Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ 4

Chương XVII
ít lâu sau, Ina và Lêon ly thân. Rồi Lêon nhảy cửa sổ tự tử. Không khi nào tôi hỏi Ina những chuyện ấy Một lần Ina đến Hà Nội. Trong một buổi tiếp đoàn nhà văn Liên Xô trên khách sạn Thắng Lợi, Hoàng Trung Thông đứng lên, nâng cốc, sốt sắng. Không ai kịp cản, bởi không biết Hoàng Trung Thông nói một câu như thế. Thông nói: “Lêon dạo này thế nào? Đã xong quyển sách về Sác chưa? Cho tôi gửi một chén chúc sức khoẻ Lêon". Ina cúi mặt, không nói gì.
Mấy năm sau, Ina lấy hoạ sĩ Iuri. Rổ rá cạp lại, nhưng mà yên vui. Hoạ sĩ đồ hoạ Iuri chuyên phục chế tranh cổ, nghe nói làm ăn khá. Vương Trí Nhàn đưa tôi đến gặp Ina chỗ đấy là xưởng vẽ của Iuri. Vợ chồng có một nhà nghỉ cách trung tâm hai trăm cây số. Ina nói: “Chúng tôi bây giờ ở chùa xa lánh trần gian". Thế cũng là thoả. Đời người ta còn có hậu.

Tôi với Ina vô duyên, nhiều khi chỉ vì những rắc rối không đâu rồi giận nhau. Có lần tôi gửi thư đi Ba Lan lại bỏ nhầm phong bì cho Ina, Ina trả lại, đánh mấy dấu than. Có lần đi với Iuri đón tôi đi chơi nhà ngoại thành, hôm sau tôi về Hà Nội. Khách sạn Nước Nga mênh mang, cửa trông ra bốn phía. Vợ chồng đợi ở cửa tây, thì tôi lại ngóng cả buổi bên cửa bắc, mà tôi yên trí đấy là cửa tây. Từ bấy tới bây giờ không lần nào gặp lại, thư chúc tết cũng không thấy đáp lại.

Nếu Ina vẫn giận tôi cái tật không nhớ đường và quên mặt người thì có còn khi nào để xin lỗi được. Nhưng biết đâu nhỉ, như cuộc gặp không hẹn với Marich đây.

Quán Cây Sâú, bác sĩ Nam Thanh mở quán chẳng biết để kinh doanh hay là một sự hoài cổ cho nó khuây khỏa bóng chiều. Những khuya vui, bà đệm đàn hát cho vài người nghe những bài hát ngày đầu kháng chiến của Phạm Duy, của Tử Phác... Lưng khoác chiến y. Mà hồn mang bóng quốc kỳ... Quay quay thương nhớ quyến vào tơ... Bà đưa rót rượu ngâm nam sâm, nhẹ và dịu của bà pha lấy. Marich khen ngon và bà biếu ông khách xa một chai.

Marich lại khẩn khoản bảo:

- Làm thế nào cho tôi được trông lại cái khách sạn Thống Nhất, một phút cũng được.

Khách sạn Sôphiten Mêtrôpôn bốn sao nhất thành phố. Không nguy nga như Đai U, như Bảo Sơn, Sôphiten Mêtrôpôn hơn người vì dinh cơ này đã vào hạng lão lai trăm tuổi, vẫn dáng lâu đài Pháp thế kỷ 19. Bên trong chắc là bây giờ không còn những buồng hạng cuối, quạt trần quay lọc cọc trên đầu và khăn trải giường lấm tấm những chấm ố vàng của thời Hà Nội ngày nào cũng có báo động khách phải chạy ra hầm trú ẩn ngoài sân cạnh cái chuồng khỉ mà Marich đã được nếm mùi. Cả cái cửa ra vào quay như cối xay gió mà Đôngkixôt huơ gươm đánh, ngót trăm năm người trong làng ra Kẻ Chợ đã đứng xem cái cửa quay cả buổi cũng bị vứt đi rồi. Sôphiten hiện đại lại có cả khách sạn nhánh trên Đà Lạt.

Hôm sau, tôi điều đình được một chuyến cho Marich đi “xem” khách sạn. Chúng tôi vào quầy rượu, ngồi lên cái ghế đẩu ngật ngưỡng. Trước kia, cô Linh Phi kịch sĩ đổi nghề đã ngồi bên cái két trong kia. Tráng lệ quá, các cô bán hàng yêu kiều giữa cái quầy lóng lánh như gian thờ mẫu đền Cửa ông. Cô đang nhoẻn nụ cười với một ông Tây. Cái khi tôi hay còn lai vãng đây cô ấy chưa chắc đã đến tuổi học lớp 1.

Tôi giới thiệu với cô:

- Ông này người Nga, trước kia năm nào cũng sang và ở khách sạn này. Ông ấy muốn nhìn lại chỗ ở cũ.

Cô hàng đon đả:

- Mời các ông lên gác hai, hỏi ông quản trị người Pháp. Ông ấy sẽ bảo met ô ten đưa đi. Khách sạn này cũng hay có khách tham quan như các ông.

Nhưng Marich buồn buồn nói:

- Tôi ngồi đây cũng được. Ngày trước tôi vẫn ngồi đây uống bia và trông thấy tất cả. Cái lối xuống nhà ăn, à cái chuồng khỉ ngoài sân, còn không?

Cô hàng đáp: “Không biết. Trước ở đây nuôi con khỉ à". Rồi cô khen: “Ông ấy nói tiếng ta rành quá".

- Thì người Nga với ta là anh em một nhà mà".

Cô hàng cười, nửa ngờ: “Cháu có thấy mấy người Nga đâu. Ông nói đùa thế nào...”

Tôi bảo:

- Cô cho hai lon huyckên. Chúng ta uống bia như ngày xưa.

- Khách nước ngoài trả đô la.

- Tôi thì trả tiền Việt Nam chứ, cô?

Rồi chúng tôi cũng chỉ uống bia Hà Nội. Marich nhấm nháp vài ngụm rồi lặng im.

Khi trở ra, Marich nói:

- Chắc không bao giờ còn vào đây, mà cũng không vào nữa.

Tôi cũng nghĩ tương tự như Marich về những Matxcơva, Lêningrat, Ôđetxa... Bởi vì chẳng may mà tôi đã chứng kiến những ngày tan rã năm 1990 ở những nơi đấy bây giờ ra sao? Tôi sợ, tôi không muốn biết.

ở các quán Grudia nghe tiếng nhạc núi uống một sừng rượu, ăn lobiô đậu răng ngựa với trađi bánh ngô, hào hứng chuyện văn chương Việt Nam ra thế giới tiếng Nga đương vùng vẫy năm châu. Lại ra vùng Bachicharai thắng cảnh Yanta, lên cổng đá nhìn... Kéo quân ra cửa Hùng quan. Chim muôn tiếng hót, hoa ngàn hương đưa... Bây giờ thì Chuyện nỏ thần, Nhà Chử mà Marich đã dịch, bỏ xó. Tôi xin chào tôi nhớ lại buổi đầu xiết bao hớn hở gặp Matxcơva năm kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga bốn mươi tuổi.

Tôi đưa Marich một ít tiền. Marich cầm tiền, nhìn tôi, mắt rưng rưng, nét mặt và cử chỉ phảng phất ngượng nghịu, lại thân thương.

Marich nói: Tình bạn của chúng ta không biết có thời gian đâu. Tôi vẫn thế, ông ạ. Tôi không buồn như lần sau cùng ông ở Matxcơva năm trước. Tôi không xin lỗi vì chẳng đại diện cho ai mà xin lỗi được. Cho tôi gửi lời thăm ông Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc.

Năm trước, cái lần sau cùng tôi rời Matxcơva, sự tan rã thật trở trêu và khốn khổ. Tôi đi nghỉ Pitsunđa bờ Hắc Hải khu tự trị Apkhadi nước Grudia. Tôi đi với con gái tôi, con Sông Thao. Bấy giờ thì còn yên, nhưng sau đấy, chiến tranh đã xảy ra. Apkhadi nổi lên đánh nhau với cộng hoà Grudia đòi độc lập. Đã hơn mười năm rồi đôi bên vẫn giằng giựt từng đường phốvà mỗi ngôi làng, không biết bây giờ bờ biển Pitsunđa đổ nát, hoang vắng đến thế nào rồi.

ở Pitsunđa trở lại Matxcơva, bố con tôi mua vé xe hoả đi Đức. Con trai tôi, Đán đương làm thợ bên Laixich. Từ Nga qua các nước Đông âu đương náo động lung tung. Những mắt thấy tai nghe trên đường đi đã khác lạ lắm. Người nhà tàu Ba Lan uống rượu từ chặp tối rồi suốt đêm chúi vào xó nào, chẳng thấy ai.

Hải quan đi từng tốp khám ráo riết. Nhiều người Việt Nam bên Ba Lan- sinh viên, người đi lao động, cán bộ, sang Nga buôn thịt hộp, bánh mì. Vacsava đương khan tết cả cái ăn cái uống. Họ chỉ cho tôi những người Hà Lan cùng toa, cũng những tay buôn, buôn lậu cò con. Hai bên đã ăn với nhau, chỉ khám làm phép. Cả một toa buôn trá hình, hải quan soát từng người, từng ghế mà chẳng bắt được ai, cái tàu rầm rập chạy thâu đêm. Các cô các cậu si nh viên mời tôi: “Bác xuống Vacxava với chúng cháu vài hôm, hay lắm". Chẳng biết hay thế nào. Đến Beclin vẫn thế, nhưng cảnh khác, những cô cậu ta bán hàng, đứng như người gỗ trên vỉa hè, cánh tay vắt đệp khăn mặt, cà vạt, áo gió. Thuốc lá thì nhét ngực áo, dưới mũ. Chốc chốc, cảnh sát xộc đến, lại chạy. Hàng xén rong và cảnh sát rình nhau, đuổi nhau đến khuya. Cả người đương đi học cũng ra đứng đường hết. Không phải ham buôn, mà không đâu cho phụ cấp, không trả lương, phải ra đường kiếm cái ăn lấy.

Đông Đức rỗng không chính quyền. Mọi mặt xã hội và đời sống sinh hoạt cứ trong cái guồng có sẵn. Còn hai tuần nữa mới bầu cử. Trên tường, các thân cây dán chi chít áp phích cồ động của các mặt trận, các đảng: PSD, CDV, CDS, đảng Xanh cổ động đi xe đạp... Nếu ở Mỹ người ta vẽ con bò, bắp ngô để nhớ mà bỏ phiếu thì ở đây là những chữ tắt ấy, in to tướng. Cũng không buồn hỏi xem đảng Xã hội Thống nhất nó là CD nào. Bởi chắc chắn nó sẽ thua phiếu.

Đương nô nức “cải tổ”, vứt cái cũ đi mà. Phố xá vẫn tấp nập bình thường. Cái xe phun nước, những chuyến tàu điện chạy đến khuya. ở các nhà nghỉ con con trong góc vườn, bếp nấu đun củi, trên bờ rào lila một làn khói vẩn vơ. Chỉ lạ mắt có một đám đầu trọc một nửa, tóc nhuộm đỏ. Năm ngoái tôi đã trông thấy bọn đầu trọc đi cả đàn thế này trong các phố bên Tây Beclin.

Bây giờ chúng kéo lũ sang đây, có những đứa vác gậy, cái thang gấp, đi nhông nhông. Trông thấy cảnh sát, chúng nó xỏ ngón tay vào lỗ mũi, cười hích hích.

Tôi ở ngoại ô Lai Xich một tuần. Con tôi có ý muốn ở lại Lai Xích vài năm. Nhà máy vỡ nợ, đóng cửa. Nhưng nó đã tìm được việc ở một trại trồng hoa, bán hoa.

Tôi đã đến chơi chủ trại có hai đứa nhỏ rất quyến luyến con tôi. Chả là Đán nhiều tài vặt, dễ làm vui bọn trẻ con.

Trở lại Matxcơva, phố xá chợ chiều, mua bánh mì sắp hàng. Cảnh nhốn nháo xảy ra trong các cơ quan.

Một người ở ban đối ngoại gặp tôi và nói: đáng lẽ đồng chí về Việt Nam tuần trước, lại đi Đức, thế là quá hạn một tuần, “chúng tôi không còn trách nhiệm với đồng chí nữa".

Tôi không nơi ở, không còn được đưa tiền ăn và dẫu muốn cũng không còn gặp được ai, không phải vì không muốn gặp tôi, mà cả cơ quan hội nhà văn đương lung lay, nháo nhác, không làm việc.

Ira cầm vé máy bay đi đăng ký cho tôi về Hà Nội. Thật ra vé máy bay không phải việc của Ira, nhưng các bộ phận khác không còn ngưòì, Ira đã đến Hà Nội một lần và Ira đã lo mọi việc hôm tôi đi Pitsunđa. Đến trưa, Ira về, nói hồi này nghỉ hè, người đi Việt Nam nhiều quá. Cứ ghi tên ông vào đấy, nhưng có lẽ hàng tháng mới đến lượt. Ira lại nói: “Tôi đương bận việc sửa cái nhà nghỉ ở ngoại ô. Tuần lễ sau tôi mới đến đây”. Đối ngoại ở bộ phận này có mỗi mình Ira. Tôi không có chỗ ở. Không tiền ăn. Có nghĩa là cô ta bỏ khách thẳng thừng. Marich đến hỏi đã đăng ký được vé Hà Nội chưa. Tôi kể chuyện. Marich nghĩ ngợi gì một lát, rồi nói: “Ira nói dối thôi. Công việc đi đăng ký vé là của người khác. Con mẹ này vẫn nói nó rất ghét Việt Nam. Thế là các mụ mất dậy bỏ việc đấy". Bây giờ mới nghe tận tai có người nói ghét Việt Nam. Cũng có khi có người đã nói, mà tôi chỉ đi với các bạn, nếu bạn không nói lại thì làm sao tôi biết được thế nhưng cũng có khi biết. Lần ấy, Marich và tôi đi Lêningrat, buổi chiều xem tàu Rạng Đông rồi về nhà Bôrit. Trong bữa ăn, một anh bạn Bôrit nói: “Chưa bao giờ nước Nga hùng mạnh nhất thế giới như bây giờ, nhưng tại sao nước Nga vẫn nghèo, vẫn thiếu. Bởi vì của cải nước Nga bị đem rải ra khắp nơi, châu á, châu Phi, Mỹ La tinh, trong đó có Việt Nam của mày”. Marich cười nói với người kia câu gì rồi bảo tôi: “Thằng này say rồi nói mất lập trường, tôi không dịch".

Tôi cũng chỉ đảo qua đến hội nhà văn Liên Xô. Không còn là cơ quan như mọi khi, không ai ngồi trong phòng, nhưng túm tụm ngoài sân. Marich cũng không đến đây, bởi anh nói: “Tôi đả đảo cái hội nhà văn bảo thủ. Chúng tôi lập hội nhà văn đổi mới rồi”.

Marich đã tìm cho chỗ ở tạm tại trường Goocky.

Không phải ở phòng khách, mà cái phòng chứa đồ đạc, mền, đệm linh tinh. Marich và hai bố con tôi khuân dọn lại cho gọn. Tôi ở đấy mấy hôm, hai lần người quản gia mời xuống bảo phải đi. Marich nói thế nào đấy hay Marich đã đút tiền cho nó, thế là lại yên yên và hồi hộp. Buồng bên cạnh, vợ chồng một người Trung á hay Mông Cổ và một đứa con nhỏ, ở bình thường. Người chồng mặt lầm lầm, có vẻ lén lút, chắc cũng trọ chui như tôi. Mỗi ngày, Marich đên, ngơ ngẩn chơi rồi chúng tôi ra quán nhà mâu ăn cơm bụi, Mỗi người bưng một khay bánh mì đen và mấy viên rán thịt lợn băm viên. Bia rượu thì không ngửi thấy mùi đâu nữa rồi. ở vỉa hè bên kia đường, một xe tec bia hơi đến đậu đấy. Người xúm xít như những con kiến bâu quanh miếng mồi. Người tay không, người cầm chai, cầm cái xô. Đám sâu bia kia mặt bệu đỏ đã uống ở đâu lại đến xông vào mua uống tiếp. Tôi chỉ nhìn các bợm bia, sâu bia xoay xoả lộn bậy với tình thế này. Bia nhạt thếch, chỉ bia chai nhỏ Matxcơva còn vị đậm một chút, nhưng không đâu đó. Nhìn người chen chúc, hung hăng, đã xa lắm rồi, đã thôi rồi cái hồi cô Ina Dimonina cứ đi mua bán giữa đám đông sắp hàng, nói Việt Nam, Việt Nam, là người dãn cả sang hai bên.

Đến ở chui ở nhà trường Goocky- tưởng như ở đấy là những chốn nơi, những gian buồng có ma ghê rợn như nhà Hôp Man. ấy là đương dịp nghỉ hè, vắng người lên xuống tấp nập. Các học viên Việt Nam còn ở lại có Trần Đăng Khoa và Trần Nhuận Minh mới sang chơi với em. Đương giữa con sầu não được Khoa thết bữa cơm có canh tai chua, tưởng như đã thoát được về đến nhà.

Trời rét cóng cá, nhưng tắm giặt vẫn phải theo lệ Cái ngày đến nông trường Cờ Đỏ ở Udơbêkistan, cả lũ trần truồng tắm hơi, lại như thuở nhỏ đến trường bị đi tắm chữa ghẻ. Cũng chưa kỳ hình dị tướng bằng tắm ở đây. Một chục người đứng dưới hai cái vòi, nước xả xuống, người ghé vào, người chạy ra, như những con nhộng có chân. Tôi bỗng liên tưởng năm xưa trông thấy tù binh Anh bị giam ở Pnôm Pênh, lính Nhật giải ra sông tắm, nắng rám mình mẩy đỏ như con tôm luộc. Tôi thấp lũn chũn đứng vào một vòi giữa đám thanh niên cao lớn, lông lá. Quần áo thì đút trên khe cửa sổ trước mặt. Cũng chẳng ai để ý tôi.

Nhưng tởm nhất cái chuồng xí. Tôi đã được biết kiểu chuồng xí công cộng lộ thiên ở chân Vạn lý Trường thành, liền cả chục cái lỗ, không vách, không tường, người đứng lên, người ngồi xuống nhăn nhó, người lẳng lặng bước vào. Đằng này là một kinh rợn khác. Mỗi lần đi phải mang một tệp giấy báo để lót chân, lót đít. Cái nhà xí hỏng đã lâu, nhưng hàng ngày vẫn dùng, vẫn phóng vào đấy. Những ụ phân chồng chất, tràn trề, không biết một ngày, mấy ngày người ta tháo đi thế nào, lấy đi thế nào.

Hơn ba mươi năm trước, ông thường vụ Kec Babaep ra ga xe lửa đón tôi, trang trọng thân tình. Ông mất đã lâu, ông không được chứng kiến những ngày tàn tạ này. Tôi kể cho Marich nghe những cái tôi thấy và tôi đương nghĩ. Marich phân trần khéo: “ ở Hà Nội của ông, trước mặt cái nhà thì nhìn được, đằng sau cái nhà thì cũng nhiều thứ không được, à nói cho chính xác, nhiều thứ chưa được". Nó nói cũng chẳng ngoa gì. Có lần tôi đến khách sạn Hoà Bình thăm G. Buđaren. Anh ở tầng ba, nhưng phải xuống nhà vệ sinh tầng một. Trên ấy ngập nước, khoá trái. Marich bảo tôi: “Hay là ông và con gái về nhà tôi đi vệ sinh, tắm giặt".

Cũng đến phải như thế mới ra khỏi chỗ quỷ ám này, nhưng hôm sau chúng tôi được vé về Hà Nội. Ban tiếp tân của sứ quán ta đăng ký được ngay. Không phải chờ hàng tháng như cái người hội nhà văn đã doạ thế. Ira gọi điện thoại cho tôi. Vẫn nghỉ phép và ở ngoại thành chữa nhà. Nó xin lỗi bảo có người khác đưa chúng tôi ra sân bay. Tên anh ta là Vichto và Ira cho tôi số điện thoại. Thôi tôi chỉ mong đi được. Cũng chẳng có phàn nàn gì. Cả nước người ta còn đương loạn lên cơ mà.

Marich gọi điện thoại cho Vichto rồi bảo tôi: “Chỉ có thằng say rượu lảm nhảm...”. Tôi cũng gọi. Nghe đáp tiếng Nga, tiếng Pháp lè nhè líu lưõi.

Sớm tinh mơ, lại gọi điện thoại Vichto. Bây giờ thì không có tiếng đáp lại. Tôi nói: "Có thể anh ta ra sân bay rồi". ở sân bay, chỗ cửa về Hà Nội chen chúc hỗn độn nhất. Người chạy ra chạy vào như úi lên. Người đứng rình những ai hành lý nhẹ, đưa tiền cước nhờ mang hàng hộ. Người đẩy hàng qua rào sắt, cái rào bị chen lung lay sãp đổ. Cảnh sát đến vung roi cao su lên vi vút đánh xuống đầu, xuống vai. Tôi chưa trông thấy ở sân bay này cảnh đánh người thế bao giờ. Người ngồi, người chạy, người khóc hu hu.

Vì bị đánh đau, vì lạc mất hàng...

Giữa đám nhốn nháo, tôi cầm mảnh bìa các tông có chữ Vích to giơ cao trên đầu. Chẳng thấy Vichto đâu.

Không phải nó đi sân bay. Bây giờ Vichto ngủ giữa cơn say rồi. Và Ira đã nói dối, nói láo. Mảnh giấy bìa tôi cố giơ lên kia như là cái dấu hiệu sau cùng gọi:

Vich to... Liên Xô... Liên Xô... Nhưng không có tiếng thưa. Rời Matxcơva, chỉ nghe trong đầu tiếng adieu Moscou. Cái “vĩnh biệt Matxcơva” này mới thấm thía, mới đau làm sao.

Thôi thôi, để tôi kể nốt về những người bạn những thuở còn ngày tháng tiêu dao. Chính ra, anh Vlat chẳng bận đến tôi. Cũng ở ban đối ngoại như Marich, như Ina, nhưng Vlat lo về các nước châu Phi nói tiếng Pháp.

Mỗi khi châu Phi ngơi việc thì Vlat lại giúp bên này. Vlat có cái băn khoăn ngây ngô là Việt Nam rất xa châu Phi, xa nước Pháp mà lại có người nói tiếng Pháp.

Vlat là người hướng dẫn và phiên dịch đoàn nhà văn Việt Nam đầu tiên thăm Liên Xô năm 1956, trưởng đoàn Nguyễn Văn Bổng. Trong những bạn phiên dịch thường gặp, tôi đã đi nhiều với Vlat.

Vlat không phải người Nga. Vlatlen nguời dân tộc nước cộng hoà tự trị Chu Va. Dân tộc thiểu số ít người và ở phân tán, Vlat không biết quê ở đâu, nhưng chẳng bao giờ đi tìm. Chỉ nói: “Thằng người Chu Va đã thành người Nga cả rồi, như tao". Bố Vlat là người hoạt động trước 1917, có cương vị lớn ở khu tự trị nhưng ông đã bị xử bắn trong một đợt thanh trừng của Xtalin.

Bấy giờ Vlat còn nhỏ, học tiểu học. Có lần đi thăm cộng hoà Grudia, Vlat đã cung tôi về Gôri quê Xtalin. Chúng tôi ngắm bức tượng Xtalin đồ sộ đứng đầu làng- bức tượng hiếm hoi, từ Matxcơva đến đây mới thấy một bức. Và xem túp nhà của bố Xtalin thợ giày, Xtalin đã ở đấy cả thời niên thiếu. Nhà có mỗi một gian, ông cụ khâu giày, đóng đế, lại cũng ngủ và ăn uống ở đấy.

Cả túp nhà được đặt trong một lồng kính sáng choang. Vlat nói: "Lịch sử là lịch sử, không ai thù lịch sử bao giờ". Vlat ở Matxcơva với mẹ và em trai. Chiến tranh thế giới, em của Vlat đương học đại học thì phát xít Đức đánh đến ngoại ô Matxcơva. Cả Matxcơva ra trận, em Vlat đã hi sinh ở ven đường mà Vlat ra sân bay đưa đón khách thường đi qua, bây giờ là những chiến luỹ và dây thép gai tượng trưng sáng đèn suốt đêm.

Còn lại một mình Vlat với mẹ. Khi tôi biết Vlat thì mẹ Vlat mất bệnh mới hơn một năm nay. Từ khi mẹ chết, ít lúc Vlat về nhà. Đêm đêm, Vlat vạ vật ở nhà bạn nào đó.

Đi Lêningrat, tôi muốn có một vài cuốn sách đọc ban đêm. Vlat bảo về nhà tìm, có thể có. Nhà Vlat trong một ngõ hẻm nhưng ở trung tâm thành phố, trông ra thấy tường điện Kremli ngang trước mặt. Ngoài đại lộ lúc nào cũng ngộn người và xe cộ, trong hẻm thì yên tĩnh, tiếng ồn ào chỉ vang lại, gợi một cảm tưởng hẫng kỳ lạ. Vlat ở căn phòng tầng hai một toà nhà cổ. Vlat vừa cho khoá vào ổ, vặn lạch cạch, buồng bên

cạnh đã có người hé nhìn ra. Chủ nhà lâu không về, biết là ai động cửa, có thể kẻ trộm. Nhà Aliôsa “Simônôpcon” ở tầng một, trần nhà treo chùm đèn đẹp ánh thuỷ tinh rực rỡ gian phòng. Thế mà, trộm đã vào nẫng mất. Khi biết là Vlat, cánh cửa lại ập lại. Căn buồng đã lâu không người. Cửa sổ mấy lần kính mà trên mặt chồng sách bụi phủ về vệt. Cái điện thoại cắt dây từ bao giờ, chỏng trơ giữa bàn. Chiếc giường gấp dựng một xó. Một chiếc giường đệm ở góc buồng. Vlat bảo: “Mẹ tôi nằm giường này, tôi vẫn để nguyên". Chiếc gối ghếch một bên, tấm chăn hoa mỏng gấp một nửa, như người vừa trở dậy.

Vlat lục được một quyển sách nghiên cứu về mèo đưa cho tôi mang đi. Vlat nói: “Nhà tôi trước nhiều mèo lắm. Phải mua sách này để hiểu chúng nó. Mẹ tôi chết, chúng nó bỏ đi cả. Anh đọc trong sách sẽ thấy những con mèo rất giang hồ cũng rất gia đình. Có thằng mèo bỏ đi chơi mấy thành phố lúc quay lại vẫn tìm về được nhà cũ. Tôi thì ngủ đâu cũng được, tôi đi khỏi thì quên nhà. Tôi không bằng những thằng mèo".

Không phải tôi đến Lêningrat lần đầu. Tập ký sự Thành phố Lênin của tôi xuất bản đã được mấy năm.

Nhưng mà nhớ Lêningrat bao giờ cũng nhớ đầu mùa xuân, những tảng băng tan ngổn ngang sông Nêva, suốt đêm va vào nhau như con sông nghiến răng, sáng ra còn rùng rùng chuyển động. Mùa xuân đã về, sông nhánh Môica của tôi hé mặt nước sáng trong, người đi đường cao hứng cũng không bước qua những tảng băng ngang sông được nữa. Lại nhớ sáng sớm chiều tối ở Hà Nội uống bia hơi với hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười, càng nhớ, chao ôi...

Thế là đi Lêningrat, để lại những lo toan và chơi nhởi hàng ngày ở Hà Nội mà vẫn vương vấn Lêningrat.

Thế mới lạ. ở bờ tường bên kia viện Mắt, phía chợ Hôm đi xuống, thấy treo một cái bảng con con chữ sơn xanh: “Ragu, bít tết thỏ và các món". Những năm ấy, cái quảng cáo thế khá lạ mắt. Bởi vì trước các nhà dọc phố chỉ thường thấy thòi ra mảnh giấy dán cánh cửa sổ: Nhận lộn cổ sơ mi hay một miếng bìa: Cơm nồi nước sôi – Khối phố...

Tôi nói với Nguyễn Tuân:

- Dưới kia mới có quán thịt thỏ, các thứ ragu, bít tết..

- Được đấy

Tôi khoe thịt thỏ với ông không phải vì biết ông ưa thịt thỏ mà chỉ vì biết răng ông đã kém, đến cao lâu 202 chỉ nhấm nháp được món phá xi cua hấp. Ông Nguyễn bảo “được đấy” có thể chỉ vì thịt thỏ mềm. Chúng tôi đến quán nọ. Cái bảng quảng cáo lắc lư đỏng đảnh bên tường trên hai cửa sổ rèm vải hoa xanh nhạt. Nguyễn Tuân đứng lại ngắm rồi gật gù “Được", sau mới bước vào.

Một ông đã đứng tuổi, áo đại cán kaki ximăng, người nhỏ nhắn, nhanh nhảu, lịch thiệp, hai tay giơ mời khách.

Những chiếc bàn kê góc tường, khăn bàn trắng. Đằng kia, trên quầy bày hai hàng chai rượu quí, có chai còn bọc rơm. Chắc chỉ là chai không để trang trí. Giời đất này đào đâu ra những của hoạ may mớt có ở trên thiên đình. Đến nhà hàng Bôđêga trên Tràng Tiền cũng chỉ bán một thứ vang nước Bun chua như dấm- mà mỗi lần được mua tiêu chuẩn có một chai.

Không thấy ngưòì khách nào. Vừa chiều, chắc chúng tôi đến hơi sớm. Tôi hỏi:

- Mấy món đề ngoài bảng hôm nay có đủ chứ?

ông chủ vui vẻ đáp:

- Xin lỗi hai cụ, chẳng có món gì cả.

- Hôm nay nghỉ hàng à?

- Bẩm, nhà cháu đóng cửa rồi. Chưa kịp bỏ cái bảng.

Chúng tôi cũng chưa kịp tò mò đầu đuôi ra sao thì ông đã cắt nghĩa- nét mặt bình thản như chuyện hàng phố, không phải chuyện nhà ông vỡ nợ.

Tại hàng ế thôi. Bán hàng sống mà vài hôm vắng khách thì đi đứt ạ.

Tư dưng, cũng cửa hàng này, lúc nãy trông trang nhã, đẹp đẽ gọn gàng thế bây giờ bỗng đượm vẻ quạnh vắng, ủ ê, nhìn thương thương, tội tội như khi ta vào nhà hiếm trẻ, chỗ nào cũng quá gọn ghẽ, quá ngăn nắp.

ông chủ quán cười cười, chào chúng tôi: .

- Tuần sau, nhà cháu với mậu dịch canh ty mở bia hơi. Mời hai cụ...

Cái thư ngày 26- 6- 1966, Nguyễn Tuân gửi lên Lai Châu cho tôi, có câu:

“Ông cao lâu nhà thương đau mắt chuyển thành nghề quốc doanh. Ông lại làm công ngay tại đó, ấn vòi bia theo giờ nhà nước, tháng lĩnh 50 tờ như một người bỉnh bút không viết bài nào...”

Ông cao lâu Ragu thỏ ấy đấy. Tôi cũng chưa bao giờ hỏi tên ông.

Tôi đến quán bia ông Ragu lâu dần thành lệ. Tôi đến theo thói quen, dửng dưng không để ý, uống bia giết thì giờ, tôi lơ đãng cả với ông Ragu hễ vừa thấy tôi ông đã rảo bước ra, mời vào một góc lau bàn, ông dẹp mấy cái cốc uống dở. Dần dà, tôi cũng nhận ra giữa đám người uống đứng uống ngồi, cũng có người như tôi, đến uống vào quãng chiều. Cái ông ngồi trước mặt cũng có tuổi, người cao xương xương, thanh mảnh, trắng trẻo. Nghe tiếng Nam Bộ thì chắc là cán bộ tập kết. Ông uống từa tựa tôi, mỗi cốc làm một hai hơi rồi ngồi thừ ra, không nhắm nhót lạc ngọt, nem chua, mực nướng gì cả.

Chúng tôi mỗi người đến một lúc, nhưng hàng ngày hay gặp nhau. Những khi ấy dù ông Ragu có đương tíu tít rót sirô vào bia cho khách, ông cũng vội ra lấy hai cái cốc vại, bấm vòi bia cho xuống đầy ngấn, ít bọt. Tôi tò mò đoán về ông uống bia ngày nào cũng gặp Bộ đại cán không mới nhưng có nếp là, không dây dầu mỡ. Bàn tay chắc chắn, nhưng không thô.

Người bàn giấy thì phải rồi. Nghề gì, làm kế toán, cán bộ nghiên cứu, nghề văn hoá hay nghề y. Đây gần nhà thương, các con nhà y cũng hay ra uống tợn.

Nhưng nhất định cái ông nói giọng Sài Gòn này cũng dân chơi. Có khi ở tuổi ông, xưa đã từng uống bia bốc buổi chiều ở cái xe téc đậu chỗ bùng binh chợ Bến Thành. Ông uống khá điệu. Ông thảnh thơi uống lâng lâng, uống lẳng lặng. Được, được lắm, nhưng ông là người thế nào. Xem ra ông cũng không để ý có hay không có ai trước mặt.

Không biết đã bao nhiêu buổi chiều. Đôi khi đi vắng lâu về, đến đấy vẫn thấy ông như dạo trước. Rồi tôi chịu thua, không thể đoán ra ông và cũng không tài im lặng được như ông.

Một hôm, tôi hỏi:

- Anh công tác ở đâu?

Tôi là Mười, hoạ sĩ.

- A, anh Nguyễn Văn Mười.

- Dạ.

Rồi hoạ sĩ Mười cười dịu dàng, giơ tay cho tôi bắt, và nói:

Tôi cũng đã biết anh.

- Thế mà bao hôm nay không nói.

Hoạ sĩ Mười lại mỉm cười:

- Chúng ta đương uống bia. Uống bia chẳng bận gì đến vẽ, đến viết cả.

Câu nói chí lý tuyệt. Cứ cái sự anh uơng bia đúng kiểu từng hơi dài đã rõ can trường ấy. Chúng tôi lại trầm ngâm uống. Chúng tôi đương uống bia, có bia vui, có bia buồn và thế thôi. Hơi bia không bốc phét chích choè. Hơi bia chỉ phục vụ chúng tôi lặng im.

Có lần, Nguyễn Tuân đi với tôi uống bia hơi ở quán trước ga Hàng Cỏ. Nguyễn Tuân đến chào một ông khách ngồi bàn gần, mọi khi tôi vẫn hay trông thấy, ông nhỏ nhắn, điềm đạm, áo vét tông và mũ phớt. Nguyễn Tuân bảo tôi:

- Tiên sinh Cao Xuân Huy.

Mỗi buổi chiều, chúng tôi cũng uống bia im lặng. ừ uống bia chẳng bận đâu đến thế thái nhân tình. Tôi chỉ nhận thấy một sự lạ, có lẽ Hà Nội còn mỗi một người mặc tề chỉnh đi uống bia hơi và giữ vệ sinh như ông. Ông Cao Xuân Huy, khẽ ho rồi khạc đờm vào mảnh giấy báo đã mang sẵn và gấp lại, bỏ vào túi áo.

Hoạ sĩ Mười cắp một cái cặp bìa đen cứng khổ rộng, trong đựng một tệp ký hoạ. Mười nói:

- Tôi đem cho anh xem mấy cái vẽ sông Nêva và nhưng sông nhánh. Có những ba trăm mấy con sông nhánh của Nêva, anh đã viết đấy.

Tôi hỏi lại:

Anh đã đến Lêningrat?

- Tôi đã ở Lêningrat lâu lâu.

Hoạ sĩ Mười chỉ bức ký hoạ một bến đá trơ trọi mấy thanh lan can sắt.

- Đây là sông Môica. Nơi anh đã gặp Vêrônica.

Trời ơi! Hoạ sĩ Mười đã đọc đến thế, những bút ký tôi viết về thành phố này. Mỗi lần, mỗi hôm, mỗi lúc tôi lại biết thêm về hoạ sĩ, nếu anh có trò chuyện với tôi. Quả thế, không phải cứ gặp ai thì đã là biết và chắc đâu đã biết. Mới cốc bia trước thôi, tôi chưa một chút nào rõ được hồi đầu thập kỷ sáu mươi, hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười đã nhiều năm ở Lêningrat. Hoạ sĩ kể những ngày ở cái lâu đài khổng lồ trên phương Bắc trái đất ấy, hoạ sĩ mê nhất sông nước và những đầu mùa xuân, khuya nghe tiếng những tảng băng tan va vào nhau gãy răng rắc, vang động dòng Nêva ban đêm qua thành phố.

Tôi lơ đăng nhìn qua bóng bia trong cốc thấy người hoạ sĩ đương tha thẩn bên dòng sông, đôi lúc ngước nhìn ra những tảng băng trôi. Tôi cũng soi mặt vào bóng bia xem có thấy cái cửa sổ nhà ai nhìn xuống bến sông Môica?

Vlat đi Lêningrat không va li. Đi đâu cũng xách mỗi cái túi, ấy thế mà kiểm lại các thứ cũng thấy đã bỏ quên bộ dao cạo râu điện, không biết quên ở nhà ai. Chẳng lẽ sáng nào cũng xuống tiệm cạo râu phòng ngoài khách sạn. Tôi không hỏi Vlat làm thế nào, nhưng mỗi hôm đều thấy Vlat mày râu nhẵn nhụi.

Chúng tôi ở hồ Lagôđa về. Băng đóng trắng mờ chân trời, xe đi trên đường cũng như mặt sông. Khi mùa đông tới, con đường tiếp tế qua mặt hồ này đã nuôi Lêningrat sống chiến đấu được trong vòng vây mấy năm trời. Bây giờ chỉ có từng đàn hải âu. Bọn khách du lịch ném bánh mì lên cao cho hải âu bay xúm lại xâu xé cái bánh tan biến giữa trời. Trẻ con chỉ nhớ hồ Lagôđa có trò chơi ấy, chiến tranh đã qua ba mươi năm rồi. Vêrônica cùng đi với chúng tôi. Marich đã cho tôi biết Vlat là bồ của Vêrônica. Vlat thì lắm bồ, đi đâu cũng có được, kể cả ở bàn ăn câu lạc bộ. Những năm sau này, Vlat ở hẳn với cô Lọ Lem bồi bàn. Chúng tôi gọi là Lọ Lem vì cô thấp bé, đen đủi. Vlat nói:

"Lúc túng thiếu và về già, tôi lại trở về với dân tộc tôi”. Nghe nói cô Lọ Lem cũng người dân tộc Chu Va.

Mới được mấy ngày đã hết tiền. Mỗi hôm đều tốn chỉ vì uống, nếu để Vlat mỗi ngày uống mấy lần, chắc còn hết tiền nhanh hơn. ở thì vẫn Astôria, tiền phòng trả séc, không lấy ra ăn được. Nhưng tôi yên trí vu vơ thế nào và bao giờ Vlat cũng xoay xoả ra. Vlat cười:

“Có thể! Có thể! Chúng ta cũng như con hải âu, rồi cũng có người ném bánh lên trời cho ăn.”

Buổi tối, Vlat bảo tôi:

- Chúng ta đến ăn tại nhà Vêrônica.

Tôi hỏi lại Vêrônica: có phải thế không? Vêrônica gật đầu.

- Tôi mời hai ông làm khách.

Chẳng biết Vêrônica có rõ chúng tôi đã cạn tiền. Vêrônica ở một phòng trong toà nhà ba tầng. Nhiều phố Lêningrat được giữ cổ kính nguyên như cả trăm năm trước, chỉ sửa nội thất. Cửa sổ phòng Vêrônica trông ra sông Môica. Con Nêva ngang qua thành phố toả ra bao nhiêu sông nhánh nước trong xanh, hai bên bờ lan can sắt và dòng sông cũng thành con đường khi mùa đông đóng băng. Hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười đã ký hoạ khúc Môica chỗ bến này đây.

Tuyết cuối mùa còn phơi phới xuống trên sông mỗi lúc càng mù mịt hơn. Người lác đác dưới đường, bóng lướt qua bên những thanh lan can đen xẫm. Tưởng tượng như Đốttôepski đương với các nhân vật của ông lang thang trong Những đêm trắng. Hôm trước, đã thăm nhà lưu niệm Đốt ở một chung cư năm tầng. Tường căn buồng nhỏ nhà Đốt đương được bóc giấy báo ra, tìm lại ngày tháng ở những tờ báo hồi Đốt ở đây, mùa lạnh đã dán cho ấm tường. Cũng như ở quảng trường Cỏ Khô, nơi tử tù Đốt đã đứng đợi để đến lượt bị hành hình treo cổ, đã được khắc cái biển đá về sự tích ghê rợn ấy. Vào mùa xuân năm này, các tác phẩm của Đốt mói được in lại, bán khắp các hiệu sách.

Thành phố bắt đầu gắn biển và sửa sang những nơi có dấu vết của ông. Tôi tưởng như, nhớ như ở thành phố chỗ nào cũng trông thấy ông và các nhân vật, những cái bóng ngất ngưởng, người gàn dở, một bà già không chồng, một trọc phú uống máu người không tanh... tấm lòng thương bao phủ tất cả các con người, con sông, những lan can trơ trụi bên đường, trên cầu ông đã vịn tay. Ông viết càng rùng rựn bao nhiêu, càng thương đau bấy nhiêu. Heinơ nói rằng: “Người ta kể lại không bao giờ đúng, bỏi vì con người luôn luôn nói dối khi nói về mình". Không, Đốt nói: “Người ta có cố gắng nói sự thật, chỉ có điều là sự thật ấy không bao giờ đầy đủ". Vẫn một lòng thương cảm xâu thẳm, không biết đến đâu.

Ngoài kia vẫn mờ mờ, chẳng biết đã đêm trắng hay còn ngày. Vêrônica uống cũng ra trò. Một lúc, Vlat nói:

- Đêm nay mày ngủ ở đây với Vêrônica. Tao về chiếm cái giường của mày ở khách sạn.

Tôi không nói gì. Vlat không biết tôi đã khiếp sợ từ hôm mới đến chơi, trông thấy chiếc xe đạp cuốc treo ở sau cánh cửa. Mỗi sáng sớm, Vêrônica đã cưỡi nó, đạp thể dục hai mươi cây số ra ngoại ô. Những Vlađia ở ga Gian Côi trên tàu hoả qua Kiép, những Vêrônica, những Madari xa lạ quá rồi.

Mấy năm sau, gặp lại Vêrônica ở Matxcơva. Cô đã đổi về làm cho đài truyền hình dưới này. Tôi giật mình. Võ vàng, tiều tuy đến độ thoạt nhìn không nhận ra được. Hỏi thì cô ấy khóc. Cô đã lấy chồng và sinh được bé gái. Đứa con chết và người chồng bỏ đi. Từ đấy Vêrônica mê mụ không hồn như nhân vật mụ Tường Lâm trong truyện của Lỗ Tấn. Gặp lại tôi, có điều cô được an ủi là tôi vẫn nhớ cô, tôi đã đem tặng cô bức tranh sơn dầu Cây chuối của Nguyễn Sáng. Xem tranh Nguyễn Sáng, tôi có nhận xét Nguyễn Sáng ở rừng Việt Bắc mà sao ít vẽ cây chuối. Nghyễn Sáng đã cho tôi đem đi bức tranh cây chuối, cũng chẳng hỏi tôi mang bán hay mang cho ai. Khi về, xách về đền ít hộp sơn trắng, thế là mừng rồi.

Dương Bích Liên bảo cái sơn trắng quét lót, lúc nào cũng cần. Biết thế, tôi hay mua sơn màu trắng cho Sáng và Liên. Hồi ấy, cái tranh chẳng đáng một giá nào. Vẽ vì thèm vẽ, vẽ rồi cho, vẽ rồi xếp lại. Tôi đã đem những đĩa sơn mài vẽ mèo, vẽ chân dung của Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng cho Marich, cho Ina Dimônina.

ấy thế nhưng hoạ sĩ uống tách cà phê, ăn bữa cơm nhà Lâm Toét cũng được coi như bán tranh, không phải là đem cho tranh không. Đồng tiền thời ấy hiếm vậy. Ai tò mò cũng biết Lâm Toét bán cà phê đầu tiên chơi tem rồi chơi tranh. Nhưng ít người biết Lâm Toét chơi tranh và chơi sách. Anh khoe với tôi lùng mãi mới săn được tập thơ Tản Đà và hai quyển Tục ngữ phong dao của ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, nhà Minh Đức xuất bản, có chữ ký của ông Nguyễn Hữu Đang.

Tôi lên gác xem tranh bày trên ấy. Lâm Toét chỉ cho tôi một chồng báo cao cao. Anh ta nói thì thào nhỏ nhẹ, lễ phép: “Ông Hoàng Trung Thông mới đề lại cho em đấy". Tôi ngơ ngẩn cả người. Tôi không còn đủ sức lấy hơi đến nhìn xem nó là những báo gì. Cái thằng cho tranh lấy vài đồng và tách cà phê thế mà còn bớt đau hơn thằng bán sách một bậc.

ấy thế mà rồi tôi và Vlat đã đi một chuyến vung vinh thú vị không lúc nào phải lo tiền, chúng tôi làm khách nhà nước Udơbêkitstăng. Mỗi khi đi đường dài, xuống nghỉ ở sân bay Tasken, máy bay là là dọc đường băng, trông thấy ven cỏ một toà nhà xinh xắn, đấy là lầu đón khách Chính Phủ. Đêm ấy, đèn nhà khách sáng trưng, ô tô rước chúng tôi từ thang máy bay tới.

Bộ trưởng ngoại giao Adimôp đón tôi, ông mời tôi chơi nước ông. Nhà thơ Udơbêch Adimôp năm trước làm đại sứ ở Libăng, bây giờ về nước cộng hoà này làm bộ trưởng ngoại giao. Gặp lại Adimôp ở câu lạc bộ hội nhà văn, Adimôp nói: “Có đi Tasken chơi không?”. Thế là đi.

Nhà khách chính phủ thênh thang như cả chục cái đình làng ta, mà chẳng có một mống khách. Vlat nói: “Có thể chúng ta uống rượu say ở đây rồi thắt cổ chết mấy ngày mới có người biết". Mỗi đêm, xa xa tiếng gà gáy. Nếu có tiếng còi tàu hoả nữa thì chẳng khác nghe đoàn tàu chạy đêm hun hút gió trên cánh đồng chiêm bên kia cầu Giẽ, cầu Guột...

Chẳng đâu lạ mà ngẩn ngơ thế nào, cũng không vì cơn cớ gì. Con người đương vui lại buồn, nghĩ ngợi vẩn vơ vắt vào nhau chẳng ra làm sao. Không còn cái ông đại biểu Adimôp tranh luận với Hoàng Trung Thông về một chữ trong thông báo của Đại hội các nhà văn á Phi ở Bâyrut, cũng không phải ông đại sứ, ông bộ trưởng ngoại giao nước cộng hoà. Chỉ thấy một lão chăn cừu ngồi giữa đồng cỏ, cốc rượu bằng sừng dê và đọc thơ, đọc thơ, đọc thơ. Thơ ông về thảo nguyên, về cây dâu, cây thông và con cừu, đàn cừu. Năm sau, tôi lại đi Apganixtăng, cũng với Adimôp và ở nhà nghỉ, Adimôp cũng đọc thơ. Lạ thay, nghe giọng thơ mà một lúc tưởng như trên mặt đất bụi mù mịt, những con cừu nhiều hơn con người ở làng mạc và thành phố. ở Adi Abba, ở Đaet Salam buổi chiều người cõng cừu qua phố về nhà. ở Angiêri, ở Mông Cổ lúc nào trông xuống mặt đất cũng thấy những đàn cừu chân bước liên liến, đi từng đàn, chập chờn vàng như khói, người chăn cừu cầm gậy đứng chơ vơ như cái cọc, sóng cừu mênh mang xung quanh. Adimôp đọc thơ cừu. Vlat dịch lại, chẳng biết thơ hay thế nào, lại chỉ thấy bề bộn những cừu là cừu, cái cảm tưởng thơ cừu của mình là đúng. Quả là trên đồng cỏ những stăng của người, những làng Udơbêch, đâu có cừu thì có người. Cũng hay.

Tôi đọc mấy câu thơ Nguyễn Bính. Tôi vốn không thuộc hết một bài thơ nào. Những câu thơ tôi nhớ được chỉ vì ngày trước Nguyễn Bính đến chơi trên Nghĩa Đô đã viết chữ tung hoành cả bài thơ vào tờ giấy lệnh dài cao hơn thước tây dán lên vách đầu giường tôi.

Lúc nào cũng nhìn thấy, nên phải nhớ mà cũng chỉ lõm bõm. Câu thơ Nguyễn Bính, cái tranh Tô Vũ chăn dê đã vào ký ức đời mình.

... Mùa xuân chín vạn bông trời nở

Riêng có tình ta khép lại thôi...

Adimôp khen tôi hát hay lắm. Vậy là tôi bằng lòng rồi, các bạn đã được nghe cái tiếng Việt trầm bổng như chim hót.
CHƯƠNG XVII

(Nhật ký)- Hà Nội đã vào tháng chạp 1972. Hàng ngày cứ căng thẳng rồi lại bình thường. Nhưng với tâm lý muốn bình yên thì tưởng tượng của người ta ngả về bình yên nhiều hơn. Đường phố đông người khác thường, hình như ai cũng ra đường. Vẫn giục từng nhà đi sơ tán. Nhưng trong bụng người giục cũng cho là nếu có bom xuống thì hoạ may người ta mới đi.

Họp khối phố, thu được 150 đ, hôm nào thu đủ thì đem lên khu lấy tem phiếu đợt 1. Nửa đêm, tiếng bom bên kia sông phía Gia Lâm. Tháng vừa rồi yên yên, lại ra vẻ bắt đầu đây. Gần sáng, tiếng bom kéo dài nặng nề hơn. Phúc thức giấc, nói: “Con nghe như tiếng B52". Nó có kinh nghiệm chiến trường. Mình đoán vu vơ: “Không có lẽ". Tiếng bom đến tận tảng sáng, trời cứ vừa hửng vừa sẫm lại.

Bom B52 đã ném suốt dọc sông Hồng, Yên Viên, Giang Biên, Đông Anh...

Nửa đêm, lại một đợt bom đến sáng. B52 đánh vào tận Đuôi Cá, hay phía nảo, như tiếng trên trời say thóc ỳ ỳ.

B52 dội Khâm Thiên.

Gần sáng, phố và đường không một người. Dạo một vòng thấy rõ ràng những quả B52 đầu tiên ném xuống bờ hồ Thiền Cuông rồi rải qua bến xe Kim Liên vắt sang vùng Khâm Thiên. Hố bom chi chít nhưng nông lòng. Một cái ô tô chở khách đỗ nghỉ đêm ven đường văng xuống hồ. Khúc đường nhựa cong lên như cái cầu vồng một màu đen. Biến mất dãy cây si buông rễ trông sang cổng công viên.

Sáng sớm, đài Tiếng nói Hoa Kỳ đưa tin Ních ra lệnh ngừng ném bom ngoài vĩ tuyến 20 từ sáng 30.

Trông ra phố, đã thấy trẻ con gánh chăn, nồi xoong, nhanh thế, ở đâu về không biết. Đến trưa, người đã đông bộn lên xếp hàng mua gạo, mua dầu. Tấp nập khác mọi khi.

áp Tết, việc khu phố:

- Giải quyết cho 6 thanh niên tòng quân đợt này. Cố gắng đi được cả. Lên đưòng ngày 6, đêm 5 phố liên hoan tiễn.

- Soát lại con số gia đình khó khăn, bổ sung cứu tế, trợ cấp. Mở rộng diện: năm ngoái 2, năm nay 12.

- Treo đèn ra cửa trụ sở. Tuần tra canh gác bắt đầu đêm 28.

- Tổ phục vụ nấu bánh chưng. Nhận gói 0. 15. Nấu O. 05. Chuẩn bị than. Tới 27 đã nhận gói và nấu 2. 700 chiếc.

- Tổng vệ sinh. Trọng tâm: các hầm nổi, hố cá nhân.

- Mùng một Tết, chúc Tết các gia đình liệt sĩ, thương binh, quân nhân tại ngũ. 7 giờ sáng tập trung nhà trưởng ban. Đến tổ nào có tổ trưởng đi cùng. Nếu Hoài vắng, cụ Trượng thay, đi với các cụ Ninh, cụ Bính.

Trên bàn thờ mỗi nhà mâm cỗ cúng gần giống nhau: cái bánh chưng, đĩa xôi gấc, đĩa thịt gà luộc, bát canh bóng.

Trưa mùng một, ra vườn hoa Thống Nhất. Những cây quất thi được giải, quả chín vàng thậm trong lá.

Không trông thấy cây mộc mà mùi hoa mộc ngan ngát trong mưa bụi.

Lên hồ Gươm. Cây và hồ nước, sóng hồ xanh kỳ lạ Đã quen mắt cả đòì, từ khóm lộc vừng, cảy mõ, cây gạo- trong lòng, trong kỷ niệm. Khác phong cảnh nước ngoài, thấy mà không thấy.

Tối làm va li. Chuyến máy bay chậm, được thêm một ngày ở nhà ăn Tết. Cô Phụng văn phòng hôm cuối năm nhờ mua dây mai- xo bếp điện, mấy cái cũng được.

Mai đi Bucaret.

Lại IL 18 bay giữa trưa Gia Lâm. Thảnh thơi. Có lẽ vì Ních ngừng ném bom. Trời trở lạnh.

Mỗi lần đến Matxcơva, muốn mua gì. Tôi lại kê một tờ sớ dài đưa cho Thiên, cho Hân nhờ mua. Các bạn Marich hay Vlat và cả cô Ina nữa không thể xoay xoả mua nhanh được. Một lần, có lẽ Marich cũng áy náy, Marich nói: “Có một cửa hàng bách hoá tên là Một nghìn thứ lặt vặt, hay lắm. Cái gì không tìm thấy ở đâu thì ở đây có, mà đều ở một chỗ. Chúng ta đi xem. “Cửa hàng Một nghìn thứ lặt vặt, quả là một cửa hàng xén lắm thứ linh tinh, từ cái đinh vít, cái búa đanh đến cái bát, thỏi xà phòng giặt. Chỉ phải cái vẫn ba nấc sắp hàng, lấy phiếu, ra quĩ trả tiền rồi trở lại nhận. Cả buổi sáng, Marich mua cho tôi được con dao phay. Các bạn ấy chẳng đến chỗ này bao giờ, không như Hân, như Thiên, cả trăm cửa hàng, các nơi bán đồ cũ, bán vải mảnh- cửa hàng bán vải mảnh ở Matxcơva và xe đạp Phượng Hoàng phế phẩm ở Bắc Kinh đều đông khách hàng Việt Nam. Lắm người chịu khó đến đọi mua từ sớm chưa mở cửa. ở nhà chỉ mong và dặn những thứ ấy và túi tôi thì sang nhất cũng mua được cái đồng hồ đeo tay, cái đồng hồ báo thức. Những búp bê gỗ matriôtca đồ chơi Nga một con đẻ ra năm con tôi chẳng đụng đến bao giờ.

Thiên hỏi tôi: “Bác có giấy vào cửa hàng quốc tế không?”. Tôi đáp: “Không. Có cửa hàng quốc tế a?” - “Có chứ. Vào đấy có nhiều hàng hiếm: máy khâu Nhật, nồi áp suất, các thứ vải đẹp... Các cán bộ theo các anh sang hay vào cửa hàng đặc biệt này”

Tôi không được biết cửa hàng Tôn Đản ở Matxcơva ở đâu. Mỗi ngày, hội nhà văn hay cơ quan uỷ ban hoà bình đưa cho tôi 5 rúp hay 10 rúp, ấy là ở Nga, còn đi các nước châu Phi, các nước Trung Đông, Nam á thì chẳng đâu đưa tiền tiêu vặt. Chắc người ta không nghĩ mình ra thế giới mà không có đồng nào. Những khi đường xa, cây chà là, cây thết nết, chùm hoa vàng hây như hoa cau, thèm bẻ xuống làm bát nước ngọt, đương khát nước. Cả khi ở Nga thì số tiền hàng ngày nhận cũng không ăn nổi ra bữa, chỉ mua được bánh mì và trứng luộc. Ngày nào cũng xuống buýp phê mua, đã quen mặt những cô bán, nhớ cả lượt họ thay ca.

Không thể xuống phòng ăn, bởi hai trăm gam cô nhắc, uống cho đủ liều thì chỉ rượu đã hết cả ngày tiền ăn. ở khách sạn Ukraina, có hôm tôi trả tiền ăn, Phan Tứ cám ơn và nói: “Xin lỗi, hôm nay chúng tôi ăn của anh hết hai cái bàn là". Nghe tục và thảm quá, nhưng mà thật vậy. Tôi xuống Bacu thăm Đan Thanh, con gái tôi học dưới ấy. Nó đi tìm mua một cái mâm nhôm, rồi lấy vải thô, dây gai chằng lại. Cái mâm vào bí mật bỗng thanh nhã như chiếc đàn bạn tặng lưu niệm. Chiếc mâm nhôm vững chãi đã thọ nửa thế kỷ, - cái mâm luyện bột chẳng bao giờ thủng, bây giờ vẫn hàng ngày hầu hạ trong bữa ăn ở nhà tôi.

Những tờ kê cả chục thứ mua, đưa cho Hân, cho Thiên đại khái những là quạt tai voi- có dạo quạt tai voi và bàn là điện hiếm, thấy bảo vì Việt Nam mua nhiều, phải đợi chuyến tải từ các nước Trung á lên.

Sắm quần áo giầy dép thì Hân đưa đến cửa hàng thiếu nhi. Cái quần, cái áo vét của tôi chỉ bằng đứa trẻ mười ba mười bốn. Mọi thứ cho thiếu nhi giá rẻ nửa đồ người lớn. Rồi thì đem về làm quà cái khoá cửa, nan hoa, líp xe đạp, một nắm ruột bút bi, chia tặng mỗi người một hai cái. Qua Bắc Kinh, ca sĩ Mai Khanh mua cho lọ Hà sa đại tảo hoàn, lại cân thang thuốc và chép kèm cái đơn “thuốc bổ của bác Mao". ở Pnôm Pênh, ở Angiêri về thì hộp chà là khô, lụa bombay, xì líp, xú chiêng... Nhứng năm tám mươi, các thứ đem đi cho đủ cân thì áo gió, áo bay, áo phông, cả túi khuy đồng quần áo bò Lơvit, nhờ bán để sắm những cái không mua được ở nhà, cả đến lưỡi dao cạo râu...

Nếu không có khi mênh mông tưởng tượng bay lên trời trên biển Hắc Hải, thì những chuyến đi đây cứ lầm lũi, cặm cụi như thế. ở hội nghị ra, dạo phố, khách đi tìm mua các thứ lưu niệm còn ta thì chưa bao giờ.

Làm thế nào.

Cũng như, mỗi lần gặp lại Hân và Thiên tôi mừng hú, chỉ vì các cậu ấy mua được chóng vánh và chịu khó nhặt nhạnh từ cuộn chỉ trắng và đủ loại kim khâu, dây mai- xo... trong khi Hân đương bảo vệ bằng tiến sĩ ngữ ngôn vào loại những người đầu tiên ở nước ta và chỉ có Phan Hồng Giang dịch Pautôpski tôi mới đọc được. Và Thiên, Trần Mai Thiên, tiến sĩ cá nước ngọt nước lợ ở viện Cá Lêningrat- mà Nguyên Hồng gọi là thằng đốc Chép. Tất cả đều là những kiệt hiệt hơn người. Nhưng hãy để đấy, để đấy, giúp tôi đã, giúp tôi.

Đi Yanta, lại ra người phong lưu nhàn nhã rồi và lại đi với Vlat. Trong những nơi nghỉ tôi ưa ở vùng đồi Sinaia nước Rumani và các thành phố trên Hắc Hải. Nhà ở, đồi núi và bãi biển liền nhau. Lúc nào cũng là đi tắm, quần đùi áo may ô dạo phố Vanta mua báo hàng ngày và uống bia hơi Tiệp máy bay tải tới.

Ba tuần lễ ở đồi Sinaia giữa mùa phấn thông vảng. Bây giờ mới thật thấy ngày đêm phơi phới nồng nàn mưa phấn thông vàng của Xuân Diệu. Nhưng hàng ngày cũng lắm lo toan đột ngột như cái hôm giày bị vấp há mõm. Cố nhiên, không phải là chiếc giày, mà là cái khó chịu đáng yêu của bà phiên dịch Madari.

Madari chạc trong ngoài năm sáu mươi, phốp pháp, phúc hậu, xôm xốp như người nặn bằng tuyết ở biển băng Bắc Cực.

Tôi cũng đem bản thảo Chuyện nỏ thần đương viết. Trời cao nguyên mát rượi vào mùa hạ thuận cho công việc viết. Nhưng làm được hay không, có thể lại bởi cái bà hồi xuân này.

Tôi chuyện với Madari:

- Ba tuần lễ, không biết tôi có sáng tác được không".

- Cửa buồng anh trông ra rừng thông đương mưa phấn thế kia, sẽ gây cho anh nhiều hứng thú.

- Nhưng tôi ốm, nhiều bệnh. Bà cho tôi đi kiểm tra xem thế nào.

Madari đưa tôi đến phòng khám bệnh viện quận dưới chân đồi.

Người bác sĩ đã đứng tuổi, đo áp huyết rồi bảo:

- Ông bình thường. Ông có thể yên tâm nghỉ ở vùng núi.

ở Bucaret nhiều người nói tiếng Pháp. Các báo ở Pari hàng ngày được máy bay đưa tới. Tôi ngần ngừ:

- Tôi hay đau đầu, mết ngủ. Ông có thể cho tôi...

Người bác sĩ nhìn bà Madan ngồi ngoài cửa, rồi đột ngột hỏi tôi:

- Ông muốn uống thuốc cường dương?

Tôi cười, lắc đầu:

- Không, tôi đến Sinaia nghỉ và làm việc.

- Tôi hiểu, tôi hiểu. Ông bảo bà phiên dịch là ông phải chữa bệnh áp huyết, hàng ngây đến đây tiêm B1.

- Sao lại Bl?

- Chỉ cần ông không được nói tên thuốc với bà ấy, ông hiểu chưa?

Ngày ngày, tôi ra trạm tiêm. Không ngờ mà tôi lại giống cái ông giả vờ ốm muốn ở lại nhà an dưỡng trên Tây Hồ, bị tiêm những mũi B1 ăn khỏe của một thầy thuốc tốt bụng và tinh quái. Tôi được biết nghệ thuật tiêm của các cô y tá khéo tay. Các cô vỗ cánh tay tôi một cái, thì mũi tiêm cũng vửa xong.

Madari viết thư cho tôi, lần nào cũng hỏi thăm bệnh và gửi thuốc, khuyên tôi giữ gìn. Người thật hiền và dễ tin. Rồi nghe tin Rumani phải một trận động đất dữ dội, thành phố Bucaret bị đổ nhíều dãy phố. Người con gái Madari cho biết mẹ cô chẳng may đã chết trong trận dộng đất rồi..

Marich đã biết lần trước chuyến đi Lêningrat với Vlat tiêu lung tung hết tiền mà Marich cho là Vlat đã uống hết. Lần này chỉ nhận tiền hàng tuần, tuần sau lại gửi. Tôi đưa Vlat giữ. Của đáng tội, tiền có là bao, chẳng khi nào Vlat tiêu cái gì khác, chỉ lỡ miệng uống quá, mà uống thì cả tôi uống. Nhưng Vlat chửi Marich đã xui kế toán hảnh chúng tôi: “Thằng Do Thái, nó gửi tiền từng tuần lễ, chỉ đủ ăn không có uống. Nhưng không lo, không thể đói rượu được, đã có cách. Chúng ta sẽ lao động làm ra tiền, người lao động chân chính là chúng ta".

Chưa biết cách gì. Trên Lêningrat thì chắe lại đến ăn vạ Vêrônica. ở đây Vlat cũng có một Vêrônica chăng.

Rồi có hôm nó bảo tôi đi nói chuyện ở nhà trẻ quốc tế Atếch, lại khi đi đài phát thanh đài truyền hình thành phố và viết bài cho báo đía phương. Tôi biết thế là lao động những cách ấy. Dù sao cũng không còn lo lắng nhờ các mẹo vặt của Vlat.

Nhà sáng tác ở biệt thực trên đồi, dinh cơ của một nhà quí tộc trước kia. Thành phố bờ biển, những thắng cảnh và di tích lịch sử. Các trang đài của vua Nga, lâu đài Livađia nơi hội nghị Yanta của thủ lĩnh ba cường quốc Anh, Mỹ, Liên Xô trong chiến tranh thế giới lần thử hai, vườn bách thảo nhiệt đới, biệt thự của Sêkhốp, hòn núi Gấu đẫm mình trên mặt biển...

Tôi tha thẩn một mình ven bờ, lắm hôm tận khuya ở bãi tắm và xem cảng thức suốt đêm có người đi câu ngồi im lặng. Cát trắng lẫn những hòn sỏi thuỷ tinh huyền ảo rạt rào trong tiếng sóng.

Chúng tôi ghé hầm rượn vang đỏ nhãn hiệu Rừng Crưm, vang ngon. Những khúc gỗ, những cặp sừng hươu trong bóng nhập nhoạng ánh điện giả lửa sưởi, như những người thợ săn ở cửa rừng ra, gác súng bên gốc cây, làm cốc vang chát cho ấm người. Vách giả đá như tường hầm, người ngồi lên các thùng vang rông. Ô hay hôm nay lắm các bà xuống hầm rượu. Các bà các cô uống và hát. Ngoài phố, cờ búa liềm đỏ phấp phới. à các bà các chị rượu mừng Quốc Khánh. Ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng mười Nga năm thứ 52.

Vlat và tôi cũng mừng Quốc Khánh với hai người thợ mỏ vùng Đông Bắc ra nghỉ biển. Họ hát như gào liên tiếp những bài dân ca về tình yêu và chiến tranh.

Mười giờ đêm vẫn còn quán bia hơi máy bay Praha chở đến. Đến đâu lại hợp thổ ngơi ấy, bia Sinha Thái lan, chai Stema Ai Cập cũng đường được, nhưng vẫn nhờ bia Kon nhãn vẽ hình móng ngựa của Hà Lan. Uống từ bao giờ ở Pnôm Pênh nay vẫn nhớ vị nó. Nhưng ở đây chúng tôi đứng uống bia hơi quán Cua Bể. Đấy là treo biển vẽ con cua- chứ không có cua bán, quán mở cửa từ bảnh mắt, cho người đến uống bia súc miệng. Nhưng chẳng có bảng hiệu cũng có thể biết có quán bia vì các chân tường quanh bên đều quét chữ hắc ín dòng chữ: cấm đái. Ra ở đâu uống vào cũng đái bậy. Một bàn dài suốt gian nhà, không phải lồi lõm vì mối mọt, mà bỏi vết bào mấp mô làm vẻ thô kệch.

Các bợm bia uống đứng hai bên. Những chiếc cốc to tổ bố nâng lên phải đỡ hai tay, thật khoái. Chiếc bánh vòng ròn xốp cho thấm bia, uống được nhiều. Đôi khi có người câu cá dưới biển lên lẻn vào bán dúi con cá ướp muối, mặn thì càng uống tốt. Nhưng cũng chỉ có thế khác ở ta. Cụ tổ bia có sống lại mà đến Hà Nội cũng phải trợn mắt vì cách uống bia của ta. Nước giải khát có cồn được gọi thẳng là rượu bia và uống nhắm đậu rán, lòng lợn, tiết canh, phở, thít chó, thịt dê. Cái cốc gọi là cái vại và các bợm Hà Nội uống cả chục vại bia vẫn ngồi bần thần.

Vlat lấy bia uống một hơi rồi ra đứng ngoài phố.

Tôi tưởng Vlat chỉ uống rượu mạnh, nhưng một lát đã thấy vào, uóng cốc nữa, rồi lại ra. Vlat bảo: “Tao không thể đến cạnh những thằng giâ ở Yanta, tao chỉ muốn đấm vào mặt chúng nó. Bọn ấy trong chiến tranh đã chạy chết ở các nơi về Yanta. Em tao bỏ xác ngoại ô Matxcơva, chúng nó trốn đến đây rồi thành triệu phú, có nhà cho thuê nghỉ mát”. Vlat đã chỉ cho tôi những biệt thự rải rác thấp thoáng sau những hàng rào lila.

Nhìn ra mặt biển, hôm trời quang trông thấy núi Gấu. Hệt cái đầu gấu đen thẫm vục mõm xuống mặt nước. Bao giờ cho chàng Gấu si tình trong cổ tích kia uống cạn nước Hắc Hải để cho Gấu có đường đi tìm người yêu. Dọc xuống chân đồi, những ổ mèo hoang trong bụi lila. Cũng quây quần như chuồng mèo ở nhà ấm áp, mèo mẹ vờn mèo con dưới chùm hoa lila đung đưa mới nở tím ngát cho đến khi hoa tàn màu nhàn nhạt. Mai kia mùa lạnh, tuyết sa phủ khắp vườn cây, mẹ con nhà mèo đi đâu? Đứng đây cũng nghe tiếng sóng. Không phải sóng cát âm thầm mà tiếng những hòn thuỷ tinh được đổ xuống bãi giả sỏi. Sau đồi, tiếng chó sủa trăng. Đêm trăng suông, mặt đất tựa hồ đâu cũng như nhau. Tưởng như những đêm xóm Đồng ra biển Diêm Điền dưới Thái Ninh, mặt nước sông Diêm lờ lững ngoài chân tre cũng thế này.

Nhiều nhà văn nước ngoài được mời đến đây nghỉ và sáng tác. Đêm đêm phảng phất rào rào tiếng máy chứ ở một buồng nào. Mỗi khách một buồng, có người đi cả gia đình. Người phiên dịch đi theo khách thì ở tập thể phòng tầng dưới. Vlat hay ngủ ngay ở buồng tôi, Vlat kêu: thằng ở cùng buồng tao ngáy to quá, không chịu được. Vlat nằm ra sàn. Tôi rút khăn trải giường đắp cho.

Vlat uống lắm thế, nhưng không có thì thôi. Nhiều hôm cũng thương, tôi rủ xuống quán ăn dưới phố. Tiền chỉ đủ ăn, không có uống. Ra hàng mà không uống thà ăn trại lính ở nhà cho gọn bữa. Vlat nháy mắt:

- Cách thần diệu, nhớ ra rồi.

Tôi nhìn xem cách thần diệu ra sao.

Nhà hàng dưới đường ven biển, Vlat đưa tôi tới một buồng nhỏ trước khi vào phòng ăn. Khách sạn này tôi vẫn đi qua, nhưng không biết cái phòng nhỏ là chỗ bán rượu. Có thể vào đấy mua rượu uống trước. Đứng làm một tợp mỗi cốc rồi ra. Nhiều người uống như thế, có lúc khách đông nối đuôi. Rượu không có hầu bàn, rẻ khác hẳn trong quán, vẫn vôtca, vẫn cô nhắc nhãn ấy.

Uống rồi vào phòng ăn hay đi đâu, không ai để ý.

Có ăn lại cả uống, đôi khi cũng vào cho biết. Nhưng cũng không dám la đà tiêu không đếm, bởi tiền gửi xuống đều đặn mà quá ngặt. Hôm trở về, Marich hỏi:

- “Ông có giận tôi không? Tôi bảo gứi thế cho thằng Vlat mất tiêu hoang". Tôi đáp: “Không sao. Ngày ngày vẫn ăn và uống bình thường". Tôi kể Marich cái sáng kiến mua rượu uống trước của Vlat.

- à ở Matxcơva các quán ăn cũng đều có bán rượu uống trước như thế.

Có lúc Vlat cho tôi xem thư của nhà văn nhiều nước châu Phi mà Vlat đem theo để làm việc. Lắm khi nửa đêm Vlat dậy thức suốt sáng. Những năm về sau, Vlat yếu và mắc chứng ho. Nếu không nương nhờ được cô Lọ Lem thì khốn đốn. Nhưng Vlat vẫn là tay giỏi xoay. Marich bảo Vlat chơi bida rất nghề. ở câu lạc bộ, khoảng chín giờ tối trở ra, người ta đánh bida ăn tiền. Hôm nào Vlat cũng được bida. Vlat về bằng taxi. Buổi sáng dậy muộn, cô Lọ Lem đi làm rồi. Vlat ra vẫy xe cứu hoả. Gần phố ấy có nhà chứa xe cứu hoả. Vlat lên xe, đưa tiền. Xe cứu hoả bon bon hết cỡ, đến gần cơ quan, thả Vlat xuống. ít lâu sau, Vlat ốm bệnh rồi mất. Một lần kia, Ina đã đưa cụ Nguyễn Tuân, người bao giờ cũng chu đáo, đem hoa đến nghĩa trang viếng mộ Vlat. Hội nhà văn Liên Xô mời Nguyễn Tuân đi nghỉ. Nguyên Hồng cũng đi dự kỷ niệm về Puskin. Nhưng Nguyễn Tuân chỉ đến Matxcơva rồi ở lại đấy ngắm đầu mùa thu tuyết rơi.

Hôm tôi trở lại Matxcơva, Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng đã trở về Hà Nội. Mà Nguyễn về trước cả thời gian được ở lại. Nguyễn Tuân chưa đến Yanta bao giờ, nhưng mà mỏi chân quá, cũng chẳng thiết nữa rồi.

Tôi bỗng nhớ cái buồng bỏ hoang của Vlat trong hẻm chân tường Kremli. Quyển sách nói về mèo, tôi vẫn giữ. ở Yanta hay khi đi vùng di tích Samakan ở Trung á, Vlat thấy tôi cứ nghe tiếng máy bay thì nhìn lên trời. Vlat hỏi: “ ở Việt Nam không có máy bay?” Tôi bảo: “Nhiều lắm, máy bay Mỹ. Tôi phải nhìn nó để liệu hướng chạy tránh bom”- Đây không phải máy bay Mỹ- Mà tôi thành thói quen chạy rồi.

Vlat bảo: “Việt Nam nhiều cái lạ, tôi phải sang Việt Nam một lần mới được. Mỗi bạn nuôi tôi một ngày rượu, có ở được tuần lễ không, anh tính xem". Vlat chưa đến Việt Nam lần nào. Vlat chẳng bao giờ đến Việt Nam được nữa.

Lại xuống Yanta, đi với Hêlena. Người không đậm, không nhạt chỉ phải cái hút thuốc lá thở khói như kéo bễ. Hêlena nói: “Bây giờ trên thế giới, đàn bà hút thuốc kỷ lục hơn đàn ông".

Các bạn ăn tiễn ở nhà hàng Bắc Kinh. Dẫu chỉ đi ít tuần, nhưng đến với biền khi nào tôi cũng trân trọng và háo hức như được đến với những mới mẻ, mặc dầu đã biết. Chỉ có một lần chối quá, bỏ đi ngay.

ấy là ở bờ biển Vacna nước Bun. Gặp nhà văn Ba Lan Giucôpxki- người đã đến mặt trận Điện Biên Phủ làm phóng viên, Giucôpxky bảo tôi:

- Tôi đưa anh đến nhà dưỡng lão, cũng ở Vacna này. Anh thích thì ở lại đấy cũng được.

Rồi lại nói:

- Quan sát những người già cởi truồng.

- Không sao!

Vùng bãi này có rào chắn cách với các khu khác.

Tôi trông thấy thật đông những đàn ông đàn bà nằm, ngồi và đi lại trên cát, mọi người đều lông lá trần truồng.

Toàn người có tuổi như chúng tôi, lễ mễ, lôm nhôm như cái xác. Tôi ngán như vừa ra cửa gặp mụ Digan mời chìa tay để xem tướng. ở La Havana, đến sàn nhảy Tropicana khiêu vũ cởi truồng, nhìn người nhảy như con ếch, chán ngắt, tôi chẳng đụng đậy mảy may.

Tôi quay ra, bảo Giucôpxky:

- Đi thôi.

- Không bằng lòng a?

- Xem làm gì những con trâu con bò về già. Tôi chưa muốn trông thấy tôi như thế, ông bạn ạ.

Uống cô nhắc, nhắm thịt cừu nướng. Bàn bên, hai gă Ba Lan và một cô Nga. Ngỡ thế, vì thấy chúng nó gọi bia Ba Lan. Chắc đoán tôi là người Nhật, họ chào lễ phép. Người Nhật đến đây thì đượ giá. Những cô chiêu đãi viên hàng không Nhật ở sân bay về khách sạn Ukraina nghỉ, đồng phục mũ và váy áo tím than, các cô yểu điệu xinh như mộng, ẩn chiếc xe va li nhỏ, ai đi qua cũng ngoái nhìn lại. Tôi ra dạo công viên khách sạn, một cô điếm Nga mặt nhợt nhạt gọi: “Giapan... Giapan... Ông già Nhật Bản rởm này vẫn im lặng đi.

Ba giờ sáng ra sân bay. Hêlena chỉ đi hai tuần rồi về trước để đi nghỉ biển ở Riga với chồng.

Lại xuống Ximphêrôpôn. Những mảnh nắng rải vàng dịu. Ga mới ra vẻ ga trời quốc tế không mộc mạc cái ga tỉnh lẻ mọi khi. Cây táo hoang, Vlat đã ra ngắt quả xanh ăn cho dã rượu đã bị chặt, cũng chết- cái cây không phải chết bệnh. Hồ nước mênh mang, không cạn như mọi khi. Ra đến Yanta giữa trưa, mặt biển còn sương mù bốc lên quanh núi Gấu. Bản thảo tiểu thuyết Đảo hoang của tôi, đem theo ra đây lần trước mà đoạn mở đầu tôi ngồi viết trên núi đá hang Phai Vệ giữa thị xã Lạng Sơn- cái hang tôi ngồi viết tránh bom máy bay, tôi tả hệt cái hang đá nhà An Tiêm bị tạm giam trước khi bị đầy ra đảo. Đến yanta, cỏ tích núi Gấu cung đã vào tiểu thuyết tôi thành nhân vật anh em Gấu ở đảo hoang với cả nhà An Tiêm. Lần này, tôi đi Luang Prabang về, đến Yanta cùng với bản thảo Họ Giàng ở Phìn Xa đương viết.

Trên đường, ngọn núi giống hình mặt người từ đời nào đã được đặt tên là mặt nàng Catêrin, tuyết phủ mờ mờ tảng trán. Các làng ven núi trồng táo và những luống dàn nho. Nhớ thế, nhớ Xín Vàng, Vằn Chải, Sùng Đô bao giờ các xóm núi ở ta có mái ngói, có nước máy thế này?

Mây mù mây tảng dâng từ mặt nước lên các vườn nho lan ra tận mép bãi. Hệt trên đường từ Bâyrút sang Đamát, những dây nho được chặt gốc, nho đợi nảy mầm ủ trong băng qua mùa đông.

Hoàng hôn thành phố biển. Máy bay phản lực gầm thét- những tiếng rống của công nghiệp và quân sự hiện đại. Bờ bên kia là nước Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ đặt những bệ phóng tên lửa vượt đại châu ở nước Thổ. Nhưng tiếng cuộc đời muôn thuở vẫn đây. Con chim gì thấp thoáng hót nho nhỏ trong lá. Cây bạch dương càng vàng lá thì thân cây càng trắng như bột. Từng đàn hải âu bay qua trên cột ống khói tàu vào đậu cảng Yanta. Tiếng trẻ đùa râm ran bên kia bờ tường. Trước mặt, sương xuống đậm hơn, những dãy đèn màu lên lóng lánh, như những cây Noen giữa không trung.

Một ngôi sao dưng dưng mọc bên trời nước Thổ. Vẫn như năm năm trước, mười năm trước, dinh thự nhà sáng tác hai tầng, trông ra biển, cơ ngoỉ này đã xây năm 1916. Nhà ăn vẫn hai món chí cốt trại lính: súp cải bắp và thịt băm viên. Cô nhà bàn như nhân vật tiểu thuyết Poil de Carotte, cái mũi vẫn đỏ hơi xẫm. Chỉ khác đã già úa và đẫy ra. Cô hỏi thăm Vlat. Không nói Vlat đã chết, tôi bảo: “Ông ấy có việc không đi được". Chẳng nên để ai bận lòng hơn.

ăn sáng xong tôi lên buồng sửa soạn những dòng đầu tiên một chương mới, trong khi Hêlena xuống bãi sớm. Tôi đương nhớ lại những làng người Mông mà mới tháng trước đi qua. ở Luang Prabang, người Mông sinh sống đông hơn người Lào. Tôi lại nghĩ loăng quăng về dân tộc Mông mà từ lâu tôi đã định viết trình bày với Quốc Hội về những hiểu biết và đề nghị của tôi.

Thế là lại ngồi vẩn vơ, tôi chưa gọi được hồn các làng xóm vùng cao ở Phìn Sa có họ Giàng, nhưng cứ đặt bút lấy đà.

Nửa đêm chập chờn như mới chập tối, tiếng hát dưới cửa sổ. Chắc là rượu hát.

Dọc đường biển, cây hoa ô môi nở hồng. ở bờ hồ Gươm cũng có một cây ô môi, rồi cây ô môi cổ thụ ấy bị đàn đi từ lúc nào. Có lẽ vì cái thân cây già lão còng rạp xuống mặt cỏ. Người ta không để ý cây ô môi hoa mùa hè, miền Nam nhiều, cả Hà Nội chỉ có vài ba cây. Thế mà tôi chiêm bao vẫn thấy Bờ Hồ có cây ô môi còng lưng.

Đường dốc lên, những gốc mận mọc hoang, quả chín vàng chín đỏ. Nẫu ra thì rụng, chẳng ai hai đến, như cây táo ở sân bay Ximphêrôpôn. Chặp tối- theo mẹo của Vlat dè xẻn tiêu tiền, xuống phố làm trước cốc 200 gam vôtka rồi lên phòng ăn. Cô Hêlena không uống, đi theo xem tôi uống. Quán rượu có cốc tay chanh, Hêlena lấy một cốc. Ông già làm rượu hỏi: Có đi với ông người Nga năm trước không? Hêlena dịch câu trả lời của tôi: “Ông ấy chết rồi". Ông già nói: “Tội nghiệp, ông ấy chết trẻ". Hêlena nói trêu: “Sang năm tôi cũng chết, cụ cũng chết, ông Việt Nam này giết được nhiều người lắm". Ông già nói: “Tôi chết là vừa phải, còn cô thì nên cố uống vài triệu cái cốctay nữa hẵng chết”. Rồi ông rót ba cốc vôtca không tính tiền. ông mời chúng tôi uống không chạm cốc. Chúng tôi uống tưởng niệm Vlat.

Cũng như ở mâm rượn với bạn, Vạn Lịch hay để ra cái bát, đôi đũa và châm nén hương, bảo để mời thằng Nguyễn Sáng. Phong tục nhớ người đã khuất, đâu cũng tương tự. Vạn Lịch ơi, bây giờ mày chết rồi thì ai mời mày. Nhưng phút tưởng niệm Vlat cũng chỉ giây lát, bỏi người uống rượu chay đã vào đông và những thùng loa nhạc trong phòng ăn và sàn nhảy trên kia đã oang oang hết cỡ. Thế giới bây giờ, tiếng nhạc đâu cung ầm ĩ rên la, chói tai.

Bãi tắm của du lịch Inturit riêng một góc, nhưng ở Yanta chưa có bãi tắm truồng như bên Vacna. Bãi đây nhiều sỏi thuỷ tinh nhân tạo ít cát, tôi xách một mảnh giường ván đi nằm đâu cũng được. Hêlena đã mua vé cho tôi cả tháng.

Hôm qua Hêlena ngâm nước nhiều, kêu chán nước, chỉ ngồi khoả chân, hút thuốc và lại trêu tôi: “Trái đất quay ngược, bây giờ chỉ có đàn bà hút thuốc". Chẳng khác trước hôm xuống đây, phải đi kiểm tra, tôi kêu tôi ít ngủ. Ông bác sĩ già nói: “Ông đừng lo. Ngày nay trái đất quay cũng khác, cả thế giới đều ngủ ít như ông". Tôi có nhận xét tưởng tượng người Nga vào thế kỷ này hay triết lý châm biếm chán chường.

Cô nhà bàn mũi đỏ mỗi bữa bưng cho tôi một đĩa hanh ngâm dấm, ngoài những món cố định đã có trong thực đơn. Cô ấy thật nhớ lâu, cả người và thức ăn.

Mới đến, cô đã bảo Hêlena: “Tôi đã biết ông khách này như người Mỹ không thích ăn cá, mỗi hôm ông đòi một đĩa hành, cá mới đắt, còn hành thì dễ quá.”

Hêlena đi trong mưa, không mang đồ tắm. Cô ấy lên rủ tôi ra mua vé máy bay cô về Matxcơva. Chóng thế đã hết hai tuần. Chúng tôi ở đại lý hàng không ra, xuống quán hầm rượu vang Rừng Crưm. Vẫn đông nghịt và những mẩu gỗ, những thùng gỗ làm ghế. ánh đèn mờ mờ trong những cây nến giả. Hêlena uống hai cốc. Cô ấy không thích rượu mạnh, nhưng vang thì uống tốt. Nhớ Vlat lạ lùng. Bố chết oan, em chết trận, mẹ chết già, Vlat thì chết một mình.

Hêlena đi rồi, tôi xuống bãi tắm đã quen. Cái may- ô, cái quần lửng với cái mũ quần rách- chả là ở đầu phố Hàng Gai có cụ chủ hiệu mũ Triphooca ngày trước, bây giờ cụ khâu mũ thuê. Đưa đến cụ cái quần kaki rách gối cụ may cho cái mũ vải. Cụ lấy công bằng chỗ vải thừa. Cứ cái mũ vải quần rách tôi tha thẩn dưới bãi lên phố, mua báo, bia, người ta tưởng một ông già Nhật đi du lịch. Tôi cũng cố đóng vai lão Nhật, lặng im như hôm gặp cô gái điếm ở vườn khách sạn Ukraina.

Vào quán, ai nâng cốc, tôi cũng nói được “cạn chén” tiếng Tàu can pây, “can cây” tiếng Nhật giả cày.

Tôi yêu Yanta đêm nhiều hơn, không phải vì hay thức đêm viết. Mà đêm Yanta nghe sóng rồi xuống giỡn được với sóng ngay dưới kia. Ban đêm nghe tiếng sóng nhởn nhơ dễ tưởng như hồi còn thơ dại. Khuya trong nhà lều người Mông Cổ ở cánh đồng Đakhan, gió hú trên ống khói bếp nhớ thuở bé bẻ cong chiếu làm tùm hum chui vào bóng tối, hai tai dỏng lên. Đêm ở làng chài Nghi Sơn, Biện Sơn bờ biển Quảng Xương, tiếng sóng bủa quanh mình chỉ nghe thế thôi, không dám thò chân ra. Những con rắn hổ lửa hay quăng mình đi ăn đêm. Tiếng đêm thăm thẳm, con cú rúc từng hồi trên búi tre lép nhà ông Ngải ở xóm Đồng. Đêm Yanta, tiếng sóng và sáng điện hiền lành, bình yên, tôi lững thững đi bên mép nước... Nửa đêm đã thưa tiếng xe, bấy giờ mới nghe thấy rảm ran tiếng dế kêu.

Gió thổi vào những cành liễu trước cửa sổ. Gió thu xào xạc rụng lá khác gió vờn trong cây mùa hạ. Có cô Galina ở Matxcơva xuống thay Hêlena. Đi tắm, bà già giữ cửa hỏi giấy tôi. Vừa hay, Galina tới. Cũng chạc Hêlena, nhưng Galina gầy, võ vàng. ở bãi lên mua chai vang uống mừng Galina. Galina không phải cây thuốc lá, mà là một cái ông rượu không đáy. Galina kể trên Matxcơva đã lạnh, nửa đêm tuyết rơi.

Tôi hẹn với nhà văn Tiệp Khắc Givi Vôrisêch và cô phiên dịch của ông ngày mai đến quán thịt nướng Lơnôi hồ Kavagon giữa rừng, năm trước tôi và Vlat đã đến đấy vớt vợ chồng Simônôp. Ngồi ăn giữa những khẩu súng săn treo trên vách, như kiểu những người thợ săn vừa ở rừng ra. Lá bạch dương vào thu đã vàng choé. Những bụi hoa lila nở chậm khác lila ở Bucaret bên hồ Hêrêch trên gió thổi bay hoa “tuyết mùa hè”, nở tím bạt ngàn từ tháng năm. Mưa tầm tã, nhưng người đi tắm đi chơi không biết mưa.

Ba giờ sáng trở dậy. Trăng vằng vặc trước cửa sổ. Còn hai chương nữa thì xong Họ Giàng ở Phìn Sa. Làm sao cho những chương cuối nổi lên được vấn đề người Mỹ mà cụ thể là bọn biệt kích Cia mũ nồi xanh mạo hiểm đến vùng dân tộc Mông hoang sơ. Họ nhảy dù xuống, lấy tư cách người văn minh đem đến những cái hiện đại: tàu bay, súng đạn, quần áo, mũ, rượu và đòi ngủ với đàn bà. Người ta thất kinh. Và đến khi chúng nó ở lâu, thì con người với con người chỉ còn có căm thù.

Bà nhà văn Đức Indơ Richte và ông Tiệp sang chơi. Bà 81 tuổi. Chỉ bánh mì đen mà bà ngoạm khoẻ như thần trùng. Bà kể đêm qua nhà văn Tiệp đi chơi ba giờ đêm mới về. Ông trèo cửa sổ buồng cô Tania phiên dịch. Tôi hỏi ông Tiệp: ông vào ngủ với Tania?

ông Tiệp nói:

- Tôi đi chơi với nhà văn Ukraina mới tới. Tôi chỉ trèo nhờ tường buồng cô Tania, tôi về buồng tôi.

ông ấy cười. Tôi khoe đã viết xong chương cuối tiểu thuyết. Ông hỏi:

- Ông viết chữ Trung Quốc?

- Không, chữ Việt Nam

- Tôi thấy các nhà văn Nhật viết chữ Trung Quốc.

- Không, chữ Nhật đấy.

Tôi mở tập bản thảo. Hai nhà vãn Indơ và Giri cùng nhìn và reo lên:

- ơ, chữ Việt Nam cũng giống chữ Tiệp, chữ Đức

- Chữ nước tôi đã latinh hoá từ lâu.

- Tôi sai lầm quá, cứ tưởng chứ Trung Quốc cũng là chữ Nhật, chữ Việt Nam.

Rồi ông nói to:

- Viết xong chương cuối một tác phẩm tôi phải ngủ với một người đàn bà để tự thưởng. Anh thế nào?

- Bà hàng xóm tôi 81 tuổi.

- Hêlena thì chưa già, được lắm.

- Hêlena về Moscou rồi, Galina vừa mới tới.

- Cô nào cũng thế. Galina đẹp đấy, uống mừng một cốc nào.

Chúng tôi uống cô nhắc với mận ngắt ngoài vườn, mận còn chát phải chấm muối. Các nhà văn nước Tiệp, nước Ukraina, nước Đức đều chúa rượu cả.
CHƯƠNG XIX

Tối ấy, tôi viết một thư gửi Quốc Hội.

Yanta 28- 8...

Kính gửi Hội đồng Dân tộc của quốc hội khoá 7

Sau kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá 7 tôi đã đề đạt nguyện vọng cho tôi được đổi từ ủy ban Văn hoá Giáo dục của Quôc hội sang làm thành viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Nguyện vọng của tôi đã được Quốc hội biểu quyết thông qua ở kỳ họp Quôc hội vừa qua. Tôi chân thành cám ơn.

Tôi xin trình bày một số hiểu biết và đề nghị của tôi về vấn đề dân tộc Mông ở nước ta.

l

Trong giai đoạn nước ta thuộc Pháp nhíều quan cai trị và những người truyền giáo đạo Gia Tô thường chú ý nghiên cúu các vấn đề dân tộc. Sabachiê công sứ Đắc Lắc sưu tầm dân ca Đam San và viết nhiều về các dân tộc ở Tây Nguyên; Cờretxông, công sứ Yên Bái nghiên cứu dân tộc Tày, quan ba Bôniphaxi biết chữ Hán đã viết về dân tộc Dao. Linh mục Savina tu ở Sapa đã soạn từ điển Pháp- Mèo và Lịch sử dân tộc Mèo linh mục Hiền (tên Việt Nam) đã tu ở Nghĩa Lộ (Yên Bái) từ 1924 tới 1950, soạn Từ điển Pháp- Mèo. Tât nhiên, những việc làm về học thuật trên đều có liên quan tới vấn đề chính trị, xã hội.

Dân tộc Mông có ước chừng trên hai triệu người cư trú ở 5 nước nhưng liền một khu vực (Trung Quốc, Lào, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện), đông nhất ở Trung Quôc (hai tỉnh Quí Châu, Vân Nam) và ở Lào (ba tỉnh phía bắc). Về tính cách và những đặc điểm của người Mông: trung thực, lao động, dũng cảm cưỡi ngựa, bắn súng giỏi. Họ ở tập trung, tin tưởng và phục tùng dòng họ, ít quan hệ các dân tộc xung quanh, đem thuôc phiện đi chợ chỉ cần đổi muôí, mua muôí. Người Mông tin tưởng (cách mạng) hay không tin tưởng phản động) rõ ràng và hiếm khi thay đổi.

Trong thời Pháp đô hộ, cho tới 1919, dân tộc Mông đã nhiều lần nổi dậy. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914- 1918, linh mục Savina viết trong Lịch sử dân tộc Mèo: đế quốc Đức đã tìm cách giúp người Mông chống Pháp ở Đông Dương. ở Hà Giang (Việt Nam), ở Xiêng khoảng (Lào) binh lính Pháp phải đi đánh dẹp, linh mục Sa vina làm cố vấn chính trị trong các binh đoàn.

Cuối năm 1919, Sa vina đã họp được với các vua Mèo ở bắc Việt Nam và Lào ở Xiêng Khoảng. Hội nghị này công bố một hiệp định của chính phủ Pháp ký với các thủ lĩnh Mèo có mặt và đại diện. Trong văn bản hiệp định, điều khoản 1 là: (nguyên văn) Từ nay dân tộc Mèo ở Đông Dương thuộc quyền bảo hộ của nước Pháp, không thuộc các quan lại annam, thổ, thái... Người thay mặt nước Pháp ở mỗi tỉnh là quan công sứ: (Hiệp định này in toàn văn trong quyển Lịch sử dân tộc Mèo của Savina).

Chế độ bảo hộ này đã có ảnh hưởng thực tế. Năm 1973, tôi lên Sùng Đô (Nghĩa Lộ) còn nghe người già ca ngợi và khoe mỗi năm đến Tết, người Mèo được “đến chơi nhà quan công sứ”. Người Mèo ở Phìn Hồ được sang nước Pháp chơi. Gần đây, nhà thờ Phìn Hồ không có cha xứ, đến tết Nôen nhiều người Mông đã về lễ tận nhà thờ Hà Nội, như vợ chồng nhà Pàng Dơ (Nghĩa Lộ).

Không phải ngẫu nhiên, giữa chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952, quan ba tình báo Pháp Givơ đã đem toán biệt kích nhảy dù xuống vùng người Mông ở Thượng Bằng La (Nghĩa lộ).

Âm mưu của địch đối với các vùng Mông là liên tục. Những vụ người Mông xưng vua trên biên giới phía bắc, tây bắc năm 1955 là một mưu lược rõ rệt suốt từ Hà Giang qua Lào Cai sang Lai Châu, Son la.

2

Từ 1975, nước ta đã hoàn toàn thống nhất, cách mạng Lào đã thành công, nhưng mọi thủ đoạn và những âm mưu vẫn tồn tại và phát triển. Con cháu Vàng Pao vua Mèo ở Lào được đưa về Mỹ học trường quân sự cao cấp. Người Mèo di cư ra nước ngoài tập trung thành làng ở đảo Guyan do Mỹ nuôi có linh mục Pháp tới truyền giáo (phóng sự báo Express 1988). Nếu trước kia thủ đoạn của Pháp chỉ có tính cách đối phó- như hiệp định Xiêng Khoảng, thì nay Mỹ có chủ trươg và kế hoạch lâu dài. Trên thế giới có bốn đài phát thanh hàng ngày có giờ phát tin tức và ca nhạc tiếng Mông. Các đài: Tiếng nói Hoa Kỳ, Châu á tự do, Manila, Vatican. Nhiều báo Pháp thường bàn tới một nước Mông, người Mông đương ở 5 nước hiện nay, cho là vùng này có thể trở thành một nước “Itxraen phương Đông”. ý đồ đó không phải một phương hướng hành động mà họ đã làm cụ thể, như kể ở trên. Và như trong kháng chiến, người Mỹ đã soạn và in sách học chữ Mèo latinh hoá, từ Lào đã phổ biến sang vùng người Mông ở Kỳ Sơn, Mường Xén (Nghệ An. Nhiều nơi ở bắc Lào, Mỹ đã tổ chức những đội mũ nồi xanh” (quân riêng của CIA). Phóng sự Lính mũ nồi xanh của nhà báo A. Villiers đã miêu tả biệt kích Mỹ được thả dù xuống làng Mèo để huấn luyện đánh du kích chống quân đội Lào.

Miền Bắc nước ta, người Mông ở trên biên giới phía bắc, giáp Lào và Trung Quốc có trên 30 vạn người dân số đứng hàng thứ tư trong 54 dân tộc anh em. Từ trước tới nay, với chế độ ta người Mông trung thực, một lòng một dạ.

Tuy nhiên, từ Cách mạng tháng Tám 1945 tới nay chưa hình thành được một đội ngũ cán bộ người Mông thật sự có trình độ chính trị, văn hoá, chuyên môn vững chắc. Việc đi học, đi công tác với người Mông chưa thâý phải là đòi hỏi và cần thiết. Đi học, đi công tác hay ở làng, làm nương cũng thế, chẳng thành một băn khoăn so sánh đi công tác hay ở nhà.

Về văn hoá, chữ Mông đã đuợc đặt ra, đã in sách giáo khoa, đã mở lớp học tiếng mẹ đẻ và tiếng phổ thông, nhưng không qui định biện pháp sử dụng, mọi giấy tờ từ xã lên vẫn chỉ dùng tiếng phổ thông. Cho nên, học thì biết rất nhanh rồi bỏ đấy.

Về sản xuât và đời sống vật chất có vấn đề trồng cây thuốc phiện.

Kinh tế thuốc phiện không phải chỉ một khu vực mà là vấn đề kinh tế và chính trị người Mông ở cả 5 nước, đã nổi tiếng thuốc phiện và bạch phiến khu “Tam giác vàng” ra khắp thế giới...

Sự sinh sống của người Mông xưa nay trông vào 3 nguồn chủ yêu: trồng ngô lấy cái ăn, nuôi lợn lấy thịt và mỡ làm dầu thắp; làm nương cây thuốc phiện để có tiền mua sắm. Ta đã vận độn không trồng cây thuốc phiện vì thuốc phiện khó về trị an (trộm cắp, buôn lậu) và hại cho sức khoẻ vì mắc nghiện... Theo nhận xét của tôi, người Mông cũng không thiết trồng thuốc phiện, nhất là chị em phụ nữ. Vì người đàn ông nghiện thì ốm yêú bỏ sản xuất. Nhưng không trồng thuốc phiện thì cây gì thay thế để bán cho có tiền mua sắm. Đã được khuyến khích và hướng dẫn trồng tam thất, đậu tương xuyên khung, hạt giống rau... đều không thành công vì cây chết, vì giá quá rẻ. Trong khi, vài đồng cân thuốc phiện đã bán được một nắm tiền và cái nương thuốc phiện thì nhỏ bé, dễ làm... Người ta vẫn trồng thuốc phiện khi nào ngơi lệnh cấm thì trồng ở vườn, khi nào cấm ngặt thì trồng lậu trên các đỉnh núi cao.



Lại những tình cờ tôi đã gặp ngót bốn mươi năm trước, lần đầu tiên đến Matxcơva bây giờ nhớ lại mà như gặp lại, cái gì không bao giờ còn có thì lại như có.

Cụ Lêôn Chức hay cụ Hồng, ông lão giác ngộ cách mạng ở Pháp năm 1923 trốn sang nước quê Cách mạng tháng Mưòi. Thế nào mà rồi ông lại theo phái tờ rốt kít. Ông bị bắt, bị đày chung thân đến Xibêri. Hơn hai mươi năm sau ông được thả, ông lấy vợ người dân tộc Cômi ở giữa đồng hoang taiga. Mãi đến năm ấy, nghe tin nước nhà độc lập, ông lặn lội về Matxcơva tìm đến sứ quán ta. Ông chỉ còn nói tiếng Việt lơ lớ, ông kể quê ở Thái Bình. Ông già yếu quá rồi. Ông ngồi khóc. Ông cũng không có nguyện vọng về nước.

ông không còn nhớ hẳn tên ông là Hồng hay là Lêôn Chức, là Lêôn. Người bé nhỏ, bước lủi thủi. Nhà nghiên cứu văn học Niculin có viết về cụ Lêôn Hồng trong một bài bút ký. Tôi đã được gặp cụ lần ấy nầm 1957. Về sau tôi hỏi thăm, ở sứ quán ta nói không thấy ông đến nữa. Chắc ông khuất núi đã lâu rồi.

Cũng một cảnh đi đày, trong chuyến những người tờ rốt kít bị bắt đày đi Xibêri có Tưởng Kinh Quốc, con trai Tưởng Giới Thạch. Ông thống chế Quốc dân đảng này gửi con sang du học Liên Xô. Hoạt động tờ rốt kít, cũng bị bắt tù luôn. Sau nhờ bố can thiệp, Tưởng Kinh Quốc được thả. Tưởng Kinh Quốc về Trung Quốc, đem theo người vợ Nga quê ở Sveclôp. Bà Tatiana đã ăn ở với chồng đến đầu bạc răng long. Khi tổng thống Đài Loan Tưởng Kinh Quốc chết, bà đi sau xe tang.

Báo chí thế giới đã đưa tin về chuyện lạ ông tổng thống Tàu lấy vợ Nga này.

ông Lêôn Hồng, ông Tưởng Kinh Quốc, những tay rờ rốt kít phải đi đày, nhưng khác nhau, số phận và những tình cờ.

Nhưng số phận khác nhau. Tôi quen Platôn từ năm ấy. Platôn quê ở Ukraina vùng Cuốc cách thành phố Kiep sáu mươi cây số. Tốt nghiệp trung học hai mươi tuổi, Platôn tòng quân. Năm 1942, cả binh đoàn vào trận đánh, bị bao vây và bị phát xít Đức bắt ở Khacôp.

Tù binh Platôn phải giải về Đức, học lái xe rồi làm tù binh lái xe tải của quân đội Đức đóng ở Đan Mạch.

Phát xít Đức thua trận. Tù binh Nga được giải phóng. Platôn cũng đượe về nước, nhưng phải nhốt trong toa tàu những tù binh đã cộng tác với địch. Platôn sẽ phải ra toà án quân sự.

Đến một ga xe lửa giữa đường gần biên giới Nga, Platôn nhảy xuống, chạy trở lại. Platôn sang Pháp. Thấy các nơi dán áp phích lấy lê dương, Platôn vào lính lê dương Pháp. Năm 1947, đội quân lê dương ấy bị đưa sang mặt trận Đông Dương. Đơn vị của Platôn đóng ở Phú Nhuận rồi Bến Tre, rồi Vĩnh Long. Vào lê dương, Platôn lại làm nghề cũ. Ngày ngày lái xe tải chở thức ăn uống, dây thép gai, dây điện thoại đi các bốt. Cuộc đời phiêu đãng khốn cùng, chỉ còn biết uống rượu giải khuây. Platôn kể: thường nhờ người vào mua rượu trong làng, vì vậy Platôn liên lạc bắt mối được với du kích Việt Minh. Du kích đưa cho Platôn xem tài liệu về Việt Nam kháng chiến, thế nào là chiến tranh chính nghĩa, là phi nghĩa. Và truyền đơn kêu gọi binh lính phản chiến, đòi trở về quê hương. Platôn quyết định ra vùng tự do, đã định ra ở Phú Nhuận, nhưng rồi mối hỏng. Rồi xuống Bến Tre, Platôn tìm bắt liên lạc được với một du kích tên là Mô, Platôn theo du kích Mô ra vùng kháng chiến. Chèo thuyền suốt đêm mới tới được điểm hẹn. Platôn đem theo được hai khẩu súng trường làm chiến lợi phẩm.

Platôn kể với tôi là vừa tháng trước, Platôn được quân đội ta mời sang Bến Tre dự lễ kỷ niệm ngày thành lập tiểu đoàn 307. Platôn gặp lại du kích Mô. Mô đã già, rụng hết tóc, đã lẫn cẫn. Một lúc mới nhớ ra Platôn, thế là ôm Platôn, hai người khóc hu hu.

Platôn được tên là Nguyễn Văn Thành, phiên chế vào chủ lực tiểu đoàn. Cấp trên cứ ngỡ là Pháp, là Đức, là Nga tất nhiên phải biết về súng nặng. Thành được ngay chức khầu đội trưởng súng cối. Thành đâu biết cái khầu súng cối ra sao. Nhưng mầy mò rồi cũng bắn được cói, cối hóc Thành cũng chữa được. Đội trưởng Thành nghiễm nhiên hóa ra tay thạo và đã đánh nhiều trận. Có trận chỉ thổi tin cho nguy biết trận này có Tây bắn súng cối, bên kia đã bỏ đồn chạy êm. ở khu giải phóng đan cài vùng địch vùng ta, tiểu đoàn cũng có quê mỗi khi dưỡng quân, luyện quân- đấy là một phố tản cư bên sông ven rừng dừa. Anh em làm mối vợ cho Thành. ở đấy có một bà trước kia là vợ một người Pháp lai Mangat đã đi lính rồi làm công chức nhà dây thép tỉnh. Không ai biết ông Tây dây thép bỏ bà ấy về Pháp hay ông bị Nhật đem đi giết khi đảo chính. Chỉ có một bà ấy và cô con gái ở bờ kênh trong khu giải phóng. Cô Mai còn có tên Tây là Côlet. Tuổi dậy thì xinh đẹp, mắt nâu, tóc vàng óng. Nhiều chàng trai mê cô nhưng đương đánh Tây, không chàng nào dám bập vào cô Tây lai. Thế là Thành được xe duyên. Đám cưới bộ đội giản dị, nhưng cũng tiệc bánh kẹo, rượu đế và đàn ca hò hát cả đêm.

Vợ Thành về thị xã ở cữ, sinh được con gái. Thành ở đơn vị được tin, nửa đêm bí mật vào gặp vợ. Con gái giống bố quá. Thành đặt tên con là Giênhia. Thành ẵm con được một lúc, lại đi. Mẹ vợ rất qui cháu Giênhia và con rể. Trong cuộc đời gian truân của Platôn chưa bao giờ Platôn được những ngày mong nhớ yêu thương như mỗi khi có dịp về hậu cứ thuở ấy.

Một ngày kia, Thành về. Mẹ ẵm cháu Giênhia ra đón, chỉ khóc mà không nói. Những người hàng xóm đến an ủi, cho Thành biết Côlet đã bỏ con lại, đi theo người thợ bạc về Sài Gòn. Thành làm sao trốn đơn vị đi tìm vợ được!

Vả chăng, nó đã tham vàng, tham bạc bỏ ngãi đi theo người ta, bắt về được nao. Thế là rồi Thành lại lăn lộn trận mạc với khẩu moochiê.

Chiến tranh kết thúc. Bộ đội tập kết, Thành cũng được ra Bắc. Mẹ vợ và cả Côet Mai ở Sài Gòn nghe tin; cũng xuống Năm Căn tiễn Thành. Côlet đã có hai con với người thợ bạc. Giênhia thì đã lên sáu tuổi, bà cho đi với bố.

Thành và con gái Giênhia ra Bắc. Những chuyến tàu Nga, tàu Ba Lan đưa bộ đội và cán bộ từ các mũi tập kết đi. Cả mấy tháng trời Platôn được giao nhiệm vụ làm phiên dịch trên những chuyến tàu ra Sầm Sơn.

Rồi hai bố con ở Hà Nội có đến hai năm. Không phải lưu luyến nhớ cảnh nhớ người ở đây mà tù hàng binh Platôn phải ở lại lo giấy tờ gửi về nước trình bày nông nỗi, toà án quân sự bên Nga xem xét huỷ cho tù binh Platôn cái án tử hình đã cộng tác với phát xít Đức.

Rồi cũng xong. Năm 1956, hai bố con về Matxcova.

Rồi Giênhia đến tuổi trưởng thành vào làm đài phát thanh Matxcơva nói tiếng Việt. Platôn cung xin vào đài, nhưng không được nhận, vì lý lịch phức tạp. Buồn nông nỗi, trở về quê ở Cuốc. Cả vùng quê không ai ngờ Platôn còn sống. Mẹ Platôn chỉ mới mất cách đấy hai năm.

Rồi sau Platôn cũng được làm ở đài, nhưng chỉ làm hợp đồng. Hợp đồng ba mươi năm cho đến năm ngoái mới nghỉ, Platôn tự nhận xét và an ủi: “Ba mươi năm người ta viết cho tôi ngồi đọc, chỉ có cái miệng làm việc. Vậy chỉ hợp đồng cũng phải".

Đến năm 1980, được tin mẹ Côlet mất. Còn Côlet, chỉ sau khi Thành tập kết ra Bắc ít lâu Côlét chết bệnh ở Sài Gòn. Mẹ già sống cô đơn, từ ngày miền Nam thống nhất. ở Matxcơva, Thành vẫn thường gửi biếu tiền, có khi là vải, đồng hồ và quần áo về Bến Tre. Thành thương mẹ vợ như ngày ở chiến khu.

Vừa rồi, được trở lại Bến Tre dự kỷ niệm ngày thành lập tiểu đoàn 307, khấu đội trưởng moochiê Platôn Nguyễn Văn Thành đã đi thăm mộ mẹ và vợ. Hai ngôi mộ mẹ con được đưa về đặt cạnh nhau trong nghĩa trang. Thành đưa cho tôi xem cái ảnh Thành thắp hương đứng chắp tay vái giữa hai ngôi mộ, người mẹ hiền từ và người vợ bạc phận ở nghĩa trang Hanh Thông Tây. Cuộc đời lưu lạc đứt từng quãng, nhưng trong một con người lúc nào cũng có sợi dây vô hình nối thắt lại quãng đau, quãng vui, quãng ngậm ngùi.

Nhà Platôn ở gần đường ra sân bay quốc tế giữa một rừng cây castan. Đương mùa lá castan rụng vàng rơii xung quanh ngôi nhà các căn hộ ở năm tầng. Giênhia đã lấy chồng, Platôn ở với bà vợ goá một ông tướng, hai người đều đã ngoài bảy mươi. Bà ơgiêni trưóc là giáo viên dạy tiếng Pháp. Truyện thiếu nhi tính ác của tôi năm trước Platôn đã dịch chữ sang chữ rồi ơgiêni dịch ra tiếng Nga. Sách đã in từ hơn mười năm trước bây giờ mới gặp và tôi thành bạn của hai dịch giả.

Hôm chúng tôi đi Alma Ata, Platôn đem quyển Tính ác xuống cho một nhà xuất bản ở Cadăcstan dịch in ra tiếng Cadăc.

Tôi đã đi với Platôn ba lần, một lần họp ở Alma Ata, hai lần ra bờ Hắc Hải nghỉ ở Pitsunđa. Platôn tự giới thiệu: Tôi là Thành, hai Thành, Nguyễn Văn Thành, Platôn Thành.

Platôn nói, giọng và tiếng hoạt bát hệt một người Việt Nam, hai người Việt Nam trò chuyện, cả những hấm hứ cưười mũi, cười khẩy và các thứ tiếng lóng. Platôn đã chung đụng, lăn lộn nhiều năm từ Nam ra Bắc.

Platôn lại kể chuyện Bến Tre, mà Platôn đã nói mấy lần rồi, lại bày ra cho tôi xem những bút máy, bút bi, đồng hồ, sổ tay, huy hiệu ma các bạn đồng đội 307 mới cho và được đơn vị tặng.

Platôn cao hứng lỗ mỗ hát vang:

Ba trăm lẻ bảy! Ba trăm lẻ bảy! Cửu Long giang sông trào nước xoáy! Ba trăm lẻ bảy! Anh hùng biết mấy! Đánh đâu được đấy! Ba trăm lẻ bảy! Lẻ bảy!



Platôn sinh 1922, người cao lớn phốp pháp, vẻ ra trễ tràng và khệ nệ của một người về già. Không thể tưởng tượng được ra con người mà cuộc đời đã chìm nổi đến như thế. Ông lão hiền hiền, trầm ngâm ít nói. Đôi khi, Platôn nhấp một chén rượu, phảng phất thấy Platôn thuở nào ở những bước khiêu vũ như vờn của thời trẻ, một hôm chúng tôi đi chơi núi. Nhanh nhẹn nhẹ nhàng, uyển chuyển ông lão nhảy sánh vai với một cô gái trẻ nhất hội.

Tôi lại đem ra bài mua rượu uống trước khi vào phòng ăn của Vlat hồi đi Yanta. Platôn chẳng lạ khoé ấy.

- Platôn uống bao nhiêu, mấy trăm gam?

- Cho tôi 50 gam.

- ít thế. ở Bến Tre, Platôn nốc một ngày mấy chai đế cơ mà?

- Ngày xưa với bây giờ khác. Hai Thành đi tu đã lâu, lên sư ông rồi.

Platôn đột nhiên kể:

- Tôi có một người bạn Việt Nam làm ở nhà xuất bản Tiến Bộ.

- Tên là gì?

- Tên Nga là thằng Ivan.

Tôi đoán là Văn Doãn hay Lê Vinh Quốc mà có lần Marich kể họ hay đến thư viện câu lạc bộ Hội Nhà văn mượn sách.

- Có phải thằng Văn Doãn?

- Anh quen nó a? Nó nói chuyện rất vui.

- Tôi chỉ biết, chưa hề gặp.

- Platôn muốn rủ nó đi Pitsunđa. Nhưng Ivan tự tử rồi.

- Sao nó chết?

- Không biết. Những ngườii uống rượu nhiều hay tự tử. Có lẽ tôi bớt uống rượn vì thế.

- Platôn thì chết sao được. Nếu chết, chắc Platôn chết đã lâu rồi.

Hôm sắp đi, Platôn hỏi tôi:

- Tôi đem một bà bạn đi được không?

Tôi cười:

- Platôn đi tu lên sư ông rồi cơ mà.

- Mục sư Tin Lành vẫn có vợ, có bồ, tôi là mục sư. Anh lấy làm phiền thì thôi.

- Chẳng bận đến tôi, anh cứ cho bà bạn đi.

Tôi hỏi:

- Cái năm Platôn đi Pitsunđa với Nguyễn Văn Bổng Platôn có đem bồ đi không?

- Có.

- Giới thiệu với Nguyễn Văn Bổng?

- Không. Phải bí mật chớ.



Platôn kể: “Đi đường tôi chỉ chuyện với bà ấy như người trên tàu xe làm quen với nhau. Tôi ở nhà nghỉ với anh Bổng, bà ấy trọ ở nhà vườn trong đồi, nhà nào ở Pitsunđa cũng có nghề chứa trọ người đi chơi biển. Thỉnh thoảng chúng tôi ra biển gặp nhau, chui vào bụi lila, đắp chăn cát. Có vậy thôi".

Platôn đã giới thiệu bà ấy với tôi trên một chuyến xe điện ngầm. Người đàn bà không còn trẻ, cũng chưa già mấy. Nhưng rồi bà ấy không đi. Platôn bảo người ta bận việc nhà. Phải thế không hay thế nào, tôi không biết.

Chợ nông trường ở Pitsunđa. Hàng quán lèo tèo mầy bàn thịt bò, thịt cừu. Những giỏ đào, giỏ mận. Treo cao cao từng tảng sáp tổ ong cả khoái. Platôn uống đúng một trăm gam rượu trắng và nói một câu triết lý: “Lắm lúc tôi nhớ Bến Tre, không muốn nhớ mà không được. Anh biết tại sao không?” Chẳng hỏi cũng biết đấy là những ngày hạnh phúc, những ngày đau đớn, những kỷ niệm gậm nhấm mòn mỏi cả đời người không thể bao giờ quên đi được cuộc sống xã hội mà người lính, người tù, người lê dương giang hồ đã trải. Chẳng có ngày tháng ai bằng phẳng, chỉ nhìn nhận thế nào, sống thế nào cho còn là thằng người nữa mà thôi.

Không hiểu tại sao, tôi đương viết về chợ nông trường Pitsunđa, lại nghĩ đến Trần Đức Thảo và Đặng Đình Hưng. Tôi phải nói lại hai người ấy không hề bận đến nhau, chỉ có tôi quen hai người. Họ chìm nổi mà họ cũng phẳng lặng, lẫn lữa như dửng dưng vào cuộc sống như Platôn, buồn quá đến không biết thế nào là buồn.

Những cuộc đờì một mình thui thủi. Mỗi người mỗi khác, biết hay không biết, nhưng chung một nỗi buồn. Là Trần Đức Thảo, là Trần Huyền Trân, là Trọng Hứa, là Vạn Lịch hay Platôn Hai Thành, ai thấu cho, mà biết thế nào được. Hay là những chuyến đi của tôi nặng nhọc, vớ vẩn và buồn. Không phải có những chuyện không muốn nhớ, không bao giờ muốn nhớ mà cứ nhớ, cái sự đời thế vậy, ấy là lần sau cùng qua Matxcơva bỗng rồi Liên Xô thành “Liên Xô cũ”, hỡi ôi, và những lần ấy đến Mông Cổ, qua Trung Quốc.

Bốn mươi năm trước với bây giờ khác quá mà không tự biết, cuộc sống xã hội và đời mình. Tuổi nhiều thì ngại đổi thay, mà cứ như định mệnh không tránh được.

Đi Mông Cổ lần này khác trước rồi. Tôi đã đến Mông Cổ có lần với Nguyễn Quang Sáng, có chuyến với Vi Hồng và bây giờ đi một mình.

Đến Ulan Bato với Nguyễn Quang Sáng phải chạy máy bay Mỹ bom ga Đồng Đăng, thì cũng là chuyến đi trọn vẹn. Với Vi Hồng, ở Hà Nội đến Matxcơva rồi từ đấy vòng sang. Thế là đã có khó khăn, hai phen Mông Cổ hai sự tình đi khác nhau. Đến lần này, còn thế nào nữa hơn, chưa biết. Đón tôi ở Ulan Bato, Somon Đacsơven có tên Việt là Viên. Viên tốt nghiệp đại học văn ở Hà Nội và là người dịch Dế mèn phiêu lưu ký in ở Mông Cổ.

Hôm nay Mông Cổ lại đã khác những ngày xưa và Đacsơven đương kim chủ tịch hội hữu nghị Mông Cổ- Việt Nam, cũng như Gadunôp hội hữu nghị Nga- Việt bây giờ, Gadunôp đã dịch tiểu thuyết áo trắng của Nguyễn Văn Bồng, hai hội hữu nghị thật năng động, dẫu thời thế đã qua rồi, vẫn còn thấy được cái tìh cái nghĩa của các bạn đối với đất nước ta thấm đằm nhường nào.

Đi một mình đã là oái ăm, lại đi tàu hoả, lại vào cuối năm 1979 trời đất khác trước. Tàu hoả Hà Nội Bắc Kinh liên vận quốc tế nhưng ở Hà Nội đi vẫn đường Sắt hẹp. Sang Bằng Tường tàu đổi ỳ ạch cỡ lớn hơn. Thế mà Mỹ đánh bom, không còn cây cầu nhỏ nào sống sót. Đến cầu Bắc Lệ sau cùng phải bỏ tàu, ôtô tăng bo lên Đồng Đăng. Máy bay giặc vẫn đuổi eo, thả bom từng hố sâu ngay trước cửa quan Hữu nghị đã chặp tối, còn vài bước chân thì sang đất Trung Quốc. Cỏ tranh bị vùi trong hố bom đất đỏ như miệng giếng mới đào. Những đợt trước ném bom miền Bắc chưa khi nào máy bay Mỹ lên tàn phá tận đây.

Ven sườn núi biên giới trời còn tối đất, đến Bằng Tường đã le lói sáng những ngọn điện. ở đâu kéo ra dòng người sang chợ đêm bên Đồng Đăng. áo váy, tay nải chàm dưới vành nón lá, người Tày người Nùng hai bên biên giới về chợ. Hầu như cũng tự nhiên, cột mốc thì đánh dấu phân chia, nhưng dòng sông Kỳ Cùng mải miết chảy không biết đâu đất nào nước nào. Hai bên núi cũng là núi, người lấy vợ lấy chồng, họ nội họ ngoại, tắt lửa tối đèn đi lại thế. Năm trước, tôi đây có lần đã lên Khơ Đa đi với Mã Hợp sang ăn cỗ đám cưới bên ải Khẩu. Làng Lũng Nghìu bên ấy cũng dân tộc Nùng, thời kỳ đen tối trước 1945, đồn Tây ở Đồng Đăng lùng bắt, ông Mã Thành Nhân bố Mã Hợp đã đem các con chạy sang nương náu ở Lũng Nghìu bên ải Khẩu.

Người thị xã Lạng Sơn còn kể trên cửa quan Hữu Nghị năm ngoái năm kia, nhà mậu bên Bằng Tường đã lên mở hiệu cao lâu bán mỳ vằn thắn. Ngày chợ Đồng Đăng và chủ nhật, cả người dưới phố thị xã cũng nô nức lên nếm vằn thắn Tàu, tuyệt ngon so với vằn thắn Hà Nội chỉ có sợi mì gạo và lá kiệu thay lá hẹ. Chỉ vài bước về xuôi, máy bay Mỹ đêm ngày bắn phá, phở chua chợ Kỳ Lừa không còn thì được húp cái nước dùng vằn thắn ấy đã tỉnh người- đào đâu ra các thứ thiệt không thấy bóng cả ở phố phường Hà Nội lúc ấy.

Trên cửa quan Hữu Nghị có còn quán vằn thắn ngon không, lại một câu hỏi ngao ngán. Tàu hoả lượn vào trông lên sườn núi tường thành thấy lơ thơ dây dợ ăng ten. Lên trên kia, bên này Da Bai Can hay ga Nhị Liên, các ga biên giới, mái nhà và chim bồ câu thảnh thơi đồn biên phòng hai bên, bây giờ chất ngất những gò đống dây thép gai xám như sương mù. Rừng núi ngoài kia chắc cũng thế, lại trở lại Trấn Nam quan, Mục Nam quan có phải không?

Đã lâu mới đi xe hoả- như bốn mươi năm trước, lần đầu tiên qua Trung Quốc, tầu lên Đông Bắc, cơm trên tàu ngon như cỗ ngày Tết. Bây giờ cũng vẫn trang nhã thế, người nhà tàu lễ phép, lịch sự. Cửa sổ trông ra phong cảnh dọc đường. Những gốc liễu rủ, những cây cầu thảnh thơi như trong truyện Tam Quốc, Thuỷ Hử. Tưởng như không có những khó khăn và xích mích, bởi chỉ thấy cảnh đẹp vẫn như bao giờ.

Nhưng chỉ một lát đã ập đến những cái lo, những ngần ngại. Người công an trách nhiệm an ninh toa tàu bưới tới. Anh chạc ngoài hai mươi tuổi, dáng người Hoa Trung, Hoa Bắc cao lớn đẹp trai, quần áo sắc phục mới. Anh đến trước buồng tôi, giơ tay chào thân mật.

Anh nói được tiếng Pháp. Tôi đã ngợ về hiện tượng hiếm có ấy. Tàu quốc tế vắng teo. Ban chiều, qua cầu Bắc Lệ đã bị đổ gục, vài người khách ôtô tăng bo đi tiếp sang ga Bằng Tường không có khách lên.

Anh công an xin phép vào buồng tôi chơi. Một lát, nói:

- Xin lỗi đồng chí... đồng chí có thể cho tôi hỏi.

Đồng chí cứ tự nhiên.

Tôi đọc báo thấy tin Việt Nam và Campuchia có chiến tranh. Tại sao các đồng chí đánh đồng chí Pôn Pốt?

- Tôi cũng chỉ biết trên báo như đồng chí đã đọc.

Nửa ngày đường, cho tới Nam Ninh, chốc anh lại đến chơi lại xin lỗi, lại hỏi một câu tương tự và tôi cũng trả lời đại khái vậy. Đích là người công an đã được chọn làm trách nhiệm toa này.

Tôi bảo:

- Ta nói chuyện khác nhé.

- Chuyện gì?

- Đồng chí được đến Hà Nội chưa?

- Tôi chưa biết Hà Nội.

Đồng chí nên đến Hà Nội.

- Hà Nội đẹp lắm a?

- Cũng như Vũ Hán, như Bắc Kinh.

- Thế thì tôi biết rồi.

- Có điều đồng chí chưa biết. Con gái Hà Nội rất đẹp.

- à!

Từ lúc ấy, câu chuyện lạc ra ngoài những hỏi đáp lăng nhăng phức tạp vừa rồi. Đất nước Việt Nam và vẻ đẹp con gái Hà Nội mà người con trai quê gốc Hoa Trung theo gia đình lên lập nghiệp vùng kinh tế mới Tân Cương cứ hỏi tôi mãi mà chưa hết chuyện.

Ga Nam Ninh, ga địa đầu làm thủ tục vào Trung Quốc. Nghỉ đây lâu, mọi lần đều như vậy. Khi tàu đương vào ga, người trưởng tàu đến bảo tôi:

- Các thứ hành lý đều mang xuống.

Tôi lặng lẽ làm như lòì dặn. Nhưng mọi khi, chỉ một mình xuống với chiếc cặp xách tay. Tôi cũng không hỏi, e phiền phức. Bây giờ không phải như trước. ở phòng hải quan có cả chục nhân viên. Tôi gặp lại niềm vui quen thuộc mọi khi. Những người đi lại trước mặt tôi đều chào lịch sự, họ nói tiếng Việt. Các khách nội địa đã ra cửa ga. Trong phòng hải quan trơ trọi cái và li và tôi

Một người bước đến chào tôi:

- Đồng chí đi một mình?

- Vâng, tôi đi một mình

- Đồng chí ra bàn ngồi đợi.

Một người hải quan khác thân mật:

- Chào đồng chí. Trông đồng chí không được vui?

Tôi cười như đùa, nhưng nói thật:

- Mọi khi ngồi đợi tàu chạy được uống nước, hút thuốc.

- Xin lỗi, xin lỗi.

Một cốc trà có nắp đậy và bao Đại Tiền Môn được đưa ngay ra. Tôi nhấp ngụm nước chè nóng. Đến lúc làm việc, người cán bộ hải quan bảo:

- Mời đồng chí vào. Đem cả va li.

Tôi biết là phòng khám. Nhưng tôi cũng biết, bình thường ra, đi máy bay hay tàu hoả, không khám dọc đường Tôi lại biết bây giờ khác. Trong phòng có ghế ngồi lịch sự. Cái va li được đặt giữa tôi và người hải quan. Tôi lấy chìa khoá.

Người hải quan ấy giơ tay như cản lại và nói:

- Tôi không khám. Lát nữa chúng ta sẽ cùng ra.

- Có ai hỏi, đồng chí nói là khám rồi.

ở mỗi ga lớn mà tàu dừng, từ Vũ Hán lên Trường Sa, đều có nơi tổ chức khám. Nhưng lệ nghiêm ngặt chỉ ở bàn giấy và khi một tổ hai ba người, còn một người với nhau thì cười, không khám. Cái va li của tôi chỉ bị mở có một lần và hai người hải quan cũng nhìn qua, không đụng vào một thứ gì.

Bấy lâu qua lại, cứ khi xa lại khi gần mỗi lúc. Điều đó khiến tôi vừa xúc động lại vừa buồn. Dường như ở đâu cũng tương tự, những khúc quanh của tình thế cứ qua đi, chỉ có tấm lòng con người vẫn ấm và đượm lại. Mấy năm ấy, dẫu có những ngăn ngại và éo le, nhưng đường từ Hà Nội ra nước ngoài, vẫn quá giang qua Bắc Kinh, qua Matxcơva, tôi đã chứng kiến những xử xự biết bao phức tạp, cái thì nhìn thấy, cái thì chính mình trải nếm trên đường đi.

Hoàng Trung Thông và tôi đi Cận Đông, chặng nghỉ đầu tiên ở Bắc Kinh. Trước sân hội nhà văn Bắc Kinh có hai lò luyện thép xây đá, ống khói tuôn ngùn ngụt, tấp nập người đi lấy than, người ra kéo bễ. Ngoài đường, phấp phới như bướm đỏ bay, mỗi chiếc xe đạp cắm trên ghi đông một lá quốc kỳ xinh xinh. Chín giờ sáng, mọi người đứng ra ngoài trời, cầm quyển Mao tuyển bìa đỏ, kể cả ở sân bay các đội bay đương sửa soạn đi. Nghe nói thắng cảnh Di Hoà Viên không còn, ở đấy đã dựng lên những khẩu hiệu “công nghiệp gang thép 20 năm đuổi kịp nước Anh. Chúng tôi đã chơi Thập Tam lăng và Di Hoà viên. Đó là lời đồn thổi nặng nề, những cảnh đẹp và di tích vẫn nguyên vẹn. Chỉ có, nếu để ý kỹ thấy đôi chỗ trên tường, trên bức hoành ở một vài đền đài còn mờ mờ vết mực hay sơn đen xoá chưa được sạch hẳn mà thôi.

Ngủ lại Hán Khẩu ở một khách sạn cũ của người Anh. Từng đoàn hồng vệ binh sắp hàng mười hai mươi, bước đi khi thế ngùn ngụt và trong khách sạn, trên mặt tường phòng ngủ, phòng ăn đều kẻ khẩu hiệu đả đảo đế quốc. Nhưng hai bên vỉa hè, người ta vẫn đi lại bình thường và chặp tối những bà lão ngồi lẳng lặng ngâm chân vào chậu nước nóng. Trên các ụ súng ở tường thành lẫm liệt nhô ra khẩu cao xạ, đại bác nghênh nòng hướng phía biển. Bên kia xa xa ấy là các đảo Kim Môn, Mã Tổ ngoài Đài Loan- đôi khi xảy ra những trận đấu pháo liền mấy ngày đêm. Đến khuya, hàng phố đã đóng cửa, dưới lòng đường, các đoàn hồng vệ binh vào thành phố vẫn cuồn cuộn như con trăn quăng mình.

Trên Bắc Kinh đương dán các áp phích báo chữ to, Hoàng Trung Thông đọc báo là báo và khẩu hiệu đả đảo tác giả tiểu thuyết Đá đỏ.

Những vụ án văn, từ hồi Đinh Linh rồi Triệu Thụ Lý và những ai, cũng không thấy rợn nữa, vì nhiều. Vả lại, đến ông Đặng Tiểu Bình mà còn bị đày đi Tân Kiến ở Giang Tây, từ 1969 đến 1973, năm năm làm thợ sửa chữa xưởng máy kéo. May mà thuở trẻ ở Pari, ông đã học cơ khí. Kiên gan kiên tâm đến thế, mỗi tối trở về ở cái nhà “lều trâu”, trước khi ngủ, ông đi bách bộ. Mấy năm trời trong vườn cỏ vệt nhẵn một lối đi.

Cái lạnh sa mạc Gô Bi đã đưa về Bắc Kinh buốt xám ngắt. Chặp tối, một bà lão mặc áo bông xách cái làn mây ra các bức tường bóc những mảng báo chữ to giấy đỏ đã khô cong, đem về đốt sưởi. Vào khu chợ Đông An cũng những bức tường, có người đeo túi đi gỡ mảng báo cũ, bên cạnh những tờ giấy đỏ, giấy trắng mới được dán lên. Sáng sớm, những đoàn hồng vệ binh đi thâu đêm ở xa về không biết từ vùng nào, vẫn đông nghịt.

Trên máy bay, các cô chiêu đãi viên đồng loạt tóc cắt ngắn, áo quần xanh công nhân. Máy bay lên tới độ cao, khách được thoải mái đi đứng rồi. Hoàng Trung Thông ra chỗ mượn báo anh nói chuyện với các cô chiêu đãi. Được biếu một quyển Mao tuyển sách đỏ. Lại được uống bia Thanh Đảo và cả một cốc Mao Đài.

Bởi Hoàng Trung Thông đã bút đàm, lại hát lơ lớ được Đông phương hồng bằng tiếng Trung Quốc. Khi Hoàng Trung Thông hát tiếng Việt thì tất cả các cô đều hát nhịp đệm. Thế là thưởng rượu, thưởng rượu và tôi cũng được ơn thưởng lây.

Trông Hoàng Trung Thông mặt rượu đỏ lựng bao giờ tôi cứ ái ngại. Tôi không lo Thông say, mà có say cũng rất vui và khi tỉnh thì khi nào anh cũng nói dài, tỏ ra ta chưa say. Và lý sự những cái đúng trong cái say. Nhớ hôm ở khách sạn Thắng Lợi trên hồ Tây, Thông nâng cốc với Ina Dimônina chúc sức khoẻ Lêon Lêon đã chết từ năm trước. Lúc ấy Ina lặng im và cúi mặt.

Hôm sau, ở quán rượu phố Huế, tôi kể với Thông câu chuyện Ina đã nói với tôi.

Tôi bảo:

- Ina không nên buồn. Ông ấy không biết nên đã lỡ lời.

- Tôi không buồn đâu. Khi người ta không gặp nhau thì chết rồi cũng vẫn là như còn sống.

- Vả lại, Lêon có tốt gì với Ina. Hãy quên đi.

Tôi ở với anh àý đã mười một năm, tôi phải nhớ, quên thế nào! ông tàn nhẫn quá. Ông Thông biết thương người hơn ông.

Hoàng Trung Thông sảng khoái, giơ chén: Đấy, đấy con bé triết lý và kết luận hay. Câu chúc của mình có ý nghĩa vưọt vũ trụ chứ". Tôi lại nhớ một hôm ở cơ quan. Chúng tôi họp đảng uỷ buổi trưa. Mặt Hoàng Trung Thông cũng đỏ phừng phừng. Mùi rượu sực nức.

Tôi thường khó chịu khi ngửi hơi rượu ở miệng mình hay mùi rượu quanh người khác. Tôi không ngại Hoàng Trung Thông rượu vào rồi nói lằng nhằng ở một cuộc họp nghiêm chỉnh. Trông thì tôi biết Hoàng Trung Thông uống lệ, uống giữ, không thể bao giờ mỗi chốc anh đã nói không chủ động. Nhưng không thể có mùi cồn ở cuộc họp vài ba người mà lại có phụ nữ, chị Vũ Thị Thường.

Một lúc khác, tôi bảo Thông:

- Đi họp đừng uống rượu.

Hoàng Trung Thông không nhìn tôi và lặng im.

Cũng lúc ấy, anh tặng tôi tập Thơ Mao Trạch Đông anh dịch, nhà xuất bản Văn Học in đã lâu. Đưa tôi tập thơ đã đề tặng, Hoàng Trung Thông nói:

- Tôi rất yêu, rất phục Trung Quốc. Tôi rất buồn về tình hình Trung Quốc, Trung Quốc với ta, tôi buồn lắm.

Tôi thật không phải. Có thể tôi mang lỗi với cả người đã khuất. Tôi vẫn nghĩ anh nghiện rượu vì quen miệng thôi, không phải bởi những cái yêu ghét to tát và sâu xa kia.

Máy bay đỗ xuống sân bay Trường Sa, khách xuống nghỉ lữ quán. Các chiêu đãi viên vào phòng trong cởi thay áo đại cán xanh Sĩ Lâm, các cô đã hoá ra những nàng tiên sơ mi trắng nõn, má đỏ, cổ tay trắng ngần.

Thế nào thì con gái vẫn có cách làm đẹp của con gái. Lần này tôi một mình qua Bắc Kinh khác nhiều những lần ấy, kể cả tôi đương trên đường. Xung quanh đường như hớn hở, tâm sự mình thì không được vui, lạnh lẽo thế nào. Bắc Kinh cổ kính và Bắc Kinh hiện đại lại lồ lộ sức sống, vừa uy nghiêm vừa trẻ trung. Những bức tường nào không chi chít báo chữ to thì lộ ra hàng gạch vồ nghìn năm chân phương. Tửu lầu lừng danh đặc sản tái dê lẩu dê Đông Lai Thuận lại mở cửa, hai chiếc đèn lồng chao nghiêng thắm đỏ.

Trên cột đèn có chỗ còn vết dán kẻ chữ đổi tên phố mớt ở nhưng tờ giấy gió tuyết quét còn sót lại từ bao giờ. Những cây hoè cổ thụ, Vũ Xương toàn cây thông, Hán Khẩu những hàng dương liễu, Bắc Kinh thành phố cây hoè, và những cây bồ liễu cành quang đãng đương ủ mầm sắp sang xuân.

Bắc Kinh đã phảng phất hơi xuân thì trên Ulan Bato vào trong giá rét kinh hồn. Mặt đất đóng băng trắng toát, nhà lều và người ủ trong hộp băng. Nửa đêm, đội quân cảnh xô viết tuần tra bước rào rạo, như đàn gấu trắng đi ngoài hè. Tôi lại ở nhà khách chân núi Chúa như cái lần đi với Ina. Nhưng hồi ấy tháng tám mặt trời rực rỡ tận chặp tối- tháng ấy nhiều nắng nhất trong năm, những đàn nai nuôi trên đồi cỏ tranh nhởn nhơ rỡn vào tận thềm. Bây giờ lạnh quá, cái lạnh khiến chỗ nào cũng khô cong bật ra điện. Cởi áo len, điện loé xanh tanh tách như nổ sọt. Cầm chốt cửa, điện giật thót ngón tay. Người ta như không ai để ý, còn tôi phải lấy khăn lót tay mỗi lần mở cửa, cho đến hôm quen.

Trong phòng, ngồi một phụ nữ váy đỏ sẫm, trông đã thấy ấm. Chị nhà buồng quay ra, mỉm cười. Tôi hiểu có thể cô gái này ở lại với tôi. Tôi lắc đầu, chắp hai tay. Cô ấy đứng dậy lấy áo khoác và xỏ đôi bốt. Tôi đưa cô ra quầy buýp phê. Tôi uống vôtka chống lạnh. Cô ấy dùng một cốc nước chè sữa, rồi đi. Hôm sau, Đácxơvên đến, tôi kể lại chuyện. Anh hồn nhiên nói: “Không phải gái điếm. Có khi người ta muốn lấy giống của anh".

Chúng tôi đến sứ quán Việt Nam. Đại sứ trò chuyện thân mật ngay. Ông hỏi tôi: “Thế nào, anh Lê Nguyên Hồng hồi này có khoẻ không?”. Đại sứ đã đứng tuổi, ngày trước đã phải phát vãng đi tù căng Bắc Mê với Nguyên Hồng. Tôi đáp: “Anh Lê Nguyên Hồng rất khoẻ, vẫn uống rượu tốt". Ông cười to, nói: “Hôm nào anh về tôi gửi biếu Lê Nguyên Hồng chai vôtca Mông Cổ. Cái này quí lắm, bên Nga khan rượu phải sang đây mua đấy". Và ông đại sứ vẫn gọi Nguyên Hồng với họ Lê. Chắc ông thuộc sử Tàu hồi đầu thế kỷ, các nhân vật lẫn lộn Nguyên Hồng với những Lý Hồng Chương Trương Học Lương, Bạch Sùng Hy...

ông đại sứ vui tính, tôi lây ngay cái vui của ông. Quần áo tôi không thể chống nổi cái lạnh phương bắc. Ông đem ở kho ra đôi ủng da, cái áo lông cừu cổ lông kín nửa mặt. Kho sứ quán trữ những thứ ấy cho mượn, nếu khách đến vào lúc quá rét, nhưng cũng tuỳ công tác tùy người mới được mượn. Lạnh đến đỗi hôm trở về tôi vẫn áo lông và bốt cao cổ thế lên khoang tàu. Ông đại sứ phải vào tận buồng, tôi mới cởi áo và bốt đưa ông cất vào túi ni lông đã mang theo sẵn. Đến đây có hai cái hãi, mùa đông dữ tợn và sinh viên ta sang học chăn nuôi sợ bị lây bệnh cừu khó chữa vì ở nước ta không có bệnh cừu.

Tôi thì hợp hơi cừu, thịt cừu. Mùi cừu ấm người, ăn thịt cừu như thịt chó và thở ra mùi cừu. ở cửa hàng, trên ô tô, trong khách sạn đâu cũng thoang thoảng mùi cừu ấm áp. Cừu nấu cari ngon chẳng khác thịt chó rựa mận Đông Lỗ trứ danh. Lạnh đến không cần tủ lạnh. Tôi đã đến một nông trang trong thung lũng Đakhan, trước mỗi cổng nhà lều có cái móc xích treo một con cừu đã mổ sẵn. Mỗi hôm, cầm dao ra xẻo thịt, chặt khúc xương, đem vào bếp nấu nướng. Cứ nhờ những bữa ăn ả Rập và Mông Cổ thịt cừu, sữa cừu, nước chè cừu. Trên thế giới này, người chén thịt cừu nhiều lắm chứ.

Đại hội Hội nhà văn Mông Cổ. Thong thả, bài diễn văn đọc tại hội trường đã viết và được dịch từ nhà. Chẳng nhớ hội nghị thế nào, cũng không có gì phải nhớ. Tôi làm hội Hữu nghị á Phi, đã dạo hầu khắp các nước châu á, châu Phi, đã gặp nhiều ông tên tuổi bây giờ còn rầm rĩ, tổng thống Ađam Hutxen nước Irắc, nước Syri thì tổng thống Atxat, Hailê Mariam chủ tịch cuối cùng nước Êtiôpi tiến bộ, chẳng qua trời sai đi đâu thì đi đấy, nên chưa khi nào đến Tây âu, Bắc Mỹ, Bắc á, chẳng biết những nước Pháp, nước Mỹ, ở đâu.

Đácsơven đã cho in lại Dế mèn phiêu lưu ký vào dịp này, có lời tựa tôi viết cho bản in mới. Vợ chồng anh ấy và con nhỏ, chúng tôi ăn mừng Dế Mèn lại sang Mông Cổ. Ngoài kia, thành phố nhà tầng và nhà lều vẫn một màu băng trắng long lanh và tuyết lại rơi.

Viên nói:

- Tôi sẽ lấy tiền bản quyền cho anh. Có ít thôi nhưng ở Ulan Bato không có gì mua hợp đem về Hà Nội. Tôi lấy ngân phiếu, anh về Bắc Kinh đổi ra nhân dân tệ, ở Bắc Kinh có nhiều thứ, anh biết rồi.

Viên học và ở Hà Nội năm năm, đã thạo cả. Viên lo cho tôi còn hơn những cái tôi có thể làm. Đấy, tôi đã vào bách hoá Ulan Bato, thấy quần bò rẻ quá. Mua một chiếc đem về xem cái nhãn trong cạp quần, mảnh vải có chữ: Nhãn hiệu Việt Nam Hà Nội.

Tàu rời trong gió tuyết tơi bời. Xe lửa xuyên Xibêri đến quãng này có hai nhánh, đường trên quanh hồ Bai Can, được xem mùa đông đóng băng phủ con hồ lớn nhất trái đất. Đường dưới này chắc chỉ những ai có việc đến Ulan Bato mới đi, bởi mênh mông mịt mù ngày đêm rừng và đồng hoang. Những khách cùng toa thoạt đầu tôi tưởng người Mông Cổ, áo dài lót lông cừu, thắt lưng bụng nhụng cả trước mặt sau lưng như cái túi tròn quanh mình, có thể nhét vào lấy ra cả cái bánh mì, tảng thịt xấy bọc giấy bóng. Nhưng rồi nghe nói tiếng Trung Quốc, mới nhớ Hoa kiều ở Mông Cổ cũng nhiều. Tôi cùng buồng với hai người, đoán là vợ chồng.

Những người ra ga tiễn vác từng bịch lớn cất dưới gầm ghế, bên trên để các túi quần áo, chăn và những bọc quả táo đỏ. Chúng tôi chuyện với nhau bằng miệng cười và bàn- tay, ngón tay. Chẳng bao lâu, tôi cũng biết những bịch cất trong gầm ghế là những bao gạo.

Vừa xảy ra trận động đất nặng nề ở vùng Đường Sơn cách Bắc Kinh có trên trăm cây số, nhiều người sợ chạy xuống thành phố. Hôm tàu lên Mông Cổ tôi đã thấy khoảng hè đường ngay ở ngoại ô Bắc Kinh những cái hố đào ngang lòng đất, đắp mái lên chống tuyết- những hang hốc trợ thời như mùa đông ở các sa mạc Đông Bắc. Các ngả đường khác thế nào không biết, nhưng gạo và bột mì ở Mông Cổ tải về nhiều. Không biết hàng lậu hay đi tự do, nhưng dường như có khám xét, mà cũng trễ tràng thôi.

Anh ấy làm hiệu tay nhấc tôi đứng dậy rồi chỉ xuống nguyên chỗ. Tôi hiểu anh muốn bảo tôi cứ ngồi đấy, công an và hải quan không khám tôi. Mọi người đều phải ra ngoài cửa. Công an xem hộ chiếu tôi rồi giơ tay mời tôi vào chỗ cũ, chỗ mà dưới gầm chất những bì gạo của vợ chồng nhà kia.

Tàu chạy, anh ấy bắt tay tôi, nói rối rít. Anh xuống toa ăn mua về cả chục cái quẩy. Quẩy trên tàu ròn nhai gau gáu. Thấy thế đã ngon, lâu rồi ở Hà Nội bán quẩy bột sắn nặn rắn như hòn cuội.

Địa đầu Mông Cổ, ga Đường Lạc Đà Chamôuti. Sang Nhị Liên, đã vào đất Trung Quốc. Không được biết ga này xưa kia yên lành thế nảo, bây giờ chỉ thấy mịt mùng dây thép gai. Xa xa, nhấp nhô những doanh trại mái tôn, những ụ pháo lạnh lùng không một ý nghĩa. Vào ga Nhị Liên tàu dừng lại hai giờ. Xuống tàu, mọi người được mời vâo hội trường mười lăm phút xem phim. Những tranh ảnh và khẩu hiệu chống chủ nghĩa xét lại và cuốn phim miêu tả bọn xét lại Liên Xô đã làm hại các nhà máy, đường xá và đồng ruộng Trung Quốc như thế nào. Trong lúc khách xuống sân ga thì hải quan lên khám các toa.

Hai vợ chồng người láng giềng và tôi cùng xuống.

Anh không bảo tôi phải đóng vai ngồi lên chỗ giấu những bao gạo. Trong khi chúng tôi thu gọn hành lý để xuống, người chồng đưa cho tôi nhìn một phong bì cứng có chữ Kodax, chắc những cuộn phim. Rồi anh nhét cái phong bì dầy cộm ấy xuống dưới cái gối của tôi rồi anh chắp hai tay quì xuống vái tôi. Tôi không biết làm thế nào. Những người hải quan đã nhấp nhô lên bậc thang sắt cửa tàu. Tôi đành bước ra, rồi thế nào thì thế nào. Có đến một tiếng sau, trở lên tàu, mọi thứ ở chỗ của tôi vẫn nguyên như cũ. Người chồng cầm lên cái phong bì Kodax dưới gối tôi. Anh chàng lại cuống quít chạy đi mua quẩy, lần này mua mấy chục cái.

Về Bắc Kinh một đêm một ngày nữa, nhưng không còn trạm khám.

Tôi chẳng bụng dạ nào cắn nổi cái quẩy như lúc trước. Tôi đưa tiền, ra hiệu bảo anh ấy đi mua cho tôi chai bia Sin Tao. ở dưới nhà khách ga, tôi vừa bị ăn một quả đau. Chuyến đi đã lường sẽ khó khăn, mà không lường hết. Tôi có cái ngân phiếu Viên đưa cho để đổi ra nhân dân tệ. Tôi nghĩ cẩn thận: đem ngân phiếu nước ngoài về tận Bắc Kinh có thể bị khó dễ, bởi ở ga Nhị Liên đã có bàn đổi ngoại tệ. Tôi đổi ở đây.

Tôi phải giữ gìn và đúng luật. Trong quầy đổi tiền, người cán bộ tiếp tôi, nói tiếng Việt như tôi. Sự ấy không làm cho tôi mừng mà lại chột dạ, như hôm đi gặp người công an nói tiếng Pháp. Tận cùng trời, vẫn nghe được tiếng mình, tôi vừa lo vừa mừng.

- Tôi có một ngân phiếu Mông Cổ muốn đổi lấy nhân dân tệ.

Người ấy cầm tờ ngân phiếu, vào trong. Trên bàn trước mặt tôi có cốc nước đậy nắp, bao Đại Tiền Môn mới đã bóc sẵn. Tôi ngồi yên, không biết tôi có khát, tôi có muốn hút thuốc không. Tôi chăm chắm nhìn vào cửa phòng, chiếc màn cánh sáo che khuất.

Không một tiếng động. Không biết trong ấy có bàn bạc, có gọi điện thoại, tôi chẳng là cái gì mà sao người ta phải để tâm thế. Khách xem phim, khách xem mua đồ lưu niệm, uống giải khát đã lục tục lên tàu. Trưởng toa nghiêm túc, cẩn thận, bao giờ cũng đứng dưới thềm đợi khách lên hết. Tôi cũng bồn chồn, dường như trắc trở thế nào đây.

Người quầy đổi tiền thong thả trờ ra, tử tốn nhẹ nhàng. Vẫn chỉ một mình như lúc nãy, nhưng không giấy tờ không bút, không thấy cầm tờ ngân phiếu của tôi.

Thưa đồng chí, chúng tôi xin lỗi. Chúng tôi đã thôi trao đổi loại ngân phiếu này với Mông Cổ từ một năm nay. Tôi đã hỏi lại Bắc Kinh. Bắc Kinh xác nhận thế không có ngoại lệ, không đổi được.

Tôi lặng im rồi nói:

Cho tôi lại tờ ngân phiếu.

- Chúng tôi xin phép được giữ.

- Tôi để làm kỷ niệm thôi.

- Tôi đã được điện của cơ quan yêu cầu thế.

Người ấy nói tiếng Việt như tôi, tôi nghe rõ mồn một, không lạc chữ nào, tôi cũng không muốn nói nữa.

Người ta đã bàn ở đâu rồi, nói lại cũng thế.

Đi qua quầy nước, tôi muốn uống bia. Nhưng lại sợ trong kia trông thấy, biết mình còn tiền người ta ra ra khám lấy hết vài đồng trong túi thì từ giờ đến Bắc Kinh phải nhịn đói là cái chắc.

Tàu chạy ra khỏi ga Nhị Liên tôi mới uống giải phiền chai Sin Tao nhờ đi mua.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét