Trương Quang Đệ - Gần đây, trang web
tiếng Việt của Đài BBC có đăng bài của Lê Quỳnh giới
thiệu một cách đánh giá mới về phong trào Nhân văn-Giai phẩm do một học giả Mỹ,
Peter Zinoman, Giáo sư Khoa lịch sử ở Đại học Berkeley, đề xuất (1). Tôi lấy
làm tiếc chưa được đọc nguyên bản bài nghiên cứu của vị giáo sư Mỹ, nhưng qua
bài giới thiệu của Lê Quỳnh, vị giáo sư Mỹ cho rằng các nghiên cứu từ trước đến
nay thường “thổi phồng” giá trị đối kháng chế độ của Nhân Văn Giai Phẩm mà
không nghiên cứu kỹ những bài viết thực sự của phong trào này, tìm hiểu bản
chất của họ là gì. Căn cứ vào những bài viết của Nhân Văn Giai Phẩm, học giả Mỹ
nhận xét như sau:
·
Nhân Văn Giai Phẩm không phải là một phong trào đối kháng về
quan điểm chính trị (như các phong trào tương tự ở Đông Âu) mà chỉ chống đối
những sự lạm dụng của các cấp chính quyền.
·
Nhân Văn Giai Phẩm không hề chống Liên Xô hay các nước xã hội
chủ nghĩa khác, không chống chủ nghĩa Marx.
·
Nhân Văn Giai Phẩm coi phương Tây (Pháp, Mỹ,Anh…) là đế quốc thù
địch.
·
Nhân Văn Giai Phẩm không được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng
rộng rãi. Họ được đề cao bởi những thế lực muốn sử dụng họ vào mục tiêu tuyên
truyền chống cộng của mình.
Những năm xẩy ra phong trào Nhân Văn Giai
Phẩm, từ năm 1956 đến 1958, tôi là sinh viên Khoa Toán Đại học Sư phạm Hà Nội.
Tôi chứng kiến sự “trỗi dậy” ngoạn mục của phong trào đồng thới theo dõi sát
sao những cuộc phê phán dữ dội từ phía chính quyền chống lại Nhân Văn Giai Phẩm.
Tôi có quan điểm chính trị riêng của tôi về thời cuộc, nhưng khi viết bài này,
tôi cố gắng dẹp hết sang một bên, cố suy nghĩ thật khách quan và khoa học về
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
Tôi không rõ từ trước đến nay người ta viết
những gì về Nhân Văn Giai Phẩm, tôi ghi lại đây một số sự kiện tôi biết chắc
chắn và bản thân ít nhiều kiểm chứng được.
Báo chí trong nước dùng cụm từ Nhân Văn Giai
Phẩm để chỉ chung những trào lưu “bất mãn” thời kỳ 1956-1958 ở Hà Nội và một số
địa phương ở Miền Bắc Việt Nam. Tôi nhớ lại rằng chính vào thời kỳ đó người ta
gọi những người thuộc các trào lưu trên là những phần tử “bất mãn”, chưa hề
dùng từ “đối kháng”, “chống đối” hay “ly khai”… Tôi nhận thấy từ “bất mãn” rất
phù hợp với bước khởi đầu của Nhân Văn Giai Phẩm, một phong trào đa tạp hầu như
không liên kết với nhau, một phong trào tự phát không do một ý thức hệ nào điều
khiển. Thoạt tiên là nhóm nhà văn quân đội, những kẻ dám liều lĩnh phê bình thơ
Tố Hữu rồi bị “chấn chỉnh” nên “bất mãn”. Nhóm đó gồm Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng
Cầm rồi đến Văn Cao.... Đặc điểm của nhóm này là uy tín chuyên môn và chính
trị, họ là những tác giả được quần chúng ngưỡng mộ, đồng thời họ là những cán
bộ xuất sắc trong kháng chiến chống Pháp, đã được tặng thưởng nhiều huân chương
cao quí của chế độ. Họ tập hợp thành nhóm “Giai phẩm” vì cơ quan phát ngôn của
họ là tạp chí ra không định kỳ “Giai phẩm mùa thu”, “Giai phẩm mùa xuân”. Họ có
thần tượng văn nghệ là Maiakovsky, không phải họ thân Liên xô mà họ chủ trương
tự do sáng tạo, phá những khuôn mẫu cũ, lấy “thơ bậc thang” làm vũ khí tấn công
bọn bảo thủ. Nhóm thứ hai, tạm gọi là nhóm Nhân Văn, vì họ tập hợp quanh tờ báo
“Nhân văn” của cụ Phan Khôi. Trong lịch sử, cụ Phan vốn nổi tiếng là “người đối
kháng”, từng chủ trương những tờ báo chống đố trật tự thuộc địa và phong kiến.
Khi tham gia kháng chiến, cụ thấy nhiều điều đáng phê phán nhưng không phát
biểu được vì bị ý thức hệ ràng buộc. Thời cơ đến với cụ là việc Đảng nhận sai
lầm về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Việc nhận sai lầm này không
phải do lô gích nội tại mà do áp lực chống sùng bái cá nhân do Khơ–rút-sốp đề
xuất trong Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô. Lá cờ mà cụ Phan phất
lên là “tư tưởng nhân văn” của Đại hội 20, chống độc tài chuyên chế trong lãnh
đạo, chống sùng bái cá nhân. Tờ Nhân Văn phê phán công khai những sai lầm trong
cải cách ruộng đất, những sự lãnh đạo độc đoán trong giới chóp bu văn nghệ
(Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Tố Hữu…). Họ kiến nghị xây dựng một nhà nước nhân ái,
vì dân, dân chủ, văn minh. Nhóm thứ ba là “nhóm đại học”, tập hợp xung quanh
tạp chí “Đại học sư phạm” gồm những khuôn mặt tiêu biểu của giới trí thức miền
Bắc như bộ tứ Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh… Những
vị trí thức này có thành tích kháng chiến xuất sắc và có những công trình khoa
học tầm cỡ. Họ chủ trương một nền văn hoá “của con người” chứ không phải “văn
hoá của Đảng”. Họ tranh luận với những học giả bảo thủ như Đặng Thai Mai, Hoàng
Xuân Nhị xung quanh khái niệm “văn học có tính Đảng” của Lê-nin. Theo Trần Đức
Thảo, chuyên chính vô sản phải đảm bảo tự do cá nhân. Nguyễn Mạnh Tường có bài
phát biểu nổi tiếng ở Hội nghị Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc. Ông chủ trương nhà
nước pháp quyền, đề cao con người, tình đồng loại, tình yêu… Nhóm thứ tư là tập
hợp một sớ sinh viên đại học xung quanh tạp chí “Đất Mới”. Nhóm này chủ trương
sinh viên tự quản, chống lại sự ràng buộc cua Đoàn Thanh niên Lao động, tay
phải của Đảng. Trào lưu “Đất Mới” tạo ra một “mùa xuân” trong giới sinh viên.
Nhiều lớp sinh viên lật đổ lớp trưởng, lớp phó do Đoàn Thanh niên của Đảng áp
đặt, họ bầu ra những cán bộ lớp mới phù hợp với những tiêu chuẩn mà họ đặt ra.
Họ không chịu học chính trị, môn học do các cán bộ ít học vấn đảm nhiệm, họ yêu
cầu tổ chức những buổi tranh luận, thảo luận về thời cuộc. “Mùa xuân” ấy tồn
tại chừng ba tháng, sau đó các hạt nhân nòng cốt của trào lưu bị trấn áp. Nhóm
thứ năm là những phần tử tập hợp xung quanh tờ “Trăm hoa” của nhà thơ Nguyễn
Bính. Theo Tô Hoài, Nguyễn Bính có sinh hoạt phần nào buông thả nên hay “bất mãn”.
Quả vậy, “bất mãn” của nhóm Trăm hoa không rõ rệt về chính trị. Nhóm cuối cùng
do người chủ Nhà xuất bản Minh Đức hợp tác với Nguyễn Hữu Đang chủ trương xuất
bản tự do. Họ in lại những tác phẩm của Tự lực Văn đoàn, của Vũ trọng Phụng,
những tác phẩm thời đó coi như cấm kỵ. Ông chủ nhà xuất bản Minh Đức là người
có thành tích tham gia kháng chiến. Ông Nguyển Hữu Đang là nhà cách mạng kỳ
cựu, thân cận với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ban đầu, chính quyền nể họ mà không dám
mạnh tay trấn áp.
Tất cả những trào lưu trên có chung một mục tiêu là đòi tự do,
dân chủ, chống độc đoán cá nhân, xây dựng một ý thức hệ “nhân văn”, bình đẳng.
Nhà cầm quyền nắm bắt được bản chất đó của những kẻ “bất mãn” nên họ phát động
một chiến dịch lớn chống lại khái niệm tự do tư sản. Trong một buổi
gặp gỡ toàn bộ sinh viên Hà Nội ở Nhà hát Nhân dân, nay là Cung văn hoá hữu
nghị, tướng Giáp khuyên sinh viên nên tỉnh táo trước âm mưu của địch xúi dục
đòi tự do. Tướng Giáp cho biết quân đội sẵn sàng đứng ra giữ trật tự nếu sinh
viên nổi loạn. Chu Ân Lai, khi thăm Đai học Hà Nội cũng nói nhiều về “thị du”
(tự do, lối đùa của Lỗ Tấn). Ông giảng giải sự khác nhau giữa tự do đích thực
của chế độ mới so với tự do tư sản. Voroshilov khi đến thăm Đại học Hà Nội cũng
nói đến tính ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa so với chế độ tư bản, khuyên
sinh viên cảnh giác với tư do tư sản.
Việc Nhân Văn Giai Phẩm không chống trật tự
cộng sản, không chống Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, họ
coi Mỹ, hay Phương Tây nói chung là đế quốc thù địch có thể được giải thích qua
bối cảnh lịch sử. Bối cảnh đó như thế nào?
1. Miền Bắc Việt Nam thời đó chưa phải là một nhà nước cộng
sản. Dầu từ năm 1950 trở đi, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông
thâm nhập mạnh, về lí thuyết Việt Nam vẫn sống theo Hiến Pháp 1946, một hiến
pháp dân chủ đại nghị theo mô hình Pháp. Trong chính phủ, rất nhiều bộ trưởng
là người ngoài Đảng: Phan Kế Toại (Nội Vụ), Trần Đăng Khoa (Giao Thông Vận
Tải), Nguyễn Văn Huyên (Giáo Dục), Phan Anh (Ngoại Thương), Vũ Đình Hoè (Tư
Pháp), Nghiêm Xuân Yêm (Nông Nghiệp), Vũ Đình Tụng (Y Tế), Hoàng Minh Giám (Văn
Hoá)… Các cán bộ cao cấp của các ngành, sỹ quan quân đội, vẫn là thành phần lớp
trên do chế độ cũ đào tạo, chưa bị thay thế bằng các phần tử công nông vô sản.
Việt Nam về hình thức là một nước theo chế độ đa nguyên, đa đảng.
Bên cạnh Đảng Lao động cầm quyền, còn có các đảng khác không đối lập mà “anh
em”, như Đảng Xã hội của Nguyễn Xiển, Đảng Dân chủ của Nghiêm Xuân Yêm. Điều
đáng chú ý là báo chí được tự do như năm 1946, theo đúng hiến pháp. Vì vậy mà
có tờ Nhân Văn của cụ Phan, tờ Trăm hoa của Nguyễn Bính, các tập Giai phẩm của
nhóm Trần Dần, Lê Đạt, bên cạnh tờ Hà nội mới, ban đầu là của tư nhân, về sau
được công hữu thành báo của nhà cầm quyền Hà nội. Cán bộ ngoại giao và chuyên
gia Liên xô được cử lần đầu sang Việt Nam hình dung mình sẽ đến một nước nhiệt
đới nghèo khổ, lạc hậu, ruộng đồng đầy rắn rết và cá sấu. Vốn sống trong một
nước bao cấp thiếu thốn, họ ngỡ ngàng phát hiện một Hà Nội xinh tươi với những
cửa hàng đầy ắp hàng hoá, với những biệt thự kiểu Pháp sang trọng và những con
người thanh lịch có học vấn cao. Nhưng điều mà họ ngỡ ngàng nhất là báo chí tự
do, chuyện khó xẩy ra ở đất nước họ. Giai đoạn này, từ ngữ chính thống gọi là
“dân chủ nhân dân”, y như những năm đầu của Trung Quốc thời Mao. Tố Hữu, khi
phê phán Nhân Văn Giai Phẩm, cũng nói: “Họ chống lại nền chuyên chính dân
chủ nhân dân” mà không nói “chuyên chính vô sản”. Trong nền dân chủ
nhân dân này, các thành phần kinh tế của chế độ cũ vẫn tồn tại: công thương
nghiệp tư nhân, tiểu thương, tiểu chủ, nông dân cá thể, những người hành nghề
tự do v.v... Các nhà tư sản tên tuổi như Nguyễn Sơn Hà, Ngô Tử Hạ lập ra Hội
công thương Hà nội. Nhiều nghiệp chủ có chân trong quốc hội. Các ngoại ngữ Anh,
Pháp vẫn được dạy trong các trường chưa bị thay thế bằng tiếng Nga hay tiếng
Hoa. Ngôn ngữ giao dịch của ngành ngoại giao là tiếng Pháp. Người dân
bình thường trong những năm ấy chưa thấy sức nặng của một hệ thống toàn trị.
Vì vậy các trào lưu “bất mãn” trên không chống chế độ mà chỉ chống những khía
cạnh khắc nghiệt mới nẩy sinh dưới chế độ đó như vấn đề hộ khẩu, vấn đề thành
phần giai cấp v.v... Có điều nghịch lý khó tin là trong một vài tuần lễ vào năm
1956, Đảng đứng chung trận tuyến với những kẻ bất mãn và quảng đại quần chúng
đối diện với hệ thống chỉ đạo cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, kẻ nắm
quyền thực sự được các cố vấn phương Bắc hỗ trợ. Giáo sư Trần Văn Giàu, dạo đó
là bí thư chi bộ (hay Đảng ủy?) đại học, được mời nói chuyện trước sinh viên về
chính sách sửa sai của Đảng. Ông Giàu cho biết trong một thời gian dài Đảng bị
tê liệt, hễ đội cải cách đến địa phương nào là chính quyền và Đảng nơi đó bị vô
hiệu hoá, kẻ thì đi tù, kẻ thì lánh sang địa phương khác hay trốn lên miền núi,
kẻ thì ngồi đó chờ số phận định đoạt. Ngay các lãnh tụ của Đảng như Võ Nguyên
Giáp, Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan…vì thuộc thành phần bóc lột mà bị các đội
cải cách địa phương và bần cố nông gửi giấy triệu tập về quê chịu tội. Tướng
Giáp khi công cán qua Quảng Bình bị dân quân vây bắt, may mà cận vệ nổ súng đẩy
lùi đám cuồng tín hung hãn. Các tên tuổi trong Ban chỉ đạo cải cách như Hồ Viết
Thắng, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, làm sởn tóc gáy ngay cả Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Theo ông Giàu thì Cụ Hồ hai lần bị các vị kia “uốn nắn” vì đã do dự khi
hành quyết những phần tử mà Cụ cho là tốt, không có tội gì. Ông Giàu kết thúc
buổi nói chuyện bằng lời kêu ca rằng đám cải cách làm đất nước lụn bại, làm đời
sống nhân dân và cán bộ lâm vào cảnh cùng cực. Ông lấy ví dụ về bản thân ông: các
đó hai năm (cuối 1954) ông được phát một đôi giày da màu nâu để đi đón Nehru,
thủ tướng Ấn độ ghé thăm Hà nội, vậy mà cho đến nay (1956) ông vẫn chưa đủ tiền
mua đôi giày mới!
Chính nhờ Khơ-rút-sốp và Đại hội 20 của Liên
Xô mà Đảng Việt Nam thoát được tình trạng bị đám chỉ đạo cải cách khống chế,
mới mạnh dạn sửa sai dầu biết Trung Quốc khó chịu. Các cấp Đảng từ Trung ương
đến địa phương nắm quyền trở lại, cán bộ bị oan sai được phục hồi. Sau khi lấy
lại vị thế cũ, Đảng quay lại chống Khơ-rút-sốp kịch liệt, tuy chỉ là ngấm ngầm,
đứng hẳn về phía Mao lên án bọn xét lại hiện đại.
2. Hình ảnh Liên xô thời đó đối với mọi tầng lớp nhân dân
miền Bắc là tích cực. Trước hết, đó là viện trợ vô tư về kinh tế và quân sự.
Nhưng cái quan trọng nhất đối với các trào lưu “bất mãn” là Đại hội 20 của Đảng
Cộng sản Liên xô. Việc chống tệ sùng bái cá nhân Staline và lên án những cuộc
thanh trừng đẫm máu thời Staline trở thành lá bùa hộ mệnh cho các trào lưu đó.
Rõ ràng ai cũng thấy Liên xô là chỗ dựa chắc chắn, còn việc Staline ép Hồ Chí
Minh phải thực hiện đấu tranh giai cấp ngay trong giai đoạn giải phóng dân tộc
thì ít ai biết được. Trung Quốc thì vào thời đó là một nước ôn hoà. Họ chủ
trương cải tạo công thương nghiệp bằng chính sách công tư hợp doanh chứ không
tiêu diệt tư sản, ku-lắc, trục xuất trí thức ra nước ngoài như nước Nga xô
viết. Đại bộ phận nhân sỹ trí thức sống yên ổn trong chế độ mới, thậm chí họ có
quyền tự trị đại học. Những sự kiện như Chu Ân Lai buộc Việt Nam chia cắt đất
nước, việc các cố vấn Trung Quốc chủ trương giết càng nhiều càng tốt trong cải
cách thì không ai biết. Trong hoàn cảnh đó không một kẻ bất mãn Việt Nam nào
nghĩ đến chuyện chống Liên Xô, Trung Quốc hay phe xã hội chủ nghĩa. Những vụ
nổi loạn ở Hungari, Ba Lan.. được tuyên truyền như là xung đột giữa hai phe,
chứ không phải là ước vọng của nhân dân đòi tự do dân chủ. Những kẻ bất mãn
Việt Nam hoặc suy nghĩ như các nhà cầm quyền, hoặc không muốn dây vào âm mưu đế
quốc nên dè dặt khi phát biểu.
3. Trí thức Việt Nam ngày nay lấy làm tiếc mà nghĩ rằng sự
đoạn tuyệt của đất nước với Phương Tây trong một thời gian dài làm cho đất nước
chậm phát triển, nhất là trong tình hình hiện nay khi phải đối mặt một cách cô
đơn với người láng giềng hùng mạnh đầy tham vọng lãnh thổ. Nhưng vào những năm
cuối của thập kỉ 50 thế kỉ trước, Phương Tây như thế nào? Đó là nước
Pháp với chính sách thực dân lỗi thời gây bao tang tóc cho Việt Nam và các
thuộc địa khác. Mãi khi tướng De Gaulle trả độc lập cho Algérie năm
1962 thì bộ mặt nước Pháp mới thay đổi. Còn nước Mỹ thì với tư tưởng
chống cộng bệnh hoạn, đã tiếp tay cho thực dân trong suốt cuộc chiến tái
chiếm thuộc địa, và như “Người Mỹ trầm lặng” vạch rõ, rất ngây thơ trong việc
lật đổ những chính thể mà họ không ưa, rồi áp đặt cho nước này nước nọ, trong
đó có Việt Nam một cuộc chiến tranh ý thức hệ với phe cộng sản. Nếu ngày nay
những kẻ “bất mãn” như Dương Thu Hương, Cù Huy Hà vũ, nhìn Phương Tây như chỗ
dựa tinh thần trong sự nghiệp đòi tự do, thì vào thời Nhân Văn Giai Phẩm, dầu
bất mãn đến đâu cũng không thể nghĩ tốt cho Phương Tây, những kẻ chủ trương
chia cắt lâu dài Việt Nam, dội không biết bao nhiêu bom đạn lên đầu người dân
vô tội. Vả lại ngay trong thời điểm cao trào Nhân Văn Giai Phẩm, liên quân
Anh-Pháp-Israel tấn công Ai cập nhằm chiếm lại quyền kiểm soát kênh Suez. Ai
Cập là một nước mới được độc lập, cũng như các nước mới được giải phóng khác,
phải đối mặt với âm mưu tái chiếm thuộc địa của đế quốc. Trong hoàn cảnh đó,
thân Phương Tây đồng nghĩa với phản bội, một sự thực mà kẻ bất mãn nào cũng
muốn tránh.
4. Nhân Văn Giai Phẩm có ảnh hưởng như thế nào trong nước và
trên thế giới? Ai ủng hộ? Ai lợi dụng? Đương nhiên những kẻ chống cộng trong và
ngoài nước chớp lấy cơ hội vàng để bôi bác chế độ miền Bắc, coi như minh chứng
về sự khắc nghiệt của chế độ cộng sản. Điều nghịch lý là, đáng ra chính quyền
Ngô Đình Diệm thời đó phải hoan hỉ khai thác thì lại lệnh cho báo chí im lặng
vì sợ một Nhân Văn Giai Phẩm rất dễ xẩy ra ở miền Nam khó kiểm soát hơn nhiều.
Ở miền Bắc, Nhân Văn Giai Phẩm được “đa số thầm lặng” ủng hộ. Tờ Nhân Văn số
đầu tiên như một tiếng sét giữa ban ngày. Quần chúng đang xem phim trong các
rạp ban ngày bỏ chạy ra đường tìm mua tờ báo. Tờ báo nói lên nguyện vọng của
dân chúng về một đời sống bình thường, không bị đe doạ vì đấu tranh giai cấp hay
bị trù dập về mặt tư tưởng. Trong sinh viên đã xẩy ra thực sự một mùa xuân hiếm
có. Truyền thống Nhân Văn Giai Phẩm dai dẳng trong giới văn nghệ sỹ và trí thức
cho đến hôm nay. Sau năm 1986, với chủ trương “đổi mới”, người ta khôi phục cho
hầu hết các phần tử Nhân Văn Giai Phẩm. Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường… được
trả lương hưu, được xuất bản sách. Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt lại
xuất hiện trên văn đàn. Chỉ có những phần tử “hết sức ngoan cố” như Trương Tửu,
Nguyễn Hữu Đang ẩn náu kín đáo nơi nào không ai biết. Trong những năm cuối thập
kỉ 80 của thế kỷ 20, nhiều nhà văn, nhà báo Phương Tây và Liên Xô rồi Nga tìm
cách tiếp cận vói các phần tử “cựu Nhân Văn Giai Phẩm”. Họ hơi thất vọng, y như
vị học giả Mỹ hiện nay ở Berkeley, phát hiện ra đó là những con người không có
chính kiến gì rõ rệt. Họ có lí vì trước khi đến Việt Nam họ nghĩ tới những týp
như Sakharov, Walesza, Clavel, Soljenitsine.. của Đông Âu. Họ thấy những con
người khác hẳn. Trần Đức Thảo làm cho bạn bè cũ ở Paris phát khóc vì thất vọng
khi thấy ông ngoan cố đi theo Marx đến cùng. Rõ ràng những phần tử Nhân Văn
Giai Phẩm, do bối cảnh lịch sử mà khác xa đám ly khai hay đối kháng Đông Âu.
Tôi nghĩ nên đánh giá họ trong bối cảnh riêng biệt của họ. Lấy cái nhìn đồng
đại để xét đoán một vấn đề lịch đại, theo tôi, không phải là cách làm thích
đáng.
Sài gòn
Trương Quang Đệ
Trương Quang Đệ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét