. Có tiếng loa “nói thầm” cũng bắt đầu lí nhí
dạo điệu nhạc khởi đầu bài tập thể dục buổi sáng.
Căn buồng tôi như sôi
lên tiếng lục sục gấp chăn, gấp màn. Tôi đã ngồi dậy nhưng vẫn còn ngơ ngác
trong giấc ngủ nửa vời. Vân đang gấp chăn màn bên cạnh, quay lại giục giã:
- Kẻng báo thức rồi,
gập chăn màn theo qui định trật tự nội vụ. Tranh thủ đi đái rồi vào ngồi điểm
số. Cán bộ vào điểm bây giờ.
Thấy tôi cứ lúng túng
mãi với màn, với chăn, Vân cầm lấy giũ tung ra rồi vừa gấp vừa nói:
- Bình phải nhớ màn gấp
như thế này và chăn gấp như thế này!
Chỉ hai phút, Vân đã
gấp xong gọn ghẽ. Màn bên trong, chăn bên ngoài thành một hình hộp chữ nhật;
phải vuốt, nắn cho vuông thành, sắc cạnh. Chưa xong, sau đó Vân nghiêng đầu
xuống sát sàn, ngắm, ra hiệu tay cho hộp chăn của người nào còn thụt vào, nhô
ra. Cuối cùng, sao cho thành một hàng thẳng tắp: cách vách đúng một gang tay
(20 phân). Vân vừa làm, vừa như căn dặn, giải thích:
- Mỗi sàn có một người
chịu trách nhiệm trật tự nội vụ. Khi cán bộ điểm buồng xong, ban thi đua sẽ đi
khám: chấm từng buồng trong nếp sống văn hóa mới, lấy điểm bình bầu của toán
mỗi tháng, mỗi quý (tam cá nguyệt) và cuối năm.
Trong buồng, mọi người
đã ngồi xếp hàng thứ tự, ngay ngắn từng đôi một ở sàn dưới. Vì buổi ban đầu còn
nhiều lớ ngớ, chậm chạp nên tôi chưa kịp đi giải thì cửa đã loạch xoạch mở rồi.
Trời mùa Đông, lại ở miền rừng núi nên bên ngoài vẫn mờ mờ chưa sáng hẳn. Tên
Cẩn đã bước vào cửa buồng, đột nhiên y nghiêm trang đứng lại một vài giây liếc
toàn buồng. Sau đó, tay y xách chiếc đèn bão, bước những bước dài theo lối đi
giữa nhà điểm phạm; mỗi bước chân của y là một đôi. Tên Tân cầm chùm chìa khóa
rủng rẻng, thập thò phía bên ngoài cửa. Nhiều buổi thấy tên Cẩn đứng lại một
vài giây ở cửa trước khi điểm, tôi không hiểu thì sau này đã hiểu: khi cán bộ
bước vào buồng điểm, toàn buồng mọi người đều ngồi xếp chân bằng tròn. Thứ tự,
anh sàn dưới ngồi trong, anh sàn trên ngồi phía ngoài thành từng đôi một. Hai
tay để trên hai đầu gối, ngực ưỡn, đầu thẳng, người ngồi sau trông thẳng gáy
người ngồi trước sao cho thẳng hàng ngang, hàng dọc, toàn buồng không một ai
còn động đậy. Nếu ai đó đầu còn ngúc ngắc, hay còn xê dịch cho thẳng hàng thì
cán bộ quay ngoắt trở ra ngay, đi điểm buồng khác.
Lúc đó thì buồng này
thật khốn khổ. Thường thường cán bộ đi điểm hết các buồng rồi về phòng thi đua
trật tự, cộng số phạm toàn trại thiếu, đủ. Giải quyết những việc đột xuất xẩy
ra trong đêm có khi 15 hoặc 20 phút. Buồng đó vẫn cứ phải ngồi yên, chờ cho cán
bộ trở lại điểm. Lúc này thì ai cũng nhớn nhác, vắt chân lên cổ mà chạy lo mọi
việc. Ai cũng bị trễ, vì những giờ giấc từ lúc kẻng báo thức cho đến lúc kẻng
tập họp đi làm, kẻng xuất trại đều đã được ban giám thị nghiên cứu tính sát nên
ai cũng phải khẩn trương mới kịp.
Trong buồng, chỉ còn
trút hết sự buồn giận vào anh nào đã không ngồi ngay ngắn để cả buồng bị phạt.
Chưa hết, anh đó còn bị cả buồng sinh hoạt phê bình, sỉ vả trong tuần. Không
những cá nhân anh đó mất điểm thi đua, mà cả toán, cả buồng đều bị giảm điểm
thi đua. Chính vì thế cho nên ai cũng phải giữ nghiêm ngặt.
Trở lại chỗ tên Cẩn
đang điểm. Khi tên Cẩn đi vòng ra tới cửa, một tay tên Tân đưa tập sổ điểm cho
tên Cẩn, tay kia y nhận chiếc đèn bão do tên Cẩn đưa. Lúc tên Cẩn hý hoáy ký sổ
đã điểm đủ người của buồng II là lúc tên Tân xách chiếc đèn bão và chùm chìa
khóa vội vàng rảo bước, chạy sang mở tiếp cửa buồng bên cạnh. Như vậy, điểm cả
ba buồng cũng chỉ hết 6 – 7 phút là cùng.
Khi tên Cẩn ra khỏi cửa
buồng cũng là lúc tù túa ra sân như kiến động tổ. Người cầm bát, người cầm rỗ,
người xách gầu. Anh nào đến phiên trực của mâm thì hộc tốc chạy xuống bếp lĩnh
sáng về chia cho các anh em trong mâm. Thật là ồn ào, ngoài sân, trong nhà,
người chạy đi, người chạy lại í ới gọi ngoài sân, chỗ thì chia ở góc hè. Đã
được anh Lân nhắc khi nãy là lấy sắn sáng ở mâm anh Đồng, vì vậy tôi theo Toàn
lại một góc sân đặt rổ để lấy sắn.
Tuy vừa qua một đêm ít
ngủ, chật chội ngột ngạt trong buồng, ra đến ngoài được thở hít bầu không khí
trong lành của buổi ban mai; nhưng mùi sắn luộc nồng lên, tỏa ngát khắp sân đã
cuốn hút hết cả tâm hồn tôi. Nhìn những củ sắn to nhỏ, trắng mát mắt xếp dầy
một chiếc soong nhôm của mỗi mâm, nước chân răng tôi đã ướt dầm chỉ vì bụng tôi
đã lép kẹp ngay từ tối hôm qua. Hơn nữa, từ lâu rồi cả ở trong Nam cho tới khi
ra Bắc, cũng như dưới Hỏa Lò tôi chưa được ăn sắn luộc. Trong khi chờ mâm cân,
chia sắn, tôi theo Toàn, vì Toàn có cái gầu gỗ con, chạy xuống phía giếng nước
trước nhà bếp; cách buồng II chừng 50 – 60 mét. Chiếc giếng thật rộng, đường
kính đến 3 – 4 mét. Bờ giếng được xây cao hơn mặt đất khoảng 40 – 50 phân.
Giếng thật sâu, nhưng về mùa Đông nước nhiều nên chỉ cho gầu xuống 4 – 5 mét là
tới rồi. Còn chiếc khăn mặt bằng miếng vài xoọc sé từ chiếc áo tù cũ ở dưới Hỏa
Lò, tôi tranh thủ dùng nước để lau qua cái mặt. Nước lạnh buốt làm những ngón
tay tôi cứng ra và đỏ lên.
Trời đã sáng dần, về
hướng Đông, chìm sâu phía rừng già đã hồng đỏ lên một góc. Chắc hẳn mặt trời
mùa Đông dậy muộn, sắp mò lên nhìn cảnh vật. Tôi vừa lau mặt, vừa nhìn mấy bụi
chuối cạnh giếng. Lẫn vào đám lá xanh có một bắp chuối con đã thò ra đỏ chót.
Tôi đưa mắt nhìn quanh những tấm liếp bằng nứa đan dầy vây quanh giếng, lòng
nghĩ ngợi mông lung: nước buốt và lạnh thế này thì tắm làm sao? Nhưng Toàn đã
ra khỏi giếng, quay lại giục tôi về ăn sắn kẻo sắp đến giờ tập họp đi làm.
Trở về đến chỗ mâm chia
sắn, thì chỉ còn cái rổ của tôi và chiếc rá rách của Toàn để chơ vơ giữa nền
sân. Phần của tôi cũng như của Toàn mỗi người, lớn thì 2 đoạn, nhỏ thì 3 đoạn
sắn gồm chừng 2 lạng. Cầm rổ sắn, tôi theo Toàn vào mé hè của hội trường ngồi
ăn. Tuy củ sắn có vài chỗ chạy máu đen xì hơi đắng, nhưng những chỗ còn tốt thì
thật là tuyệt cú mèo; vừa bở, vừa ngọt lại vừa thơm. Miệng nhai, nhưng hồn tôi
lặng lờ chảy ngược về những ngày xưa, lâu lắm rồi. Khi tôi còn nhỏ, thỉnh
thoảng mẹ tôi đi chợ về mua cho mỗi đứa một đoạn sắn luộc. Mấy anh em chúng tôi
bẻ ra từng miếng nhỏ, rủ nhau mang chiếu ra mải góc bờ ao dưới bóng của cây mơ
già. Mỗi lần, mỗi đứa chỉ được lấy ra một miếng để ăn. Thành ra nó vừa thòm
thèm, vừa ngon, ngon hơn cơm, ngon như một món quà. Tôi lại nhớ đến một lần ở
dưới Hỏa Lò ngoài trại chung. Một buổi chiều, mụ Hoa và cô Vân ríu rít, hí hửng
đã đem 2 cái bánh mì để đổi lấy 2 củ sắn mà một anh tù từ một trại trung ương
phải về xử lại đem theo.
Đối với người ít khi
được ăn sắn luộc thì nó như một món quà lạ miệng, ngon ơi là ngon! Mới chỉ vài
phút, suất sắn của tôi đã sạch trơn. Trong khi tôi liếc Toàn và một số người
khác thì họ vẩn còn ngồi nhai chậm chạp.
Tôi đang tính cầm rổ
đứng dậy để vào buồng thì một bóng người cầm một chiếc đĩa nhôm đựng một suất
sắn tiến lại phía tôi và Toàn đang ngồi. Anh chừng 35 – 40 tuổi mà tôi đã biết
anh cũng ở buồng số II với tôi. Anh mặc bộ quần áo nâu, tuy cũ nhưng không có
miếng vá nào; khác biệt với đại đa số tù, thường mặc là loại vải mầu xám xậm mà
trại phát. Đặc biệt anh có đôi mắt lươn. Khi anh nhìn, tôi cứ tưởng như anh
đang lim rim mơ màng. Cầm đĩa sắn, anh hơi ngập ngừng nhìn tôi:
- Anh thích ăn sắn lắm
hả? Anh có ăn được nữa không?
Trời, sao lại hỏi lạ
lùng như vậy. Tôi muốn nói là tôi còn thích hơn ăn cơm nữa ấy chứ! Nhưng tôi
cũng hơi ngượng và chưa hiểu hết ý của anh nên cũng ngập ngừng, chậm rãi:
- Nhưng đó là phần của
anh!
Anh nhìn tôi vẫn đôi
mắt lim rim, rồi đặt ngay đĩa sắn vào cái rổ của tôi, nói kiểu coi pha cuộc
đời:
- Tôi không ăn, anh
thích thì cứ ăn. Tôi đã ăn sắn quá nhiều rồi!
Giọng anh nằng nặng của
miền Nghệ An. Anh nói rồi bỏ đĩa sắn đấy đi luôn vào buồng. Tôi đang đắn đo thì
Toàn đã nói nhỏ:
- Anh cứ ăn đi, Lê Sơn
đấy! Anh ta vẫn không thích ăn sắn.
Tôi đang muốn hỏi “vậy
anh ta ăn bằng cái gì” thì thoáng thấy tên cán bộ trực trại và tên Tân từ phía
nhà trật tự bên cạnh nhà bếp, rảo bước đi lên, rồi vào buồng số II của chúng
tôi. Mọi người ở sân, kể cả tôi và Toàn đều ngạc nhiên nhìn theo với những đôi
mắt dè dặt, lấm lét. Mới mấy phút, tôi chưa kịp hỏi Toàn thì đã thấy một anh
chừng 25 – 26 tuổi, da trắng trẻo, nét mặt đăm đăm ôm chăn và chiếc chiếu từ
trong buồng đi ra. Tên Cẩn theo sát phía sau, rủng rẻng lắc chùm chìa khóa. Tôi
chợt nhớ ra anh bạn này, người đã phát biểu “xin cảm ơn đảng cho soong cơm đầy”
bữa chiều, lúc chia cơm hôm qua.
Tôi đã dõi nhìn theo
bóng chiếc áo vàng của tên cán bộ Cẩn và túm chăn chiếu đi trước y, về phía
cuối nhà số III; chỗ có một căn nhà nhỏ làm thụt vào gần phía hàng rào cấm của
trại. Tên Tân nhận chùm chìa khóa từ tay tên Cẩn chạy lên trước, đến căn nhà đó
mở cửa. Tôi quay lại nhìn Toàn như hỏi han, thì Toàn chỉ khẽ nói:
- Nhà kỷ luật!
Tôi còn định hỏi Toàn
tiếp là anh ta tên gì và bị bắt vào tù vì tội gì v.v… Nhưng tôi thoáng cảm thấy
một vấn đề: tại sao, từ tối hôm qua, đến sáng hôm nay, ai đã báo cáo cho cán bộ
đã vào đưa anh ta đi cùm? Giòng liên tưởng của óc tôi cứ trôi mãi: vì sao mà
nhiều người chỉ lấm lét nhìn tôi mà không ai dám đến trò chuyện? Vì sao bên
ngoài thì máy bay Mỹ bắn phá như thế. Trong Nam thì trận chiến đang khốc liệt,
thế mà từ hôm qua đến nay không có một ai, kể cả Nguyễn Huy Lân, Phan Thanh
Vân; không hể một ai tò mò nhắc đến? Hầu như mọi người chỉ nói chuyện sinh
hoạt, ăn, ngủ và lao động?
Bao nhiêu vấn đề, trong
cái không khí ngột ngạt, đầy đe dọa này. Trong cái mớ bòng bong câm lặng nhiều
hố tối, rồi đây tôi sẽ phải tìm hiểu. Mới có hơn một ngày mà ngay cả tôi cũng
đâm ra dè dặt với cả mọi người. Bao nhiêu những hiểu biết, bao nhiêu những cái
tai nghe, mắt thấy. Mỗi người đang buộc chặt, câm nín, đè ép lại trong lòng.
Còn một điều nữa càng làm cho tôi phải dè dặt, thận trọng. Buổi tối hôm qua,
lúc tôi đang nói chuyện với anh Lân và Vân; ở mãi góc sàn trên phía đối diện,
có một cậu còn rất trẻ, bộ mặt rất hiền lành. Tôi bắt gặp nhiều lần ánh mắt của
cậu ta nhìn tôi: nửa như tò mò, nửa như thiện cảm. Sáng nay, trong lúc mọi
người đang chạy ra, chạy vào lúc điểm xong, cậu ta đã đi sát vào người tôi nói
nhỏ:
- Anh hãy coi chừng
thằng Toàn!
Nói rồi, cậu ta đi
luôn, để tôi cứ thỉnh thoảng phải để ý theo dõi cậu ta. Dù tôi chưa hề biết gì
về cậu ta, ngay cả tên và tuổi.
Mải nghĩ suy về cảnh
đời tù, tôi cảm thấy cả sân và hội trường đã thưa vắng hẳn người. Tôi nhìn lại
Toàn thì cậu ta cũng đã đi từ lúc nào. Vội vàng, tôi mang chiếc rổ chiếc đĩa
nhôm của anh bạn Lê Sơn đi vào buồng. Thì cũng là lúc một hồi kẻng nữa, từng
tiếng một lại rền vang trong sương sớm. Đã bước gần vào tới cửa buồng, tôi còn
ngoái lại liếc lên chòi gác phía cổng trại. Trong căn chòi nhỏ, thấp thoáng một
tên bộ đội vũ trang đang cầm chiếc búa con, giang thẳng cánh, thong thả đập vào
cái vỏ quả bom 50 kg treo lủng lẳng trong chòi. Cũng là lúc từ các buồng, tù
nhân túa ra ngoài sân như vỡ tổ kiến càng.
Trong khi mọi người đổ
xô ra thì tôi lại chen vào. Nhét vội cái rổ và chiếc đĩa nhôm lên cái kệ phía
đầu giường rồi chạy ra.
9.
Buổi Lao Động Ban Đầu
Chỉ 2 phút sau, người đã ngồi xếp hàng kín cả sân trại. Mỗi toán
được xếp hàng đôi và ngồi dọc theo chiều dài. Tôi lướt nhìn, đến gần một chục
toán, họ ngồi im phăng phắc. Thoáng thấy Toàn, Vân, một số người quen mặt ngồi
trong hàng và nhất là trông thấy Nguyễn Huy Lân đang đứng ở đầu toán, tôi bước
đến người ở phía sau. Tôi nghiêng người khẽ hỏi một anh ngồi bên:
- Sao kẻng tập họp đi
làm sớm thế, bây giờ là mấy giờ?
Quay lại, anh nói rành
mạch:
- 6 giờ rưỡi, kẻng tập
họp để 7 giờ thì xuất trại.
Tôi không hỏi anh nữa,
nhưng trong lòng tôi đang nghĩ ngợi: 5 giờ báo thức. Như vậy, chỉ có 1 giờ 30
phút mà bao nhiêu là việc, chả trách ai cũng nhanh nhẩu, nhớn nhác chạy như ma
đuổi. Có nhiều con mắt nhìn về phía tôi, thậm chí nhiều người ngồi mải hàng
trên còn ngoái lại. Có thể vì tôi là người tù mới đến trại. Hơn nữa, tôi vẫn
còn mặc chiếc quần tergal mầu vàng và cái ruột áo bông còn tốt mà các cậu Phúc
Thổ, Thọ Lột, Tiến Ga v.v… ở dưới Hỏa Lò đã trang bị cho. Loại quần áo này, làm
khác hẳn với quần áo mầu xám xịt, hoặc nâu đất của anh em toàn trại. Bên ngoài
cổng, một lũ công an vũ trang mặc quần áo xanh lá cây, đeo súng dài cũng đang
đứng xếp hàng đôi một loạt. Cạnh đấy, một lũ công an mặc áo vàng mà lúc này gọi
là quản giáo, đang đứng tùm hụm phía trong cổng. Một lúc sau, có lẽ chúng trao
đổi, hoặc nhận chỉ thị chung gì đó, mỗi tên tản ra đến gặp toán trưởng từng
toán tù.
Nhìn Lân ôm một chồng
sổ sách đang đứng báo cáo với một tên cán bộ ở phía góc sân; tôi dự đoán có lẽ
y là cán bộ của toán 2, tức toán của tôi. Nhất là, thấy y cứ liếc nhìn về phía
tôi, hẳn Lân đã báo cáo với y có tù mới nhập toán. Tuy rằng, là cán bộ y đã phải
biết trước Nguyễn Huy Lân nhiều ngày. Y khoảng 4 chục tuổi, có cái đầu cắt ngắn
kiểu Tăng Gô làm cho mặt y hơi chất phác, không có vẻ ác ôn, láu lỉnh.
Trời sớm, chợt sáng
bừng lên. Lơ đãng, tôi đưa mắt nhìn về phía Đông, mặt trời đã ngoi lên khỏi
rừng nứa đến 3 gang tay, làm cho mầu đỏ nét chữ của khẩu hiệu: “Vì miền Nam
ruột thịt, bộ đội đổ máu nơi chiến trường, nhân dân đổ mồ hôi trên đồng ruộng”
tươi rói lên, tương phản với cái nền mầu trắng của tờ giấy dài, dán lên tấm
phên nứa che giếng nước của trại. Tấm biểu ngữ ngay trước mặt như đập vào mắt
những toán tù đang ngồi xếp hàng. Trời mùa Đông, nhưng hôm nay trong xanh. Một
vài vạt mây trắng nằm trải dài trên những ngọn nứa xa xa như đang cố muốn ngóc
đầu lên, để nhìn xuống sân trại xem đám tù ra quân; xả thân lao động vì miền
Nam ruột thịt.
Chừng 20 phút sau, tên
Cẩn và một tên cán bộ vũ trang đeo lon thiếu úy. Mỗi tên tay cầm một cuốn sổ,
tay cầm cây bút đứng sát hai bên phía cổng trại. Tên Cẩn bắt đầu gọi từng toán
một. Mỗi toán khi gọi đến tên, đều đứng hết dậy, rồi theo hàng đôi tiến ra phía
cổng. Khi toán ra hết khỏi cổng trại, toán trưởng của toán đó, đứng lại báo cáo
to nhân số xuất trại của toán mình; nếu phù hợp đúng với số người mà 2 tên đang
điểm; khi đó, ở bên ngoài cổng sẽ có hai tên vũ trang đã được phân công từ
trước, tách ra khỏi hàng, đeo súng đi theo toán tù đó.
Toán 2 và 3 là hai toán
làm việc trong khu thủ công ngay cách cổng trại chừng 150 mét, vì vậy thường
được gọi sau cùng. Lúc toán 2 ra khỏi cổng trại, Lân, lão cán bộ áo vàng quản
giáo và hai tên bộ đội vũ trang đi sát liền phía sau. Ra đến bên ngoài, tôi lại
nhìn thấy con đường đất đỏ mà ngày hôm qua tên Y đã dẫn tôi vào đây. Nhìn chéo
phía trái, cũng vẫn lá cờ máu đang ngơ ngác trên ngọn chiếc cột là một cây
muồng to thật dài sơn trắng. Phía bên trong là một khu nhà, trong đó có một cái
nhà khá to, tuy cũng vẫn là gỗ với nứa. Bên ngoài, phía trước có nhiều chậu
cảnh và những luống hoa dài mà tôi đã đoán từ hôm qua, đó là nhà của giám thị
và bọn cán bộ coi trại.
Ngay phía bên phải
đường theo một đường mòn khoảng dăm chục thước là một chiếc cổng bằng gỗ để mộc
đã mốc đen xì vì mưa nắng. Bên trên là một chiếc biển đề: “Khu thủ công”. Chiếc
biển có lẽ đã mang nặng tuổi đời nên đã cong méo đi. Nét chữ đỏ nhiều chỗ sơn
đã dộp lên như gỗ mục lâu ngày đang mọc nấm mèo.
Khi toán 2 đã vào hết
trong sân khu thủ công, vẫn phải đứng xếp hàng đôi ở giữa sân. Anh Lân toán
trưởng đi từ đầu toán xuống đến cuối, miệng lẩm bẩm, mắt nhìn từng đôi một. Sau
đó, anh quay lại, tiến đến đứng nghiêm trước hai tên vũ trang, từ nãy vẫn đứng
chờ ngay phía cuối toán:
- Báo cáo cán bộ, toán
2 điểm số 49 người, đủ!
Hai tên cùng lạnh lùng
gật đầu. Bấy giờ toán mới tản mác , mỗi người chạy về cầu bào chỗ làm của mình.
Tôi đang nhìn theo tên quản giáo toán đi phía trước, Lân ôm chồng sổ sách quầy
quả đi theo sau về phía một chiếc nhà con, đầu tôi chợt nghĩ: mới có từ trong
trại ra đây chỉ hơn một 100 mét, thế mà đã phải điểm lại, báo số. Thật là một
nguyên tắc giáo điều!
Vì chưa được phân bổ
công việc, trong khi tên cán bộ toán và Lân chắc còn đang hội ý trao đổi hay
báo gì đó trong căn nhà con. Hơn nữa, mỗi người mỗi việc chả ai nói gì đến tôi,
cho nên tôi đi lang thang trong lán nhìn những cảnh lạ của cuộc đời mới lạ.
Một không khí lao động
hùng hục, ai cũng luôn chân, luôn tay cưa, đục, đẽo; thấy tôi đi qua cầu bào
chỗ họ đang làm. Thỉnh thoảng mới có một anh ngẩng lên nhìn tôi, hơi mỉm cười
như chào, rồi lại cúi xuống say mê vào với công việc. Thấy Toàn đang mắm môi,
gò lưng cưa một miếng gỗ dầy, tôi rảo bước tiến lại. Toàn ngừng tay, ngẩng lên
vừa hỏi tôi vừa thở:
- Anh Bình chưa được
phân về tổ nào à?
Tôi tươi mặt trả lời
Toàn là chưa và tôi định hỏi làm như thế này thì có mệt lắm không. Nhưng Toàn
đã lại gò người xuống, chồm chồm cưa rọc như bổ củi. Thấy vậy, tôi khẽ gật đầu
chào Toàn vì tôi đã liếc thấy Phan Thanh Vân đang dạng hếch chân ra trên cầu
bào, tay cầm chiếc dùi đục to tướng, đang vẹo người nện lấy nện để vào cái đục
ở trong tay kia. Một tay ngoáy đục, một tay anh nện liên hồi, tôi đến kề bên mà
anh vẫn không thấy. Chờ một giây, tôi đành cao giọng, lên tiếng vì tiếng đục,
tiếng cưa vẫn cứ chan chát:
- Làm gì mà ghê thế?
Chắc Vân đã quên ngày cầm càng lướt gió rồi à?
Vân ngẩng lên, mặt đỏ
gay, chắc anh đang mệt. Một mắt của anh ánh lên hơi cười rồi liếc nhanh một anh
bào soàn soạt ở cầu bào bên cạnh. Anh cố lờ ý nói đùa của tôi mà chỉ hỏi:
- Trước đây anh đã biết
tí gì về nghề mộc chưa?
Vẫn giọng đùa cợt, tôi
hỏi lại Vân:
- Thế ngày xưa Vân có
biết làm mộc không?
Vân hơi nhếch mép cười
rồi lại giơ dùi lên tiếp tục nện. Tôi cảm thấy rằng nhiều người không dám nói
chuyện trong khi lao động. Nghĩ vậy tôi rảo bước sang chiếc lán nhỏ, chỗ có lò
rèn và mấy bác già đan lát. Tôi rẽ ra một lối đi nhỏ, rồi bước lên hè của căn
lán lò rèn. Ở đó, tôi thấy một số bác già đang cúi xuống, mải mê đan những
chiếc giành. Tôi khẽ lách chân để đi qua, nhưng mấy bác đã lục đục đứng cả dậy
hơi cúi đầu lễ phép:
- Xin chào cán bộ ạ.
Tôi ngạc nhiên nhưng
chợt hiểu. Chỉ vì chiếc quần tergal màu vàng của tôi. Hẳn rằng các bác đang cắm
cúi làm việc, thấp thoáng thấy chiếc ống quần mầu vàng, nên họ mới lầm như vậy.
Tôi vừa đặt tay nhẹ vào một bàn tay nhăn nheo của một bác, vừa nói:
- Cháu cũng là tù đây
mà bác!
Bác già hơi mở to mắt,
rồi mấy bác cũng vừa cười vừa ngồi xuống, còn ngoái nhìn theo tôi mãi. Tôi thầm
nghĩ: “thì ra cái mầu vàng ở đây cũng có oai thực”.
10.
Những Ngày Đầu Trong Lán Thủ Công
Sau đó, tôi định bước vào chỗ mấy ống bễ, thì phía lán của toán
2 đang ầm ầm những tiếng nói to như cãi nhau. Tôi vội vàng trở về lán vì cũng
nhác thấy tên cán bộ toán và Lân đang từ trong buồng con đi ra và đang tiến về
chỗ đám cãi nhau.
Một đám đông, độ mười
mấy người trong đó có cả Phan Thanh Vân, Bùi Tâm Đồng cạnh chỗ một đống to vỏ
bào ở góc sân. Có hai người đang đỏ mặt tía tai giằng co mấy tấm ván gỗ. Khi
tên cán bộ đến, thì hai anh này đều bỏ tấm ván xuống rồi tranh nhau báo cáo.
Tên cán bộ mặt đanh lại, chỉ vào người có dáng mảnh khảnh (sau này tôi mới biết
tên anh là Châu), cho báo cáo trước. Anh Châu, tuy đã tỏ ra lễ phép nhưng vẫn còn
toát ra nỗi uất giận trong giọng báo cáo:
- Báo cáo cán bộ, những
tấm ván này, mấy hôm trước anh Lân toán trưởng đã phân về cho tổ chúng tôi.
Chúng tôi chưa kịp lấy về thì tổ anh Vân hôm nay đã cho người ra khuân về.
Anh kia, người lùn tịt,
hẳn là ở tổ Vân, cũng hấp tấp báo cáo:
- Thưa ông cán bộ, anh
Châu đã nói không đúng, những tấm ván này, ngay từ tuần trước, tổ chúng tôi đã
mất thời gian chọn lựa từ trong đống gỗ ra. Chúng tôi đã sắp xếp chuẩn bị từng
khâu theo kế hoạch lao động của tổ chúng tôi.
Tên cán bộ nhăn mặt
lại, dõng dạc giọng miền Nam:
- Bây giờ, không được
ai dùng những tấm ván này. Tất cả hãy về chỗ, không được lãng phí thời gian
trong lúc lao động.
Mọi người đều dãn ra,
đâu trở về đấy, không còn một tiếng ho hay hắng dặng. Nhìn và nghe cảnh này,
tôi cũng chịu. Có lẽ tôi không hay chưa hiểu nổi vì sao. Tôi đang định chuồn ra
phía sau để tránh mặt tên cán bộ thì Lân đã trông thấy. Nhìn tôi, Lân cao
giọng:
- Anh Bình lên cho cán
bộ gặp!
Tên cán bộ liếc nhìn
tôi như ý bảo theo y, rồi quay lưng lại đi về phía căn nhà con. Tôi lặng lẽ,
chậm chạp đi theo phía sau y. Khi tới cửa, tôi ngừng lại, thì y đã chỉ chiếc
ghế đẩu trước bàn của y rồi nhìn tôi nhẹ nhàng:
- Anh vào ngồi đây!
Y cúi xuống, lật qua
mấy tờ ở tập sổ hay hồ sơ ở trước mặt, đoạn ngẩng lên nhìn tôi, thong thả:
- Anh tên gì?
- Dạ thưa, Đặng Chí
Bình.
Y lại nhìn xuống cuốn
sổ. Tôi liếc nhìn toàn bộ trong chiếc phòng con. Trong góc chỉ có một chiếc tủ
con bằng gỗ mộc, một cánh khép hờ. Trên mặt tủ, một cành hoa giấy mầu vàng
nhạt, chắc vì lâu ngày nên đã xỉn lại. Bên cạnh là một chiếc lọ mực Waterman cũ
kỹ không có nắp. Trên vách, phía sau lưng y, tấm hình tên Hồ già dán vào vách
nứa. Đôi mắt lão lờ đờ vàng kệch vì tấm tranh đã sờn mép. Bên dưới có khẩu hiệu
viết tay: “Hồ chủ tịch muôn năm”, nét chữ còn mới, rất mềm. Nhất là hai bông
hồng hai bên vẽ thật tươi, đầy sinh động, nhìn như hoa thật. Tôi cứ lơ đãng
nhìn hai đóa hồng, trong lòng thầm ca ngợi người họa sĩ thì y lại hỏi:
- Trước đây, anh có
biết tí gì về nghề mộc không?
Câu hỏi giống hệt anh
chàng Phan Thanh Vân, tôi vội trả lời:
- Thưa, tôi không biết!
- Anh có nghề gì?
Tôi vừa lắc đầu, vừa
nói “không”. Y hơi cau mày, hỏi tiếp?
- Vậy trước đây ở miền
Nam, anh làm nghề gì?
Tôi định nói, tôi biết
làm nghề thợ vàng, nhưng tôi trả lời:
- Trong Nam, tôi chỉ đi
học!
Mặt y có vẻ hơi dịu
lại. Chiếc môi xam xám của y hơi rung rung. Nhìn tôi có vẻ nhẹ nhàng, tay y gập
tập sổ lại, nói với một giọng mà tôi cảm thấy chân thành:
- Hiện nay ban giám thị
chiếu cố cho anh hưởng 15 kg chất bột một tháng. Anh phải ra sức tích cực cải
tạo lao động, nghiêm chỉnh chấp hành mọi điều khoản nội quy trại đã đề ra; ra
sức phấn đấu trong lao động và học tập tiến bộ. Bây giờ anh xuống gặp anh Lân,
toán trưởng đưa anh về tổ anh Quý.
Qua dáng dấp, cách nói,
cách nhìn của y, tôi cứ cảm thấy y tương đối có tấm lòng thẳng thắn, bộc trực
của người miền Nam. Cho nên tôi cũng nhìn lại y bằng ánh mắt dìu dịu tình người
trước khi chào y và đi xuống lán.
Vừa xuống đến lán, anh
Lân từ một cầu bào phía đầu lán đã đi lại phía tôi. Sau khi tôi nói với anh là
cán bộ phân công tôi về tổ anh Quý, nhưng anh tỏ vẻ như đã biết rồi. Anh vẫy
tay tôi đi theo vào một căn nhà xép làm nối liền với lán về phía sau. Đi qua
một cái giậu gỗ thấp, vừa bước lên mấy bực thềm tôi đã thấy anh Lê Sơn, người
đã cho tôi suất sắn sáng hôm nay; chiếc đĩa nhôm của anh tôi vẫn còn giữ. Anh
đang cúi khòm người xuống nền đất viết, kẻ một khẩu hiệu lên một miếng bìa mầu
trắng vừa to, vừa dài. Đây đó những hộp sơn, những bút vẽ để bừa bãi. Chung
quanh vách, trên bàn còn treo nhiều băng khẩu hiệu vẫn còn tươi mầu mực, chắc
là đang để cho khô.
Lán phụ này tuy có hai
gian, nhưng chỉ thấy có hai người làm việc. Anh Lân vào gặp một anh phía trong
cũng đang lúi húi quét sơn, hay dầu bóng vào một cái đầu giường còn mới nốt
bào. Thấy Lân đến, anh đó đã đứng lên, tôi hơi ngạc nhiên vì anh chỉ có một
tay. Anh Lân chỉ tay về phía tôi, quay nói với anh đó vẻ đầy thân tình:
- Bình nó về tổ Quý đấy
nhé!
Từ nãy tới giờ, tôi
đang băn khoăn; sao tự nhiên hôm nay Lân đối với tôi có vẻ vồn vã, thân tình
hơn thì Lân đã hạ thấp giọng làm tôi đã hơi hiểu:
- Như vậy là Bình cũng
ở trong Nam ra à?
Nghe thấy thế, Lê Sơn
và Quý đều liếc nhìn lại phía tôi, Lân vẫn vừa cười, vừa nói tiếp:
- Thấy cậu ăn mặc chỉnh
tề, tưởng cậu là cán bộ hay sinh viên du học bị bắt chứ, ai ngờ!
Trong khi nói thế, mắt
anh ta vẫn cứ nhìn trân trân vào chỗ hàm dưới thiếu mấy cái răng cửa của tôi.
Lê Sơn, từ lúc tôi vào vẫn cặm cụi tô vẽ, bây giờ đứng hẳn lên niềm nở, vẫn
giọng Nghệ An nặng chình chịch:
- Hay quá, đang bù đầu,
vào đây làm với anh em mình cho vui.
Khi Lân đã quay ra, trở
xuống lán mộc thì anh Quý nhìn tôi nói nhỏ nhẻ, tuy cũng giọng miền Trung:
- Bình được vào tổ này
là hay đấy! Đây là tổ vernie chỉ có tôi và Lê Sơn. Khi nào công việc nhiều thì
mới gọi thêm người phụ, bình thường chỉ có hai người, nên văn nghệ lắm; không
rắc rối, sinh hoạt như những tổ khác.
Nhìn thoáng qua công
việc làm, tuy không phải năng khiếu của tôi, nhưng tôi cũng cảm thấy thích thú
hơn là đi học mộc. Hơn nữa, thấy hai người tính tình cởi mở, gần gũi đã làm
giảm hẳn nỗi nặng nề, lắng lo trong lòng tôi lúc mới bước chân vào khu thủ công
này; cho nên tôi cũng tỏ sự chân thành:
- Những việc này tôi
chưa hề biết làm, mong các anh chỉ dẫn dần dần cho.
Lê Sơn chỉ bức khẩu
hiệu đang kẻ dở dưới sàn hỏi tôi:
- Những chữ này chắc
anh kẻ, viết thừa sức?
Tôi đang nhìn chăm chú
một cành hồng tươi roi rói, còn thắm au lên mầu mực mới. Những chiếc lá uốn éo,
mềm mại tự nhiên, những cánh hoa lả lướt lung linh làm tôi cảm thấy như có làn
hương ngan ngát, thoang thoảng của một cành hồng nở rộ đón Xuân sớm. Cho nên
khi nghe câu anh hỏi, tôi chỉ lắc đầu và hỏi lại anh một cách trầm trồ:
- Thế hai đóa hồng trên
buồng ông cán bộ cũng do anh vẽ đó ư?
Anh cười hềnh hệch, đôi
mắt lươn của anh càng nhắm tít lại. Luồn trong giọng trả lời của anh có nét tự
kiêu:
- Ông ta muốn thì tôi
phải chiều. Tôi chỉ phóng tay mươi phút, thế mà cũng được hai điếu Điện Biên
đấy!
Chắc để hưởng ứng cái
tài của Lê Sơn, anh Quý cũng tiến lại vừa cười, vừa nói:
- Lê Sơn có tài hai tay
vẽ như một. Hầu hết những ngày lễ, Tết của trại cũng như của ban giám thị, bao
nhiêu khẩu hiệu cũng đều do Lê Sơn vẽ cả. Thậm chí, những trang trí phòng ốc để
đón các phái đoàn quan khách cũng đều phải gọi đến Lê Sơn. Ngay ở ngoài trại
chính, khi có việc cũng cử cán bộ vào gọi Lê Sơn.
Tôi nhìn Lê Sơn bằng
đôi mắt ngưỡng mộ, sốt sắng hỏi anh:
- Ngoài những cánh hồng
tươi thắm, nổi bật như thật là biệt tài của anh; anh có vẻ được những loại hoa
khác hoặc như chim, bướm v.v…?
Anh gật gật đầu, mắt
anh càng như nhắm lại, sôi nổi trả lời tôi:
- Tôi không phải là họa
sĩ, nhưng nhiều thứ tôi làm được.
Nói rồi, anh liếc nhìn
về Quý, lúc này đã lại cặm cụi vào chiếc đầu giường cách xa 4 – 5 mét; anh quay
lại hạ thấp giọng chỉ đủ mình tôi nghe:
- Ở trong này, chúng nó
bóc lột mình đến xương tủy, tội gì mà đưa máu cho chúng nó hút!
Tôi ngẩn người ra nhìn,
nghe anh ta nói. Tôi chưa hiểu gì về anh và anh cũng chưa hiểu gì về tôi; thế
mà anh phát biểu một câu động trời như vậy, tôi chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Nhưng
xem ý anh ta cũng chẳng quan tâm, để ý xem thái độ của tôi khi nghe anh nói
thế, ra sao. Tôi ngồi sát lại bên anh, chỉ băng khẩu hiệu anh đang kẻ, nói nhẹ
nhàng:
- Tôi không có khả năng
kẻ chữ như anh, nhưng để tô những nét anh kẻ rồi thì tôi làm được.
Mỉm cười, tôi nói tiếp
như đùa:
- Tôi không có khả năng
sáng tạo, nhưng lại có khả năng mô phỏng. Nghĩa là anh cứ chỉ dẫn, tôi sẽ làm
được theo ý anh.
Nói rồi, tôi lựa một
cái bút vẽ, cũng gò người cặm cụi tô những chữ anh đã kẻ. Như vậy cũng có thể
thay được cái thời gian mà anh phải tô, để bắt đầu kẻ khẩu hiệu khác. Vừa làm
vừa chuyện trò, chỉ có hai người nên cũng thoải mái. Hơn nữa, công việc này
cũng ít nhiều là nghệ thuật nên không bị thúc ép mấy. Chính những lúc chuyện
trò, trao đổi này, sơ lược tôi được biết về anh:
Anh là thiếu úy, làm
quân báo hơn một năm, rồi về làm cận vệ cho ông Hồ Tùng Mậu. Anh đã theo ông
Mậu đi khắp nơi trong những nẻo núi rừng Việt Bắc trong cuộc chiến tranh trường
kỳ chống Pháp. Thậm chí anh đã lặn lội 2 – 3 lần theo ông Mậu sang Trung Quốc.
Nhưng sau, phần vì cá tính của anh trực, thẳng thắn xen lẫn ý ngông cuồng. Phần
khác, anh đã lập được nhiều công trạng với khả năng của anh, nhưng anh đã không
được đền đáp xứng đáng. Trong khi nhiều kẻ không có tài, chỉ biết cách luồn
cúi, nịnh bợ thì lại nhẩy lên vùn vụt trên đường hoạn lộ. Chính vì anh mang sẵn
trong lòng sự bất mãn để cuối cùng anh bị bắt vào tù với cái tội “phát ngôn bừa
bãi” và “chểnh mảng nhiệm vụ được giao”. Bắt anh là lệnh tập trung 3 năm. Nhưng
hiện nay anh đã sang lệnh thứ 4, nghĩa là đã 11 năm rồi.
Mải mê làm việc, và
cũng mải mê trao đổi nghe chuyện của anh thì một hồi kẻng, dòn vang lên từ phía
cổng trại làm tôi ngơ ngác nhìn Lê Sơn. Anh đã từ trong góc nhà, chỗ gần chiếc
bàn có chồng bìa để kẻ khẩu hiệu đi ra, miệng rối rít giục:
- Bình xếp gọn sơ các
thứ lại cho gọn ghẽ còn ra tập họp điểm số, 11 giờ rồi!
Tôi liếc nhìn ra lán
mộc. Cả một bản đại hòa tấu các loại âm thanh hỗn độn lúc này đã ngưng bặt. Mọi
người đang lục đục xếp gọn dụng cụ. Khi chúng tôi xuống đến lán mộc thì toán 2
và 3 đã xếp hàng đầy ở sân rồi. Anh Lân đang điểm người toán 2, quay lại nhìn
chúng tôi đang chạy ra. Chắc rằng anh đã thấy đủ số, nên tiến đến chỗ 2 tên bộ
đội vũ trang đang đeo súng đứng gần đấy. Anh Lân lại phải đứng nghiêm chân,
thẳng người báo cáo con số.
Toán nào về đến cổng
trại đều phải đứng lại. Trước khi toán vào trại, tên trật tự Phạm Huy Tân và
tên Cẩn trực trại đến đầu toán. Lần lượt từng anh một, giơ hai tay thẳng lên
đầu. Tên Tân dùng hai tay vuốt hai bên nách; vuốt lưng, bụng, hai chân từ háng
trở xuống trước sự chứng kiến của tên trực trại Cẩn. Những ngày sau tôi đã hiểu
rõ: nội quy cấm đưa vào trại mọi loại kim khí, mọi thức ăn (rau, sắn, gạo v.v…)
củi, đóm, trà. Nếu trật tự khám thấy ở trong người anh nào thì anh đó phải đứng
ra một bên phía trong cổng trại, chờ cán bộ sẽ xử lý kỷ luật. Nhẹ nhất là mấy
chiếc đóm nứa để hút thuốc lào. Hoặc một mẩu sắn con, hay nắm rau dại luộc. Anh
đó cũng bị đứng giam trơ trơ ra ở cổng trại. Ráng chịu rét về mùa Đông; nắng
cháy về mùa Hè hàng nửa giờ, có khi hàng giờ. Trong khi cơm nước không có ai đi
lấy cho, tới khi được tha thì cơm đã nguội. Phải ăn hộc tốc, vội vàng để còn
kịp giờ lại phải đi lao động. Thôi thì phải chịu nhiều thứ khó khăn sau đó.
Chưa nói đến tối hay cuối tuần còn bị tổ, toán nạo cho mềm người.
Tên trật tự Tân, phần
vì phải tích cực làm tròn hết mình nhiệm vụ được giao. Càng tìm khám ra được
các thứ vi phạm nội quy thì càng có thể, được lòng tin của giám thị và cán bộ.
Phần khác, nếu trật tự thông cảm hay tốt với người quen chẳng hạn. Thí dụ: sờ
bụng anh đó thấy gói trà, lờ đi để anh đó mang được trà vào trại. Buổi tối hay
Chủ Nhật, họ sẽ lén lút, vụng trộm đun nấu trà để uống (nội quy cấm tuyệt đối
không được đun nấu trong trại, trừ nhà bếp). Uống trà, nấu thì phải có khói nên
những tên joóc (antene) sẽ báo cáo, hoặc chính cán bộ rình bắt được. Lúc đó,
khuyết điểm của tên trật tự sẽ lòi ra. Bởi vậy, để không phải lo hậu họa, tên
Tân chẳng để qua cho một ai. Khi đến lượt tôi phải giơ tay lên cho tên Tân vuốt
người. Một nỗi sượng sùng, nhục nhã cứ rỉ ngấm dần vào để lòng se sắt ngậm ngùi
cho một kiếp tù.
Sau khi tên Tân khám
xét xong, bấy giờ tên Cẩn mới lùi về phía cổng trại thì anh Lân tiến lên đứng
nghiêm trước mặt y rồi hô ta, dõng dạc:
- Toán 2 xuất trại 49.
Nhập trại 49, đủ. Xin cán bộ cho nhập trại.
11.
Tiền Âm Phủ
Thời gian ăn, ngủ, lao động luôn luôn có hạn khít khao. Vì thế
khi toán 2 bắt đầu nhập trại; những anh đi hàng đầu, đôi nào vào đến bên trong
cổng trại là đã vội vã chạy về buồng. Người nào đến phiên trực của mâm thì chạy
rẽ ngay vào nhà bếp để lĩnh cơm, canh. Khi xếp hàng ở bếp chờ lĩnh được rồi,
hai tay bê soong canh hay cơm chạy hộc tốc về ngay buồng. Tìm đến chỗ vẫn chia
cơm, canh của mâm đặt xuống, rồi lại hấp tấp chạy về buồng mình lôi bát đũa của
mình ra. Người nào trực mâm thì cũng giữ cân của mâm. Hai người lúi húi chia
cơm và canh. Những anh không phải ngày trực mâm thì cũng chả được nhàn rỗi. Sau
khi đặt bát lấy cơm, canh cũng tất bật chạy xuống giếng múc gầu nước về để khi
ăn xong rửa bát. Vả lại cũng cần lo toan mọi việc cho nhanh chóng để còn về
đứng chứng kiến người chia cơm canh thì mới yên lòng. Trong hoàn cảnh đói khổ,
thiếu thốn thế này thì chẳng ai tin được ai.
Tôi chạy vội về buồng
lấy chiếc rổ và chiếc rá cơm để ra lấy cơm, canh. Nhìn thấy chiếc đĩa nhôm của
Lê Sơn, liếc lên sàn trên, thấy Lê Sơn đang lúi húi lấy đồ trên cái kệ. Tôi giơ
cao cái đĩa gọi với lên:
- Anh Sơn! Tôi gửi lại
anh cái đĩa để anh lấy cơm.
Chắc đang bận lục tìm
cái gì, quay lại anh chỉ nói ngắn ngủn:
- Anh cứ dùng đi, tôi
có rồi!
Không đủ thời gian để
trả lời anh, tôi lập cập mang cái đĩa lẫn rổ ra chỗ chia cơm, canh. Chỗ cơm
cũng như chỗ canh, mọi người đã đặt đủ bát đĩa rồi, chỉ còn thiếu một mình tôi.
Nhiều người quay lại có vẻ sốt ruột. Một anh cầm chiếc đũa cả bằng nứa, đang
đảo sùng sục soong cơm ngô, quay lại nhìn tôi:
- Sao chậm thế! Mọi
người đang chờ mỗi mình anh.
Mặt anh còn rất trẻ,
trắng trẻo mà nói tiếng kinh lại không rõ. Thấy tôi còn vẻ ngơ ngác chưa quen.
Anh Đồng đã cầm chiếc rá lót ny lông của Toàn đưa hôm qua ở tay tôi. Anh đưa
đến đặt ở chỗ chia canh, rồi kéo tôi lại chỗ chia cơm, chỉ anh trắng trẻo đang
đảo cơm:
- Đây là anh Lù Chằn
Páng. Hôm nay anh Páng và anh Yên trực mâm, Thành Xuân Yên.
Anh vừa nói vừa chỉ lại
chỗ một anh chừng 40 tuổi đang cặm cụi chia canh. Một cậu đứng bên cạnh tôi,
chỉ vào con số 10 ghi ở soong cơm thắc mắc:
- Sao, mâm 5 của mình
hôm nay lại chỉ có 10 suất?
Anh Páng vẫn đang đảo
cơm, ngửng mặt lên:
- Anh Khải đi kỷ luật
sáng nay, quên à?
Tôi cứ băn khoăn, tại
sao Páng cứ ngồi đảo cơm mãi, để cơm nguội hết. Tôi hỏi anh Đồng thì anh đã
giải thích: việc này đã trở thành thông lệ của mọi năm rồi. Cơm cân, vì vậy
phải đảo trên dưới cho đều, không còn để vầng, tảng. Cơm vầng và bên dưới, ướt
sẽ nặng cân. Trước đây đã xẩy ra nhiều chuyện chửi bới thậm chí đấm, đá nhau
chỉ vì cơm ướt, cơm khô. Cho nên bây giờ năm nào cũng vậy, trước khi cân đều
phải đảo lộn, đánh cơm tơi ra.
Tôi đang nhìn mười
chiếc gồm: rổ, rá, đĩa, bát đủ kiểu, đủ mầu đặt lộn xộn một đám giữa sân thì
anh Páng đảo soong cơm đã rời đều. Anh chọn lấy một chiếc bát tráng men to mầu
xanh thẫm trong đám lộn xộn rổ, rá này. Chiếc bát thứt thẹo, nhiều chỗ sét rỉ
đã đen sì như mụn ghẻ đang làm vảy. Hẳn nó ra đời đã lâu ngày và đã vật lộn
nhiều với cuộc sống lam lũ với bao lần thất cơ, lỡ vận. Quay lại, anh với chiếc
túi vải xanh kiểu dân tộc Mèo để bên cạnh. Chiếc túi đã đụp vá bằng 2 -3 miếng
vải vừa nâu vừa đen; chắc đã lâu ngày không giặt, đầy cáu ghét. Anh lấy trong
túi ra một cái bát sành con để xúc cơm ở soong vào chiếc bát xanh lớn chừng 2
bát cơm con ở gia đình. Anh khẽ đặt vào một chiếc cân mà một anh trong mâm đang
giơ ra chờ. Tùy theo chiếc cán cân, bổng lên hay hạ xuống. Anh rút trong túi áo
bông ra một chiếc cùi dìa con bằng nhôm. Cẩn thận, anh lấy ra hay cho vào chỉ
từ mươi hạt cơm đến nửa thìa là chiếc cán cân đã ngang bằng trước sự chấp nhận
của gần mười cặp mắt đang nhìn chằm chằm. Xong rồi, anh cầm chiếc bát xanh to
đổ vào một cái rổ, rồi lại tiếp tục cân suất thứ hai.
Trông anh “thao tác”
nhẹ nhàng, nhuần nhuyễn; hầu như mỗi lần xúc cơm, anh ước lượng, ướm thử bằng
mắt, nên nhiều lần cân không phải lấy cơm ra hay cho thêm vào. Thật là tài, có
thể do lâu ngày, cái tay xúc, cái mắt nhìn đã thành quen. Tôi đang đứng coi anh
Páng cân được 5 -6 suất thì Toàn từ dưới giếng xách gầu nước về đặt vào một góc
sân, rồi đến kéo tay tôi lại chỗ chia canh.
Bây giờ tôi mới để ý.
Canh gì sền xệt có mầu trắng xam xám; mãi đến khi anh Yên dùng cùi dìa bửa
những cục to ra làm đôi, ba miếng tôi mới hiểu là sắn. Anh nhẹ nhàng xúc những
cục sắn nấu chưa tan bỏ đều vào các bát, các rổ. Nếu cục nào to thì anh lại xắn
bớt ra chuyển cho phần khác. Khi những cục sắn đã chia tương đối đều thành 10
suất, anh mới lấy, cũng một chiếc bát sành con múc cái nước sền xệt đổ vào từng
suất cho đều. Khi đã làm hết lượt, còn một ít nào trong soong, anh lại lấy một
chiếc muỗng nhôm múc thêm cho suất này, suất kia điều chỉnh cho đều tùy theo
mắt anh quyết định. Đôi khi lại theo ý những người đang đứng theo dõi. Người
bảo đổ thêm cho suất này, người bảo đổ thêm cho suất kia.
Thực ra điều này do tâm
lý người đứng nhìn. Chỉ thấy bát mình ít hơn bát người khác, nên cứ chỉ chỏ lộn
xộn. Cho nên, từ lâu đã nghiễm nhiên trở thành một nguyên tắc là không ai được
chỉ hay nói. Hãy để tùy quyết định của người chia, vì ngày khác, đến lượt mình
chia cũng được hưởng quyền đó.
Khi cầm cái rá đựng
canh của tôi lên, thấy ướt nhèm. Nhìn xuống chỗ để chiếc rá, đất khoang ra một
chỗ hãy còn ướt nguyên. Như vậy, miếng ny lông của Toàn lót hôm qua quá cũ nên
đã bị rò. Tay còn đang cầm cái đĩa của Lê Sơn, tôi trút vội canh sang chiếc đĩa
nhôm. Để chiếc đĩa nhôm chồng lên cái rá; đến lấy rổ cơm rồi theo Toàn vào hội
trường.
Buổi trưa, trời còn
sáng. Trong hội trường lại có nhiều bàn ghế vì nó vừa là nhà ăn, lại cũng vừa
là hội trường dùng cho khi học tập hay khi ban giám thị nói chuyện. Lúc này
người ta vào ngồi ăn kín cả hội trường. Dù tôi đang thích ăn sắn, vậy mà canh
sắn lại đăng đắng do những củ sắn đã chạy máu, hơn nữa chỉ nấu với muối thành
một thứ sền sệt, nên nhai với cơm ngô mãi không nuốt được. Tuy vậy, vì bụng đói
nên cũng nuốt nhanh.
Ngồi nhai cơm, thoáng
nhìn thấy Phan Thanh Vân và Lân ngồi cách hai ba bàn. Tôi và Vân đều gật đầu
cười khi mắt gặp nhau. Nhìn thấy bát cơm của Vân hơn hẳn suất sơm của tôi với
Toàn. Tôi ngạc nhiên hỏi Toàn mới hiểu được khái niệm: Toán hai có năm mâm,
trong đó một mâm đặc biệt ăn 18 kg, ba mâm ăn 15 kg mà mâm chúng tôi là một.
Ngoài ra còn một mâm ăn 13 kg, những người bị đi kỷ luật ăn 9kg thì không kể.
Mâm ăn 18 kg là những người lao động khỏe, có năng suất, vượt chỉ tiêu lao động
của trại. Hơn nữa, họ còn phải là những người cải tạo tiến bộ, không hề vi phạm
nội qui của trại. Hàng tháng, hàng quí và hàng năm họ thường được bình bầu là
những cá nhân xuất sắc của trại.
Mâm ăn 15 kg là những
người lao động chỉ đạt chỉ tiêu. Tuy có người trong nhóm này làm vượt chỉ tiêu,
lao động tích cực nhưng có thể vì khâu tư tưởng, hoặc tỏ ra không năng nổ, tích
cực làm gương cho những phạm nhân khác v.v… nên họ vẫn ăn ở mức 15 kg. Mâm 13
kg là những người không đạt chỉ tiêu lao động, hay phạm nội qui hoặc hay đau
yếu v.v… Toàn nhấn mạnh:
- Em vừa nói là nhìn
cái chung như thế. Nguyên tắc là vậy nhưng trong thực tế cũng có đầy rẫy những
điều khó kiểu. Có nhiều người đang ăn ở mức thấp, lại nhảy lên mức cao hay
ngược lại. Cũng có người lao động rất khỏe mà không bao giờ được ăn 18 kg.
Nhiều vấn đề trong toán, không ai hiểu được lý do.
Nghe Toàn nói như thế,
làm tôi chợt nhớ tới Lê Sơn, nên hỏi Toàn:
- Thế Lê Sơn ăn mức bao
nhiêu?
Nuốt hết miếng cơm,
Toàn chậm rãi:
- Lê Sơn thì hết nói.
Chẳng ai kể được với anh ta. Hứng thì làm, không hứng thì ì ra, chỉ làm phất
phơ. Đi kỷ luật xoành xoạch ấy. Ngang bướng, cứng cổ với cán bộ lại hay phạm
nội qui nhưng anh ta có nhiều tài. Vì vậy ban giám thị cứ phải cần đến anh ta
luôn. Có lúc ban giám thị cứ phải lờ khuyết điểm của anh ta đi, chỉ khi nào quá
lắm mới đưa anh ta đi kỷ luật. Năm ngoái, anh ta còn dám làm tiền giả của trại
nữa. Anh ta làm tinh vi đến nỗi nếu không có người tố cáo thì không ai phát
hiện được.
Tôi hơi ngạc nhiên khi
nghe Toàn nói đến tiền trại. Chắc Toàn cũng hiểu rằng tôi chưa hề nhìn thấy
loại tiền đó bao giờ, nên anh ta thò tay vào ngực lấy ở túi áo trong ra một
miếng bìa giơ cho tôi: đây là một đồng này. Loại lớn nhất là năm đồng, sau đó
là hai đồng, một đồng, 50 xu, 20 xu, 10 xu, 5 xu. Loại nhỏ nhất là 5 xu. Loại
tiền 5 dồng to nhất, tờ bìa lớn gấp rưỡi tờ 1 đồng này. Rồi cứ nhỏ dần cho tới
đồng 5 xu. Đồng 5 xu thì một bề 2 phân, một bề 2 phân rưỡi. Thấy tôi bần thần
ra dáng chưa hiểu thì Toàn nói tiếp như giải thích:
- Những tiên này chỉ
lưu hành trong trại tù trung ương số 1 Lào Cai bao gồm 5 phân trại mà thôi và
trao đổi giữa tù và tù. Đôi khi tiền dùng để nhờ cán bộ mua hàng. Cũng có khi
ban giám thị thông báo bán thuốc lào, kẹo, đường. Vì trại có mía, nên lâu lâu
ba bốn tháng lại bán mía hay mật.
Trong trại, anh em
thường gọi tiền này là tiền âm phủ vì ra ngoài xã hội không tiêu được. Cầm
miếng bìa một đồng, tôi nhìn mãi. Tuy đơn giản nhưng với điều kiện hiện nay ở
trong trại E mà làm được giả thì cũng chỉ có được một hai người.
Một miếng bìa mỏng mầu
xám nhạt hình chữ nhật, một bề khoảng ba phân rưỡi, một bề năm phân. Một khung
như con dấu này có một đường bờ rộng hai ly. Cái khung giữa miếng bìa, phái
trên có chữ “một đồng”. Hai bên, phía dưới, một bên chữ “ban giám thị”, (có chữ
ký). Một bên có chữ “C/B tài chính” (có chữ ký). Toàn bộ tờ giấy bạc đều in
bằng mực mầu xanh cánh trà. Triện mộc của ban giám thị trại cải tạo trung ương
số một đóng ½ vào một góc của tờ bìa.
Sau khi rửa đĩa, rổ
xong với Toàn, tôi cố đưa mắt tìm anh Lê Sơn để trả lại cho anh chiếc đĩa và
cảm ơn anh đã cho tôi sắn. Lúc này, nhà ăn đã thưa người vì thế tôi đã nhìn
ngay thấy anh còn ngồi ở một bàn cuối. Anh đang nói chuyện với một anh tôi đã
quen mặt. Phải rồi! Anh này là Lý A Chén, hôm qua cùng với anh Sín Cà ốm bệnh ở
trong buồng mà tôi đã gặp. Anh ta là người dân tộc, chả hiểu là dân tộc gì? Lê
Sơn tươi nét mặt khi thấy tôi đến. Đặt cái đĩa lên bàn, tôi nói trong niềm hoan
hỷ ân tình:
- Anh đã thông cảm
những khó khăn của buổi ban đầu, xin gửi lại anh cái đĩa.
Sơn vừa dịch người lại
để chỗ cho tôi ngồi xuống chiếc ghế dài, vừa nói giọng người lính:
- Anh cứ giữ mà dùng, ở
đây dần dần rồi sẽ có đủ. Để ý làm gì những cái vặt ấy!
Rồi anh chỉ người cùng
bàn đối diện, quay lại tôi, cười giới thiệu:
- Đây là Lý A Chén, tự
giác của toán mình đấy!
Tôi cũng cười, nói là
đã biết anh Chén từ hôm qua rồi, chỉ không ngờ anh lại là tự giác của toán
thôi. Qua buổi nói chuyện này, tôi hiểu thêm được một số vấn đề mới. Như vậy,
mỗi toán có một người tự giác, người mà có thể ra vào trại đi lao động, không
cần phải có cán bộ đi coi. Anh tự giác này, tất nhiên đã được thử thách lâu
ngày về nhiều mặt. Anh có trách nhiệm phải chạy lo nhiều khâu ở bên ngoài cho
toán như: nguyên vật liệu, dụng cụ hoặc trông nom, bảo quản tài sản v.v… của
toán ở bên ngoài trại. So với toán trưởng, trật tự thì quyền hạn và nhiệm vụ
khác nhau.
Trong trại, thì trật tự
là nhất. Ra chỗ lao động thì do toán trưởng điều hành toán. Nhưng trật tự và
toán trưởng không thể ra vào trại mà không có cán bộ dẫn giải. Vì thế, trật tự
và toán trưởng vẫn phải thân mật, hẩu với tự giác. Chính do thành phần tự giác
này là đầu mối móc ngoặc, mua bán, đổi chác thầm lén với các phân trại khác và
đôi khi cả với người dân của những bản làng trong khu vực. Cũng qua Lê Sơn và
anh Chén trong gần một giờ ở buổi trưa này tôi đã nắm vững được giờ giấc sinh
hoạt của trại:
Sáng sớm, 5 giờ: kẻng
báo thức. 6 giờ 30: kẻng tập họp đi làm. 7 giờ: kẻng xuất trại. 11 giờ: kẻng về
trại buổi trưa. 12 giờ 30: kẻng tập họp đi lao động buổi chiều. 13 giờ: kẻng
xuất trại. 17 giờ: kẻng về trại. 18 giờ: kẻng thu tù vào buồng. 21 giờ, tức 9
giờ tối: kẻng cấm, tất cả đi ngủ. Như thế là tròn một ngày của tù. Theo Lê Sơn
nói: trước đây, trại còn nhiều lần kẻng như:
Kẻng giải lao 15 phút
giữa giờ lao động buổi sáng. Kẻng vào lao.
Kẻng giải lao 15 phút
giữa giờ lao động buổi chiều. Kẻng vào lao.
Kẻng thu dụng cụ 15
phút trước 11 giờ, giờ tù về trại buổi sáng.
Kẻng thu dụng cụ 15
phút trước 5 giờ chiều, giờ tù về trại.
Kẻng lấy cơm buổi sáng.
Kẻng lấy cơm buổi chiều.
Nghĩa là, suốt ngày
tiếng kẻng, chát chúa khua đập vào tai mọi người. Có thể chính ngay lũ cán bộ
cũng điên đầu, đinh tai, nhức óc suốt ngày đêm với tiếng kẻng. Bởi thế, bây giờ
bỏ sót, nên mỗi ngày chỉ còn lại 9 lần kẻng mà thôi.
Thông thường, buổi trưa
tù đi lao động về, chia chác cơm nước, ăn uống chỉ trong vòng nửa giờ. Do đấy,
từ 11 giờ 30 phút cho đến 12 giờ 30 phút là lúc kẻng tập họp đi làm. Mọi người
phải nằm nghỉ, ngủ trong một giờ để hồi sức tiếp tục lao động buổi chiều. Trong
một giờ ngủ trưa này, nếu anh không ngủ được thì tuyệt đối không được gây một
tiếng động làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của người khác. Đó cũng là nội quy của
trại và trong những điều khoản của 12 điều “nếp sống văn hóa mới”.
12.
Một Chiều Vấn Vương
Trong buổi nói chuyện với Lê Sơn, Lý A Chén này, tôi thấy rằng:
Lê Sơn là một con người có kiến thức, khá lanh lẹ, bén nhậy. Vì thế, anh đã
nhìn sâu, nhìn sát được nhiều vấn đề nên có nhiều hiểu biết về cái chế độ mà
anh đã nhiều năm xả thân phục vụ, cũng như hiện nay đang nằm trong nhà tù của
nó. Bản tính của anh lại ngông cuồng, hơi kiêu ngạo. Một người như vậy thì
không thể nịnh bợ, xum xoe, báo cáo lập công một cách hèn nhát. Còn Lý A Chén
là người dân tộc. Tuy anh không nói rành tiếng Kinh, nhưng anh có cái láu cá,
khôn lanh riêng của người thiểu số. Những chuyện lớn như trốn tù, phá trại, ăn
cắp lớn của trại thì anh ta sẽ không ngần ngại, gì mà không báo cáo. Chứ còn
những chuyện vặt vãnh như: vài lời nói phản động, dăm ba củ sắn, cái lược v.v…
thì hẳn anh ta cũng biết dành ra một cách sống thích hợp.
Cũng một phần do sự
chân thành nhã nhặn của tôi, nhưng cũng do sự hiểu biết và hiếu đượm tình người
của các anh nữa nên buổi nói chuyện cởi mở có ít nhiều tin tưởng. Tuy vậy, từ
sớm ý định của tôi muốn biết về anh Khải bị đi cùm sáng nay và còn nhiều điều
nữa muốn thăm dò, hiểu biết, nhưng xét ra chưa vội. Hãy để những ngày tới cho
tôi có thể nhìn kỹ hơn; vả lại thời gian buổi trưa cũng đã gần tàn.
Buổi chiều ở ngoài lán
thủ công. Lê Sơn thấy tôi cũng làm được nhiều việc trong vấn đề sơn, vẽ và kẻ
băng khẩu hiệu, phần nữa do phong cách sống trọng người của tôi nên anh đã thể
hiện sự quan hệ thân mật hơn:
- Anh làm như vậy, chỉ
ít ngày nữa là công việc chạy lắm. Mình phải biết điều chế cho vừa phải thôi,
kẻo mệt về sau.
Anh cũng cho tôi biết,
chỉ còn hơn 10 ngày nữa là Tết, vì vậy những khẩu hiệu này là để chuẩn bị treo
dán cho trại cũng như cho cơ quan trong dịp Tết. Lê Sơn còn khoe: cứ vào dịp
này hàng năm anh sẽ phải lên cơ quan để trang trí nhiều ngày, và như vậy có
nghĩa: trà và thuốc lá là không chạy đâu được. Anh cười, nói thêm:
- Bộ đội và cán bộ có
biết chó gì đâu!
Vừa để hưởng ứng, và
cũng vừa muốn đề cao Sơn một tí cho anh vui, tôi cũng cười:
- Họ phải như vậy thì
anh mới nổi bật và mới èo ọt với họ được chứ!
Không ngờ anh lại lắc
đầu quầy quậy, nói giọng hơi bực:
- Thế mà có được cái
chó gì đâu. Sang, hẩu lắm là một gói trà Đoàn Kết 2 hào, hay gói thuốc lá
Trường Sơn 3 hào là hết bã.
Nói rồi, anh cúi xuống
chỉ cho tôi làm tiếp một số công việc. Xong rồi anh hạ giọng:
- Bình làm đi, làm vừa
phải thôi. Để ý thấy cán bộ hay người lạ lên đây, ho 2 tiếng báo động cho tôi.
Dặn tôi xong, anh quầy
quả đi khuất vào phía trong nhà. Một lúc sau, tôi vào trong góc nhà chỗ Lê Sơn
đang cắm cúi, hì hụi tôi mới hiểu: anh đang cưa một chiếc lược bằng nhôm. Thấy
tôi vào, ngừng tay, anh rút trong túi áo nâu ra một cái bọc con bằng vải đen,
bên trong là một cái lược nhôm sáng bóng. Anh nương nhẹ bọc nó trong miếng vải
sợ tay sờ vào làm mờ cái bóng soi gương được của chiếc lược. Anh đưa cho tôi
xem rồi nói trong dáng tự hào:
- Hiện nay lược nhôm
này đang được anh em trong trại ưa chuộng lắm, để làm quà khi gia đình lên
thăm. Ngay cán bộ, bộ đội cũng có người lén lút nhờ làm, cũng để làm quà cho
thân nhân mỗi khi họ được về phép. Nhất là trại nữ tiêu thụ mới nhiều.
Tôi cầm, ngắm nghía
chiếc lược: phía đầu có một cành hoa hồng cả nụ, hoa, lá uốn éo, mềm mại; phía
chuôi là hai con thỏ say đắm ôm nhau. Nét khắc thật là điêu luyện, tuyệt vời.
Nghe những chuyện anh nói tôi đã hiểu. Nhiều phạm nhân ở trại này cũng như ở
các phân trại khác không thể làm lược được như Lê Sơn vì nhiều lý do: thời
gian, uy tín, nguyên liệu là nhôm và dura, lại không biết liều lượng pha chế
giữa nhôm và dura của máy bay Mỹ để cho lược vừa cứng vừa bóng, chưa nói là khả
năng cưa và khắc nữa. Rất nhiều điều không thể, nên chỉ có mình Lê Sơn làm được
chiếc lược tuyệt hảo như vậy. Điều đáng nói nữa là Lê Sơn biết kìm chế ở mức
điều kiện cho phép, tham thì đổ, vỡ. Tất nhiên anh phải bắt mối với những anh
tự giác để chạy nguyên liệu cũng như tiêu thụ. Giá Lê Sơn bán là: cái nhỏ 2
đồng, cái vừa 3 đồng, cái lớn 4 đồng.
Để có ý niệm thì một
đồng bạc ở trong trại E hay trại trung ương số I lúc này thật là không nhỏ.
Lương cả tháng của một người tù tập trung cũng chỉ có 1 đồng. Một ngày công lao
động là 4 hào. Nếu ai lao động làm về một cái gì đó như mộc, rèn, xẻ. Có làm
chết cha, chết mẹ gầy cả người đi thì một tháng mới may ra vượt được 3 – 4 ngày
công. Như vậy cũng chỉ có 1 đồng 20 hay 1 đồng 60. Nhưng cả toán cũng chỉ dăm
ba người làm được thôi.
Qua chuyện trò với Lê
Sơn về việc này, tôi cũng có suy nghĩ: tôi mới lên trại được vài ngày, Lê Sơn
và tôi tiếp xúc với nhau chưa nhiều, vậy hẳn anh cũng có cái nhìn về tôi như
thế nào. Tôi cũng hiểu về kinh nghiệm sắc sảo, tinh tế xét đoán con người thì
tôi chỉ là học trò của anh. Mới lên trại tù lạ, chung quanh toàn những người e
dè, lấm lét, câm lặng trong một bầu không khí ngột ngạt mà lại được gặp ngay Lê
Sơn. Tôi còn được hưởng cái thích thú nữa là có người đã hiểu mình và dám tin
mình. Chính vì vậy mà ngay chiều hôm ấy tôi đã hỏi Lê Sơn và anh Quý có cánh
tay cụt là tổ trưởng lán vernie này. Vì anh chỉ có một tay nên toàn trại đều
gọi anh là Quý Cụt. Tôi không thể ngờ Quý Cụt lại cùng vụ với Phạm Huy Tân. Cả
câu chuyện về cái đảng “Tân cách mạng Việt Nam phong trào” gọi tắt là TÂN PHONG
từ trong hố sâu của thời gian 4 năm xưa ở Hỏa Lò lại ùa về tràn ắp lòng tôi.
Chợt nhớ đến ông Chương chủ tịch đảng mà tôi ngưỡng mộ từ lâu; săn đón tôi hỏi
Lê Sơn:
- À, vụ của Quý Cụt,
nghe đâu còn người nữa là Chương thế nào?
Lê Sơn ngước đầu lên
nhìn tôi, hơi một chút ngạc nhiên, rồi chẳng hiểu anh nghĩ sao, cúi đầu chậm
rãi:
- Ông Chương đang ở
toán 3 ấy!
Hỏi Sơn sang một chuyện
khác, vì tôi chủ trương sẽ có một buổi gặp ông ta khi điều kiện cho phép. Nói
chuyện với Sơn tôi được biết thêm: chẳng hiểu khi bị bắt, nội bộ đảng này có
mâu thuẫn khai báo ra sao đó. Hiện giờ, giữa thằng Tân và Quý Cụt chẳng bao giờ
nói chuyện với nhau, như muốn tránh nhau.
Mới khoảng 4 giờ chiều
mà mặt trời đã đi đâu mất. Trong nhà vernie, ánh sáng nhạt đi rồi thẫm dần.
Ngoài hiên đã có những hạt mưa li ti, trăng trắng như rây bột. Nhìn những hạt
mưa bay đang quấn quít, dẫy dụa trên cây nứa cụt phía chái hồi như vẫy gọi, như
nhắc nhở tôi về cái thú xưa. Cái thú ngay từ những ngày hoa mộng còn cắp sách
đến trường mà bạn bè thân của tôi ai cũng đã biết. Dù đang làm gì, hễ cứ thấy
mưa phùn bay là tôi mặc quần áo ra khỏi nhà, đi dưới mưa bay. Tại sao lúc này
tôi lại không hưởng cái có thể của tôi, dù chỉ từ đây ra đến nhà cầu phía cuối
lán thủ công? Nghĩ thế, tôi đứng dậy ra ngoài. Không được cái thú đi đường dài
dưới mưa, thì ngồi nhìn mưa bay vậy. Thà chịu mùi hôi, tôi lên nhà cầu ngồi.
Trong mưa bay dầy hạt, tôi đưa mắt nhìn toàn bộ khu thủ công. Nó là một hình
thang méo, cạnh dài là phía cổng, nhìn xa xa là lá cờ và khu giám thị. Giữa khu
giám thị và khu thủ công là một con đường đất rộng, dẫn ra phía trại xây đã
hoang tàn mà tôi đã nhìn thấy trên đường vào đây, mấy ngày trước.
Chung quanh khu thủ công
rào bằng những cây nứa chẻ đôi. Nứa dựng đứng, ghép sát vào nhau; buộc, kên
chặt vào những chiếc cọc gỗ to chôn sâu xuống đất. Tuy rào nứa, nhưng chỉ có
một lượt, lại thưa mắt cáo nên đứng ở trong lán nhìn ra ngoài đường, nếu có
người đi lại cũng thấy thấp thoáng. Khác hẳn với hàng rào của trại giam, được
kên chặt 2 lần của cả cây nứa, nên kín mít giữa trong với ngoài; vững chải,
kiên cố như tường xây.
Trong khu thủ công gồm
có hai lán dài chính và mấy chiếc nhà phụ. Lán dài nhất là lán làm mộc. Một gian
đầu có vách kín dùng để kho chứa đồ, còn lại là 7 – 8 gian trống trơn không có
vách. Mỗi gian có 4 cầu bào làm mộc đặt phía hai bên, để ở giữa có một lối đi
rộng dọc theo nhà. Một lán chính giữa ngắn hơn là của toán xẻ gồm chừng năm sáu
gian. Mỗi gian có 3 cặp xẻ với những khúc gỗ lớn dựng hơi nghiêng. Hai người
một cặp với chiếc cưa to, dài ngoẳng. Một người đứng cao bên trên, một người
đứng dưới, suốt ngày cứ kéo cưa lừa xẻ. Anh nào làm khỏe thì ăn 18 kg chất bột;
anh nào làm vừa thì ăn 15 kg, còn anh nào làm yếu thì về….. không được bú mẹ mà
được đi kỷ luật cùm.
Một chiếc lán nhỏ hơn,
ngay cạnh lán của toán xẻ; có một số bác già yếu, tật nguyền, đan lát ở một
bên. Còn một bên là một chiếc bễ lò rèn, cứ thở phì phò suốt ngày. Có lúc như
cãi nhau với tiếng khò khè xẻ gỗ của toán 3 bên cạnh. Nhưng có lúc lại như thủ
thỉ, nồng đượm, đắm say của chàng với nàng. Thực vậy, bất cứ ai đã vào đến khu
thủ công này đều không thể quên được bản hợp xướng vĩ đại của trại E nơi núi
ngàn Hoàng Liên Sơn.
Dài theo cả ngày, tiếng
pắc pắc liên tục như tràng pháo tép của dùi đục, của búa con thuộc lán mộc.
Tiếng pang pang của búa tạ lò rèn; tiếng khò khè than thở của toán xẻ; tiếng
phì phò, phì phò hổn hển của đôi bễ cứ quyện vào nhau, quấn quít lấy nhau, xoáy
lên một cộng hưởng tuyệt vời của bản đại hòa tấu: “lao động là vinh quang muôn
đời”.
Nhìn ra phía hai đầu,
có hai gian nhà được dựng tách rời, riêng rẽ ở hai khu đất trống. Đó là hai nhà
làm việc của hai tên cán bộ quản giáo toán hai và ba. Ngoài một căn chòi nhỏ
ngay phía cổng có một tên vũ trang gác. Phía sau lán, có hai chiếc chòi cao làm
sát vào hàng rào, cũng có hai tên vũ trang. Mỗi đứa một chòi, ngồi trên đó.
Mưa càng lúc càng dầy,
càng nặng hạt. Tôi ngồi đã ê cả chân mà lòng vẫn còn muốn ngồi nữa, nếu không
thấy 2 bác già đang run rẩy, đứng chờ dưới mưa lạnh thì tôi vẫn chưa về lán.
Tôi ngồi viết, vẽ được một lúc lâu, đã mỏi cả người, vậy mà hồn tôi vẫn chưa
hết chơi vơi với gió mưa ở ngoài trời. Nhìn những chiếc lá hình quả trám của
cây Chò phía hông lán mộc, giẫy lên đành đạch từng hồi như muốn báo cho trại E
biết, nàng Đông Bắc đã lại mò về.
Một nỗi nhớ nhung từng
cơn như bẹo, chí lòng tôi. Cũng mưa bay, cũng gió thổi, mới buổi sáng hôm qua ở
cái miền nhiều thương đau và cũng nhiều ngây ngất ấy; bây giờ xa vời vợi. Chẳng
biết rằng, có lúc nào đó, người ấy còn nhớ đến tôi, đến một kẻ phải ôm một kiếp
tù. Tay tôi làm việc, thỉnh thoảng tôi cứ nhìn ra mưa bay. Trong làn mưa lung
linh ấy, rõ ràng một bóng hình thuôn thuôn, mềm mại với chiếc áo bông loang lổ
hoa cà và làn tóc buông lơi vẫn đượm ngát mùi hoa nhài. Một vần thơ chẳng còn
nhớ của thi nhân nào cứ lảng vãng trong hồn tôi:
Để thương, để nhớ cho
đời.
Để vương vấn lại cho
người xa xôi.
Nỗi nhớ từng cơn, từng
cơn cứ cuồn cuộn lồng lên xé nát lòng tôi. Lúc giã từ, tôi cứ tưởng rằng, rồi
đây ở nơi núi rừng hoang vắng, trong chỗ đen tối, lầm than của ngục tù; một
trái tim đã bị cuộc đời vò xé, băm vằm tả tơi thì còn sá gì chuyện thương yêu.
Nhưng người hỡi, tôi đã lầm!
Tôi đang để hồn đắm
chìm vào niềm thương, nỗi nhớ thì chợt nghe có tiếng động ở chiếc cửa của hàng
rào gỗ phía bên ngoài. Thoáng thấy tên cán bộ toán đang bước lên hè, tôi nhẹ ho
2 tiếng để báo động cho Lê Sơn. Từ lúc sáng do anh Lân, tôi đã biết tên của lão
cán bộ toán là Kích, trung sĩ cán bộ tập kết. Khi y bước vào nhà thì Lê Sơn đã
cầm bút vẽ đang choài người trên tấm khẩu hiệu như đang mải mê làm việc. Quý
Cụt, tay còn cầm chiếc cọ từ phía trong đi ra lên tiếng trước:
- Chào cán bộ ạ!
Chúng tôi đều quay lại
chào y, vừa gật đầu, y vừa tiến lại chỗ tôi, nhìn những chữ tôi đang tô vẽ. Mặt
y hơi sáng lên, chiếc đầu hơi nhúc nhích gật. Một tia nhỏ hài lòng nhoáng lên
trong mắt y. Lê Sơn đứng hẳn lên quay người lại, với giọng Nghệ An khìn khịt:
- Còn 3 băng khẩu hiệu
lớn nữa trên ban giám thị mà sơn đỏ và trắng đã gần hết. Đề nghị cán bộ phản
ảnh với ban giám thị cho cán bộ đưa sơn vào để chúng tôi còn làm kịp thời gian
trên đã ấn định.
Tên cán bộ đã bước gần
lại chỗ đống lửa đang âm ỉ cháy giữa nhà. Hai tay y rút ra khỏi túi, quơ quơ
trên ngọn lửa vừa lướt nhìn một lượt chung quanh nhà rồi lay lứt giọng miền
Nam:
- Các anh phải nhớ, sơn
phải về mãi Hà Nội mới mua được, vì thế phải triệt để nâng cao ý thức tiết kiệm
và bảo quản tốt. Dù là ở trong lán mặc lòng, mỗi ngày khi làm xong phải đem sơn
bỏ vào tủ khóa lại.
Thấy toàn những chuyện
không nhằm nhè gì đến mình, tôi lách mở cửa sau, lại ra nhà xí để đi giải nữa.
Bên ngoài gió Đông Bắc càng lúc càng mạnh, những hạt mưa phùn càng to và dầy
đặc hơn. Con đường mòn đã lầm bùn lên nhớp nháp, nhiều vết chân đi. Vừa đi giải
tôi vừa run cầm cập, càng về chiều, trời càng lạnh. Đã cuối Đông, nàng Xuân sắp
về với núi ngàn sao mà còn lạnh thế! Tôi nhìn những ống vầu to tướng cưa vát
miệng. Hơn một chục ống dựng hàng loạt, nghiêng dựa vào một cây nứa nằm ngang,
được buộc chặt vào hai chiếc cọc gỗ. Ống thì lưng lưng, ống thì đầy nước tiểu.
Sáng hôm nay, qua Quý Cụt tôi đã hiểu: đây là một nguồn phân hữu cơ có giá trị
kinh tế của trại.
Nghe Quý nói, làm tôi
nhớ đến buổi sinh hoạt của tổ Phan Thanh Vân tối hôm qua. Một anh đã phê bình
một anh là đã đi giải không đúng chỗ quy định, làm lãng phí nhiên liệu. Nghe
thấy lạ lùng khó hiểu, tôi cứ tưởng là họ đang phê bình một anh nào đó đi tiểu
bậy bạ không đúng chỗ làm mất vệ sinh, chứ đâu có nghĩ là lãng phí nhiên liệu.
Một ý nghĩ làm bụng tôi cũng nhúc nhích buồn cười: phải gọi là nhân liệu mới
đúng.
Khi tôi trở về lán
vernie thì tên cán bộ đã ra rồi. Tiến gần lại đống lửa, hơ tay cho đỡ cóng. Quý
Cụt quay lại nhìn tôi, nói rổn rang như rắc sỏi:
- Bình mới nhập trại mà
hên thật! Trời này, trong khu thủ công chỉ có lò rèn và lán vernie là duy nhất
có lửa sưởi.
Tôi còn ngơ ngác chưa
hiểu trọn ý của Quý Cụt, Lê Sơn đã giải thích:
- Mùa Đông rét căm căm,
lạnh thun chim lại; được lao động trong lán là hạnh phúc rồi! Những toán làm
rau, làm ruộng, vào rừng chặt cây, vác nứa v.v… Bình cứ tưởng tượng là thấy
rồi. Trong lán thủ công, cái lửa của lò rèn là cái lửa của nghề nghiệp rồi,
không nói. Còn lán vernie, dầu và vernie cần khô mới bóng nên phải đốt lửa.
- Như vậy là chúng ta
bị sưởi, chứ không phải được!
Tôi nói tiếp, làm cả 3
đều cười thành tiếng. Trời càng về chiều gió càng lộng. Gió rào rào ở phía rừng
cây thổi thốc vào trong nhà từng đợt. Nếu đóng cửa, có đống lửa thì cũng tương
đối ấm. Nhưng lại bị tối lờ mờ thì làm sao mà viết với vẽ? Do đấy, dù lạnh đến
cứng cả ngón tay không cầm được bút vẽ thì cũng đành phải mở cửa ra. Nhưng mỗi
khi nghĩ đến, chẳng phải ở đâu xa, ngay anh em ở dưới lán mộc thôi, chung
quanh, trống trơn không có vách, liếp, họ còn lạnh thế nào mà vẫn phải chịu, thì
mình đây đã may mắn hơn họ nhiều rồi. Cứ nghĩ như thế là thấy bớt hẳn lạnh đi
nhiều.
Khi toán tập họp ra về
thì trời càng thẫm lại. Đứng ở sân tập họp, anh nào cũng áo bông, áo tơi chằng
đụp, lếch thếch lôi thôi. Lại còn những chiếc mũ nữa chứ! Thôi thì đủ kiểu, đủ
mầu, từ những mảnh chăn rách, đến những miếng dạ đã rụng hết lông tơ đều có thể
túm, véo thành một chiếc mũ để chống cái lạnh của đất trời. Tôi cứ nhìn về phía
Vân mãi. Dáng anh đã cao, lại đội một chiếc mũ, chẳng biết do anh hay người
khác thiết kế: nửa dạ, nửa vải, tùm hụp che gần kín mặt; chỉ có một con mắt.
Mỗi khi anh nhìn về phía này hay phía kia, tôi cứ cảm thấy lấp ló như mắt con
cú mèo. Còn anh chàng Nguyễn Huy Lân nữa, thùm thụp khoác một chiếc áo bông tã
cũng chằng đụp, không biết nên gọi nó là mầu gì. Chỗ nâu, chỗ đen, chỗ xám
nhưng chỗ nào cũng xỉn lại vì vải đã lâu ngày và lâu ngày không giặt. Anh đang
ôm một chồng sổ sách đi từ đầu hàng trở xuống dưới mưa bay dầy hạt. Cứ đến một
đôi, đầu anh lại gật một cái, môi nhóp nhép như chào; nhưng thực ra anh đang
đếm nhẩm số người anh điểm.
Người đứng trong hàng
đã run, mà người đi điểm cũng ngắc ngư. Một phần nữa là bụng anh nào cũng chả
có cái quái gì để có calo chống lạnh cả. Ai cũng mong cho nhanh, cho chóng, làm
lẹ để còn về tổ ấm trong nhà tù. Mưa, gió rét lạnh như vậy mà khi toán về đến
cổng trại vẫn thấy một anh đứng cạnh cổng, tay cầm một gói lá giong dại. Trong
gói có chừng 3 lạng lá cải bắp già đã luộc rồi. Bên cạnh, là một bác chừng 45
hay năm chục tuổi, hay tay đang ôm 3 – 4 củ sắn nướng, nhiều chỗ đã đen xì. Cả
hai cùng khoác áo tơi lá cũng đã tả tơi nhiều chỗ rách. Hai cái mặt thì tái
ngoét, hai cặp môi xám xịt, cứ đứng chơ vơ ngoài gió lạnh, mưa Đông. Hai chiếc
áo tơi lá cứ rung tít mãi lên, không hiểu vì gió hay vì người? Khi về đến gần
ngang buồng, đang đi cạnh anh Bùi Tâm Đồng, tôi hỏi anh giọng băn khoăn:
- Tại sao họ không ăn ở
ngay ngoài đồng, mang về trại làm gì để bị phạt, đứng lạnh khổ như vậy?
Anh Đồng quay hẳn sang
nhìn tôi đăm đăm một giây, ánh lên vẻ lạ lùng rồi mặt anh trở lại tự nhiên.
Chắc hẳn rằng anh đã hiểu, chỉ vì tôi chưa biết mới hỏi. Vừa đi vào buồng, anh
vừa nói:
- Đôi khi toán làm ở
ngoài đồng được cải thiện. Hoặc anh nào đó lén lút, xoay sở kiếm chác được cái
gì cố liều, giấu mang về trại. Nếu may mắn mang thoát được vào trại sẽ ngấm
ngầm móc ngược đổi lấy giấy viết thư, tem, phong bì hoặc thuốc lào, mà nếu
không thì báo. Thiếu gì người có tiền, nhưng đói muốn mua.
Dù là mưa bay, nhưng
mái tranh cũng nhì nhẹt nhỏ giọt. Mặt sân vẫn bùn đất, nhếch nhác vì thế các
toán đều phải chia cơm canh ở những mái hiên hay vào trong hội trường. Trong
lúc chia cơm, thỉnh thoảng tôi vẫn rõi mắt về hai người bị phạt còn đang đứng
run rẩy ở phía cổng trại. Lòng tôi cứ ngậm ngùi, đầy vơi cho một kiếp người.
Không biết bạn bè có ai lấy dùm cơm, canh cho họ hay không?
13.
Một Buổi Sinh Hoạt Cuối Tuần
Hôm nay khi cán bộ trực trại vào điểm xong, sau khi cửa đóng,
anh Lân cất cao giọng nói với toán hai:
- Mười lăm phút, các
anh toán hai hút thuốc, đi giải rồi ta vào sinh hoạt toán.
Không thấy tiếng đài
léo nhéo như hôm qua. Tôi hỏi Vân thì được biết, hôm nay thứ Sáu, không có đài,
để cho các toán, các buồng sinh hoạt hàng tuần. Vân móc túi mời tôi điếu thuốc
cuộn, rồi nhẹ nhàng nói:
- Tôi nghe Bình được
vào làm ở tổ vernie, may đấy. Công việc mộc nặng lắm!
Ngưng một lúc, đốt điếu
thuốc, Vân lại hỏi:
- Thế nào, cảm tưởng
Bình ra sao sau một ngày đi lao động?
Nhiều ý tôi định nói,
nhưng tôi trả lời lập lờ, sau khi mồi xong điếu thuốc Vân đưa:
- Mình là tù thì chỉ
biết cố gắng.
Nói rồi, tôi hỏi tiếp
Vân, giọng hơi thắc mắc:
- Này, sao tôi thấy sau
lưng nhiều người có số tù. Nhiều anh lại chỉ có chữ “cải tạo”?
Vân cũng nhìn tôi như
cái nhìn của anh Đồng, khi tôi hỏi về hai người bị phạt đứng ở cổng trại lúc
chiều, rồi chậm rãi nói nhỏ:
- Điều này chẳng ai
hiểu được. Tập trung hay người ta thường gọi là “tắc bọp” thì không có án đã
đành. Nhưng nhiều người có án cũng không có số. Như tôi đây chẳng hạn.
Vân nói đến đây thì anh
Lân ngồi ở sàn phía trước, ngay cạnh cửa ra vào, vẫy tay ra ý muốn gọi tôi
sang. Vừa đến nơi, Lân kéo tay tôi ngồi xuống cạnh, rồi ghé tai tôi nói nhỏ:
- Tao đề nghị, và nói
mãi với cán bộ để mày về tổ vernie đấy!
Thấy cử chỉ của anh tỏ
ra đầy thiện cảm, qua ánh mắt của anh cũng không thấy gì phải dè dặt, tôi cũng
thân mật:
- Trong Nam anh ở đâu?
Gia đình ấy!
- Vợ con tao ở Nghĩa
Hòa, Ông Tạ, Sài Gòn. Thế còn mày?
Anh vồn vả hỏi lại tôi.
Mừng ra mặt, tôi cũng niềm nở:
- Cũng ở gần anh, cuối
đường Bắc Hải, Lê Văn Duyệt, và cũng Ông Tạ.
Anh rối rít đập vào tay
tôi:
- Thế à, thế sao tao
không trông thấy mày bao giờ?
Tôi thấy buồn cười, rồi
cũng trả lời anh:
- Thế mà tôi lại…cũng
không trông thấy anh bao giờ.
Anh cười như nắc nẻ
thành tiếng. Tôi cảm thấy anh cũng không có gì sâu, hiểm. Người anh, tuy da vẫn
còn tai tái như mọi người tù khác, nhưng anh vẫn mập so với nhiều người. Tôi
đang nghĩ ngợi về anh, thì anh lại đập vào tay tôi như thúc giục:
- Thôi về sinh hoạt đã,
mai nói chuyện tiếp.
Nói dứt, anh đứng lên,
đi ra giữa nhà cất tiếng dõng dạc:
- Anh em toán hai ở sàn
trên xuống hết dưới này. Toán hai ngồi gọn tập trung sinh hoạt ở phía đầu này.
Còn toán ba sinh hoạt ở sàn trên, phía đầu kia để không bị ảnh hưởng lẫn nhau.
Anh vừa nói, tay anh vừa khoắng ra hai phía của căn nhà.
Trong buồng rầm rập,
người trèo lên, người trèo xuống. Một vài tiếng í ới lớn tiếng của toán ba nhắc
một người vào nhà xí, lấy chiếc đèn trong đó ra để sinh hoạt. Một anh toán hai
trèo lên sàn trên với, tháo chiếc đèn bão đang treo giữa nhà xuống. Chỉ hai
phút sau, căn buồng lại trở về im lặng. Trong góc phía sàn dưới, toán hai gồm
năm mươi người quây quần, tụm lại một đám thành một vòng tròn. Ngay ở giữa, để
một khoảng trống hơn một mét vuông. Lù lù ở một mé khoảng trống, đặt ngay trước
mặt Phan Thanh Vân được Lân chỉ định làm thư ký ghi biên bản buổi sinh hoạt là
một chiếc rương bằng gỗ, quét mực tím đã phai màu. Trên mặt rương, một góc là
chiếc đèn bão, chính giữa là mấy tờ giấy trắng. Cái bút và lọ mực cũng mầu tím.
Anh Nguyễn Huy Lân, toán trưởng chủ trì cuộc họp đang ngồi cạnh Phan Thanh Vân.
Tôi ngồi trong một góc phía sau, cạnh Bùi Tâm Đồng với cậu Châu.
Ánh sáng của chiếc đèn
bão hắt ra, làm cho những khuôn mặt ngồi xa phía sau thành đen thẫm. Lấp loáng
những đốm mắt trắng đục lờ đờ, đăm chiêu đều nhìn vào chiếc đèn. Thoang thoảng
một vài tiếng thì thào, rì rầm trong yên lặng. Nguyễn Huy Lân hơi dướn người
lên, mắt lướt nhẹ một vòng qua các khuôn mặt, khèn khẹc vài tiếng, gãi cục đờm
thuốc lào trong cuống họng. Anh cất tiếng, giọng vẫn còn rè:
- Lệnh và chỉ thị của
ông cán bộ toán cho chúng ta sinh hoạt hôm nay nhấn mạnh. Toán ta phải đào sâu,
cọ kỹ, mổ xẻ cụ thể về vấn đề tư tưởng. Toán chúng ta đã có truyền thống lao
động hăng say, ít vi phạm nội quy của trại, triệt để áp dụng nếp sống văn hóa
mới, thực hiện nghiêm chỉnh bốn tiêu chuẩn cải tạo, sản xuất thường vượt mức kế
hoạch. Vậy mà chưa năm nào khi bình bầu, toán ta được là toán xuất sắc. Như vậy
là vì sao? Chính là vì vấn đề tư tưởng. Chúng ta phải thừa nhận rằng thành phần
của toán chúng ta thật phức tạp. Nhiều cặn bã, mầu sắc, khuynh hướng được buộc
chặt, gói kín. Nhưng thỉnh thoảng vẫn lấp ló ra trong lời nói hay hành động.
Chúng ta đều biết, hiện
nay trong nhà kỷ luật có 6 người của toàn trại mà riêng toán ta đã chiếm 3
người. Tóm lại, chúng ta không thể phủ nhận là toán ta rất nặng về khâu tư
tưởng. Bởi vậy, tôi đề nghị các anh hãy thành khẩn, tự nguyện trình bầy những
khúc mắc trong lòng mình cho mọi người cùng đóng góp qua lại lẫn nhau, xây dựng
giúp cho nhau cùng tiến bộ.
Anh Lân đã ngừng lời,
cục hầu ở cổ anh cứ động đậy nhô lên, thụt xuống; chẳng hiểu vì muốn lấy hơi
hay nuốt nước bọt? Láo liêng con mắt, anh nhìn khắp một lượt, đợi chờ.
Một phút, rồi hai phút,
vẫn im lặng, nặng nề; nghe rõ cả một anh đang gãi bụng sồn sột. Một số cái đầu
hơi cúi thấp xuống như muốn tráng ánh đèn. Bầu không khí đã bắt đầu hơi ngột
ngạt, mặt tôi cũng dần dần nóng lên. Có lẽ anh Lân cũng thấy cái tắc nghẽn của
sự im lặng, vì vậy anh lại rổn rang cất tiếng để tháo nút:
- Bây giờ trước hết
từng tổ lần lượt phát biểu trình bầy những vướng mắc và những sự việc chính của
tổ mình trong tuần qua.
Anh Lân vừa dứt lời thì
đã có hai người giơ tay xin phát biểu. Cả hai anh tôi đều chưa biết tên, anh
Lân chỉ một anh có cái đầu nhọn hoắt, cái môi dưới thưỡn ra như môi cá ngão,
anh nói sôi nổi như cổ vũ:
- Hoan nghênh anh Dũng
tổ 4. Xin mời anh phát biểu!
Anh có cái tên Dũng,
lấy tay hất mạnh mái tóc đang phủ xuống mặt như đuôi con gà trống lên; mắt đăm
đăm nhìn ngọn đèn:
- Tổ tôi gồm có 9
người, hiện nay chúng tôi nhận thi công 10 chiếc giường đôi của toán. Nói chung
về khía lao động thì mọi người đều nổ lực làm đều tay. Còn về tư tưởng của mỗi
người thì tôi không thể biết được. Tuy vậy, chỉ có anh Lù Chằn Păng, trong giờ
lao động, anh hay lén lút làm đồ tư. Cụ thể tôi đã đưa một chiếc hộp con anh đã
làm bằng gỗ Mỡ, báo cáo với cán bộ toán. Mặt khác, những buổi trưa hay chiều,
anh Páng thường lẩn ra phía sau hội trường để liên lạc, quan hệ thì thầm to nhỏ
với nhiều người dân tộc khác. Hiện tượng này, trong tổ chúng tôi đã nhiều lần
giúp đỡ, nhưng anh vẫn cứ chứng nào tật ấy. Chưa hết, chiều Chủ Nhật vừa qua,
anh Páng đã đem 4 con tem thư để đổi lấy con chuột nướng của anh Thiềng tự giác
toán 6.
Thấy y phát biểu cứ
giật đùng đùng như người ta đánh trống ngũ liên; tôi hỏi nhỏ cậu Châu ngồi bên
cạnh. Tôi đã biết Châu là một trong nhóm 4 người mà Shè Khửu Sáng đã nói với
tôi:
- Này em, Dũng, y tội
gì?
Châu ghé sát vào tai
tôi thì thào:
- Thằng này tiến bộ
lắm! Nó thuộc đảng phái trong nhóm của Phạm Huy Tân. Nó là Lê Khắc Dũng, anh em
vẫn gọi nó là Dũng Khoằm. Anh có nhìn thấy cái mũi của nó khoằm xuống như mỏ
con vẹt không?
Trong khi Châu đang thì
thầm với tôi thì anh Lân đã hướng về anh thứ hai, đã giơ tay lúc nãy:
- Bây giờ xin mời anh
Đinh Sơn, tổ kỹ thuật phát biểu.
Nghe anh Lân gọi là
Đinh Sơn, tôi cứ chằm chặp nhìn anh ta mãi. Óc tôi đang lục tìm những cái tên
trong toán Boone biệt kích đã ra đầu hàng. Phải rồi Đinh Sơn, Lân, Thú, Công
Thành v.v… Hôm qua tôi đã nhìn thấy anh này nhiều lần ngoài lán mộc. Dáng anh
cao cao, nhưng cái lưng lại hơi cong về phía trước. Tóc anh cắt ngắn ngủn, đôi
mắt to và sâu, làn lông mày thật thưa. Nét mặt luôn đăm chiêu, chưa thấy lúc
nào anh ta cười.
Trong khi tôi đang thả
hồn nghĩ ngợi về anh và toán Boone thì anh đang chậm rãi, nhỏ nhẻ phát biểu:
- Tổ chúng tôi chỉ có 3
người, thường sản xuất mặt hàng làm kỹ, riêng cho cán bộ và ban giám thị nên
không có định mức. Tuy vậy, trong phong trào thi đua một người làm việc bằng
hai để góp phần chống Mỹ cứu nước, tổ chúng tôi luôn luôn cố gắng thao tác tay
nghề thành thực; nâng cao kỹ thuật để đạt hiệu suất cao. Hàng ngày chúng tôi
thường động viên, giúp đỡ nhau trong ý thức tập thể vươn lên; triệt để hưởng
ứng phong trào thi đua chung của trại.
Tuy lời phát biểu không
có gì đặc biệt, nhưng anh nói từ tốn, trầm trầm thể hiện sự điềm đạm, sống
nhiều về nội tâm. Tôi đang nhìn chiếc lưng dài, cũng hơi cong cong của Phan
Thanh Vân đang ngồi khòm xuống ghi biên bản thì anh Lân lại hướng về một anh
nhắc nhở:
- Còn tổ 3 của anh Phạm
Tấn Tích nữa. Tổ vernie của anh Quý phát biểu đi chứ!
Một anh chắc là Tích,
tuy còn trẻ nhưng dáng lùn tịt. Từ sớm, anh vẫn ngồi im lặng nhìn xuống khoảng
chiếu trước mặt. Chiếc cằm của anh lẹm ngắn cũn cỡn; hàm răng trên lại hơi hô,
nên nhìn thoáng, cứ tưởng như anh không có cằm. Anh ngẩng lên nhìn về phía
chiếc đèn; cũng khọt khẹc gại giọng rồi anh nói ẽo ợt, giọng đặc Bến Tre:
- Tổ chúng tôi gồm 10
người, hiện đang nhận đóng 5 chiếc tủ áo hai ngăn của trại. Trong ý thức thi
đua thực hiện tốt 4 tiêu chuẩn cải tạo, chúng tôi luôn nâng cao tinh thần làm
chủ tập thể, nâng cao tay nghề, nỗ lực lao động sản xuất để đạt năng suất cao.
Về nội quy, tổ chúng tôi không vi phạm. Tuy vậy, tôi xin đề bạt một ý kiến
trong thực tế mà chúng ta lại không ai nói đến.
Nói đến đây, anh Tích
ngừng lại, a hèm mấy cái. Chắc bị vướng mấy tảng đờm trong cuống họng, vừa như
anh cố ý để cho mọi người sốt ruột rồi mới nói tiếp:
- Trong phong trào thi
đua một người làm việc bằng hai góp phần vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước với
nhân dân. Hầu hết chúng ta ai ai cũng ra sức cải tạo, lao động không tiếc thân
mình. Nhưng thực tế trong những buổi lao động, mọi người hùng hục hăng say thao
tác chỉ được một giờ đầu, rồi sau đó rã rời uể oải dần. Tay cưa, tay đục, tay
bào; thậm chí anh nào cũng hoa mày chóng mặt. Trong khí thế cả nước, quân cũng
như dân đang dốc toàn lực cho sản xuất và chiến đấu, chúng ta không được quyền
đòi hỏi ăn nhiều. Chúng ta chỉ xin ăn tạm đủ để có sức mà lao động sản xuất.
Hơn nữa trong vụ giáp hạt của trại ta vừa qua: gạo chúng ta không có đã đành,
nhưng sắn cũng không đủ, nhất là rau. Phương ngôn của dân tộc ta vẫn có câu:
cơm không có rau, như đau không có thuốc. Chúng ta thiếu rau trầm trọng. Ăn
muối rang nhiều bữa, nhiều người trong toán đã đi ngoài ra máu, trong đó có
tôi. Toán chúng ta lại chỉ quanh quẩn làm trong lán thủ công…..
Anh Tích phát biểu đến
đây, chừng như mệt ngừng lại để lấy hơi. Mọi người đều dướn người nhìn về phía
anh. Da mặt ai hình như cũng được giãn ra, nên hơi sáng lên. Anh Tích lại tiếp
tục:
- Tôi được biết toán
rau đang thu hoạch toàn bộ 5 sào cải bắp cho cơ quan. Tuy những lá già được thu
hoạch về phân phối một phần cho trại ta, một phần cho chăn nuôi của cơ quan.
Nhưng anh em toán rau cho biết, vẫn còn nhiều rơi rớt, lãng phí. Do đấy, tôi đề
nghị anh toán trưởng hãy mạnh dạn đề bạt với cán bộ toán quan hệ với ông Toàn cán
bộ toán 5 cho anh Chén nhặt nhạnh và xin một ít lá cải bắp già về luộc cải
thiện cho toán.
Đến đây thì mọi người
nhao nhao lên tán đồng, ủng hộ ý kiến của anh Tích. Ngay cả tôi, mới vào có mấy
ngày, cũng sót ruột như bào vì bữa cơm chỉ có sắn mà không có rau. Trong toán
vẫn còn râm ran, ồn ào cả lên. Anh Lân phải cao giọng hai lần:
- Các anh trật tự, im
lặng để sinh hoạt tiếp.
Rồi anh qua sang Phan
Thanh Vân:
- Bây giờ đến tổ anh
Vân cho ý kiến.
Từ đầu Vân vẫn cắm cúi
ghi chép. Bỏ bút, anh hơi ưỡn người, chắc cho đỡ mỏi. Vì anh ngồi sát chiếc
đèn, tôi nhìn rõ cái mắt chột phía trái của anh. Nó hoắm sâu vào như cái lỗ
đáo, một vệt nước ướt vàng nhờn nhợt đang rỉ ra. Một cái sẹo dài ngòng ngèo, có
một miếng thịt gồ lên ở dưới má. Mấy nốt sần sùi gần ngang miệng càng làm cho
bộ mặt hơi to của anh thêm dữ tợn. Bù lại, anh có giọng nói nhỏ nhẻ và ấm cúng
với chiếc miệng lúc nào cũng như cười, đã làm giảm hẳn cái nét dữ trên khuôn
mặt. Một mắt anh liên láo nhìn mọi người một lúc, rồi cất giọng nói từ từ,
thong thả:
- Tổ chúng tôi gồm 10
người. Chúng tôi đang nhận kế hoạch thi công 50 cái giường cá nhân. Sau nhiều
lần bàn cãi, trao đổi, tổ chúng tôi đã cùng nhau hạ quyết tâm sẽ vượt mức ấn
định 3 ngày, để lấy thành tích chào mừng quân và dân ta đã hạ 2000 máy bay của
giặc Mỹ xâm lược. Nhưng hiện nay, chúng tôi hơi gặp khó khăn: anh Khải bị đi kỷ
luật sáng hôm nay, do đấy, hẳn rằng chúng tôi sẽ không thể thực hiện được mức
đã giao kết. Ngoài ra, sáng hôm nay có sự hiểu lầm để đến chỗ tranh chấp nhau
về gỗ lạt với tổ anh Tích. Tôi thấy rằng tổ anh Tích đã sai. Những tấm ván đó,
chúng tôi đã mất công lục lọi, bới tìm từ trong đống gỗ của lán chọn ra. Như
thế, những tấm ván mà anh Lân toán trưởng phân cho tổ anh Tích là những tấm ván
khác. Hoặc, chính anh Lân đã chưa biết những tấm ván ấy là của chúng tôi đã
chọn ra nên đã phân bổ cho tổ anh Tích.
Sau khi Vân phát biểu
xong, đến Quý Cụt tổ vernie của tôi cũng phát biểu, nhưng không có gì mới. Đến
đây, anh Lân lại nhìn khắp lượt cả toán rồi dè dặt thăm dò:
- Sau khi chúng ta đã
nghe các tổ đã lần lượt trình bầy, bây giờ xin anh em trong toán phát biểu.
Anh Lân chưa dứt lời đã
có 3 – 4 cánh tay giơ xin có ý kiến. Trong 4 người này thì tôi đã biết 2 là Lù
Chằn Páng và bác Đặng Minh Chánh. Anh Lân chỉ bác Chánh nói trước. Với giọng
miền Nam khàn khàn, nhưng bác nói thật to và mạch lạc:
- Tôi phản đối ý kiến
của anh Lân toán trưởng khi nãy, cho là toán hai khâu tư tưởng quá nặng nề. Tư
tưởng là trừu tượng! Bản thân của tư tưởng thì không ai nhìn thấy nên không thể
ai đánh giá được là xấu hay tốt. Vậy chỉ có thể đánh giá được khi nó thể hiện
ra lời nói, cử chỉ hay việc làm. Bởi tư tưởng là thống soái, là bộ tổng tư lệnh
chỉ huy mọi việc làm, cử chỉ cũng như lời nói của một người. Toán 2 chúng ta
như các tổ đã trình bầy, hầu hết là hăng say, tích cực lao động. Lao động có
hiệu suất cao, vượt nhiều chỉ tiêu kế hoạch, làm lợi cho công quỹ của trại.
Thực hiện nghiêm chỉnh 12 điều nếp sống văn hóa mới, 10 điều nội quy và 4 tiêu
chuẩn cải tạo. Như thế, nếu bảo tư tưởng không tốt, tư tưởng nặng nề thì làm
sao đạt được những thành tích tốt đẹp như vậy? Làm sao mà hầu hết những công
trình chính, những việc trọng yếu trong trại gần như đều do toán 2 thi công,
thực hiện? Do đấy, những anh em bị đi kỷ luật là những cái riêng biệt cá nhân
của mỗi người. Không thể nào chỉ nhìn vào vài cá nhân này mà đánh giá cả toán
2. Phần nữa, hiện nay anh Khâm của toán ta bị bệnh lao, đang nằm ở bệnh xá. Hôm
qua tôi được biết, do thời tiết quá lạnh và do thiếu… à bệnh tình của anh khá
nặng nên hai ngày nay anh đã lịm đi, ngay nước cháo cũng không ăn được nữa. Có
thể đêm nay, hoặc ngày mai sẽ từ giã chúng ta. Tôi đề nghị, ngày mai nếu anh
còn sống, toán ta cứ lấy hai người đại diện. Tuy chúng ta cũng chẳng có gì để
giúp mình, nhưng gọi là nghĩa tình cùng một tầu ngựa, thăm hỏi, an ủi nhau bằng
một vài lời cho ấm lòng kẻ ra đi.
Ông già nói hùng hồn,
nói phòi cả bọt mép ra. Cứ mỗi lần, ông nhấn mạnh, tay của ông lại vẩy ra một
cái, như có con sâu róm đậu vào tay; như phụt ra được một ấm ức đã ủ nên từ
lâu. Anh Lân lại chỉ tiếp một anh khi nãy đã giơ tay xin phát biểu. Anh này
người thật to lớn khác thường, còn cao hơn cả Phan Thanh Vân. Anh là người cao,
to nhất toán, có khi nhất trại. Cũng cái đầu cắt cao như Đinh Sơn, anh có làn
da bánh mật. Những ngón tay của anh to như những quả chuối tiêu xanh luộc rồi,
vừa dài, vừa xam xám. Nhưng anh lại có một bộ mặt nhìn thật hiền. Tò mò tôi lại
ghé sang Châu thì được biết anh là Lê Văn Kinh, người nhái bị bắt trong vụ nổ,
phá một chiếc tầu trên sông Gianh năm 1962. Khi phát biểu, tôi mới biết anh là
người miền Nam. Anh nói giật giọng không đầu, không gẫy gọn, sáng tỏ ý. Chứng
tỏ rằng anh không phải là người quen ăn nói, tranh cãi trước đám đông. Nội dung
anh phát biểu cũng chẳng có gì khác lạ; không ngoài mấy vấn đề sinh hoạt, lao
động trong tổ, trong toán. Nghe anh phát biểu, tôi có cảm tưởng anh chỉ muốn
chúng tỏ là một người cải tạo tiến bộ, có tinh thần đóng góp với tổ, với toán
mà thôi.
Lần này thì anh Lân chỉ
tiếp đến Lù Chằn Páng. Anh này, da trắng trẻo như con gái. Người tầm thước, hay
mặc chiếc áo bóng xanh mầu da trời, nhiều chỗ bạc phếch với nhiều miếng vá
loang lỗ. Tuy tiếng Việt nói không rõ lắm về âm sắc; chỉ thô kệch, mộc mạc,
nhưng mặt anh đỏ lên trong khi phát biểu. Những lời nói của anh như được xì ra
từ một nỗi căm tức, uất ức trong lòng:
- Tôi xin có ý kiến với
anh em là anh Dũng tổ trưởng của tôi không có tốt. Anh ta cậy mình là tổ
trưởng, áp chế tôi không biết ăn nói, là người dân tộc. Từ lâu, tôi có một
miếng xà phòng của gia đình tiếp tế. Anh muốn xin một nửa, tôi không cho. Tôi
để dành, để thỉnh thoảng gội đầu. Rồi anh ta ghét tôi. Anh ta giữ nội quy cũng
không có tốt. Hôm nọ, buổi trưa, tôi thấy anh ta vào phòng trật tự của anh Tân
cùng vụ với anh, giấu đem về buồng củ sắn nướng. Tôi nằm gần, thấy anh bỏ màn,
lén lút lấy ra ăn. Anh Dũng không có cải tạo tốt đâu!
Một vài tiếng cười rúc
rích khi nghe anh Páng phát biểu. Tôi cũng thấy rung rung trong bụng, không
phải vì nội dung lời phát biểu của anh, nhưng là cử chỉ, thái độ tức bực, phẫn
nộ của anh. Tuy ai cũng cảm thấy là anh đã nói thật.
Còn một người có ý kiến
nữa là anh Lương Yên. Người quét dọn vỏ bào, làm vệ sinh ngoài lán thủ công của
toán. Tuy anh chỉ khoảng 45 – 46 tuổi nhưng mồm anh chỉ còn cái răng, nên má
hóp vào thành móm sều. Anh đề nghị mọi người trong toán khi lao động ở ngoài
lán thủ công hãy tiết kiệm nước uống. Các cán bộ vũ trang, từ nay chỉ dẫn anh
vào giếng trại lấy nước có một lần vào tiết lao động sáng. Bởi vậy, chỉ có một
gánh nước nên buổi sáng một thùng và chiều một thùng, thay vì hai gánh sáng,
chiều như trước đây.
Vì không có đài, nên
cũng chả biết lúc này là mấy giờ. Nhìn qua khe cửa sổ ra bên ngoài, trời đen
kịt một mầu. Tuy ngồi trong buồng, cạnh bao nhiêu người mà tôi vẫn lạnh run.
Nhiều người đã ra chiều mỏi mệt, ít nhất cũng gần 3 tiếng đồng hồ rồi. Tư tưởng
tôi đang bồng bềnh băn khoăn, vấn vít vào những tình huống của cảnh đời mới thì
tiếng anh Lân dội lên:
- Cuối cùng xin anh
Bình phát biểu cảm tưởng sau một ngày đi lao động.
Không hề nghĩ là anh
Lân muốn tôi phát biểu hôm nay, vì tôi đã biết gì đâu? Bất ngờ nên hơi khớp,
tuy vậy sau một giây lấy lại tinh thần tôi chậm chạp nói:
- Thưa các anh, sau một
ngày theo các anh đi lao động ở lán. Nó cũng là ngày đầu tiên đi lao động trong
cuộc đời cải tạo của tôi. Rồi tối nay lại được dự một buổi sinh hoạt chung với
toán. Cảm tưởng của tôi thì nhiều, nhưng cảm tưởng nào cũng còn nhiều ngỡ ngàng
chưa rõ, chưa chính xác. Có một điều đã rõ nhất là tôi được an lòng hơn so với
khi chưa nhập trại.
Anh Lân thấy tôi ngừng
lời, anh quay sang phía Vân:
- Đề nghị anh thư ký
đọc lại biên bản cho toàn toán nghe như thường lệ.
Phan Thanh Vân đọc lại
biên bản chưa xong, tuy đã gần hết thì kẻng cấm đã gióng giả từng tiếng một,
lanh lảnh vang lên như khua đập vào óc. Trong buồng lại ồn ào như tan hát. Chỗ
thì chen chúc nhau vào nhà cầu, chỗ thì túm hụm chung quanh những chiếc điếu
cầy, trong khi Vân và Lân đang vội vàng ký vào những tờ biên bản.
14.
Cái “Mánh”Của Tên Trực Trại
Hôm nay hơi đặc biệt. Kẻng cấm rồi mà đây đó, từ những chiếc
điếu cầy đủ kiểu cứ thi nhau ré lên liên hồi như những chú dế cồ và những nàng
dế đang thi gọi nhau, hẹn hò trao đổi ân tình trong đêm khuya.
Buổi sáng, cho tới khi
tôi theo toán ra ngoài lán làm việc rồi mà lòng vẫn băn khoăn không dứt về một
sự việc sáng sớm hôm nay khi tên trực trại Cẩn vào buồng điểm tù. Điểm buồng
xong, y dừng lại trước chỗ anh Phạm Tấn Tích đang ngồi, cất giọng Cao Bằng lây
lứt:
- Hôm qua, anh Tích
phát biểu hay và khá lắm!
Thoáng qua, nghe như
một câu khen ngợi bình thường, nhưng đã làm cho cả buồng ngơ ngác, đờ đẫn, nhất
là tôi. Óc tôi lướt nhanh, tổng hợp mọi hiện tượng và sự việc. Đêm qua, toán 2
sinh hoạt từ 6 giờ đển 9 giờ, kẻng cấm. Bên ngoài trời mưa bay dầy hạt, gió
lộng lạnh thấu xương. Bao nhiêu câu hỏi cứ vấn vít, quẩn quanh trong đầu tôi:
- Chẳng lẽ y chịu lạnh,
đứng rình nghe bên ngoài vách để theo dõi buổi sinh hoạt của toán?
- Hay có đường dây báo
cáo nào của toán 2?
- Tại sao sáng sớm hôm
nay vào điểm buồng, y cố ý nói cho toàn buồng nghe để làm gì?
- Tại sao y lại chỉ
rình nghe của toán 2 mà không ở các toán khác nữa? Hay có sự trùng hợp lúc Tích
phát biểu thì y mới đến?
- Thực ra, bất cứ buổi
sinh hoạt của toán nào đều có ghi biên bản. Như vậy, ai phát biểu ra sao thì
trong biên bản đã ghi rồi. Tại sao y còn vào rình nghe?
- Chỉ là một tên trực
trại, tại sao y lại theo dõi về tư tưởng? Theo như anh Đồng, lúc cùng ngồi ăn
sắn sáng nay với tôi thì tư tưởng thuộc về cán bộ giáo dục. Trực trại chỉ bao
quát về nội quy. Trách nhiệm chính yếu của trực trại vẫn là nắm vững nhân số
phạm toàn trại, từng buồng và từng toán.
Quá nhiều câu hỏi mà
chưa có lời giải đáp thỏa. Trong lúc làm việc với Lê Sơn, tôi đã lựa lời, lựa
lúc hỏi Sơn thì được biết thêm: hồi trước, ban đêm tên Cẩn thường hay vào trại
đi bên ngoài các buồng để rình nghe như vậy.
Lấy điểm này, cọ sát
với điểm kia, loại bỏ những vô lý hoặc những vô lý hoặc mâu thuẫn thì chỉ có
thể như sau:
- Dù ở khía nào thì tên
Cấn cũng là một tên cán bộ mẫn cán. Phục vụ và tin theo hết lòng cái chế độ mà
y đang làm việc.
- Y chỉ muốn tỏ cái
tài, cái uy riêng của y với tù.
Để thực hiện cái ý
trên, thỉnh thoảng y bỏ công, bất ngờ vào rình, dò xét một vài sự việc. Rồi từ
những sự việc y đã biết rõ, lấy đó làm ông “ba bị” để hù lát mọi người tù.
Tưởng như làm cho mọi người tù đều nghĩ và tin rằng; y có nhiều tai mắt ở khắp
nơi, khắp chỗ. Ai làm cái gì, nói gì y đều biết.
Nếu y tưởng như vậy là
y lầm, mà y lầm thì cũng không có gì lạ. Bởi vì với mớ kiến thức, hiểu biết,
kinh nghiệm đóng hẹp trong cái nhãn quan truyền thống giòng tộc của y; đối với
bên ngoài, tưởng mình đang đứng ở vị thế cao nhất. Hơn nữa, trong lòng y lại
đang dạt dào, say mê tin tưởng tự hào, đang phục vụ cho, hoặc y cũng là một
nhân tố trong cái đảng “vĩ đại, uyên bác cao siêu nhất” của loài người.
Thực ra với chủ trương
ấy, y cũng là một con “ngáo ộp” được với một số người kém hiểu biết hoặc lười
suy nghĩ. Chứ không thể có tác dụng với những người như anh Phạm Tấn Tích chẳng
hạn. Khi anh phát biểu có người ghi biên bản thì cá cái ban nghiên cứu của giám
thị sẽ đều biết. Bởi thế, bất kể ai đứng rình nghe hay theo dõi thì có nhằm nhè
gì với anh?
Buổi trưa, lúc ngồi ăn
cơm ở hội trường, tôi dõi mắt nhìn theo một bác người cũng thật to lớn như Lê
Văn Kinh. Tay bác xách một cái bị bằng vải sô cũ, một tay cầm chiếc gậy đang rờ
rẫm, chậm chạp đi trên hè buồng số III gần bếp, hướng ra sân chính của trại.
Đầu óc tôi còn đang dập dờn về một kiếp người đã mất cả đôi mắt rồi mà vẫn chưa
yên, thì thấp thoáng thấy màu áo vàng ở sân A, một tên cán bộ tôi chưa nhìn
thấy bao giờ. Người y nhỏ con, da trắng trẻo, nếu không nói là có dáng dấp thư
sinh, chừng tuổi 35. Y không đeo lon nên tôi không biết y ở cấp bực gì. Hai tay
vắt chéo sau lưng, y chậm chạp thả bước nhàn du, lang thang trong trại. Thỉnh
thoảng đầu y nghiêng ngó, nhìn phía này, phía kia hoặc gật gật mỗi khi gặp một
anh tù lễ phép cúi đầu chào y. Thái độ y vừa lạnh lúng, vừa lơ đãng.
Tôi cứ cảm thấy y là
một tên tạch tạch sè (tiểu tư sản) chứ không quê đặc một cục, như tên Chu Huy
Cẩn. Tôi thấy cậu Toàn đang ngồi lúi húi vá chiếc áo choàng bằng dạ, máu cứt
ngựa ở mãi trong góc nhà ăn. Hẳn chiếc áo đã được sinh ra từ thời Tây, vì đã
đụp nhiều tầng. Lách qua mấy chiếc bàn tôi đến bên, ra ý cho Toàn nhìn về tên
cán bộ hãy còn đang lững thững gần cụm nứa phía dưới nhà ăn:
- Này ông cán bộ kia là
ai đấy?
Toàn nhìn ra rồi quay
lại ra vẻ hơi quan trọng, thì thầm:
- Đấy là ông Đức, Thiếu
úy, trưởng ban giáo dục trại này đó!
Tôi chỉ trả lời hai
tiếng “thảo nào” rồi tôi mang chiếc rổ và cái đĩa nhôm đi vào buồng. Vừa đi tôi
vừa nghĩ, làm sao mấy ngày tới, kiếm đâu được miếng vải khâu cái túi đựng bát,
đĩa mới được. Ngay buổi chiều nay, một chiều thứ Bẩy không mưa rơi. Sau khi đi
lao động ở lán về, anh Lân đã phổ biến cho toán, sáng mai Chủ Nhật toàn trại đi
lao động xã hội chủ nghĩa. Mục đích là dọn dẹp, sắp xếp làm vệ sinh toàn trại
để chuẩn bị ăn Tết.
Toán 2 là toán có tay
nghề, nên được phân công sang sửa, làm hai luống hoa dài trước nhà số một và số
hai. Buổi tối, mới điểm xong, anh Lân đã lại vẫy tay gọi tôi sang chỗ anh.
Chẳng hiểu vì nguyên cớ nào, tôi cảm thấy anh Lân dành cho tôi một sự gần gũi,
thân thiện như đã quen biết nhau từ lâu. Anh mở choàng chiếc chăn anh đang ngồi
khoác ra để tôi cùng vào ngồi. Choàng chung một chiếc chăn ngồi nói chuyện cho
ấm.
Phần do lòng thiện cảm
mến người của anh; phần khác do những cái ngỡ ngàng của buổi ban đầu giữa một
nơi còn nhiều cái tôi chưa biết; lại nhìn thấy bao nhiêu hiện tượng làm cho tôi
chưa được yên lòng nên khi anh gọi, tôi vẫn đến với anh. Tôi nghĩ rằng, mình
thân mật, thường chuyện trò với anh toán trưởng sẽ ít lo lắng cho những ngày
sau. Vả lại, khi mới chuyển đến một môi trường mới, một vị trí mới trong cái
mặt trận không dao, không súng này, không gì bằng hãy tìm một chỗ nấp tốt; một
chỗ đứng tương đối an toàn, để quan sát, nghe ngóng đã chứ! Cho nên, dù có thân
mật, chuyện trò với ai thì tôi vẫn chả hay chưa thổ lộ hoặc nói một điều gì
ngược lại với xu hướng tiến bộ chung hiện nay.
Khi anh biết tôi chỉ là
một học sinh trong Nam, chưa vợ con gì, anh càng trêu đùa và cứ gọi tôi bằng
“mày” xưng “tao”. Lúc này tôi cũng đã biết nhiều anh em gọi lén anh là “Lân
Lợn”, có lẽ vì con người sồ sề của anh. Ngay buổi tối đó, qua anh Lân, tôi được
rõ thêm về lao động xã hội chủ nghĩa. Cứ một Chủ Nhật đi làm, thì một Chủ Nhật
được nghỉ. Như vậy mỗi tháng có 4 tuần thì 2 tuần phải mất đi buổi sáng Chủ
Nhật.
Một tuần lễ có 7 ngày,
thì đi lạo động 6 ngày rưỡi. Lao động thì cực nhọc như trâu, bò. Dù bất cứ ở
ngoài đồng, trong rừng hay trong lán đều phải dốc hết sức mình ra làm việc.
Quấn áo dơ dáy, mủn rách phải đụp vá, giặt giũ, còn tắm rửa. Với bao nhiêu việc
khác nữa cho một cá nhân mà chỉ có nửa ngày. Con người bị coi như một cái máy.
Bắt máy chạy liên tục mà chỉ đổ rất ít dầu, lại chỉ là dầu cặn, dầu thô như lời
anh Khải đã phát biểu.
Đêm hôm ấy, lòng tôi cứ
ngổn ngang với bao nhiêu khắc khoải cho cảnh đời trước mặt, nhất là lại nghe
tin anh Khâm nào đó mà tôi chưa hề biết mặt, mắc bệnh lao của toán 2 đã chết
ngay, trong đêm. Thế là toán 2 cũng chưa kịp cử người thăm hỏi, như đề nghị của
bác Chánh trong buổi sinh hoạt tối hôm qua.
Mấy đêm nay, đêm nào
giấc ngủ cũng không yên, tôi cứ trằn trọc thấp thỏm mệt mỏi rã rời cả thể xác,
lẫn tinh thần; tôi chìm đắm vào cơn ngủ muộn xen lẫn những tiếng thở dài.
Sáng hôm nay, tôi đã mở
mắt rồi mà chưa thấy kẻng báo thức. Liếc nhìn đây đó trong buồng, vẫn màn mắc
vây kín mít. Không chịu được mãi nỗi băn khoăn trong lòng, tôi cố liếc nhìn qua
khe hở của tấm vách liếp. Bên ngoài, trời đã hơi mờ mờ sáng, rõ ràng đã muộn
hơn mọi khi. Tôi nghiêng người nhìn qua màn Vân. Thấy dáng Vân vẫn nằm dài,
không biết thức hay ngủ. Tôi còn đang nhấp nhổm chưa yên thì hình như Vân cũng
đã đoán được nỗi bần thần của tôi. Khi thấy tôi cứ xoay trở lục đục, Vân nhỏ
nhẻ như tiếng gió:
- Cứ ngủ nữa đi. Chủ
Nhật, sáu giờ ba mươi mới kẻng báo thức.
À ra thế! Bụng tôi nghĩ
vậy, rồi tôi mơ màng để hồn lãng đãng cho thân xác bập bềnh chìm nổi trong giấc
ngủ tiếp mập mờ. Hồn tôi đang lơ lửng với gió mây thì tiếng kẻng đã khua vang
núi đồi. Những chiếc máy người lại bắt đầu khơi động cho công việc một ngày.
Qua những lúc chuyện
trò ngắn ngủi với Vân, mãi đến hôm nay, tôi mới biết Vân không hút thuốc lào.
Mặc dù những năm trước đây, anh đã hút khi mới bị bắt vào. Bây giờ anh đang cố
xoay sở, móc nối với những anh tự giác của toán rua, để mua được những lá thuốc
khô (một loại thuốc lá, khác với cây thuốc lào) do chính họ tranh thủ ngoài
giờ, trồng được trong khu vực của toán họ. Vì không có công sức và thời gian
chăm bón, nên mỗi anh chỉ trồng được vài chục cây. Do đó, khi các anh lén lút
đưa thuốc được vào trong trại, thì bán hơi đắt. Chỉ những ai có nhiều tiền mới
hút được.
Như vậy, tôi đã hiểu về
giờ giấc ngày Chủ Nhật lao động xã hội chủ nghĩa. Bảy giờ ba mươi mới kẻng tập
họp để tám giờ thì bắt tay vào lao động, đến mười hai giờ trưa mới nghỉ. Những
điều ấy tôi chưa hỏi anh Lân tối hôm qua.
Khoảng bảy giờ, anh
Lân, Vân và tôi ngồi nhai sắn sáng, trên chiếc chiếu con trải trên hè nhà, ngay
cạnh cửa ra vào. Trời sáng nay không một vẩn mây, tuy thỉnh thoảng những đợt
gió mùa Đông Bắc vẫn ào ào, luồn cái rét ngọt vào cơ thể mọi người. Nhưng ai
cũng cảm thấy dể chịu hơn là có thêm mưa. Bởi vậy, trên hè, tuy bằng đất nện,
nhưng khô ráo sạch sẽ nên cũng lố nhố nhiều người. Cả toán ba lẫn toán hai đang
ngồi ngồm ngoàm những củ sắn để chờ giờ đi lao động.
Từ dưới sân chính phía
nhà bếp, thoáng thấy bóng tên trực trại đi lên. Khi tới ngang buồng hai, y
ngoặt vào, bước lên hè, làm nhiều người râm ran lên tiếng:
- Chào cán bộ ạ!
Y bước vào trong buồng
một mình, nên anh Lân buồng trưởng phải đứng lên vào theo. Bên ngoài này, tôi và
hẳn còn nhiều người đều nghĩ, y lại sắp đem ai đi cùm, nên những chiếc mồm đang
nhai sắn đều ngập ngừng, lắng nghe chờ đợi.
Một lúc sau, từ trong
buồng y trở ra tới cửa, tôi và Vân vẫn cúi đầu chậm chạp, ngoạm nốt suất sắn
sáng đang ăn dở. Thoáng bóng một bàn chân dép râu với chiếc ống quần mầu vàng,
vừa để lên bậu cửa buồng, chếch ngay phía sau lưng tôi. Như vậy, y đang đứng
nhìn Vân và tôi. Một giây sau, y cất tiếng hỏi đột ngột:
- Anh Bình, đêm qua anh
nói mơ hay nói thật? Anh nói gì anh còn nhớ không?
Tôi quay lại, vì hơi
bất ngờ nên làm tôi cũng hơi ngỡ ngàng. Tuy thế, chợt nhớ tới sự việc của y với
anh Phạm Tấn Tích sáng hôm qua, nên tôi đã bình thản hỏi lại y:
- Thưa ông tôi đã nói
mơ gì ạ?
Một vài giây, y ngập
ngừng, trong khi có nhiều bộ mặt chung quanh, kể cả anh Lân đang lo lắng nhìn
tôi. Hơi sừng sộ, y lớn tiếng:
- Anh thường nghĩ về
cái gì, thì anh nói cái đó!
Hơi nhếch mép nhưng
không cười, tôi trả lời:
- Nếu vậy, hẳn rằng tôi
lại nói về cái ăn rồi. Vì suốt ngày, lúc nào tôi cũng chỉ nghĩ đến cái ăn mà
thôi.
Hơi nặng chân, y bước
hẳn ra ngoài, xuống sân. Ngoay ngoảy đi về hướng nhà bếp, hẳn rằng trong lòng y
đang mang một nỗi hậm hực. Tôi nghĩ thầm: thật là may, câu trả lời của y đã mở
cho tôi một lối thoát để trả lời. Bởi vì, tuy từ nhỏ tới giờ tôi chưa hề bao
giờ nghe thấy ai bảo tôi ngủ nói mơ, dù rằng tôi thường nằm chung đụng với
nhiều người khi còn ở trại sinh Phú Thọ cũng như trong tù hiện nay. Song le ai
dám chắc chắn, khẳng định hiện nay và sau này mình không bao giờ nói mơ, nói
sảng? Chứ còn ngủ mơ thì ai mà chả. Nếu không thì làm sao lại vẫn có câu ca dao
lơ lẳng: “đố ai nằm ngủ không mơ…”
Y đã đi rồi, cũng chẳng
một ai hỏi han tôi về sự việc này, kể cả anh Lân và Vân ngồi ngay cạnh tôi. Đưa
mắt nhìn lên mấy tảng mây trắng đang lững lờ bay, tôi nói một câu trống không:
- Hôm nay trời rét
ngọt!
15. Một Buổi Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa Ngày Chủ Nhật
Hai con chim cánh thật trắng từ hướng Nam đang soải cánh
chống với gió ngược, lao về phía Bắc xa vời. Mấy ngọn nứa già phía cuối hội
trường đang nghiêng ngả, rũ rượi, gật gù như cảm thông với nỗi đắng niềm cay
của kiếp người. Mươi chiếc lá khô từ mãi phía góc nhà kỷ luật, quyện đuổi theo
nhau chạy đến gần buồng số II rồi cuộn xoay lại, quay tít.
Lần lượt nhiều người
đứng dậy, cuộn chiếu vào trong buồng. Không bảo nhau, nhưng hình như cùng cảm
thấy cái rã rời nằng nặng của cõi lòng ứa ra, rải khắp đâu đây, cả Lân, Vân và
tôi đều đứng dậy, chậm chạp bước vào trong buồng.
Vào buồng, chưa ngồi
nóng chỗ thì phía ngoài cửa đã có tiếng xôn xao. Thấy anh Lân chạy ra, tôi cũng
bước theo. Ngay mé hè, anh Lý A Chén đã mang về một đống cuốc, xẻng và một cái
hòm dụng cụ đồ mộc với mấy cái cưa tay. Và kia rồi, từ phía dưới sân lớn của
trại, có 3 anh của toán làm sân đang è vai vác 3 bó nứa tươi to tướng, đốt thật
dài. Mầu nứa tươi xanh mát cả mắt, lần đầu tiên tôi thấy, nên cứ nhìn mãi. Ở
miền xuôi trước đây, tôi chỉ nhìn thấy nứa khô mà thôi. Tôi cứ luẩn quẩn, loanh
quoanh bên 3 bó nứa mãi, nếu không có một anh tự giác khác lễ mễ gánh đến một
gánh gần hai chục túm những cây hoa con. Một niềm háo hức yêu hoa đã đẩy tôi
rảo bước chạy lại. Những cây hoa nhỏ nhiều loại, với những cánh hoa nhiều mầu
sặc sỡ làm nhiều người túm hụm vây đến.
Cây to, cây nhỏ, cây đã
có hoa, cây chưa ra nụ. Trong hàng chục loại hoa này tôi chỉ biết được mấy cây:
thược dược, mười giờ, cúc đại đóa và hoa…..hồng. Do nhiều các anh, các bác đang
đứng chỉ chỏ bình phẩm, nên các cô nàng e ấp cứ cúi mặt che giấu thân thế, đành
ngập ngừng khai rõ họ tên: vọng ư thảo, vạn thiên kim, bách hợp, đinh tử hương,
bóng nước, tư lự với tóc tiên. Cô nào cũng mơn mởn đào tơ, lả lướt chuẩn bị để
đón chúa Xuân sắp trở về.
Ngay từ khi còn dưới
Hỏa Lò, “khách sạn Hilton Hà Nội”, đã nhiều lần tôi băn khoăn tự hỏi: tại sao
trong chỗ thâm u, mờ mịt thê lương của ngục tù, chỉ có cùm, xích với những
tiếng rên xiết, quằn quại, đắng cay thì người ta lại trồng nhiều hoa? Vì hoa là
biểu tượng của hạnh phúc ấm êm, của ngọt bùi tươi sáng trong cuộc đời? Khi đó
tôi đã tưởng, phải chăng đây chỉ là ý thích của tên Võ già, chánh giám thị của
Hỏa Lò, người miền Nam. Nhưng lúc này, một trại giam, hẻo lánh xa xôi nơi đây,
cũng đang được lệnh trồng hoa. Như vậy, phải chăng đây là một chủ trương của
cục Lào Cai?
Lòng tôi còn đang bồng
bềnh lẫn lộn giữa những hương sắc ngọt, bùi hạnh phúc của cuộc đời với những
nỗi đắng cay tủi nhục, lầm than của kiếp tú, thì kẻng tập họp đã gióng lên đập
tan nguồn suy nghĩ lãng đãng, vẩn vơ của tôi.
Chỉ nửa giờ sau, khi
các tên cán bộ đã dặn dò, phân công với những anh toán trưởng từng toán. Tổ
nào, toán nấy năng nổ, hùng hục làm việc khắp nơi, khắp chỗ trong trại. Chỗ
cưa, chỗ đục, chỗ quét dọn râm ran tiếng chuyện trò, tiếng í ới gọi nhau. Tôi
vừa kéo dây, cầm thước cho Đinh Sơn và anh Lân cắm cọc, phân luống trước nhà số
II và III, vừa nhìn cái cảnh huyên náo, tấp nập làm việc của mọi người, mọi
toán. Một khí thế lao động như giục giã, lôi, thúc người khác. Lòng tôi dâng
lên một mối thẫn thờ hoang mang, xen nhiều nỗi ấm ức không hiểu được. Đói khát,
khốn cùng, thương đau tràn lối mà mọi người vẫn hăng say, thi đua làm việc quên
mình là vì sao?
Tôi mới mờ mờ cảm nhận
thấy cái khả năng của cộng sản: phỉnh phờ, dụ dỗ khích lệ, nhử mồi như cách
mạng, yêu nước, yêu nhân dân, công bằng, ấm no, hạnh phúc ngày mai v.v… Kết hợp
nhuần nhuyễn với súng, dao và cái dạ dầy đã gây ra ao áp lực ngầm, để mọi người
tù dù không còn cả muốn sống nữa mà vẫn phải bóc xương, bó tủy ra làm hết sức
của mình. Thật là đáng kính nể những tên cáo già trong bộ chính trị của lũ cộng
đỏ.
Hôm nay làm việc trong
trại nên tôi có điều kiện chạy chỗ này, chỗ kia đây đó để nhìn các toán làm
việc. Riêng toán 5, toán rau xanh do anh Xuân Tảo làm toán trưởng. Do anh Đồng,
tôi đã biết anh là một nhà tư sản ở Hải Phòng. Người anh cũng mập như anh Lân,
cũng nước da mai mái khô cằn, chừng 45 tuổi. Anh ăn nói nhã nhặn, điềm đạm, nên
tôi cũng muốn có dịp làm quen với anh. Toán của anh có trách nhiệm nhặt cỏ và
dọn lá cây khô phía trong hàng rào cấm, dọc theo chung quanh của hàng rào trại.
Đến đây tôi đã có khái
niệm về hình thể phân trại E. Trại hình chữ nhật dài, nằm quay mặt về phía Đông
Nam. Chiều dài chừng 150 mét, rộng chừng 80 mét. Hàng rào làm bằng những cây
nứa, cao 8 – 9 mét. Nứa được chôn sâu xuống đất 40 phân gồm 2 lượt, kên sát vào
nhau. Lượt ngoài chôn nghiêng 10 độ phía này, lượt trong nghiêng 10 độ phía
kia. Ghép liền, kên chặt bằng 3 lượt đà tre nằm ngang với lạt và dây rừng.
Trong cũng như ngoài cứ 4 mét, lại chôn một cái cọc gỗ to, vót nhọn đầu, đường
kính từ 15 đến 20 phân, cao 2 mét. Nó to và chắc chắn như một chiếc cột, buộc
ghì chặt vào hàng rào. Như vậy, hàng rào dầy đến 15 – 16 phân, kín mít không
còn một khe hở. Tuy chỉ bằng gỗ và tre nứa nhưng thật là kiên cố, vững chãi;
vừa ngăn tù trốn lại vừa chống với gió bão hàng năm của đất trời.
Phía bên trong, dọc
theo hàng rào chính; cách hàng rào chính một mét là hàng rào cấm. Hàng rào này
chỉ cao chừng 1 mét 20. Bốn góc trại có 4 chòi gác bằng gỗ, lợp nứa cao 9 – 10
mét, cao hơn cả hàng rào chính để công an vũ trang ngồi gác, có thể quan sát
hết phía trong đến bên ngoài trại.
Riêng cổng trại ra vào
là một chiếc cổng to 2 tầng, cũng lợp bằng những tấm phên nứa. Tầng trên, công
an vũ trang ngồi gác cổng, trên đó treo một chiếc vỏ quả bom 50kg dùng làm
kẻng. Tên bộ đội gác ở cổng này, ngoài nhiệm vụ gác cổng, phải chú ý giờ giấc
để đánh kẻng trong những giờ đã quy định.
Nhân số toàn phân trại
E lúc này khoảng 310 người. Hầu hết là chính trị phạm với những thành phần:
khoảng hơn hai chục người là biệt kích, gián điệp, người nhái (Biệt Hải) từ
trong Nam ra Bắc hoạt động. Chừng trên dưới 100 người là dân tộc thiểu số:
Mường, Mán, Mèo, Thổ, Nùng, Thái, v.v… bị cộng sản ghép cho cái tội là làm
“phi”. Số còn lại linh tinh gồm: đảng phái, tu sĩ, tư sản, quân cán tập kết,
vượt tuyến v.v… bị ghép chung một tội là phản cách mạng, phản tuyên truyền.
Khoảng 11 giờ 30, tên
Cẩn trực trại vào đi kiểm tra khắp nơi những kết quả của từng phần việc được
giao từng toán trong buổi lao động xã hội chủ nghĩa, để lấy điểm thi đua.
16. Điệp Vụ C47
Buổi trưa nay, sau khi cơm nước xong, tuy không mưa nhưng
vẫn không có mặt trời. Vẫn thỉnh thoảng có những đợt gió mạnh rào rào chui vào
trong trại nên đã có nhiều người đi nằm đắp chăn. Hàng tuần lễ nay có gió mùa
Đông Bắc nên tôi không tắm được, thấy ngứa ngáy, khó chịu. Tôi rủ Toàn xách gầu
xuống dưới giếng, dù không tắm được thì cũng phải lau người.
Hai anh em dùng chiếc
khăn vải nhúng nước, rồi cứ mặc quần áo, cho khăn ướt vào lau trong người. Thế
mà hàm răng anh nào cũng đập vào nhau cành cạch. Còn quần áo, tuy cũng thấy dơ
bẩn nhưng xin cho miễn, đợi có dịp nào cũng vào ngày Chủ Nhật mà trời lại nắng
hãy hay. Hơn nữa, tôi với Vân đã có hẹn nhau trong lúc lao động xã hội chủ
nghĩa, chiều nay sẽ ra hội trường nói chuyện. Khi tôi trở về đến buồng, tuy mới
khoảng 2 giờ chiều nhưng nhiều người hãy còn nằm im trong chăn. Thấy Vân vẫn
ngồi khoác chăn cuộn thuốc lá, tôi nói như đùa:
- Sao, Vân không tắm à?
Ngửng lên, ánh mắt của
Vân như cười, nhỏ nhẻ:
- Tháng trước mình vừa
tắm rồi!
Nói xong, Vân vừa đưa
tôi điếu thuốc vừa hỏi lại:
- Bây giờ Bình có ngủ
không? Mình ra hội trường nói chuyện cho thoải mái he?
Tuy tôi chỉ gật đầu,
nhưng Vân cũng hiểu là tôi gật đầu cho ý sau, chứ không phải ý trước trong câu
hỏi của Vân. Vì thế, Vân vội thu dọn lỉnh kỉnh những đồ nghề ra tiếp tục cuộn
thuốc, vừa ngập ngừng, dè dặt hỏi tôi:
- Bình là công giáo à?
Nhìn Vân đăm đăm, tôi
khẽ gật đầu nhưng mắt tôi như muốn hỏi lại “có sao không”? Nhưng Vân vẫn không
có thái độ gì khác, vẫn cắm cúi cuộn thuốc. Sau vài câu chuyện không đâu, Vân
nhìn tôi, ra dáng băn khoăn:
- Bình biết về tôi ra
sao, và vì sao Bình lại biết?
Dù rằng đã trao đổi,
chuyện trò với Vân trong mấy ngày qua chưa nhiều, chưa đủ. Rồi lại qua lời Toàn
dặn dò phải coi chừng Phan Thanh Vân. Nhưng qua từng điệu bộ, dáng đi, cách
nhìn, cách nói của Vân thể hiện trong khi chuyện trò, tôi vẫn cảm thấy Vân là
người chân thành, dù anh vẫn còn ít nhiều dè dặt. Vả lại quan điểm của tôi:
mình muốn người ta đối xử với mình ra sao thì mình hãy đối xử với người ta thế
vậy, trước đã.. Vì vậy tôi đã chân thành nói thật hết, nội dung:
Từ một ngày Chủ Nhật
24/6/1962, tôi bị bắt vào Hỏa Lò, nhìn thấy Vân ngồi ở gốc cây bàng. Rồi khi
còn ở trong Nam, một buổi nghe đài miền Bắc ở Cấp (Vũng Tầu) cho tới khi ra Hà
Nội mua và đọc cuốn C47. Cũng như thời gian ở xà lim II, một buổi tối nghe Vân
đọc lời kêu gọi anh em trong binh chủng không quân hãy lái máy bay vào vùng
giải phóng v.v… Tóm lại, tôi đã nói hết những sự việc tôi đã biết về Vân.
Khi nghe tôi kể chuyện
lại, ánh mắt của Vân đã giảm hẳn sự dè dặt, dọ dẫm, nhường cho sự gần gũi, thân
mật, tin tưởng hơn. Tôi tin tưởng mãnh liệt rằng, sự thật bao giờ cũng có hồn,
sẽ có sức truyền cảm mạnh đến người nghe. Cứ cần sự thật dủ cách nói của mình
có kém, có lúng túng không diễn đạt hết được ý, nhưng rồi người nghe cũng tin
mình.
Vân rất ngạc nhiên và
băn khoăn không biết được rằng điệp vụ C47 của anh, cộng sản đã xuất bản thành
sách. Băn khoăn vì Vân không biết cộng sản đã nói những gì về anh. Thấy Vân
nóng nảy muốn biết một vài khía cạnh nói về Vân trong nội dung tập sách, nhất
là khi Vân nghe tôi nói: hầu như cuốn sách đã tường thuật lại đầy đủ về phiên
toà và nội dung vụ án mà còn có nhiều tấm ảnh tài liệu. Thậm chí chúng chụp cả
bản khai cung của từng người như Vân, Phạm Văn Đăng (thợ máy), Đinh Như Khoa
(gián điệp) v.v…
Một phần, cả tập sách
điệp vụ C47 dầy gần 300 trang với bao nhiêu sự việc, lại nằm trong mục đích
tuyên truyền, làm sao tôi nhớ và kể hết được. Phần khác, trong lòng tôi cũng
nôn nóng. Tôi đã nghe đài cộng sản nói về Vân. Tôi cũng đã đọc sách của cộng
sản nói về điệp vụ C47 của Phan Thanh Vân. Bây giờ do điều kiện và hoàn cảnh
đặt, đưa tôi lại gặp Phan Thanh Vân. Vậy tôi muốn biết những tình tiết thực tế
của sự việc, để so với những điều tôi đã đọc trên sách.
Vì vậy tôi đề nghị Vân:
hãy kể lại sơ lược sự việc từ đầu, diễn tiến ra sao. Tùy theo đấy tôi sẽ có
những câu hỏi, hoặc cho Vân biết là trong sách đã có sự khác biệt, khi cùng nói
về một sự việc. Tay Vân đang quấn thuốc, như ngập ngừng, rời rạc. Mắt Vân lắng
đọng đăm chiêu. Hẳn là Vân đang lần giở lại những trang đời nhiều mây gió,
chồng chất những dáng hình, sự kiện trong hố sâu ngóc ngách của tâm tưởng. Anh
hơi ngửng đầu lên. Mắt anh rõi nhìn về những ngọn nứa già đang lắc lư phía bên
ngoài trại. Giọng anh chậm rãi đều đều với nội dung:
- Ngay từ hồi niên
thiếu cắp sách tới trường, đôi khi tôi đã say mê đờ đẫn, nhìn theo những chiếc
máy bay ì ầm, vi vút trên nền trời quê hương. Tôi đã có những ước mơ như một
hoài bão: sau này tôi sẽ tập trung mọi nỗ lực để thực hiện một mục đích, là trở
thành một phi công cho thỏa chí ngao du hồ hải.
Cuối cùng sau bao nhiêu
những cố gắng miệt mài, tôi đã được tuyển mộ đi học lớp phi công ở Marrakech.
Tôi tốt nghiệp, trở về nước với những lời ngợi khen là một phi công ưu tú của
các huấn luyện viên người Pháp trong trường. Lúc này, thực sự tôi chẳng hề có
một chính kiến, dù chỉ là khái niệm về chính trị, đối với quê hương dân tộc.
Ngoài những giờ bay nhiệm vụ, cũng như tập tành, huấn luyện, tôi vẫn buông lỏng
tâm hồn, đắm chìm vào những thú rong chơi; lả lướt với những hương sắc của cuộc
đời. Thậm chí, với những bối cảnh đẩy đưa cho mãi tới khi tình nguyện nhận lái
chuyến bay định mệnh này, tôi vẫn chưa ý thức được đầy đủ về cộng sản, cũng như
mức độ hiểm nguy thực sự của chuyến bay. Một chuyến bay, một công tác nguy
hiểm, đầy cam go, có thể một đi rồi sẽ…..không trở về.
Tâm tư tôi bảng lảng,
lơ là nhìn chuyến đi như nhìn một khẩu hiệu, một tấm bảng ghi một chỗ; “nguy
hiểm chết người”. Nhiều lúc tôi cũng cảm thấy đôi phút ớn lạnh, rùng rợn như
đang nhìn thấy một người giết một người. Lòng vẫn mơ hồ lăng đăng, người bị
giết đó không phải là mình. Rồi cứ tiến bước trên con đường mình đã chọn.
Tuy vậy, khi chuyến bay
vượt qua vĩ tuyến 17, bắt đầu xâm nhập vào bầu trời của miền Bắc, dù còn ở
ngoài khơi biển Đông, cả 9 người chúng tôi trên chuyến bay đều bắt đầu căng
thẳng thần kinh. Thỉnh thoảng người này liếc đôi mắt lắng lo nhìn người kia,
chứ không ai nói với ai một lời. Đôi lúc thân chiếc C47 rung giật lên. Dù đó
chỉ là hiện tượng bình thường của những chuyến bay đêm, cũng làm cho bầu không
khí ngột ngạt, nặng nề thêm. Tôi nhìn nết mặt đăm chiêu của anh Tiêu Huỳnh Yên,
điều hành viên, đang ngồi giữa tôi và anh Thích, phi công phụ. Rồi tôi ngoái
lại, nhìn Đăng, cơ khí viên cũng đang ngồi trên đống bao lô dụng cụ quân trang.
Tay anh đang chống cằm dáng mỏi mệt, dựa lưng vào thành chiếc cửa thông lên
buồng máy. Đăng cũng đang chầm chập nhìn tôi thì anh Yên cao giọng nhắc nhở:
“đã sắp đến điểm chuẩn,
quẹo trái, chếch 40 độ vào hướng đất liền”.
Tôi nhớ rõ. Khi máy bay
vào sâu nội địa, ở độ cao ba ngàn thước, chỉ chừng 20 phút thôi. Bầu trời như
bức màn đen, không một mảnh trăng sao, lúc đó khoảng một giờ 20 đêm. Đột nhiên
tôi thấy nháng lên như ánh chớp mầu da cam, ngay trước mặt. Máy bay rung mạnh,
không hề nghe thấy một tiếng nổ bay bất cứ một âm thanh gì, mắt tôi còn thoáng
thấy anh Yên và anh Thích ôm chầm lấy nhau. Rồi tôi không còn biết gì nữa.
Mãi khi thấy lạnh run,
tôi mở mắt ra, nhưng vẫn đen kịt. Người tưởng như vỡ nát ra, tôi không cử động
được chân tay nữa. Hồn lãng đãng lửng lơ, tôi tưởng tôi đã chết rồi hay
đang…chết. Sau đó, một lúc, tôi mới thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng
đau. Tay chân tôi vẫn chưa hề cử động được. Tôi đã mở mắt ra nhiều lần, nhưng
vẫn không nhìn thấy gì. Đầu tôi như có ai đang cầm chiếc gậy cứ đập cứ đập vào
đều đều.
Nói tới đây thì Vân
ngừng lại. Tôi nghĩ là Vân muốn lấy hơi, vì nói đã hơi dài. Nhưng khi tôi nhìn
con mắt của Vân trắng bạch ra lơ láo như hãy còn toát ra nỗi kinh hoàng, hãi
hùng của giây phút rùng rợn gần 7 năm xưa. Tôi không dám lên tiếng, tôn trọng
cái phút xuất hồn của Vân. Tôi vẫn im lặng, đưa mắt nhìn mấy bông bách hợp đang
đong đưa, chờ Vân tiếp tục.
Một lúc, rồi anh lại
thẫn thờ nói tiếp, giọng nao nao, da diết:
- Tôi mê man, trong đầu
như có một khoảng rỗng im lìm. Chẳng còn một ý niệm gì về thời gian, không
gian, rồi tôi lại không biết gì nữa.
Tôi cũng chẳng biết là
cho đến bao lâu. Mãi khi tai tôi chợt nghe văng vẳng trong gió lao xao, loáng
thoáng có tiếng người. Chợt lờ mờ có ý niệm về chiếc C47 tôi đang lái đã bị bắn
và tôi đã rơi xuống đất. Tôi lại mờ choàng mắt ra, lúc này đã nhìn lơ mơ thấy
khung cảnh đồng ruộng. Đầu đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc tôi. Tai
tôi đã nghe rõ tiếng người hò hét xa xa. Một ý thức bừng dậy thành phản xạ của
sự sống còn, ập đến như một đòn bẩy giúp tôi đã nhấc được đôi tay. Mắt tôi đã
nhìn thấy mờ mờ mầu đỏ loang lổ của máu nhầy nhụa lẫn vào đất bùn. Cả một nửa
người tôi đã ngập sâu dưới bùn. Tai vẫn nghe tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng vào
trong gió. Cố vùng vẫy, kéo người lên khỏi đám xình lầy, nhưng tôi bất lực. Tôi
tưởng phải nằm chịu trận, phó mặc cho cuộc đời. Nhưng rồi, đột nhiên như có một
nguồn sức mạnh ở đâu đến trợ giúp, tôi đã ngoi và rút cả người lên mặt ruộng.
Mắt tôi đã nhìn thấy những đám cói lưa thưa và tôi đã hiểu đây là một cánh đồng
cói. Những tiếng quát càng lúc càng gần, lẫn lộn của đàn ông, phụ nữ:
- Chỗ này có một cánh
tay!
- Chỗ này có một chiếc
giầy!
- Có đứa còn sống. Các
đồng chí cẩn thận!
Tôi run người lên, nhìn
về phía trái có một đám cói rậm, mọc cao cách xa tôi chừng hơn 10 mét. Tôi cố
nhoài, cố lê, rồi tôi cũng chui được vào đám cói rậm ấy. Những tiếng người hò
hét như đã gần bên tôi. Phần vì khắp người đau như dầnl; phần khác, quá khiếp
sợ, óc tôi tê đi. Vả lại, còn bao nhiêu sức cuối cùng vì sự sống còn tôi đã
dùng hết để bò vào tới đây. Cho nên khi đã nghe thấy cả những bước chân lội bì
bõm, tôi cũng đành nằm im, bất động; không còn một hơi sức nào để tự bảo vệ
nữa. Cho đến lúc họ đã quát tháo ầm ầm ngay bên tai mà tôi vẫn nằm như một xác
chết. Họ hò nhau, túm lấy chân tôi, kéo ra khỏi lùm cói rậm.
Lúc này, trời đã sáng
rõ. Bao nhiêu là người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi. Súng ống, gậy
gộc. Họ hầm hè như muốn nhai xương, ăn thịt tôi. Đau đớn, sức tàn, sợ hãi, tôi
lại nhắm mắt lại. Những tiếng quát, tiếng chửi vẫn ập, ngoáy vào tai tôi:
- Nó hãy còn sống!
- Đập chết nó đi!
- Nó là biệt kích của
Mỹ Diệm!
Có một tiếng quát to,
dõng dạc như ra lệnh:
- Không ai được đánh
chết nó. Hãy lấy cáng khênh nó về cơ quan!
Nghe Vân kể đến đây,
mặt Vân vừa tỏ ra mệt, vừa buồn rười rượi. Hơn nữa, trời cũng đã chiều gần tàn,
sắp đến giờ cơm, nên tôi khẽ đặt tay vào vai Vân, nói nhè nhẹ:
- Xin cảm ơn Vân, lòng
tôi cũng xúc động, cảm thông với những giây phút kinh hoàng gần 7 năm xưa Vân
đã trải qua. Còn một điều tôi muốn nói nữa: có lẽ đó là những hình ảnh hãi
hùng, khiếp đảm lớn nhất, đã hằn sâu nét vào tâm hồn, nên Vân vẫn còn nhớ đầy
đủ những chi tiết tỉ mĩ đáng ngưỡng mộ.
Vân nhìn tôi đầy thiện
cảm, ánh lên mầu tin tưởng, tuy mắt Vân vẩn còn vướng vít một nỗi buồn mênh
mông. Vân nhếch môi cười gượng gạo, nói nhát gừng:
- Những phút đầu và
những ngày đầu thì vẫn cứ như in trong óc, nhưng những ngày tháng sau này thì
tôi chẳng còn nhớ gì cả, ngoài những sự việc chính.
Phía buồng II, đã có
một số các anh, các bác đem cân và bát, đĩa ra hè. Quay lại, tôi bảo Vân:
- Chắc cũng sắp kẻng
cơm rồi! Ăn cơm xong, tối nay mình sẽ nói chuyện tiếp.
- Không được! Không
tiện, để dịp khác, còn nhiều ngày.
Vân vừa lắc đầu, vừa
nói, vừa đứng dậy mang túi thuốc lá về buồng. Tối nay, sau khi điểm xong, cửa
buồng đã khóa, tiếng loa lại léo nhéo, rì rầm nhỏ to như mọi khi. Tôi đã hiểu,
một tuần chỉ có mỗi ngày Chủ Nhật là không sinh hoạt buổi tối mà thôi. Tôi có ý
định chờ cán bộ trực trại vào điểm xong sẽ hỏi tiếp Vân một số điều. Câu chuyện
lúc chiều với Vân còn đang dang dở, nhưng đã thấy Vân chuẩn bị chăn đi nằm. Có
thể câu chuyện lúc chiều đã gợi lại cho Vân nhiều nỗi niềm ngược xuôi, vơi đầy
của cuộc đời. Vả lại, tôi chợt nhớ, ngay buổi chiều, khi còn ở hội trường Vân
đã nói trước, không muốn nói những chuyện như vậy ở trong buồng.
17. Phỉnh Phờ, Dụ Dỗ
Đã từ mấy ngày nay, tôi vẫn nhớ một cậu có nét mặt trẻ
măng, vẫn nhìn tôi bắng ánh mắt tràn đầy thiện cảm. Chính một lần cậu ta đã
nhắc nhở tôi phải coi chừng Toàn. Qua Châu, tôi đã biết cậu ta cũng ở trong Nam
và cùng ở trong toán biệt kích của Shè Khửu Sáng. Hiện nay, cậu ta ở toán 3
(xẻ), nằm trong góc, sàn trên phía trước. Tôi cũng hơi ngập ngừng khi định trèo
lên thăm hỏi, chuyện trò với cậu ta. Chỉ vì, ngay ở toán mộc, còn nhiều người;
họ hoặc tôi chưa dám tiếp xúc với nhau, huống chi cậu ta lại ở toán 3.
Nhưng từ bản tính thích
tìm hiểu những điều mới lạ, lại cùng một buồng thăm hỏi thì có sao đâu. Nghĩ
thế, tôi đã trèo lên sàn chỗ cậu ta. Thấy tôi nhô đầu lên, cậu ta vừa ngỡ
ngàng, ngạc nhiên, lại vừa mừng, vồn vã ân cần tiếp chuyện tôi.
Khi biết tên cậu là
Hùng, Hoàng Mạnh Hùng, tôi chợt liên tưởng tới anh Hoàng Hùng, tiểu đoàn phó
“một chiến sĩ của Điện Biên” năm xưa, đã dẫn đại đội của mình, cắm lá cờ đầu
tiên lên nóc hầm của tướng De Castrie. Tôi đã nằm với anh ở buồng số 2, xà lim
II của khách sạn Hilton Hà Nội. Một thoáng chạnh lòng, ngậm ngùi nghĩ đến anh.
Chẳng biết anh còn sống hay đã chết, trong cái đêm oan nghiệt của đời anh?
Tôi còn đang ngỡ ngàng
khi biết Hoàng Mạnh Hùng là người Thổ, dân tộc thiểu số, mới có 23 tuổi đời mà
đã bị bắt 3 năm rồi, thì đã thấy Shè Khửu Sáng từ sàn dưới trèo lên. Sau khi
ngồi yên chỗ, Sáng nói như thì thầm:
- Khi biết anh cũng ở
trong Nam ra, chúng em đã nhiều lần muốn đến thăm anh mà chưa dám.
Tôi cứ nhìn con mắt của
cậu Sáng. Con mắt trái hoằm sâu vào, một dòng nước nhờn trắng đục như rỉ, đang
sùi ra một cục. Mặt cậu thật hiền hòa, toát ra một nét chất phác của tuổi đời
26. Rồi tôi lại nhìn Hùng, nước da trắng trẻo, mặt như còn hơi sữa. Lòng tôi
dâng lên niềm dạt dào mến thương các cậu. Một sự gần gũi ân tình anh em, chiến
hữu cùng trong một cảnh ngộ đã sưởi ấm hồn nhau.
Do buổi tối này, anh em
bên nhau thì thầm, nhỏ to trò chuyện, tôi đã biết sơ lược về toán của các cậu
như sau:
Toán gồm tất cả 7
người. Vào lúc 2 giờ, một đêm cuối tháng 4/1965, toán đã nhẩy xuống một vùng
rừng già thuộc tỉnh Cao Bằng. Toán trưởng là Nông Quốc Hải, 26 tuổi (1965)
người dân tộc Thổ. Toán có nhiệm vụ lúc đầu là bắt mối, liên lạc với địa
phương, gây một cơ sở đầu cầu cho những toán kế tiếp. Sau đó, thâu tập một số
tin tức tình báo thuộc địa bàn hoạt động. Nhưng khi toán nhẩy xuống điểm đã
được quy định, chỉ 2 giờ sau đã bị bao vây. Trong lúc đêm tối, hỗn loạn chiến
đấu, người chết, người bị thuơng tán loạn chẳng ai biết rõ về ai. Cho tới khi
bị bắt về trại giam thì chỉ có 5 người. Trong số đó có Nông Quốc Hải, toán
trưởng bị đạn xuyên qua đùi, nhưng không gẫy xương. Shè Khửu Sáng bị một viên
đạn lồi hẳn con ngươi ra ngoài. Còn 2 người nữa, không biết rõ là mất tích hay
bị chết, cho đến nay (1968) chưa hề nghe tin tức gì về họ cả.
Năm người bị bắt, sau
hơn một năm bị hành hạ khai thác ở Cao Bằng, cũng chẳng được đưa ra tòa xử mà
bị nhận lệnh tập trung cải tạo, rồi chuyển về trại E này. Hiện nay cả 5 người
đều ở buồng II. Hai người ở toán xẻ gỗ (toán 3) là Nông Quốc Hải, toán trưởng,
29 tuổi (1968); Hoàng Mạnh Hùng.
Ba người ở toán 2 (mộc)
là: Shè Khửu Sáng – 26 tuổi, người Nhắng. Nguyễn Văn Châu – 25 tuổi, người
Kinh; La Văn Thịnh – 23 tuổi, người Thổ.
Tất cả 7 cậu đều ở Tùng
Nghĩa, Lâm Đồng. Khi các cậu được tuyển mộ vào ngành biệt kích, tuổi đời đều
trên dưới 20. Trước đây, đôi lúc tôi cũng băn khoăn, nhớ khi bị bắt tuổi đời
tôi mới 24, nhưng bây giờ nhìn về toán biệt kích này, tôi càng không khỏi bùi
ngùi, khi vào tù các cậu chỉ mới ở tuổi đôi mươi. Câu chuyện của các cậu, dù
tôi chưa biết được tỉ mỉ, chi tiết, nhưng cứ chập chờn len lỏi vào hồn tôi lúc
rõ, lúc mờ trong giấc ngủ muộn.
Sáng hôm sau, thứ Hai.
Điểm xong, khi ra khỏi cửa buồng, tôi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, khi nhìn thấy
sương mù. Chưa bao giờ tôi thấy nhiều sương mù như vậy. Cả một bầu trời trắng
đục, ngay cái hội trường chỉ cách gần 2 chục mét trước mặt mà cũng mờ mờ trong
sương. Nhìn xuống phía dưới sân trại, những bóng người nhấp nhô, ngược xuôi
thấp thoáng, di chuyển như trong một đám khói dầy. Tôi vừa chạy trong sương xuống
phía giếng nước, vừa ngẫm nghĩ: chẳng biết ở những miền rừng núi thường có
sương mù như thế, hay chỉ trong khu vực Hoàng Liên Sơn này?
Lúc tôi chạy trở về gần
ngang buồng, cứ nhìn những bóng người thấp thoáng trong sương mờ, hồn tôi lại
lắc lư, bồng bềnh liên tưởng về một ngày xưa xa lắm. Khi ấy, tôi còn rất bé,
nhìn một bức tranh địa ngục với những bóng ma, quỷ tội đồ, xiềng xích. Họ làm
việc khổ hình cũng trong khói sương thuộc quyền của Diêm Vương. Mập mờ, thoáng
thấy bóng anh Lân và Lý A Chén cùng một số người đang ồn ào bàn tán. Thì ra hôm
nay, toán trang trọng cử tự giác Chén ra đồng, sang toán 5 lĩnh lá cải bắp già
về bồi dưỡng cho toán.
Ngay từ hôm thứ Bẩy,
anh Lân đã vận động với ông cán bộ toán, liên hệ với cán bộ toán 5; sau khi anh
Lân đã đến riêng với anh Xuân Tảo, toán trưởng toán 5. Theo anh Lân, anh đã
phải vận dụng hết khả năng ngoại giao, mở cả một chiến dịch chạy chọt hai, ba
nơi. Phải nêu những thành tích sản xuất vượt bực của toán 2, nói sùi cả bọt mép
v.v… Bởi vì, theo kế hoạch phân phối đã từ lâu của trại thì những lá già của
các loại rau xanh, chỉ dành riêng cho bên khu chăn nuôi của cơ quan và trại
giam mà thôi. Nếu toán 3 xin riêng được, thì toán khác cũng xin được. Như vậy,
còn gì cho trại và cho chăn nuôi? Chưa hết, anh Lân lại còn phải lấy giấy giới
thiệu của ông Kích, cán bộ toán để đến ông cán bộ nhà bếp xin 3 lạng muối nữa!
Một nguồn tin còn quan
trọng gấp nhiều lần hơn tin bác Hồ trở lại thăm hang Pắc Pó. Nó làm cho khí thế
lao động của toán 2 hôm nay, được nâng cao rõ rệt. Mặt anh nào cũng tươi rói,
chào hỏi nhau, vồn vã khác thường.
Khi trò chuyện trong
lúc kẻ khẩu hiệu với Lê Sơn sáng nay, tôi đã lựa lời hỏi về anh Khải bị đi kỷ
luật tuần trước. Không ngờ, anh Khải còn một người bố nữa là Nguyễn Từ Hải,
cũng đang ở toán 3 xẻ. Hai bố con cùng một tội phản tuyên truyền trong phong
trào “trăm hoa đua nở” và “nhân dân giai phẩm”. Hai bố con cùng ở Hà Nội, anh
Khải là con trai cả, 28 tuổi, chưa lập gia đình. Cả hai bố con đã từ gần 10 năm
rồi với cái lệnh tập trung cải tạo 3 năm.
Nghe Lê Sơn nói như
vậy, tự nhiên tôi muốn biết cái cảnh cùm kỷ luật ở trại ra sao nên hỏi anh. Lê
Sơn đang cắm cúi, nắn nót kẻ một đường kỷ hà trên tấm khẩu hiệu:
Chiến dịch Đông Xuân:
Bộ đội đổ máu nơi chiến
trường.
Nông dân đổ mồ hôi trên
đồng ruộng.
Nghe thấy tôi hỏi. Anh
đứng giật dậy, quay hẳn lại phía tôi sôi nổi:
- Bình chưa biết cái
cùm ở đây đâu. Một tác phẩm vĩ đại của Hoàng Thanh.
Trong khi tôi mở to
mắt, đăm đăm nhìn. Tay Lê Sơn đang cầm chiếc bút vẽ cứ hất vung ra, mỗi khi anh
giằn giọng. Mặt anh còn toát ra sự uất hận nén đầy; làm cho Quý Cụt từ mãi
trong góc nhà cũng quay ra nghe chuyện:
- Nó bằng 2 súc gỗ lim
to tướng, đóng thành một cái hộp, mà mọi người gọi là “cái cùm hộp”. Đã bị cùm
thì chân không còn nhúc nhích. Ai mà bị cùm chỉ một tuần hay nửa tháng, lúc
được thả ra đều phải bò về buồng. Nhiều người đã bị thối chân ra vì cái loại
cùm này rồi.
Thấy tôi cau mày, hơi
vẻ bàng hoàng. Quý Cụt hất hàm về phía Lê Sơn, rồi cũng lên tiếng như thể thừa
nhận:
- Lần trước, cách đây
mấy tháng. Lê Sơn khỏe như thế, chỉ bị cùm gần một tháng, khi ra phải hai người
giúp, khênh về buồng, người chỉ còn xương với da. Sơn, nó cũng mới lại người
đấy!
Đến đây, mắt Quý sáng
lên, môi dưới hơi dề xuống ngọ nguậy nói tiếp:
- Lê Sơn mới xoay được
tiền để mua chuột bồi dưỡng, nếu người khác thì đừng hòng!
Tôi chặc lưỡi, càng tỏ
vẻ trầm trồ. Lê Sơn lại gằn giọng phẫn uất:
- Thằng Hitler bây giờ
có sống lại, cũng phải quỳ xuống vái tụi này là tổ sư!
Thấy Lê Sơn phát biểu
mạnh quá, làm tôi cũng hơi khớp. Khớp về sự kiện Sơn đưa ra thì ít, mà vì ngỡ
ngàng thấy không khí riêng tư của buồng vernie này khác hẳn với bên ngoài trại.
Tôi liếc mãi nhìn khoảng cách dưới lán mộc với nhà vernie, rồi chuyển hướng câu
chuyện:
- Thế Hoàng Thanh là
ai?
- Rồi Bình sẽ gặp, ông
ta là trung úy giám thị phân trại E này.
Quý vừa nói xong,
thoáng thấy bóng Nguyễn Huy Lân từ dưới lán mộc đi lên, cả 3 người lại cúi
xuống làm việc. Lên đến hè, nhìn tôi, Lân nghiêm nghị:
- Bình lên gặp ban giám
thị!
Quý Cụt và Lê Sơn đều
quay lại nhìn tôi đầy nét dò hỏi. Phần tôi, cũng bắt đầu lo lắng. Tôi chậm chạp
đi theo anh Lân. Thấy Lân dẫn sang phía toán 3, đi sát lại, tôi hỏi khẽ:
- Ông Hoàng Thanh à?
Anh Lân chỉ lắc đầu,
tôi chẳng hiểu là anh không biết, hay không muốn nói? Thái độ của anh Lân lạnh
lùng, khác hẳn với sự cười cợt thân mật mọi khi. Anh dẫn tôi đến trước căn nhà
con của cán bộ toán 3. Chỉ vào cánh cửa gỗ đang khép hờ, anh nói nhẹ:
- Bình vào trong ấy!
Nói rồi, anh trở về lán
mộc ngay. Hơi đắn đo, rồi tôi bước lên những bậc đất, đến trước cánh cửa khép.
Một giọng Bắc, ngai ngái miền Bắc Ninh rất nhẹ phía trong:
- Anh cứ đẩy cửa vào
đi!
Một người chừng 50
tuổi, hơi nhỏ con, tóc đã muối tiêu, đặc biệt có cặp lông mày thật rậm; đã ngồi
sẵn phía sau chiếc bàn con để mộc. Hai bên ve áo, có hai chiếc lon hình chữ
nhật lệch đỏ chóe. Trên mỗi chiếc lon có 4 ngôi sao và một chiếc vạch mầu vàng
ươm, phía dưới. Tôi bước vào, hơi nghiêng người tỏ vẻ chào ông ta. Hơi hất hàm
ra phía cửa, rồi ông ta nhìn xuống chiếc ghế đẩu, đang để chơ vơ phía trước
bàn:
- Đóng cửa lại, rồi
ngồi đây!
Một giây im lặng, ông
ta cất tiếng nhè nhẹ như chuyện trò thăm hỏi:
- Hơn một tuần nay, lên
đây rồi, anh thấy khung cảnh trại thế nào? Anh phát biểu tôi nghe!
Qua giọng nói nhỏ nhẹ,
nhất là đôi mắt của ông ta dìu dịu như le lói, chút ít tình người. Tuy vậy tôi
vẫn dè dặt:
- Dạ, thưa ông, tôi
thấy tinh thần lao động của mọi người rất hăng say, tích cực.
Ông ta gật gật đầu
nhưng miệng lại hỏi:
- Ngoài vấn đề lao động
ra, tôi muốn anh phát biểu về những lảnh vực khác.
- Thưa ông, tôi mới
nhập trại nên chưa biết gì.
Tôi đã hơi hiểu ý ông
ta muốn những cái gì rồi, nhưng tôi vẫn trả lời như trên. Có lẽ thấy tôi ngập
ngừng dè dặt, ông ta bắt đầu, hơi gằn giọng:
- Tôi biết tư tưởng anh
chưa ổn định. Anh cón nhiều hoang mang, giao động khi phải chuyển đến một nơi
chưa biết.
Ngưng lại một lúc, thấy
tôi vẫn cúi đầu ngồi yên, ông ta lại tiếp:
- Chính vì thế, lẽ ra
tôi chưa muốn gặp anh. Nhưng một cái cây, mới đem trồng vào đất khác; nếu nó
nghiêng, có khi rồi nó sẽ đổ gục; hoặc nó sẽ cứ nghiêng mãi. Tôi muốn cái cây
ấy mọc thẳng đứng ngay từ đầu.
Ngồi nghe ông ta nói,
tuy chưa biết rõ ý đồ, mục đích của ông ta gặp tôi để làm gì, trong lòng tôi
cũng nhiều lần tự hỏi, tên này tuy là đại úy nhưng chưa biết y ở cương vị nào.
Xem vẻ y rất mềm mỏng, muốn đi sâu vào tâm hồn của đối tượng. Lạt mềm thì buộc
chặt, loại này càng phải cảnh giác, thận trọng khi tiếp xúc, quan hệ. Thực ra
trong lòng tôi, vẫn luôn luôn mang sẵn một quả bom nổ chậm. Chưa thể nói là đã
lấy được hết ngòi nổ ra. Tuy rằng sau gần 6 năm khai thác, cuối cùng chúng đã
đưa tôi ra tòa xử án, Nhưng dưới chế độ cộng sản, thực tế đã cho mọi người đều
hiểu: xử án xong không có nghĩa là vụ án đã kết thúc. Bởi vậy, từ chuyện Z5
Hoàng Đình Thọ, đến tài liệu “M” v.v…luôn luôn làm tôi phải ngấp nghé, phập
phòng mỗi khi phải gặp một tên cán bộ lạ.
Tôi vẫn cúi đầu nhìn
xuống mép bàn, để lòng chảy về những năm tháng cũ ở Hỏa Lò thì ông ta đằng
hắng:
- Anh Bình, anh phát
biểu ý kiến của anh đi! Anh hoang mang à?
Thấy ông ta nói vậy, để
cho xuôi và hợp lý, tôi phát biểu:
- Thưa ông, tôi xin nói
thành thật là trước khi đến trại này tôi có hoang mang, vì tôi chưa từng ở một
trại giam xa xôi thế này. Nhưng sau năm, sáu ngày ở đây, qua những sinh hoạt ăn
ngủ, lao động, tôi đã tin tưởng vào đường lối chính sách cải tạo, giáo dục của
đảng và nhà nước. Tôi không còn hoang mang nữa.
Ông ta gật đầu rồi nói
đều đều như nhắn nhủ, như nhắc nhở:
- Tôi tin vào cái nhìn
sâu, sát của anh. Vì vậy anh phải thực hiện thật tốt 4 tiêu chuẩn cải tạo mà
nhà nước đã đề ra. Trong đó không những anh phải phấn đấu lao động, cải tạo tư
tưởng cho bản thân mà còn có trách nhiệm phải giúp đỡ mọi người khác cùng tiến
bộ. Đó cũng là cách tích cực nhất, anh đã tự mở con đường cải tạo thênh thang
cho chính anh. Ngoài ra, tổng quan tình hình của trại, thấy những vấn đề gì làm
trở ngại cho bước đi lên, anh cứ mạnh bạo đề xuất sáng kiến. Tôi sẽ gặp anh
sau! Ông ta vừa nói, vừa đứng dậy.
Sau khi chào ông ta,
tôi đã quay đi ra đến cửa, thì ông ta đến bên, nói như thân tình:
- Bất cứ khi nào anh
cần gặp tôi, hãy đề bạt với ông cán bộ toán.
Tôi phải chào y lần nữa
và bước ra khỏi cửa. Trên đường về lán mộc, lòng tôi thấy nhè nhẹ vơi hẳn cái
lắng lo khi sớm. Nhưng tôi cũng mờ mờ cảm thấy, ông ta muốn tôi làm một con chó
săn cho ông ta. Cá to thì phải câu cần to; cá nhỏ thì câu cần nhỏ. Cá nào cũng
câu, chỉ còn tùy thuộc vào từng con cá, có cắn câu hay không. Đó là chủ trương
của những người cộng sản giam giữ tù.
Đành rằng, ngay trong 4
tiêu chuẩn cải tạo đã có câu:
“phát hiện và tố giác
mọi phần tử xấu chung quanh, từ lời nói cũng như hành động”.
Nhưng tới đây, tôi cũng
mới chỉ mơ hồ nhận thấy những phương pháp: ngăn cách, ly gián, hư thực, thực
hư…; lấy cái đói khổ (cái dạ dầy) sự khích lệ, tâng bốc, phỉnh phờ, kết hợp với
áp lực của vũ khí. Nhào lộn nhuần nhuyễn để tùy theo áp dụng với từng người,
sao cho đạt mục đích tối hậu là mọi phạm nhân trong trại, sẽ yên định như những
chiếc nêm cối xay lúa. Nghĩa là, không thể nhúc nhích, yên lành sống, ngoan
ngoãn trong cảnh tù đày; như không có chuyện gì xảy ra cả. Còn nhiều điều,
nhiều khâu, tôi chưa nhìn được rõ ràng. Phải đợi những ngày tới, qua những tình
huống và sự việc cụ thể, bằng người thực, việc thực mới giúp tôi nhìn sáng tỏ
vấn đề này hơn.
Khi về qua chỗ cầu bào
của Lân, anh gật đầu gọi tôi lại. Anh nhìn tôi chằm chặp rồi ngập ngừng:
- Có chuyện gì thế?
Để khỏi phải dài dòng,
tôi thủng thẳng:
- Ông ta hỏi cảm tưởng
mấy ngày ở trại và một vài sự việc trong vụ án của tôi.
Tôi hỏi lại anh Lân,
ông ta tên gì và làm việc ở đâu, thì được biết ông ta tên Chuân, Nguyễn Chuân,
giám thị ở trại chính. Tôi sắp từ giã, thì anh Lân ghé gần tai nói nhỏ:
- Hãy cẩn thận thằng
Quý Cụt. Trước đây nó tiến bộ lắm, tố cáo lung tung mọi người, nhưng kỳ này bớt
rồi. Tuy vậy “cẩn tắc, vô ưu”.
Rời chỗ Lân để trở lên
nhà vernie, tôi vừa đi vừa suy nghĩ: mấy người, trong năm ngày nay tôi hay
chuyện trò, anh này bảo cảnh giác anh kia, như vậy người ta có thể nghi ngờ hết
cả mọi người, kể cả tôi. Như thế là đúng như dụng ý của kẻ coi tù rồi! Tuy thế,
chỉ có Lê Sơn thì chưa có một ai bảo tôi phải cảnh giác cả.
Lúc về đến nhà vernie,
tôi cũng hỏi Lê Sơn và Quý Cụt như đã nói với anh Lân về chuyện gặp ông Chuân.
Qua Lê Sơn, tôi còn được biết rõ hơn về Nguyễn Chuân. Giám thị của toàn trại
Trung Ương số 1, gồm 5 phân trại là ông Toán, thiếu tá. Nhưng bí thư Đảng ủy
lại là ông Chuân. Tuy chỉ là đại úy, nhưng quyết định mọi việc lớn của trại,
đều do ông Chuân, đại diện của Đảng. Tôi cũng được biết là ông Chuân ít khi vào
trại này và cũng năm thì, mười họa mới gặp phạm nhân mà thôi. Hơn một năm
trước, có một lần ông ta vào gặp Vân và một lần gặp ông Hinh Mù, người mà đã
một lần tôi trông thấy đang lần bước trên hè nhà số 1. Ông có thân hình to, cao
như Lê Văn Kinh, ông chừng 55 tới 60 tuổi rồi.
Buổi trưa ở trong trại,
sau bữa cơm ngô vội vàng, tôi đang nằm liu riu, mơ màng bên cạnh Vân để chờ giờ
đi lao động buổi chiều, thì thoáng nghe tiếng rủng rẻng của chùm chìa khóa ở
phía cửa, làm tôi mở choàng mắt ra. Tên Cẩn, trực trại và tên Phạm Huy Tân,
trật tự đang đứng ở giữa nhà. Tên Cẩn đang chỉ chỏ lên sàn trên, phía trước của
toán 3. Một bác chừng 50 tuổi ngoài, dáng hom hem, mảnh khảnh đang lúng túng
cuộn chăn chiếu, lò rò trèo xuống. Tôi còn đang ngơ ngác, thì Vân cũng đã mở
mắt rồi, nói khẽ:
- Ông Chương, Lê Tài
Chương đi kỷ luật.
Hơi bàng hoàng, tôi hỏi
lại Vân:
- Làm sao mà đi kỷ
luật?
Vân vẫn nằm, nói nhỏ:
- Bình chưa hiểu được
đâu, những người bị đi kỷ luật, chỉ đôi khi mọi người mới biết lý do. Còn thông
thường chỉ có người nào bị đi, thì họ mới được biết mà thôi. Thế mà nhiều khi,
ngay bản thân người phải đi kỷ luật, cũng không biết tại sao nữa. Thậm chí, như
anh Đồng, hai tháng trước bị đi kỷ luật, cùm một tuần. Cho tới khi được tha,
anh ta cũng chưa biết vì sao mà anh ta phải đi kỷ luật.
Nghe Vân nói thế, lòng
tôi hoang mang cực độ. Vân nhìn thái độ của tôi một lúc, rồi anh vừa chùm chăn
lên mặt, vừa nói:
- Tội tư tưởng, thì ai
mà biết được!
Tôi nằm nhắm mắt, mà
lòng ngổn ngang xôi động đầy vơi. Nỗi lắng lo về ngày mai, cứ dâng đầy, bủa kín
hồn tôi. Óc tôi vất vưởng, chợt nhớ tới ông Chương. Phải rồi, ông Chương, chủ
tịch đảng Tân Phong mà có lần Quý Cụt nói đến. Tôi vẫn có ý định đến gặp ông
ta, để học hỏi thêm kinh nghiệm, kiến thức. Thế mà bề bộn nhiều sự việc lan
man, tôi đã quên khuấy không tìm dịp gặp ông ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét