Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

HỒI KÝ HOA XUYÊN TUYẾT CỦA BÙI TÍN - KỲ CUỐI



Tôi đang sống những ngày căng thẳng và chật vật. Mọi cuộc dấn thân đều phải thấu hiểu trước và chủ động chấp nhận. Những nỗi đau và bất hạnh của nhân dân thối thúc tôi có thể làm được gì thì phải làm hết sức mình. Những thảm họa mang tầm vóc dân tộc trẻ em gầy ốm, tỷ lệ chết khi sinh của các em quá cao (57/1000 cao gấp sáu lần ở Pháp và Mỹ), nạn thất học lan tràn, hàng 300, 000 học sinh bỏ học, hơn 70, 000 giáo viên bỏ dậy, hệ thống bệnh viện xuống cấp, người bệnh phải chung nhau hai người một giường, thiếu thuốc men. Nạn tham nhũng, ăn hối lộ của mọi cửa đè nặng lên cuộc sống người dân lương thiện. Tất cả những điều ấy không cho phép tôi do dự, tính toán cho riêng mình. Tôi tin là mình đã làm theo lẽ phải và lương tâm. 

Và tôi đã được những sự giúp đỡ tận tình - Những tấm lòng vàng. Xa gia đình bè bạn, đây là sự an ủi, cao hơn nữa là sức động viên, khuyến khích, cổ vũ tôi. Tôi có thêm biết bao bạn bè trên dất Pháp mới mẻ và xa lạ này. Anh chị em trí thức, làm báo, giáo sư, thầy thuốc...những người Việt yêu nước chân thành tìm hiểu việc tôi làm và giúp đỡ tôi rất chân tình. Những cuộc trao đổi ý kiến cởi mở, ngay thật về tình hình đất nước. Anh chị em ở Lyon, Marseille, Tonlouse, Lillẹ..Paris đón tôi về nói chuyện và trao đổi ý kiến. Anh em theo dõi tình hình Việt nam rất chặt chẽ. Có gia đình đặt mua tất cả các loại báo hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng từ Việt nam, có những tủ sách cực kỳ hiểm, ở Việt Nam cũng khó có thể có, gồm đủ loại sách báo từ đầu thế kỷ này. Tủ sách của giáo sư Hoàng Xuân Hãn, và của nhà nghiên cưứ Tạ Trọng Hiệp, gồm những sách cổ văn, Hán văn và chữ Việt là những kho tàng vô gía. Các vị sẵn sàng hiến những sách quý nhất cho đất nước. " nhưng không phải bây giờ, vì sẽ không phát huy được tác dụng mong muốn do tình trạng không ổn định, còn hỗn loạn qúa: ".

Vợ chồng chị Ngọc Bình ngỏ ý đón tôi về nhà anh chị. Chị quê ở Bạc Liêu, sang đây đã hơn 30 năm, tốt nghiệp đại học rồi dạy học. Anh Jacques chồng chị, giáo sư ngôn ngữ ở Đại học Sorbonne 7. Năm 1989, hai anh chị về thăm quê hương Việt Nam, do đó hiểu khá rõ tình hình, thông cảm sâu sắc với tình cảnh gay gắt của nhân dân ta và rất tâm đắc với sự nghiệp đổi mới, nhất là với nhu cầu xây dựng một cuộc sống dân chủ về chính trị. Chị bảo tôi: " Tôi hiểu việc anh làm là cần thiết, là tâm huyết với nước mình. Anh hãy coi phòng này là phòng của anh, nhà này là nhà của anh. Anh cứ sử dụng tùy ý để làm việc ". Chị cho tôi ở một phòng, chị thường thay vỏ chăn, vỏ gối cho tôi- Anh đem cho tôi đài thu thanh để nghe tin tức và khi xem ti vi có tin thế giới lại gọi tôi sang xem. Anh rất giỏi nhiều ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, thường dự các cuộc họp quốc tế về ngôn ngữ học ở nước ngoài.

Thường trước khi đi làm, chị để ở trên bàn mảnh giấy nhỏ cho tôi : trong tủ lạnh có chả giò (nem Sài Gòn), có thịt gà, anh dùng đi nhé, hay : tôi có làm sẵn bánh cuốn, có thịt cưừ, anh ăn ngon nhé!...Đĩa trái cây luôn luôn đầy, gồm : cam, nho, táo, chuối...vì chị biết tôi rất thích ăn hoa quả. Chị luôn hỏi thăm sức khỏe, công việc, những tin tức gia đình, bạn bè tôi, động viên và an ủi tôi khi xa nhà. Cháu ngoại chị, bé Alise, 6 tuổi, là" bạn nhỏ " thân thiết của tôi. Nhà cháu ở gần nên mẹ cháu hay đưa cháu sang bà ngoại nhờ trông giúp. Cháu rất ngoan, hay hát, hay cười, hiếu động. Tôi cùng cháu chơi ú tim, đi trốn, đi tìm ngoài vườn, bế cháu hái mận, cùng cháu hát những bài dân ca Pháp. Những lúc ấy tôi càng nhớ thêm hai cháu ngoại của tôi - bé Hoài Anh năm tuổi và bé Quỳnh Anh tám tuổi. Tôi được sống những ngày tháng ấm áp trong một gia đình có nền văn hóa hòa hợp Việt- Pháp. Hai anh chị thường trao đổi ý kiến với tôi về tình hình Pháp, tình hình Việt Nam. Mới đây hai anh chị sinh hoạt trong một lực lượng mới của cánh tả mang tên " refondation ", đặt nền móng lại cho các lực lượng chung của phái tả. Hai anh chị cũng là những nhà giáo có quan điểm sâu sắc về giáo dục. Anh chị đã áp dụng để dạy hai con gái, hai con rể và hai cháu ngoại. Đó là cách thức giáo dục tự do, khơi gợi nhân cách, hướng dẫn cho các cháu tự suy nghĩ, tự kết luận, tự dạy mình, hoàn thiện mình, tạo nên phong cách sống độc lập và tự chủ rất thoải mái, êm ấm mà sâu sắc, vừa rất trí tuệ lại vừa rất tình cảm. Cả nhà sống chân thật với nhau, không mảy may mầu mè, khách sáo, giả tạo, luôn ngay thẳng và tôn trọng sở thích của nhau, tin yêu nhau rất mực. Những lần bé Alise về nhà, cháu cứ đòi vào phòng tôi để chào " tông tông Tín ", thơm tôi rồi mới chịu về. Chị Ngọc có quan điểm dân chủ rất mới mẻ, chính chị yêu cầu là trong đổi mới, mọi người không nên ở trong cấp ủy quá hai nhiệm kỳ, và tập trung làm việc thật tốt trong một thời gian nhất định, rồi sau đó nhường chỗ cho người khác. Có làm như vậy lãnh đạo mới được bồi bổ thường xuyên bởi các lực lượng trẻ kế tiếp và không làm những người bị thay thế có mặc cảm là kém cỏi. Theo đúng tinh thần: tre gìa măng mọc.

Tôi thường đưa chị xem những lá thư tôi nhận được từ Hà Nội. Đó là thư của vợ tôi, con gái, con rể tôi và cả của cháu Quỳnh Anh mới 8 tuổi, cũng như các thư của các chị tôi, ba chị Ở Hà Nội, một chị Ở Hải Phòng và một chị Ở thành phố Hồ Chí Minh. Vợ tôi rất sửng sốt khi nghe tin tôi ở lại và vô cùng lo lắng khi nghe những buổi phát thanh đầu tiên của đài BBC truyền đi, những câu trả lời phỏng vấn của tôi. Cuối một lá thư vợ tôi kể có lần đang đạp xe trên đường phố, có người đạp theo để hỏi thăm, tuy chưa hề quen biết và nhờ chuyển lời hỏi thăm tôi, khuyến khích cả gia đình chịu đựng những khó khăn do việc tôi làm mà ông ấy cho là : can đảm, biết hy sinh cho đồng bào. Qua thư ấy tôi được biết có một số giáo viên quen biết gia đình hứa hẹn rằng : " Chị chớ quá lo, sau này anh ấy về, dù có khó khăn ra sao, bọn tôi sẽ góp phần cho cuộc sống của gia đình...". Tôi xây dưng gia đình tháng 9- 1956. Vợ tôi quê ở thành phố Vinh. Hồi ấy tôi đóng quân tại đó. Tôi luôn đi xa, vợ tôi lo việc nuôi và dạy dỗ 2 con nên người. Vợ tôi là giáo viên, vừa nghỉ hưu năm 1990. Con gái tôi, Bùi Bạch Liên, 34 tuổi, là bác sĩ gây mê hồi sức ở bệnh viện Mắt trung ương. Được thư con gái, tôi ngồi tần ngân suốt cả buổi chiều. Cháu viết : " dù sao con cũng tin ở bố, ở sự sáng suốt và lòng chân thành của bố đối với đất nước. Con chỉ mong bố giữ sức khỏe thật tốt, đó là điều cần thiết nhất. Có những lúc thương bố quá, con chỉ mong được sang ở đó với bố, dù phải đi làm vất vả như rửa bát cũng được, miễn là được chăm sóc bố hàng ngày. Bố mà có làm sao thì đời chúng con chẳng còn ý nghĩa gì nữa..."

Tôi quý Bạch Liên từ nhỏ. Khi đi học, cháu rất chăm và được bạn bè rất qúi mến. Cháu hiền từ, chân thật. Ở bệnh viện nơi cháu làm việc, ai cũng quý cháu, từ viện trưởng là giáo sư Nguyễn Trọng Nhân, đến các chị y tá, lao công. Tính cháu ngay thẳng, có lần cháu kể : " Con rất buồn bố ạ. Thuốc men ở bệnh viện đã thiếu mà có người nỡ đổi thuốc và lấy cắp thuốc của công, cũng là thuốc của bệnh nhân. ". Con rể tôi cũng lo lắng cho tôi. Cháu đã qua môt cuộc thi tuyển để đi học ở trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) về quản lý kinh tế và đã đỗ. Thế nhưng cơ quan cháu là Uỷ ban nhà nước hợp tác và đầu tư với nước ngoài không cho cháu đi nữa, khi có việc tôi làm. Đó là chuyện rất vô lý, vì lẽ ra ai làm người nấy chịu, không thể quy kết bừa là có liên quan...Cháu rất bình tĩnh và viết thư cho tôi: "...con hiểu việc ông làm và tin rằng thời gian sẽ ủng hộ Ông. Con không được đi học nữa, nhưng con khóng ân hận và luyến tiếc một chút gì, con đã lường hết mọi chuyện cho đến mức xấu nhất..." Cháu Quỳnh Anh đã viết cho tôi đến bốn lá thư! Hai ông cháu như là bạn. Có những chuyên riêng của trẻ thơ cháu thích nhỏ to cùng tôi. Trước kia, tôi thường dắt cháu đi vườn hoa, đi mua sách thiếu nhi. Có khi hai ông cháu đi ăn chè, ăn kem. Một bức thư cháu viết : " ông ơi, con nguyền rủa trái tim bệnh tật nó làm cho ông đau..." Cháu xưng với tôi là " con ", rất năng vào bệnh viện thăm tôi hỏi tôi bị cơn đau tim nặng cách đây hai năm. Có bức thư cháu trêu tôi: " ông Thất Tín ơi, con vẫn tin ông Thành Tín và nhớ ông Thành Tín làm. Con đã biết đi xe đạp rồi, nhưng phải có mẹ con đi kèm ở bên cơ. Con đã bỏ vào ống tiết kiệm để dành tiền, con chờ ông về để đi mua sách, mua chuyện với ông..." Tôi bật cười khi đọc thư cháu- vì ông Mai Chí Thọ vừa chơi chữ, chụp mũ tôi là Thất Tín, còn gán cho tôi cái tội phản bội! Thật là quan trọng, vì từ mồm một ông Uỷ viên Bô Chính trị đương chức, lại là bộ trưởng Bộ Nội Vụ. Chắc trong gia đình nói chuyện với nhau về chuyện này, Quỳnh Anh nghe được, nhớ rồi viết, để vừa là trêu, vừa là an ủi tôi. Cháu tính rất hóm hỉnh. Thật đáng thương, từ bé, cháu đã phải sớm biết những chuyện vô lý, kỳ quặc như thế và cũng bắt đầu phải tìm hiểu những điều oan trái như vậy rồi...Tôi nhơ đến con, cháu, con dâu, con rể của các nhà văn Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, cũng đều bị phân biệt đối xử khinh thi, xỉ vả và dè bỉu hàng chục năm ròng. Chỉ vì những người có tâm huyết và tài năng ấy đã nói lên qúa sớm những sự thật.

Có một lá thư, trên phong bì chữ con gái tôi để gọn mấy chữ :

người gửi Quỳnh Anh - Thư đến quán ăn Việt Nam 80 Rue Monge - Paris - Cháu đề như vậy để cho tôi biết là thư gia đình. Thế mà chỉ một tuần sau, ở Hà Nội, cơ quan an ninh quốc gia đã mở một cuộc điều tra xem Quỳnh Anh là ai, làm gì, ở đâu, có phải là người trong nhóm Bùi Tín hay không! Chắc hẳn có người nào đó đã nhìn thấy phong bì và báo cho sử quán Việt Nam ở Pháp. Tôi đã viết thư cho đại sứ Phạm Bình, nguyên là bạn tôi, từng cùng nhau dự các cuộc họp quốc tế ở Indonesia, ở Malaysia, ở úc, nói rõ: " anh nên xem mấy anh phụ trách an ninh của sứ quán làm việc như vậy đó. Có gì xin cứ hỏi tôi. Tôi sẽ trả lời đầy đủ, không dấu diếm điều gì. Vì tôi làm việc này hoàn toàn từ đáy lòng tôi, từ suy nghĩ của riêng tôi, không liên quan đến bất cứ ai, không có phe hay nhóm gì cả! Quỳnh Anh là cháu ngoại tôi, mới lên 8, học lớp 3, trường phổ thông Trưng Vương Hà Nội".

Cũng như hồi cuối năm 1990, đã xảy ra một chuyện rất buồn cười. Số là vào dịp cuối năm, nhân tuần nghỉ từ ngày Thiên Chúa giáng sinh 25. 12 đến ngay Tết dương lịch I. I., các anh em làm báo tiếng Việt ở Tây Âu, trong các hội người Việt thường tụ tập về Paris để trao đổi về tình hình đất nước và nghiệp vụ làm báo. Tháng 12. 1990 vừa qua có hơn 20 anh em từ Đức, ý, Anh, Thụy sĩ, Bỉ, Hà Lan...sang Paris. Anh em mời tôi tham dự vì coi tôi là đồng nghiệp, vào tối 29. 12 ở quán Monge. Một chuyện ngẫu nhiên ngày ấy cũng là ngày sinh nhật của tôi. Có mấy anh biết nên có mấy lời chúc mừng ngắn. Chuyện chỉ có vậy. ấy thế mà có người quan trọng ở sứ quán điện báo cáo về Hà Nội. Và thế là có thông báo của Ban Bí thư cho các chi bộ rằng : Bùi Tín đang tập họp bọn phản động ở Tây Âu về Paris để bàn mưu lật đổ! Tại cuộc họp báo, Bùi Tín có đọc diễn văn và họ còn hô khẩu hiệu phản cách mạng! Tôi đã viết thư về cho ông Dương Thống, người tôi từng quen biết, nay phụ trách Tổng cục An ninh, để nói rõ rằng : " Các anh cần biết bộ hạ của các anh làm viêc như vậy đó! Đầy những chuyện suy diễn, tưởng tượng, bịa đặt...Các anh đã nhận định oan ức bao nhiêu người, làm cho họ bị đối xử bất công, mà nay vẫn chưa tỉnh ngộ và rút kinh nghiệm để sửa chữa. Tôi làm mọi việc ở đây công khai, đàng hoàng, đánh bài ngửa, không có gì khuất tất, ám muội, phải che dấu cả".

Cũng như trước Tết dương lịch, có vợ chồng anh Việt kiều ở Lille về thăm gia đình ở Hà Nội. Tôi nhờ hai anh chị mang về cho hai cháu ngoại hai con búp bê nhỏ. Thế mà cán bộ sứ quán ở Paris chạy đi hỏi hàng chục nơi: " Bùi Tín gửi qùa cho cháu là qua tay ai? có biết không? Sứ quán rất cần tin này! " Tôi gọi điện thoại đến sứ quán nói rõ tên người tôi gửi và nói thêm: " Đây là sự giúp đỡ hoàn toàn về tinh cảm, không mảy may có nghĩa là hai anh chị ủng hộ hay tán thành việc tôi làm, để rồi sứ quán sẽ gây khó dễ cho họ theo kiểu cách họ vẫn thường làm để trừng trị, trả thù vặt một cách vô lý ". Tôi rất xúc động nhận được ảnh chụp hai cháu ôm hai con búp bê qùa của ông ngoại. Mẹ cháu còn kể một tối thứ bảy, hai cháu về nhà tôi như thường lệ, từ dưới cửa hai đứa đã gọi to : " Ông ơi, ông ngoại ơi, ông đã về chưa?..." Và tối ấy lục tủ quần áo tôi ra, dành nhau mấy cái ao để ôm và đắp khi đi ngủ, " để chúng con đỡ nhớ ông! ". Bé Hoài Anh lên 5 rất sáng dạ và hiếu động, khi nhìn thấy ảnh tôi ở trên báo, còn nói to với bà ngoại : " Bà ơi, con nhìn thấy ảnh ông, mà con còn ngửi thấy mùi ông nữa! " Thật ngây thơ và thương cảm qúa!.

Con gái tôi sống rất tế nhị và tình cảm. Khi con trai tôi, Bùi Xuân Vinh, đi Hồng Kông với vợ chưa cưới, Bạch Liên buồn vì nhớ em vô cùng. Cháu gầy hẳn đi và sưu tầm tất cả những gì của em để cất giữ làm kỷ niệm. Nay cháu càng buồn : " Gia đình ta thế là chia thành 3, 4 nơi! Biết bao giờ mới găp lại nhau cho đủ! ". Hai chị em quấn quít nhau từ bé. Khi cháu Vinh mới đẻ, gia đình còn ở phố Bùi Bằng Đoàn trong thị xã Hà Đông (thật là ngẫu nhiên chúng tôi được ở phố mang tên cha tôi. Nhà do sở Giáo dục tỉnh Hà Tây phân phối cho vợ tôi là giáo viên) cả phố đều biết cháu vì tiếng khóc như còi. Khi di vườn trẻ, cháu được cổ giáo Tám qúy và gọi là : thằng Bống cuả cô. Cháu năng động, yêu thể thao và âm nhạc. Cháu thích chơi đàn phong cầm, ghi- ta, có đôi tai sành âm nhạc. Đá bóng rất hăng, chơi quần vợt cũng không kém. Cháu đã có bằng kỹ sư cơ khí trường Đại học Bách khoa, tự học tiếng Pháp rồi tiếng Anh. Cháu nói tiếng Anh cũng tốt. Vợ chưa cưới của cháu là Hoàng Lệ Hằng học đến năm cuối trường Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà Nội, khóa tiếng Anh- Hai cháu xuống Hải phòng, rồi là "thuyền nhân" trên một chiếc tàu cũ. Trải qua 26 ngày đêm căng thẳng, sóng gió mới đến Hồng kông vào tháng 3. 1989. trong trại kín, đến tháng 7. 1990 hai cháu mới được ra phố tự do, hiện chờ ngày đi Hoa kỳ, do cô em tôi ở California bảo lãnh. Tôi nhớ con đến day dứt- đứa con trai duy nhất của tôi, cháu đích tôn duy nhất của cha tôi - vừa tự hào và yên lòng, vì cháu có nét riêng. Chan hòa với bạn bè, cháu được bạn tin cậy và quý mến. Tôi cũng mừng vì cháu có tinh thần tự lập, ý chí quyết đoán làm chủ đời mình, khát vọng được học thêm để thành tài. Cháu chỉ kịp xin giấy kết hôn với người yêu ở quận Đống đa (Hà Nội) chiều hôm trước, sáng hôm sau cùng nhau xuống Hải Phòng để lên đường. Vợ cháu thuộc một gia đình trí thức, dản dị, thanh bạch, rất hợp với nếp nhà tôi, hai cháu lại hợp nhau. Tháng 4 vừa rồi, cháu gửi thư cho tôi có đoạn:

".. Con luôn tin rằng đất nước rồi sẽ phải thay đổi. Nhân dân, nhất là thanh niên không thể chịu được mãi cảnh thiếu thốn, nhất là thiếu quyền dân chủ. Con hiểu tình hình đất nước ta là cực kỳ vô lý. Nhìn vào lịch sử, không bao giờ những chế độ cầm quyền không được lòng dân lại được lâu bền. Người dân chưa dám nói ra vì còn sợ đủ thứ, nhưng nhất định tình hình sẽ thay đổi- Con tin rằng gia đình ta sẽ đoàn tụ trong nỗi vui mừng của cả nước được tự do. Chúng con chỉ mong bố giữ thật tốt sức khỏe. Bố chớ lo gì cho chúng con. Chúng con đang chờ để sang với cô chú, nhưng có việc làm, nên cũng không sốt ruột như dạo trước..." Các chị tôi rất lo lắng cho tôi. Vì tôi tuy là con thứ 8 trong gia đình 10 người con, nhưng là con trai đầu. Hai chị lớn tôi mất từ hai, ba năm trước. Cả năm chị hiện còn đều thỉnh thoảng viết thư cho tôi và hàng ngày tụng kinh, cầu nguyện cho tôi. Gia đình lớn của tôi sống rất tình cảm, gắn bó - Hằng năm, ngày kỵ giỗ chính đều có mặt đông đủ tất cả các anh chị, em. Con cháu ngày càng đông. Nếp sống của gia đình thuộc dòng họ lớn là thế. Các chị tôi với hai anh em trai tôi (tôi và chú em Bùi Nghĩa, giáo sư y khoa) sống thuận hòa. Chúng tôi thương yêu, dùm bọc nhau, từ hồi tôi còn rất nhỏ, cho đến khi lớn, trưởng thành và cho đến tận ngày nay không hề gợn lên một điều gì bất thường xung khắc cả. Giáo dục trong một gia đình nề nếp mang tác dụng bền lâu. Sống ngay thật, không luồn cúi, không buông lỏng chạy theo tiền tài, danh vọng để rồi tham nhũng, hư hỏng là một định hướng sống đã thành máu thịt. Các chị tôi đều sửng sốt, bất ngờ trước việc làm của tôi hiện nay, nhưng đều tin rằng, việc làm ấy là từ một động cơ trong sáng. Song ai cũng không khỏi lo lắng cho số phận của tôi, vì e rằng kết qủa không chắc chắn, mà lại còn có thể chuốc họa cho bản thân và gia đình.

Em gái tôi hiện ở California, thường liên lạc qua thư từ và điện thoại với tôi. Đây là cô út, cả gia đình đều qúy mến. Cô từ Sài Gòn qua Mỹ cùng chồng tháng 4. 1975, đều là công chức dưới chế độ cũ. Chồng cô là cháu gọi cụ Nguyễn Thượng Hiền bằng bác ruột, người cùng làng Liên Bạt, _ng Hòa, Hà Sơn Bình. Em tôi có một con gái đã lấy chồng. Hai vợ chồng là kỹ sư cấp cao, ngành tin học. Trong một bức thư gửi cho tôi, con rể cô báo tin vừa sanh con gái đầu lòng và viết : " Cháu rất cảm động đọc thư bác bày tỏ nỗi lòng của mình với đất nước. Mong mỏi con dân nước Việt trong cũng như ngoài nước noi gương Lý Công Uẩn: " canh khuya chẳng dám co chân duỗi, chỉ ngại non sông xã tắc xiêu ", thì nước ta có cơ thoát vòng hoạn nạn. Bác đã gióng tiếng chuông chính trị lên rồi, bọn cháu hy vọng những người hiểu biết ở cả hai phía sẽ đứng dậy..."

Gần đây khi được biết ở Hà Nội, có người chụp mũ cho tôi là kẻ "phản bội", cô em tôi cản ngăn tôi chớ có trở về, khuyên tôi sang Hoa Kỳ ở, có sẵn nhà cửa, rồi sẽ dọn gia đình tôi sang đoàn tụ. Tôi rất hiểu tình cảm của cô em tôi, nhưng tôi trả lời tôi dứt khoát trở về. Trong cơn nước sôi lửa bỏng của nhân dân, không thể bỏ chạy, lo cho riêng mình được.

Các anh chị em còn ông bác ruột tôi cũng chung nỗi lo tương tự, khi sinh thời, cha tôi và các ông bác, bà cô tôi ứng xử đối với tất cả những thành viên trong họ hàng thân thuộc như chung một mái nhà vậy. Ông chú họ tôi năm nay gần 80 tuổi, hiện là bậc trên nhất của dòng họ, cũng nhắn tin, cổ vũ, căn dặn tôi : phải tỉnh táo, cẩn trọng trong mọi việc làm, tâm niệm giữ lòng ngay thật vì dân, vì nước...

Tôi cũng nhận được hơn một trăm lá thư của bè bạn. Vì an toàn của các bạn ấy, tôi không thể kể tên và địa chỉ ra đây. Có người rằng phải trung với đảng, hiếu với dân, song giờ đây anh lại đóng vai trọng tài phán xét, phủ nhận với luận điệu xuyên tạc cả quá khứ và hiện tại..."

Một số anh em ở báo Quân đội nhân dân đã đáp ngay lại bằng một bài báo ký tên " Bút bi chiễn sĩ " gửi cho tạp chí " Nhà báo và Công luận ". Tất nhiên bài này không được đăng. Anh em sao lại, gửi cho tôi. Trong có đoạn: "...Chúng tôi sửng sờ đọc bức thư ngỏ " Gửi anh Bùi Tín " của Tuấn Minh đăng trên tập san Nhà báo và Công luận. Những người cầm quyền lo sợ cái đứng đắn, hợp lòng dân qua " bản kiến nghị của một công dân " và các buổi phỏng vấn truyền thanh của Thành Tín đã mộ được một lính đánh thuê mẫn cán!"

Bài báo kkông hề nói đến nội dung đầy chân lý của bản kiến nghị và lời giải thích trên đài, vì không ai làm nổi việc bác bỏ nó cả. Có phải cơ hội hòa hợp và hòa giải dân tộc đã bị bỏ lỡ? Có phải chiến lợi phẩm và tài sản qua cải tạo tư sản và gian thương phần lớn đã bị tiêu tan? Có phải tuổi trẻ, trí thức, văn nghệ sĩ có tài năng và tâm huyết đã bị khinh thường và trù dập? Có phải những vụ án "xét lại ", " chống đảng ", " phản động " là bất công, cần minh oan? Có phải lăng Bác Hồ, cầu Thăng Long, Thủy điện Hòa Bình là trái với đạo lý dân tộc và coi thường giới kỹ thuật? Có phải di chúc của bác Hồ bị cắt xén và sửa chữa là coi thường người chết và coi thường người dân? Có phải tệ giáo điều và duy ý chí đã gây tai họa vô cùng? Có phải tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi lan tràn là do đảng độc quyền lãnh đạo, bóp nghẹt dân chủ?...Tất cả đều là sự thật.

Tuấn Minh không dám bác nội dung, chỉ dùng lời lẽ vu cáo, bôi đen, kiểu tiểu nhân, đánh ngưới vắng mặt để hòng lập công và tiến thân. Tự nhận là đồng chí, đồng đội, đồng nghiệp mà phản bạn, phản bội chân lý.! Khi còn ở báo Quân đội, Thành Tín và Tuấn Minh là hai thái cực mà chúng tôi nhận thấy rất rõ. Thành Tín ngay thẳng, khiêm tốn, say nghề làm báo bao nhiêu, thì Tuấn Minh thủ đoạn, đạo đức giả, nịnh trên, nẹt dưới, bất nhân với anh em bấy nhiêu...

Chúng tôi thấy cần vạch mặt kẻ cơ hội mao- ít trước công luận và nhờ gia đình anh Thành Tín chuyển đến anh sự ngưỡng mộ và tin cậy của những người làm báo trẻ- quân nhân chúng tôi. Anh là tấm gương sáng cho mọi người làm báo, khi đất nước và nhân dân đang trong cảnh nước sôi, lửa bỏng này..."

Tôi còn nhận được hơn 80 bức thư của bạn nghe đài trong nước viết cho tôi hoặc viết về tôi được gửi cho đài phát thanh BBC ở Luân Đôn, hoặc qua bưu điện Paris, chưa kể hơn 100 bức thư của các bạn Việt Nam hải ngoại (ở Pháp, Mỹ, úc, Canada, Tiệp Khắc, Đức, Liên Xô, Bulgariẹ..). Còn qua điện thoại thì không sao kể xiết. Các nhà báo, phóng viên truyền thanh, truyền hình Pháp, ý, Anh, Bỉ, Hòa Lan, Nhật Bản, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nauy, Thái Lan, Hồng Công, Singapore, Indonesia, Philipin...từng quen biết hoặc chưa quen biết, đều gọi tới để phỏng vấn, trao đổi ý kiến, hỏi thăm sức khỏe hoặc tình hình riêng của tôi. Tôi đã ghi kín cả ba bốn cuốn sổ tay, tên địa chỉ và số điện thoại những bạn bè cũ và mới, thuộc đủ các giới, nghề nghiệp, quốc tịch và chính kiến...Thế mới biết dư luận còn quan tâm nhiều đến tình hình đất nước ta.

Một lá thư đề ngày 17. 4. 1991 của tập thể các em học sinh trường phổ thông trung học Lê Hồng Phong thành phố Hồ Chí Minh viết:"...học sinh chúng em rất ủng hộ bản kiến nghị của ông Bùi Tín và rất phẩn nộ trước thái độ thờ ơ của chính phủ. Chúng em mong anh Đỗ Văn phát lại phỏng vấn cho cả nước nghe một lần nữa..."

Một em học sinh (tôi không thể ghi tên em) lớp 12 G, trường phổ thông trung học Kim Thành, huyện Kim Yên, Hải Hưng viết: "...với trình độ hiểu biết của học sinh trung học, chúng em cũng có thể nhận thấy những điều ông Bùi Tín phát biểu trên đài BBC là hết sức thực tế và trách nhiệm. Dù sao đến lúc này, đất nước ta đã có một người dám đứng lên nói tiếng nói của nhân dân. Cho phép chúng em gửi lời cám ơn ông Bùi Tín và xin đài BBC cho chúng em biết địa chỉ của ông Bùi Tín hiện nay ở đâu...". Một bức thư khác đề ngày 7. 2. 1991 từ thành Phố Hồ Chí Minh viết "...ông Bùi Tín vừa bị khai trừ ra khỏi đảng và bị cách chức, tôi cho đây là một tin mừng. Trước hết tôi mừng cho ông Bùi Tín. Đảng lấy oán trả ân là đảng phụ Ông chứ ông không phụ đảng. Đồng bào trong nước ai cũng biết và ái mộ Ông hơn nữa. Tôi biết rất nhiều cán bộ và đảng viên cho rằng ông nói rất đúng, nhưng trong các buổi sinh hoạt họ vẫn phải buộc lên án ông..."

Bạn H. P. Ở thị xã Sơn Tây viết: "...cho tôi gửi lời thăm ông Bùi Tín và chúc ông kiên trì trên con đường của mình. Tham quyền, tham nhũng, bảo thủ đang ở khắp nơi. Những người dân chúng tôi chỉ có cái thắt lưng to để thắt bụng. Hình như những người lãnh đạo đang có lý tưởng làm nghèo đất nước!..."

Bạn V. H. Ở Nha Trang viết: " Tôi rất khâm phục ông Bùi Tín vì ông đã nói lên được những điều mà người dân Việt Nam chỉ được phép chứng kiến bằng mắt chứ không được quyền nói lên bằng lời. "

Một lá thư của bạn nghe đài ở Hậu Nghĩa để ngày 25. 3. 1991 viết:

"Thưa đại tá! Đảng bởi dân mà ra, đảng bởi dân mà còn. Dân không khai trừ đại tá ra khỏi đảng, thì không ai có quyền khai trừ cả. Đại tá vẫn là đảng viên của dân.

Mất hàng triệu đảng viên xấu không bằng mất đi một đảng viên biết thương dân...có người dân sẵn sàng hiến dâng trái tim mình để đại tá phẫu thuật thay tim mới, hầu bệnh tim không còn. Toàn dân đang cầu nguyện cho đại tá bình phục và chóng thành đạt...xin đại tá an tâm, toàn dân, bộ đội cùng đảng viên chân chính không bỏ đại tá đâu..."

Anh N. D. V. Ở thành phố Hải Phòng trong thư đề ngày 15. 1. 1991 viết: " Nhờ qúy đài chuyển tới ông Bùi Tín lời đồng tình, ủng hộ của chúng tôi đối với những quan điểm, chính kiến của ông trong mục đích đưa đất nước thoát khỏi tình trạng hiện naỵ.."

Anh T. V. Ở Hà Nội viết: " Anh Thành Tín đưa ra kiến nghị là môt tín hiệu khởi sắc đang được lưu ý trong trào lưu dân chủ hóa ở Việt Nam, nó báo hiệu rằng, trong thời vận hiện nay, trào lưu ấy đang từng bước tiến tới chỗ chín muồi..."

Ông C. A. D. Ở Cần Thơ, Hậu Giang trong một bức thư dài có đoạn viết: " Xin thông tin ngược với anh chị Ở đài BBC rằng, các buổi phát thanh của ông Bùi Tín thật là xuất sắc. Xuất sắc ở chỗ người thực hiện và xuất sắc ở con người Bùi Tín. Nhiều người đã nghe và rất đồng tình với ông Bùi Tín..."

Một lá thư khác gửi cho tôi viết: "...anh đã gây một chấn động rất lớn qua các buổi phỏng vấn. Việc làm của anh làm sôi động dư luận trong nước, bất cứ nơi nào tại Sài Gòn, những người có học vấn và quan tâm đến tình hình trong nước đều bàn luận và tán thành việc làm của anh...đến nỗi Mai Chí Thọ, em ruột Lê Đức Thọ, bộ trưởng Nội Vụ đã phải lên tiếng thóa mạ anh. Tôi xin ca ngợi anh Đỗ Văn đã làm đầy đủ chức năng của một người làm công việc truyền thông, giúp cho nhà biết được sự thật rất nhiều sự thật".

Tháng 1 năm 1991 một lá thư của nhóm Việt Kiều yêu nước ở Trung Quốc gửi cho tôi viết: " Chúng tôi rất ái mộ tấm lòng dũng cảm và yêu tổ quốc của ông. Song chúng tôi can ông rằng: " Ông chớ vội về Việt Nam trong lúc này, e rằng nếu không chết mất tăm trong nhà tù, thì cũng bị quản thúc không hoạt động được gì. Xin ông hãy nán lại ở ngoại quốc để làm việc có lợi cho dân tộc và đất nước..."

Một em học sinh ở đảo Lại Sơn viết cho tôi, giọng thư thật vô cùng cảm động: "...em vừa được nghe đại tá bị khai trừ và cất chức. Em học lớp 12, cuối cấp ba, nên cũng hiểu được phần nào về chính trị, nên rất qúy trọng ông, một con người dũng cảm và sáng suốt, nói một cách rất thẳng thừng về xã hội Việt Nam..."

Một bức thư dài từ Quảng Ngãi đề ngày 10. 3. 1991 của bạn P. V. M. Ở Mộ Đức gửi cho tôi viết: " Xin báo tin để ông biết, đời sống công nhân, viên chức đất Quảng quá khổ - Một nữ giáo viên lương một tháng có 35. 000 đồng, có người phải đi làm để nuôi con dại vì một lon sữa ngoại 12. 000 đồng. Một số cán bộ phải đạp xe xích lô suốt đêm để nuôi sống gia đình, và còn cái nạn thất nghiệp nữa, khẩu hiệu được truyền bá hằng ngày nghe thật haỵ..

• Tất cả vì dân.

• Đảng viên, cán bộ là đầy tớ của nhân dân

• Lo trước cái lo của dân, sướng sau cái sướng của dân

• Không có chế độ nào dân chủ hơn chế độ tạ..

Những Khẩu hiệu ấy chỉ là lừa dối người dân, nghe không lọt được lỗ tai! Tôi nhớ câu châm ngôn của người Anh :

Người ta có thể lừa dối một số người mãi mãi, hay lừa dối tất cả mọi người một thời gian nhất định. Nhưng không ai có thể lừa dối mãi mãi tất cả mọi người!

Kẻ lừa dối cứng đầu cuối cùng ắt phải bị chỉ mặt và bị trừng phạt. "

Tôi cũng nhận được 21 lá thư của bạn trí thức, lao động, hiện đang sống, làm việc ở Đức, Tiệp Khắc, Bulgarie và Liên Xô. Những bức thư kể về hoàn cảnh khó khăn của anh em đi xuất khẩu lao động, những vụ xô sát do kỳ thị chủng tộc của một số dân nước sở tại, thái độ vô trách nhiệm, bạc nhược và tham nhũng của một số nhân viên sứ quán Việt Nam, cũng như những lòng tốt của những người dân thương, trí thức và lao động các nước đó. Anh chị em rất chú ý đến bản kiến nghị của tôi và tỏ thái độ hoan nghênh rất mạnh mẽ. Ở Đức, Tiệp Khắc và Bulgarie đã tự xuất bản một số tờ báo theo xự hướng dân chủ, hòa hợp, đa nguyên, không bạo động...Đó là những tờ báo Diễn đàn, Dân chủ, Cánh én, Điểm tin...in chưa thật đẹp nhưng mang nội dung đặc sắc, có đủ thế tài: ngôn luận, bình luận, phóng sự, điều tra, diễn đàn, truyện ngắn, thơ, tóm tắt tình hình trong nước, và tình hình quốc tế. Có bức thư viết: " Chúng tôi có thể đi buôn để kiếm sống, làm giầu cho bản thân và gia đình, mua xe ôtô, tậu nhà, để dành vốn lớn để tiêu xài. Nhưng còn đất nước và đồng bào ta thì sao? Lúc này phải cứu dân, phải cứu nước ra khỏi đói nghèo và lạc hậu. Có ra ngoài mới biết nước ta chậm tiến cả về chính trị, kinh tế và mức sống. Mà chậm tiến về chính trị, không có dân chủ là tai họa lớn nhất, là cái gốc của sai lầm và đau khổ..."

Một kỹ sư thay mặt cho " một nhóm các trí thức trẻ ". từ Tiệp Khắc về nước năm 1990, viết một lá thư dài cho tôi ngày 10. 3. 1991, có đoạn viết: " Trở về Tổ quốc, chúng tôi hoàn toàn thất vọng. Tình hình chính trị Việt Nam mới vang lên được vài tiếng nói dân chủ thì nay đã bị thay thế bởi những quan điểm cực hữu theo quan điểm Stalin và Mao. Thêm vào đó là rối loạn về kinh tế, lạm pháp về tài chính, sự tự cô lập về đối ngoại, làm cho cuộc sống của người dân vô cùng đau khổ. Qua thư này chúng tôi muốn bầy tỏ sự ủng hộ và đồng tình với quan điểm chính trị của ông. Chúng tôi đều cho rằng:

• 1- Cần phải tranh đấu chấm dứt sự chuyên quyền của một đảng, chuyển sang một thể chế đa nguyên, thể hiện dân chủ theo nguyên tắc công khai và tự do (tự do ngôn luận, tự do lập hội, báo chí.)

• 2- Cần tập hợp đông đảo trí thức, những người yêu nước, những thanh niên khát khao tự do và dân chủ...trong một tổ chức chính trị tổ chức tranh đấu thắng lợi.

• Những bản kiến nghị của những trí thức có tâm huyết vừa qua là tấm gương dũng cảm cho những ai thật sự yêu nước, thương dân và cho những người có lương tri, hiểu biết.

• 3- Cần phối hợp với quốc tế, kêu gọi sư ủng hộ và giúp đỡ nhiều mặt của quốc tế, của cả tổ chức dân chủ và từ thiện, xã hội...cho phong trào dân chủ ở Việt Nam.

• 4- Mục đích cuối cùng là: Xây dựng ở Việt Nam một xã hội dân chủ, một nhà nước pháp quyền thật sự do dân lựa chọn và tự do thật sự vì dân, xây dựng một chế độ đa nguyên là động lực của sự phát triển đất nước..."

• Đất nước ta vừa qua có đến gần 20 vạn người, phần lớn là thanh niên, đi xuất khẩu lao động. Đã có hơn 80. 000 đã trở về, mang những ước vọng sâu sắc về dân chủ và tự do. Anh chị em đã sống ở nước ngoài, nhận biết được nhiều thông tin trực giác ở các nước sở tại, cũng như từ nhiều nguồn thông tin đại chúng đồ sộ khác của nhiều quốc gia. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Có điều kiện để so sánh một cách thực tế và rõ ràng, anh chị em đang nung nấu một hoàn bão rất trẻ, rất khỏe về dân chủ hóa đất nước...

• Một bác nông dân ở Minh Hải đọc cho con viết một lá thư bốn trang lớn gửi cho tôi. Bác kể:

• " Cả gia đình tôi rất siêng nghe BBC, nhứt là từ khi ông đưa kiến nghị. Vậy là người dân Nam Bộ biết được ông là người cùng ông Vũ Kỳ bí thơ cụ Hồ đưa ra công khai toàn bộ Di Chúc cụ Hồ mà họ đã cắt bớt không cho dân biết. Nhờ vậy, người dân mới được giảm thuế 50 phần trăm liền hai năm. Chúng tôi gửi lời cám ơn ông nhiều lắm. Ruộng đất là do công khai phá của tiền nhân, của cha ông để lại cho con cháu. Tiền nhân đổ mồ hôi và máu xương đất ruộng này. Ruộng này của nhân dân chớ! Chúng tôi yêu cầu trả lại ruộng cho nhân dân, trả lại quyền sở hữu chủ cho nông dân. Có quyền sở hữu đất ruộng, các gia đình mới đầu tư, ráng hết sức sản xuất, làm ra thiệt nhiều lúa gạo. Nông dân chúng tôi đòi chuyện này cho tới cùng đó. Các ông nói ruộng đất của toàn dân là nói sai, họ dành hết ruộng tốt chia cho bọn cường hào mới. Phải trả lại ruộng cho nông dân để người cày có ruộng". Bác nông dân đã nói lên khát vọng có lý lẽ của người nông dân nước ta.

• Tôi rất chú ý đến một số bức thư của anh chị em trí thức ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Huế...Điều lý thú là những lá thư ấy không chỉ tán thành những ý kiến của tôi, mà còn đề ra những ý kiến mới, chứng tỏ ở nước ta còn có biết bao nhiêu người đang cùng suy nghĩ về hiện tình đất nước, cố tìm ra những giải pháp thích hợp. Có thể nói những lá thư này truyền cho tôi thêm nghị lực và niềm tin. Một giáo sư ở thành phố Hồ Chí Minh viết : " Noi theo anh, tôi cũng mạnh dạn nêu lên một " bản chương trình toát yếu " gồm 5 điểm như sau:

• 1- Đảng cộng sản Việt Nam ra tuyên bố tự nguyện xác định lai. vị trí chính trị của mình, từ bỏ ưu thế độc tôn, chuyên quyền trong 15 năm qua trên phạm vi cả nước. Đảng chỉ có thể dành ưu thế chính trị thông qua đua tranh với các tổ chức chính trị khác một cách bình đẳng, tự do, trong khuôn khổ một hiến pháp mới. Phải xóa bỏ cơ chế chính trị xã hội phi dân chủ đã lỗi thời.

• 2- Giải thể quốc hội và chính phủ hiện nay, thành lập quốc hội và chính phủ mới trên cơ sở tổng tuyển cử thực sự dân chủ, tự do và bình đẳng. Quốc hội mới tập trung dự thảo và thông qua hiến pháp sửa đổi, luật mới về ứng cử, bầu cử, luật kinh tế, luật về tổ chức hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát thanh, truyền tin, truyền hình). Nếu cần thì trưng cầu ý kiến toàn dân về một số vấn đề cơ bản nhất.

• 3- Giải thoát ý thức hệ hiện hữu khỏi những thiên kiến cũ kỹ, không áp đặt những chủ thuyết lỗi thời cho dân tộc. Xây dựng ý thức hệ tự do, đa nguyên, phù hợp với nền văn minh thời đại, đã được kinh nghiệm lâu dài của các nước tiến bộ kiểm nghiệm. Thực sự tự do tín ngưỡng, đòi sự bình đẳng, công bằng với các tôn giáo.

• 4- Thực hành phi quốc doanh hóa nền kinh tế theo quy luật tự nhiên của cơ chế thị trường. Chỉ giữ lại những cơ sở lớn cần thiết. Lấy sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất làm nền tảng của nền kinh tế quốc dân.

• 5- Giải tỏa mọi tư tưởng kình chống, định kiến với một số quốc gia trên thế giới. Thiết lập mọi bang giao bình thường với mọi quốc gia, đặc biệt với những cường quốc hàng đầu. Xin gia nhập chính thức ngân hàng thế giới WB và qũy tiền tệ quốc tế FMI, giao hoàn toàn vấn đề Campuchia cho người Campuchiạ..

Với kiến nghị của anh Thành Tín, của nhiều bậc thức giả khác, lối ra đã sáng tỏ, ngọn đèn xanh hy vọng đã bật sáng, hỡi những ai có lương tri và tâm hồn dân tộc, hãy hưởng ứng bằng mọi cách với lòng dũng cảm phi thường!..."

Vậy là không phải chỉ có những chính kiến của ông Nguyễn Khắc Viện, ông Hoàng Chí Minh, ông Lê Giản, ông Lữ Phương, ông Phan Đình Diệu...mà còn biết bao nhiêu ý kiến xây dựng, rất bổ ích và thức thời khác nữa đều bị bóp nghẹt và ngăn chặn truyền bá, coi như nguy hiểm cho trật tự và an ninh của đất nước!

Tôi biết ơn tất cả những bạn bè đã quen hoặc chưa biết mặt đã ủng hộ hoặc cổ vũ tôi.

Sau Tết âm lịch, hai nghệ sĩ cải lương là Đức Hậu, Ngọc Huyền từ thành phố Hồ Chí Minh sang biểu diễn ở Paris đến dự một cuộc họp mặt thân mật với Việt kiều. Tại đó, tôi ngồi gần nữ nghệ sĩ cải lương Kim Chung. Bà sang Phap từ lâu. Tôi nhớ khi còn nhỏ đã xem vở tuồng " Đổng Trác hý Điêu Thuyền " rất mùi mẫn. Bà ngồi cạnh một bà bạn đã lớn tuổi, tóc bạc trắng - Vô tình tôi nghe được câu chuyện của hai bà. Bà bạn nghệ sĩ Kim Chung kể : " Tôi vừa ở Hà Nội về hôm kia. Bà biết không, ở Hà Nội người ta tòan bàn về chuyện ông Bùi Tín. Cứ buổi tối, đang ở đâu là người ta lại xem đồng hồ để trở về nhà nghe đài BBC, nghe ông Bùi Tín nói. Hay không thể tả được! Đúng là không thể tả được! Ai cũng bảo các ông ấy chịu nghe ông Tín thì tốt biết bao nhiêu!" Chị Kim Chung, vốn biết tôi từ hôm trước Tết do tôi được chồng chị- anh Bàu Long - giới thiệu, cứ nhìn tôi mỉm mỉm cười, gật gật đầu. Sau đó chị nói với bà bạn: " Thế chị đã gặp ông Bùi Tín bao giờ chưa? Đây, ông ấy đây này, xin giới thiệu với chi...." Thế là tôi được nghe kể những chuyện rất cụ thể, cảm động về thủ đô, lại là những chuyện mới nhất.

Cũng tối ấy tôi gặp lại một số anh chị em ở sứ quán Việt Nam. Bắt tay, chào hỏi bình thường, chúc nhau sức khỏe...Từ hồi tháng 9, 10 tôi đã nhiều lần đến sứ quán, trước khi tôi đưa ra bản kiến nghị.

Đại sứ Phạm Bình lại là bạn khá thân. Ông Bình mời tôi đến chơi ngay khi tôi đến Paris, đang ở khách sạn do báo L'Humanité thu xếp. Ông muốn biết thêm về tình hình nên yêu cầu tôi nói về những nội dung, tinh tiết cụ thể về nghị quyết trung ương lần thứ 9 (vừa họp cuối tháng 8. 1990). Sau đó ông lại mời tôi một bữa cơm riêng ở sứ quán, nghe kể về kết quả cuộc hội thảo về tướng Lơclec. Tiếp đó ông mời nhà văn Nguyễn Đình Thi và tôi đến bàn việc chúng tôi xuống Marseille dự cuộc họp bàn tròn về quan hệ Pháp - Việt, có bà Hoàng Xuân Sinh và bà Dương Quỳnh Hoa tới dự. Đầu tháng II, ông mời tôi đến dự quán nói chuyện cả một buổi chiều cho tất cả cán bộ của sứ quán (kể cả cơ quan thông tấn xã Việt Nam, đại diện kinh tế, ngân hàng, văn hóa Việt Nam ở Paris) về tình hình đất nước. Tôi đã nói khá rõ về hiện tình mọi mặt của đất nước và một vài khía cạnh chính kiến của tôi mục đích đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Khi kết thúc, một số anh chị em cán bộ trẻ đến gặp tôi, nói lên những nỗi băn khoăn của họ về tình hình sa sút về các mặt của xã hội và nhận xét: các ông cán bộ sang đây toàn nói những mặt tốt giả tạo, "chỉ có chú là nói lên tình hình thật, thư bọn cháu nhận được của gia đình còn bị đát hơn nữa kia ".

Tôi được biết, ngay sau khi tôi đưa bản kiến nghị đến sứ quán để chuyển về nước, Ban Bí thư trung ương đảng điện ngay sang cho đại sứ ở Paris yêu cầu được báo cáo rõ thêm những tin tức về tôi. Họ hỏi rằng Bùi Tín làm việc này là do quan hệ với những ai, chịu ảnh hưởng của người nào, bị những người Việt hay người nước ngoàilôi kéo? Tôi cũng sớm được biết ông đại sứ Phạm Bình đã điện về nước rằng : theo chỗ ông ta hiểu và đánh giá thì Bùi Tín làm việc này do tự cá nhân mình và tự chuẩn bị khi còn ở trong nước. Ông ta viết thêm : Mấy năm nay tôi đã nhiều lần làm việc và đi họp với anh Bùi Tín. Do đó biết rằng anh ấy vốn có những ý kiến riêng của mình đã nhiều năm nay rồi".

Đây là một thái độ trung thực của ông Phạm Bình. Tất nhiên ông rất không tán thành và không bằng lòng với việc tôi làm nhưng ông vẫn cho người tiếp xúc hoặc gọi điện thoại cho tôi để hỏi thăm sức khỏe và mặt khác tìm hiểu thêm về tôi. Tôi vẫn gặp, nói chuyện với cán bộ sứ quán một cách bình thường. Một số quan chức cản ngăn, phê phán việc tôi làm, nhưng một số anh chị em trẻ hơn thì tỏ thiện cảm, thậm chí rất thông cảm với tôi. Vài người còn vượt qua cả những rằng buộc của cơ chế, những nguy hiểm có thể chuộc lấy cho mình để thăm hỏi và giúp đỡ tôi chút ít về vật chất. Để tránh tai vạ cho những anh chị em ấy, tôi đã hết sức cám ơn và xin phép chưa nhận những sự giúp đỡ qúy báu vô cùng ấy. Thậm chí gần đây, do tôi còn ở lại Pháp ít lâu nữa, một số anh chị em sứ quán gián tiếp hỏi thăm, an ủi và lo rằng tôi sẽ buồn trong khi chưa trở về nước. Những tấm lòng không thể nào quên!

Một số anh chị em Việt kiều ở Mỹ và Canada gửi thư và điện cho tôi. Chị Tương Như, nữ ký gỉa khá nổi tiếng của báo Mercury News phỏng vấn tối qua điện thoại, rồi viết ngay bài đăng báo. Những bức thư điện tử (electronic mail) đến rất nhanh, trong nháy mắt, truyền cho tôi tức thời hình chụp rõ từng nét chữ của các bạn ấy, qua máy fax của một luật sư và một nhà kinh doanh rất có lòng với đất nước. Anh chị em gửi sang cho tôi những tập báo tiếng Việt ra hàng ngày và hàng tuần ở bên đó.

Có những bài báo lên án tôi kiểu chửi bới, nào là Bùi Tín là "cuội ", tức là giả vờ phê phán để chuẩn bị cho một thay đổi nào đó, nào là phải vạch trần bộ mặt cò mồi của Bùi Tín, nào là : đây là một vụ trá hàng! Hoặc : đây là một khổ nhục kế của Hà Nội. Lại có báo chí rõ : Bùi Tín còn tự nhận là cộng sản, còn bênh vực chủ nghĩa xã hội thì vẫn còn là kẻ u mê, tăm tối...Có bài nhận xét tôi là một kẻ tay sai của một nhóm nào đó được cử đi để dọn đường, vận động cho một số đổi mới mi- ni sẽ được đề ra ở đại hội 7, nhằm mở xúp páp, làm xì hơi sự bức bội của dân chúng, một trò chiến tranh tâm lý nhăng cuội rẻ tiền. Cũng có bài báo chỉ trích tôi rằng chỉ chằm chằm vào một mục đích cứu đảng khỏi cơn khủng hoảng, chứ không hề có ý định cứu nhân dân ra khỏi thảm họa, rằng chỉ có một vấn đề là cứu nhân dân còn đảng cộng sản phải cút xéo, phải xuống đài, giải thể, thậm chí phải đưa ra xử tội. Cũng có bài báo chỉ trích tôi rất nặng lời : còn ca ngợi công lao của ông Hồ Chí Minh thì còn là một kẻ cuồng tín, vì ông Hồ là kẻ có tội lớn nhất!

Cũng có người cho rằng, tôi còn chưa xin tỵ nạn chính trị, còn tính chuyện trở về là chưa thể tin được : Họ còn ra điều kiện : tôi phải gia nhập tổ chức quốc gia chống cộng thì mới có thể đoàn kết, bắt tay, hòa hợp được...

Cũng có bài phê phán tôi là thái độ nhập nhằng, không rõ ràng. Họ nhận xét tôi theo chủ nghĩa cộng sản, ở trong đảng cộng sản lâu quá rồi cho nên nay bỏ thì thương, vương thì tội, không dứt khóat được. Họ bảo tôi ở trong tình trạng bế tắc, bị kẹt cứng giữa " hai làn đạn ", bơ vơ, lạc lõng, cứ thế này thì không có lối nào thóat cả...

Lại có những người quá khích, cực đoan, một mực chủ trương dùng bạo lực, chuyển lửa bạo động về quê hương, gây nội chiến, một chủ trương mù quáng, dại dột, chỉ đẩy người dưới quyền họ vào cái chết vô ích. Họ chống lại tôi khá quyết liệt là lẽ đương nhiên. Lại có những bài báo mở ra những cuộc tranh luận về tôi. Bùi Tín là người thế nào? Có những chủ định gì? Quan điểm và chính kiến ra sao? Đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài như thế nào? Có một số bài viết tốt, khách quan, am hiểu tình hình, lại có những bài viết theo nhận xét chủ quan, suy diễn, trích vài câu, vài chữ của tôi để phê phán, với thái độ cố chấp, vũ đoán : anh không có chính kiến giống như tôi, thi tôi không thể đồng tình được với anh, tôi phủ nhận anh cả gói!

Tôi sẵn sàng trao đổi ý kiến với mọi người luôn theo dõi và có ý kiến về tình hình và vận mệnh của đất nước. Tôi biết ơn họ đã quan tâm đến công việc của tôi và góp ý với tôi. Tôi cố lắng nghe để tiếp thu những ý kiến tốt. Trong anh chị em người Việt ở nước ngoài, không thiếu những tấm lòng và hiểu biết. Tuy xa đất nước, anh chị em vẫn nhận được những thông tin khá kịp thời và chính xác, qua đài, báo, thư từ gia đình...Có thể nói ai cũng mong đất nước sớm vượt qua cuộc khủng hoảng nặng nề kéo quá dài...Ai cũng thấy phải khôi phục lại uy tín của đất nước, không thể để nước mình tụt hậu đến thế này cả về mức sống, nền kinh tế và đời sống chính trị. Có ngưòi nói: nhục quá! Mình đâu có hèn kém mà thua xa các nước xung quanh qua xá rồi! Có người lo sợ về sự sa sút đáng sợ về đạo đức, có người lo về hệ thống y tế, giáo dục xuống cấp đến cùng cực. Có người từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh trở sang, buồn nản vô cùng về cái tệ hối lộ, lo lót, lót tay tùm lum. Ai cũng nung nấu một ước vọng Việt Nam mình phát triển, mở mặt với đời để lấy lại cái hãnh diện, niềm tự hào là người Việt Nam giữa thế giới ngày nay.

Trong những cuộc gặp gỡ, trao đổi ý kiến và đối thoại với mọi đối tượng, tôi luôn nói lên chính kiến rõ ràng của mình. Tôi coi trọng chủ nghĩa Mác, vâng, đúng thế - Nhưng tôi không cho chủ nghĩa Mác là chân lý tuyệt đối và duy nhất. Tôi coi đó là một trong những gía trị của tư duy và lý luận cần vận dụng một cách thích hợp. Tôi công nhận biện chứng pháp mác- xít là một trong những phương pháp suy luận khoa học, cần sử dụng như một công cụ có ích của nhận thức. Tôi là người cộng sản ư? Trước đây, tôi là người cộng sản như tôi vẫn quan niệm : người cộng sản phải là người yêu nước, thật thà, nhân hậu, không tham lam, ích kỷ, thật lòng phấn đấu cho một xã hội phồn thịnh, không có bóc lột, bình đẳng và nhân ái. Nếu không ai được như vậy mà mang danh cộng sản thì chỉ là cộng sản giả, cộng sản vỏ. Mặt khác tôi thấy chủ nghĩa cộng sản còn quá xa vời. Nói đến chủ nghĩa cộng sản, giữ cái tên đảng cộng sản lúc này là không thích hợp, là quá sớm vì nó ở ngoài tầm với của thế hệ hiện nay và thế hệ tiếp theo. Nay tôi không còn là người đảng viên cộng sản nữa. Họ đã khai trừ tôi. Hiện tôi là người yêu nước, không đảng phái. Còn chủ nghĩa xã hội? Chủ nghĩa xã hội hiện thực méo mó, dị dang, năng xuất thấp kém, quan liêu bao cấp, chứa đựng biết bao bất công và phi lý. Nó trái ngược với chủ nghĩa xã hội khoa học, thế nhưng chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ mới tồn tại trên lý luận, trên sơ đồ của nhận thức, trên những trang sách, trong những ý định tốt đẹp. Tôi cho rằng chủ nghĩa xã hội khoa học muốn trở thành hiện thực phải hội đủ những điều kiện khách quan. Đó là một nền sản xuất phát triển rất cao, một giai cấp công nhân lớn mạnh, có đầy đủ nhận thức về sức mạnh tiền phong của mình, được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị mang trí tuệ của thời đại, do đó được nhân dân cả nước tín nhiệm. Các nước xã hội chủ nghĩa hiện thực lâm vào khủng hoảng nặng nề, phần lớn bị phá sản là do không thực hiện được như thế, và cũng chưa có điều kiện vươn lên tầm đó. Bệnh chủ quan, nôn nóng, duy ý chí, làm lấy được bất chấp điều kiện khách quan và chủ quan là nguyên nhân của thất bại tất yếu. Chính xã hội và nhân dân các nước ấy đã tự mình phủ định những chế độ xã hội chủ nghĩa dị dạng, độc đoán và chuyên quyền, bất công và nghèo khổ. Ở nước ta, chủ trương đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay là vẫn tiếp tục con đường chủ quan, duy ý chí, bất chấp điều kiện khách quan và chủ quan. Việc gọi đúng bệnh, bốc đúng thuốc vẫn chưa làm nổi. Có gan nhìn thẳng vào sự thật. Nhìn cho rõ và thấu đáo. Và có gan đoạn tuyệt vời những sai lầm cũ. Có gan phác họa hẳn một con đường mới. Phải dũng cảm và sáng suốt làm mới làm được việc lớn này. Chớ có sỹ diện, nhùng nhằng, bỏ thì thương, vương thì tội với những bệnh tật của quá khứ. Cách đề cập mới là : đưa đất nước sớm ra khỏi khủng hoảng- Phát triển sản xuất, làm ra nhiều của cải là mối lo ưu tiên của toàn xã hội. Nếu công nhận quyền sở hữu ruộng đất một cách rõ ràng đầy đủ của ngừơi làm ruộng, kích thích mạnh mẽ sức sản xuất nông nghiệp, làm ra thật nhiều nông phẩm thì sao không dám làm? Sao cứ ngập ngừng không dám từ bỏ khái niệm sở hữu toàn dân chỉ vì lấn cấn bởi những khái niệm chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội? Vốn trong dân còn rất lớn, lớn gấp mấy chục lần vốn của nhà nước. Quyền tự do kinh doanh phải thành một động lực quyết định. Sao không hề có chính sách khuyến khích tư nhân mạnh dạn bỏ vốn sản xuất, làm ra nhiều hàng hóa, lập công ty, chủ hãng sản xuất, chủ xí nghiệp biết làm ăn, biết làm giầu trong khuôn khổ luật pháp. Khuyến khích hướng này phát triển thì mới hạn chế rồi chấm dứt được tình hình vốn trong dân nằm im lìm, hoặc chỉ bỏ vốn để đi buôn, nhất là đi buôn lậu, đi chạy mánh, đi làm giầu phi pháp, luồn lách qua những kẽ hở của cơ chế tham nhũng và hối lộ. Cần giới thiệu mạnh những nhà và nhóm kinh doanh sản xuất tư nhân mạnh dạn bỏ vốn lớn, làm ra hàng hợp thị trường và có lãi, người chủ, cổ động và công nhân đều có lợi vững chắc...Những hãng tư nhân xay gạo, chế biến nông sản, dệt, ngành điện tử, cơ khí, giao thông vận tải, vật liệu xây dựng, hóa chất...làm ăn phát đạt xuất hiện ngày càng nhiều sẽ chứng minh người Việt Nam ta không kém về đầu óc kinh doanh. Phải làm cho vị trí xã hội của các nhân vật kinh doanh nổi lên, được xã hội coi trọng, nganh hàng với những nhân vật chính trị, với những trí thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội là dấu hiệu tốt. Nếu họ được xã hội ngưỡng mộ hơn các nhân vật chính trị và những nhà khoa học cũng không sao. Cần bằng luật pháp và dư luận xã hội bịt chặt hoạt động của bọn làm ăn phi pháp và bất chính thì mới mở đường được cho những nhà kinh doanh chân chính thi thố tài năng và năng khiếu làm ăn, phương châm rất cần thiết lúc này : những cơ may đồng đều cho mọi cá nhân dẫn thân vào con đường kinh doanh sản xuất. Ai có tài thì ắt thành đạt. Thành đạt đàng hoàng và vững chắc.

Có người hỏi tôi : lúc này ông là người cộng sản hay người quốc gia? Có vẻ như buộc tôi phải có sự lựa chọn dứt khoát. Tôi đã bị khai trừ khỏi đảng do đó tôi không còn là người đảng viên cộng sản nữa. Tôi không bị bất ngờ vì đã lường trước chuyện ấy. Trước đây tôi không rút ra khỏi đảng vì tôi nghĩ rằng có thay đổi gì tốt đẹp ở nước ta cũng là phải do người ở trong nước đảm nhiệm và thực hiện. Những người yêu nước và dân chủ ở trong nước rất đông, phần lớn không ít còn ở trong đảng cộng sản. Vì đảng cộng sản có đến hơn hai triệu đảng viên, ngoài chính đảng này ra, mọi tổ chức chính trị khác đều bị cấm. Nếu tôi ra đảng, những đảng viên cộng sản cả những người xấu và những người tốt đều coi tôi là kẻ bỏ chạy, kẻ đào ngũ- Tôi có ý thức giữ mối liên hệ tinh thần đồng cảm với tất cả những đảng viên cộng sản trong sạch, có lòng yêu nước thương dân có hiểu biết và đang ở trong tâm trạng như tôi hiện nay. Cách thức tôi nói cũng là để cho anh chị em này nghe được, để vừa hòa đồng, vừa thức tỉnh họ, được họ tiếp nhận. Cả đồng đảo nhân dân ở trong nước cũng vậy. Họ chưa thật quen cách nói thật thẳng thừng, có phần xô bồ, kiếm nhã, họ cho là thiếu bình tĩnh, thiếu cân nhắc, không thấu tình đạt lý, khó lọt được tai...

Còn tôi có phải là người quốc gia? Tôi không cầu nệ về tên gọi, về xưng danh, về nhãn hiệu, ê- ti- két...vì như trên đã nói, có người không mang trong mình những hoài bão cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản mà vẫn cứ tự trưng cái nhãn hiệu cộng sản, với chiếc thẻ đảng trong túi. Có những người tự xưng là " quốc gia " nhưng họ chẳng quan tâm đến nền độc lập và cuộc sống tốt đẹp của quốc gia Việt Nam ta hơn là túi tiền của họ. Họ là những chính khách xa- lông, họ làm chính trị bằng đủ mọi thủ đoạn vì họ trước hết, chứ đâu phải vì quốc gia, dân tộc. Nếu có những người quốc gia, mang ê- ti- két quốc gia, thật lòng lo đến đất nước, thật lòng muốn góp phần cứu vãn đất nước khỏi những thảm cảnh hiện tại, mong được góp hết sức mình cho việc phát triển đất nước phồn vinh thì tôi thật lòng kính trọng họ, bắt tay thân thiện với họ, coi như cùng chung một đội ngũ đấu tranh, theo ý nghĩa chung nhất.

Có người sẽ trách cứ tôi là nhập nhằng, ba phải, không minh bạch, rõ ràng! Có người còn muốn vận động tôi vào tổ chức này, hàng ngũ kia của họ. Tôi lịch sự và dứt khoát trả lời : tôi là tôi, tôi có lập trường và cách nghĩ của tôi. Không ai nên và không ai có thể ép được tôi cả.

ở Paris, tôi cũng gặp một số vị hòa thượng và linh mục. Chúng tôi trao đổi ý kiến với nhau về hiện tình đất nước, về nghĩa vụ của một người công dân yêu nước. Và chúng tôi tìm ra những điểm tương đồng. Năm ngoái, tôi có những cuộc tọa đàm rất bổ ích với các vị thượng tọa chủ trì các chùa Quán Sứ và chùa Bà Đá Hà Nội. Tôi cũng trò chuyện khá lâu với Hồng y Trịnh Văn Căn trước khi ông mất ở Hà Nội tháng 6 năm ngoái. Sau đó tôi cùng ông Vũ Ngọc Nhạ - Ông cố vấn - xuống thăm bà con giáo dân và một số linh mục vùng Bùi Chu, Phát Diệm. Trong khi đất nước lâm vào khủng hoảng nặng nề, đạo lý suy đồi nhanh chóng, chỗ dựa cũ của niềm tin bị mất, lòng tin tôn giáo có tác dụng tích cực giữ cho con người khỏi sa đọa - Cái thiện trong con người được duy trì. Các vị linh mục ở quanh nhà thờ Phúc Nhạc cùng những thầy giáo địa phương chung sức để trẻ em khỏi bỏ học, cố duy trì nề nếp và chất lượng giảng dạy, thày ra thày, trò ra trò, trường ra trường, lớp ra lớp. Tôi thường nói với các cụ: lý tưởng của Các Mác, lý tưởng của Đức Phật Thích Ca, cũng như lý tưởng của Đức Chúa Giê Su rất gần nhau. Đó là xã hội thanh bình, có lòng vị tha, hỉ xả và bác ái. Ai cũng ham làm điều thiện, trừ điều ác, con người từ bỏ được những ham muốn thấp hèn. Lúc này là lúc những người cộng sản lương thiện cần sát cánh với các vị chân tu và đồng bào ngoan đạo, chung lòng chung sức đấu tranh, phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, dân chủ và phát triển, để cả nước ta tai qua nạn khỏi.

Tôi rất mừng được biết bà con xứ đạo ở nước nhà chăm chú nghe đài về bản kiến nghị của tôi. Một bà người Pháp trong đoàn của trung tâm Dân Chủ Pháp sang thăm Việt Nam tháng 4. 1991, kể cho tôi nghe: khi đoàn đến Đà Lạt, một số bà sơ người Việt đang làm việc trong các trại mồ côi kể lại rằng:" hồi tháng 12. 1990, chúng tôi rất chăm chú nghe đài BBC không bỏ qua buổi nào cuộc trả lời phỏng vấn của ông Bùi Tín và bản kiến nghị của ông ấy. Những nội dung sao mà hợp với suy nghĩ của chúng tôi! "

Tôi rât biết ơn các bà sơ kể trên đã quan tâm đến ý kiến của tôi đối với hiện tình đất nước. 1976, tôi gặp các bà sơ làm việc trong Trung tâm chữa trị người nghiện ma túy ở Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Các bà, các chị chăm sóc trại viên còn tận tình hơn cả những người chị, người mẹ, cao quý hơn hẳn những người cộng sản " vỏ ", biến chất, chỉ lo thu vén riêng cho mình sau ngày Toàn thắng.

Mấy lá thư từ Hà Nội cho biết các vị chủ trì ở một số chùa tổ chức tụng kinh cầu nguyện cho tôi rất đều đặn suốt mấy tháng nay. Tôi xin kính gửi lòng thành biết ơn đối với những nghĩa cử đẹp đẽ ấy. Tôi hiểu rằng những việc làm ấy xuất phát từ niềm mong mỏi chân thành của các vị sớm thấy nước nhà thoát khỏi cảnh điêu linh thê thảm. Tôi buộc lòng không thể đưa tên và địa chỉ các chùa nói trên vì cần đề phòng các cơ quan an ninh cử người đến quấy rầy và xúc phạm những nơi tôn nghiêm ấy, vin cớ rằng các vị đã khuyến khích, ủng hộ do đó đồng phạm với " kẻ phản bội "! như một số cán bộ tuyên huấn, an ninh ở Hà Nội đang cố rêu rao trên đài, trên báo và trong một số buổi thông báo nội bộ.

Tôi giữ ấn tượng sâu sắc đối với những người bạn Pháp cũ và mới, thuộc đủ mọi xu hướng chính trị: cộng sản, xã hội, không đảng phái, các giáo sư, nhà báo, nhà kinh doanh, ...Họ đã khuyến khích tôi : Hãy giữ vững tinh thần, hay giữ vững lòng can đảm! Họ chăm chú theo dõi tình hình Việt Nam và lo lắng cho nhân dân ta, cho đất nước ta. Họ cho rằng tình hình sẽ chuyển biến theo hướng tốt đẹp. Họ giúp tôi bằng vô vàn cách thức riêng, rất cảm động. Họ góp ý cho tôi nên liên lạc với tờ báo nào, với ai, ở đâu để đánh động dư luận về chính kiến của mình. Họ giới thiệu tôi với các đài phát thanh Luxemburg, Bỉ, Hòa Lan, ý, Đức, ...để tôi trả lời phỏng vấn các đài ấy. Họ gửi cho tôi những cuốn sách bổ ích về tình hình thế giới, về Liên Xô, các nước Đông Âu, về Nhật bản, Đông Nam ...sách bên này rất đắt, nên đây là sự giúp đỡ thật qúy báu. Tôi đã có cả một tủ sách qúy. Họ gửi cho tôi tạp chí, báo hàng tháng, hàng tuần bằng các thứ tiếng tôi đọc được. Họ cắt các báo, tạp chí, các tập ghi lại các đài phát thanh, những đoạn nói về Việt Nam rồi gửi cho tôi đọc và lưu giữ. Họ gợi ý cho tôi về cuốn sách này, giới thiệu các nhà xuất bản có uy tín và đáng tin cậy...Một số người bạn còn gợi ý sẵn sàng dẫn tôi đi tham quan ở trong Paris và vùng ngoại ô để tận dụng thời gian tìm hiểu thêm về nước Pháp - Họ mời tôi một số cuộc gặp mặt, thảo luận về hiện tình nước Pháp...Phần lớn là những người am hiểu tình hình Việt Nam, có cảm tình với cuộc chiến đấu của Việt Nam dành độc lập, quý mến và khâm phục nhân dân ta. Khá nhiều người đã từng được chính trị hóa từ tuổi thanh niên trong phong trào ủng hộ Việt Nam chống chính sách thực dân của chính phủ Pháp. Họ chung một ước muốn Việt Nam thoát ra khỏi khủng hoảng, nhân dân Việt Nam đỡ cực nhọc, nước ta phát triển, thu hẹp khoảng cách đã quá xa về mức sản xuất với các nước láng giềng. Họ rất rầu lòng thấy vẫn còn nhiều người muốn bỏ nước ra đi, tăng cường không ngừng số " thuyền nhân " đang bị kẹt và chờ đợi ở các nước Đông Nam á. Họ rất nản lòng về kết quả của đại hội VII, khi thấy đổi mới không nhất quán, không đủ " đô" và có mặt còn thụt lùi...Có anh bạn trẻ Pháp rất qúy Việt Nam, lo tôi buồn, thỉnh thoảng lại ghé đến mời tôi đi ăn một bữa, đi chơi một vòng. Trời đông giá, anh mang đến một áo dạ ấm áp : " Đây là áo của ông cụ thân sinh ra tôi, còn rất tốt, tôi giữ lại làm kỷ niệm, nay rất mong được ông dùng để giữ sức khỏe mà làm việc cho đất nước - Trước nhiệt tình ấy, tôi không thể không đón nhận, mặc dù nhiều bạn Việt Nam đã cho tôi áo ấm.

Có gia đình Việt Nam ở lâu bên này hỏi chuyện tôi, cố hỏi được số điện thoại để gọi đến, mời tôi ghé chơi nhà, để bàn luận về tình hình đất nước. Biết rằng tôi dứt khoát không nhận tiền của bất cứ ai, các bác, các anh chị tìm cách ủng hộ tôi bằng đủ thứ : người mua vé tháng xe bus, tầu điện ngầm để đi trong thành phố Paris, người cho thuốc bổ, có bạn ép tôi vào hiệu giầy để mua đôi giầy có lót lông thú để chịu được lạnh âm 20 độ, có người lo cho mũ ấm, bít tất, găng tay và quần lót chống lạnh, ông linh mục đưa cho chiếc ô để đi mưa, cũng là kỷ niệm, có người biết tôi viết sách, liền gửi đến hàng tập giấy dầy hàng ngìn trang và cả máy chữ đánh tiếng Việt, rồi cả máy com- pu- tơ hiện đại. Có người gửi đến hàng tá bia hộp, hàng tút thuốc lá thơm...Từ tháng 4. 1991, theo yêu cầu của con gái và em gái, tôi đã bỏ hẳn thuốc lá, để những người thân yên tâm và vui lòng, cũng là một cách giữ sức khỏe được tốt. Tôi có ý định bỏ là bỏ được liền, không luyến tiếc vấn vương, dứt khoát với chính mình, trước đó tôi hút đến gần một bao mỗi ngày.

ở Pháp chi phí bệnh viện rất nặng. Không có bảo hiểm xã hội thì không sao thanh toán được viện phí. Chiếu điện, thử máu đều rất tốn kém. Tôi tự đặt kỷ luật cho mình phải giữ sức khỏe. Trận ốm nặng đầu tháng 6. 1989 đã làm cho tôi những suy nghĩ nhiều hơn về cuộc đời. Tôi bị một cơn nhồi máu cơ tim thập tử nhất sinh. May mắn vào đúng nửa đêm, người lái xe cơ quan ngủ ở cạnh phòng thường trực có điện thoại. Khi gia đình tôi gọi điện tới, anh cứ mặc quần áo ngủ phóng xe đến nhà tôi, cõng tôi ra xe đưa vào bệnh viện khi tôi đã lịm đi vì đau. Một cục máu đọng làm nghẹn một động mạch tim. Các bác sĩ phải cứa ngay động mạch cổ, luồn một chiếc "xông" nhỏ xíu vào tim để thông cho máu chạy. Vết thương để lại sẹo khá rộng, cả ở mặt trước và mặt sau tim, máu không tưới được hết. Tôi phải nằm hoàn toàn bất động 18 ngày. Các bác sĩ ở bệnh viện Việt Xô, Việt - Đức, Bạch Mai đều ghé qua bệnh viện tôi nằm, trao đổi, tham gia góp ý kiến với nhau để cùng trị bệnh cho tôi. Anh chị em các báo, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình đến thăm tôi rất đông, với tình nghĩa của làng báo. Từ những người trong giới văn nghệ thuật, cho đến bà con khu phố, bạn bè ở một số tỉnh lân cận cũng về thăm. Một nhà báo Mỹ vừa ghé qua Hà Nội cũng đòi vào thăm tôi. Có vị sư ở chùa tuổi đã cao cũng đến thăm. Một số hòa thượng tận Cần Thơ, Đà Nẵng gửi thư cho tôi, còn làm thơ động viên tôi mau bình phục. Trong cơn bệnh hiểm nghèo, tình nghĩa nồng thắm như thế làm tôi xúc động, tác dụng như là thuốc bổ vậy. Tôi nghĩ hơi lẩn thẩn rằng, coi như từ nay trở đi là được " sống thêm ". Và trong thời gian " sống thêm " này cần tận dụng tốt hơn cho con người, cho cuộc đời, có ích hơn cho nhân quần, xã hội. Tôi thường nhớ đến những bạn bè thân thiết đã ngã xuống trong bom đạn ở Triệu Phong, Quảng Trị, ở Điện Biên Phủ, trên đường số 9, ở Tây Nguyên và ở miền Đông Nam Bô....những nơi tôi từng đi qua. Tôi đã được sống sót, may mắn hơn những anh em khác biết bao. Tôi sửng sờ khi nghe tin người lái xe từng cấp cứu tôi đã chết trong một tai nạn xe cộ bất thần hồi tháng 12. 1990, để lại 6 người con (4 cháu còn nhỏ), vợ anh lại ở nông thôn cày ruộng, cuộc sống cực kỳ gieo neo. Anh cũng đã từng ở quân đội, chuyển sang báo Nhân dân như tôi và tình đồng đội, tình cựu chiến binh gắn bó hai chúng tôi.

Một số anh chị em Việt kiều làm việc trong ngành y ở Paris, hết sức nhiệt tình hỏi thăm sức khỏe và khám bệnh cho tôi. Các anh chị còn làm điện tâm đồ, góp ý cho tôi về phòng bệnh, nhiều lần châm cứu và cho đơn thuốc khi cần thiết, tất cả đều không lấy tiền. Tôi luôn giữ trong lòng mình những niềm biết ơn sâu đậm nhất đời với những tấm lòng qúy báu ấy.

ở Hà Nội, những người được lệnh viết bài để chống lại tôi bằng những thủ đoạn quen thuộc, đã tận dụng một số bài báo của phương Tây. Bên cạnh những bài báo tán đồng chính kiến của tôi, còn có những bài móc máy. Ngay trong một bài cũng có đoạn khen, đoạn chê. Đây là một điều tất yếu trọng tự do ngôn luận. Trong một bài báo ở Paris, tác giả cho tôi là một " ông già cô đơn " vì khi trả lời phỏng vấn, tôi nói rõ rằng làm việc này của tôi hoàn toàn mang tính chất cá nhân, và tôi không có ai thuộc gia đình thân thiết ở Paris cả. Paris lúc đó lại vào mùa đông giá lạnh. Báo " Hà Nội mới" trích những đoạn của bài báo này với ý định làm cho những bạn đọc ở bên nhà hiểu lầm rằng tôi đang ở trong tình trạng cô độc và lẻ loi về mọi mặt.

Sự thật là ngược lại. Tôi được nghe kể đồng bào ta chăm chú nghe những buổi phát thanh của BBC ra sao. Không ít cơ quan và gia đình ghi âm tiếng nói của tôi. Một số anh em trẻ còn nhân tài liệu của tôi qua máy chụp. Có mấy trường đại học, anh chị em tổ chức chép tay lại...Tôi đâu có lẻ loi và cô độc! và ở đây tôi bận tíu tít các mối quan hệ bè bạn. Rất nhiều anh chị em Việt kiều, các bạn Pháp tìm gặp tôi, chật kín thời gian. Rồi anh chị em Việt kiều ở các nước Tây Âu khác, ở Đông Âu, ở Canada, ở Mỹ, ở tận úc sang thăm hoặc viết thư thăm. Trả lời thư, điện thoại...chiếm phần lớn thời gian trong ngày. Tôi đâu có đơn độc! Ngược lại tôi biết rằng, chưa bao giờ niềm đồng cảm của đồng bào trong nước với tôi lại sâu rộng như hiện nay, cũng chưa bao giờ tôi có nhiều bạn bè quen biết ở nước ngoài như hiện nay. Tôi đã lượng trước rằng, mỗi cuộc dấn thân đều phải trả giá. Tôi bị khai trừ, bị vu cáo, gia đình tôi bị kiểm soát, bao vây và cô lập. Các bạn bè tôi ở nhà bị quấy rầy và đe dọa. Những người thân của tôi sống trong không khí căng thẳng chuẩn bị cho Đại hội VII, tất cả thư từ của tôi đi hay đến đều bị chận lại và tịch thu. Người ta đã thuyết phục - thực tế là đe dọa - tất cả những người thân và bạn bè của tôi phải cắt đứt dứt khoát mọi sự liên lạc. Ngừơi ta dựng lên vụ nhà quay phim Pháp Gesbe mang tài liệu và tiền của tôi về, một sự bịa đặt trơ tráo và lộ liễu, theo kiểu gắn nhiều việc liên quan một cách lấp lửng.

Cơ quan an ninh xét hỏi dồn dập bác sĩ Bùi Duy Tâm, một công dân Mỹ về mối quan hệ giữa ông Tâm và tôi chỉ vì ông Tâm có đem theo một lá thư tôi trả lời cho ông ta, trong đó tôi nói lên công khai chính kiến của tôi về hiện tình đất nước, không có điều gì khuất tất, cần phải che giấu cả.

Thế là không phải chỉ những người trong gia đình và bạn bè thân quen của tôi bụôc phải sống trong tình hình căng thẳng không bình thường. Cả những người ngay thật, không hề có quan hệ gì khác thường với tôi cũng bị quấy rầy và xúc phạm nặng nề đến thế.

Tôi không hề cảm thấy cô đơn. Chính những nối đau mới, những phẫn uất mới làm cho tôi tăng thêm nghị lực cùng toàn thể nhân dân yêu qúy phấn đấu cho một tương lai dân chủ và phồn vinh của đất nước thân yêu. Vô vàn bạn bè mới ở trong nước và nước ngoài đang tiếp sức cho tôi trong việc làm cần thiết hôm nay.

 IX. LÒNG DÂN, Ý TRỜI


Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam đã kết thúc.. Vẫn như các đại hội trước, các báo ở Hà Nội đăng những hàng chữ đỏ : " Đại Hội đã thành công rực rỡ". Ngay ở trong đảng đã có mấy người tin rằng nghị quyết của đại hội sẽ được thực hiện, rằng chỉ trong 5 năm nữa nhân dân ta sẽ thoát khỏi cuộc khủng hoảng? Có mấy ai tin rằng trong 10 năm nữa tổng sản lượng nước ta tính theo đầu người sẽ tăng gấp đôi, nghĩa là 100 %? Đúng một tháng sau đại hội, giá vàng tăng lên từ 380. 000 đồng lên 460. 000 đồng một lạng, giá một đồng đôla từ 8. 600 đồng lên 9. 4000 rồi 9. 8000, ngấp nghé 10. 000 đồng, tiền lương của người lao động và viên chức vốn đã ít ỏi, lại bị giảm thêm trên thực tế. "cuộc sống rồi sẽ ra sao?", vẫn là câu hỏi xoáy sâu, quặn lòng người dân. Đại hội 7 đã không đáp ứng đúng tình hình cực kỳ nghiêm trọng, cuộc bắt mạch kê đơn cho đất nước không kết qủa. Suốt 16 năm trải qua 4 kỳ đại hội, mỗi lần người ta cứ tưởng rằng đã tìm ra giải pháp, nhưng bệnh cũ cứ nặng thêm. Tìm ra bệnh bao giờ cũng chậm, kiểu vuốt đuôi, định chữa bịnh này thì con bệnh đã chuyển sang bệnh khác hiểm nghèo hơn.



Khi đất nước lâm nguy, nhiều ý kiến, kiến nghị đã được đề xuất. Nhưng lãnh đạo vấn giữ thái độ gia trưởng độc đoán, nhắm mắt, bịt tai. Khả năng lắng nghe vốn đã ít ỏi trở về con số không.


Có những lời bình đáng suy nghĩ. Một nhà báo Pháp nhận xét: " Đại hội 7 xét cho cùng chỉ là một cuộc trình diễn cho ông Đặng Tiểu Bình xem. Lẽ ra tìm nhiều bạn tốt, thì họ lại ngã hẳn về một phía, lao vào lòng "kẻ thù vĩ đại", cho rằng thế là đúng đắn: Chung một ý thức hệ chung một chế độ xã hội chủ nghĩa! cùng là đảng cộng sản, những tưởng khôi phục tình đồng chí, chí cốt và tìm ra được lối thoát!.. "

Sau đại hộì, quan hệ giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc được cải thiện rõ ràng. Theo tôi đây là sự liên kết giữa những người cùng chung một mối lo sợ đến hoảng hốt với trào lưu dân chủ và đa nguyên đang dâng lên mạnh mẽ ở trong mỗi nước. Đây là sự liên kết của những người bảo thủ về chính trị. Họ "tầm" nhau để duy trì hiện trạng chính trị trong mỗi nước, bóp nghẹt nguyện vọng dân chủ của nhân dân, ngăn chặn một cách tuyệt vọng phong trào dân chủ đa nguyên đang lan rất mạnh ở châu Âu, Châu phi, châu Mỹ la tinh và cả ở châu á.

Tình hình thế giới những năm gần đây có những thay đổi hết sức cơ bản. Từ hai cực, hai phe đã xuất hiện tình thế đa cực. Từ đối dầu, sống mái chuyển sang cục diện hợp tác và đấu tranh trong chung sống hòa bình. Cách nhìn cũ không còn thích hợp với tình hình mới. Ở nước ta hiện nay điều sinh tử và thiêng liêng nhất là giải phóng đến mức cao nhất sức sản xuất toàn xã hội, làm ra được nhiều của cải nhất đây là chìa khóa để cứu ván đất nước, con đường thoát ra khỏi khủng hoảng.

Nghèo đói và lạc hậu phải là nỗi đau chung, nỗi nhục chung của mỗi công dân, của mỗi người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Không chỉ lạc hậu về mức sống, mà cả về hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, về công nghệ, về quản lý, về dân chủ hóa, về chính trị. ý thức vượt qua nghèo đói và lạc hậu, đạt đến phát triển về mọi mặt phải là động lực chung của toàn xã hội, động lực vươn lên của mọi người Việt Nam có trách nhiệm.

Nhà thơ Nhất Uyên ở Paris đã đọc cho tôi nghe bài thơ của anh nói lên nỗi nhục ấy và chép lại tặng tôi. Bài thơ có đầu đề: Nhục nước đói nghèo. Dưới đây là một đoạn:

... Nhục những tài năng lưu vong phụng sự xứ người mà

nước mẹ,

đường về sao quá hẹp?

Nhục với tài nguyên thiên nhiên,

bốn mùa cây trái

nhục với biển dài,

sông rộng,

đất phì nhiêu,

nhục với trẻ thơ tong teo,

mẹ gầy đói ốm,

nhục với cha già trên vỉa hè lây lất

Nhục với độc lập mà đói hơn thời thuộc địa,

nhục với tự do,

dân gào thét tự do!

nhục với công bằng,

dân gào thét bất công , nhục với dân chủ,

mà khổ hơn thời địa chủ!

Nhục với Thái lan, Nam hàn...

đã tiến xa trên đường kỹ nghệ mà nước ta còn nghèo đói xin ăn!

Nhục với lý tưởng đẹp cao,

nhục thần tượng tôn thờ, nhục với lịch sử ngàn năm dựng nước.

Nhục những kẻ không còn biết nhục,

hãm hại người ngay, xua đuổi người tài,

nhục kẻ bất phu

không biết đến kiếm Lưu cầu khi dân dân tộc đến cơ hàn cùng cực.

Ai là người vì vận nước ngày mai,

nuôi chí kinh bang

để cùng nhau rửa nhục.

Đổi mới về kinh tế quan trọng nhất hiện nay là công nhận quyền sở hữu ruộng đất của nông dân. Trả lại ruộng đất cho những lao động nông nghiệp, tài sản của cha ông bỏ công khai phá. Chủ trương của đại hội 7 vẫn còn nửa vời, vẫn coi ruộng đất là sở hữu của toàn dân. Các hộ nông dân chỉ có quyền sử dụng. Bà con nông dân vẫn chưa hoàn toàn yên tâm, chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, cải tạo, chăm sóc đồng ruộng vì họ chưa coi đó là sở hữu của mình.

Trong sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, phải thật sự tôn trọng, cổ vũ quyền tự do kinh doanh của tư nhân, mở ra một thời kỳ tư nhân mạnh dạn bỏ vốn riêng, hùn vốn riêng, mở xưởng, lập công ty: chế biến nông sản, chế tạo cơ khí, kinh doanh giao thông vận tải, mở các nghề tin học, sinh học, hóa chất, vật liệu xây dựng... tạo nên cả một lớp nhà kinh doanh có tài năng, làm cho nền kinh tế sống động trong sản xuất ra hàng hóa là chính, chứ không phải đi buôn (phần lớn lại là đi buôn lậu!) và làm dịch vụ là chính như hiện nay. Việc xuất hiện hàng loạt nhà doanh nghiệp tài ba trong kinh doanh đàng hoàng (chứ không phải đi chạy mánh mung, đánh qủa, ăn xổi như hiện nay) là thước đo của sự đổi mới về kinh tế.

Đổi mới về kinh tế phải đi cùng với đổi mới về chính trị. Đây là hai mặt của đời sống xã hội có liên quan chặt chẽ. Không phải thực hiện máy móc, đổi mới kinh tế thực hiện đúng một bước thì đổi mới chính trị phải đúng một bước. Trên đại thể, kết hợp hai mặt đổi mới ấy. Không thể một mặt thì tiến lên mà một mặt thì lui lại! Như con người bước một chân lên trước, còn chân kia thì lui lại sau, sao mà đi được?! Hiện nước ta là như vậy. Kinh tế có định hướng, mở cửa tự do hóa, nhưng chính trị thì co lại, hạn chế quyền dân chủ hơn trước. Mâu thuẫn là ở đây. Có không bình thường là ở đây. Nguy cơ mất ổn định cũng là ở đây. Cái làm mất uy tín, mất cảm tình của bạn bè và dư luận thế giới cũng là ở đây.

Lập luận bảo thủ của đại hội 7 là : " Phải giữ ổn định bằng mọi giá. Bước đi, liều lượng mở rộng dân chủ phải tính toán thận trọng. Không thể hấp tấp vội vàng. Nhấn mạnh dân chủ có lãnh đạo, dân chủ đi đôi với tập trung, gắn liền với kỷ luật". Lập luận này rất có hại. Nó kìm giữ đất nước trong tình trạng chậm tiến về chính trị, do đó cản trở đổi mới về kinh tế. Nó đi ngược lại khát vọng của nhân dân, nó mâu thuẫn với quan điểm nhân dân lao động làm chủ, vi phạm quyền công nhân.

Lập luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội của đại hội 7 là: " Đây là con đường do chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn ", do đó không thể nào từ bỏ được! Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu lên là:

• Do nhân dân lao động làm chủ,

• có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu,

• có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà mầu sắc dân tộc,

• Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công. Làm theo năng lực, hướng theo lao động. Có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

• Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Nhắc đến chủ tịch Hồ Chí Minh hàng đến mấy chục lần trong các văn kiện để " kiên trì con đường chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đứng đắn của chúng ta " là không nên, không khoa học. Chủ tịch Hồ Chí Minh mất đã 22 năm nay. Ông Hồ đã từng cùng với đảng chủ trương sớm hoàn thành hợp tác hóa toàn bộ nền nông nghiệp. Đến nay chủ trương này bị công nhận là sai lầm, vậy thì không thể chỉ dựa vào lý do vì đây là chủ trương của ông Hồ mà khẳng định đó là chân lý. Ông Hồ cũng chủ trương công nghiệp hóa đất nước với tốc độ cao, lấy công nghiệp nặng làm chính, đến nay chủ trương ấy cũng đã tỏ ra sai lầm. Hơn nữa, ông Hồ không còn sống để chứng kiến cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Và ông cũng không được thấy những đảo lộn cực kỳ hệ trọng trên trường quốc tế, làm thay đổi hẳn bộ mặt thế giới.. Theo tôi, tất cả các chủ trương, quan điểm của những người đã khuất, dù cho họ tài giỏi đến đâu, chỉ nên coi là những gợi ý, để tham khảo. Chỉ có những người đương thời mới có đầy đủ trách nhiệm, điều kiện hiểu biết để tự giải quyết mọi công việc của thời đại mình, của thế hệ mình.

Chính vì đuối lý nên người ta cứ phải viện ông Hồ Chí Minh! Một luận điệu của đại hội 7 là nước ta không thể quay về chủ nghĩa tư bản. Thật ra chúng ta vẫn chưa có chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cũng chưa có chủ nghĩa tư bản theo đúng nghĩa. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở các nước đều sụp đổ rồi. Có đến hơn 100 nước tư bản hiện nay, trong đó có những cường quốc lớn nhất, có những " con hổ " ở châu á. Không nên câu nệ tên gọi, ê- ti- két. Có những nước tư bản rất phát triển, có nước tư bản rất chậm tiến. Có nước tư bản bảo đảm quyền lợi xã hội, bảo hiểm xã hội thật cao, như ở Bắc Âu được gọi là " nhà nước phúc lợi ". Ta không nên bắt chước mù quáng ai cả. Nên xây dựng một chế độ dân chủ, chăm lo phát triển sản xuất, rất quan tâm đến bình đẳng xã hội, hạn chế chênh lệch giàu nghèo, rất chú ý đến đời sống văn hóa, tinh thần, đạo lý trong xã hội. Một chế độ dân chủ tiến bộ. Tiến bộ có thực chất. Nhưng muốn tiến tới đó phải công nhận quyền sơ hữu tư nhân về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác. Nếu không sẽ không có gì cả!

Những đặc trung về chủ nghĩa xã hội mà đại hội 7 nêu ra không phải là điều kiện cần và đủ! ở các nước tư bản cũng có chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhiều nước tư bản, hệ thống hàng không, vận tải, đường sắt đường biển nằm trong tay nhà nước. Cũng có tư bản nhà nước nắm những cơ sở điện nguyên tử, điện tử, luyện kim, tín học... Có nơi nhà nước chịu mọi chi phí về giáo dục và y tế. Có nơi những phụ cấp xã hội, bảo hiểm, chăm sóc trẻ em, người già, người lớn tuổi, người tàn tật rất cao, vượt xa những nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Quyền tự do cá nhân ở các nước tư bản, trải qua các cuộc đấu tranh quyết liệt của công dân, cũng đạt mức cao hơn nhiều các nước xã hội chủ nghĩa hiện thực: tự do về tư tưởng, tự do lập hội, tự do báo chí, tự do xuất ngoại, tự do kinh doanh...

ở nông thôn Pháp, hình thức hợp tác xã rất phổ biến. Đó là hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, chế biến nông sản, hợp tác xã tín dụng.

ở ta có người ngộ nhận rằng chỉ ở các nước xã hội chủ nghĩa mới có hợp tác xã, mới có xí nghiệp quốc doanh, mới có bao cấp về y tế, giáo dục...

Về nền văn hóa tiên tiến đậm đà màu sắc dân tộc thì tôi đã thấy biểu hiện của đặc trưng này ở ấn Độ và Indonesia, còn rõ hơn ở các nước xã hội chủ nghĩa.

Đối chiếu với những đặc trưng đã nêu trên với hiện thực ở nước ta, thì có thể kết luận ta đề ra chủ nghĩa xã hội lúc này là hoàn toàn không thích hợp. Chính các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác như Karl Marx và Engel từng chỉ rõ: Chỉ có thể đặt vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội khi đã có điều kiện, đó là một nền sản xuất mang tính chất xã hội sâu sắc, gắn liền với một giai cấp công nhận sản nghiệp đông đảo. Ở ta cả hai điều kiện ấy còn lâu mới xuất hiện! Cái bệnh duy ý chí tai hại là ở đó. Hơn nữa chủ nghĩa xã hội trên thực tế đã và đang phá sản rõ rệt rồi!. Nó không còn sức sống qua thử thách khắt nghiệt của thực tiễn.

Trong " Bản kiến nghị của một công dân" tôi đề nghị đổi tên nước vì tên gọi " nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" hiện nay là không thích hợp. Lấy tên: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhiều người cho là quay trở về với cái cũ, không nên - Lấy tên nước Việt Nam Cộng Hòa cũng lại là quay về cái cũ khác. Cho nên có lẽ lấy tên nước Việt Nam (Etat du Viet nam) là ổn, vừa gọn, vừa rõ.

Cần dũng cảm và thông minh nhìn thật rõ, thật sáng: nước mình đang đứng ở đầu, ở thời điểm và hoàn cảnh nào, theo định hướng nào.

Tập trung xây dựng nền dân chủ thật rõ là dân chủ, một nền kinh tế dân tộc trên cơ sở quyền hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, và tự do kinh doanh là chính (nhà nước vẫn giữ một số ngành then chốt nhưng không ôm đồm). Còn đối với chủ nghĩa xã hội thì nhiều lắm cũng chỉ nên ghi là " theo định hướng xã hội chủ nghĩa", hay " sự lựa chọn xã hội chủ nghĩa cho bước phát triển tiếp theo".

ở nước ta có chủ nghĩa xã hội đâu mà sợ mất! Đã có chủ nghĩa xã hội đâu mà gọi là bước thụt lùi! Chũ nghĩa xã hội, một kiểu chủ nghĩa xã hội khoa học, có đầy dự tính dân chủ và nhân đạo- sau này dù có chăng nữa, thì lúc này vẫn còn là ở phía trước khá xa xăm.

Về chuyên chính vô sản cũng vậy. Ta nêu lúc này là rất không thiết thực, lạc lõng. Khái niệm này được đưa vào Hiến pháp năm 1980, chẳng có ý nghĩa gì thiết thực. Nó có tính chất giáo điều. Thì cứ nói xây dựng chính quyền vững mạnh là được, xây dựng nhà nước pháp quyền, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Thế là đủ, là rõ. Có lần tôi vào thành phố Hồ Chí Minh. Mấy anh đạp xe xích lô bảo : " Chúng tôi là vô sản đây. Chính quyền đâu có bênh vực vô sản! Các ông ấy coi bộ thù ghét vô sản dữ! " Cuộc sống vô sản thật bần cùng, kiệt quệ hơn dưới các chế độ cũ nhiều! Tình hình như vậy mà nói giai cấp vô sản nắm chính quyền, đảng của giai cấp vô sản, rồi chuyên chính của giai cấp vô sản, thì thật gượng gạo và trớ trêu!.

Nếu như dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội là yêu cầu bức thiết về chính trị thì thực hiện đa nguyên chính trị là vấn đề then chốt của yêu cầu ấy. Không giải quyết vấn đề này thì đảng cộng sản càng mất uy tín, lòng dân không yên và tư thế trước thế giới của đất nước ta vẫn còn kẹt cứng. Đa nguyên đã là hiện thực rõ rệt trong cuộc sống. Nhiều chế độ sở hữu là đa nguyên về quan hệ sản xuất. Luật pháp bảo hộ quyền làm ăn chính đáng của nông dân làm ăn riêng lẻ, của nông dân hợp tác hóa, của thợ thủ công cá thể hay hợp tác, của công nhân các xí nghiệp tư nhân và quốc doanh, đó là đa nguyên về quyền lợi. Luật pháp bảo hộ tự do tín ngưỡng của mọi tôn giáo là đa nguyên về nhân sinh quan... Mọi phong cách, trưởng phái của văn nghệ sĩ được tôn trọng là đa nguyên trong sáng tạo văn hóa nghệ thuật... Đa nguyên gắn bó với dân chủ.

Đa nguyên chính trị dẫn đến đa đảng, là hướng đi tất yếu của xã hội dân chủ. Hiến pháp của tất cả các nước dân chủ đều ghi rõ : quyền tự do tư tưởng, tự do tổ chức, lập hội (lập chính đảng) của công dân. Hiến pháp của nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tháng 12. 1980 ghi rõ trong điều 67 :" Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân". Rõ ràng phần chân lý ở đoạn trên, còn cái đuôi :" phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội " là đặt điều kiện để hạn chế quyền công dân kể trên. Còn "phù hợp với lợi ích của nhân dân " thì rõ ràng không thành vấn đề, vì người công dân càng có đầy đủ quyền lợi thì càng có nhiều lợi ích. Hạn chế quyền công dân chính là hạn chế lợi ích của họ.

Văn kiện đại hội 7 có đoạn viết : " trong điều kiện nước ta hiện nay không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghiã là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản đông phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ. Đó là điều nhân dân dứt khoát không chấp nhận (trích báo cáo của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh).

Đây là vấn đề sai lầm rất lớn, mang tính ngụy biện của đại hội 7. Đây là điểm ví phạm rõ nhất Hiến pháp, cũng là thái độ vi phạm nền dân chủ một cách ngang nhiên và công khai nhất. Họ lại lạm quyền nói thay nhân dân.

Văn kiện lập luận rằng :" không phải có nhiều đảng chính trị là có dân chủ, và không phải có một đảng là không có dân chủ ". Lập luận này chỉ đúng một nửa, nửa trên đúng. Còn nửa dưới sai. Cần chỉ rõ một chân lý chung nhất: dân chủ chỉ có thật khi công nhận nhiều tiếng nói, nhiều tổ chức, nhiều đảng phái. Hiến pháp công nhận quyền tự do tư tưởng, tự do tổ chức, tự do lập hội là mặc nhiên công nhận chế độ đa đảng. Vì trong xã hội có nhiều tư tưởng thì ắt dẫn đến có nhiều tổ chức chính trị một cách hợp lý. Trên thế giới hầu hết các nước đã thực hiện chế độ đa đảng. Những nước xã hội chủ nghĩa cũ hay ở trong thế giới thứ ba đã lần lượt chuyển sang chế độ đa đảng. Đó là Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Bulgarie, Hungari. Cho đến Nam Tư, Albanie, Mông Cổ đều thực hiện chế độ đa đảng. Phi châu cũng thực hiện chế độ đa đảng. Họ đi vào đường mù quáng sai lầm cả ư? Không! trái lại, chế độ độc dang là nguyên nhân của tình trạng độc đoán, quan liêu, xa rời thực tế tai hại.

Vấn đề cần bàn bạc kỹ lưỡng ở nước ta là thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng như thế nào cho tốt đẹp, là chuyển từ chế độ độc đảng sang chế độ nhiều đảng sao cho thuận buồm xuôi gió, không gây nên hỗn loạn xã hội. Vấn đề là ở chỗ đó, chứ không phải là lắc đâu nguây nguẩy, một mực từ chối đa nguyên chính trị trong tâm lý sợ hãi.

Cần giữ niềm tin ở nhân dân, ở công dân nước ta. Cần hiểu sâu sắc nhân dân Việt Nam có trình độ chính trị khá vững vàng, có truyền thống đoàn kết và nhân ái rất tinh tường, phân biệt ai có thiện chí đối với đất nước, ai đi ngược lại lợi ích của dân tộc và nhân dân. Nhân dân là trọng tài minh mẫn, nắm trong tay lá phiếu - quyền phán xét chuẩn xác. Họ có đủ sáng suốt để vạch mặt chỉ tên những kẻ có dã tâm gây rối, những kẻ mỵ dân... Luật pháp cần phải nghiêm để trừng trị kịp thời những kẻ cố tình gây bạo loạn. Qúa trình dân chủ hóa chính trị phải dứt khoát đi vào con đường đa nguyên. Giống như dân chủ hóa kinh tế phải dứt khoát đi vào con đường sản xuất hàng hóa và thị trường. Hai quá trình ấy gắn bó chặt chẽ, tạo điều kiện thúc đẩy lẫn nhau phát triển.

Điều hợp lý là nghĩ đến phương án đi thận trọng từng bước. Nên vận động, thuyết phục hoặc có những quy định dân chủ để bước đầu chỉ nên có vài tổ chức chính trị xuất hiện. Nhân dân ta có truyền thống văn hóa sâu đậm. Đất nước Việt Nam là đất nước văn hiến lâu đời. Đối xử giữa những tổ chức chính trị sẽ có nhiều khả năng là sự đối xử lịch sự, có văn hóa, tôn trọng lẫn nhau, đối thoại, tranh luận trong không khí ôn hòa, bình đẳng và trung thực. Đối lập trong xây dựng và đấu tranh thẳng thắn với nhau, chứ không phải đối lập trong sống mái và sát phạt lẫn nhau. Thực hiện được như vậy, cuộc sống chính trị của nhân dân ta sẽ bước một bước khá dài trên con đường dân chủ hóa. Lợi thưc tế là rất lớn. Lòng dân sẽ yên. Trí tuệ của nhân dân sẽ được phát huy. Đảng cộng sản sẽ có điều kiện để xét lại mình, rũ bỏ được những sai lầm và cố tật, có thể khôi phục được niềm tin trong lòng dân (chứ không phải chỉ ghi bằng chủ nghĩa trong điều 4 của Hiến pháp). Sinh hoạt chính trị và kinh tế sẽ khởi sắc và tiến bộ. Một xã hội luật pháp được hình thành. Nhân dân tự tin, có trách nhiệm, thận trọng, đắn đo lựa chọn người đại diện cho mình, điều mà gần 50 năm nay họ không thực hiện được vì không có sự tự lựa chọn, các cuộc bỏ phiếu đều hình thức, không có thực chất. Qua quá trinh dân chủ hóa như trên, nhân dân có quyền tự lựa chọn nhân tài cho đất nước. Chính quyền do dân và vì dân sẽ không còn ở trên giấy mà đi vào cuộc sống.

Tôi xin nhắc lại : phản đối và bác bỏ đa nguyên, đảng cộng sản đã vi phạm tinh thần và lời văn của Hiến Pháp nước ta, tỏ ra không tin ở nhân dân, trốn tránh sự phán quyết công minh của cử tri và tạo nên một tư thế chính trị rất yếu kém của đất nước trước cộng đồng thế giới.

Sắp tới, ở Campuchia sẽ thực hiện đa nguyên chính trị, với cuộc tranh cử tự do của các phe phái đối lập để lập nên chính phủ liên hiệp. Điều này hợp với trào lưu chung của thế giới.

Một hướng chính trị quan trọng là sau 30 năm chiến tranh ở nước ta, nên quan tâm xây dựng hòa bình, đoàn kết và hòa hợp, dân chủ và nhân ái. Chiến tranh đã chấm dứt, nhưng di chứng nó để lại khá sâu trong nội tâm mỗi người. Người chiến thắng, kẻ chiến bại, người chính nghĩa, kẻ phản động, người cộng sản, kẻ quốc gia, người là chính, là phải, kẻ là tà, là ngụy... Cần làm tất cả để những vết thương lòng kín thành sẹo, Việc ra đi dai dẳng, không sao chấm dứt được của hàng trăm, hàng ngàn" thuyền nhân " mỗi tháng bất chấp hiểm nguy ngoài biển cả phải là nỗi lo âu của cả nước. Chương trình ra đi có trật tự ODP và chương trình ra đi nhân đạo HO (có thể đi đến gần nửa triệu người) là điều không bình thường. Họ phải gạt nước mắt rời bỏ tổ quốc một cách miễn cưỡng, cho thấy những vết thương chiến tranh của dân tộc ta vẫn còn rỉ máu, và còn lâu mới thành sẹo. Đã có người đặt chân lên đất Hoa Kỳ được vài ngày thì tự vận vì cảm thấy cuộc sống bơ vơ, gay gắt không như họ hy vọng. Biện pháp để giải quyết vấn đề trên đây là chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc sâu sắc (tuy quá chậm còn hơn không) thấm nhuần đạo lý và lòng nhân ái của dân tộc, nêu lên quyền bình đẳng về nhân cách và quyền lợi của mọi công dân, bất cứ quá khứ ra sao. Để những người miễn cưỡng định ra đi có thể lựa chọn sự Ở lại, cùng chung lòng, chung sức xây dựng đất nước mình, giữa tình thương yêu của đồng bào mình. Hãy xóa bỏ và gạt sang một bên những tỵ hiềm, những thù oán do lịch sử để lại. Những định kiến của người phía bên này đối với người phía bên kia cũng nên gác lại. Hãy nhìn nhau, mặt đối mặt, như những anh em ruột thịt. Hãy coi nhau như những người con cùng một tổ tiên, cùng ông bà, cha mẹ. Sự đối địch dù sao cũng chỉ là tạm thời, do hoàn cảnh lịch sử chi phối, một phần do những lực lượng bên ngoài. Những cảnh giết hại lẫn nhau, bắn chém nhau chỉ là bất đắc dĩ. Chẳng khác gì trên cùng một cơ thể, tay trái, tay phải đánh đấm, cào cấu nhau, đâm chém nhau vậy. Đã đến lúc hồi tỉnh, bình tâm nhìn lại tất cả. Để những người lương thiện của 2 bên đi đến hiểu nhau, nhân ái và độ lượng, tương kính và khoan dung, với ý nghĩa chung: mỗi bên đã yêu nước bằng những cách khác nhau, nay vẫn là lòng yêu nước gắn bó nhau trở lại để bắt tay vào xây dựng lại đất nước hoang tàn, vì cuộc sống của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Cố gắng đạt đến một sự thỏa thuận chung là chấm dứt đả kích, moi móc, nặng lời với nhau, chung sức, chung lòng xây dựng tương lai. Chủ trương đoàn kết, hòa hợp ấy được thực hiện sẽ làm cho nhân dân cả nước phấn chấn, gần 2 triệu người Việt ở nước ngoài yên lòng. Một không khí hòa giải sẽ xuất hiện, cổ vũ những người có tài năng và tâm lòng ở trong và ngoài nước đóng góp hết sức mình cho sự nghiệp phục hưng tổ quốc. Đối với bà con Việt kiều ở hải ngoại những cuộc vận động tiếp sức cho sự phát triển của tổ quốc sẽ mang quy mô rộng, hiệu quả cao, không rời rạc, ngập ngừng như hiện nay. Những chất xám Việt Nam ở nước ngoài có giá trị cao sẵn sàng trở về (một thời gian hay về hẳn) để đóng góp cho đất nước những trí thức, kinh nghiệm về quản lý, kinh doanh, khoa học kỹ thuật quý báu. Nỗi bất hạnh xa rời tố quốc, của hàng triệu con người được chuyển thành một lợi thế độc đáo, thu hút những tài năng trở về giúp nước, tăng chất lượng, tốc độ phát triển của đất nước.

Về chính sách đối ngoại, cần kiến trúc lại cho thích ứng với những thay đổi cực kỳ lớn lao đã diễn ra trên thế giới trong thời gian gần đây. Phải đưa đất nước Việt Nam ta hòa nhập vào cộng động quốc tế. Phải thoát ly dứt khoát khỏi sự phân chia giáo điều cũ kỹ :" hai phe, bốn mâu thuẫn"... Phải tỉnh táo gác bỏ kết luận về" nội dung cơ bản của thời đại ngày nay là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới ". Đó là kiểu nói lấy được, chủ quan, không có cơ sở thực tiễn, cũng như kiểu nói cố đấm ăn xôi rằng, chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết vậy.

Hội nhập với thế giới thì phải thực hiện những gì ta đã cam kết khi gia nhập. Liên Hợp Quốc. Chủ động và tự giác mà thực hiện. Trước hết về quyền con người, về quyền công dân. Sẽ không còn công dân nào bị bắt bớ, bị giam cầm hay bị quấy rầy do những quan điểm, tư tưởng thuộc ý thức hệ này hay ý thức hệ khác. Hãy từ bỏ sự cưỡng bức về nhận thức và tư tưởng, ví dụ như sự khẳng định yêu nước là phải yêu chủ nghĩa xã hội. Mỗi công dân có quyền suy nghĩ và có nhận thức riêng của mình qua sự xét đoán của chính mình. Không ai có quyền gò ép cả.

Không thể dửng dưng, vô trách nhiệm bất chấp dư luận thế giới phủi tay trước hàng mấy trăm trường hợp từ ủy viên trung ương, cán bộ cao cấp, tướng tá cho đến công dân thường bị xử oan, bị án oan, án giả, quy chụp, tù đàng trong suốt mấy chục năm qua.

Sòng phẳng và công bằng trả lại tư do cho tất cả những người đang bị bắt giữ, bị giam tù vì những quan niệm chính trị hay tôn giáo của họ. Hiện nay Việt Nam mang cái tiếng là nước vi phạm nhân quyền, nước vi phạm quyền công dân vào loại cao nhất! Hàng loạt vụ án chính trị " chống đảng ", " xét lại" " chống chủ nghĩa xã hội ", "phản động "... cần có một tổ chức pháp lý kết luận lại. Phải minh oan cho những người bị xử oan. Phải đính chính cho những trường hợp bị giam, bị phạt nặng hơn sự cần thiết. Phải xin lỗi, đền bù những tổn thất theo đúng luật. Làm được những điều ấy, không những nhà cầm quyền không mất uy tín mà còn được hoan nghênh. Nhân dân và cả thế giới trông đợi. Im lặng, ỉm đi thì lòng dân không sao yên được, công bằng xã hội chỉ là nói hão, trên giấy. Cả thế giới tiến bộ không chấp nhận thái độ bất nhân.

Cần chủ động đi những bước lớn, thật lòng hòa giải với những kẻ thù cũ : Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc và những đồng minh của các nước này. Cần tìm ra những sáng kiến để sớm đi đến bình thường hóa một cách tốt đẹp nhất, có lợi cho các bên, đồng thời trên nhiều hứơng.

Quan hệ với Hoa Kỳ có ý nghĩa quan trọng bậc nhất. Trong vấn đề tù binh chiến tranh (POW) và người mất tích khi làm nhiệm vụ (MIA), có biện pháp để chủ động xóa tan những hoài nghi. Tất cả những tù binh phía Việt Nam giữ đã trao trả hết cho phía Hoa Kỳ sau Hiệp định Paris. Trường hợp anh lính Garwood tự nguyện ở lại, đến 1979 mới về Mỹ là trường hợp duy nhất. Hài cốt lính Mỹ tìm ra được đến đâu là giao cho phía Hoa Kỳ. Những tin tức về tù binh Mỹ vẫn còn ở Việt Nam là thất thiệt, là những tin đồn có động cơ không lành mạnh, hoặc do những lầm lẫn.

Tôi đã theo dõi khá chặt vấn đề tù binh Mỹ ở miền Bắc và đã viết một cuốn sách về họ. Tôi đã gặp khá nhiều tù binh Mỹ từ năm 1967 đến năm 1973 và thường xuyên tiếp xúc với cơ quan của Bộ Quốc Phòng phụ trách vấn đề này. Tôi khẳng định dứt khoát và có cơ sở là hoàn toàn không còn một quân nhân Mỹ nào còn sống ở Việt Nam cả. Tôi khẳng định điều này trên tinh thần thông cảm sâu sắc và tôn trọng tình cảm của những gia đình, thân nhân của các quân nhân Mỹ bị mất tích, mà chưa có tin tức về trường hợp hy sinh của họ. Không thể để cho những gia đình ấy sống trong tình trạng phấp phỏng, hoài nghi và hy vọng không có chút cơ sở thực tế, để rồi sẽ bị thất vọng một cách đau khổ. Tôi đề xuất một cách làm : phía Việt Nam đồng ý để phía Mỹ, những đại diện của chính quyền Mỹ đại diện của những gia đình quân nhân Mỹ bị mất tích tự do đi đến những địa phương mà họ muốn làm công tác điều tra cần thiết. Phía Việt Nam tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, dễ dàng nhất, hợp tác với phía Mỹ một cách thành thật, vô tư, không chút vụ lợi. Bất cứ chi tiết nào phía Mỹ nêu ra về vấn đề nào cũng sẽ được phía Việt Nam đón nhận, chung sức làm sáng tỏ trong khả năng cố gắng cao nhất.

Trong vấn đề Campuchia (là một điểm then chốt trong quan hệ Việt- Mỹ), cần công khai, sòng phẳng theo lập trường hoàn toàn tôn trọng độc lập, chủ quyền của Campuchia, để người Campuchia giải quyết với nhau vấn đề của nước họ, với sự giám sát của Liên Hợp Quốc, của Hội Đồng Bảo An. Nhân đây cũng cần nhận rõ : chúng ta đã để bộ đội Việt Nam quá lâu ở Campuchia là sai lầm (gần 10 năm), hơn 100. 000 thương binh Việt Nam do cuộc chiến tranh này gây ra, cần có chính sách chăm lo một cách chu đáo. Một số khá đông anh em bị cụt chân. Cần công khai xin lỗi phía Campuchia về việc làm sai trái của một số chuyên gia Việt Nam ở bên đó (từ năm 1979 đến năm 1990), những việc làm bao biện, mang ý thức nước lớn, gia trưởng, thiếu tôn trọng chủ quyền nước bạn, kể công... Cũng cần khẳng định rằng việc đưa bộ đội vào Campuchia là cần thiết và chính đáng, nhầm bảo vệ an ninh của đất nước mình, đồng thời để cứu một dân tộc khởi bị tàn sát. Nhưng sau đó chủ trương xây dựng một liên minh đặc biệt của ba nước Đông Dương mang tính chất chủ quan, lỗi thời, không thích hợp với tình hình đang phát triển, gây căng thẳng không cần thiết trong khu vực. Việc này bị thế giới lên án rất mạnh mẽ và do đó Việt Nam bị cô lập kéo dài.

Chủ trương đoàn kết, hòa hợp với những người Việt Nam với nhau (trước kia ở hai trận tuyến) gắn liền với chủ chương thật lòng hòa giải với nước Mỹ. Nên đặt vấn đề với Hoa Kỳ trên tinh thần nhân đạo cùng phối hợp chăm sóc những nạn nhân chiến tranh ở cả hai miền, thuộc cả hai phía trong chiến tranh. Cùng phối hợp chăm sóc các thương binh, những người tàn tật, những gia đình có người thân hy sinh trong chiến tranh, những cựu sĩ quan, những công chức về hưu (của cả hai phía).

Hoàn cảnh lịch sử đã dẫn đến cuộc đụng đầu giữa Hoa Kỳ và Việt nam, mang lại những tổn thất to lớn về người và của cho cả hai bên. Có những mất mát không gì hàn gắn được. Nay đã đến lúc dứt khoát giở sang trang khác trong mối quan hệ giữa hai nước. Hãy xây dựng giữa nhân dân hai nước một tình bạn lâu bền và sâu sắc. Từ năm 1988, tôi viết bài nói quan hệ Việt- Mỹ, duyên hay là nợ? theo tinh thần này.

Hãy mở rộng quan hệ giữa những cựu binh, kể cả thương binh, giữa văn nghệ sĩ với nhau, giữa các trường đại học, viện nghiên cứu, giữa các tổ chức phụ nữ, thanh niên, lao động, công đòan của hai nước, dựa trên lòng tin và tình bạn. Luận điệu cho rằng hiện nay đế quốc Mỹ và phản động đang tập trung sức để lật đổ chính quyền ở Việt Nam là một luận điệu chủ quan, mang nặng tâm lý suy diễn, hoảng hốt, mang dấu ấn của thời kỳ đối địch đã thuộc về quá khứ. Thật ra chính giới Hoa Kỳ cũng chỉ mong cho nước Viêt Nam ổn định, dân chủ hóa đồng bộ cả về chính trị và kinh tế, gia nhập một cách thuận lợi vào cuộc sống của cộng động thế giới. Mong muốn ấy phù hợp với ước vọng của nhân dân ta.

Khi đất nước ta đi vào con đường dân chủ hóa, đoàn kết hòa hợp dân tộc, nên nghĩ đến việc chủ động mời tổng thống Mỹ, tổng thống hoặc thủ tướng Pháp, thủ tướng Nhật Bản và Trung Quốc, mời Đức Giáo Hoàng viếng thăm nước ta để có thể tìm hiểu rõ tình hình, thấy tình cảm mới mẻ của nhân dân ta giành cho những nước vốn là thù địch. Việt Nam không bao giờ để lòng để dạ những mối thù trong quá khứ.

Chúng ta chủ động tạo nên những điều kiện để tranh thủ đầu tư quy mô lớn, cũng như sự giúp dỡ cho vay của các nước và các tổ chức quốc tế như ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF). Trong không khí tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, Việt Nam nên sớm mời một số chuyên gia quốc tế am hiểu về kinh tế, tài chính, ngân hàng, quản trị công nghiệp, quản lý kinh doanh, quản lý thị trường, luật pháp, tư nhân hóa, áp dụng công nghệ mới, chuyển giao kỹ thuật... đến cùng chuyên gia ta lập các phương án về sản xuất, quản lý, kinh doanh, đào tạo cán bộ chuyên ngành theo những nội dung và tiêu chuẩn của thế giới.

Một chuyên gia kinh tế Nhật Bản nhận xét rằng: Việt nam vẫn chưa từ bỏ bệnh chủ quan ngay trong đại hội 7. Các đại biểu khi giơ tay biểu quyết đến năm 1995 đất nước nhất định sẽ căn bản ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tài chính, chỉ biểu lộ một quyết tâm, một mong muốn chủ quan không có cơ sở. Tính khả thi, lại giống như nghị quyết của các đại hội trước, là hoàn toàn đáng ngờ! Quả nhiên ngay sau đại hội, giá vàng, giá gạo, giá đô- la đều tăng vọt, bất chấp những quyết định vừa được biểu quyết!... Nghị quyết một đàng, cuộc sống đi một nẻo.

Khi có lòng tin cậy nhau, chính phủ dân chủ thật sự do dân và vì dân có thể thẳng thắn trình bầy với các nước quan tâm đến tình hình nước ta về thực trạng của đất nước mình, số dân, số lao động, số thất nghiệp, số người tàn tật, số thương binh nặng (của cả hai phía), số trẻ em suy dinh dưỡng... Tình trạng nền kinh tế, giáo dục của nước ta. Thực trang hạ tầng cơ sở. Những vấn đề cấp bách cần ưu tiên giải quyết, vấn đề tài chính, ngân hàng, vấn đề nợ nước ngoài, những ý kiến đề xuất của ta, của các chuyên gia quốc tế.

Theo những tính toán sơ bộ của những chuyên gia am hiểu của ESCAP (ủy ban kinh tế xã hội châu á và Thái Bình Dương) thuộc Liên Hợp Quốc, trong điều kiện Viêt Nam hiện tại (với thu nhập tính theo đầu người dưới 200 đô la) muốn có bước phát triển vừa phải để khỏi tụt hậu thêm so với các nước láng giềng Đông Nam á thì trong 5 năm tới, mỗi năm Việt Nam cần được đầu tư từ 4 đến 6 tỷ đô la (trong năm năm là từ 20 đến 30 tỷ đô la), và năm năm tiếp theo (1995- 2000) mỗi năm cần chừng 5 tỷ đến 8 tỷ đô la.

Họ cho rằng những con số có vẻ to lớn trên đây là cần thiết, vì Việt Nam đã trải qua chiến tranh quá lâu dài (hơn 30 năm), chịu đựng 10 triệu tấn bom đạn, cơ sở hạ tầng bị tàn phá nặng nề, hồi phục chưa được mấy. Không có sự giúp dỡ khởi đầu của một số cường quốc thế giới thì khó có thể bước vào thời kỳ phát triển được. Việt Nam cần một kế hoạch như kế hoạch Marshall ở Tây Âu sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Bảy nước công nghiệp phát triển đang nghiên cưú vấn đề giúp dỡ Liên Xô. Các nước Tây Âu đang nghiên cứu vấn đề giúp dỡ các nước Đông Âu (qua ngân hàng BERD chẳng hạn).

Một số chuyên gia nhấn mạnh đến vấn đề ưu tiên cấp bách : dựng dậy hệ thống giáo dục đang xuống cấp nhanh (cơ sở đào tạo nhân tài và truyền bá kiến thức), dựng dậy hệ thống y tế cũng đang xuống dốc, kể cả việc khắc phục nạn suy dinh dưỡng trẻ em với diện rộng (cơ sở của sức khỏe, sức lao động của nòi giống Việt Nam), củng cố hệ thống giao thông vận tải đã xuống cấp nhanh, quá lạc hậu (đường xá, cầu và cảng... ), những yêu cầu ấy đều có tính chất SOS - cấp cứu!

Chỉ có mời những chuyên gia quốc tế am hiểu các lĩnh vực, giầu kinh nghiệm mới có thể đề ra những kế hoạch khả thi, có cơ sở khoa học và khi thực hiện mới thuận lợi.

Đã đến lúc cần thiết đề xuất việc lập ra một Quỹ phát triển Việt Nam (Fund for development of Viet Nam) hoặc một ngân hàng phát triển Việt Nam (Bank for development of Viet Nam, BDV), tập trung các nguồn tài chính, phân phối, điều hòa, kiểm tra việc chi tiêu, dưới sự quản lý điều hành của chính phủ Việt Nam cũng đại diện một số tổ chức quốc tế.

Hiện nay Việt Nam mới nhận được sự hợp tác và đầu tư nước ngoài có giá trị gần 2 tỷ đô la (trong đó mới có 400 triệu đô la là được thực hiện) là quá thấp nếu so sánh với số dân đã lên tới 67 triệu (Tính theo đầu người, mỗi người chưa đạt được tới 40 đô la trên ký kết và trên thực hiện mỗi người chưa đạt 6 đô la). Ngay khi dầu hỏa khai thác, mỗi năm đạt chừng 2 tỷ đô la tiền lãi, thì mỗi đầu người cũng mới chỉ vẻn vẹn chưa đươc 30 đô la.
° ° °

Lãnh đạo là dự kiến- Lãnh đạo là nhìn xa trong rộng- Lãnh đạo là suy luận khoa học, nghĩ đến tất cả khả năng có thể có, để lựa chọn khả năng tối ưu. Lãnh đạo không bao giờ được chủ quan, có chủ định trước rồi chỉ nghĩ theo đường mòn ấy. Sẽ sa vào sự thiển cận nghèo nàn - Lãnh đạo là nhìn tới phía trước không để cho quá khứ, kinh nghiệm cũ, vết mòn cũ chi phối. Tình thế luôn thay đổi. Lãnh đạo còn là tưởng tượng, còn phải biết mơ mộng - Không phải mơ những chuyện cao xa, viễn vông, mà phải biết nghĩ đến những vấn đề ít người dám nghĩ đến, tưởng như vô lý, cuối cùng lại hóa ra thực tế, thực hiện được.



Trên đây đã trình bầy một phương án hành động cần lựa chọn.


ở trong nước, sẽ có người cho rằng, những ý kiến này mạnh mẽ quá, cực đoan quá, mang ảo tưởng, không thực tế, không thể nào chấp nhận được! ở nước ngoài sẽ có người phê phán phương án này là cải lương, nhẹ nhàng quá, rằng chế độ hiện nay đã thật sự lỗi thời, cần xóa bỏ.

Tôi cho rằng ý kiến tôi đề đạt là thiết thực, hợp lý, thích ứng với thực tiễn hiện nay, mang tính chất đúng mực để đạt tới một thay đổi cơ bản có lợi cho đất nước.

Về mặt quốc tế, chúng ta đang ở tình trạng không thuận lợi. Sự lãnh đạo bảo thủ, bám giữ những tín điều cũ, tình trạng thiếu luật pháp, rối rắm trong điều hành bộ máy... tệ hối lộ tham nhũng dai dẳng, hạ tầng cơ sở yếu kém... làm cho những người có thiện chí dè dặt, e ngại đầu tư vốn vào.

Các cường quốc lại đang có những mối quan tâm lớn ở các khu vực khác : Trung Cận Đông, Đông Âu, Liên Xô... Việt Nam không là khu vực mang lợi ích sống còn, thiết yếu của họ. Chớ kiêu ngạo nghĩ rằng : họ cần ta hơn là ta cần họ! Ta giầu tài nguyên, như có gái đẹp lắm của hồi môn, ai cũng muốn ve vãn! Sự thật không phải như vậy. Ta cần họ hơn họ cần ta. Ta có ít nhiều tài nguyên, nhưng không hấp dẫn lắm vì thiếu luật pháp, thiếu ổn định, không gây được niềm tin lâu bền.

Đổi mới kinh tế mạnh dạn đi đôi với đổi mới chính trị sâu sắc. Thực hiện đa nguyên một cách chủ động để có một chế độ dân chủ hợp trào lưu chung. Thực hiện tốt đẹp sự chuyển tiếp từ chế độ độc đảng sáng chế độ đa đảng, xây dựng một nhà nước pháp quyền, một xã hội công dân, trong đó người dân tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước. Đó là tạo nên một sự thay đổi đủ liều lượng, ngoạn mục, mang tính cách mạng sâu sắc theo hướng tiến bộ và hiện đại. Đạt được những điều ấy Việt Nam mới trở nên hấp dẫn, thu hút mạnh mẽ sự quan tâm, cộng tác, trợ giúp của cộng đồng quốc tế.

Phương án trên đây thực hiện dễ hay khó? Khó vì đang có quá nhiều lực cản. Vì những quan niệm giáo điều, bảo thủ vẫn còn nặng nề trong bộ máy cầm quyền. Vì sự phi lý vẫn còn được chấp nhận :

Đổi mới về kinh tế đi cùng với sự trở về cái cũ của chính trị, tình trạng tréo cẳng ngỗng tự nó sẽ tàn phá cả kinh tế và chính trị, gây hốn loạn thêm cho đất nước. Vì người dân vẫn chưa được nói lên sự lựa chọn quyết định của mình.

Dễ vì tất cả các phương án suy nghĩ và hành động trên đây rõ ràng đồng bộ, thành một thể thống nhất, được xây dựng trên lẽ phải, sự hiểu biết và lương tri bình thường của con người. Nó hợp với đạo lý và lòng dân, nó cũng hợp với xu thế của thời đại. Cái được của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân là rất lớn - Có mất chăng chỉ là mất những ảo tưởng chủ quan, những điều đẹp chưa có thật, những ý đồ có vẻ tốt nhưng xa vời.

Người dân có quyền sở hữu chính đáng và lâu dài sẽ ra sức đầu tư sức lực của cải cho đồng ruộng của mình, sản lượng sẽ tăng lớn - Nông nghiệp sẽ phát triển. Công nghiệp và thủ công nghiệp phát triển do được tự do kinh doanh- Người có của, có tài kinh doanh sẽ đầu tư sản xuất hàng hóa làm cho công nghiệp dân tộc sống động. Nhà nước có điều kiện chăm sóc cho công dân quốc doanh, không bao biện, bao cấp tràn lan - Nhà nước sẽ thu được thuế ngày càng lớn - Trí thức, chất xám được coi trọng- Sự nghiệp y tế giáo dục được chăm lo tốt hơn - Văn học, nghệ thuật phát triển trong không khí tự do sáng tạo. Tất cả những đối tượng gặp khó khăn trong xã hội : người cao tuổi, thương binh, người tàn tật, viên chức về hưu... có điều kiện được chăm sóc tốt hơn.

Thanh niên thấy rõ hướng đi lên trong một xã hội dân chủ, giữa môi trường thuận lợi cho sự phát triển tài năng một cách bình đẳng. Do đó tuổi trẻ sẽ là lực lượng tiền phong hoan nghênh và nhiệt tình cổ vũ cho phương án này.

Những người cộng sản, nhất là những cán bộ lâu năm, phần lớn đã nghỉ hưu, còn e ngại rằng những đổi thay quá mạnh mẽ sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến xã hội và lợi ích của bản thân. Họ có thể thay phương án này mà tôi kiến nghị là tối ưu và yên lòng. Họ càng phấn chấn nếu thật sự họ là người lương thiện, lo cái lo của dân, của nước. Những người cộng sản hiện ở cương vị lãnh đạo (trong Quốc hội, trong Ban chấp hành trung ương, Ban bí thư và Bộ Chính Trị vừa được bầu), nếu có công tâm, liên khiết và thiện chí, cũng có thể nhận ra phương án này là hợp lý, để đồng tình và ủng hộ.

Cán bộ và chiến sĩ quân đội, an ninh có thể nhận rõ phương án này mang lại cơm no áo ấm, cuộc sống ổn định cho gia đình mình ở thành thị và nông thôn.

Một số người tháo vát, khôn khéo hiện đang tận dụng những kẽ hở của cơ chế để kiếm lợi cũng tán thành thay đổi để làm ăn đàng hoàng và lâu bền, chấm dứt chụp giựt trong hỗn loạn.

Phương án này khả dĩ tạo nên niềm tin trong nhân dân phù hợp với những khát vọng sâu xa và chính đáng của họ: Kinh tế phát triển, nếp sống dân chủ, con người được tự do, mỗi công dân được tôn trọng, công bằng xã hội được đảm bảo, giải thoát cho họ những lo âu hiện tại, do xã hội băng hoại, đạo đức sa sút, con em bị hư hỏng.

Cần vặt trần những thủ đoạn hù dọa của những người yếu bóng vía, những kẻ muốn giữ đến cùng cuộc sống độc đóan gia trưởng, đặc quyền, đặc lợi. Ở đại hội 7 họ viện cớ rằng nếu thực hiện đa đảng thì sẽ hốn loạn to, hàng trăm " tổ chức chính trị phản động " sẽ xuất hiện, " mọc lên như nấm ", bọn " phản động " từ nước ngoài sẽ ào ạt trở về! Họ mất lòng tin ở nhân dân, ở sự phán xét chân thật của nhân dân. Nhân dân ta rất sáng suốt - Ai thật sự là phản động, chống lại lợi ích của nhân dân, sẽ bị nhân dân thẳng tay gạt bỏ. Sẽ có những quy định cần thiết mang tính luật pháp để đảm bảo các cuộc bầu cử thật sự tự do trong trật tự và kỹ luật. Nếu cần sẽ có sự quan sát cuả các cơ quan truyền thông và các tổ chức quốc tế - như ở trong bất cứ đất nước văn minh nào. Cuộc đảo chính tuyệt vọng và thất bại thảm hại của bọn giáo điều bảo thủ ở Liên Xô tháng 8 vừa qua chứng tỏ không ai có thể lưỡng lại, trào lưu dân chủ, dù chúng là phó tổng thống, bộ trưởng an ninh, bộ trưởng quốc phòng... tại đó ý dân là ý trời được biểu lộ một cách hùng hồn và sâu sắc. Bộ máy cảnh sát, quân đội, mật vụ đã ngã theo nhân dân. Đó là lời cảnh cáo đanh thép đối với những kẻ giáo điều, ngoan cố, coi thường nhân dân ở mọi mặt.

Đông đảo bà con Việt kiều rất mong muốn thấy nước nhà đổi thay theo hướng tiến bị, đoàn kết, hòa hợp và đa nguyên. Trong hai triệu người gốc Việt ở nước ngoài vẫn còn có người giữ mối thù sâu đậm với những người cộng sản, chủ trương " dùng bạo lực để giải phóng đồng bào " (!), như họ nói. Nhưng họ thiếu cả thế và lực. Hàng ngũ họ ngày càng ít ỏi. Nhân dân không thể chấp nhận bạo lực và nội chiến. Xương máu của nhân dân đã bị phung phí quá nhiều rồi. Chỉ còn con đường đấu tranh không bạo lực. Hầu hết bà con Việt kiều hiện nay mang quốc tịch nước sở tại để tiện làm ăn sinh sống, họ không còn là công dân, họ không còn là công dân Việt Nam, nên khó có thể trở về trực tiếp tham gia cuộc bầu cử nếu có. Đông đảo bà con rất tha thiết với công cuộc dân chủ hóa của đất nước và mong muốn tham gia thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ấy bằng mọi khả năng của mình cũng như đóng góp có hiệu quả cho sự nghiệp phát triển đất nước sau đó.

Bà con Việt kiều có tấm lòng thành với đất nước, xin yên lòng. Đông đảo nhân dân trong nước đều có khát vọng dân chủ sâu sắc và sẽ làm tốt nghĩa vụ công dân. Chính đồng bào trong nước mới là lực lượng hùng hậu trực tiếp quyết định sự đổi thay của đất nước. Sức hổ trợ của Việt kiều dân chủ là rất quan trọng. Do những thành tựu kỳ diệu của truyền thống qua máy thu thanh, máy truyền hình, máy ghi âm, tình hình các nước đã lọt vào phòng ngủ của mỗi gia đình, tất cả sự bưng bít tin tức đều không hiểu quả... Cuộc sống dân chủ ở các nước nung nấu khát vọng dân chủ của người Việt Nam ta. Lạc hậu về chính trị là đầu mối của các lạc hậu khác. Khát vọng dân chủ, khát vọng về quyền sở hữu ruộng đất, quyền tự do kinh doanh, quyền tự hữu chính đáng, chỉ chờ dịp tốt là bóc lộ đầy đủ, với khí thế xung thiên, không có cách gì dập tắt nổi.

Khi có bầu cử thật sự tự do hơn 40 triệu công dân ta ở trong nước đến độ tuổi đi bầu sẽ xử dụng lá phiếu của mình một cách sáng suốt. Tôi hình dung đó sẽ là ngày hội tưng bừng, sôi nổi và sâu sắc nhất của đất nước ta- Tôi ước mong các nhạc sĩ có tâm huyết để sớm sáng tác những bài hát cho sự kiện lịch sử này, theo nội dung: dân chủ, đa nguyên, đoàn kết, hòa hợp, nhìn tới tương lai, phấn đấu để xây dựng Tổ quốc ấm no phồn thịnh, mỗi con người tự do là một ngôi sao (không phải là hạt cát) xóa bỏ chia rẽ và hận thù, nêu cao nhân ái và hòa hợp - Lịch sử để sang trang mới từ đây.

Tôi hình dung ra lúc ấy, mỗi ngừơi sẽ chăm chú chờ đợi và theo dõi qua màn truyền hình và máy thu thanh những buổi họp của quốc hội dân chủ, những cuộc tranh luận soi nổi, những ý kiến đặc sắc, cả những lập luận và chính kiến khác hẳn nhau. Thế mới thật sự là dân chủ. Các cuộc bỏ phiếu có thể đạt nhất trí rất cao, cũng có thể không có đa số tuyệt đối, chỉ có đa số tương đối, nhưng tất cả đều phản ánh sự thật. Không phải như trước đây ở quốc hội, mỗi cuộc bỏ phiếu bầu đại biểu đều đạt 100%, hoặc 99. 9%, các cuộc bỏ phiếu kiểu giơ tay đều đạt trên dưới 90%. Ở đại hội 7 đảng cộng sản vừa qua, có những cuộc bỏ phiếu đạt 93%, 85%, 83% được coi là khác trước, là mới mẻ, nhưng thật ra vẫn là dân chủ hình thức, dân chủ hạn chế, thực chất là không dân chủ.

Tại đại hội 7, vẫn là những thảm luận mang tính chất tập thể, đựơc bàn bạc, cân nhắc, gọt rửa sao cho tròn trịa - Những ý kiến cá nhân mới mẻ, có góc cạnh bị bóp nghẹt từ trước. Chưa họp, mọi người đều đã biết trước kết quả! Rõ ràng lấy cái có " dân chủ có lãnh đạo", "dân chủ tập trung " để nhằm hạn chế quyền dân chủ. Trong quốc hội trước đây những ý kiến hay, đặc sắc, mang tính sáng tạo, rất bổ ích và thiết thực đều bị ngăn chận, những lời căn ngăn, phát hiện sai lầm của những người hiểu biết, cương trực đều bị bỏ ngoài tai - Nhân dân ta đã phải cay đắng biết bao để trả giá cho những kiểu dân chủ hình thức ấy. Đảng phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác và chỉ chịu nhận sai lầm công khai một cách chiêu lệ khi người dân đã phải trả giá nặng nề rồi! Tội ác của sự báo thù ngoan cố, mang tính độc đoán phản dân chủ là ở chỗ đó.

Sớm hay muộn, dứt khóat đất nước ta sẽ đi vào nền dân chủ đa nguyên, như một trăm nước trên thế giới- Những đầu óc tự cho là tiền phong nhưng lại chậm tiến, chuyên nói thao thao bất tuyệt " do dân, vì dân " nhưng lại rất sợ nhân dân nắm chắc quyền dân chủ trong tay, nhất định không thể ngăn chặn được xu thế và quy luật. ý dân là ý trời. Tuổi trẻ ngày nay nhất định sẽ sống trong một xã hội dân chủ và đa nguyên - Có thể sớm, sớm hơn dự kiến - Đó sẽ là bước nhẩy vọt về chất của xã hội ta. Tôi tin là nó sẽ đến sớm.

" Bản kiến nghị của một công dân ", đưa ra cuối tháng 11 năm 1990 đã gần được một năm. Ngay sau đó trong một thông báo nội bộ, Ban bí thư giao nhiệm vụ cho Ban tư tưởng văn hóa trung ương và Ban biên tập báo Nhân Dân mở cuộc phê phán công khai những chính kiến " sai lầm " của tôi trên các phương tiến thông tin đại chúng- Thế nhưng mãi đến nay, cả hai cơ quan đó im lặng, không mảy may phê phán nội dung của Ban kiến nghị ấy. Họ chỉ làm được cái việc bác bỏ một cách độc đoán rằng tôi xuyên tạc sự thật, còn tôi " xuyên tạc " ở chỗ nào, ra sao, thì họ không thể chỉ ra được! Để bôi xấu tôi, hạ uy tín tôi, vì họ rất sợ đồng bào tán thành đề nghị của tôi, họ có nói " sáng kiến " lập luận rằng tôi dùng một đài dế quốc để trả lời phỏng vấn là phản bội đảng, phản bội nhân dân (!).

Vậy các vị lãnh đạo ở Hà Nội đều có lần, nhiều lần trả lời phỏng vấn của BBC, của báo chí phương Tây thì sao? Đi xa hơn trong việc bôi xấu tôi, thông báo miệng của Ban văn hóa và tư tưởng phổ biến :" Bùi Tín trở thành kẻ làm thuê cho BBC, được BBC trả tiền cho từng phút nói trên đài, cho nên nói nhiều đến vậy! ". Tôi không muốn cải chính những kẻ cố tình vu khống! Tôi chỉ muốn đồng bào của tôi hiểu rõ : tôi trả lời phỏng vấn gần 200 phút trên đài BCC là do nhu cầu trình bầy rõ kiến nghị, bằng tiếng nói của tôi, tôi được thù lao bằng bảng Anh (500 stecling), như mức thù lao cho bất cứ người nào khác. Một số bài báo tôi viết cho báo chí phương Tây, tôi nhận nhuận bút bình thường. Mục đích chính khi viết báo là để nói rõ chính kiến của tôi về hiện tình đất nước. Trong bài báo " Trứng chọi đá hay đá chọi trứng ", tôi có đặt một gỉa thuyết: Khi nhân dân đòi hỏi và Hiến pháp nước ta được thay đổi để chẫp nhận nền dân chủ đa đảng, cớ thể nghĩ đến thành lập một đảng mới - đảng dân chủ chẳng hạn. Đảng này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với đảng cộng sản - Thế là một số vị Ở Hà Nội giẩy nấy lên, công khai kết tội tôi là phản bội đảng, đang làm le đấy lên một tổ chức phản động! Một cán bộ Ở cương vi cao vu cáo :" Bùi Tín ở lại chắc chắn là có quan mật vụ Pháp nuôi " (!) Đó có thể là suy luận và phán đoán của họ - Tôi không cần thanh minh trước những lời vu khống dễ dãi. Nhưng tôi có trách nhiệm nói rõ với đồng bào thân yêu : Tôi chịu cảnh sống thiếu thốn ở nơi đất người, quyết không nhận một đồng Franc của bất cứ một tổ chức nào của nước Pháp. Nhận tiền là mắc cở, là không còn tự chủ, là mất tư thế chính trị và đạo đức rất cần cho cuộc đấu tranh - Có người khuyên tôi : " Anh sống khó khăn quá. Hãy đề nghị chính phủ Pháp giúp. Họ từng giúp cho những người Việt Nam trong các tổ chức quốc gia về nhà của phương tiến, chi phí họat động... " Tôi dứt khoát từ chối gợi ý ấy. Vu khống tôi, những người bịa đặt một cách ác độc ấy cũng đồng thời vu khống cơ quan an ninh của chính phủ Pháp. Đây là một thái độ rất kém văn hóa và ngoại giao đối với một cường quốc đang muốn mở rộng quan hệ nhiều mặt với nước ta.

Tôi viết cuốn sách này để đáp ứng yêu cầu của một số bạn bè và đồng bào yêu quý. Hàng trăm bức thư tôi nhận được tỏ ý tán thành bản kiến nghị và trả lời phỏng vấn của tôi cuối năm ngoái, yêu cầu tôi kiến nghị rõ bước đường đi tới của đất nước trong thời gian trước mắt ra sao? Đây mới là điều hệ trọng nhất. Đây cũng là điều tôi suy nghĩ trong mấy năm nay, càng đào sâu thêm trong một năm qua.

Các phần trên cuốn sách này là hồi ký của những sự việc đã qua. Những sự kiện sâu sắc đối với tôi, gợi lên những suy nghĩ, kinh nghiệm và bài học của cuộc đời. Có động chạm đến người này, người khác, nhưng tôi không có ác ý nói xấu ai cả. Điều quan trọng là để các bạn trẻ thân thiết của tôi hiểu thêm đôi điều về đất nước ta và cùng tôi rút ra những kết luận và kinh nghiệm cần thiết. Không thể giải quyết những vấn đề của tương lai nếu không trang bị cho mình một hành trang suy nghị và kết luận rõ ràng về quá khứ.

Các cơ quan Tuyên huấn và An ninh ở nước ta sẽ vội vã cho rằng đây là cuốn sách " phản động và nguy hiểm ". Nếu có tinh thần dân chủ, họ nên cho lưu hành rồi tổ chức thảo luận, tranh luận ngay thật công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, lấy công luận làm trọng tài. Tôi không bao giờ nghĩ rằng ý kiến của mình là chân lý, phương án mình kiến nghị là hoàn hảo. Tôi chỉ mong góp đươc chút sáng kiến nhỏ trong việc mưu tìm một lối ra cho cuộc khủng hoảng trầm trọng của đất nước. Những bất hạnh của đồng bào thối thúc tôi. Những trẻ em sai mòn và thiếu dinh dưỡng, những chị em đành bán thân nuôi con, những thầy cô giáo " bán cháo phổi ", lương không đủ sống mười ngày, lại chi trả chậm, những nạn nhân chiến tranh không được săn sóc, hàng triệu người về hưu sống cực nhục... giữa sự lộng hành của bọn tham nhũng, tha hồ tiêu xài phung phí là động lực thúc đẩy cho tôi viết cuốn sách này.

Bài toán lớn của đất nước không được đại hội 7 giải một cách trọn vẹn và chính xác. Những thảm họa dân tộc sẽ còn kéo dài vô hạn. Tôi phải kiến nghị với đồng bào yêu quý một phương án hiện thực.

Có người cho rằng phương pháp bất bạo lực rất khó đạt kết quả. Mấy chục năm trước, Thánh Gandhi chủ trương dùng biện pháp không bạo lực để giành lại độc lập cho ấn Độ. Lúc đầu có người cho rằng đó là vô ích, ảo tưởng! Rồi chủ trương này huy động được hàng chục triệu, rồi cả trăm triệu nhân dân ấn Độ chung lòng đấu tranh: bãi khóa, bãi chợ, bãi thực, tuần hành, đưa kiến nghị. Kiên trì mà sôi sục, ôn hòa mà quyết liệt, buộc bọn thực dân phải lui bước. Gần đây 7. 1991 nhân dân Madagascar vùng dậy đấu tranh quyết liệt nhưng không bạo động: 300. 000 người tuân hành, biểu tình, hô khẩu hiệu, đưa kiến nghị, cử ngừơi đại diện, lập " chính quyền thứ hai ". Cuộc đấu tranh kéo dài hai tuần lễ, rồi ba tuần lễ, cuối cùng tổng thống phải nhường bộ, thương lượng với đại diện nhân dân, tuyên bố giải tan chính phủ... Lại một bài học, ý dân là ý trời!

ở nước ta, nhân dân ta có thể vận dụng những điều được ghi trong Hiến Pháp: Quyền tự do tư tưởng, tự do lập hội, quyền biểu tình để hoan nghênh những chủ trương - " nói thật, nói thẳng, nói hết ", chủ trương " bài trừ buôn lậu, hối lộ và tham nhũng " để đề ra những yêu cầu đòi dân chủ và đa nguyên. Thanh niên, công nhân, trí thức, văn nghệ sĩ, bộ đội an ninh, bà con nông dân cả nước, tín đồ các tôn giáo... có thể ủng hộ trào lưu dân chủ bằng những cuộc tuần hành quần chúng và bằng nhiều sáng kiến khác - ý dân là ý trời - Khi đã thành phong trào mang thật sự tính chất quần chúng thì không có cách gì dẹp được.

Điều mấu chốt là gì? Là mỗi người hãy suy nghĩ cổ vũ lẫn nhau, truyền cho nhau nghị lực. Trong từng gia đình, đường phố, từng xóm làng, từng cơ quan, từng trường học hãy trao đổi ý kiến nêu cao trách nhiệm và ý chí đấu tranh cho lẽ phải, cho chính nghĩa. Mỗi người hãy vượt lên chính mình. Khắc phục e dè, lo ngại phân vân. Trau dồi quyết tâm vững chắc, công nhân ta, trí thức ta, nông dân ta, tuổi trẻ nước ta không bao giờ hèn cả. Thông minh và sáng tạo sẽ nẩy nở trong đấu tranh. Đây chính là cuộc cách mạng sâu sắc cho dân chủ và tự do, giành chọn vẹn quyền công dân chân chính. Đất nước chuyển biến đi lên là do sự đồng lòng, nghị lực của mỗi con em mình. Ngẩng cao đầu, tự tin mà hành động. Sức mạnh của đồng tâm, của đồng khởi là sức mạnh dời non lấp biển.

Tổ quốc Việt Nam trong trì trệ, chậm tiến, hỗn loạn.

Trách nhiệm của mỗi công dân thật nặng nề. Cứu nước là mệnh lệnh của thời cuộc. Cứu nước một cách thông minh và qủa cảm. Cả thời đại ở bên chúng ta. Tiến bộ Ở bên chúng ta. ý dân là ý trời.

Tình hình đã hoàn toàn chín cho một cuộc đổi mới cơ bản.

Tâm lý xã hội đã chín cho một cuộc đổi đời theo hướng dân chủ, tiến bộ. Cần một " cái hích " ban đầu, khởi động cho phong trào quần chúng đứng lên làm chủ tình hình. Cái "hích" ấy, sự khởi động ấy sẽ đến. Tư thế toàn dân tộc là sãn sàng!
° ° °

Chỉ còn chưa đầy một chục năm, thế kỷ 20 sẽ kết thúc.



Loài người sắp bước vào thế kỷ 21 với nhiều mối lo toan lớn, nhưng cũng với biết bao nhiêu hứa hẹn.


Không ai có thể phủ nhận lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam ta. Mỗi tấm lòng yêu nước, thương dân đang canh cánh nỗi lo toan đưa đất nước ra khỏi tình trạng bi đát hiện nay. Nỗi đau chậm tiến, đói nghèo, thiếu dân chủ thôi thúc chúng ta.

Cuốn sách này tôi hoàn thành ở nơi quê người để góp một tiếng nói vào cho những giải pháp chung cho đất nước. Rất mong được các bạn trong và ngoài nước đón nhận như một tấm lòng bè bạn, tâm sự thân ái cùng bạn.

Hình ảnh hoa xuyên tuyết, bãi cây xuyên tuyết đầu xuân luôn hiện ra trong suốt cuộc hành trình của tôi đi ngược lại cuộc đời mình, qua hồi tưởng và suy ngẫm. Tôi biết nhiều bạn có cuộc đời đại thể như tôi, còn sôi nổi, phong phú hơn, các bạn bắt gặp ở cuốn sách này một số điểm tương đồng thú vị. Các bạn trẻ thấy ở đây đôi điều mới lạ, có khi khó hiểu. Tất cả là sự thật. Sự thật vốn như nó có. Kinh nghiệm sống của mỗi người là những bài học sâu sắc và bổ ích nhất cho bản thân mình. Các nhà hiền triết xưa và nay đều cho rằng, tự giáo dục mình là biện pháp giáo dục sâu sắc nhất. Mỗi dân tộc lớn lên bằng những vinh quang và tủi nhục, bằng những thành công và thất bại, cũng lớn lên bằng cách tự giáo dục mình và học ở những dân tộc khác. Không làm được như thế, chủ quan và tự mãn, một dân tộc có thể trở thành cá biệt, xa lạ với thế giới, như một học sinh cá biệt, không hòa nhập được với nếp sống và kỷ luật của cộng động. Viết cuốn sách này, tôi đã tự giáo dục lại mình, chia xẻ những điều ấu, trĩ, sai lầm, những điều tâm huyết với bạn đọc.

Hãy luôn là chính mình. Hãy suy luận bằng cái đầu tỉnh táo của mình. Chớ theo đuôi, nhắm mắt a dua, đánh rơi bản thể và nhân cách. Hãy trung thực nói ra điều mình hằng nghĩ, hằng cho là đúng. Không noi theo, nói dựa, nói những điều chính mình không tin. Giữ lương tâm ngay thật. Lập trường dân tộc vững chãi, không bị lung lay bởi bất cứ ý thức hệ xa lạ nào. Dứt bỏ những tín điều ngoại lai. Mở mắt nhìn thế giới chung quanh, học mỗi điều hay. Phục thiện, biết lắng nghe, không đạo đức giả. Biết xin lỗi và sửa chữa lỗi lầm. Cố tìm những điểm hòa đồng trong đối lập. Phát huy lòng nhân ái, sức thuyết phục của đạo lý, không cổ xúy bạo lực. Tài năng, nghị lực, của cải, nhân dân ta đều không thiếu. Những tấm lòng bè bạn, những cánh tay hỗ trợ đắc lực cho đất nước ta không thiếu. Tất cả là tự ta! Con đường dân chủ đa nguyên có bước đi hợp lý là chìa khóa mở ra cánh cửa thoáng rộng của tự do, sáng tạo, ổn định và phát triển. Đó là những điều tôi tâm dắc nhất và muốn trao đổi với bạn đọc trong cuốn sách này.

Tôi rất ân hận là cuốn sách viết có phần vội vã, hoàn cảnh riêng của người viết rất khó khăn, có những suy nghĩ còn chưa đạt dộ chín. Rất mong các bạn thứ lỗi.

Hoa Xuyên tuyết vươn lên từ những tầng tuyết đầy trắng xóa là hình ảnh của mầm sống bất diệt, của khát vọng tự do, ấp ủ sâu trong lòng đất băng giá. Hoa bật dậy báo hiệu mùa xuân. Ngàn vạn đóa hoa xuyên qua tuyết trắng long trọng tuyên bố sự cáo chung của mùa đông. Những đóa hoa trắng trong, trinh bạch, phơn phớt mầu hồng và tím nhạt - Mầu của đấu tranh và ước vọng. Tác phẩm văn học Pháp ca ngợi hoa xuyên tuyết là hiện thân của tài hoa, của cốt cách hào hoa phong nhã, đạt thêm cho hoa này cái tên Galantine theo nghĩa ấy. Các bạn trẻ Pháp còn gọi hoa xuyên tuyết - Perce neige - là Violette trên tuyết trắng. Hoa xuyên tuyết hun đúc từ chiều sâu của tự nhiên và vũ trụ, yên lặng giữa mênh mang trời đất mà nói lên khát vọng, quyền sống và sức sống giữa cuộc đời.

Với những trang sách này, xin bạn đọc cho phép tôi được coi như đã tặng mỗi bạn một chùm hoa xuyên tuyết nên thơ, bình dị, mà bất khuất. Cuộc cách mạng chúng ta mong đợi bắt nguồn từ những ấp ủ, suy tư sâu lắng về lịch sử và hiện tại, về trách nhiệm công dân. Mỗi chúng ta quyết là một thành viên năng động nhất của cuộc cách mạng ấy. ấp ủ lâu, sức bật dậy càng mạnh.

Các bạn thân yêu trong cả nước, ở khắp bốn phương trời!

Đã đến lúc bước vào một cuộc dấn thân mới. Xin được xiết chặt tay, được ôm hôn những gương mặt chiến sĩ dấn thân đấu tranh cho tự do, cho dân chủ, cho no ấm và thịnh vượng. Cho nước Việt Nam xiết bao yêu quý của chúng ta mở mày mở mặt, rạng rỡ giữa thời đại mới.

Paris năm 1991

Thành Tín

1      2      3      4 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét