Chương XX
Về đến sứ
quán ở Bắc Kinh thấy đông nhộn khác cái thoáng vắng hôm trước. Giữa vườn cây lê
cây táo trơ trụi mùa đông, những đống cao lù lù như cây rơm phủ kín ni lông
xanh, ni lông xám. Hỏi mới biết đấy là những núi đồ đạc mới đưa về, để trong
nhà không có chỗ, phải chất ra giữa trời. Bắc Kinh đương mưa tuyết, mưa cả đêm.
Những mảng băng đầu mùa bám ngoài ni lông, khi tuyết rơi nhiều, băng xụt xuống
như bùn trắng nhão quanh chân các gò đống đồ đạc.
Người về ở đông kín các phòng chiêu đãi sở, khắp cả nhà cơ quan làm việc. Xe lửa
Matxcơva về Hà Nội bị cắt lưng chừng, giữa khi qua Cát Lâm trên Đông Bắc. Sứ
quán phải thuê xe lên đón. Cán bộ và sinh viên đi công tác, về phép, về hết hạn,
người và hành lý đưa cả về đây. Tạm ở, đợi bao giờ lại có đường có tàu thì chưa
biết.
Quang cảnh ngổn ngang như đồn bốt, như cái nhà đương xây cất vá víu. Ngoài cổng,
chốt đóng mấy lần cửa. Trong nhà, cả khách và cơ quan được chia thành tổ, phòng
khi bất trắc. Hàng ngày, cả cơ quan cũng như khách mỗi người mỗi việc gọn ghẽ
đâu vào đấy chẳng khác quân sự hoá. Ba hôm, nhà bếp đi mua gạo một lần về cơm
nước cả trăm con người. Phức tạp, phấp phỏng, nỗi buồn mất tiền của tôi hoà vào
cái lo này, tan mất.
Tự dưng tôi cũng cộng với đám khách chờ không biết khi nào có tàu hoả, có máy
bay. Dần dà, hàng tuần qua rồi và đếm từng ngày nhớ lại, cứ thấy gian nan dài
dài. Tôi quen Quyền Sinh ở chuyến ấy, Quyền Sinh giám đốc du lịch Sài Gòn, đi hội
nghị quốc tế du lịch ở Beclin về.
Bỗng được tin đột ngột đường bay Bắc Kinh- Hà Nội đã được nối lại. Chưa biết nối
thử hay nối thật, chỉ chắc chắn ngày kia có chuyến Hà Nội đầu tiên.
Cái may và vui nữa, tất cả khách đọng lại ở đây mấy lâu đã đăng ký và mua vé được
về chuyến TU 134 này. Nhưng vẫn còn hồi hộp, quá lo rồi đâm quẩn quanh, từ nay
tới ngày kia còn có bất thường nữa không. Biết thế nào, những cái rớp. Và thời
gian trôi qua trong những trận mưa tuyết ngoài vườn lúc đậm lúc nhạt, mờ mừ.
Lại một lo lắng khác. Nhiều người phải lo, hầu hết đều là khách đi tàu hoả, nhiều
người công tác dài ngày, có khi đã đi học năm bảy năm, hành lý mang theo về
cũng bề bộn, không phải như tôi hai mươi cân theo qui định đi máy bay. Thế là cả
nhà bỗng hoá cái chợ. Đem cái gì, còn để lại xếp đống giữa vườn, ôi thôi, bao
giờ mới lại lấy đi tiếp được.
Đóng va li thử, mặc thử, rồi lại bỏ ra, xếp lại, lại mặc lại. Đống đồ lều ủ
trong băng tuyết ngoài kia vẫn cao lừng lững. Nhưng cuối cùng cũng xong. Mỗi
người bỗng phổng lên thành ông hộ pháp, may mà trời đã lạnh. Bởi vì quấn đồ đạc
vào người và xách hai tay không phải cân, thôi thì lụa vải, cả bàn là, cả quạt
tai voi tháo cánh, cả máy khâu không chân gấp vuông nhét bụng nhét lưng được tất.
Tôi không nhìn mà cũng không muốn nhìn, chỉ thấy người lên được máy bay rồi ngồi
ềnh xuống, nhưng rồi ai cũng đứng lên, đi đàng hoàng và xuống ga Nam Ninh ăn
cơm hẳn hoi. Đến Nội Bài, máy bay vào đỗ ngay trước phòng làm thủ tục nhập cảnh.
Không phải trèo leo lên xe xuống ngựa gì nữa, nhác trông ai cũng phì nộn mà ung
dung, đĩnh đạc. Bởi vì đã về được tới nhà, sức bật vô biên!
Nhớ mãi một cam go sau cùng ở Nam Ninh, bữa cơm sân bay, chẳng có gì đáng nhớ
thế mà nhớ. Như mọi khi phiếu ăn cầm kèm vé. ở sứ quán, Quyền Sinh mải xếp đồ đạc,
để rơi phiếu ăn lúc nào không biết.
Mọi người đã vào phòng ăn. Quyền Sinh mất vé ngồi ngoài hiên, các túi xách lỉnh
kỉnh xung quanh.
Tôi hỏi, Quyền Sinh chép miệng: “Mất vé! Mà cũng sắp đến Hà Nội rồi". Tôi
nói: “Cứ vào với tớ, không sao ăn bữa tạm biệt cũng hay". Tôi nói cứng, thật
trong bụng nửa tin nửa không. Nhưng niềm tin mơ hồ mà mạnh hơn, bởi suốt chuyến
đi, những người hải quan khám rồi lại không khám, cử chỉ nhỏ bé thân thương ấy,
dẫu đương cơn sóng gió mà đối với nhau có trước có sau.
Chúng tôi ngồi vào bàn. Người nhà bàn tới. Người ấy bước đến một mình, tôi mừng
thầm. Tôi giơ vé ăn của tôi với cả mấy đồng nhân dân tệ vét túi nữa, lại đưa
kèm chiếc vé máy bay không có phiếu ăn của Quyền Sinh. Người nhà bàn cười, xoè
tay ra hiệu bảo chúng tôi ngồi. Rồi anh bưng khay đến hai chai bia Xin Tao. Lát
sau, mỗi người một bát mì vằn thắn hảo hạng.
Tôi nhớ thế, nhưng hôm vừa rồi mở sổ tay xem lại đoạn nhật ký chuyến đi Mông Cổ
1979, lại thấy ghi: ăn sân bay Nam Ninh. Uống nốt chai vôtka Mông Cổ với Quyền
Sinh”. Có lẽ chai bia thì mang về âu là nhớ lẫn lộn lúc đương vui. Người nhà
bàn ấy cao hứng, quên cả thu vé ăn của tôi. Những cốc bia, cốc rượu đã trút đi
bao nhiêu lo toan vặt vãnh, tủn mủn.
Mamađu Triôp Điôp người Sênêgan. Điôp là giáo viên. Điôp viết kịch, làm thơ,
làm công tác xã hội và ăn lương dạy học. Điôp thường đi dự Đại hội các nhà văn
á Phi với tư cách uỷ viên chấp hành. ở cái cộng đồng bé nhỏ của thành phố Đaka,
Điôp cũng là một nhân vật cứng cựa. Có khi Điôp đưa tôi một bài thơ tiếng Pháp
đã đăng báo. Tôi đem về Hà Nội, nhưng chưa báo nào nhận dịch đăng.
Điôp hơn bốn mươi tuổi, có thể là một người đàn ông đẹp theo mẫu châu lục ấy. Mỗi
sáng, Điôp bôi dầu bóng nhẫy lên mặt. Tóc Điôp xoăn từng đám như những con ốc
bươu bám quanh đầu. Trên khuôn mặt đen bóng, lòng trắng con mắt và hàm răng óng
ánh, thế là anh ta làm dáng đấy- Điôp cưòì. Mỗi khi Điôp nói chuyện về Việt Nam
cứ như lẫn cổ tích với bây giờ. Bởi vì, Điôp đã được nghe nhiều chuyện và đã tưởng
tượng về Việt Nam từ thuở ấu thơ. Nước Sênêgan thuộc địa Pháp cũng như Việt Nam,
cho nên biết bao chuyện của lính khố đỏ, lính chào mào ở xứ An Nam đâu đâu sang
và lính “mặc váy” người Sênêgan đã đến Đông Dương, họ khoác những cái áo choàng
trắng, các cụ ta gọi là Tây đen mặc váy. Điôp lấy làm lạ tôi biết lãnh tụ khởi
nghĩa ở Marốc, ở Sênêgan tên là Apđen Krim, lại có tên mà lính khố đỏ An Nam gọi
là giặc Mạc Đình Kim.
Chú tôi làm ruộng xưa nay chỉ biết có cái chợ Nghệ rồi phải bắt lính khố đỏ
sang Pháp rồi sang châu Phi đánh nhau với Mạc Đình Kim. Đi dẹp giặc nhưng ở
lính mà không biết cầm súng, chỉ giữ chân cắt cỏ ngựa, vào vườn bới trộm khoai
tây. Chú tôi bảo rằng nước Pháp đồng trắng nước trong, nước Sênêgan có khoai
tây giàu hơn nước Pháp, cho nên nước Pháp phải đi cướp nước Sênêgan, nước An
Nam ta. Điôp và tôi cười ha ha những chuyện ngày xửa ngày xưa của chúng tôi.
Tôi kể với Điôp ở nước tôi ai cũng làm thơ, không biết chữ cũng làm thơ. Mỗi
người khố đỏ đều làm những bài thơ kể đời lính từ khi bước xuống tàu thủy chạy
sang Tây. Điôp càng lạ hơn. Nhưng rồi nghe tôi kể nhiều chuyện nữa thì Điôp reo
lên: “Dân tộc Việt Nam văn hoá cao nhất thế giới". Không phải chỉ vì những
chuyện thơ, mà nhiều chuyện khác đã khiến Điôp có ý nghĩ ấy. Tôi kể chuyện về
chiến dịch biên giới phía bắc 1950, cả nghìn lính binh đoàn Tabo của Pháp bị bắt
làm tù binh trong rùng núi Đông Khê, Thất Khê. Có nhiều lính da đen, thể nào
cũng có người Sênêgan.
Tôi kể: “Mày biết không, tao đã trông thấy một buổi chiều trời rét mưa phùn dưới
chân núi cạnh đồn Đông Khê vừa bị bộ đội tiêu diệt, chủ tịch Hồ Chí Minh ra đứng
bên đường nhìn đoàn tù binh đi qua. Người đã cởi áo sơ mi đương mặc quàng lên
vai một tù binh da đen cởi trần đi trong mưa. Người tù binh được áo sơ mi chắc
không bao giờ biết ông già cho áo là ai".
Điôp nghe im lặng. Rồi Điôp thở dài:
- Tao sẽ nói tên với mày về mấy người trong họ Mamađu của tao, một người bác, một
anh họ và mấy người trong làng phái đi lính sang Đông Dương. Ghi vào sổ tay đi,
rồi mày cũng có thể gặp, hay là họ đã chết rét cái năm ấy rồi.
ở thủ đô Bon nước Tây Đức tôi cũng đã gặp những người Sênêgan, người Marôc sang
làm culi, làm gác cửa khách sạn hay hỏi thăm tôi về ông nội, về chú bác đi lính
Pháp đã mất tích bên Đông Dương năm xưa.
Trên máy bay nhìn xuống phía đông Địa Trung Hải, sóng bủa lên ngang núi. Những
mũi đá nhô ra như trăm nghìn đầu cá sấu khổng lồ đương húc ra doạ lại mép nước
trắng xoá, như ôm lấy những cột đá phế tích Pompêi kỳ quan thế giới.
Máy bay đỗ hai mươi phút ở Itămbơn. Sân bay xa thành phố, nhưng các nhà ga châu
âu trang nhã, không ngợp bãi cỏ như những sân bay dã chiến giữa cỏ tranh như
Luang Prabang, như Điện Biên Phủ. Tôi nhặt vài quyển sách bỏ túi: truyện trinh
thám Sas và Thám tử Megrê chăng bẫy của G. Simơnông, khách vứt lại trên ghế.
Vào quầy sách, trên giá bày bán tiểu thuyết Nỗi buồn của A. Môravia- nhà văn hiện
đại ý tôi vẫn ưa đọc.
Loại sách bỏ túi, giá một đô la rưỡi. Không có tiền lẻ cô hàng sang đổi ở quầy
khác. Lát sau, quay về, vẫn chưa đổi được tờ năm đô la của tôi mà tiếng loa đã
báo giờ máy bay cất cánh.
Về Matxcơva, Marich bảo tôi:
- Tôi chưa được đến sân bay Itămbơn nước Thổ, nhưng đã nghe nổi tiếng mánh khoé
các hàng quán ở đấy lấy cắp tiền khách. Ông là người khách khù khờ thứ bao
nhiêu triệu rồi đấy.
Đến lúc xuống sân bay cảng Saiit thì tôi ngồi suông. Không phải vì còn bực
mình, ta đã đần độn nên bị hố thì còn bực bội nỗi gì, mà chỉ băn khoăn thương
cái túi tiền eo hẹp đếm từng đồng của người đi xa.
Lại mơ bao giờ đến sân bay Bắc Kinh, dẫu cho thời tiết chính trị thế nào và
trong thắt lưng lép kẹp đến đâu cũng uống tự nhiên được cốc nước chè thơm nóng
đậy nắp tử tế. Nhớ đời cái chuyến máy bay hãng Hà Lan đi Libăng, lại đi với
Hoàng Trung Thông. Cô chiêu đãi viên đẩy đến cái xe lanh canh những chai cốc
màu sắc đẹp mắt.
Xe chờ các thứ uống không mất tiền, nhưng trên máy bay các hãng qui định khác
nhau. Hoàng Trung Thông đã trông thấy chai Mácten.
Hoàng Trung Thông trỏ chai rượu. Cô phục vụ nhấc chai, đặt ly trên thành xe.
Nhưng cô chưa rót. Cô nói, Hoàng Trung Thông cũng võ vẽ tiếng Anh, nhưng có lẽ
mùi Macten đã át cả, chỉ thấy anh gật gật. Cô hàng, tay vẫn nghiêng chai rượu,
tay kia bật ngón làm hiệu đếm tiền và trong cặp môi hồng dịu của cô thánh thót
rơi ra hai tiếng “đô la". Ông bạn rượu cực nhanh trí, quay mặt lại cắt
nghĩa cho tôi: “Rượu thì bán, chỉ nước giải khát mới gratuit". Thông đã
tán ra rất đầy đủ, mà tôi không nghe cô ấy nói.
Từ lần ấy, đến trước quầy nước giải khát nào dưới đất hay trên trời tôi cũng
xem ngắm kỹ. Nhưng ở sân bay cảng Saiit này thì không phải băn khoăn, không có
xe được đẩy đến. Cuối phòng, quầy rượu lớn Tôi ngồi lặng yên như một người
không thèm nhạt gì cả.
Điôp bảo tôi giữ hộ cái cặp rồi biến đi. Không nhìn thấy nó ở quán rượu. Điôp
cũng không phải tay rượu, mặc dầu trong các cuộc dạ hội anh hoa chân múa tay,
múa may hăng đến lăn đùng ra trên sàn như người quá chén rồi lại đứng lên đánh
trống. Điệu múa lăn thế, Điôp không say.
Chao ôi, nhớ lại một chuyện ngẩn ngơ- một kỷ niệm khi mới cầm bút, tôi đã viết
về cảng này, vâng, cảng Sait mơ hồ, tôi nào đã biết Sait ở xứ sở nào.
Ngày ấy tôi vớ ở đâu được một quyển lịch năm Anmanach của nhà xuất bản Haxet. Tập
lịch mấy trăm trang có đủ chuyện tò mò, ly kỳ và tranh vui, truyện vui, thơ và
quảng cáo, các thứ đọc giải trí. Về sau, kiểu sách lịch này ở ta hàng năm cũng
làm bắt chước, như Niên lịch thông thư của Nguyễn Văn Vĩnh. Và năm 1946, Tết âm
lịch đầu tiên sau cách mạng, chúng tôi làm báo Cứu Quốc cũng cho in một quyển
niên lịch tương tự thế, tên là Lịch Cứu Quốc. Định sẽ mỗi năm ra một quyển. Rồi
kháng chiến...
Tôi bấy giờ khoảng mười sáu mười bảy tuổi, đã thôi học, chưa đi đâu khỏi làng,
chưa biết cái xe đạp, mới được ngồi cái tàu điện vào thành phố. Đọc quyển lịch
năm của nhà Haxet, tôi tưởng tượng ra một câu chuyện hoang đường: có một chàng
thanh niên kia thất vọng vì tình, lang thang xuống làm tàu biển rồi đi biệt xứ.
Giữa đại dương mênh mông, anh gặp khách đi tàu là người đồng hương, anh đã kể
câu chuyện tình đau khổ đã khiến anh phải cất bước giang hồ.
Tôi chẳng còn nhớ cái lệ sử của nhân vật ấy, nhưng tôi vẫn nhớ trong truyện tôi
đã tả tỷ mỉ những hải cảng mà con tàu đại dương đã ghé ăn hàng, đón khách.
Cảng Madrat, cảng Sait, cảng Macxây... Những công viên, những tên phố, tiếng
chuông nhà thờ, các cửa hàng, hiệu ăn... Chuyện như thật, mà toàn sự thật nhờ
quảng cáo và bảng chỉ dẫn khách du lịch tôi đọc được trong quyển lịch năm của
nhà Haxet, biết bao nơi mà đến bây giờ tôi cũng chưa khi nào được tới.
Dưới truyện, tôi ghi: Trung Nha, mùa thu... và truyện ngắn ấy tôi đặt tên là Những
chuyện khó hiểu – khó hiểu thật. Tôi gửi báo, cả một mặt trang phụ trương văn
chương báo hàng ngày Đông Pháp đã đăng. Mấy năm sau tôi mới viết các truyện ngắn
Nước lên, Bụi ô tô, Một đêm sáng giăng suông và những truyện loài vật trong đó
có Con dế mèn...
Cảng Sait! Cảng Sait vào Hồng Hải đây. Tôi chẳng biết gì về nơi xa lạ này ngoài
câu chuyện ngây ngô nửa thế kỷ trước. Trước mắt, nước thuỷ triều ban ngày rút
xa xa, mặt bãi lổn nhổn đá sỏi xám quanh những gốc chà là dại rũ rượi. Một lá cờ
Anh trên ống khói một tàu vào cảng. Sân bay gần cầu cảng, trên sườn tàu và thân
máy bay, chữ ả rập rối loạn màu sơn xanh thẫm. Địa đầu châu á châu Phi với những
tiềm năng dầu lửa và kim cương, bề ngoài đều cằn cỗi, hoang dại, như cảng Sait
đây.
Điôp và tôi đi Adi Ababa. Máy bay tạt xuống Đông Phi, dưới kia đại dương ấn Độ
lại mịt mờ. Điôp ngủ gật gưỡng.
Tôi hỏi:
- Lúc nãy mày đi đâu?
Điôp choàng tỉnh, cười nhe hàng răng trắng nhả:
- ở sân bay anh có để ý những đứa con gái đứng cửa phòng khách.
Tôi cũng cười:
- Tao không thích môi chúng nó bôi màu nghệ.
Tôi lại hỏi:
- Mất bao nhiêu?
- Một đô. Chưa bằng một góc giá tiền thật cuốn Moravia của anh
Điôp diễu tôi. Tôi đã thấy ở sân bay Karachi, ở Cairô bọn gái điếm hóng khách
“đi tàu nhanh, chúng nó da dẻ ngăm ngăm, môi màu hoa hiên, màu vàng nghệ”. ở Sait
thì môi vàng sẫm, da đen nhãy, người đẹp theo gu từng vùng.
Ađi Ababa, cả nửa thế kỷ loạn lạc. Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai,
thành phố đã đẫm máu trong súng đạn xâm lược của phát xít ý. Vua Haliê Hatsiê
lưu vong, khi trở về nước thì chết già chết đói giữa những thế lực chính trị và
bộ tộc kình chống nhau. Chỉ mới tạm yên được ít lâu nay..
Tôi ở khách sạn Hintơn Ađi, đầu giường đặt một quyển Kinh Thánh ba thứ tiếng.
Phòng ăn hiện đại lộng lẫy, người ta phải làm cho đượm vẻ man rợ bằng mái lá cọ,
cột cây cổ thụ xù xì và ghế gỗ nguyên cả vỏ. Nhưng cái hoang sơ thật thì ở
ngoài kia, trên tầng lầu nhìn ra cửa sổ trông ra thấy còn dữ dội hơn nhiều.
Tít tắp xa trước mặt, chồng chất chập trùng những xóm bi đông, rợn lên xám ngắt
như sóng đất. Nghe ánh ỏi tiếng trẻ con đá bóng hò hét ở đâu vang động.
Những trái ngược này đã thấy ở Sait, ở Ađen, ở Dibuti hai bên Hồng hải mỗi lần
đi qua. Quang cảnh đâu đâu cũng tương tự, bãi lầy lội khi nước triều xuống, tường
nhà đoan cao như pháo đài và những lô cốt cả trăm năm còn đấy. Địa đầu các châu
lục, nơi qua lại những mưu lược, những tội ác, khi đổ máu, khi phẳng lặng ngỡ
là bình yên. Hầu như một phần gốc gác văn hoá văn minh của nhân loại phát tích
trên nửa trái đất đã nảy sinh quanh nơi này, thế mà vạn triệu năm ở đây vẫn xác
xơ, hiu quạnh, vẫn ngã ba, ngã năm những giàu sang và cái nghèo khó chen nhau.
Con chim sẻ trong hốc lô cốt, những đàn hải âu lượn trên cửa biển, chúng nó có
cộng đồng xã hội như con người, tiếng kêu tiếng hót có nghe được nhau không, cả
nghìn đời có giống nhau không.
Cũng như ở Ađi Ababa này sang Trung Cận Đông, vào châu Phi, ở đây hay ở Bâyrut,
ở Batđa, những cao ốc Hintơn A, Hintơn B, những xóm liều, chỗ nào cũng người
đông như ruồi quanh đống vỏ hộp đi nhặt về nạo lấy cái thừa thãi người ta vứt
đi.
Các thành phố Trung Phi mà A. Moravia tới chẳng khác Ađi Ababa ở Đông Phi, cái
muôn thuở trong cái hỗn độn hôm nay.
Đây là giữa thành phố Libơrơ. Cửa hàng, cửa hàng, cửa hàng. Nhà trọc trời cao
ngất, lại vửa phải, lại bé nhỏ, kỳ quặc như những cái hòm đã mở toang hết các
ngăn, lại những cái chỏm cao ba ngọn, những cái hộp bằng thuỷ tinh, bằng sắt,
đôi chỗ nhô ra một hàng hiên giả vờ xiêu vẹo, như ở Nữu ước. Chúng tôi đương đi
trong những công trình kiến trúc siêu hiện đại và siêu, siêu, siêu hiện đại thế
nhưng mà chỉ bước thêm hai bước, ba bước là đã vào đến cửa rừng, rừng thật.
Thành phố không rộng không thẳng như đường phố ở nước Mỹ, nhìn phía nào cũng thấy
những cánh rừng bao quanh như đại dương mà các toà nhà là ốc đảo cô đơn, trong ấy
chỉ có người châu âu tấp nập, nhốn nháo vớt mọi công việc và mua bán” (Đi chơi
châu Phi- A. Moravia 1993)
Tôi đến nước Tandania cũng dự kỷ niệm 100 năm ngày sinh G. Nêru danh nhân ấn Độ
được ủy ban á Phi của quốc tế làm mít tinh tưởng nhớ ở châu Phi.
Không phải cuộc họp của giới văn học, nhưng gặp nhà văn của nhiều nước: nhà thơ
Mukecgi của ấn Độ, Adimôp LiênXô, Atsadoula của Afganixtan, Mamađou Triôp Điôp
của Sênêgan, Alex La Guma Nam Phi. Alex đi thay E. Sêbai tổng thư ký Hội Nhà
văn á Phi.
Sêbai cũng là bộ trưởng văn hoá Ai Cập. Tháng trước Sêbai bị bọn khủng bố chính
trị bắn chết ở Cairô, ở Hà Nội tôi đọc tin đã biết. Các nhà văn làm chính trị ở
các nước đương phát triển gặp lắm hiểm nghèo.
Diện mạo châu Phi có những nét khác các lục địa- những vệt trắng dài đến ngút mắt,
không biết sa mạc hay rừng cằn cỗi về vệt kẻ dài hoà vào chân mây. Qua Kênia,
hiện lên vùng trời nước đảo Dandiba nổi như con đồi mồi khổng lồ, bên này dải đất
Tanika viền một khơảng tuyết trắng phau giữa trong xanh không gợn mây. Đột ngột
như cái đầu bạc khổng lồ của một ông già ngồi tư lự giữ thinh không, đấy là niềm
tự hào của châu Phi, đỉnh núi cao hạng nhất thế giới, núi Kilimangiarô. Quanh
núi viền những vùng rừng xanh li ti mà thoạt nhìn, nắng và băng nghìn năm đọng
đỉnh núi loá trắng không nhận ra được.
Châu Phi có hai con sông lớn, Nin Xanh bắt nguồn từ hồ Victoria nước Su đăng,
Nin Trắng thì ngọn nước từ các thung lũng chân núi Kilimangiarô này.
Khách sạn Kilimangiarô trên bờ biển trông vào chỏm núi Kilimangiarô hùng vĩ.
Nhưng đấy lâ ở chân trời xa thẳm, còn xung quanh thành phố- lại như A. Moravia
đã ký hoạ những nhà và đường ở nước Cônggô, những ngăn kéo hộp xi măng chồng
lên giữa rừng, giữa cát trắng, giữa những xóm bi-đông mà sự sống thoi thóp đôi
lúc inh ỏi vọt lên tiếng hò hét của đám trẻ chơi đá bóng.
May thay, cái sân thượng nhà mười tầng đã cho tôi hoang tưởng tôi đương chơ vơ ở
một ốc đảo sa mạc trông ra thấy đỉnh Kilimangiarô đột lên ngang trời châu Phi,
dưới chân tuôn ra ngọn nguồn sông Nin Trắng chảy về Ai Cập.
E. Hêminuây đã viết truyện Kilimangiarô. Con người cầm bút viết nhiều đi nhiều
này cũng có thể vào hộ khẩu châu Phi. Cuộc đời và sáng tác của ông gắn bó nhiều
với những vùng đất quanh Kilimangiarô.
Năm 1954, Hêminuây đi săn ở rừng nước Kênia, trong sáu tháng hai lần rơi máy
bay lên thẳng mà không chết. Sau đó ông về Kêtinga dựng lều bạt lên làm trại viết
giữa ốc đảo và ở đấy suốt năm.
Năm 1999 này, kỷ niệm 100 năm sinh E. Hêminuây.
Cuốn tiểu thuyết tự truyện sau cùng của E. Hêminuây 850 trang sẽ được xuất bản.
Ông viết tác phẩm này rải rác từng mảng, ở nhiều nơi. Phần cuối xong ở bang
Idhahô nước Mỹ.
Rồi cũng ở đấy, E. Hêminuây đã bắn hai phát súng vào miệng, tự sát. Mấy năm
qua, có vài phần trong sáng tác đã được ra mắt bạn đọc, nhưng đây là lần in đầy
đủ nhất.
Các tác phẩm của E. Hêminuây đều pha trộn tự thuật, hổi ký và sáng tác. Nhà văn
cố ý không phân biệt rạch ròi các thể loại này khi cầm bút. Ông đã từng nói:
“Những tác phậm hay đều có một điểm chung, ở đấy sự thật còn hơn cả thực tế".
Có lẽ cũng là châm ngôn viết của ông.
ở tác phẩm sau cùng, có một nhân vật đáng yêu. Cô Đơba mười tám tuổi người bộ lạc
Vakamba. Có thể xem nhân vật ấy là người yêu, là vợ tác giả, là người thật và
người trong mộng, Đơba đã cùng ông đi khắp các cuộc săn bắn và ở rừng. Đến bây
giờ báo chí, các nhà nghiên cứu văn học vẫn tranh luận cô Dơba có thật hay
không. Nhưng với bút pháp thể hiện như E. Hêminuây đã từng nói, bí ẩn ấy thiết
tưởng không bao giờ tìm ra được.
Hêminuây quyến luyến nhất với vùng Tanganika và Kênia có ngọn Kilimangiarô.
Hêminuây sáng tạo tung hoành nhưng lại yêu kỷ niệm cụ thể ở trang viết ông đã lấy
tên núi mà đặt cho truyện.
Khi về Cu Ba, nhà ông ở ngoại ô La Havana, trên đồi Phinga Vigia, ở đấy trông
xuống bãi biển. 1952, Hêminuây viết truyện ông già và biển cả tại đây, trên cái
bến hoang vắng này, cái bến và nghị lực những con người được miêu tả trong sáng
tác tuyệt vời này đã đưa ông vào giải thưởng văn học Nôben. Tôi đã có lần đến
thăm nhà Hêminuây trên đồi Phinsa Vigia. Người ta kể ông hay lên cái chòi cuối
vườn, nhìn ra bể, tưởng như Hêminuây đã ngồi viết trong chòi, đôi lúc ngẩng mặt
lên trước trời nước mênh mang.
Kalimangiarô, câu chuyện một người bị tai nạn máy baý nằm đợi chết trên lưng
núi. Người hấp hối chiêm bao chập chờn thấy mình bay qua đỉnh núi với người
yêu. Sự sáng tạo đã buộc sự từng trải của người cầm bút vào vùng đất vùng núi
đã có những kỷ niệm sống chết. Ta hiểu thêm những miếng nước đầu nguồn hư ảo và
hiển nhiên ở mỗi chữ của ông.
Trên sân thượng này nhìn lên ngọn Kilimangiarô trọc lốc phủ băng trắng trong nắng
chang chang, tôi có cái tò mò ngẩn ngơ thử đoán xem nhà văn cho cái máy bay lên
thẳng bị rơi trên ngọn nước đã được ông đặt ở quãng nào. Đoán mơ màng thôi, chứ
từ đây vào chân núi những một trăm ba mươi cây số.
Tôi đương nhìn về núi Kilimangiarô từ thành phố Đaét Salam thì được đọc báo có
những tin kỳ lạ. Một người Việt Nam, một phụ nữ Việt Nam vừa lập kỷ lục trèo
lên Kilimangiarô. Hãng tin RFI đã phát đi: 9 giờ 30 sáng 7 tháng mười một, một
phụ nữ úc gốc Việt, cô Nguyễn Thu Hương đã leo tới mỏm cao nhất đỉnh
Kilimangiarô. Cùng đi với cô có kỹ sư hàng hải Geri. Hành trình liền sáu ngày
đêm. Những người dân tộc Maxai khiêng vác đồ đạc và dẫn đường hai nhà leo núi
lên theo phía thung lũng Maxam. ở đây cũng người làm nên kỳ tích mà không bao
giờ được kể đến, những người Maxai cũng như người Xecba bên dãy núi Himalaya
châu á cả đời chuyên nghề mang vác, dẫn đường các nhà du lịch leo núi lập kỷ lục
đến chóp núi mà không khi nào được cắm cờ chụp ảnh phát đi thế giới.
Tin điện miêu tả lúc ấy đỉnh Kilimangiarô trời nắng, có mây trắng bay qua trong
tuyết rơi. Lác đác, cây thạch anh, cây lôbêli trồi ra trong tảng băng. Một đàn
gà gô trắng. Những con gà gô chưa biết sợ người, đã được đứng chụp ảnh chung với
cô Nguyễn Thu Hương và bạn đồng hành.
Đêm giã từ Tandania trong rừng dứa dưới bãi biển, có cuộc vui nhộn của làng
chài tiễn khách. Không biết làng chài hay làm nghề đánh chão. Hàng ngày, không
thấy lưới thấy thuyền, chỉ từng đám đàn ông, đàn bà xúm xít tước xơ thân dừa ra
đánh thành những cuộn chão chồng cao hơn đầu người.
Chão dừa neo buộc thuyền bè đi biển không bị hà ăn, mòn xác xơ cũng không đứt.
Trong đêm, các làng chão ven bãi sôi nổi trống và người rập rờn nhảy.
Từng đám mấy chục cô gái đứng thành hàng. Những khuôn mặt đen nhoáng đương múa
lưỡi, những cái đầu lưỡi trong miệng thò ra uốn éo múa lên nhấp nhoáng quấn
quít đỏ như ánh lửa. Tiếng trống rồn rập, những chàng trai cởi trần lăn trên
cát như làn sóng. Không phải một Điôp múa lăn mọi khi, mà cả trăm Điôp đương cuồn
cuộn. Năm trước, ở Tân Đêli ngắm thần Lửa thần Nước nghệ sĩ đứng múa bụng cả giờ
trên sân khấu đã thấy hãi công phu điêu luyện, bây giờ ngốt lên nghệ thuật bốc
lứa cá trăm con người, hầu như mọi đàn ông đàn bà trong làng đều biết chơi đánh
lưỡi, lăn mình. Tiếng trống dồn dập, thoắt biến thoắt hiện, lại thấy nhô ra một
trăm chàng Điôp cởi trần ôm tang trống, đánh trống bằng những cùi tay, những
bàn tay. Dãy trống kê vòng quanh người người lăn lượn, mặt trống cùi tay và những
ngọn lưỡi rừng rực lên giữa bãi cát, lửa củi, lửa người.
Các nhà nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài người đã công bố một số liệu
phân tích: châu Phi đương đuổi và đuổi kịp mọi mặt châu á. Những dị dạng, những
kỳ lạ, không gì khuất phục được sức mạnh từ ngọn núi Kilimangiarô đến những con
người đồng bằng sông Nin lên có lẽ là đây.
Tôi lại có dịp với Mamađu Triô Điôp đến bang Tây Băng Gan rồi lên nghỉ trên cao
nguyên Đacgiơlinh biên giới nước Nêpan chân núi Hymalaya. Cùng đi có nhà thơ
Tây Băng Gan Kecmugi. Kecmugi đã hai lần đến Việt Nam. Tôi đã đưa Kecmugi thăm
Hoà Bình lên một làng Dao ở Tu Lý gần Toàn Sơn. Anh ăn thịt gà, chấm nậm bìa-
nước ở lòng bò vắt ra, như mọi người trong làng. Trong khi, một lần khác cũng đến
núi ấy, nhà văn Xevun ở nước cộng hoà Trung á và Marich thì không dám đụng đến
các món dân dã này.
Tôi và Điôp ở buồng cửa trông sang nhau. Tôi vừa đọc một tờ báo đăng tin một nước,
không nhớ Camơrun hay Marôc, không phải Sênêgan, ông tổng thống mới được bầu có
tên trùng với Điôp. Tôi kể, thì Điôp nói: “Họ Mamađu nhà tôi ở nhiều nước, nhất
là ở Trung Phi và cũng lạ lắm, nhiều người làm tổng thống, cũng nhiều người
điên. “- Mày đương làm quan to hay mày đương điên?
- Tôi a, có lẽ tôi đương cả hai.
- Cả hai là Liên Xô hay Mỹ?
Điôp cười, không nói. Cũng không phải không có lý Mặt trận nào thì Liên xô Và Mỹ
cũng đều có người của họ. Có thể thế này có thể thế kia. Phải tính chứ, mỗi lần
Điôp đến sứ quán Liên Xô ở Đacca nhận giấy mời và vé máy bay đi nước ngoài.
Không là bình thường. Vlat ở Hội nhà văn Liên Xô làm đối ngoại về châu Phi đã kể
tôi nghe những mưu mẹo tranh thủ lắt léo đầu làm việc này đuôi lại sang kết quả
khác, không ngay thẳng bao giờ.
Buổi sáng, vào phòng tắm, Điôp hun tóc rồi mới rửa mặt. Điốp đánh từng que
diêm, nhìn vào gương hơ cho tóc quăn lên. Tay xoe khéo đã có cỡ thoảng mùi
khét, nhưng không hẳn tóc cháy. Rồi tóc Điôp cuộn thành búi, thành cục tới đỉnh
đầu. Làm đẹp những hôm long trọng, đầu Điốp xoắn ốc kỹ lưỡng và hai hàm răng trắng
rợn.
Điốp cho tôi một mẩu rễ cây, như rễ cây duối, để cọ răng. Dễ cây swek này tôi
đã thấy bán ở chợ Casablanca, như cau khô đánh răng. Đám rễ ấy Điốp bỏ trong cặp,
đem tử nhà đi. Lúc thong thả một mình và trước khi đi ngủ, Điốp cầm một mảnh rễ
cọ răng.
Điốp cắt nghĩa cho tôi hiểu vẻ đẹp trai gái.- Nhìn thấy nhau, là khuôn mặt đen
bóng, hàm răng trắng và đôi mắt loáng như gương. Đấy là những màu nổi nhất, nhận
ra nhau trước nhất từ xa trên mặt người thanh niên châu Phi. Tranh dân gian
châu Phi khi nào vẽ người cũng có hai mắt to choán nửa mặt, con ngươi và lòng
trắng mắt mới tình tứ sao- Điôp bình luận thế.
ở Đácgiơlinh tôi cũng gặp lại Ôta. Nhà văn Nhật này viết tiểu thuyết, nhưng tôi
biết Ôta bởi Ôta năm ấy ở Tôkiô là thành viên một tổ chức phản đối Mỹ xâm lược
Việt Nam. Ôta đến Việt Nam có công việc khác nhưng vì Ôta là nhà văn nổi tiếng
nên Ôta cũng là khách của chúng tôi.
Còn công tác của Ôta đến Hà Nội thì thật xa lạ với bút mực. Tổ chức nhân dân Nhật
chống Mỹ xâm lược Việt Nam của Ôta hoạt động sâu rộng, được sự ủng hộ của các
giới và có tác động trong binh lính Mỹ. Lính Mỹ đánh nhau ở Việt Nam được thưởng
phép thường về nghỉ ở Băng Cốc, ở Hồng Kông, ở Nhật. Tổ chức của Ôta bắt mối được
với nhiều lính Mỹ đã chán nản không muốn trở lại chiến trường. Những đứa này
tìm cách ở lại Nhật, mỗi ngày một đông. Tổ chức của Ôta giúp họ trốn, đã bi mật
nuôi giữ nhiều người. Ôta sang Việt Nam có ý hỏi ta có việc gì cần đến bọn Mỹ
đào ngũ này, như viết tài liệu, phát thanh...
Đấy là những việc Ôta giao thiệp với những cơ quan khác, và rồi Ôta có được việc
không, tôi không biết. Nhưng Ôta là khách, tôi đã trò chuyện văn chương với Ôta
và gặp Ôta đến tận hôm tiễn. Ôta uống nhiều, khen Lúa Mới ngon đậm hơn rưọu
sakê.
Tôi có cảm tưởng là người Nhật lặng lẽ và nghiêm túc trong mọi công việc. Như
các nhà văn Nhật thường gặp ở hội nghị, kể cả Kauabata nhà văn có tiếng . Họ ít
nói, đi thành bọn và vào phòng ăn hay mang theo thức ăn mua sẵn ở Nhật. Họ đã
biếu tôi những hộp dưa cải muối, lạc muối. Những thói quen và sinh hoạt giản dị
này tôi đã quen biết từ những năm kháng chiến ở Tuyên Quang, cơ quan tôi có
Nguyễn An Nghệ Shoisi Aki. Khi Nhật hàng Đồng Minh, anh sinh viên kinh tế Aki
đã chạy ra với Việt Minh ở Nghệ An rồi Aki được đưa ra Việt Bắc ở với chúng
tôi. Nhưng Ôta thì khác. Ôta mơ màng lảo đảo ra tận sân bay. Hôm sang Nội Bài
suýt lỡ chuyến bay. Sân bay dã chiến cánh đồng Nội Bài, máy bay Mỹ hàng ngày đến
bom bắn. Cả đài chỉ huy bay đã bị bom huỷ- ngày nay hãy còn đứng sừng sững cái
cột loang lở trơ trọi như một chứng tích thời chiến. Có lẽ vì sân bay Gia Lâm
đã hư hại nặng, cho nên ở Nội Bài cứ sáng sớm và chập tối chớp nhoáng những
chuyến bay dân sự.
Nhà đợi bay chỉ mấy mảnh tôn, vách gỗ dán. Mỗi hôm, khi vàng mặt trời, những
chiếc TU 154 cả ngày ẩn ở đâu được xe tải kéo ra đậu trước nhà đợi, khách lật đật
lên rồi máy bay lao vút lên vòm trời xâm xẩm, trông lại thành phố đã sáng đèn.
Ôta lẩn thẩn ra ruộng một lúc, không biết ngồi nôn hay đi vệ sinh. Chúng tôi phải
ra dắt, chỉ là Ôta quanh quẩn ngoài bãi cỏ không nhớ lối vào. Ôta nằm trên cái
ghế dài trong nhà đợi. Ôta ngủ luôn. Ai cũng lo, chốc nữa có lẽ phải cõng anh
ra máy bay. Rắc rối quá, khi đó chưa có cái xe bậc lên xuống, mà chỉ có thang sắt
ngoặp vào bụng tàu bay cho khách bíu bước lên.
Nhưng, như là linh tính, tiếng động cơ máy bay nổ ngoài sân thì Ôta ngồi dậy. Một
bà khách Pháp đương ngồi rũ ra, mắt nhắm, bây giờ cũng ngẩng mặt.
Hành khách ra sân bay thời ấy, phụ nữ cũng uống rượu- tôi đã trông thấy các bà
đầm Rumani mặt đỏ tưng bừng. Máy bay Mỹ sắp ném bom sân bay, cả lên trên trời
kia cũng có thể gặp nó, cái rượu cũng làm cho ta lẫn lộn nhãng đi đôi chút. Một
người Tây, một người Nhật loạng choạng bước ra. Anh lái xe và tôi xốc vai Ôta,
đủn Ôta bám vào thang sắt, Ôta như bò lên, những cô chiêu đãi viên người Nga ra
kéo vào khoang từng vị khách. Trời vừa chạng vạng tối.
Lần này, gặp Ôta ở Đacgiơlinh, Ôta tiều tụy hẳn. Vẻ người nhầu nát vì rượu,
thân hình to lớn mà hốc hác nhợt nhạt. Được mấy hôm, rồi cả ba nhà văn Nhật về
Canquitta trước. Không biết họ có việc phải về hay bởi Ôta yếu không chịu được
cái lạnh núi cao.
ở Đacgiơlinh, ô tô hai mươi cây số trên núi trong rừng ra mới gặp sân bay. Tôi
đi tiễn Ôta tận nơi. Ôta quàng vào vai tôi cái đài Natiônan nhỏ hơn bàn tay và
khổng nói gì. Đến lúc ra máy bay, Ôta nước mắt đẫm trên má ôm tôi rồi giơ tay:
Hà Nội! Hà Nội!
Từ bấy tới nay không gặp lại. Chẳng biết có còn sống không.
Chỉ có Điôp vẫn như thường, răng trắng nhởn nhơ.
Điôp không rượu, chỉ ăn khoẻ. Ngày nào cũng đi chùa. Điôp bảo ở Sênêgan không
có chùa, hỏi ở Việt Nam có chùa, phải không? Người Tây Tạng chạy sang
Đacgiơlinh đã nhiều năm, họ ở trong chùa đông đúc. Đacgiơlinh giáp giới Tây Tạng
với Nêpan và ở sườn núi. Điôp lạ mắt, cái gì cũng muốn biết. Có hôm, Điôp bảo
tôi: “Chúng ta nên leo một chuyến lên Hymalaya, xem trên ấy có gì mà người ta
thích lên chết ở trên ấy".
Điôp vào những ngõ hẻm có người Xecba trú ngụ. Người Xecba bé nhỏ, nhanh thoăn
thoắt, chuyên đi vác đồ đạc và dẫn đường cho khách du lịch và người leo núi
Hymalaya. Điôp thường chỉ quen bốn phía sa mạc phẳng đến chân trời, thấy những
khác thường ngày thì háo hức. Tôi đã thuộc tính Điôp, nhiều cái lạ không trả lời
được.
Điôp hỏi:
- Những người Sênêgan về bảo bên Đông Dương nhiều nước lắm, phải không?
- Nhiều lắm, nước suối, nước sông, nước giếng, nước mưa...
- Trời ơi, ở Đacca, cả năm chưa chắc đã được trận mưa. Khi có mưa, cả châu Phi
chạy ra nhảy múa trong mưa.
- Huế, Đà Lạt biết chứ?
- Biết trên bản đồ.
- Những nơi này có khi mưa cả tháng, mấy tháng.
- Ôi chao, tôi có thể đến Huế, đến Đà Lạt được không?
- Được chứ, Eptuchenkô vừa đến Hà Nội. Bây giờ đương ở Cu Ba hay ở Mỹ đấy.
- Thằng ăn mày Điôp ví sao được với Eptuchenkô!
ở Đacgiơlinh đi, nhớ Điôp, một nhà văn chưa có tác phẩm mà tôi gần gũi nhiều
trong các chuyến đi, con người như một pho tượng hồn nhiên và đau khổ.
Cái gì, ở đâu cũng khác Sênêgan. Điôp là người như thế nào? Không biết anh thế
nào, nhưng tôi tưởng như tôi có thể biết. Một tiểu trí thức, tầng lớp gần dưới
đáy đông đảo nhất châu Phi. Anh không muốn ra đồng kéo cày với con ngựa, nhưng
anh là ai đứng đây thì anh cững không tự biết, hay là biết mà như không.
Người có đôi chút chữ nghĩa như anh thì đi lính dễ có cơ hội đổi thay nhất, sẽ
lả tướng tá, là tổng thống lúc nào không biết chừng. Nhưng anh ghét vào lính và
anh buồn nỗi thấy ở đâu cũng hơn Sênêgan. ở Sênêgan không có hội nhà văn, anh
cũng chưa biết anh sẽ là nhà thơ, nhà viết kịch hay nhà gì, bốn mươi hai tuổi rồi
mà tất cả còn ở trước mặt. Anh ra nước ngoài bởi được mời, mỗi lần về có khi
vui hơn, có khi buồn hơn, lo hơn và lại ngày ngày bước vào cái lớp tiểu học chữ
Pháp của anh.
Tôi đi Cu Ba dự hội nghị phong trào đoàn kết á Phi Mỹ la tinh. Vẫn như chuyến
trước đã đến Cu Ba, ở Matxcơva sang Buđapet xuống Tuyni rồi Sênêgan, bỏ châu âu
lại đằng sau lưng, chỉ thấy xanh thẫm. Angiê, Tuyni bên biển, thành phố trắng
nhạt trong bóng tường đá và vòm lá chà là. Xa xa, những đồn điền bậc thang trên
đồi ô liu. Như vẫn ở khách sạn En Riadh, tiếng sòng ỳ oàm vào những hang hốc cửa
sổ suốt đêm.
Đến Sênêgan, máy bay đỗ lâu hơn một tiếng ở Đacca trước khi bay dài trong một
đêm khác thường qua Đại Tây dương. ở Matxcơva tôi đã gửi điện cho Điôp ra đón gặp
một chút chơi. Sân bay trong ánh điện, những cây chà là, chùm hoa chín vàng xuộm,
chà là họ nhà hoa cau, hoa dừa. Ngoài trời tối đen, tiếng sóng rào rào như mép
biển ngay kia.
Điôp ra sân bay với vợ và một con nhỏ. Tôi hỏi vợ làm gì. Điôp nói vợ ở nhà.
Tôi hình dung những người đàn bà đội những cành bạch đàn khô, tay dắt con cừu
chiều đi ngoài rừng vào trong phố. Lúc này Điôp giống người chăn cừu về, đương
vui, sắp lăn ra múa như lên cơn.
Tôi tặng Điôp một chiếc đĩa Bát Tràng treo, trong lòng đĩa vẽ in chú bé cưỡi
trâu, tóc để trái đào. Nhưng Điôp thích nhất, hớn hở nhất tôi đem đã cho Điôp một
số báo Văn Nghệ đã dịch in một bài thơ của Mamađu Triôp Điôp.
Điôp lật đi lật lại trang báo rồi đưa lên môi hôn... chữ Mamađu... Điôp... và
kêu lên: Tên tôi... Tên tôi... Mamađou... Điôp... chữ Việt Nam, chữ Việt Nam,
tôi đọc được ngay... chữ Việt... Hà Nội...
Điôp bảo vợ:
- Tôi sẽ đi Việt Nam. Con tôi sẽ cưỡi con trâu như thằng bé này.
Vợ Điôp bảo tôi:
- Điôp đã kể nhiều lần, ở Hà Nội đã in thơ của anh ấy, rồi sẽ in kịch, diễn kịch
nữa. Điôp có tiền bản quyền, sang sống ở Việt Nam. Điôp đi ngay chuyến này với
anh, có được không?
Ba chúng tôi cùng cười. Chỉ có chú bé ngơ ngẩn nhìn ánh đèn ngoải xa lóng lánh.
Chốc mà đã ra mười mấy năm rồi.
Chương XXI
Tôi lại về
xóm Đồng.
Chẳng phải vì thế nào. Mỗi người đều có thói quen, nếp nghĩ, sinh hoạt, đi đứng...
Tôi hay nhẩm lại những nơi tôi thèm đến mà chưa khi nào được đặt chân, càng
thèm: huyện Sông Mã ở Sơn La, đảo Phú Quốc ngoài biển Đông... Tôi lại về xóm Đồng,
cuốn sách người đã đến đoạn ấy, bây giờ xem tiếp.
Mỗi khi trở lại những nơi đã từng đến, tôi hay nhớ lại kỷ niệm từ thuở bé. Năm
nào cũng vậy, tháng mười giỗ ông tôi lại thấy bà Bống về. Người lớn bảo bà ở tận
trên ngược, bà là em ông tôi, bà quảy về một gánh những bó sắn, củ mài và đôi
gà trống. Trên ngược đây là huyện Lập Thạch. Nhưng thuở ấy Lập Thạch với tôi đã
là rừng xanh núi đỏ xa xôi tận đâu và tôi cũng không bao giờ biết tại sao bà em
ông tôi lại phải đi lấy chồng xa thế. Hàng năm, bà Bống về với họ hàng ăn giỗ
ông tôi, lại khiến tôi cảm thương tình máu mủ ruột thịt. Và sau này, lại một điều
trông thấy đã khiến tôi nghĩ đến sự thăm hỏi và tình nghĩa.
Năm ấy, chúng tôi ở Phia Biooc tỉnh Bắc Kạn, trên núi những làng Dao Dỏ. Tết đến,
từng đoàn người, cả trẻ con, khăn chít và váy áo đỏ rực rỡ, đeo túi.
Tôi hỏi: “Đi đâu?”. Bà con nói: “Đi chơi tết với người trong họ". Người
trong họ ở các núi tận trên Cao Bằng hay dưới Thái Nguyên, có khi đi rừng mấy
ngày mới tới. Nhưng mà năm nào cũng đi, không hề quản ngại.
Tình nghĩa cũng trong lẽ sống tự nhiên, khi nào nhớ những chuyện trên tôi cũng
thấy một niềm vui đầm ấm rồi lại bùi ngùi.
Cảm thấy đã quên mặt, quên tên nhiều người. Thế mà vẫn nhớ cái hôm tôi buộc cây
hóp làm cột dây đồng vào thân cây cau, ông Ngải ngồi trong nhà lim him mắt, tay
cầm cái galen to bằng trôn bát “cứ nói eo éo như con ma nói". Hoàng Trung
Thông- tôi nghe Trần Lê Văn kể, thỉnh thoảng gặp, Thông hay hỏi: “Dạo ấy mình
thế nào” Tổ trưởng Thông ngại những chuyện lố lăng gì chăng hay là anh cũng vẫn
nhơ nhớ những ngày ấy.
Tôi đi xe hàng, không đáp tàu thuỷ và không mang theo xe đạp như hai lần trước.
Bạn bè hay đi bảo bây giờ xó xỉnh nào cũng nhan nhản xe ôm, tội gì mà chen chúc
ô tô hàng, còn khiêng cái xe trâu để mà chết a. Mà từ thị xã xuống Thái Ninh
thì cũng chẳng mấy bước đường.
Phố xá Thái Bình đã nhiều cái khác xưa. Những lần trước trông chỉ loi thoi vài
ba ngôi nhà, gió thổi rào rạt cuốn rối lên những búi cỏ tranh. Từ ngày hoang vắng
ấy, nhưng có cái hay là đã sẵn vết đường bằng phẳng dễ cho những đại lộ sắp mở,
đương dọn cỏ.
ở đây mấy năm nay đã lên thành phố giữa những bước tiến giằng co. Một dạo, vô số
xe và máy với chuyên gia nước ngoài đổ về khoan dò dầu khi khắp một miền ven biển.
Báo Nhân Dân đã đăng ảnh một mũi khoan có khói và dầu (hay nước) phụt toé lên.
Thật thì đã tìm được khí. Nhà máy sành sử Tiền Hải chạy điện lấy từ khi khoan
này. Nhưng ai tầng qua lại Nam Định, Thái Bình đã biết tử thuở xa xưa ngày trước
có nơi ở vườn, ở ruộng chọc lỗ xuống, trong đất nhả ra hơi nóng ngùn ngụt. Có
thể bắc bếp thổi cơm, cả thui chó được. Người ta đã làm như thế. Giờ mới biết đấy
là khí, rồi sẽ có ét xăng, rồi mở mang khai thác qui mô. Những người hay đọc
báo nói rằng Thái Bình sắp giàu đến nơi, nước ta sẽ nhiều mỏ dầu khổng lồ như
Brunây, như Trung Đông.
Thế là Thái Bình được gấp rút xây đón đầu một thành phố công nghiệp. Giữa những
bãi lau sậy ngập đầu nguy nga nhô lên các nhà trụ sở uỷ ban, nhà thư viện, nhà
bảo tàng đã lên tường cao cao, cái khách sạn năm tầng cho chuyên gia và khách du
lịch được khánh thành trước tiên. Dưới bãi Đồng Châu quanh năm nước xuộm đỏ các
cửa sông đổ ra biển, nhưng đất bồi màu mỡ, nhiều nhà nuôi vịt, chiều đến, người
ta đi nhặt trứng vịt đẻ trên cát, đội hàng thúng về.
Bây giờ đồ sộ ngôi nhà nghỉ Công Đoàn. Mọi cơ ngơi đã huy hoàng nhưng vẫn là
cái sự hóng. Cho nên nhiều công trình còn dang dở. Đường xuống Đồng Châu sẽ
tráng lệ còn đợi, chưa nâng cấp, ô tô chạy chồm chồm trên ổ trâu. Cái nhà bảo
tàng giữa thị xã chẳng biết bao giờ mới xây tiếp, tường nhoe nhoét vôi vữa, những
lỗ cửa chưa có khung, như cái hàm răng móm.
Thành phố vẫn đương đợi vận hội. Dù sao, không đến nỗi “Cao Biền dậy non” như
Xuân Hoà, Xuân Mai, những thị trấn vệ tinh tưởng tượng quanh Hà Nội.
Thái Bình không bị đứt đoạn, mà chuyển đoạn quang cảnh hôm nay hiện ra vẻ nhộp
nhịp cũng em em mấy phố Sinh Từ, phố Hàng Lọng náo nhiệt hàng hoá trên Hà Nội.
Đường Cầu Bo qua cổng tỉnh sang Nam Định không còn nhà vách đất lợp phibrô xi
măng xám, đã nhấp nhô những nhà một tầng mái ngói, mái bằng.
Trước cửa thừng ni lông chăng, vắt từng đệp quần áo loang lổ đủ các màu trên
đòi, đòn ngang nối liền với những chiếc bàn, những cánh phản phủ tấm nhựa đỏ
trên bày tú ụ bánh kẹo gói bọc giấy bóng nhấp nhoáng, Tết trung thu ngày trước
cũng không được như thế. Phố “siđa", lại phố “quân khu” và choáng lộn bánh
kẹo lạ mắt rối mắt như Hà Nội lan xuống dưới này đông như chợ. Người trong làng
kéo lũ ra, đi xem, đi sắm. Anh kia trả tiền rồi đến đứng tựa lưng vào gốc cây tụt
quần cũ xỏ quần mới vào rồi bước ra, người nọ ngắm người kia, vỗ tay cười hê hê
như được bạc. Rồi lại tạt sang các bàn kẹo bánh xanh đỏ đến hoa mắt.
Đầu cần Bo, mấy nhà lá hàng cơm chứa trọ năm trước đã lên nhà gạch cả. Không
còn cái gậy tre chống tấm phên cửa lên, mà buông phất phơ một rèm vải hoa, lụa
trứng sáo, ở trong đi ra một cô mặt mũi nhẹ nhõm, kẹp tóc. Cô chào: "Mời
bác vào nghỉ hàng nhà cháu” Cô này hẳn ở trong làng mới ra, chỉ mai kia thì mắt
xanh mỏ đỏ tới nơi. Vẫn bến tàu, nhưng người không đeo vai cái tay nải, cái bọc
mà hàng chục gánh nối nhau đi một dãy. Mụ nọ khoác cái túi giả da bóng nhoáng hộc
tốc chạy xuống chỉ trỏ tốp người gánh thúng bọc lá chuối khô đặt dọc lòng tàu,
trên boong, cả khoang lái Đấy là những thúng trứng vịt lộn từ vùng biển lên.
Tàu thuỷ thì mất một ngày đường nhưng của hàng hoa không lo bị xô đẩy dễ vỡ như
gác nóc lên xe tải.
Cả chuyến tàu ngược Phà Đen chở trứng vịt lộn. Mụ đeo túi, áo kếp trắng viền
đăng ten, môi son phơn phớt, đương cau có chỉn diết gióng, lại cười cợt bả lả.
Kiểu người này năm trước mộc mạc hơn, đã gặp ở Cầu Bo, ở Hải Dương, tôi tưởng
như bọn đây là con cái chúng họ xuôi ngược nối nghiệp. Ông bạn tôi quanh năm ngồi
xó hàng nước, nghe hóng đủ chuyện, chẳng cần đi đâu mà mách đúng cho tôi. Chỗ
nào bây giờ cũng lắm giống xe ôm. ở Hà Nội chỉ có xe máy ôm, dưới này vô khối
xe đạp ôm nữa. Cái xe hàng vừa vào bến, đã cả chục xe máy, xe đạp ôm xô đến hỏi
bác về đâu, xe đạp giá mềm, cam đoan chạy suốt, không bán khách... mời bác, mời...
Một thanh niên áo xắn tay kẻ carô tím, đội mũ lưỡi trai. Trông vạm vỡ khoẻ mạnh,
tôi đã ưng ý. Chợt nghĩ lại ngại. Đường xa, mấy chục cây số đồng vắng, nó lực
lưỡng thế kia mà trấn thì mình bỏ đời. Nhưng nghĩ lại, thấy là tôi cũng lẫn lộn
thời sự. Hồi này khách bỏ thuốc mê, khách giết lái cướp xe ôm nhiều lắm. Tôi bèn
chọn anh tài chắc chắn ấy. Anh ta rõ cẩn thận. Anh lấy dưới yên một khúc dây da
quấn quanh bụng tôi rồi mắc hai đầu móc xích xuống đệm ghế. “Đây an toàn, bác ạ.
Tha hồ ngủ gật, có ngã cũng không văng ra được. ở bên Đức, bước lên xe là cài
dây an toàn, đội mũ bảo hộ, luật đi đường thế, không thì phải phạt ngay".
Nhớ rồi, tôi đã thấy bên thành phố Quảng Châu, chẳng biết khách ngồi đèo có buộc
dây an toàn thế này không, nhưng người lái, người đằng sau đều đội mũ bảo hộ,
nom như hai cái đầu con dế mèn tròn bóng. Tôi bằng lòng sự cẩn thận mà tôi nghĩ
nhân lên là có tính hiện đại, tính quốc tế của anh tài này.
Anh lái có vẻ vui chuyện. “Tên cháu là Khế, khách quen gọi là Khế ôm. Bác vào đến
đầu phố huyện hỏi Khế ôm, trẻ con cũng chỉ nhà Khế ôm đúng ngay".
Tôi hỏi:
- Cháu đã sang Đức à?
- Bốn năm.
- Cháu ở tỉnh nào, Béc Lin a?
- Không ạ, Lai Xích.
- Cháu ở quận nào dưới Lai Xích?
Tôi buột miệng hỏi câu ấy để làm gì. Anh lái có trả lời hay không, tôi không
nghe. Đán, con trai tôi đã ở Lai Xích, đã chết ở Lai Xích, tôi đã có lần tới
Lai Xích, tôi vẫn nhớ địa chỉ, cả số nhà, phố, quận...
Một lúc lâu, tôi không nói được.
- Bác đã đến Lai Xích rồi a?
- Chưa, cháu ạ.
Khế nói:
- Bác mà đến Lai Xích thì bác phải mê. Nhà ga xe lửa mái lợp to bằng trăm cái
chợ Bo mà cấm thấy một cái rác. Tài chưa!
Tôi hỏi Khế chuyện khác.
- Đi bốn năm rồi về?
- Cháu chẳng thiết ở đâu cả. Cháu sốt ruột về nhà. Mẹ thì già. Vợ còn con nhỏ.
Hết hạn lao động mà lại không còn nước dân chủ Đức nữa mới chán chứ. Cháu về thẳng.
Khối đứa trốn ở lại.
Đương khoái chuyện, Khế kể:
- Tổ cháu có sáu đứa ở lại, cả bọn con gái. Tìm việc bên ấy chẳng khó. Nhổ cỏ
cũng ra cái ăn. Nhưng chúng nó thích đi buôn. Chúng nó bảo đi buôn kiếm tiền
nhanh.
- Buôn thế nào?
- Buôn đi bán lại vớ vẩn ấy mà. Đứng đường bán thuốc lá, thấy công an thi lủi.
Dễ ợt!
- Đầm với đìa, bác ơi! Sẵn quá, bọn đầm lười như quỉ, chỉ nằm ườn bắt thằng bồ
nuôi.
- Buồn cười nhỉ!
- Cơm nhà, cơm nhà, cháu cứ là cơm nhà...
Khế cao hứng, ngêu ngao:
- Ta về ta tắm ao ta. Dù yrong dù dục ao nhà vô tư, có phải không bác?
Xa xa, đã trông thấy bóng đen những thanh sắt trên cống Trà Linh. Xóm Đồng kia
rồi. Mặt cỏ vệ đê cống Bắc phẳng mờ, đến gần nữa, hoa cỏ may trắng như hơi
sương. Mỗi khi nghĩ đến đồng quê, tôi lại cảm giác như thuở bé, mong mãi chưa
thành người lớn, ký ức dừng lại, xóm làng ở đâu cũng chẳng khác, mà khác cũng cứ
nhớ ngày xưa thế.
Mấy nóc nhà lèo tèo và cây đa chợ Thượng không còn. Một trường tiểu học, dãy
nhà quây trong bốn phía tường gạch quét vôi vàng. Trơ trọi không một bóng cây.
Tôi nói:
- Đến nơi rồi. Tôi xuống làng bên chân đê kia.
Khế hỏi:
- Làng bác ở đấy à? Bác về quê chơi.
- Không, tôi thăm người quen.
Rồi tôi dặn Khế:
- Tôi vào làng, nếu chẳng gặp người quen thì tôi lại nhờ cháu cho về tỉnh ngay.
Bằng như gặp được thì ta tính sau. Có khi mai mới về cũng nên. Giá cháu cũng ở
lại, mai đưa tôi về thì vui quá.
Khế sốt sắng:
- Bác cho cháu đi cùng xuống làng. Để xem thế nào.
Khế dắt xe đi với tôi. Xóm Đồng ngay kia. Cái mà tôi nhận ra, ấy là mặt nước
con sông nhỏ cong cong quanh xóm. Còn những khoanh tre thì đã bị phát quang.
Cái xóm trọc lốc, giống nhiều nơi bây giờ. Có điều ngạc nhiên mà không lạ đối với
tôi, ở nơi nước ngọt nước lợ tít mù thế này mà các đầu xóm cắm biển cũng đánh số
xóm l, xóm 3 như ở Cầu Giấy, ở Nghĩa Đô đất Kẻ Chợ. Lổm nhổm bát úp cao thấp,
không một mái lá, một tường đất, nhà nhà mái bằng, nhà tầng, nhấp nhô tường xám
xi măng. Vẫn lối ấy vào xóm, nhưng đã mất hai bờ rào ô rô và những cây xương rồng,
bụi duối, mà so le trồi ra thụt vào những góc tường, ba người cùng đi thì đụng
vai nhau.
Tôi bỡ ngỡ đôi chút khi nhớ chỗ ấy là một cái ao. Bây giờ mọc lên nếp nhà hai tầng,
dưới sân trên giại bể có dàn trầu không, cồng sắt khoá. Tôi đương vào ngõ nhà
ông Ngải mà cứ vừa quen vừa lạ. Cái nhà vẫn trong kia, nhưng không vách đất mà
tường lên vàng khè. Đầu nhà trổ ra vườn chỗ áv đặt chõ nước đái, chúng tôi đã
làm hố ủ phân xanh, ngoài kia những cây chè khẳng khiu. Bây giờ xi măng trát phẳng,
mất cả mấy cây cau lùn đằng trước. Nhưng dòng sông vẫn thấp thoáng sau bờ rào
búi hóp. Cái chuôm thả vịt còn nhưng chỉ như vũng nước bên chân tường.
Trên bờ chuôm, lạ lùng chưa, vẫn đám tre lép phờ phạc chết khô. Không phải, những
cây tre vào mùa hanh hao đều xơ xác vậy, búi tre đã bề thế ra thành một vòm tre
hẳn hoi. Ô hay, ai như ông Ngải. Như mấy chục năm nay, từ hôm ăn bữa thịt vịt rắn
cắn rồi tôi lên tỉnh. Có phải chỉ là một cảm tưởng, một mong mỏi eái bóng.
Không, ông Ngải đấy, ông Ngải tựa lưng vào bờ tre, hai chân duỗi. ống chân tóp
như cái ống giang ngày Tết chẻ lạt gói bánh chưng và nước da ông Ngải trời hanh
nhờ nhờ mốc trắng.
Ngày trước, ông ngồi búi tre thường cầm con dao chẻ lạt vót nan đan rổ rá, cái
đăng, cái lờ. Khi này ngồi im. Một bức tranh tĩnh vật: chân tường, mặt đất, một
búi tre lưa thưa, một ông lão không có tuổi, một chuôm nước cạn.
Pho tượng phật nhịn ăn gày giơ xương trên chùa Tây Phương, đấy là ông Ngải. Cái
nước da vẫn nhờn nhợt như một ông Phan Khôi- nhận xét hay hay ngộ nghĩnh của
Phùng Quán hãy còn đây. ở nhà ông Ngải, tôi còn thấy cả chân tay, mình mẩy ông
Ngải cũng bềnh bệch ít bắt nắng. Ngày ấy và bây giờ, ông Ngải vẫn thế, ngót hay
là hơn bốn mươi năm đã qua, dễ thường ông Ngải có hàng trăm tuổi. Người Mông ở
trên núi cao, nhiều cụ không nhớ tuổi. Lắm cụ ở trong làng như ông Ngải cũng
không nhớ, cứ thong dong ngày trời tháng bụt mênh mông thế. May ra, có cụ bảo
tao sinh năm con mèo, năm con gà thì con cháu còn tính được. Ông Ngải da bọc
xương, mặt trắng nhọt, lại càng hệt ông Phan Khôi hơn. Ông Phan Khôi nằm trong
đất từ 1959, cái năm lần đầu tiên tôi ở Thái Ninh về. Không lẽ ông Ngải là ông
Phan Khôi, ông Phan Khôi dưới suối Vàng mới lên ngồi đây sao.
Nhẽ ra tôi cũng chẳng rõ ông Phan Khôi mất bao giờ. Tôi mà biết cũng chẳng vì
cơn cớ gì. Hồi ấy, nhà tôi thuê ở đầu ngõ cuối đường Bà Triệu cửa sổ trông chếch
ra phố chính. Buổi sáng, chợt thấy đi qua ngoài đường một cái xe tang một ngựa
phủ vải đen. Sau xe, có mấy người khăn trắng bước theo. Tôi nhận ra có chị Hằng
Phương. Chị Hằng Phương là cháu gọi ông Phan Khôi bằng cậu. Tôi liên tưởng đoán
chắc đám ma ông Phan Khôi. Ông đã ngoài bảy mươi, ốm đã lâu, từ độ dọn lên ở
gác trong một nhà phố Thuốc Bắc. Ngày tháng chạp cuối năm âm u, đám ma lạnh lẽo
ra ngoại ô ngoài ngã tư chợ Mơ.
Tôi vốn thích đọc Phan Khôi, dù vẫn biết đã nhiều năm ở cùng cư quan ông chẳng
coi tôi là cái đinh.
Viết báo, tạp văn, ngòi bút Phan Khôi sắc đọng, ngang như cua mà đọc lại chịu,
như ăn gừng cay. Phó Chi Ngô Tất Tố là phó lý, phó cối cãi nhau văng gạch vào mặt;
Ngô Đức Kế, Phạm Quỳnh thì chữ nghĩa trang trọng cân đối; Hoài Thanh là nhà thơ
viết lý luận... Đọc Phan Khôi ngang ngạnh vẫn muốn đọc.
Cái ông gia trưởng này cũng không một bề, mà ông không nổi nóng khi tôi cãi với
ông, có khi lại hăng hái biện luận là khác. Ông khó hiểu mà dễ hiểu, vừa người
lớn lại vừa chất chưởng trẻ con. Vừa khờ lại cũng khoái được đưa lên mây. Ông
không để mắt đến tôi nhưng ông cũng hãi tôi chứ. Cũng như ông không biết tôi lắm
lúc cũng cho ông như con trẻ. Thật vui.
Ông ra tắm ngoài suối. Hồi ấy anh Trần Ngọc Danh đã mất. Tố Hữu bảo lên đưa chị
Thái Thị Liên về cơ quan. Chị Liên với cháu Hà từ Quặng trên Chiêm Hoá xuôi
sông Lô. Chị ở tạm với chúng tôi trước khi sang công tác ở đoàn Văn Công bên
kia sông. Chị đã học nhạc ở Tiệp Khắc. Ông Phan Khôi chúa chùm tiếu lâm. Chị
Liên cũng được một mũi. Suốt ngày, cái gian nhà chỗ ông “con, cây, cục, cái
này” cứ chốc lại om lên tiếng cười. Ông Phan Khôi bước vào, lưng trần còm nhom,
khăn mặt ướt vắt vai. Ông nói:
- Tư Mã Thiên mỗi khi nhớ là đã bị thiến thì rùng mình, toát mồ hôi. Tôi bây giờ
mà trông thấy đàn bà được mắt thì có một luồng điện chạy suốt sống lưng. Ông
kia bị người ta cắt, còn tôi là đồ bỏ, điện toát ra ngoài.
Mọi người lại cười rầm lên khi ông kết luận “Tôi cũng là cái xác thuốc hết thuốc.
Võ Tắc Thiên vứt ra vườn". ấy là lúc vui, nhưng cũng có lúc khác, tôi giở
trò cật vấn ông. Tôi hỏi:
- Cái năm 1945, ở Quảng Nam, có phải ông suýt bị bắt rồi anh Hoàng Hữu Nam cứu
ông ra Hà Nội?
- Anh là Việt Minh thì anh phải biết việc ấy, hỏi tôi làm gì
- Tôi nghe nói.
Ông chừng mắt:
- Không biết thì đừng mở miệng.
Tôi chỉ muốn hỏi ông.
- Thì hỏi nữa đi.
- Ra Hà Nội, ông đến 80 Quán Thánh ở với Nguyễn Tường Tam.
- Thì đến xem chúng nó làm ăn thế nào.
- Ông bị bắt ở báo Việt Nam, ông lại được bàu làm Trung ương Việt Nam quốc dân
Đảng.
- Bao giờ chứ? Ai bảo anh thế? Anh làm mật thám à?
- Tôi làm phóng viên báo Cứu Quốc. Báo có đăng tin
Thế là tôi đã khơi được nguồn cơn. Ông đăm đăm mắt rồi thở dài:
- Kể anh nghe. Anh nói tôi mới biết, chớ tôi có họp hành với họ bao giờ. ở ít
ngày, nhìn ra mặt thật chúng nó. Chè chén, hám chức trong Chính phủ liên hiệp lắm,
lại làm ra bộ. Cái hôm bị bắt ở báo Việt Nam là tôi đã định đi, nhưng chưa tìm
được chỗ ở. Tôi mang tiếng là ghét con cháu, con cháu không ưa tôi tôi xung khắc
không nhìn mặt con cả tôi là Phan Thao. Không phải, không phải vì nó cộng sản,
tôi không là cộng sản. Tôi chỉ ghét sự nhờ vả con cháu. Cái hôm Phan Thao ở
trong Nam ra, trước khi nó đi nhận công tác, đã về đây ở với tôi cả tháng, anh
biết đấy. Anh có thấy cha con tôi cãi nhau không? Nói láo. ở trong kia ra, tôi
đến Quan Thánh còn vì lẽ nữa, tôi không muốn nhờ cậy Phan Bôi quá. Sau cái việc
ở báo Việt Nam, tôi về Cầu Giấy ở nhờ ông Tú Mỡ. Anh bảo nó cải tổ Quốc dân đảng
tháng mấy? Tôi đi khỏi đã lâu rồi.
- Ông về ở nhà ông Tú Mỡ, ông làm bài ca dao “đốt nhà” tiêu thổ kháng chiến, ác
lắm. Tôi không nhớ...
- Anh biết lắm thế! Tôi nhớ tôi cũng không đọc cho anh nghe...
Ông Phan Khôi mất rồi, mất lâu rồi, mà da dẻ như ông Phan Khôi nào vẫn ngồi tựa
bụi tre lép kia.
Năm trước sang sân bay Gia Lâm, tôi tiễn ông đi Trung Quốc dự kỷ niệm năm sinh
Lỗ Tấn, máy bay ấy ghé Côn Minh rồi mới lên Bắc Kinh. Cà vạt màu đỏ thậm dưới bộ
râu lưa thưa. Tướng ông giống một học giả Nhật Bản, vẻ phương đông mà hiện đại.
Tri thức của ông xứng đáng ra thế giới kỷ niệm Lỗ Tấn lắm chứ.
Lúc này thì tôi quên những hoang dã ngang ngược của ông ở Việt Bắc, ông đau dạ
dày phải mổ cấp cứu. Thể lực đuối, lại trọng bệnh giữa rừng, ông không chết nhờ
nơi bác sĩ Tôn Thất Tùng trên Chiêm Hoá mới nhận được máu khô ngoại viện. Khi
ông bình phục, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mừng ông bộ quần áo lụa.
Hoạ vô đơn chí, ông thường kể chuyện vui “trời đánh ông cũng không chết” là
cũng có sự thực của nó. Hồi ở Phú Thọ, đêm mưa sấm sét dữ dội, ông trông thấy một
con sét hòn xanh lẹt ngoằng giữa nhả. Mà ông không việc gì. Tôi nghe ông kể
chuyện ấy, nhưng việc này thì tôi chứng kiến. ở Tuyên Quang dự lớp chỉnh huấn,
buổi sáng ông ngồi trước lán. Một cành cổ thụ to như cột nhà gẫy rơi ngay trước
hai chân ông duỗi ra sưởi nắng. Rồi về Hà Nội, ông viết bài Ông năm Chuột.
Tôi cũng không gần ông liền năm, tuổi tác lại chênh đến ngót ba con giáp. Tôi
biết ông ương bướng, mà cũng không phải chỉ thế, ông vốn trọng công việc. Khi
đương tập kết ông được mời vào khu 5 nói chuyện kháng chiến thắng lợi với đồng
bào ở Bình Định, Quảng Ngãi lúc ta chuyển quân ra Bắc. Ông đi ngay. Và mỗi khi
tôi nhờ việc, nhờ viết bài, ông làm đến nơi đến chốn. Tôi đã cậy ông so sánh
các bản dịch tiểu thuyết Mặt trời trên sông Tang Càn của Đinh Linh, ông soát và
viết báo cáo nhận xét cẩn thận, kỹ lưỡng.
Ông thích nói tiếu lâm chọc cười, cũng như không biết giận, tưởng như ông cốt
nói ngang hơn, to tiếng vặc lại, chỉ vì ông không để bụng lâu. Chao ôi, không
ương bướng thì đã không phải là Phan Khôi, cái câu giễu “Lý luận Phan Khôi” mà
các báo Phong Hoá, Ngày Nay đã đặt cho ông chẳng đã thành tiếng thuở nào.
Tôi lại mơ màng rồi, trông cái ông Ngải không biết chữ mà lại hoá ra học giả
Phan Khôi một bồ chữ sao được.
Ông Ngải ngồi như đống đất, thế mà ông nghiêng tai, lối nghe của người ngễnh
ngãng, ông đã đánh hơi được có người đi tới.
- Ai thế?
Tôi gọi to.
- Ông Ngải!
- Ai...
- Cán bộ Tư chào...
Tôi chưa dứt câu, ông Ngải đã run run gối đứng lên.
- Anh Tư đấy à?
Ông lão lại nghếch mặt hỏi:
- Có anh Quán đấy phải không?
Ông lão nghe rất thinh. Khế cười ngặt nghẽo:
- Khế ôm đây, cụ tổ ạ.
- Anh Quán...
Tôi nói:
- Anh Quán mất rồi.
- ối sao thế?
- Giỗ đầu, giỗ hết rồi.
- Khốn khổ
Ông Ngải nắm cánh tay áo tôi. Tôi đỡ ông ngồi xuống, lại tựa vào bờ tre. Ông Ngải
bảo tôi, như ngày trước, như mọi khi: “Anh ra vườn ngắt mấy cái lá chè". Rồi
ông hỏi: “Anh vẫn uống nước chè vò chứ?
Mảnh vườn chỉ còn một luống đất. Không biết chỗ nào cái hố phân xanh ngày xưa.
Nhưng tôi vẫn nhớ bài học hái chè ông Ngải dạy. Bỏ lá già, tôi ngắt một ôm lá
đương bỡi. Bên bờ tre, Khế đã đun nồi nước.
Rồi Khế vò chè, luộc chè, đổ nước cho ngấm. Như ở nhà chú và cả đất Thái Bình
này đều biết món chè vò.
Để ý kỹ, búi tre xác xơ nhưng đã lan ra thành hũm vững chắc trông như trong cái
hang có ổ mái lợp những tàu cau, xung quanh táp phên vách, trên đặt một giát
giường to hơn cái mâm chõng, như túp nhà trẻ con dựng chơi đình chùa.
Tôi hỏi:
- Ông vẫn ngủ trong bụi tre à?
Ông lão đương ủ hai bàn tay xù xì trên mặt cái ấm vừa sưởi để xem chừng hơi
nóng mà biết chè chín đến đâu. Tôi hỏi lại rõ từng tiếng, ông Ngải mới à à ừ ừ:
“Ngủ ngoài này chứ ở cái nhà trong kia thì chết ngạt chẳng ra bộ gì. Thế các
anh bây giờ...”. Tôi hiểu ý ông Ngải hỏi anh em chúng tôi dạo ấy. Tôi kể: tổ
trưởng Thông mất rồi, anh Chu Ngọc đã được sang nước Tiệp Khắc ấy mà, cũng ốm
chết rồi. Cả tổ còn anh Trần Lê Văn, anh Hoàng Cầm và tôi. Ông Ngải trầm ngâm
nhm ra rồi nói: “ ở ngoài tỉnh hại người lắm. Anh Quán còn ít tuổi, khoẻ mạnh
thế mà cũng đi rồi. Tội nghiệp, ở tỉnh làm quái gì! ”
Trên cành tre tay tre vẫn cái bát đàn, thêm chiếc ca nhôm, cả ống điếu cày treo
lủng lẳng. Chắc vẫn có người qua lại, ghé ngồi. Ông Ngải nói: “được", rồi
bảo Khế rót nước trong ấm đất ra bát.
- Người ta miếng giầu làm đầu câu chuyện, tôi cả đời chỉ có miếng nước".
Ông Ngải tưởng tôi vẫn uống chè vò như ông.
Đã lâu, một lần tôi đi Hà Tnh về làng có uống chè vò bây giờ mới lại được nhắp,
nước nóng vào đến đâu thấy chát ngọt lìm lịm đến đấy. Nhớ những tinh mơ ông Ngải
dậy từ gà gáy uống hết hai ấm vại chè vò mặc cả nhà ăn cơm đèn rồi ông xách cuốc
ra ruộng, lòng không dạ đói đến quá trưa mới về, đeo một giỏ ếch nhái, cá cua
sau lưng. Trông ông lão vẫn phảng phất đồng áng bờ bụi thế. Hai con mắt toét
nhèm viền vải tây điều đã sụp xuống ti hí. “Lúc nào tôi cũng thấy trời sắp tối,
anh ạ". Nhưng ông nhìn bằng tai, cái tai ông dở điếc mà vẫn nghe ra tiếng
người, mấy người và tiếng chó, tường lắm.
Ông Ngải đưa tôi vào trong nhà. Tôi trông thấy trên giường thờ ảnh cu ốc, mặt
trang nghiêm, đội mũ cát sao vàng.
Ông Ngải nói:
- Cái thằng ốc lại mải đi theo anh Quán tập dân quân rồi. Cả bà nó nhà tôi cũng
đi chơi với nó. Mẹ con nhà mày ạ, có anh Tư về chơi.
Tôi bấm Khế ra sân.
Tôi ở lại, sớm mai về. Nếu cháu ở lại được...
- Để cháu xem.
- Bây giờ cháu lên trên Cống mua thẻ hương, tìm đâu được con gà. Tôi cúng cậu ấy,
cả bà cụ...
Khế nổ máy xe, đi ngay. Tôi rút nén hương trên bàn thờ rồi lấy diêm châm cái đèn
hoa kỳ. Tôi đã đến nhiều nhà thấy trên bàn thờ ảnh và tryuền thần chân dung các
chiến sĩ. Tôi cứ tưởng như không phải người đã khuất. Anh ấy ốm đau gì đâu, cái
ảnh lại trẻ đẹp thế kia, ý nghĩ ngây dại thường trở lại trong tôi.
Nhà ông Ngải chỉ khác cái mái bằng và tường xây để mộc, giường phản vẫn tuềnh
toàng thế. Nhà kín bưng, ẩm mốc. ở trong làng bây giờ cứ đua nhau nhà tầng, nhà
gác, có người méo mặt vì ganh nhau làm nhà.
Ông Ngải thắp nén hương rồi lại lò dò ra ngồi bụi tre. Ông Ngải nói:
- Xóm này nhà ngói, mái xi măng hết. Bữa ăn bữa nhịn, cũng lên nhà tây. Anh
Quán mà về thì không kiếm ra đất bức vách ủ phân.
- Thời buổi mới, đâu cũng ăn nên làm ra, ông ạ. ối người đi vay lãi, bán lúa từ
lúc vào đòng để làm nhà. Chỉ khác ngày xưa lý trưởng, phó lý giầu có bây giờ chủ
tịch, bí thư, xà đội, dạo trước còn chân chủ nhiệm, kế toán nữa cũng trộm cắp
mà nên giàu có cả. à anh biết chủ nhiệm Sự...
- Ông ghét ngói hoá, bê tông hoá nên ra nằm đây.
- Có mà hoá điên hoá rồ. Hồi còn thằng Tây tôi đã sợ cái hầrn lô cốt. Tôi không
chịu được ở nhà hầm, tôi mà ở trong nhà hầm ấy thì tôi chết đã lâu.
- Sao ạ?
- Suốt ngày nắng nung sân xi măng, mái xi măng, đêm vẫn oi như trong chảo rang.
Tôi làm thằng kéo vó, ra đây chui vào cái lều vó cạn. Chẳng nắng gió nào động
được lông chân. Chân mễ tôi kê cao cho con hổ mang, hổ lửa lấy đường đi, tôi nằm
trên. Chỉ có thằng rắn ráo thì đợi nó leo lên, tôi tóm cổ. Thịt rắn ráo ngon
hơn thịt gà. Anh chưa được ăn nhỉ?
Tôi rụt rè hỏi về ốc. Nhưng ông Ngải nói như đương chuyện với ma:
Nó tập bắn súng gỗ với anh Quán. Rồi đến dạo ngày đêm máy bay ngoài bể vào, bay
ngang mặt đê.
Đến mùa nước có đứa đồn máy bay Mỹ sắp phá đê cho cả tỉnh chết đuối. Các làng
lên đê đặt ụ súng bắn cho nó không dám xuống thấp, bắn súng thật.
Cả đêm cũng đòm đòm.
ấy thế mà thời buổi tàu bay tàu bò lại kiếm ăn được. Chuyện này cô Hến về đã kể
cho nghe. Chặp tối, đàn máy bay chúng nó đi ném bom về qua ném xuống hàng trăm
cái vỏ thùng hết dầu. Đầu tiên tưởng nó ném xăng đốt làng. Ra xem mới biết cái
thùng rỗng, thế là vớ bở. Thôi thì làm nồi, lảm vại, làm thùng, làm muôi, bán đồng
nát, bán cân cho nhà mậu giũa làm lược, làm hình máy bay đồ trẻ con chơi...
Thanh niên ca cẩm: ngày nào cũng bắn mà cấm nhặt được thằng Mỹ nào. Rồi có đợt
tuyển quân.
Thế là đi, ốc cũng theo. Nhà con một, xã cho miễn. Nhưng ốc bảo làm tiểu đội
trưởng dân quân thì phải đi với quân, đi ít lâu xem sao rồi về thôi mà. Được một
năm rưỡi, giữa tháng tám nhận được giấy báo hy sinh ở mặt trận phía Nam. Một
năm sau thì mẹ cũng mất.
Cô Hến kể:
- Bố em bảo thôi thì nằm xuống ở đâu cũng là nằm. Bố em hãi cả ai nhắc đến, bố
em sợ nghe ai nói thương binh liệt sĩ. Nhưng chúng em không yên lòng. Giải
phóng rồi, nhà em đi tìm mộ. Đeo một tay nải thẻ hương, tối nào cũng thắp một
nén khấn, rồi c thế đi. Run rủi thế nào lên núi Trường Sơn đến khu mộ liệt sĩ
Thái Bình có hơn một nghìn ngôi đã bốc về đấy. Dò hết một ngày, tàn nén hương
thì gặp mộ anh, rõ ràng cả quê quán, cả tên ở nhà, tên lúc đi bộ đội. Nhà em đã
lấy giấy rập khuôn đá bia đem về tạc hệt cái bia ở núi Trường Sơn trong kia.
Trên bàn thờ, sau tấm ảnh ốc, một tấm đá bia khắc dòng chữ: Liệt sĩ Kiên Cường
tức Lại Văn ốc hy sinh ngày...
Ngày trước, có lần ông Ngải đã kể như tâm sự với tôi ông vào hợp tác sớm vì ông
tin ở Chính Phủ, con ông lớn lên trông vào hợp tác, chứ vợ chồng già rồi chết rồi,
con cái biết nhờ cậy ai. Nhưng bây giờ ông Ngải không nói chuyện ốc, có nói thì
cứ như ốc vẫn đứng đâu đấy trong nhà.
Tiếng xe máy xè xè ngoài đê. Khế về. Con gà trống, thẻ hương buộc trên túi trước
tay lái. Tôi bảo Khế:
- Bây giờ cháu về...
Khế nói:
- Cháu ở lại với bác.
- Nhà mong thì sao?
Cháu đã vào uỷ ban gọi nhờ điện thoại, nhà cháu yên chí rồi.
Ông Ngải bỗng nói góp:
- Xã này có điện mồm rồi, chưa có điện đèn. Chỉ nghe nói mà tôi đã ghê cái điện
đèn. Thấy bảo có nơi mắc điện bẫy chuột bãy cá, điện chạy sang người giật chết
nhiều người lắm.
Khế đã nhanh nhẹn bắc bếp ngoài bờ ao đun nước làm gà. Tôi vào đặt thẻ hương
lên giường thờ, thắp nén hương mới. Ông Ngải lại đã ngồi ngoài búi tre.
Cả ngày ông quanh quẩn đấy. Ông đem ra cái áo bộ đội- chắc áo của ốc để nhà,
ông mặc thêm vào.
Trời chiều đã se lạnh. Tôi đỡ ông xỏ tay áo, lộ mảng xương sườn gồ ghề. Bao
nhiêu năm rồi, ông Ngải ngồi bên búi tre lép, ngày ngày mọi việc trôi qua như
dòng sông quanh ngoài chân tre. Tôi cũng đã móm mất cả một hàm răng rồi mà ơ
hay, ông lão vẫn còn răng cửa như ngày trước, buổi chiều vàng mùa lúa, mùi rơm
mùi thóc mới, con trâu kéo đá. Không biết có còn cái sân trâu kéo đá không.
Nhưng vẫn đây, cái búi tre cổ thụ búi tre thấp lè tè đốt thẳng không gai, búi
tre trâu cọ lưng nhẵn thín trông ra miếng ruộng xuống bờ sông, bàn tay ông Ngải
đã cuốc nên. Cũng đồng đất ấy, nhưng chẳng ai nhắc đến thời hợp tác xã. Người
đòi hay tránh cái đau, cái hèn kém cả đến trong ăn nói cũng kiêng những tiếng
thô, tiếng bỗ bã.
Một con trâu vào xóm. Đường ngõ vướng tường và nhà cao, chân trâu bước âm âm rời
rạc như tiếng chày giã bèo. Rồi ló ra con trâu đi, một bé cưỡi trâu, một người
đàn bà vai vác như cái sào, như cây mía, một bé quảy gánh cỏ rảo bước như chạy.
Ông Ngải không nhìn ra, nhưng nói:
- Mẹ con nhà nó.
Nói rồi ông ngước mặt:
- Anh Tư về chơi, mẹ Hến à!
Cô Hến ngả nón. Cô Hến chỉ bé sắt người lại còn thì vẫn như trước, cứ hao hao
mà không khác mấy.
- Anh mới về. Mấy chục năm rồi...
- Năm nay cô bao nhiêu tuổi, cứ trừ đi khoảng mười lăm năm thì là bấy nhiêu
lâu.
- Tính làm gì cho già người. Trông anh vẫn thế, bố em mà không gọi tên. em vẫn
nhận ra.
- Cô với cháu đi làm đồng về. Thằng bé cưỡi trâu này ngày trước nằm võng phải
không?
- Em vào trong xóm mua chuối.
- Có lần tôi đi với vợ chồng cô khiêng buồng chuối xuống chợ Diêm.
- Anh nhớ dai quá. Nhưng bây giờ không khó nhọc thế nữa. Em đi các nhà có chuối,
được giá thì mua để đấy Đến hẹn có xe công nông về chở xuống Diêm.
Mà cũng không phải bán chợ, đem xuống tàu hết. Làm sao mà các nước người ta ăn
chuối xanh khoẻ thật lực bao nhiêu cũng bỏ vào tàu tải đi bằng hết.
- Thế thì cô là lái chuối.
- Lèo lái chẳng ra sao, có điều cũng đỡ vất. Nhưng thừa người lại thiếu việc.
Không còn gian dối như cái hồi hợp tác năm xưa cứ bầy việc ra để gãi công điểm.
Tôi hỏi:
- Anh Toàn nhà cô đâu?
- Đấy thừa người thiếu việc là cái tích ấy. Nhà em đi bộ đội về, cả nhà em với
ông, bác ốc liệt sĩ vẫn được tính, có mấy sào mẫu ruộng, con trâu với cái máy đập
thuê nó nuốt sạch việc, nửa năm làm nửa năm chơi nhong nhóng. Báo cáo với anh,
nhà em lên Hà Nội làm xế lô. Có khi anh gặp mà không nhận ra thôi. Đến mùa thì
về đỡ đần việc nhà. Cày cuốc ra hạt gạo, thì đồng tiền lại hiếm Chẳng đạp cái xế
lô thì đào đâu ra tiền làm nhà, trát sân, lại tiêu pha cho các cháu đi học. Thằng
nhớn cũng thôi học rồi, chưa đến tuổi tuyển quân, đương đòi xuống Diêm làm cửu
vạn, dưới ấy bây giờ còn vui hơn Hà Nội. Cả làng, cả vùng kéo ra Diêm bốc vác,
có nguời sắm xe máy chuyển hàng cho nhanh. Để nhà em về, chuyến này chúng em
tính. Có khi nhà em cũng về làm dưới Diêm cho gần gũi cửa nhà, anh nhỉ?
Cô Hến lại kể:
- Nhà em bảo em lên ở Hà Nội. Giàu có nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ, vẫn đồn
thế mà. Người hèn đớn cũng kiếm được, không mất bữa. Gánh đồng nát mà lãi quan
viên. Nhà em bảo thế, em cũng đã lên xem sao.
Rồi cô Hến cười rúm mặt lại:
- Chưa nổi phiên chợ em phải nhảo về. Kệch đến ngày xuống lỗ
- Thủ đô đấy, mà cô chê a?
- Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên
ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi
lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường. Cả đêm không tải
nào chợp mắt, ăn cơm lại oẹ ra, ốm đến nơi. Thế là cút ngay. Thuê kẹo em cũng
không bao giờ dám lên Hà Nội nữa.
- Anh ấy ở Hà Nội cả năm, cả tháng thì sao!
- Có cái chiếu nằm tơ hơ không màn mùng, muỗi như chấu. Em bảo cho nhà em ở
trên ấy tha hồ vơ váo con nào cũng được. Nói ra nặng thế chứ nhà em hiền lành,
vài ba tháng lại đem tiền về, cả quần áo các con cũng lo tươm tất. Tội nghiệp,
anh Quán còn trẻ, khéo chỉ bằng tuổi nhà em, thế mà đã mất, ốm thế nào ạ?
- Sau này chú ấy để râu, lọm khọm lắm.
- Để râu thì để râu, trẻ thì vẫn trẻ chứ.
ở sân sau, con trâu giẫm đứt cái mành mành che chuồng xí, hai con cô Hến hí
hoáy buộc lại, xong rồi ra xúm quanh anh Khế ôm. Khế đã nhanh lại khéo tay. Khế
làm gà, cô Hến vo lẻ gạo nấu cơm nếp. Đun bếp lá tre, một mình Khế tay dao tay
thớt làm cả.
Tôi khen thì Khế bảo: “ ở bên Tây cháu cũng chân bếp núc, những thằng lười đi
làm về thuê mình làm. Cũng kiếm thêm tí ti".
Ông Ngải bước vào trong nhà. Mới biết lúc nãy ông mặc thêm cái áo bộ đội không
phải vì chiều gió heo mà ông mặc áo cho tề chỉnh. Ông lấy thẻ hương, rút hai
nén cắm lên bình rồi vái, lẩm nhẩm khấn, lại nói như nhắn:
- Anh Tư về chơi, có mâm cơm cúng. Mẹ con nhà mày về ăn với cả nhà.
Mọi người đã vào mâm. Ông Ngải ngồi tựa lưng vào tường, nhìn ơ hờ. Cô Hến nói:
“Ông em dạo này có chứng nghẹn, mắt lại kém, cứ vừa ăn vừa thở, lâu mới xong bữa".
Ông Ngải cầm đũa. Ông và miếng cơm, nhai mãi. Quả là ông hay nghẹn. Cô Hến đã
mua về một lẻ rượu. Ông Ngải vẫn không rượu như ngày trước.
Còn tôi, đụng đến rượu thì phải có sự thế nào, chẳng vui cũng chẳng cơn cớ gì
mà uống, tôi và Khế cũng chỉ đểnh đoảng một chén. ánh cái đèn phao treo sáng cả
gian nhà, bữa chén buồn buồn.
Ông Ngải nói:
- Có anh về tôi vui không biết nói thế nào cho hết, không ăn được mà cái lưng
không cho ngồi lâu. Hai ông cháu cứ cơm rượu tự nhiên, tôi phải đi ngả lưng.
Sang canh tôi dậy nấu nước thì anh ra uống với tôi.
Ngày trước hôm nào anh cũng uống chè sớm. Rồi anh có nghiện không? ừ mà rượu
Tây rượu Tàu, chứ nghiện đâu cái nước chè nhà quê!
Cô Hến nói:
- Đêm nay giở gió, ông không được ra ngoài bụi. Mà nhà có khách, ai lại nằm bờ
ao. Ông em lẩn thẩn lắm, cứ bảo ra ngoài ấy dễ ngủ.
Ông Ngải nói:
- Hay là bố con anh ra với tôi. Cái lá chuối khô, ấm hơn chăn bông.
Cô Hến lại bảo ông Ngải:
Cháu nó giải lá chuối phản trong nhà rồi. Cả chỗ nằm cho hai ông con anh Tư.
Ông Ngải ngồi im rồi đứng dậy, nhưng ông không ra búi tre mà sang cái phản bên.
ổ lá chuối khô hai thằng cháu đã ôm vào từ lúc nào.
Tôi nói:
- Ông Ngải này!
Ông Ngải sột soạt cựa quậy trong ổ lá. Tôi ghé xuống:
Có cái quà biếu ông. Ông có nhớ hôm tôi buộc cọc dây galen lên cây cau ông nghe
galen nói eo éo, cái này còn hơn galen nhiều.
- à!
Tôi lấy trong ba lô ra chiếc đài National bằng bàn tay chạy điện chạy pin đều
được, mà nhà văn Nhật Ôta đã cho tôi hôm chia tay ở Đacgiơlinh. Tôi cũng dùng từ
ngày ấy, cái đài vẫn tốt. Từ lúc Ôta cho đài, không hiểu liên tưởng thế nào tôi
đã nghĩ có thể rồi một ngày tôi đem về biếu ông Ngải. Xuống đây, cũng có phần
trong ngụ ý việc vui ấy.
Ông Ngải nghiêng đầu lên. Tôi nói thong thả lại câu vừa rồi và giơ cái đài. Ông
Ngải lắc đầu.
- Tôi không... tôi quên cả rồi.
Cô Hến nói:
- Ngày trước ông cháu mê galen nghe suốt đêm. Sau có cái đài chạy pin, rồi ông
cháu đem bổ đài ra bóc vỏ làm đóm.
Khế hỏi ngơ ngẩn:
- Lạ nhỉ, đài hát vui lắm.
Cô Hến rầu rầu:
- Cứ nhở nghe nói đến thương binh liệt sĩ ông cháu tắt đài ngay. Ông cháu sợ.
Có một bóng người lù lủ dật dờ vàò. Tiếng thều thào:
- Anh Tư về chơi, còn nhớ tôi không? Sự, thằng Sự đây mà...
Tôi reo lên:
- Anh Sự! Quên thế nào được. Mạnh khoẻ chứ. Định sáng mai sang anh.
- Không mạnh, cũng không khoẻ. Sang tôi nhé.
Sự ngồi ghé vào ánh đèn. Trông rõ một bộ xương run run ngồi. Chưa thấy người
nào gầy vêu vao nhường này. Tôi hỏi nửa thật nửa đùa:
- Lo nghĩ sao mà rạc cả người thế? Chị ấy với các cháu thế nào?
- Tôi phải cái chứng ho, ho bệnh anh ạ. Trông anh cũng già, chúng mình già cả rồi.
Chóng quá Thôi đã khuya, anh đi nghỉ chả mệt. Mời anh sáng mai, anh với cậu này
sang bên tôi rượu cháo lòng. Ông Ngải nữa, mời ông. Ngoài đầu xóm có nhà mổ lợn
lòng sốt ăn được.
Không đọi tôi trả lời, Sự lại lù đù về. Bước lẩy bẩy mà cái cách ăn nói “dứt điểm”
vẫn nóng như lửa.
Cô Hến nói:
- Không phái bác ấy ốm, mà bác ấy nghiện đấy.
- Nghiện cái gì?
- Thuốc phiện ạ, nặng lắm. Bác gái thấy để ở ngoài Diêm không tiện vì khách khứa,
buôn bán ra vào. Mà nghiện ngập thì ở làng nước còn thông cảm chứ ngoài Diêm
người ta bắt đi cai rồi.
- Nhà bác Sự ra ở Diêm rồi sao?
Cô Hến kêu lên:
- ấy chết, từ nãy quên kể, nhà bác Sự bây giờ giàu nhất vùng chứ lại chả nhất
làng. Bác gái với cái Soi, đảm lắm. Hai mẹ con buôn hàng tàu đỗ ở ngoài bể. Mối
lái các nơi về cất hàng lúc nào cũng đầy nhà khảch. Đủ thứ, xe máy, đồng hồ, tủ
lạnh, buôn cả người nữa. Nhà em mà bỏ xế lô cũng phải ra xin việc nhà ấy. Con
Soi diện mốt ăn đứt gái Hà Nội kia. Sáng mai anh sang chơi, bác Sự tốt bụng mời
thật đấy. Nhà trong này cũng sang hơn cả nhà chủ tịch. Điện thoại nói chuyện bắt
vào tận tai, sướng chưa!
Nhưng rồi cô Hến chép miệng:
- Nứt đố nổ vách thế mà con cái hỏng ráo. Hai thằng con trai thì ngồi ăn cơm
nhà đá. Còn cái Soi ra ngoài tàu ngủ với trăm thằng, cả mẹ nó...
- Già mõ ra rồi.
- Bà lão cũng chẳng tha thằng nào. Có thế mới giàu như điên.
Tôi tặc lưỡi:
- Những nhà có của ở đâu cũng thế.
Trong ổ lá chuối, ông Ngải đã nằm im từ lâu. Ông vẫn quen ngủ sớm hay là ông trằn
trọc trong im lặng.
Khuya rồi, tôi quá giấc cũng không chợp mắt được. Quả nhiên, ông Ngải đã ra ngồi
uống nước từ lúc gà chưa gáy. Mọi thứ chè vò, ấm bát các cháu đã sắp sẵn. Thói
quen đã khoẻ hơn cả nỗi già nua. Ông Ngải vẫn một mình một bóng in trên vách.
Tôi ra với ông lại bởi không ngủ được. Đã lâu mới lại được nếm cái vị chè vò
chát mà đậm giọng. Ngày trước thì ông đã chuyện ran rỉ, nhưng bây giờ chỉ lặng
im.
Nhà anh Sự khang trang thật, không còn lù lù đống cây rơm ở góc sân. Năm gian
mái ngói âm dương, sân lát gạch hoa từ thềm ra tận bờ ao, cổng xây hai cột trụ
như cổng đình. Tôi đã nhắc là hôm qua anh Sự mời ông Ngải sang ăn sáng. Ông lắc
đầu “Cả đời có ăn sáng bao giờ. Anh biết đấy. Anh kiếu hộ tôi".
Trong nhà, gian giữa, bộ ghế xa lông bóng cánh gián. Trên mặt tủ chè, đặt chiếc
choé đồng sáng nhoáng. Gian bên trống hốc, mọi cái sang trọng lẫn với lạnh lẽo,
tựa như cái nhà không người. Lạ là trông thấy máy điện thoại kia, nhưng không
thấy đài, vắng tiếng nói tiếng hát rộn rã mà các nhà hợm của hay mở cả ngày. Có
lẽ bởi người nghiện sợ tiếng ồn. Trên cái sập gụ; Sự quấn chăn chùm đầu, đương
hi hoáy nạo sái. Anh đẩy cái gối, mời tôi nằm bên chiếu. Đã lâu mới lại trông
thấy cái bàn đèn kiểu cách cấu kỳ. Năm mới giải phóng, vào Sài Gòn, Điều rủ tôi
đi tiệm hút ở chợ Cũ. Tôi đã toan đi, rồi lại thôi, bởi vì nhớ có lần Nguyễn
Tuân đem ra Hà Nội cái gối đầu lấy ở một tiệm hút, vẫn cái gối sành trắng hếu,
rỗng ruột, trong nhét cái giẻ lau đen xỉn, trước kia đã thấy những cái gối lạnh
rợn mắt này trong tiệm hút chui rúc ở Hà Nội, ở Chợ Lớn, ngõ Sầm Công cũng như
đường Cây Mai, tôi ghê ghê lợm giọng.
Rồi ông Nguyễn cũng vứt cái gối ấy ngoài hiên, chỗ chai lọ đồng nát. Dẫu ở nhà
ông Hy Chả Cá, cái bàn đèn riêng gọn ghẽ, rồi lên vùng cao, chiếc dọc tẩu làm bằng
đốt hóp đá, tôi cũng không để ý, nhưng bàn đèn của Sự thì chưa được thấy ở đâu.
Chiếc khay gỗ đen tuyền, chụp đèn pha lê xanh nhạt, cái dọc tẩu khảm trai lấp
lánh, những cái tiêm, cái nạo, cái khoe bằng kền bằng bạc nhoang nhoáng. Các thứ
đồ lề của làng bẹp khác mắt này chắc phải chuốc tận các tổ hút lò hút bên Ma
Cao, Hồng Kông mới có được
Tôi bảo Sự:
- Để tôi tiêm cho.
Sự cười, miệng mếu nhợt nhạt như rách ra.
- Anh cũng biết tiêm thuốc a?
Thật tôi cũng chỉ trông người ta tiêm, thấy chẳng phức tạp gì. Tôi hơ thuốc rồi
vê lại, nghiêng vào ngọn đèn vun thành cục nướng xèo xèo bên lỗ nhĩ rồi đưa miệng
dọc tẩu sang cho Sự.
Sự nói:
- Mời anh hút trước.
- Vui với anh thôi, tôi không hút.
Cũng không ép tôi thêm, Sự gò lưng đến rụt cổ, cong hai vai kéo điếu thuốc rồi
ngồi lên, chiêu ngụm nước hãm bát nước chè vò đặc sánh.- “Anh tiêm được đấy. Biết
tiêm mà không hút, ừ, tôi phải học anh, nhưng tôi đắm đuối quá rồi, anh ạ. Sáng
ngày ra tôi kéo sáu điếu cả thuốc cả sái mới mở được mắt. Tôi đã bảo cả rồi,
các thứ ăn uống đều làm bên kia, sắp mang sang.”
Tôi hỏi Sự về những người, những việc tôi còn nhớ. Tôi không động câu nào về
nhà anh. Nguồn cơn buôn bán giàu có; tại sao vướng vào vòng nghiện ngập; anh có
còn là đảng viên không. Tôi e Sự khó nói hay là tôi ngại. Có lẽ cả hai.
- Ông Dũng trong làng hồi này thế nảo?
- Ra tỉnh mở hàng cơm một dạo. Chết đã lâu rồi.
- Lại thắt cổ à?
- ốm bệnh già thôi.
- Cậu Quốc...
- Đại uý Quốc. Rồi cậu ấy đi bộ đội thiết giáp. Xe tăng vào chiếm dinh Độc Lập
đấy.
Nói câu ấy, Sự nhô vai, cổ nổi gân đũa, hăng lên như khoe chiến công của mình.
- Bây giờ làm hội Cựu chiến binh, chủ tịch xã kiêm bí thư đảng uỷ...
Chỉ hỏi qua loa mà ra bao nhiêu chuyện và đời người khác nhau. Nếu ở lại đây
vài hôm, vào trong làng, gặp lại những cô Dăm, cô Vĩnh thì chắc đêm nào cũng
còn mất ngủ nữa.
Tôi nhận ra Sự nói vẫn sang sảng, anh Sự bẹp tai mà làm như vẻ ta đây. Tôi
không hào hứng chuyện đồng ruộng và làng xóm, tôi hỏi chuyện khác.
Nghe ngoài Diêm đương xây cảng lớn, tàu nghìn tấn vào được. Anh có hay xuống
Diêm chơi không?
Sự chau mặt:
- Không! Xuống làm chó gì!
Một cô bé quảy một gánh hai cái thúng con con bước vào. Một bên nồi cháo đương
sôi bốc trắng kẽ vung, bắc trên cái bếp dầu vặn nhỏ lửa. Quang bên kia, cái mâm
đậy lồng bàn- “Mày giái chiếu rời dọn ra". Đã gọn gàng cả, hai đĩa to đủ cả
lòng, dồi gan, cổ hũ... Cái rổ con xếp mở húng chó, mùi tàu, quả chanh và mấy
quả ớt chín vàng bên bát mắm tôm. Chai rượu trắng đã đặt đầu mâm với đũa bát
tình tươm. Con bé không phải người nhà hàng, nó được thuê cơm nước hầu ông bẹp
Sự.
Tiếng xe máy xình xịch vào đầu xóm.
Sự lẩm bẩm, không nhìn ra.
- Mẹ con nó về. Tôi đã điện thoại bảo có anh sáng nay sang chơi.
Vào trong ngõ, một cái đrim màu mận chồm thẳng qua bậc cổng. Người đàn bà cưỡi
ghì như hiếp cái xe. Cứ như những chuyện cô Hến nói thì tôi đoán nó là cái Soi,
chứ làm sao tôi nhận ra con bé ngày trước đứng ơ mặt nhìn nghe cái galen ở nhà
ông Ngải và con bé xúc thóc trộm hợp tác, mấy mẹ con suýt đánh nhau với bố. Nó
đã cứng tuồi, nhưng ăn mặc như trẻ trung đương thì. Một cô “tiếp thị” đúng mốt,
áo thụng tám túi, đeo cái túi xách hai ngăn. Tóc cắt vét tém, bôi son môi, quầng
mắt xanh, váy bò cỡn trên đầu gối, thừa ra nửa bắp chân trên đôi giày da nâu đế
cao. Đằng sau, ngồi một bà béo ục ịch, chắc mụ Sự đây. Mụ cũng sấy tóc cũn, quần
phăng đen, sơ mi hồng dài tay, mặt bự phấn, cổ đeo dây chuyền vàng to như cái
xích mèo. Nước hoa đã phả vào nhà thơm sực nức.
Hai mẹ con bước vào, như không trông thấy bố Sự ngồi đấy. Tiếng cười khành khạch
và một câu chào hàng:
- ối kìa anh Tư. Vẫn thế, trẻ ra đấy.
- Tôi không nhận được chị.
- Cái thời mỡ màng theo con gà ngày mùa nhặt thóc đã đút bếp rồi, anh ơi!
Mụ hỏi:
- Xe anh để đâu, ngoài đình à? Khéo nó tháo mất..
- Để bên ông Ngải. Các cháu nhà cô Hến cẩn thận, đã chằng cả cuộn chão vào hai
bánh. Chú lái của tôi đây.
Tưởng cái ô tô hóa ra cái xe ôm, thế là mọi chuyện đểnh đoảng dần rồi nhạt thếch.
Cái Soi ngồi bên sa lông, chốc lại vóng sang giục mẹ: “Nhanh lên! Nhanh lên! ”,
chẳng giữ ý khách lạ. Mụ Sự cũng không để mắt đến mâm cháo. Có lẽ vì tôi và mụ
câu chuyện chẳng còn ăn nhập gì. Mụ nói: ” Sáng nay khách tôi ngoài tàu hẹn. Có
thong thả thì mời anh ra Diêm chơi". Rồi cười rung má, đá mắt nhìn Khế ôm.
Mụ nói lửng, ỡm ở không vẻ mời mọc, hiểu sao thì hiểu.
ấy thế mới là đời bây giờ. Tôi nghĩ chua chát. “Thằng Sự còn mấy hơi mà chặt cổ
thằng nào nữa, chuyện cổ tích lắm lắm rồi".
Cái Soi vùng vằng cứ ra nổ máy xe. Tôi không thể còn đầu mối nào chắp được chuyện
những cái cô Dăm, chị Sự, cô Vĩnh năm xưa nói “chúng em như con gà, ngày mùa
thì gà béo” với mụ Sự bự rự son phấn này. Đến lúc tôi trông thấy mụ ngồi, đôi
dép đặt lên cái vấu sau xe, chỗ gót chân mụ còn hằn vết sẹo khía đen nẻ miếng
thì tôi gật gù khoan khoái như đã được an ủi là tìm ra cái dấu nối rồi.
Sự ngồi yên, hai con mắt như lồi ra. Khi tiếng xe đã lên trên đê, Sự văng một
câu dõng dạc:
- Đồ đĩ rạc!
Sức lực gân cổ Sự dồn cả vào câu chửi sau lưng ấy. Rồi rót rượu, nói:
- Mời anh nhắm tự nhiên. Nồi cháo sôi cạn cả.
Bữa chén cụt hứng, đâm loãng hẳn.
Tôi về, ông Ngải đã ra ngồi bên búi tre lép đan rỏ. Hai thằng cu nhà Hến đã đi
kéo riu tép. Con trâu lên trên mặt đê gặm cỏ. Rỗi rãi, trâu được thả đi ăn từ sớm.
Xóm làng bày ra những trái ngược, nhưng cũng dễ cắt nghĩa. Chỉ không biết rồi
mai kia sẽ thế nào.
Tiếng gọi nghé văng vẳng trong cánh đồng.
Nghé ơi... nghé ơ...
Chân đi thon thót
Vọt chẳng bén lưng
Bé ăn chơi dưng
Lớn phải đi cày
Đi cho đến bờ đẽo lại
Đập rợ vào lưng, là vặt bước vào
Đi cho thẳng đườig cày, cho ngay đường bừa
Chân đi tai nghe, dạ nhớ lâý
Chớ đi quàng, phải đòn
Nghé ơ...
Bốn phía phẳng lặng đồng không. Chẳng trông thấy ai gọi nghé. Chỉ là tai tôi phảng
phất tưởng nhớ mà thôi.
Chương XXII
Đường về
tỉnh, bây giờ mới để ý xe của Khế len lỏi giữa những xe máy, xe tải xuôi ngược,
che đậy bịt bùng. Chốc cái bạt lại tốc lên. Những tủ lạnh, quạt điện, máy khâu,
các máy móc gì nữa, quần áo vải len sặc sỡ. Thấy nói ngoài khơi biển Diêm Điền
có một cái chợ trời, tàu các nước chở hàng lậu đến đậu từng đám. Hàng trăm thuyền
ra rút hàng suốt đêm.
Cái năm tôi qua thành phố Đaét Salam nước Tandania, trên vỉa hè người đứng bán
từng đống xống áo cũ, hết mốt. Tôi về đã viết một bài báo chễ riễu châu âu
đương mở mang công nghiệp tống phế thải sang thị trường châu á, châu Phi. Nhưng
ở Việt Nam không thèm những cái bần mắt ấy. Bây giờ thì những cái bẩn mắt ấy
tràn khắp chợ thì quê ta.
Viết đến đây, tôi vẫn đương ở Đà Lạt. Tháng chín, thành phố cao nguyên mưa và lạnh.
Tôi không đem theo áo ấm, cháu My xuống chợ mua cho ông cái áo bludông vải xám
có dọc kẻ đen như áo tù. Tôi đương mặc cái áo ấm cu người mới ta ấy và ngồi viết.
ở đây nhiều người đã phất lên, cũng như mụ Sự kia béo mầm chỉ nhờ những cái ôi
thối của thiên hạ. Lại những tình cờ, phải chăng. Những sa sút của Sự, ngày tàn
tạ của Vêrônica, cái chết của Madari, bước đường phiêu bạt không thể định trước
của Platôn Thành, ông Ngải vẫn ngồi ở búi tre lép, không biết đến bao giờ.
Đường tấp nập đông, khi trở về bao giờ cũng ngỡ như nhanh hơn. Chẳng mấy lúc đã
qua phố huyện.
Khế tự dưng hỏi tôi- câu hỏi như kết luận những quan sát của Khế từ hôm qua.
Bác là nhà báo à?
- Ừ
- Nhà cháu ngày trước cũng có người đăng báo, bác biết không?
- Tôi biết thế nào được!
- Bài báo Bà ký Đường ấy mà!
Tôi giật mình, nhúc nhích cả sợi dây chằng ngang lưng. Cái truyện ngắn của Nguyễn
Khắc Mẫn đăng báo Ngày Nay, một chuyện có thật. Tác giả đã đi hát ả đào phố huyện
Vũ Tiên đầu tỉnh. Nhà hát bà ký Đường được tiếng không phải vì sang, vì người đẹp
hát hay mà vì nó không giống kiểu các nhà hát khác.
Ông ký làm sư lục lộ, kém mắt, bị mất việc. Ông ký về mở nhà hát, làm kép đàn,
bà ký và cô con gái hát. Nhà hát bà ký Đường không nuôi đào rượu hầu hạ ôm ấp
khách. Không có chầu mặn chè chén và khách ngủ lại đêm. Hát chầu chay xong, chi
tiền rồi- khách ra về. Được tiếng mà lại vắng khách, cái nhà hát còm cõi ấy.
Ông Dương một ta giỏi võ làng tôi, chủ xe ôtô con thỏ Mỹ Mâm thuê đứng chùm du
côn tranh khách đường Thái Bình- Hà Nội. Chúng tôi hay xuống chơi với ông, có
khi dăm bứa nửa tháng. Tôi kể ông nghe cái truyện ngắn Bà ký Đường. “ừ, có cái
nhà hát bà ký Đường. Chỉ nghe hát suông rồi cút, chán bỏ mẹ. Chúng mày muốn đi
thì tao cho đi". Ông Dương bảo thế.
Rồi tôi được rõ hơn lai lịch nhà hát này cũng không phải chỉ một màn “chán bỏ mẹ",
như ông chùm du côn làng tôi nói khinh thế. Hát cô đầu phố phủ, phố huyện ở đâu
cũng tẻ nhạt- dẫu sao cũng chỉ là nơi chốn ăn chơi cò con của mấy ông chánh lý
có việc quan, những đám kiện cáo bên nguyên bên bị có máu mặt lên công đường và
những dịp sưu thuế. ở Vũ Tiên, đất này có nghề nhà trò hát cứa đình cửa đền, đến
mùa đám thứ thì đi hát thờ, có khi gặp dịp vào hát trong dinh quan bố, quan
thương, quan án. Đã tàn tạ rồi, nhưng còn giữ lề. ả đào Vũ Tiên vẫn có nếp, còn
kiêng: hoa là huê, lễ là lỡi, liễu thì hát là lão... còn giữ hơi giữ tiếng con
nhà nòi họ Tam, họ Ngàn tử xưa nghề hát.
Chúng tôi được lang võ sư Dương dẫn đến nhà hát bà ký Đường. Đúng như Nguyễn Khắc
Mẫn đã tả trong cái truyện ngắn. Nhà phố huyện, vườn thưa hai bên bờ rào. Mái
ngói, vách dứng chát vôi cát. Có hai gian, gian ngoài làm nhà hát. Ông ký khoảng
trong ngoài năm mươi, người gầy kheo khư, cổ lộ hầu, áo the khăn xếp. Ông ngất
ngư nghiêng ngả cả người vớt hai bàn tay khô đét nắn phím gảy tửng tửng cây đàn
đáy ba dây. Võ sư Dương kể lão ký Đường nghiện nặng, trước làm cai phu sở đạc
điền ca đát, người ta gọi tôn lên chân ký lục. Nhà hát tiêu sơ thế này đào đâu
ra tiền mua thuốc ty, lão chỉ nuốt sái, càng gầy rộc, mà lại hay ghen, bởi vì
bà ký Đường còn mẽ người, bà vấn khăn sa tanh bỏ tóc đuôi gà, ngồi xếp thẻ hai
đầu gối quần lĩnh. Tiếng hát khi thánh thót khi dịu dàng trong khổ phách mau
thưa. Chúng tôi đã cơm rượu từ chiều ngoài hàng ở bến xe, như mọi khi. Tôi
không biết cầm roi chầu, nhưng cũng nghe biết ông Dương say cứ gõ tom chát loạn
xạ. Cả nhà có ba người đều phục dịch vào hầu chát. Cô con gái vừa đun nước, lại
mời nước. Cô mặc áo the nâu, cô còn nhỏ nên vấn khăn lượt chưa bỏ đuôi gà. Cô
hát hàng hoa nhẹ nhàng đỡ mẹ những bài dễ, khi mới khai trống chầu, nào Bầu trời
cảnh bụt... nào Hồng hồng Tuyết tuyết... Cô bé chừng mười ba mười lăm tuổi, người
mỏng như cái đóm, lại có cái tên ngồ ngộ, cô Thẹn.
Tôi cũng chỉ đi “che tàn” theo ông du côn cho biết, nhớ đâu được cái nhà hát
sài đẹn này. Tối hôm ấy ông Dương cũng chỉ đánh trống nghe hai ba bài rồi kéo
chúng tôi về. Bây giờ bỗng dưng nghe nói tên “bà ký Đường”, lại đương về qua Vũ
Thư rồi...
- Bà ký Đường là thế nào với Khế?
- Bà cháu, ông ạ. Bà cháu mất đã lâu, cháu cũng không biết mặt.
- Mẹ cháu tên là Thẹn, phải không?
- ối giời ôi! Sao ông biết tên cúng cơm của mẹ cháu, sao...
Mặc cho anh chàng cứ kêu giời rồi sao... sao. .., tôi không trả lời. Có gì mà
trả lời, những chuyện nhà trò cô đầu đã xếp xó, như tuổi cậu này bấy giờ còn ở
trên trời dưới âm phủ mô tê nào, biết đâu được.
Chao ôi, lại một tình cờ giữa đường...
Về đến thị xã, Khế ôm nhất định chưa nhận tiền công tôi trả mà nằng nặc “mời
bác vào nhà cháu... mời ông... Ông ở chơi với bà cháu, với vợ chồng cháu, mai hẵng
về. Mà bây giờ đã trưa rồi, ông cũng đến đi tìm nhà trọ chứ đi đâu".
Khế đoán đúng, tôi đã tính ra cầu Bo lại vào những cái hàng cơm chứa trọ trên bến.
Thế là tôi theo Khế về nhà ở phố huyện cũ. Có lẽ vẫn chỗ cái nhà hát bà ký Đường
năm xưa mà tôi không thể nhận ra.
Khế sắm nắm đi, lúc đèo lúc dắt, hớn hở ra mặt.
Tôi cũng chẳng có kỷ niệm gì ở đất này, chuyện “bà ký Đường” thì vì Khế nói đến
mà nhớ. Có lẽ mỗi khi qua Vũ Hiên, Thư Trì lại nhớ anh bạn vong niên Vũ Đình Cự
nhà vật lý chất rắn cự phách đã cùng anh em trổ tài hiện đại kết hợp với thủ
công phá thuỷ lôi Mỹ thả vây cảng Hải Phòng. Chẳng biết anh chàng đã lấy vợ
chưa, hay không. Và tôi nhớ bài thơ Xuân Diệu vàng ngời những vườn hoa ngâu
chín làng Thuận Vi.
Biết đâu Khế chẳng nghĩ ráng mẹ Khế gặp tôi thì có thể hai cụ đã thế nào với
nhau ngày trước.
Ôi, tôi lại nhớ chuyện Hoàng Trung Thông viết bài giai thoại trên báo Văn Nghệ
về Hoàng Trung Thông và Nguyễn Tuân sang chơi Lỗ Khê huyện Đông Anh.
Lỗ Khê, một làng nghề ả đào. Nguyễn Tuân hỏi thăm một danh ca có tiếng ngày trước
hát ở Khâm Thiên, người làng này. Bà con nói cụ nhà trò ấy mất rồi.
Đêm ấy trời sầm sập mưa, Nguyễn Tuân uống rượu gõ chiếc đũa vào lưng cái bát
làm trống cầm chầu và Nguyễn Tuân hát, nước mắt ứa ra. Hoàng Trung Thông đã viết
lại cảnh ấy. Bạn đọc có thể ngậm ngùi với người đãng tử một thuở đưong khóc cố
nhân.
Nguyễn Tuân bảo tôi:
- Tao có nhân nghì nhân ngãi gì với bà ấy đâu.
Biết thì hỏi thăm vậy. Nghe chuyện bả bị bắt lúc cải cách ruộng đất, bả đã thắt
cổ chết thì tao nghĩ thương cho một cái tài hát kiếm được ít tiền tậu mấy sào
ruộng lại phải chết vì cái tài ấy. Thương là thương thế!
Tôi hỏi:
- Hoàng Trung Thông không biết như ông?
- Nó biết. Nó cùng nghe mọi chuyện với tao. Nhưng nó viết thế thôi. ấy đấy!
Hai chữ “ấy đấy” ai hiểu thế nào thì mặc lòng.
Cái nhà của một người đi kiếm tiền ở nước ngoài về như Khế có đầu óc thu vén thật
chỉn chu. Nhà một tầng- giàn hoa ti gôn đỏ hây trên đầu tường phủ xuống trước cửa,
phảng phất dáng một căn nhà nghỉ ngoại ô Beclin- hay là tôi tưởng tượng ra thế,
nhưng dẫu sao cũng là một gian phong quang, nhẹ nhõm được mắt.
Dắt xe vào giữa sân, Khế nói to:
- Bà ơi! Có khách.
Một bà lão ngồi cái chõng trong nhà ngước mặt ra. Cái nhìn của một người kém mắt,
nghe cũng là nhìn, như ông Ngải.
- Ai thế?
- Chào cô Thẹn
Bà lão đứng lên, nghẹn ngào, mếu máo:
- Ông nào...
Trong khi Khế dựng xe vào tường hoa, hỏi mẹ:
- Nhà con trưa nay có về không?
- Có, nó vừa ra chợ.
Rồi Khế nói bô bô, như mọi việc đã xếp đặt cả.
- ối giời ơi, từ hôm qua đi với ông, con sướng quá. Các cụ ngày xưa cũng lắm
chuyện chứ chẳng chơi. Thế nào con cũng phải giữ ông ở lại đây xơi cơm với bà
cháu, với vợ chồng cháu. Mai con lai bố về tận đầu ngõ trên Hà Nội. Con phải bảo
nhà con về sớm làm con vịt đánh chén mới được.
Rồi Khế vào trong nhà, nhấc điện thoại, gọi ríu rít.
Tôi nắm tay bà lão, đốt ngón tay lạnh ngắt- cái cô bé đun nước, mời nước, hát
hàng hoa tiếng e é chua như mèo rên ngày xưa đây. Hàm răng móm làm cho môi và cằm
rúm trũng xuống. Nước mắt bà lão chảy ra, không biết cái nước chết lưu niên ở
hai con mắt lòa lúc nào cũng ràn rụa nhợt nhạt trên mí, hay là nước mắt. Cô Thẹn
ấy nhỏ thó, gày rạc, cái bóng ngày xưa ngồi sau lưng bà ký Đường đợi hát đỡ mẹ,
tiếng đàn đáy lắc lư.
Cô Thẹn ngày ấy đây. Bà lão vẫn nắm tay tôi cất giọng phều phào, rè rè:
Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai
Câu Kiều này, đầu mùa đông 1959, Nguyễn Đình Thi đã ghi sổ lưu niệm bảo tàng L.
Tôn Tôi trong điền trang Jasnaia Poliana ở Tu La.
Mỗi khi mơ màng lại cái chuyến về Thái Bình này, là thật hay chiêm bao. Hai câu
lẩy Kiều tình nghĩa kia đã thấy ở Tu La hay đã nghe cô Thẹn, bà cụ Thẹn nghẹn
ngào.
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét