Chương VIII
Những chuyện
bâng quơ đâu đâu đến quàng vào đời người. Có khi thoảng qua, có khi tự dưng mà
đổi đời. Năm 1947, chúng tôi làm báo Cứu Quốc ở châu Bạch Thông trên Bắc Cạn,
có hôm chủ nhiệm Xuân Thủy kể với tôi: “Hồi bí mật, có thời kỳ báo Cứu Quốc
đóng ở núi Thầy, gần vùng quê cậu. Chúng tớ định tìm cậu đưa đi thoát ly làm
báo. Về thăm dò cơ sở Việt Minh ở làng cậu, mấy cô phụ nữ cứu quốc báo cáo cậu
giăng hoa lắm” Cũng lại một tình cờ đã xảy ra và không xảy ra. Nếu ngày ấy tôi
đi thoát ly, rồi thế nào, tôi có vẫn theo đuổi viết văn không và sau này tôi
lên chức gì, tôi là ai, biết được.
Năm trước, gặp cô Phương ở nhà nghỉ Đầm Vạc. Phương hỏi:
- Anh có em gái là Ngọc?
- Vâng. Nhưng Ngọc ốm mất đã lâu.
- Cái ngày tôi với Ngọc sang Quảng Châu chữa bệnh, hai chị em ở với nhau mấy
tháng. Ngọc hay kể chuyện về anh, bây giờ mới gặp anh mà tôi ngỡ như đã thuộc
cả nhà cửa nhà anh và ngõ giếng, luỹ tre quen biết đã lâu. Lạ nhỉ.
Năm ngoái, tôi đến thành phố Quảng Châu, chợt nhớ đã có khi hai cô Ngọc, cô
Phương đến đây và ở tòa nhà bên trong bờ tường bệnh viện y học dân tộc kia, hai
người bạn gái đã trò chuyện những ngày xa quê. Tôi không có tơ vương gì cô em
họ ngoại. Khi được tin Ngọc ốm nặng vợ chồng tôi tới thăm. Ngọc nằm nhìn đi đâu
rồi nói: “Sao em sắp chết rồi, anh mới đến?
Hay là cái cô Việt Minh Ngọc ngày ấy đã mách với Xuân Thuỷ rằng tôi hoa lá. Ôi
chao, những tình cờ, những tình cờ chắp nối...
Ngọc có người em trai. Chung làm đội xếp ngoài bóp cảnh sát hàng Trống. Chung
đã vào tổ chức cảnh binh cứu quốc thời kỳ bí mật. Sau Tổng khởi nghĩa. Chung
được điều về làm trưởng ty công an tỉnh ở Phủ Lý. Một lần, Chung về nhà ăn giỗ
mẹ. Có người đến bảo: “Anh về cơ quan ngay, có công tác khẩn". Chung đi và
từ đấy không bao giờ về nữa.
Đã hơn năm mươi năm qua. Khi còn sống, bố Chung và chị Ngọc đã đi nhiều cửa
hỏi. Đến bây giờ, thằng em út không biết mặt anh mà nhà tản cư đi kháng chiến,
cũng không còn giữ được cái ảnh nào, thằng em vẫn đi kêu cứu và dò la về cái
chết của anh. Việc ấy ở Hà Nam có còn ai biết, và ai có can đảm nói ra giải cái
oan này?
Chung chết có phải cũng lại là một tình cờ. Trong khóa tôi học, còn có những
tình cờ như con muỗi mắt chàng màng bề ngoài, mà rồi hóa oan gia và chẳng ra
mặt mũi thể thống thế nào. Có một chuyện người khác kể. Bệnh ăn cắp vặt của
người ta khi đã thành một thói quen, một tính xấu thì chẳng cứ ai và không phải
chỉ vì túng thiếu. Có một học viên, mỗi hôm sau bữa ăn trưa, ông đi từ phòng ăn
ra chỗ căng tin mua chuối tráng miệng. Nhà hàng bày chuối cắt rời từng quả, tãi
ra đến hai ba cái bàn, cho người mua đỡ phải xúm xít. Khách học viên ra mua
hàng ngày là những người tuổi tác và đứng đắn cả. Lấy mấy quả trả tiền đưa tay
hay đông quá thì đặt tiền xuống bàn như nải chuối, củ sắn luộc, quả soài treo
trên gốc cây của những quán “tự giác! không người bán hàng thường ngày trước
gặp trên dọc đường Sơn La - Lai Châu đầu các ban mường người Thái. Ông học viên
nọ đến bàn nẫng một quả chuối rồi quay ra, bóc ăn.
Ông không bỏ tiền xuống bàn. Ông mua quên không trả tiền từ hôm nào không biết,
một học viên khác tình cờ để ý. Người ấy hơi lạ và tò mò thấy mỗi hôm ông chen
vào thón một quả chuối rồi chen ra, vừa đi vừa bóc vỏ. Rồi tổ trưởng, rồi chi
ủy lặng lẽ nhìn cả tháng vẫn thấy sau bữa trưa ông ấy lách vào lách ra nhặt một
quả chuối. Đến hôm tôi hỏi để đi xem mặt ông có bệnh ăn cắp vặt ấy thì được
biết nhà trường đã đuổi học ông rồi. Nghe nói ở cơ quan ông cũng làm cấp vụ,
cấp cục thế nào đó. Ai túng đói đâu quả chuối, ấy là người có tính tắt mắt mà
lại có tuổi, chân tay đã rề rà quềnh quàng lại ngỡ không ai nhìn thấy. Cũng
không may phải cái ông khác tình cờ trông thấy mà thôi.
Lại vẫn những tình cờ. Lê Lựu là binh nhì ở đơn vị Chiến sĩ Lê Lựu chịu khó lam
làm khiêng bàn, quét nhà như mọi người. Chứ không cả ngày ngồi thừ mặt, một tay
đỡ vừng trán đương nặng trĩu những suy tư giả vờ, thế thì có khi còn công tác
bàn ghế thau chậu đến tận năm nao ông Bành Tổ sống lại mới nhoi ra hay là không
bao giờ có được nhà văn Lê Lựu. Lại cũng ở đơn vị như Lê Lựu, Vũ Anh Khanh miền
Nam tập kết. Vũ Anh Khanh là cây bút trẻ ở Sài Gòn rồi vào chiến khu. Đoàn nhà
văn Việt Nam đi thăm ấn Độ Lưu Qui Kỳ giớt thiệu với tổ chức và Vũ Anh Khanh
được đi cùng Nguyễn Công Hoan. ở ấn Độ về, Vũ Anh Khanh lại trở về đơn vị.
Nhưng cái anh tiểu đội trưởng đội phó Vũ Anh Khanh đã mờ mờ đi đâu mất rồi.
Người ta được Thủ tướng Nêru tiếp, người ta dong thuyền chơi sông Hằng. Về đơn
vị cảm thấy đây chật chội quá, đây không phải đất dung thân. Nửa đêm, Vũ Anh
Khanh đã bơi qua sông Hiền Lương. Vũ Anh Khanh gặp nước cường bị chết đuối hay
Vũ Anh Khanh mới ra đến cái bãi cát giữa dòng đã bị dân quân tóm được. Không
biết, việc thì tình cờ, nhưng không tình cờ ở con người. Tôi cũng gặp biết bao
những tình cờ ở lớp. Rắc rối thật và lôi thôi hơn không phải đại khái như cái
tiểu thuyết Đốc tờ Divagô. Năm ấy được nghỉ hè, tôi đi biển Sầm Sơn. Tôi đương
tranh thủ viết kịch bản phim Kim Đồng, đã hẹn ngày tháng giao cho Điện ảnh.
Loay hoay đến hôm đã khai giảng vẫn chưa xong. Tôi vìết thư về ban giám hiệu
xin phép được ở thêm. Lý do bịa “tôi đi nghỉ muộn". Nửa tháng sau, tôi về.
Tôi “trình diện” với bí thư chi bộ Kim Ngọc. Kim Ngọc người hom hem, lim dim
mắt nhìn tôi: “Hôm nay mới đến à? Tớ tưởng cậu vẫn đi học". Thì ra ban
giám hiệu cũng không báo xuống chi bộ việc tôi về muộn. Tôi ngại nhất nhà
trường soát sổ cơm thì lòi ra người vắng mặt. Nhưng thấy yên. Tôi lại ngày ngày
nghiên cứu, thảo luận tổ, lên hội trường và vẫn nhiều tối chuồn về nhà, sáng
hôm sau gò cổ đạp xe vào. Yên trí, mọi cái đều bình thường. Một buổi, Kim Ngọc
gọi tôi ra ngoài hiên.
- Tại sao đồng chí...
Lôi thôi rồi. Giọng Kim Ngọc vẫn nho nhỏ như mọi khi, nhưng hai tiếng “đồng
chí” ấy là không phải mọi khi.
“Đồng chí về muộn quá. Ban giám hiệu yêu cầu báo cáo lý do.”
Thái độ êm ả của Kim Ngọc khuyến khích tôi chẳng tội vạ gì mà phải giấu. Nói
dối nhỡ quên chi tiết, lần sau nói lại không đúng thì đâm phiền phức. Tôi kể
cho Kim Ngọc nghe tôi ở nán lại viết cho xong cái phim Kim Đồng đã đến hẹn đưa
cho xưởng phim truyện.
Kim Ngọc không nói gì. Vẻ như thờ ơ chẳng để tâm..
Rồi hỏi:
- Cậu có viết thư xin phép ban giám hiệu?
- Có chứ, có thì nhà trường mới biết tôi về chậm.
Kim Ngọc cười: .
- Chẳng viết thư thì cũng biết. Xem sổ báo cơm thì ra ngay.
Tôi nghĩ thầm “ờ nhỉ”.
- Thế cậu có báo cáo như vừa kể không?
- Tôi nói tôi đi nghỉ muộn, về chậm.
- Thôi nhé. Ban giám hiệu bảo hỏi, tớ hỏi thôi
Tôi đã quay đi, Kim Ngọc hỏi với:
- Cậu có biết Nguyễn Bùi Vợi?
- Tôi biết. Mới về đài phát thanh...
- Cậu ấy ở với chúng mình hợp hơn.
Những năm ấy Nguyễn Bùi Vợi dạy học trên Vĩnh Phú. Kim Ngọc là bí thư tỉnh ủy.
Câu chuyện tôi về muộn không thờ ơ như chuyện với Kim Ngọc và chưa êm ả trong
cuộc họp chi ủy. Học viên bí thư Đảng đoàn bộ Nông nghiệp Trương Hùng, một chi
ủy căng nhất. Hùng cho là “không thể dung thứ văn nghệ sĩ lãng mạn tự do chủ
nghĩa” cần họp cạo một trận cho chừa.
Hôm sau tôi đã biết cái ý kiến sắt thép ấy. Tôi đợi, tôi nghe. Nhưng lặng im.
Rồi tôi đoán có thể nhờ cái nhẹ nhàng của bí thư Kim Ngọc như câu nói và thái
độ hôm Kim Ngọc gặp, tôi đã thoát một trận bị riềng tới số.
ở nhà tầng trên tầng dưới, tôi hay gặp Trương Hùng. Dường như Trương Hùng cảm
thấy tôi biết cuộc họp chi ủy mà lão chủ trương đả tôi. Sắp giáp mặt, tôi chưa
kịp lờ thì Hùng đã chăm chắm bước đi như không trông thấy tôi. Lão hay mặc quần
áo nâu - màu nâu non mới. Để ai cũng phải biết lão công tác nông nghiệp.
Tôi đã đi cải cách, đi sửa sai, tôi đã loạn mắt những bộ quần áo nâu dởm mà Hồ
Viết Thắng khoác tưng bừng mỗi khi cắp cặp bước xuống ô tô. ấy là chưa kể tôi
làm anh đội cũng đã đánh một bộ nâu lên ngôi như thế, bây giờ trông thấy cán bộ
mặc quần áo nâu tôi còn ngán và tởm.
Dương Văn Đàm bảo tôi: “Hùng là lớp chánh lý trẻ, học hết lớp nhất trường
huyện. Nhà là cơ sở của các cụ, nhờ thế mà thành con nhà nòi. Có cậu với tớ lờ
đờ thôi, các bà phụ nữ ở lớp ta tinh lắm. Các bà đã để ý hắn mặc nâu nhưng may
ô trắng nõn, đi qua sực nức mùi nước hoa". Hùng khoảng ngoài năm mươi, vẻ
mặt và dáng điệu ấy như sinh ra chỉ để chỉnh đốn người ta
Dương Văn Đàm biết kỹ, làm sao mà cái ông luật sư này cái gì cũng biết, có lẽ
đấy là thói quen nghề nghiệp. Nhưng Đàm đã nói như cắt nghĩa cho tôi:
- Cái nghề thầy kiện cãi kiện cúa tờ phải thạo về tò mò và chi tiết. Tiếc tớ
không có khiếu làm văn. Ngày trước, mới tốt nghiệp, tờ tập sự mấy năm ở văn
phòng mét Trần Văn Chương, những chuyện loạn luân ở nhà ấy, từ con Lệ Xuân, đến
mẹ nó thì khủng khiếp.. Dài dài những ngày xưa của Đàm không bao giờ cạn. Tôi
hỏi chuyện hôm nay. Đàm cũng nói được ngay.
Dương Văn Đàm nói:
- Tớ đã đến nhà Trương Hùng chơi. Nhà hai tầng, chỉ có hai vợ chồng. Vợ hắn
nhai trầu bỏm bẻm, người trong làng thì trông già thế thôi chưa chắc đã nhiều
tuổi hơn hắn. Chả là người anh thỉnh thoảng đến có ý nghi cái cách ở một mình
của hắn, mới về quê bàn khéo ra ở với chú ấy cho vui cửa vui nhà". Thế là
khuân được bà em dâu ra chặn cửa. Nhưng bà ra ở được ít lâu, thấy tẻ lạnh thế
nào, lại đòi về quê.
Nguyên do ả nọ làm ở một văn phòng cơ quan, có việc nhà khó khăn phải chạy.
Chao ôi, cũng lại một tình cờ. Đến nhờ hắn, thế là đôi bên bập vào nhau. Nhiều
năm rồi. Đi công tác các tỉnh hắn đều tha ả theo. Cửa hàng cao cấp bách hóa,
thực phẩm, phiến a, phiếu b, bệnh viện Việt Xô, khoa tai mũi họng Bạch Mai hôm
xử đều phải ra tòa làm chứng. Hắn đã đưa ả vào các nơi ấy.
Người vợ già chán chường sự lạnh nhạt, thờ ơ của người chồng. Thì cái ả cứng
nhân ngãi non vợ chồng kia lại càng sốt ruột vì năm qua tháng lại đã nhiều. Con
gái có thì. Anh tính cho em thế nào?
Tôi triết lý vụn với Đàm: .
- Thử thách hai luồng tư tưởng đây. Tư sản bảo: bỏ vợ, vứt công danh vào sọt
rác. Ta ra đi hai trái tim vàng... “xây nhà bên suối. Suối mơ... Bên rừng thu
vắng...”.
Dương Văn Đàm cười hề hề:
- Đằng ấy vận dụng lý luận khá đấy, lại văn chương tơ lơ mơ nữa. Nhưng không
đúng với trái tim con lợn chứa cả hai thằng tư sản và thằng phong kiến. Tư sản
bảo: tình yêu vạn vạn tuế. Đế quốc phong kiến hét: Giữ cái ghế! Giữ cái ghế
muôn năm! Tiêu diệt con nái xề, “đưa nàng về dinh". ấy thế, ấy đấy! ”
Hắn mưu giết vợ. Mấy chục viên thuốc ngủ nêprôbamat đã trữ được. Bà váng vất
đầu, hắn pha cả vỉ thuốc cho uống. Bà ấy ngủ, nhưng thuốc nội không ăn thua,
ngủ rồi lại dậy được. Ghê gớm, kẻ rắp tâm giết người lại sửa soạn keo khác, lần
này mua được thuốc ngoại của Việt kiều bên Thái Lan về. “ừ thôi, đi chơi biển
chuyến giối già rồi về quê”
Xuống đến bãi Cháy thì chặp tối. Cả một ngày đường bà lão say xe lại hâm hấp
sốt. Hắn pha một cốc thuốc ngủ cho bà ấy. Bà lão uống thuốc. Quá nửa đêm vẫn li
bì. Đổ cho cốc nữa, tắt thở.
Chẳng may phải cái cảm dọc đường - người chồng kêu lên. Mọi nơi mọi chỗ đều
những công tác, những việc bộn bề. Tang ma chôn cất ngay đấy, mọi cái đều người
chồng và người lái xe lo liệu..
Chỉ mấy hôm sau, an ninh đã chụp được ảnh tay đôi ngồi bên gốc muỗm đền Voi
Phục.
Tòa xử máy hôm, xử công khai, tôi có một tò mò oái oăm. Muốn đi nhìn cái mặt
người thượng cấp lúc nào cũng nghiêm nghiêm, lạnh lạnh mỗi lần tôi chạm trán
hắn ở nhà ăn, ở hành lang, bây giờ xem cái mặt ấy tròn méo thế nào. Tôi vẫn nhớ
tôi bị Hùng đòi Kim Ngọc phải choảng tôi vì tội “văn nghệ sĩ lãng mạn tự do chủ
nghĩa". Thù đấy tôi cũng thù nó chứ.
Cái nhà tòa án Tây hơn hai mươi năm trước tôi đã đi với anh Vũ Ngọc Phan đến dự
phiên xử nhà xuất bản Cộng Lực kiện tuần báo Hà Nội Tân Văn của anh Phan đã in
từng kỳ tiểu thuyết Chuyến tàu định mệnh của Lưu Trọng Lư, trong khi nhà xuất
bản đã mua của tác giả cả tiểu thuyết ấy và đương in. Anh Vũ Ngọc Phan thua
kiện, phải bồi thường danh dự cho nhà xuất bản một đồng bạc. Thày kiện Phan Anh
cãi cho thân chủ Vũ Ngọc Phan, ông mặc áo thụng đen, tôi cứ nhớ cái câu ông cãi
cũng bình thường, nhưng ông hùng hổ giơ tay và quật mình xuống bục, hết sức
tuồng chèo cải lương.
Vụ xử án giết vợ này ở phòng khác to rộng, đông nghịt người, tôi chưa biết bao
giờ. Tôi chen vào. Trông lên bục cao, các vị tòa án ngồi. Nhìn xuống chỗ vành
móng ngựa thấy hai người cảnh sát, không thấy hắn ta đâu. Nhìn lại mới thấy hắn
ngồi rù rù giữa hai người. Tôi không thể nhận ra ngay vì con người thiểu não
chẳng còn mảy may như trong trí nhớ của tôi. Trông thấy rồi mà tôi vẫn ngỡ
ngàng. Bộ quần áo xám có số tù trên lưng, thằng người ọp ẹp, như sắp bị đám
người lố nhố xung quanh giẫm lên.
Tôi lại chen ra. Tôi chen ra vì tôi sợ nhỡ lại phải nghe thằng ấy nói lời cuống
cùng: Tôi đã được Đảng giáo dục... tôi đã... tôi đã...
Thế là tôi hả hê, tôi ân oán xong rồi.
Tôi nghe kể lại - lại ông luật sư cái gì cũng biết Dương Văn Đàm- ả nọ cất
tiếng:
- Thưa tòa, tôi là đứa con gái dại dột. Thằng dê già kia đã lừa tôi, chứ tôi có
người yêu tôi đây.
ả chỉ một người đàn ông ngồi ghế sau lưng gần đấy. Và chẳng biết có thật đến
đâu. lúc tòa cho tên tử tù được nói lời sau chót, hắn đã nói:
- Tôi mong được tòa khoan hồng để tôi chuộc tội, tôi xin đem hết khả năng ra
phục vụ cách mạng.
Hỏi thì Dương Văn Đàm cũng nói nghe có đứa kể lại Không hiểu câu ấy có thật hay
là người ta nói mỉa.
Chỉ chắc chắn cái án chém là có thật. Cũng như mắt tôi đã trông thấy cái bóng
xám của thằng người rũ rượi trong cái vành móng ngựa.
Đấy là việc đã xảy ra hơn một năm sau khi tan trường. Chóng quá, sắp mãn khóa.
Theo lịch học đã đến đợt đi thực tế, cơ sở nông thôn hay xưởng máy, kiểm tra
mọi mặt lý luận và thực tiễn của khóa học. Tôi được tổ phân công đi với học
viên Thử về huyện Đan Phượng. ở Phùng được mấy hôm, tôi bảo Thử: “Anh là “nông
dân quân chủ lực” anh đi đến làng người ta hay về làng mình cũng thế, anh biết
cả. Tôi thì khác. Đất Thượng Hội, Hạ Rội này gần vùng tôi quá, chẳng thấy gì
mới. Tôi đi Thái Bình, xa xa một tý cho lạ mắt. Hẹn ngày nào về trường thì ta
về cùng cho có đoàn có đội".
Thử cười, không gật cũng không lắc. Anh tuổi chuột, tên Thử, người loắt choắt,
dáng rụt rè tinh tướng con chuột nhắt. Đã nhiều năm Thử ở khung cán bộ bên Lào,
gần đây mới được về tỉnh nhà. Công tác sắp xếp dường như khó khăn, nay ở tỉnh
mai tỉnh đẩy xuống huyện, bây giờ đi học dài hạn, mai kia đi học về rồi thế
nào. Có lúc Thử thở dài với tôi: “Hay là tôi về hưu?” Chả trách, tôi đi Thái
Bình, Thử cũng chẳng buồn hỏi thêm nửa câu. Những năm sau, tôi cũng hay hỏi
thăm tin tức Thử. Có khi nghe anh về công nghiệp vào ban phục trách các lò nung
gạch trên tỉnh. Gần đây anh đã nghỉ hưu. Chú em tôi ở thị ủy thị xã Sơn Tây lấy
làm lạ sao tôi lại quen anh Thử. Chú ấy hỏi lại tôi như không tin:
“Bác Thử đã học trường Nguyễn ái Quốc với anh à? Bác ấy hiền lắm”
Thế là tôi đi Thái Bình. Có lẽ như thế còn biết cái gì hơn - như tôi đã bảo
Thử. Nhưng cái chính là hai năm bó cẳng không đi đâu, tôi muốn đi xa xa, đâu
cũng được. Chỉ thế thôi.
Tàu thủy Phà Đen về bến cầu Bo thị xã. Mấy năm rồi, vẫn thưa thót, vẫn vậy. Chỉ
khác các tàu khách đều vào quốc doanh. Vẫn những cái tàu ọp ẹp từ thời thoát
bom Đồng Minh ném, vỏ tầu trắng bệch như con cành cạch chết xác đã khô. Trên
vách tàu, chỗ bẻ lái, treo cái bảng đề tên kíp lái, kíp trực. Dưới sàn, không
thấy như hồi tàu còn ông chủ, có một mâm mờ lồng bàn ra, đĩa thịt gà, chai
rượu, nồi cháo ăn sáng. Hai bên hàng tàu vẫn người xuống đông từ lúc chưa tan
sương. Có vài người như cán bộ đi công tác xuống bến cuối. Còn vẫn vài ba bến
người xuống người lên hai bên sông, người buôn về thành phố, người đem hàng đi
các chợ quê. Những quảy sắn, cả bánh đa, miến dong riềng, phuy dầu tây, nhiều
nhất những đệp túi đựng quần áo may sẵn mua lại của nhà mậu bách hóa.
Đôi khi cả tay nải lèm những cái nịt vú bằng miếng sốp bọc ni lông đỏ, không
biết đã mua ở nhà mậu hay cất hàng ở các lò khâu.
Cái thị xã ngủ yên vẫn bên đường mọc cỏ xanh lì và vườn hoang um tùm, chỉ lác
đác nhà. Bến ô tô đã sáng đèn, tôi vào hàng cơm. Tối rồi mà quán nào cũng toàn
đùi chó, sườn chó treo lủng lẳng. Chủ quán nói: “Cả tỉnh đương triệt để chó
mà". Tôi ăn một bát bún chó rựa mận. Lại đến nhà trọ năm trước. Tiêu điều,
lụp xụp, những cái mái giấy dầu sắp đổ. Chị chủ trọ lại lấy cái thừng cho tôi
buộc cái khung xe vào thành giường. Tôi lại bỏ đôi dép râu vào ba lô để trong
màn, cũng như lần trước. Sớm hôm sau, tôi về Thái Ninh.
Đã xế trưa, nắng ấm. ở trên đê nhìn xuống xóm Đồng lố nhố một đám người đương
kéo ra. Như bọn đi đánh dậm, không phải người làm đồng. Những cánh ruộng đã gặt
quang, một màu chân rạ đen xạm. Chưa một khoảnh nào bừa vào mùa.
Đến gần thì trông rõ bọn ấy vác những đồ nghề nấu rượu. Hai chiếc đòn ngang
bằng con sào buộc cái mu rùa, người khênh quàng vai những xâu men rượu trắng
như bỏng ngô. Lại mấy cái nồi ba mươi, chảo gang bôông bêêng, lũ người bước lẫn
lộn. Ai cũng hăm hở, đùa cười, đuổi nhau loạn xạ. Ngỡ như họ đổi bếp đem lò
rượu sang nấu bên kia bãi. Tôi hỏi, mấy người cười rầm lên: “Bắt rượu! Bắt
thằng nấu rượu nộp lên huyện. Không trông thấy xã đội trưởng đeo túi dết vác
cái ống trúc cất rưọu đi đằng trước à?”.
Mới nhớ đương cấm rượu bắt rượu dáo diết. Dáo diết nhưng chẳng làm ai khiếp sợ.
Ngày trước Tây đoan về khám rượu, cả xóm cả làng đâu ngồi đấy, không ai dám thò
chân ra cổng. Bác Cả tôi, thày đồ ngồi bảo học ở nhà, lính đoan vào thuốn lên
hóc cột, mái nhà, bói đất luống rau cải, nghi chôn rượu, chôn bã. Rồi được tang
vật thì trói đi một xâu người. Bây giờ bắt rượu đem lên huyện như đám rước.
Người mang vác tang vật đi lẫn với người nấu rượu, chẳng biết ai phạm pháp, ai
đi xem. Như phường chèo đi làng xa hát đám, như lò vật trảy hội.
Bắt rượu rồi phạt rồi lại bỏ đấy. ở Hà Nội làm nghiêm thế mà cũng như trò đùa.
Tôi sẵn thành kiến về bắt rượu lậu ơ hờ từ những cái trông thấy ở Hà Nội. Báo
đăng tin bắt được rượu lậu cả trong xe cứu thương. Rượu giấu trong xe cấp cứu
thì thọ quá. Chẳng biết ở chỗ nào, ông lái đã nếm, cái thèm uống vụng ăn vụng,
cứ ngứa ngáy thòm thèm, có thế mới thò đầu ra cười cợt với người gác cầu. Ông
lái lên cầu Long Biên, mặt rượu đỏ gay, vẫy tay cười hê hê vẫy anh công an gác
cầu. Cái xe bị ách lại. Trong xe kính màu, một ả nằm ngửa trên cáng thương,
dưới lưng đệm một bọc rượu. Chẳng phải đọc báo, tôi cũng thường thấy ở quán
nước bả hàng cạnh bến xe Kim Liên, có hôm Đăng Đình Hưng đeo bị rượu đến bán,
có hôm một cô quang gánh ở ngoại ô vào, thoạt trông tưởng bán miến dong riềng.
Cô hàng cũng như lái rượu Đặng Đình Hưng cứ bước tự nhiên vào gian trong. Rượu
đựng vào miếng ni lông Trung Quốc xanh lá cây đong ra. Lại cáì xe cấp cứu màu
hàng sữa của bệnh viện huyện in chữ thập đỏ hai bên sườn đậu chỗ rặng cây si bờ
hồ đằng kia. Xe rượu đấy, có hôm ở quán 81 lại thấy cô nọ xách tải rượu vào,
đặt đấy rồỉ ra. Cấm thì cấm, người bán rượu các phố cứ như thoi đưa.
Trong đám khuân đồ nghề rượu có tiếng gọi ra:
- Anh Tư, anh...
Trên dốc trông xuống, thì là ông Ngải. Ông Ngải đeo vai một tràng lủng củng,
lởm nhởm những miếng gỗ quai guốc. Ông Ngải cũng trong bọn vác mướn hay ông bị
bắt rượu. Trông ông không khác năm trước mảy nào. Cổ ông xạm nắng nhưng mặt vẫn
nhọt nhạt thế.
Ông Ngải luống cuống hỏi:
- Anh về chơi à? Một mình à? ở nhà có cái Hến. Tôi về ngay bây giờ...
Bọn người tất tưởi đem các thứ đồ nghề rượu lên trụ sở ủy ban xã. Ông Ngải nói
"tôi về ngay”, chắc ông không phải chủ bị bắt rượu. Thiếu đâu người mà lại
lôi ông lão làm dân công vác rượu.
Vẫn bụi tre lép giứa mảnh đất phẳng quanh chân tre, lưng tre nhẵn thín lốt
người tựa lưng hay con trâu cọ thành bụng vào. Có một mình cái Hến trong nhà.
Cái Hến thì khác, năm nao còn là đứa trẻ mới lớn nay đã sồ sề mặc cái áo bộ đội
tàu tàu. Người con gái không có thì con gái. Hến ngồi ngoài bóng nắng.
Cái lược bí đương chải chấy dừng lại giửa làn tóc, khi thấy người bước vào.
Trong nhà, chiếc võng lắc lư mảnh vải hoa.
- Chào cô Hến.
Tôi chào to thế, nhưng bụng lại thầm mong mình nhầm. Tưởng như mới gà gáy tan
canh, bà Ngải vào cạnh giường: “Trỗi! Trỗi. Sáng rồi! Sáng rồi! ” Quát mấy chặp
cái Hến mới lạt xạt cựa quậy. Có hôm cái Hến nhờ tôi khiêng với nó buồng chuối
tây ngoài vườn.
Buồng chuối chẳng nặng, nhưng xách thì cồng kềnh.
Tôi phải gọi “chú Phùng Quán” ở trong nhà ra ghé vai giúp. Bởi cái vai thờ của
tôi, nhỡ một cái, gãy quả chuối của người ta. Vai thì vai thờ, chân tay thì
thừa, người vô tích sự. Cái năm ở Nông Cống, quảy nước làm vỡ nồi. Vội ra chợ
Nưa mua đền cái nồi mới. Quảy thứ, nước vẫn chảy tong tỏng. Cô Đăng soi nồi lên
nhìn rõ lỗ châm kim. Cô Đăng nói: “Anh mua nhầm cái nồi thủng. Bận sau mua nồi
phải soi lên xem thế này.”
Chắc chẳng bao giờ trong đời tôi có lần nào đi mua nồi nữa. Tôi cũng chắc là
tôi khác Đặng Đình Hưng, dẫu các nơi sôi nổi văn nghệ sĩ đi thực tế, cũng không
ai bảo Hưng đi, Hưng ở nhà buôn rượu kiếm cái sống, cái uống. Hưng không vụng
như Trần Đức Thảo chăn bò nông trường Ba Vì. Có thư cơ quan gọi Thảo về, nông
trường cho về ngay. Không biết đàn bò gần móp bụng ngày ngày Thảo dồn đi dồn về
đã thiếu mấy con, con nào bị hổ vồ, mấy con bị trộm dắt mất.
Nhạc sĩ Đặng Đình Hưng và nhà triết học Trần Đức Thảo không biết nhau, đấy là
tôi quen hai người.
Họ đã gặp nhau trong tôi, rồi cuộc đời hai người dài dài phí hoài, mà tôi chứng
kiến.
Khi đó, ở Trung ương trên Việt Bắc, nhiều cơ quan đương chỉnh huấn, theo cách
làm của các tỉnh Hoa Nam - mà chúng tôi gọi là phương pháp Hoa Nam.
Không có chuyên gia nước ngoài, nhưng cán bộ giáo vụ mặc áo bông ngắn bọc vải
xanh Sỹ Lâm ra lối ta mới học tập bên kia về. Tôi cũng dự cái khóa ba tháng đầu
tiên theo phương pháp ấy. Cán bộ đèn sách khóa này rồi tỏa khắp các chiến khu,
có đoàn vào chiến trường miền Nam mới đến khu Nam Trung Bộ thì hiệp định
Giơnevơ được ký kết lại quay ra. Đặng Đình Hưng công tác ở ban tuyên nghiên
huấn giáo chuyên làm giáo vụ các lớp chỉnh huấn văn nghệ sĩ. Không nhớ Hưng có
mặc áo bông xanh Sỹ Lâm không, bấy giờ Đặng Đình Hưng cũng là nhạc sĩ, tác giả
bài hát Nông dân là quân chủ lực. Nhưng chưa khi nào tôi nghe ở đâu hát bài ấy.
Về Hà Nội tôi cũng không gặp. Tôi chỉ biết Hưng có rắc rối về chuyện vợ, mà tôi
làm công tác đảng ủy, chắc Hưng có ý tránh mặt. Bấy giờ các chuyên ngành văn, họa,
nhạc, sân khấu, kiến trúc đã tách ra thành lập các hội riêng. Cũng không biết
rồi tại thế nào mà
Đặng Đình Hưng vướng vào Nhân Văn. ở hội nhạc, Đặng Đình Hưng đã bị ra khỏi
biên chế, Hưng không đi hay là không được đi họp chi bộ, thế là mất cả đảng tịch.
Bây giờ dịch tài liệu cho cơ quan ăn tiền bài. Khi đó đã giao thiệp với ngoài
mấy đâu mà có cái để dịch và Hưng chỉ biết tiếng Pháp. Nghe nói Hưng đi cất
rưọu quê đem ra bán các quán. Một hôm, gặp Hưng. Khác hẳn trước, không còn râu
hùm hàm én, cán bộ tuyên nghiên huấn trợn mắt giơ tay phát biểu choang choác. ở
một quán nước bán rượu chui, chỗ trông sang rạp xiếc cạnh công viên Thống Nhất.
Một người mặc áo ka ki đại cán cháo lòng, đội cái mũ dạ rúm ró. Lấm láp như
người đánh dậm ngoài cầu Giẽ vác cả cái dậm lên tận phố. Nhưng không. Người ấy
khoác một cái bị cói lẳng lặng bước vào nhà trong. Thông thường, đấy là khách
mua bán dấm dúi. Qua trước ghế tôi ngồi, cạnh bà hàng nước, người ấy cất tiếng
nghe quen quen:
- Chào ông anh..
Tôi ngầng lên, nhìn ra Hưng. Hưng ngồi ngay xuống với tôi. Hưng lấy trong bị ra
một chai rượu trắng. Hưng nói vừa đứng đắn vừa chót nhả, tự nhiên như vẫn gặp
nhau thường ngày.
- Chẳng nói giấu ông anh, dạo này thằng em đét lắm. Lấy cái này tận quê ra, vừa
bán vừa ghé gẩm đôi ba chén. Để cho ông anh một chai, thật cái tăm Chương Mỹ
đấy.
Rồi Hưng đặt kín đáo chai rượu dưới gầm bàn, bên chân tôi. Tôi hỏi bao nhiêu.
Hưng nói “chỉ xin giá vốn thôi". Tôi đưa trả tiền Hưng như xưa nay vẫn
sòng phẳng gọn ghẽ thế, chuyện tiền bạc thì Hưng rành rọt tính đếm thạo. Hưng
đã kể ngày trước vị Hồ Đắc Điềm quan tổng đốc trẻ Hà Đông đã gọi Hưng làm chân
thầu cơm trại lính khố xanh. Và Hưng vẫn nhớ tôi biết ở lớp chỉnh huấn cho họa
sĩ trường Mỹ Thuật đóng ở huyện Yên Bình một hôm lên lớp, cán bộ Hưng mất đôi
dép râu để dưới thang nhà sàn. Hưng bắt cơ quan phải đền vì “đôi dép đã bị mất
khi công tác". Những chuyện bình thường đã tháo vát lại cũng lơ mơ, như
hôm ấy Hưng nhận tiền chai rượu rồi lại ngồi thịt luôn chai ấy với đĩa lạc
luộc, quên cả đưa rượu bán, rồi bà chủ quán phải hỏi. Rồi quá chén, Hưng đi
khật khưỡng, tôi phải đỡ vai, Hưng bảo đưa về một nhà ở phố Nguyễn Thượng Hiền
sau lưng gần đấy, Hưng bước thẳng đến chân cầu thang cuốn lan can gô, cả người
với cái bị chai không và chiếc mũ bật ra, Hưng rụi xuống ngay chân tường. Nhà
quen, Hưng vẫn tá túc ở chỗ ấy.
Tôi quen Trần Đức Thảo ở lớp chỉnh huấn trí thức trên rừng huyện Chiêm Hóa.
Thảo ở Pháp về rồi từ Hà Nội lên Việt Bắc. Thảo mặc quân áo nâu, đội mũ lá gồi;
đeo xắc cốt vải chàm đã xin hay mua được của bà con người Tày, người Dao trong
làng. “Tớ phải thế này cho kịp các cậu” - đôi măt kính cũng cười lấp lánh.
Chẳng biết rồi còn bao nhiêu đêm Thảo không nằm màn mới kịp chúng tôi để đến
được những cơn sốt rét mặt bủng rứ.
Về Hà Nội mới gặp lại Thảo. Thảo vừa đi công tác Bắc âu về, đội mũ phớt, rõ ra
Tây. Nhưng vẫn áo đại cán may ở Thái Nguyên, trước khi về tiếp quản Hà Nôi. Bộ
ka ki xi măng này tôi còn thấy Thao mặc đến khi sờn cả cửa tay.
Mới gặp, tôi đã lạ và phục Trần Đức Thảo. Vì nghe đồn ở Pari, Thảo đã là bạn và
tranh luận triết học với văn hào Giăng Pônsác. Lại nghe nói triết của Thảo đã
phát hiện và có những phân tích mới về chức năng hai bàn tay trong quá trình từ
con vượn lên con người.
Nhưng tôi gần Thảo hơn không phải chuyện nghe hơi tiếng tăm và cái triết lý hai
bàn tay vượn người. Chúng tôi chuyện về Hà Nội ngày trước. Thảo bảo thuở bé học
trường Cửa Đông, nhà ở phố Hàng Đường. Trường Cửa Đông tôi đã thi vào lớp bét
mà trượt, bấy giờ tôi ở Hàng Mã. Rồi sau tôi đi làm hiệu giày Bata. Thảo kể thì
tôi nhận ra nhà Thảo là chỗ nhà bưu điện tư, ngoài cửa để ghé cái tủ kính bán
tạp hóa và giày Bata. Hàng tháng tôi đi tính sổ các đại lý bán giầy ở Hàng
đường, Hàng Bông. Thế là tôi ngỡ như đã biết Thảo từ thuở ấy. Tôi bảo: “Tớ còn
nhớ ông cụ nhà cậu. Ông cụ người đẫy, đeo kính hay thắt cà vạt đen, ngồi trong
quầy bán tem sau tấm kính".
Tôi hỏi Thảo:
- Bên Thụy Điển, bên Bắc âu có gì hay không?
Thảo nói:
- Mua được cái chăn, tuyệt lắm. Lông ngỗng hay lông chim, nhẹ chỉ độ một cân,
đi công tác rất tiện.
Thảo cho xem cái chăn lông chim của anh mà chắc anh lý thú nên mang đến tận nhà
tôi. Lại biểu diễn luôn ở trên giưòng tôi cạnh bàn viết. Anh mở cái chăn màu
vàng nhạt, kéo khuy bấm nằm thu lu vào giữa, dưới gáy sẵn cái gối thòi ra.
Trông người nằm gói trong chăn, cái chăn màu vàng tôi nhớ ngày trước, đi đêm
trong thành phố Sài Gòn hay gặp người nằm ngủ trong cái nóp trên vỉa hè. Tự
nhiên, nghĩ đến cái triết lý bàn tay khi thấy anh hể hả chui vào rồi gấp chăn
mở chăn cho tôi xem.
- Cái này để đi công tác.
- Cho mượn nhé.
- Đi đâu cứ lấy.
- Đùa thôi. Bó không chịu được. Tờ hay đạp, hay gãi.
Thảo không nói. Thảo không cắt nghĩa thêm cho tôi về những cái tôi ngại, chắc
anh biết thế là tôi chê.
Nhưng mà đấy là Trần Đức Thảo, cái chăn Na Uy, Thụy Điển gì ở Hà Nội hay bộ
quần áo nâu và cái túi chàm ở Việt Bắc thì vẫn một người áy. Lâu lâu mới lại
trông thấy Đặng Đình Hưng. Nhưng tôi biết tin Hưng ốm, phải mổ phổi. ốm đau, bè
bạn thì trông vào ai, bản thân thì bị vứt đi rồi nhưng mà có mả cứu bần, dạo
này Hưng được Đặng Thái Sơn gửi tiền cho. Đã ra viện và bình thường. Thế nhưng
chợt trông thấy cũng không khỏi ngạc nhiên. Hưng ở cái chợ cóc bên đường Giảng
Võ đi ra, tay vung vẩy một mớ rau muống. Không còn ốm o mảy may, người mới hiên
ngang làm sao. Đầu đội mũ nan cao bồi Nam
Mỹ rộng vành bóng nhoáng, áo sơ mi thể thao hồng xẫm có cầu vai, quần bó xắn
gấu. Đôi giày da có cổ màu gan gà vàng bóng, gót cao đến năm đốt ngón tay.
Hưng đi đĩnh đạc như thả chân đếm từng bước giày chắc chắn. Mặt đẫy đà đỏ đắn,
màu rượu hay là đương thuốc bổ.
Khác lạ thế, nhưng tôi nhận ra Hưng ngay. Tôi chạy sang đường. Mắt Hưng vẫn
nhanh loang loáng.
Hưng giơ bó rau muống, reo to:
- A, ông anh. Nhà em gần đây, vào chơi cái đã.
Đặng Thái Sơn mua của nhà nước cho bố một căn hộ mười sáu thước vuông, lại tậu
cả điện thoại. ở tầng hai, trên lưng cửa hàng bách hóa nhà mậu Giảng Võ.
Qua hai ba lần khóa dãy, khóa cửa mới vào tới gian hai buồng tối âm thầm có một
lỗ cửa sổ trổ xuống đường treo miếng mành mành, tựa cái cửa ngăn ở khoang
thuyền. Khách đứng dưới đường gọi. Chủ nhìn trong mành ra xem ai. Không muốn
gặp thì không lên tiếng, mặc cho gọi.
Cả sàn nhà trải chiếu mộc. Không bàn ghế. “Như thế này hay. Lăn chỗ nào cũng
được".- Hưng nháy mắt, nói thế. Trên cái bục gỗ áp tường gian ngoài bày
bình hương trước bức ảnh truyền thần hình ông già chít khăn, râu ba chòm, chắc
ảnh cụ thân sinh.
Trong nhà ra mở cửa, một cô dong dỏng người. Hưng không giới thiệu, và tôi cũng
đã đoán biết đại khái thế, đại khái vậy. Tôi nói thế này;
- Cô để ông ấy đi chợ vác có mỗi mớ rau muống?
Cô cười:
- Người khó tính lắm ạ. Đòi phải mua rau lấy người mới xơi được. Nhưng người
khôn lắm, không đòi luộc lấy.
- Nhà nó chỉ biết mua rau muống lợn. Nhà mà luộc thì tôi cũng ăn chiếu cố.
Nàng trẩu môi:
- Thế thì chiếu cố cả đời.
Hai người còn nói năng ỡm ở những gì nữa rồi Hưng vào khay rượu trong góc nhà,
nhấc ra cái chai trong cùng.
- Có chai đầy chai vơi là ý tứ cả đấy, không lộn xộn đâu. Rượu chợ thì thằng em
bày đám ngoài cho các bợm uống boóng. Còn anh em ta làm cái này, cũng Chương
Mỹ, nhưng mà hảo, tố hảo..
Hưng cắt nghĩa nguồn tiền mua rượu:
- Nhờ nó cả. Nhưng ở bên ấy thì nó cũng phải đi làm chứ có maphia đi cướp nhà
băng đâu. Đủ tiền ăn và thuốc men, nó gửi ngữ, gửi tháng thôi. Nhưng mà cái
ngữ, cái tháng của người ta...
Tôi không muốn nghe những chuyện ấy, tôi hỏi:
- Lái đem rượu trong quê ra?
- Chứ em ốm đau đi sao được! Thánh thiên tử lắm, hơn đứt rượu Tây..
Hưng giữ tôi lại ăn cơm. Tôi bảo để khi khác. Hưng trịnh trọng:
- Ông anh, ông là anh tôi. Ông là học trò lớp bét trường Yên Phụ học thày Đặng
Đình Hướng anh ruột tôi, ông là người nhà tôi rồi. Ông đã có một quyển sách để
đời. Còn thằng em ngần này tuổi mà còn đương bơi, không biết bơi vào chữ hay
vào màu.
Những câu ấy Hưng cũng hay tụng tôi mỗi lần gặp.
Tôi hẹn, nhưng ngay lúc ấy cũng ngồi làm mấy chén vui. Hưng lại tán cái này
rượu quê ngâm củ ba kích.
- Cái trong kia, dái dê với ba kích thì lên một bậc nữa. Ông anh hãy nếm ba
kích.
Tôi cười:
- Năm trước, nhạc sĩ Hồ Bông đã cho chén dái dê ở Sài Gờn. Chẳng ăn thua mẹ gì.
- Không, dái dê của thằng em thửa, đủ tháng đủ năm không già không trẻ. Nhưng
ông anh xơi cái nam y ba kích này đã, xem máu huyết dẫn đến đâu rồi hãy sực cái
thằng hùng hổ hơn. Em trông tạng ông anh thì ba kích là vừa.
Rượu ba kích hăng hăng, ngái ngái. Hôm sau, cái cô thổi cơm bữa trước ở nhà Hưng
đèo xe đạp đem cho tôi một bó củ ba kích tươi như mới đào ở vườn thuốc lên. Có
củ to bằng củ cải. Tôi hỏi đùa: “Cái này ăn sống có được không, hả cô?”. Cô ấy
trả lời ngúng nguẩy: “Những của quỉ này, em biết đâu".
Tôi cũng không nhớ mớ ba kích tươi ấy rồi tôi cứ thế ăn sống, tôi bổ ra phơi
khô hay tôi vứt đi. Vài hôm, tôi lại được Hưng gửi cho một bó ba kích. Mỗi lần
lại một cô khác đem tới. Và khi đến chơi nhà Hưng, có hôm thấy vắng vẻ, tôi
hỏi: “Các nàng ba kích đâu cả rồi?”.
Hôm ấy, tôi rủ Vạn Lịch, chúng tôi đem đến một bọc thịt chó - mua ngay ở chợ
Giảng Võ. Hưng cho ăn rồi hay chửi những thằng ăn vọ, tôi giữ ý không đến tay
không. Hưng đúng hẹn, lúc chúng tôi tới, cả ả người thanh mảnh đương mổ con
ngan hay con ngỗng dưới bếp. Tối ấy, cuộc chén thêm nhạc sĩ Huy Du, nhà ở gần.
Và cả cô đầu bếp. Con gái phường phố bây giờ lắm cô đã đoảng lại hư. Hai cẳng
chân lão đã lạnh lên tận đầu gối mà chúng họ vẫn lăn vào.
Chương IX
Tôi gặp Trần
Đức Thảo ngoài cổng bệnh viện Hữu Nghị. Cả thành phố đã thuộc cái ông đi chiếc
xe đạp con vịt trẻ con sơn xanh, không phanh, ngồi phải doạng chân cho đầu gối
khỏi đụng lên ghi đông, đấy là nhà triết học Trần Đức Thảo. Ông dịch sách lý
luận kinh điển cho nhà xuất bản Sự Thật để lấy lương ăn. Người biết đôi chút
thì thắc mắc: không biết ông có được dạy, ông có được phong giáo sư không. Tôi
thì biết bây giờ ông dông dài lam làm chơi chơi thế thôi. Tôi cũng chẳng biết
ông có Nhân Văn Giai Phẩm gì không và tại sao ông lại càng ngày càng bị quên
lãng dưới đáy.
Tôi làm sao biết được, mà tôi cũng không tò mò. Tôi chỉ là một người tẻ nhạt và
yếu đuối với những kỷ niệm Trần Đức Thảo. Gặp ai quen, đứng lại chuyện thì Thảo
buông cái xe kềnh xuống như con chó rô bốt nằm phủ phục bên chân ông chủ, nói
như quát.
Thảo đương đi ra chỗ gửi xe đạp. Tôi lại nhận thấy có một vật nữa khiến người
ta dễ nhận ra ông Thảo. Ông Thảo đi đôi guốc mộc. Đi guốc mộc và hút thuốc lá
cũng đương là cái mết của mấy bác sĩ trẻ trong các bệnh viện. Nhưng đi guốc mộc
và mặc bộ đại cán ra đường và đã đứng tuổi thì chỉ có Trần Đức Thảo và bác sĩ
Phạm Ngọc Thạch. Ông Thảo đi guốc mộc mọi lúc, mọi chỗ. Bác sĩ Thạch thì lóc
cóc đôi guốc và để đầu trần đi chơi buổi tối trong các ngõ rạp hát, các cao lâu
phố hàng Giầy, hàng Buồm. Ông Thạch lực lưỡng, béo tròn khác ông Thảo gày gùa,
mặt và mắt vàng nghệ màu bệnh gan.
Tôi chào và hỏi Thảo:
- Bệnh gì đấy?
- Vẫn cái gan mọi khi.
- Mới đi Đức về, không chữa ở bên ấy a?
- ờ, mới về. Người ta mời đi nghỉ, không phải đi chữa bệnh. Về lại phải vào đây
xin thuốc.
Rồi cứ giữa đường thế, Thảo nói ầm ầm một hồi chẳng để ý người qua lại đứng
nhìn.
- ở nhà nghỉ trong rừng cả tháng, bảo cho đi xem bức tường Beclin một cái thì
không. Chúng nó sợ tao chạy sang bên kia à? Có là con chó.
Thảo nói “chúng nó", tôi không hiểu đủ, tôi hỏi:
- Ai ngại ông?
- Chúng nó.
- Chúng nó là ai?
- Thằng Đức, thằng sứ quán.
- à ra vậy.
Cũng gần trưa. Tôi có ý nghĩ đi mua cái gì rồi rủ Trần Đức Thảo về ăn ở nhà
Đặng Đình Hưng. Có thể cũng hay. Tôi bảo Thảo: “Chúng ta đến nhà thằng...”, mới
nghe thế, Thảo đã lắc đầu. Tôi chợt nghĩ ra.
- Không được nhỉ, còn cụ ở nhà?
- Ông cụ mất đã bốn năm rồi.
- Có một mình ở nhà thì đi nhé.
- Đi đâu?
- Đến nhà Đặng Đình Hưng. Đặng Đình Hưng bố Đặng Thái Sơn ấy mà. Nó cũng ở một
mình như ông.
Thảo lắc đầu nói:
- Đã lâu, tao không muốn quen thêm một ai trên đời này nữa.
Nghe câu triết lý cùn mà xa xôi, mà lạnh lẽo, tôi đành chịu. Nhưng con người
hiền lành này không phải là kỹ tính khó khăn, tôi rủ ra quán cơm đầu ghế thì
Thảo đi ngay. Phố Hàm Long, cái quán bia, lòng lợn tiết canh và cơm bát của vợ
chồng con gái bà Tân Việt.
Hồi này chưa có nhiều quán bụi, nhưng đã lác đác bia hơi, cháo lòng, bún nem,
không đến nỗi chỉ độc có phở mến dong riềng không ngườì lái.
Cũng chưa lần nào tôi ăn với Thảo, không kể hồi lớp chỉnh huấn ở rừng, cơm tập
thể ăn đứng, giữ vệ sinh gắp đổi đầu đũa. Tôi có cảm tưởng buồn cười nhà triết
học như vẫn ngơ ngác tròn mắt với xung quanh khác lạ ý nghĩa và không ý nghĩa
của quá trình hai bàn tay con người. Anh hay có nhận xét kết luận.
Anh không uống bia. Rượu thì chẳng biết nó có ở trên đời này. Anh ăn cơm, gẳp
miếng dồi lợn chấm nước mắm, không mắm tôm rau sống, không đụng đến lòng tràng,
cổ hũ.
- Lòng lợn nhồi tiết là nhanh nhất. Mà cũng ngon, sống ở trên đời, ăn miếng dồi
lợn mà. ở nhà, hồi còn ông cụ, lắm hôm nấu nồi cơm trộn nước mắm, ăn mấy hôm
mới hết. Rồi quen, cái thói quen có được hay bỏ được cũng dữ dội lắm, cậu ạ.
Rồi nghe tin Trần Đức Thảo công cán đi Pháp gặp gỡ Việt kiều. Nhà trí thức Trần
Đức Thảo đã hoạt động lâu năm bên ấy. Nhưng không ai để ý và thấu nỗi từ cái
năm ở nông trường Ba Vì được về, Trần Đức Thảo chỉ tháng ngày quanh quẩn cơm
niêu nước lọ một mình lâu dần đến đỗi không muốn quen thêm một người nào nữa,
người đã sợ cả người. Giá mà hồi ấy gặp Thảo thì tôi bảo anh đừng đi. Bà con ở
Pari về kể chuyện Thảo được Việt kiều qui mến, lập nhóm giúp đỡ Thảo. Đã vận
động được Chính phủ Pháp tặng Trần Đức Thảo một giải thưởng khoa học lớn. Nhưng
anh chưa kịp nhận. Trần Đức Thảo ở nhà của sứ quán.
Các bạn đã mướn một bà người Việt bếp núc giỏi nấu nướng cơm nước cho Thảo. Anh
ăn món thịt bò bít tết và satôbriăng với rau sà lách dầu dấm mà anh rất khen.
Nhưng thỉnh thoảng lại đòi mì ăn liền và nấu lấy. Khi ăn, cầm cả xoong, đỡ một
thao tác đổ mì ra bát. Triết lý, triết lý đấy. ôi Thảo!
Đặng Đình Hưng thì ốm ở cái gác trong hũ. Cũng không gặp ai nữa. Người đứng
dưới cửa sổ gọi, mặc kệ. Có một đứa cháu trong quê Chương Mỹ ra trông nom ông.
Hôm đưa ma, tôi trông mặt anh trong khung kính quan tài, thấy đội cái mũ dạ to
vành - chắc anh đã dặn đội cho cái mũ ấy.
Cô Hến ngước mắt nhìn ra sân.
- Anh... anh mới về.
- Tôi chào ông trên đê rồi. Ông bị bắt rượu a?
- Không, bố em khiêng hộ xã đội. Bố thích người ta bắt rượu. Bố em ghét người
nấu rượu.
Tôi nhớ ông Ngải chỉ nghiện nước chè vò. Ông Ngải chửi những đứa rượu vào hay
lè nhè. Tôi hỏi:
- Cô Hến cưới chồng năm nao?
Hến nhìn tôi, đỏ mặt, không nói.
- Cháu ngủ trong võng a?
Tôi lại hỏi:
- Con giai hay con gái?
- Con giai.
- Anh ấy đâu?
Đi bộ đội.
Có đóng gần nhà không?
Hến lại không trả lòi. Ông Ngải đã vào đến đầu ngõ. Ông Ngải nói:
- Chỉ đem hộ ra xã, rồi dân quân vác cả lên huyện.
Hến kêu:
- Bắt với bớ, mấy hôm lại thấy rước về đủ lệ bộ cho mà xem. Anh có ở chơi được
lâu không?
- Cũng vài ngày.
- Thế thì vui rồi.
- Quà Hà Nội của tôi đây.
- Cái gì thế?
- Cái ga len.
Tôi lấy cuộn dây đồng trong ba lô ra. Rồi những mảnh thiếc ghép, lò so, cục
pin, cái loa con con, một hộp gỗ. Những thứ ấy lắp lại, cái thì đặt trong gầm
giường cái thì tròng lọng lên đầu cây tre, cắm ra ngoài bờ rào. Bắt được đài
Tiếng nói Việt Nam cả ngày cả đêm, tối đến tiếp âm đài Bắc Kinh, đài Matxcơva.
Nghe rõ mồn một. Cái năm mới có người đem ga len về làng, có cụ già sợ: “Nghe
như ma xó nói, ghê cả tai”. Bây giờ thì các hàng quán dọc đường từ trên tỉnh về
đây và nhiều nhà trong xóm, trước cổng cắm lênh khênh cây tre mắc dây ga len.
Tôi lắp các thứ và cắt nghĩa cho ông Ngải. Ông Ngải nói:
- Tài thật, chỉ có sợi dây thép mà thu được tiếng tận đâu đâu. Anh mua mất
nhiều tiền không?
- Cái đài đeo vai mới đắt, mà cũng không mua được. Còn ga len chẳng đáng bao,
vì mình làm lấy cả.
Ông Ngải lại hỏi:
- Thấy bảo cái này nó hút sét, có nơi đương mưa sét đánh chết cả nhà.
- Thế là ông thạo ga len rồi. Người ta đồn đại quá đi thôi. Đề phòng dễ lắm,
tối nghe xong thì nhổ cây tre đem vào nhà, thế vậy.
- Tôi cũng nghe nói làm vầy. Nằm trên giường cũng được nghe văn công, sướng
chưa.
Trong nhà ông Ngải cũng nhiều đối thay. ốc đã đi bộ đội. Cả Toàn con rể, ông bà
cho ở gửi rể, cũng đi bộ đội. Chỉ ông bà Ngải vẫn ngày ngày nghe kẻng ra đồng
làm. Nhưng ông Ngải ghét nhất cái cảnh ra đầu xóm đứng lố nhố, chuyện râm ran,
điểm danh mấy lần vẫn chưa đủ người, đến khi cả tổ ra tới giữa đồng thì mặt
trời đã lên ngang lưng tre. Ông Ngải bực mình chửi làm ăn thế này thì đói rã
họng ra đến nơi. Ông Ngải không đi với mọi người. Ông hỏi hôm nay làm gì rồi
ông xuống đồng trước. Ông Ngải đi sớm về muộn,
Ông làm theo ý ông, không biết cái kẻng. Ông đã quá tuổi lao động, ông làm hay
không cũng thế, nhưng hôm nào không đi làm thì chân tay như uỗi ra. Cái gì ông
cũng tự nghĩ rồi làm. Ông chỉ cho con cái học cho biết mặt chữ. Ông gả chồng
cho cái Hến cũng không biết thế là tảo hôn, mà làng nước cũng chẳng ai bắt bẻ
ông. Thằng ốc nhà độc đinh ông vẫn cho đi bộ đội. Ông bảo “đi cho biết đó biết
đây". Thời còn trẻ, ông đã đi nếm cơm thiên hạ chẳng thiếu đâu. Tôi lại
ngồi bên búi tre lép với ông Ngải. Đến nhà Sự, nhưng Sự đi vắng. Xem ra công
tác vẫn bận tối mắt. Về quê chóng đói, hôm nào cũng lại đánh ba bốn bát với con
tôm cái tép hầm nồi chát bùn. Ông Ngải không uống rượu. Như năm trước, tôi cũng
không uống, chẳng sao. Tôi là con ếch Cu Ba, ở rừng thì da xanh thẫm lá rừng, ở
ruộng mía thì lổ đổ màu lá mía, đến mùa hoa, lưng ếch chấm đỏ, chấm vàng như
cánh hoa rơi.
Năm trước, cả làng mới có xóm Đồng lâm thí điểm hợp tác xã. Rồi hợp tác xã cả
xóm, rồi khăp các xóm thành một hợp tác xã to. Đâu cũng đồn rồi cả huyện lên
như công xã nhân dân bên Trung Quốc mà thôi. Chuyện ấy còn chưa biết, mới chỉ
một xã thành một hợp tác xã đã lắm chuyện rồi. ủy ban chỉ giữ cái triện, mọi
việc đều qua chủ nhiệm. Hợp tác xã nắm nhân lực, cho đi bộ đội, đi học xa, cả
các nơi về điều tra lý lịch để kết nạp vào đoàn, vào đảng, lấy người vào biên
chế cơ quan chủ tịch xã đóng dấu, chủ nhiệm cũng ký cùng. Trụ sở ban chủ nhiệm
đông người ra vào. Bên uỷ ban, ngày làm việc mà lắm hôm khoá trái cửa. Ngay ở
xóm Đồng, bà con chỉ biết đến tổ trưởng sản xuất, trưởng thôn cũng như anh xã
viên chay.
Chẳng bù với nhiều nơi cuối tỉnh cuối huyện, các hợp tác xã điển hình quẫy như
cá úi. Mỗi huyện, mỗi tỉnh đều thổi lên những cái bong bóng hợp tác xã điển
hình. Một hình ảnh tưởng tượng hùng vĩ đến ngây ngất, cả nước gồm ba trăm huyện
là ba trăm pháo đài đầy đủ mọi mặt như một bang. Cứ dóng dả lên thế, nhưng
chẳng ngành nào điều được người về huyện, tài chính, nhà giáo, kỹ sư, bác sĩ...
vẫn vắng bóng. Như thế, càng báo cáo phấn khởi ăn gian nói dối tràn lan.
Các hợp tác xã được tỉnh, được huyện hay cơ quan, nhà máy đỡ đầu. Suốt tháng
nhộn nhịp, nông nhàn cũng chẳng khác ngày mùa. Ngày chủ nhật, cán bộ, nhân viên
làm lao động công ích đẩy những xe phân hố xí hai ngăn trên các cơ quan tỉnh,
huyện về. Nhà máy kết nghĩa thì ủng hộ than để nung gạch, cho bã hoa quả, vỏ
cam, lõi dứa thức ăn nuôi ngan, nuôi lợn.
Về đến nơi, xã viên rỡ bã cam, mắt dứa nhặt riêng, đem ra chợ bán. Hợp tác xã
có tổ nuôi ong. Bí thư tỉnh uỷ chủ nhật nào cũng về xã theo dõi điển hình. Ông
đã gửi tổ ong của hợp tác nuôi hộ ông một chục đõ. Chủ tịch huyện cũng có năm
đõ nhờ nuôi. Ong chết dịch, ong bốc bay mất bao nhiêu thì đõ ong của các thủ
trưởng vẫn đông đàn và đến vụ quay mật cứ là tố hảo, mật nhãn mạt hoa ngô sánh
như kẹo mạ. Mọi sự được đắp vào, được tiếng tăm, nhưng hoạn nạn ở đâu cứ kéo
đến, trước nhất méo mặt vì nạn khách tham quan. Báo chí càng thổi kèn đu đủ bốc
thơm thì các nơi lập đoàn, lập đội kéo đến tìm hiểu học tập càng nhiều, huyện
bạn, tỉnh bạn ba trăm pháo đài huyện cả nước đổ đến. Các xã láng giềng phải
nghĩ ra mẹo trốn thành tích. ở hội nghị tổng kết trên huyện, các hợp tác xã
theo nhau báo cáo năng xuất đuối, không đạt mức thi đua - mới vụ trước thì vun
vút vượt chỉ tiêu. Cả các anh điển hình cũng co lại. Chẳng biết đâu thật, đâu
vờ, mà cái cớ chính thì cũng dễ hiểu. Tôi yếu rồi, thôi thôi đừng ai dòm ngó
tôi nữa, tôi không nhất nhưng tôi không bét, tôi cứ tà tà cả làng không lên
mâm, không có cỗ với ai cả.
Ông Ngải vỗ vẩy cái ống điếu.
- Lắm nơi rắc rối nhỉ. Nhưng mà nghĩ ra thì ở đây cũng không khác đâu. Hôm nọ
ông cán bộ gà lại về dạy làm chuồng, cách cho gà ăn, cách chống gà toi.
Người ta nuôi gà cả đời nào phải học ai. Thôi thì cũng đồng ý, cũng phát cỏ,
quét vôi, bắt gà ăn thóc ngâm muối cho phải phép.
Tôi hỏi:
- ở đây có đoàn tham quan đến không? Dạo ấy thôn ta hợp tác xã thí điểm điển
hình huyện cơ mả.
Ông Ngải hút một điếu thuốc. Cái nõ kêu ròn tanh tách. Rồi ông bụm môi, thở
khói, như cái cười ngậm trong miệng theo khói ra.
- Tôi không biết. Ngày trước thằng Tây đóng bốt trên đê đầu làng, giữa làng,
cuối làng, cả hàng huyện này đồn bốt chi chít như đế giày đinh của nó. Thế mà
rồi bỗng chốc ta về nhổ sạch. Cho nên, tôi chỉ biết theo ta thôi.
- Nhưng cái gì thấy không đúng phải có ý kiến.
Ông Ngải lờ đờ mắt.
- Tôi chỉ ý kiến thế.
Tôi đã hiểu cái ý của ông Ngảí. Ông nói cái gì ông cũng theo, nhưng thật ra xưa
nay ông chỉ theơ ông, theo bàn tay ông mà thôi. Tôi quí ông cung vì thế, tôi đã
bao lần nghe ông Ngải kể về sự tích cái đất và những mảnh ruộng này của ông với
cái cuốc, cái mai.
Đã bao nhiêu năm rồi, mỗi hôm ông Ngải lại ngồi tựa bụi tre lép, ngắm nghía cơ
ngơi của ông từ vườn ra ruộng xuống bãi sông. Những khi mát trời, ông ngồi đến
lúc ngôi sao hôm như một giọt sương sáng long lanh rỏ xuống mặt nước xa kia.
Tôi hỏi:
- Bây giờ đội nào làm mảnh ruộng này?
- Chẳng đội nào cả.
Tôi lấy làm lạ..
- Ông đã làm ban kiểm tra, ông giữ ruộng riêng sao?
Ông Ngải cười hề hề:
- Thế đấy. Mấy vụ tôi để các đội làm đều mất ăn, chỉ được vài gánh lúa lép.
Chúng nó nói quàng: bụi tre này ớm bóng làm cỏ áy, lúa áy. Nói láo, bóng tre
chỉ bằng cái nón, lại ngả xuống ao, đâu ra ruộng.
Tôi gọi anh Sự với cả ban chủ nhiệm ra tận ruộng.
Tôi bảo cái tay tôi đã làm nên đồng đất này, tôi biết nuôi nó lúc đói lúc no
thế nào. Các người tưởng ai cũng làm, làm thế nào cũng được sao. Cái cày máy có
lia được vào bốn góc ruộng đâu, lại phải cần đến thằng cày chìa vôi. Để đấy, vụ
này tôi làm. Thế là tôi lại vác cuốc ra. Ngày mùa, thóc quảy về chật nửa sân
hợp tác, hạt thóc ken nhau, con đá phải lăn hai ba lần mới sạch rơm.
- Các tay hợp tác có hỏi ông kinh nghiệm làm thế nào?
- Tôi làm thế nào thì bày ra đấy, chúng nó biết chứ. Có điều rằng người ta làm
ruộng đất thịt trong đồng, không ai thuộc tính nết cái soi bùn, lưỡi cày không
lật được tới màu, độc cái lưỡi cuốc mới len lỏi xuống đưa màu lên được. Chỉ có
thế.
Tôi hỏi:
- Ông Ngải ngày trước có bao giờ lên tỉnh không?
Ông Ngải nhìn tôi:
Anh ngỡ tôi không đi tỉnh, tôi không biết mặt rượu a? Tôi đã nghiện lâu năm
đấy.
- Ông cũng uống rượu?
- Mỗi hôm đánh ngã hai ba chai con hươu, đến lúc sờ thấy nóng tai mới đứng lên.
- Ôi trời!
- Rồi tôi bỏ rượu. Cái ấy hại tiền, chẳng ra gì. Bấy giờ còn đương sức bay
nhẩy.
- Ông ra tỉnh.
- Xa bằng vạn ra tỉnh ấy. Tôi ra Uông đội than, vào rừng trong Thanh ngả gỗ vần
xuống sông đóng bè.
- Khiếp chưa!
- Hai chân đất, tôi cứ đi. Một đời tôi chưa biết cái tàu, cái xe, không biết
cái màn.
Tôi đã ở nhà ông năm sáu tháng, thế thì những cái biết, cái nghĩ của tôi về ông
đều phải vứt đi ráo.
Tôi chưa biết gì về ông Ngải. Tôi tưởng người các miền quê ta đâu cũng như quê
Thiệu Hưng của lão AQ. Bên ấy đất nước mênh mông, người trong làng chẳng bao
giờ đặt chân lên đến trấn, đến huyện. Một nhà ở Hoa Trung chuyển vùng đi kinh
tế mới lên Hoa Bắc, vào Tân Cương ngày ngày ròng rã thăm thẳm mịt mùng biết đâu
đưòng nào về. Làng xóm ta thật khác, như ông Ngải đã tha phương cầu thực đến
đâu cũng được.
Người gốc dưới Nam lên khai hoang trên Phong Thổ, Lai châu. Xa nhất thì vẫn đi
đi về về một chốn đôi quê. Đường ngược về, đeo đãy cao khỉ, hổ cốt, mật gấu,
mật ong. Dưới xuôi thì quảy lên những thứ trên rừng hiếm: lọ thuỷ tinh, bóng
đèn, dây ni lông, gương lược...
Lẽ nào tôi chẳng biết, mà tôi không biết thật. Tôi chỉ trông cái trước mắt. Tôi
không biết về ông Ngải, rõ là tôi đã biết gì đâu.
Mấy nhà trong xóm tối nào cũng đến trầm trồ quanh cái tai ga len treo trên cột.
Ông Ngải gật gù:
“Văn công hát chèo như người đứng trước mặt.”
Vợ chồng, cả nhà Dũng đã lên tỉnh mở hàng cơm chứa trọ. Chắc không ở cầu Bo,
tôi không gặp.. Sự vẫn không có nhà. Mấy hôm ấy có lớp huấn luyện trên huyện.
Sự nhắn tôi cố ở chơi được đến cuối tuần, Sự về. Vợ Sự và cái Soi đi gánh cỏ
tóc tiên về bỏ làm phân chuồng lợn. Mới năm nao, chẳng mấy hôm không bị mẹ đòn
đánh, bây giờ cái Soi đã lớn vổng, cao bằng mẹ.
Vợ Sự hỏi tôi:
- Anh mang cái máy hát về cho ông Ngải hả?
Cái Soi nói:
- Cái ga len nói như ma nói.
Tôi bảo:
- Sự về, vợ chồng tối sang chơi nhà ông Ngải, cả cháu nữa.
Cái Soi cười:
- Tối nào cháu cũng vào đấy. Thoạt nghe nó nói lợn cả tai.
Tôi mới nhớ ra cái cô bé mặt ngấn ngơ đứng ôm cột nhà, chốc lại nghé nghiêng
nhìn lên ga len, là cái Soi.
Tôi về Đan Phượng đúng hẹn với Thử, chúng tôi cùng vào trường vửa chuẩn bị lễ
bế giảng. Mỗi tổ được thông tri lịch từng ngày với những việc phải làm. Giấy
giới thiệu sinh hoạt lại với cơ quan, thanh toán tiền ăn tháng sau cùng. Có một
điều căn dặn mà thoạt đầu tôi thấy là kỳ quặc ở cái trường mà học viên đều đã
nên ông nên bà và cán bộ cỡ. Không được viết bậy, ỉa bậy ra nhà vệ sinh. Không
phơi quần áo dưới sân.
Nhớ khoá xe đạp... Nên cẩn thận và đề phòng những ngày cuối bận rộn dễ mất cắp
mất trộm.
Có người thành thạo nói: trường người lớn hay trường trẻ con thì cũng cứ gặp bế
giảng lại như tháng củ mật áp Tết ở làng. Có người đưa gái điếm đến dọn dẹp hộ,
bảo là con nuôi. Cô Ngọc học trường này mất cái đài Mẫu Đơn. Về nhà, về cơ quan
không dám hé răng. ở nơi uy nghiêm thế này không thể có trộm cắp.
Nhưng tôi vẫn nhớ đến cái ông ăn vụng quả chuối ở căng tin.
Rồi mọi việc êm đềm trôi qua. Mỗi tối trò chuyện khuya hơn mọi khi. Ngoài vườn,
những luống ngô đương trổ cờ, hoa ngô thơm nồng nàn vào cửa sổ. Các bạn ở xa đi
xin chữ ký vào sổ tay. Dẫu già vẫn là cảnh trẻ con đi học.
Tôi làm tổng kết, viết tự nhận xét và nhận lời phê của tổ đảng, của chi bộ.
Bản chứng nhận học tập của tôi:
Đảng lao động Việt Nam- Trường Nguyên ái Quốc
- Bản chứng nhận học tập. Lớp 8 tháng khoá 3. Từ tháng mười 1961 dến tháng bảy
1963.
A- Kết quả học tập.
1- Duy vật biện chứng- ý chính đủ. Thiếu định nghĩa giữa phạm trù chung và
riêng. Không nhớ câu Lê Nin nói về chung và riêng. 2- Duy vật lịch sử- Đủ ý
chính. Liên hệ thiên về vai trò và đặc điểm văn học nghệ thuật trong phát triển
xã hội. Phân tích tác dụng nghệ thuật trong đòt sống còn sơ lược. 3 – Chíh trị
kinh tế học- Đủ ý chính. Thiếu phân tích lao động phức tạp, lao động giản đơn,
giá trị và số lượng giá trị của hàng hoá. Sự tất yếu của công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa đối với những nước kém phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói
riêng, đủ ý chính. Thiếu phân tích nguồn vốn, tiến trình. 4- Kinh tế cụ thể-
(học thiếu 2 bài kinh tế xí nghiệp vì về dự đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Việt
Nam và đại hội Hội Nhà văn Việt Nam ) 5- Đi công tác thực tế ở hợp tác xã thí
điểm đã cải tiến quản lý- Làm được đầy đủ nhiệm vụ tổ giao (Nghiên cứu về chăn
nuôi, có báo cáo riêng).
6- Lịch sử Đảng- Đủ ý chính.
B- Tự nhận xét
l- Thời gian học toàn khoá. Nghỉ 10 ngày (Dự Đại hội Văn nghệ và Đại hội Hội
nhà văn), nghỉ hè ở Sầm Sơn về chậm 15 ngày (đã kiểm điểm). Những bài không
học: 2 bài về kinh tế xí nghiệp (kinh tế cụ thể), 2 bài về lịch sử Đảng.
2 – Kết quả nhận thức lý luận, vận dụng lý luận liên hệ thực tế và nâng cao tư
tưởng.
a/ Lần đầu tiên nghiên cứu lý luận dài hạn, lĩnh hội được một cách có hệ thống.
Mỗi môn học đều có liên hệ, lại có đi thực tế kiểm tra lý luận trong thực tế.
Với tôi, phần học triết và kinh tế nông nghiệp thu hoạch được đầy đủ hơn cả.
b/ Cụ thể kết quả tất cả các bộ môn như sau:
Về duy vật biện chứng- Thấy sâu sắc hơn được sự vật có liên hệ và phát triển
lẫn nhau trên cơ sở những qui luật và phạm trù phép biện chứng duy vật, do đấy
có cơ sở khoa học và chính xác là xem xét theo qui luật mâu thuẫn, hạt nhân
phép biện chứng, mối liên hệ giữa các qui luật. và phạm trù, sự vận động và
phát triển. Đặc biệt: phạm trù riêng chung đã liên hệ được nhiều mặt về tính
dân tộc và nội dung xã hội chủ nghĩa của xã hội và của đường lối văn nghệ của
Đảng.
Về duy vật lịch sử – Thấy được tính tất yếu khách quan của tiến triển lịch sử
loài người thông qua đấu tranh giai cấp - động lực phát triển của xã hội. Mối
quan hệ thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và đặc biệt liên hệ chức năng của mỹ học trong phạm vi công tác và
sáng tạo của văn học.
Về lịch sử Đảng- Thấy được cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong
quá trình từ khi Đảng ra đời đã phát triển theo quan điềm Mác - Lênin rất khoa
học, đặc biệt tốt với vấn đề nông dân và các chủ trương, chính sách liên minh
công nông, mặt trận dân tộc.
Về kinh tế cụ thể- Hiểu được hơn cả là các bài về nông nghiệp như: Sử dụng
ruộng đất, vấn đề thâm canh tăng năng suất, vấn đề kỹ thuật nông nghiệp (Các
bài về lúa, phân, giống đất, các phương thức canh tác, vấn đề chăn nuôi). Tất
cả các vấn đề trên được liên hệ, kiểm tra, so sánh, bổ sung trong đợt đi thực
tế một hợp tác xã đã cải tiến quản lý ở Đan Phượng (Hà Sơn Bình).
c- Tinh thần, thái độ học tập- Có tinh thần cố gắng, nhưng không đều. Phạm nội
qui, nghỉ hè quá hạn đã bị phê bình ở tổ.
d- Nhận xét của tổ, chi uỷ và ban giám đốc nhà trường:
- Đồng ý với tự nhận xét.
- Qua học tập, nhận thức lý luận tương đối tốt, có chú ý liên hệ lý luận với
thực tế, nhưng có phần thiếu hệ thống.
- Tinh thần, thái đô học tập nghiêm túc. Có việc phạm nội qui về thời gian nghỉ
hè về trễ, đã tự kiểm điểm.
- Cần hệ thống hoá lý luận, kết hợp tốt việc vận dụng lý luận đã học vào lĩnh
vực sáng tác văn học.
Cần nâng cao hơn nữa tự phê bình và phê bình.
Chương X
ở trường về,
tôi lại được bầu vào ban chấp hành đảng bộ, lại tiếp tục như đã làm hai năm
trước khi đi học. Đã sát nhập Đảng đoàn Văn hoá và Văn nghệ.
Về Đảng bộ, đã thành lập Đảng bộ Văn hoá Văn nghệ. Bí thư Hà Huy Giáp, chịu
trách nhiệm chung, phó bí thư tôi nắm khu vực các hội văn học nghệ thuật.
Một đợt nghiên cứu học tập về bảo vệ Đảng. Yêu cầu là xem xét và đấu tranh đưa
ra khỏi Đảng những trường hợp đảng viên phức tạp về chính trị và lịch sử. Trên
bàn tôi, những đệp lý lịch xếp từng chồng, tôi đọc, tôi đọc, tôi đọc...
Đã bao nhiêu năm, những quyển lý lịch đảng viên, chẳng mấy khi không có trong
cặp, trên bàn. Mỗi bản một đời hoạt động, nhiều lần phải đọc vì những yêu cầu
công tác khác nhau. Tất cả đều viết tay và tự khai.
Có thể trông vào đấy thấy ra được biết được thời sự chính trị và quãng đời từng
người nhưng chịu không thể biết sự thật được tôn trọng đến đâu - nếu coi mỗi
bản lý lịch phải trải qua cuộc đấu tranh vì sự thực viết ra. Quen tay viết, cứ
nhà nho thì “nhà nho nghèo”, trung nông thì “trung nông lớp dưới”, địa chủ thì
“địa chủ nhỏ”, mà những chữ nghèo, dưới, nhỏ đều không phải những danh từ có vị
trí trong lý lịch về ngôi thứ xã hội, theo cách viết hành chính, luật pháp và
khoa học. Khi chuyển cơ quan trên Việt Bắc về, xem lại các quyển lý lịch, hầu
hết đều thiếu. Không phải thiếu sổ cái, mà mất những bản kiểm điểm khi chỉnh
huấn, khi đi cải cách ruộng đất, những bản tự sỉ vả nặng hết cỡ. Chẳng biết các
vị chủ lý lịch đã rút trộm ra từ lúc nào. Nhưng tôi thì còn nhớ, vẫn nhớ, cứ
nhớ...
Một hôm, một cán bộ ban tổ chức Trung ương đến.
Anh đã luống tuổi, gày yếu, mặt xạm màu sốt rét kinh niên. Anh quê ở dưới làng
Sét. Anh nói:
- Tôi trao đổi với anh về vấn đề hoạ sĩ Phan Kế An.
Rồi anh trình bày:
- Trên ban phụ trách vấn đề này. Đã gặp anh An nhiều lần, có bản kiểm điểm, có
hồ sơ về những sai phạm của anh ấy. Nhưng khai trừ một đảng viên thì do chi bộ
cơ sở quyết định. Đảng uỷ các đồng chí có trách nhiệm nghiên cứu tài liệu rồi
thuyết phục chi bộ hội Mỹ Thuật, chi bộ này sẽ khai hội thảo luận rồi biểu
quyết. Tài liệu và hồ sơ này tuyệt mật, chỉ đảng uỷ được đọc rồi phổ biến lại ở
chi bộ.
- Tôi sẽ làm như thế!
Tôi cứ “vâng ạ” và “làm như thế", nhưng khách đi rồi mà còn chưa nghĩ ra
thế nào. Việc khó khăn phải làm, thế nào cũng phải làm. Những khi bối rối tôi
hay nghĩ ra và nhớ lại mênh mang mờ mịt thời còn trẻ con, tôi nằm ngửa trên gò
cỏ Mũ Đồng Cân, nhìn lên trời giữa cánh đồng. Đứa nào bịt mắt tôi, à tôi đưong
chơi trò bịt mắt bắt dê, mở rnắt ra thì trông thấy An, à thằng này vừa bịt mắt
tao, không phải, tôi đương nghĩ cách giải quyết, tôi muốn chạy trốn mà không
chạy nổi, không chạy được. Những việc xảy ra quanh chuyện Hoàng Minh Chính đã
qua, tôi chỉ nghe loáng thoáng và cũng không tò mò. Chỉ để ý không có ai giới
văn nghệ dính líu thì tôi nghĩ Hoàng Minh Chính có kinh nghiệm hoạt động, về
mặt nào đó, bọn này đã móc nối các người làm báo, đài, thông tấn cơ động hơn.
Tôi không quen Hoàng Minh Chính nhưng đã có lần nghe nói chuyện về trận tập
kích sân bay Gia Lâm sau đêm 19 tháng mười hai 1946 và ở trường Nguyễn ái Quốc
vừa rồi, Hoàng Minh Chính đến nói về triết học.
Nhưng Phan Kế An không liên can gì tới Hoàng Minh Chính. Không, An đã tu nghiệp
mỹ thuật ở Lêningrat. An thân với nhà văn Marian Tkachôp, Marian cũng là bạn
tôi, dịch nhiều quyển của tôi.
Tập hồ sơ là bản ghi những lời An đã báo cáo trình bày với ban Tổ chức các cuộc
trò chuyện mỗi lần đến sứ quán Liên Xô gặp người công sứ, ông này là Pôgôđin
hay Bôchep, tôi quên tên, ông ta có cái đầu bẹp dáng người Trung á. Mỗi dịp gặp
tôi ông thường đùa kêu lên một câu tiếng Việt: “ối giời ôi, một trăm năm nay
mới lại được bắt tay ông". Triều đại Goocbachôp, đọc báo thấy ông ta làm
đại sứ bên Lào.
Tôi đi báo cáo và xin ý kiến bí thư Hà Huy Giáp.
Anh Giáp hỏi lại tôi thấy thế nào, tôi nói tôi chẳng biết làm thế nào và ngại
làm. Anh Giáp chịu trách nhiệm của Đáng mọi mặt bên bộ Văn Hoá, lại trực tiếp
làm bí thư Đảng đoàn và Đảng bộ cả bộ Văn Hoá và hội Văn Nghệ. Công tác nhiều
và nặng, nhưng làm việc với anh Giáp, tôi thấy thoải mái dễ chịu. Tôi thường tự
động làm đỡ anh những việc trong phạm vi tôi cũng có trách nhiệm. Sự gần gũi
anh cứ như là tự nhiên đã cho tôi ý thức làm việc thế. Một buổi tối đi tản bộ
bên hồ Thiền Cuông, tôi kể anh nghe ở Mông Cổ, tôi gặp cái cô ấy lấy chồng Mông
Cổ, cô chửi chồng như hát, khiếp quá. Anh Giáp bảo: “Cô ấy tên là... phải
không? Tôi biết rồi. Cô này ngủ với chồng, thằng chồng không làm hạ được cơn
nó, nó xé cả quần, thế còn khiếp hơn".
Nhưng không phải anh chỉ tiếu lâm, trong đợt học tập này cũng như việc Phan Kế
An, anh Giáp chỉ nói một câu mà tôi luận ra mọi công việc:
- Kế hoạch chung anh cứ làm rồi trao đổi với tôi, trao đổi chứ không phải đợi ý
kiến tôi. Có điều, một điều thôi, cái gì khó hãy nên gặp tôi.
Miên man đọc tài liệu và đương nghĩ tới cuộc họp chi bộ hội Mỹ Thuật. Đọc những
cái ma quỷ này vào lúc đêm khuya ngày rạng gà gáy phảng phất tiếng trẻ hờn,
dường như có bóng thằng ba đầu sáu tay Phạm Nhan hiện về trong bụi cúc tần bên
kia bờ ao, những sự việc và những sắp xếp ai oán lo toan, may ra mới hiện lên
được. Dường như đã sang canh. Những con chim lợn không biết mới bay ra hay đã
đi ăn đêm về tiếng kêu éc éc rời rạc mỗi quãng rơi một tiếng rùng rợn. Tôi đã
nghe tiếng ấy quanh năm hay là bây giờ, đêm nay thành phố chỉ còn thảm thiết
ngang trời tiếng chim lợn. Xung quanh ngoài thành chẳng còn mấy mặt hồ nước,
những đàn con giang con sếu trú đông về không đỗ xuống đây nữa mà những tiếng
kít kít gọi nhau rẽ lên hồ thuỷ điện, hồ Suối Hai, hồ Núi Cốc trên kia.
Tôi mở đến một văn bản. Cuộc trò chuyện hôm ấy về tình hình văn học nghệ thuật
Việt Nam. Câu hỏi là: theo ý đồng chí Phan Kế An, ai bây giờ có thể lãnh đạo văn
nghệ Việt Nam. An trả lời: có thể là Nguyễn Tuân, là Tô Hoài.
Tôi nhìn trân trân những hàng chữ đánh máy đương bò ra ngoài tờ giấy dưới ánh
đèn. Tôi gấp cái tập ấy lại, rồi đi nằm.
Chi bộ hội Mỹ Thuật có bảy đảng viên. Vào họp, tôi tóm tắt những cái đã đọc ở
hồ sơ rồi hướng gợi ý những sai phạm như thế thì không thể kỷ luật nào khác là
khai trừ ra khỏi hàng ngũ đảng. Mọi người yên lặng một lúc lâu. Vài ý kiến lẻ
tẻ. Tôi cũng không sốt ruột, không mong đợi gì. Hoạ sĩ Huỳnh Văn Gấm đứng lên
nói: “Những khuyết điểm ấy là nặng, vi phạm điều lệ đảng và tư cách đảng viên.
Nhưng đồng chí ấy làm cái sai ở đâu đâu, không ở chi bộ này. Hôm nay nghe tôi
mới biết. Tôi không thể có thái độ thế nào được".
Buổi họp có bí thư đảng uỷ Hà Huy Giáp và anh cán bộ trên Ban quê ở đầm Sét.
Không ai nói. Mọi người cũng như tôi, chứng kiến cuộc họp rời rạc quần nhau
trong tưởng tượng.
Lúc biểu quyết, Huỳnh Văn Gấm đứng lên. Gấm đứng yên nhìn mỗi người, nhìn An.
Nhưng Gấm không giơ tay. An nói câu sau cùng, anh thấy “tôi không có khuyết
điểm. Ngày mai, ngày mai, thời gian sẽ ủng hộ tôi".
Trong vài cuộc chè chén, đôi khi tôi đi với An. Không khi nào ai nhắc lại hôm
ấy. Nhưng tôi vẫn nhớ một chuyện vẩn vơ. Mùi Cá kể với tôi: “Cái ông nhà văn
Liên Xô này ghê lắm, đã đưa Thanh Tịnh đem các thứ đồng hồ và vải cho vợ Lê
Vinh Quốc, Văn Doãn, ông ấy cho Phan Kế An một cái chân vịt to lắm bằng cao su.
Chân vịt để làm gì, anh biết không? - Chân vịt để đi bể lắp vào chân, bơi khoẻ
hơn. Mùi lặng im, rồì nói: “Hay nhỉ". Vừa lấy làm lạ, vừa như lại chưa tin
câu cắt nghĩa của tôi.
Tôi cũng hay trông thấy anh cán bộ tổ chức quê ở đầm Sét, buổi chiều anh ấy đạp
xe qua phố Huế, chắc tan giờ, anh về nhà. Anh ấy làm như không nhìn thấy tôi.
Tôi chắc anh đã nhìn thấy vì xe tôi lướt trước mặt. Một năm, tôi nghỉ trên đầm
Vạc ở Vĩnh Yên. Giáp mặt, tôi chào, anh ấy đáp lại cẩn thận, nhưng như là không
nhớ tôi và cũng không hỏi.
Lần này tôi nghĩ anh đã quên tôi thật. Mặt anh mọi khi mai mái bây giờ đổi màu
vàng bủng, màu ốm.
Hai con mắt người bệnh nặng cứ thờ ơ thế nào. Có thể không phải không biết, mà
không biết thật. Dẫu cho tâm trạng mỗi người mỗi khác, nhưng về việc này chắc
cũng giống nhau. Nghiên cứu bảo vệ đảng, thực hiện có việc lớn việc nhỏ, nhưng
việc nhỏ nhất cũng liên quan tới cuộc sống và tinh thần mỗi ngưòi. Tôi chắc là
anh cũng như tôi mỗi khi nhớ còn áy náy về cuộc họp chi bộ hôm ấy.
Anh Nam trong Nam tập kết ra, làm ở hành chính. Anh người Bắc, nói là đi kháng
chiến ở Sài Gòn. Nam công tác năng nổ, được bầu vào chi uỷ. Nhưng Nam hay chim
chuột léng téng lăng nhăng. Xem lại giấy tờ khi mới nhận về, chỉ có một giấy
giới thiệu chung cả chục người. Tên ai cũng đánh máy là đồng chí, đồng chí thì
tự nhiên được hiểu là đảng viên. Bây giờ lòi ra không phải đảng viên thì lại
nghi quá, có thể. không phải anh tập kết. Rồi Nam biến mất trước khi bị kỷ luật
thế nào. Có người gặp ngoài phố, nghe nói bây giờ Nam đi buôn tem phiếu. Hay là
thật anh ấy ở đâu chui vào cơ quan?
Phong trào bảo vệ Đảng được phát động rộng khắp các đỉa phương và các cơ quan,
lại kêu gọi mọi người cung cấp tài liệu, ai thấy ai thế nào thì cứ phát hiện,
bất kể có biết người bị tố giác, có phải là đảng viên hay không. Có hai cái thư
gửi đến tố cáo nhà viết kịch Thế Lữ và nhà thơ Quang Dũng là quốc dân đảng thời
kỳ phản động. Thư kể chi tiết, người viết đã có tuổi ký tên và ghi địa chỉ, cam
đoan chịu trách nhiệm về những việc đã kể. Vậy phải xem xét kỹ lưỡng, có khi
còn phải trả lời, dù các anh Thế Lữ và Quang Dũng không là đảng viên:
Tôi đến hội Sân kháu và nhà xuất bản Văn Học mượn hồ sơ lý lịch của các anh ấy.
Không có gì khó khăn, trong lý lịch, Thế Lữ và Quang Dũng đã viết ra những việc
tưởng là bí mật chỉ có người tố cáo biết, một cách đầy đủ và rõ ràng đầu đuôi.
Năm 1946, Thế Lữ với đoàn kịch Anh Vũ ở Hà Nội biểu diễn qua các tỉnh vào tới
Quảng Nam rồi trở ra. Đến Quảng Nam giữa khi Chính Phủ ta ký tạm ước 6/3 với
Chính phủ Pháp, trong nhân dân có người không đồng tình, nói nặng là Việt Minh
ký giấy bán nước cho Pháp. Quảng Nam đương là nơi Quốc dân đảng công khai chống
đối. Đoàn kịch nói Anh Vũ trở ra đến Thanh Hoá, đêm biểu diễn ở thị xã có một
tiểu phẩm về tạm ước 6/3 mà dư luận nói là vở kịch phản động. Công an Thanh Hoá
định bắt đoàn kịch. Nhưng cả đoàn đã thoát được lên tàu hoả. Thế Lữ chạy vào
trụ sở Việt Nam quốc dân đảng ở thị xã mà thủ lĩnh bấy giờ là nhà văn Tchya Đái
Đức Tuấn. ở đấy, Thế Lữ viết thư về Hà Nội cho anh Hoàng Hữu Nam, thứ trưởng bộ
Nội Vụ. Anh Hoàng Hữu Nam đã can thiệp. Thế Lữ trở ra được Hà Nội. Thư tố cáo
cũng không có gì khác hơn những điều trong lý lịch Thế Lữ. Tôi báo cáo anh Hà
Huy Giáp rồi xếp hồ sơ lại.
Những năm đầu 1940, Quang Dũng giang hồ phiêu bạt đến Liễu Châu. ở Liễu Châu,
Quang Dũng gặp Nguyễn Tường Tam thủ lĩnh đảng Đại Việt Dân Chính. Quang Dũng
không biết về đảng phái, nhưng Quang Dũng yêu văn Nhất Linh với hình ảnh nhân
vật Dũng cách mạng phong trần dọc đường gió bụi trong các tiểu thuyết Đoạn
tuyệt và Bướm trắng, bởi Quang Dũng cũng đương phiêu lưu bắt chước các nhân vật
ấy. Nhưng chỉ ít lâu, Quang Dũng nhìn tỏ mặt thật của họ. Những mưu đồ ám hại
lén lút và Nhất Linh bố đẻ nhân vật Dũng nghiện rượu, say rượu, cứ sáng sớm ông
Nhất Linh đã phải một cốc to rượu trắng mới đã. Quang Dũng vỡ mộng, lại lang
thang rồi trở về Hà Nội. Cách mạng Tháng Tám, Quang Dũng vào quân đội, Quang
Dũng được tuyển học sinh quân trường võ bị Trần Quốc Tuấn trên Sơn Tây.
Rồi đi vào kháng chiến toàn quốc, năm 1951 thì ra quân, rồi hoà bình lập lại,
anh đương dạy học ở phố chợ Rừng Thông trong Thanh Hoá thì Vĩnh Mai chánh văn
phòng hội Văn nghệ, được đi tuyển người, Vĩnh Mai đưa Quang Dũng, Hữu Loan,
Thanh Châu ra làm biên tập báo của hội. Quang Dũng ghi lại vắn tắt nhưng rõ
ràng như tôi vừa kể trên. Cơ nhỡ và chìm nổi biết bao những nhận đường tìm
đường của thanh niên trên bước đi của cuộc đời và của lịch sử. Việc Quang Dũng
cũng được xếp lại.
Trường hợp Đồ Phồn và Nguyễn Đình Lạp thì phải đợi ý kiến trên lâu hơn. Nguyễn
Đình Lạp đã mất bệnh trong kháng chiến nhưng vì đây là vấn đề lịch sử, thế nào
thì cũng phải xem lại các nhà văn này trước kia cộng tác với nhà xuất bản Hàn
Thuyên có khuynh hướng tờ-rốt-kít. Nhưng nhà Hàn Thuyên không phải một nhóm,
một đảng chính trị hoạt động công khai hay bí mật. Có tư tưởng hay hoạt động
tờ-rốt-kít do cá nhân mỗi người. Các anh ấy về sau, đến thời kỳ trước Tổng khởi
nghĩa khuynh hướng mỗi người càng phân tán. Có người đi vâo hành động. Có người
chỉ “cách mạng thường trực” ở miệng. Có người theo học thuyết khác. Có người
vào đoàn thể Việt Minh. Và nhiều người cộng tác với Hàn Thuyên chỉ in sách. Như
Đặng Thai Mai, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đổng Chi. Hôm tôi nói lại với Đồ Phồn việc
kiểm tra đã xong, Đồ Phồn cảm động, trịnh trọng bắt tay tôi. Nhưng tôi lại đùa
nhả một câu không phải lúc, tôi bảo: “Ông thì cũng là bần cố nông tờ-rốt-kít ấy
mà". Đồ Phồn chau mày, nói: “Không, không phải thế".
Trường hợp nhà thơ Trịnh Đường thì thời sự và rắc rối. Trong lý lịch, Trịnh
Đường viết rõ như tự thuật: bản thân làm bang tá, là địa chủ. 1945, vào Việt
Nam Quốc dân đảng ở Quảng Nam, phụ trách quân sự huyện Duy Xuyên. Ba năm sau,
vào đảng Lao Động, hoạt động và sáng tác văn nghệ phục vụ kháng chiến. Trong
một đợt Liên khu Năm học tập bảo vệ Đảng, những điểm trên của lý lịch được đem
ra phân tích, chi bộ biểu quyết đưa ra khỏi Đảng. Giữa khi ấy là cuộc tập kết
chuyển quân ra Bắc. Sự định đoạt về biểu quyết của chi bộ cũng được Khu uỷ đưa
ra theo.
Bắt đầu đợt sinh hoạt này, Trịnh Đường không đi họp chi bộ. Có thể anh đã thấy
được mục đích của đợt nghiên cứu. Nhưng tôi thì cứ phải thu thập việc và con
số. Tôi đến báo Văn Nghệ gặp Trịnh Đường. Tôi hỏi anh:
- Ra tạp kết, chi bộ nào giới thiệu anh trở lại sinh hoạt đảng?
- Tôi được tập trung và chỉnh huấn ở Chèm.
- Anh có nhờ người giới thiệu không?
- Một đồng chí người đẫy đà, tôi quên tên.
Anh trả lời miễn cưỡng, thờ ơ. Chi bộ đã biểu quyết cho Trịnh Đường thôi sinh
hoạt Đảng. Không khai trừ mà cho thôi, như là nhạt đảng. Mà anh đã tự ý bỏ sinh
hoạt từ trước. ở khu vực văn nghệ, cũng đã kỷ luật “cho thôi sinh hoạt đảng”
các trường hợp Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích
Liên...
Có một đảng viên trước kia đã bị án nặng về hủ hoá. Đến cuộc học này, chắc anh
ngại có thể cái tội cũ lại bị lôi ra. Anh đã đề nghị đi vào tuyến lửa mặt trận
mấy tháng. Tôi định đợi anh ấy về, làm cho xong trường hợp của anh rồi viết báo
cáo tổng kết nhân thể.
Bí thư Hà Huy Giáp nói:
- Anh không nhớ à, đợt này chỉ tập trung giải quyết vấn đề chính trị, không
đụng đến các mặt khác. Thôi, anh cứ làm tổng kết...
Nhưng rồi anh ấy đã trở về cơ quan, lúc ấy tôi cũng chưa đốc thúc xong được sơ
kết ở các chi bộ, mà báo cáo thì vẫn còn để đấy. Tôi hay đận đà, việc đã ôm đồm
lại cứ nước đến chân mới nhảy. Tôi cũng không phải gặp anh ấy. Anh không ngờ
đợt hợc tập ở cơ quan kéo dài quá, nhưng thế là anh đã thoát nạn, đợt này không
truy tội hủ hoá và chắc anh đã biết từ hôm mới về rồi.
Thế mà đến lúc định viết, lại chưa viết được. Lại chuyện bất thường. Nhận được
một thư, mở ra thì là một cái đơn viết tay trên đầu tờ giấy đề hàng chữ:
Đơn tự tố cáo của Nguyễn Hải Trừng. Việc trình bày đại ý là trong dịp học tập
bảo vệ Đảng này, tôi thành khấn bộc lộ thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1938 ở Sài Gòn
tôi đã sinh hoạt trong một tổ chức phản động là Quốc Dân đảng. Tồ phản động này
gồm ba người là: Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Hải Trừng. Mai Văn Bộ đương
là đại sứ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Pari. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước thì ở
chiến trường B phụ trách văn hoá văn nghệ miền Nam. Việc quan trọng và ghê gớm
quá. Tôi đi gặp ngay bí thư. Anh Hà Huy Giáp bảo tôi:
- Anh đừng lo. Việc này tôi cũng có thể chứng nhận và giải quyết được. Trước
hết, xem. xét tự cách và nhân thân anh Nguyễn Hải Trừng đã. Nhưng anh cứ gửi
đơn này lên tổ chức, rồi tôi sẽ lên trình bày.
Mấy hôm, Ban tổ chức có người xuống, nói:
- Ban đã nhận được thư này.
- Chúng tôi sẽ làm thế nào?
- Lưu hồ sơ, đồng chí ạ.
- Không phải điều tra?
- Không, xếp lại được rồi.
Nguyễn Hải Trừng thường hay có ý kiến và nhận xét quái lạ. Một hôm, uống bia ở
quầy phố Tôn Đản, Nguyễn Hải Trừng bảo tôi: “Từ năm ra tập kết tới giờ tôi chưa
được ai mời một cốc bia” Tôi hỏi lại: “Anh cữ nhớ anh đã mời những ai uống bia
không?”. Nguyễn Hải Trừng lặng im.
Nguyễn Hải Trừng đi đâu cũng hay sinh rắc rối, không lường trước được. Đi thực
tế ở Quảng Ninh, anh nói dối tuổi, lấy vợ, người ta kiện. Trước khi anh trở lại
Sài Gòn, tôi còn phải đại diện cơ quan ra toà dự xử vụ tiêu hôn - ly hôn không
có giá thú của anh.
Thỉnh thoảng anh có thư cho tôi kèm cả tranh ký hoạ - anh bảo chỉ có tôi là
người anh còn thư từ. Nhưng tôi vẫn biết và được đọc thư anh gửi người khác.
Tôi gặp ở Vĩnh Long con trai của anh công tác ở đoàn nhạc sở Văn hoá. Tôi bảo
sao cháu không đón ba về Vĩnh Long, dưới này tĩnh mịch lắm. Anh ấy đáp: “Ba con
là nhà văn lớn thì phải ở thành phố như Sài Gòn".
Anh viết thư kể một chuyện đau đớn mà gần đây anh mới biết. Khi anh đi tập kết,
chị ấy đã ăn ở có con với người khác. Nghĩ đến nỗi đau lại ứa nước mắt. Tôi gọi
điện thoại cho Nguyễn Hải Trừng. Một người nào cầm máy quát tôi rầm rầm...
không có ai tên Trừng... không có ai... không được gọi.. rồi bỏ máy rộp một
phát. Sau hỏi biết anh đã đề máy ra cửa cho thuê, không biết người thuê tháng
hay thế nào. Và hồi này Nguyễn Hải Trừng hay xuống ở nhà con gái anh dưới Vũng
Tàu. Anh mất bệnh ở Vũng Tàu. Chắc vẫn trong day dứt bất mãn.
Chương XI
Một hôm,
Khang nhà ở phố ngoài bảo tôi: “Bác ra làm công tác phố cho vui". Tôi nói:
“Cho nó buồn cười thì có”
- Không, bác làm thì hay đấy. Để tôi đi đề nghị"
Khang là đảng viên ở nội thành thời Tây chiếm, sinh hoạt đảng chi bộ đường phố.
Nhà anh làm nan hoa, ổ bi xe thồ, xe bò cải tiến. Tổ đảng đường phố ấy có mười
đảng viên. Khang đã giới thiệu tôi cứ như cấp uỷ nói: “Đồng chí ấy xung phong
làm trưởng ban đại biểu khối ta". Mọi ngườỉ vỗ tay nhiệt liệt. ừ, thì làm.
Về sau tôi mới biết, có tôi ngẫu hứng
“ừ thì làm", còn Khang thì cố ý. Gia đình anh sản xuất danh nghĩa tổ hợp
tác xã thủ công, nhưng thực thì ở nhà làm, bán cho người đến mua, tức là một tổ
ma. Chính quyền ở phố mà bạn bè với anh, có việc thì anh dễ nhờ. Nhưng tôi cũng
chưa phải giúp anh ấy việc gì.
Thế là tôi làm ban đại biểu khối 98 quãng từ 1965 tới 1972, ít lâu trước khi
thành phố gộp khối phố thành cấp phường như bây giờ. Từ khi tiếp quản, địa giới
hành chính và tổ chức chính quyền cứ cộng lại rồi lại chia. Một làng tôi, tên
gốc là xã Nghĩa Đô đã bao đời.
Pháp chiếm lại Hà Nội đổi là xã Hoàn ấn - vì tuyên truyền các báo đăng tin đã
tìm thấy cái ấn vàng của vua Bảo Đại ở đấy, - Hoàn ấn đăng đối với Hoàn Kiếm.
Ta về, đổi là Nghĩa Môn (cộng với Đoài Môn) rồi Thái Đô (cộng với Yên Thái),
loay hoay rồi lại trở lại Nghĩa Đô như cũ, nhưng bây giờ là phường Nghĩa Đô.
Tên các làng Nghè, Tân, Dâu, Yên Phú, Bái ân trong xã thì thành những con số
xóm l, 2, 3... Trên thành phố yên vị, còn ở dưới nhốn nháo lộn xộn các cấp
khối, tiểu khu, khu, nhưng vẫn chỉ được coi là chính qui bộ máy ba cấp (thành
phố, khu, tiểu khu). Thay đổi linh tinh đến quên hay là không, cả những người
đương làm việc cũng không biết công tác mới cũ ra sao.
Năm trước, báo Hà Nội Mới đăng một bài nói về trật tự trị an rồi kiến nghị lập
đội dân phòng các phường, phân tích đội dân phòng ở cơ sở ích lợi và cần thiết
thế nào. Đó là thủ thuật tuyên truyền giới thiệu mào đầu rồi tiến tới tổ chức.
Nhưng có lẽ nhiều người công tác ở cơ sở không nỡ để thành phố mắc lỡm đã cho
biết thành phố ta có đội dân phòng từ ngày mới tiếp quản và chưa giải tán bao
giờ. Tôi cũng gửi một thư tương tự. Rồi chẳng thấy báo đăng tiếp về đội dân
phòng sắp thành lập. Chắc người ta đã xem lại các văn bảnvà sửa chữa bằng cách
lờ đi.
Trưởng ban đại biểu khối phố cũng như trưởng thôn ở xóm - một hình thức tự
quản, nhưng công việc thì lại chẳng khác chủ tịch xã. Có lịch giao ban với tiểu
khu, không được có con dấu nhưng cứ ký chứng nhận, xác minh, giới thiệu đủ thứ:
đăng ký kết hôn; xin miễn phí cho người nghèo nằm nhà thương; mua bán nhà; đưa
giấy gọi nghĩa vụ quân sự; mở lớp xoá nạn mù chữ, lớp chống tái mù; phụ trách
vệ sinh, đánh bả chuột, phun thuốc muỗi; lập danh sách rồi lĩnh và phát tem
phiếu lương thực cuối năm. ôi chao, một đống việc phải mó tay vào. Có hôm đương
họp, người chạy vào báo: phố bên kia cho người lấy phân trộm, xe thồ cứt thối
khắp xóm. Thế là lại phải chạy sang. Tôi không biết mặt chi bộ đường phố, cũng
chẳng khi nào chi bộ gặp tôi, không kể chỉ một lần ấy tôi đến họp tổ đảng với
Khang. Cuối năm, các trưởng khối được lên họp trên hội trường khu, có thường
vụ, có chủ tịch thành phố. Ông Mai giải thích cả một buổi tối về ý nghĩa cái
Tết, Tết độc lập khác Tết nô lệ và ở đâu có áp bức thì ở đấy có đấu tranh
vân... vân...
Các trưởng khối cắm cúi ghi sổ tay để lẩy tài liệu về truyền đạt lại. Tôi chỉ
ngồi nghe. Ông nói xa xôi quá, chẳng đụng đậy chút nào đến bà con ở phố. Có năm
thì ông khác về nói, nhưng bài vở cũng đại khái vậy. Tôi nhận công tác cũng
không một mảnh giấy tờ lên xuống làm bằng. Anh Thắng cán bộ tiểu khu chấp nhận,
báo cáo lên, thế là được. Tôi cũng không vể báo cáo xin ý kiến cơ quan hay chi
bộ đảng. Cơ quan tôi cũng biết tôi làm khu phố, qua vài mẩu chuyện tôi nói vui,
tếu táo với mọi ngưòi, cũng không khi nào tôi phải trình bày mà cơ quan cũng
chẳng hỏi. Trong những người ra làm việc khối cũng có một số là đảng viên, họ
công tác khác nhưng giống tôi, vì nể, vì những lẽ gì đó
Công tác kiểu này ở cơ quan cũng là những việc tôi thường làm, lại cũng bởi một
thói quen nhìn nhận của người xung quanh. Chẳng mấy khi trong cơ quan từ hội
Văn nghệ đến Hội Nhà Văn, trong ba mươi lăm năm công tác tôi không được bầu vào
chi uỷ, đảng uỷ, làm bí thư, qua từng thời kỳ, cái tên tôi và Hoàng Trung
Thông, Vũ Tú Nam quanh đi quanh lại đậu ở những chức danh trên. Tôi đã kết nạp
Đảng và đã làm kỷ luật và kỷ luật đưa ra khỏi Đảng cả chục đảng viên - nhưng
chẳng qua cũng là chân chi uỷ cơ sở, chuyên làm đầu sai tẻ nhạt. Tôi chưa thấy
Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Xuân Diệu làm chi uỷ bao giờ. Không
phải vì quá bận hay không làm được. âu cũng là một thói ỷ lại triền miên ở chi
bộ, loại chi bộ cơ quan hành chính chúng tôi. Chỉ có một khoá tôi không được ở
cấp uỷ cái lần khối văn nghệ nghiên cứu nghị quyết 9 của Trung ương. Một lần
gặp bí thư Đảng uỷ Nông Quốc Chấn, tôi trông thấy trên bàn Chấn có bản danh
sách phân loại nhận thức học tập nghị quyết 9. ở mục cá biệt chú thích “lừng
khừng, chưa rõ", có mấy tên người, tôi đọc ngược thấy: Nguyễn Tuân, Phạm
Văn Khoa và tôi. Nhưng khoá sau, đã nhạt nghị quyết 9, lại bầu tôi.
Tôi làm trưởng phố, ông Đại đương trưởng xuống chân phó. Đại nghề mộc ở đội sửa
chữa nhà của khu, mà bộ dạng anh ta cũng rõ bác phó mộc. Hai bản tay thô, nước
da bánh mật, lúc nào cũng như rám nắng Đằng sau xe đạp chằng dây thép buộc
chiếc hòm gụ đựng cái tràng, cái đục, mảnh giấy giáp đồ nghề, trước ghi đông
thì gài cái cưa. Chiều thứ bảy Đại đạp xe về quê trên Phùng, sáng thứ hai xuống
sớnl. Đại cũng đã đứng tuổi. Những người kiểu Đại nếu ra đây đã vài năm có thể
ở làng vì sợ Tây càn, sợ du kích ta hay là vướng thành phần thế nào, cải cách
xong rồi vẫn không dám trỏ về hẳn. Những năm ấy có nhiều địa chủ, phú nông bị
đấu hay bị đấu hụt ở các nơi trốn ra thành phố. Đại ở cái gác xép, như cái cũi
mèo, mỗi bề khoảng ba sải chân, đầu thang lên xuống có tấm cửa gỗ vuông sập
xuóng đội lên, lại tựa cái bẫy chuột. Một thân cặm cụi, quanh mình chỉ có một
rổ bát, cái dây vắt quần áo và cái xe đạp treo ngược, mỗi khi đi lại dòng thừng
xuống qua lỗ cửa. Đại là loại người nào ở quê ra cũng khó biết. Bởi Đại cũng
không trống mồm, hỏi một câu thì nói một câu, chỉ có phát biểu ở cuộc họp thì
lê thê không có chỗ xuống. ở cuộc họp hai ban, cán bộ Thắng tuyên bố tôi thay
Đại, anh ta cũng dửng dưng. Thì cũng thế, anh với tôi cũng chẳng có mấu cứ nào
bận đến nhau để bằng lòng hay không.
Đại bàn giao cho tôi quyển sổ bìa các tông hoa chép biên bản các cuộc họp. Anh
ghi lấy, mỗi buổi họp dài ngắn không rõ, chỉ thấy độ nửa trang líp nhíp, mấp
mô. Cuộc họp sau cùng có mấy dòng mà đã quá nửa năm. Nghĩa là muốn ghi thì ghi,
ông này cầm tràng đục thạo hơn cái bút.
Cuộc họp ban cũ ban mới dài một khiêng việc. Cũng chỉ một lúc xong bởi không ai
nói lại và chỉ xướng lên đầu việc. Các công tác xã hội, y tế, vệ sinh, thông
tin tuyên truyền, thống kê, công tác các đoàn thể, bảo hiểm xã hội, quản lý thị
trường cải tạo tiểu thương, trật tự trị an, bổ túc văn hoá, phân công các uỷ
viên phụ trách 6 tổ dân phố. Tôi phấp phỏng nhất, báo cáo nổi cộm về trị an.
Một người phản động tù mười lăm năm. Hai người năm năm Hoả Lò tội tham ô, một
thanh niên tù ba năm vì hiếp dâm trẻ con. Còn đương trong nhà giam cả. Ba thanh
niên phải tập trung lao động bởi tội ăn cắp, nạn mất cắp vặt cái đân, cái
phích, bẻ khoá cửa, mất quần áo phơt, phố nào cũng xảy ra.
Một người đánh nhau đâm người phải tù tám năm, đã về rồi nhưng vẫn lừng khừng.
Hàng ngày đi nhặt đá ngoài đường về đắp lò nung đem bán vôi cho các bà hàng
trầu cau trên chợ Đồng Xuân. Đã cảnh cáo, nó vẫn làm. Lại còn cãi bướng: Đá
ngoài đường chứ của nhà nào. Tôi không làm thì ai nuôi tôi. Đợt tiểu khu cho
phép thì ban bảo vệ sẽ phá cái lò vôi của nó chỉ to bằng cái chõ.
Tôi phụ trách chung và đặc trách các công tác nghĩa vụ quân sự, ban hoà giải và
xây dựng gia đình 5 tốt. Khi đi vắng thì Đại thay.
Chỉ hôm sau đã xảy ra hai việc. Việc thì mình khờ, việc thì chưa biết nỗi sâu
nông. Một cô ở phố ngoài đem sổ hộ khẩu đến làm bằng và tờ đơn xin việc để
trưởng ban ký giới thiệu. “Cháu đã hai mươi tuồi, cháu phải tự lập". Tôi
ký luôn. Bảo vệ Dương bảo tôi: Con bé ấy làm gái điếm, tối nào cũng ra đứng
ngoài hồ. Anh ký giấy cho gái điếm vào làm cơ quan a?”
Một việc khác. Có người gọi: “Ông hoà giải ơi, ông sang ngay cho”. Chị ấy ẵm
con vừa đi vừa kể: Thằng bé nhà em đi học mà nó cứ đổ cho thằng bé đái vào nhà
tắm. Em nói thì nó đấm em. Vết đấm còn đây này. Nhưng tôi không trông thấy má
chị ta hằn chỗ nào.
Vừa về tới, chị xông vào tát anh thuê chung nhà một cái, rơi vỡ kính. Anh ấy
bảo tôi: “Báo cáo anh, anh mới ra làm chưa biết, con nặc nô này cốt tát tôi
trước mặt anh rồi nó sẽ đi khoe nó tát vào mặt chính quyền đấy Trước lúc nó
chạy đi gọi anh, nó cứ réo thằng cán bộ, thằng đảng viên ra chửi, tôi có cho nó
một cái đấm, một cái đá thật.
Tôi hoà giải trước mớ bòng bong. Cuộc bàn giao chẳng có gì vẫn chưa xong, mỗi
lúc lại thòi ra những việc lắt nhắt.
Không có đồ đạc, không sổ quỹ. Trên cho tiền hay vật dụng để tiêu và dùng ngay.
Tiền chè nước họp, ba tháng được một tập giấy và cái bút chấm lọ mực Cứu Long.
Tài sản có bảy thước vải đỏ làm bặng, cắt chữ dán khẩu hiệu. Trước mười thước,
giải luân chuyển các nhà, không biết nhà nào xé trộm mất ba thước, hỏi không ai
nhận. Một cái khay, mười chén uống nước, không có ấm - trước cũng có, bị vỡ.
Tôi cắp khay chén về nhà, mỗi lần họp lại bưng đến rồi mượn chủ nhà cái ấm tích
và nồi đun nước. Thế mà cũng vỡ chén cũng bỏ quên, mất luôn. Hết qui lại xin
tiền trên khu, sắm bộ chén mới.
Đại báo cáo:
- Tiền chè cuộc họp thì có biên bản họp trên mới chi. Giấy bút mỗi qui phát năm
đồng. Qui này đã tiêu hết.
Tôi biết thế và chỉ biết hơn mỗi khi có việc, cứ im thì thôi, càng hỏi càng lộn
xộn ra lắm chuyện. Việc trưởng thôn thì không thể có kế hoạch công tác, toàn
các đầu mẩu trên sai bảo và dồn xuống, có vẽ vời thêm rườm rà, lắm đầu việc đấy
nhưng chỉ nói xong đứng dậy là hết cũng được. Đại kể ra thì thấy như thế, nhưng
đến tôi có thể còn đại khái nhanh hơn vì Đại phát biểu ê a hấm hứ dây cà dây
muống dài dòng văn tự.
Tôi đi đường, hôm nào cũng có người gọi. Đứng vỉa hè cũng giải quyết việc.
Người ta tố cáo với tôi những ông bà ở ban cũ.
Từ khi giải phóng đã mười mấy năm qua đến tôi trưởng ban là người thứ ba. Đầu
tiên là một ông công chức lưu dung ngành bưu điện. Cả thành phố không ai đeo cà
vạt, ông ấy lúc nào cũng thắt cái cà vạt đen. Ông bảo tôi: “Ông là người hiểu
biết tôi mới nói. Đứa nào bảo tôi thắt cà vạt đen để tang nhớ chế độ cũ là nó
ngu. Cà vạt đen xã giao của châu âu là đứng đắn lịch sự nhất, có phải không
ông?”. Ngườì trưởng ban thứ hai là ông Đại rồi đến tôi. Người ta rỉ tôi.. Ông
An dân phòng buôn vàng, hải quan đã đến tận nhà cảnh cáo. Ông Dương bảo vệ thì
uống rượu, đã bị bắt vì đánh tổ tôm, ít xì... Ông Đại ăn cắp mùn cưa của cơ
quan đem về bán. Ông này ở làng không phải tên ấy, ông thay tên đổi họ chui ra
đây. Có người phàn nàn: Nhà nó lý lịch có vấn đề con cái học xong không xin đâu
được việc thì đi dạy học, toàn bọn thày giáo bất mãn, thì dạy dỗ thế nào. Anh
em nhà kia Tết năm nào công an cũng đến giải lên đồn nhốt mấy ngày để phố ăn
Tết được yên ổn, khổ thế..
Đội dân phòng đi dự hội thi phòng cháy chữa cháy trên khu. Tập vài tối ở phố
rồi đi thi toàn khu trên. Cửa Đông. Việc này bên bảo vệ làm, nhưng chính quyền
phải đứng ra đại diện. Người ta bảo ông giám đốc sở công an này trước làm
trưởng phòng chữa cháy nên tập chữa cháy hăng lắm.
Bảo vệ Dương quãng trên bốn mươi tuổi, làm canh cổng thường trực một cơ quan bộ
giao thông. Nhưng hồi này thấy ở nhà đi rà rà trong phố cả ngày. Dương tự giới
thiệu:
- Tôi Nam Bộ tập kết. Quê ở Phú Lâm, cạnh Sài Gòn. Anh vào Sài Gòn bao giờ
chưa? Anh đã biết Phú Lâm, cả Hanh Thông Tây? Anh ra làm việc hay lắm. Trên cử
về a? Tôi có nhiều việc báo cáo riêng với anh. Phố này thì cán bộ, công nhân
viên nhiều, nhưng phức tạp rất phức tạp, mà phức tạp nhất là cái ông Đại trưởng
ban đại biểu trước anh ấy. Trên cũng sáng suốt thật, thay anh về. Nó mua chuộc
Thắng cán bộ tiểu khu, chiều thứ bảy nào cũng cùng nhau đạp xe về quê nhậu
nhẹt, lại mua biếu đôi dêp râu mới. Anh ta đương cạy cục xin vào đảng ở cơ
quan. Được rồi, để đấy tôi điều tra đầy đủ sẽ báo cáo anh. Thằng ấy là địa chủ
có tội ác chạy ra Hà Nội từ thời Tây. Có khi mà Tây nó cài lại, chưa biết
chừng.
- Ông An đội phó của anh thì thế nào?
- Đội viên thôi không phải đội phó. Anh này có người nhà làm tướng ngụy quyền
Sài Gòn, ta phải cảnh giác, đội phó thế nào được.
- Ông Đĩnh làm đội phó a?
- Không phải, không phải. Lão này dân tạm chiếm cũ, buôn nhựa lậu, thuốc lậu,
bây giơ vẫn buôn. Báo cáo anh tôi không cần phó, một tôi, một tay tôi đâu vào
đấy hết. Tối mai mời anh ra dự buổi tập phòng cháy chữa cháy.
Chỉ hôm sau đã lại nhiều người thì thào với tôi về bảo vệ Dương. Nghe thấy
nhiều việc Dương lôi thôi quá, nhưng hỏi lại thì không ai nói được đích xác.
Chỉ rõ ràng có việc ngày mới đến đây, Dương cũng đi họp chi bộ. Nhưng rồi giấy
tờ không đủ thế nào, Dương không được họp nữa. Dương cũng thôi không cầu cạnh
để được họp. Tôi cũng không hỏi Khang.
Cái ông An “có người nhà làm quan to trong Nam” đến nói với tôi rành rọt từng
chữ, như nhà chức trách đọc văn bản:
- Ông Dương có án nặng, khu giải phóng trong kia chưa xử xong, đem ra đây, thế
nào mà lại sổng tù lên làm cán bộ. Trên đương điều tra xem ai đưa nó ra làm bảơ
vệ. Anh ta thì cứ doạ anh ta là cá chìm. Ông phải xác minh lại, chứ thế này...
ở khối không có mảy may hồ sơ lý lịch người công tác, biết hỏi thế nào mà cần
gì phải hỏi. ơ miền Nam ra tập kết cũng nhiều vấn đề, nhiều trường hợp tương
tự. Đúng là ở Nam Bộ, người vướng án nặng chưa xử xong, và cả những người nếu
thấy để ở lại, có thể bên kia lợi dụng đều được đưa ra, như trường hợp Nguyễn
Bính. Nhưng các tỉnh ngoài không làm kịp được như thế, nhất là các vùng tự do
ta phải trao lại, mà trong khi các tàu Nga, tàu Ba Lan chờ người tập kết vẫn ra
vào cảng. Nhiều cán bộ được bố trí ở lại mất tinh thần đã xô xuống tàu, không
kiểm soát được, trong khi những người cần đem ra thì bỏ lại.
Các trường hợp Lam Giang, Võ Phiến là như vậy. Ngày đấy người thì làm tỉnh
trưởng, người thì viết chống cộng. Nhưng đấy là những việc to tát còn cái anh
Dương ban bảo vệ đứng đường này thì đi đến đâu, tôi dò la, hỏi han làm gì. Có
thể nó là đứa giết người, tôi cũng chỉ nghĩ để đấy. Lại toàn những bới móc,
chẳng thấy người nào tử tế. Soi mói nhau, coi ai cũng không ra gì thì ở cơ quan
tôi cũng chẳng thiếu người đeo kính đen kiểu này.
Cái ông Dĩnh “buôn lậu” mách tôi:
- Vợ ông bảo vệ Dương trước làm “mai dông đờ te" nhà thổ. Tôi ở trong này,
lạ gì. Thằng tù vớ được con đĩ, lại lên mặt bà bảo vệ, thối không chịu được.
Đại, phó ban của tôi nói về Dương:
- Báo cáo bác biết ông Dương hay đi dò dẫm bịa chuyện để tống tiền người ta.
Trên tiểu khu cũng đã nắm được từ lâu.
Mấy tối nay, tất cả những người bị Dương bảo với tôi là những phản động và ông
Dương, ông Đại và các ông An, ông Dĩnh đã bị người ta tố cáo đều có mặt, đều là
các chân chủ chốt ra tập luyện, ai cũng hăm hở và cười nói trò chuyện râm ran.
Bộ dụng cụ chữa cháy khá đẹp mắt, từ thùng đến gầu, đến bơm đều sơn đỏ bóng
nhoáng. Mười cái gầu sắt, một lô thùng xách nước, oai nhất cái xe hai bánh,
trên lưng cõng một thùng tô nô chứa nước với cái bơm phun, mọi người đến vuốt
tay lên và xuýt xoa gọi là cái máy bơm, ồ cái máy bơm. Nước đổ vào lòng thùng,
hai đội viên dân phòng hùng hổ liên liến bơm, một người cầm cái vòi cao su vẩy
nước chĩa lên chiếc vòng vành xe đạp treo trên đầu cái thang. Tia nước phọt
được vào giữa vòng, thế là trúng đích. Người được nhấc vòi xả nước trúng vòng
phải là đội trưởng, đội phó. Cả đám xách nước, bơm nước chen nhau, mặt phừng
phừng như ốp đồng. Cuộc tập dượt làm cho hàng phố nô nức ra xem. Cái gầu, cái
bơm, cái xe, cái vòi và có đến một trăm mét ống cao su đều của mọi người ủng
hộ. Hội thi, trên khu phát tiền chè nước và một yến gạo, mỗi tối tập đến khuya,
tổ phụ nữ đã nấu chín nồi cháo hoa, giải lao húp cháo, mỗi bát rắc vài hạt
muối.
Tưng bừng nhất cái tối lên hội thi trên Cửa Đông. Đội dân phòng đồng phục ba
mươi người áo quần xanh công nhân, giày vải tím, có người đi bất lửng đầu đội
mũ sắt trên chỏm có mào con gà của lính cứu hoả Pháp ngày trước, cả mũ sắt nhựa
quân đội khối Varsovie nhẹ nhàng bóng lộn, tròn xoe. Trong đoàn có bốn nữ các
cô tổ đan len, cô công nhân nhà máy kẹo Hải Hà, cũng mũ sắt quần áo sơ mi xanh
hệt nam giới. Vừa đi mượn được, mọi khi tập không thấy diện một loạt khéo thế.
Đội viên sắp hàng ba, hai người đi đầu cầm cán băng vải đỏ đính dòng chữ: Đội
dân phòng khối 98.
Trong hàng, chốc lại phát ra tiếng hô một hai, một hai, chỉnh đốn bước đi đều
phăm phắp. Tôi và Dương đi đầu hàng, cánh tay đeo băng, ra lối các người phụ
trách. Cái còi kền trắng quàng dây đeo trước ngực, nhưng chưa thấy bảo vệ Dương
thổi tiếng nào. Nhiều người tận dưới phố tôi, đông nhất là trẻ con đuổi theo
nhìn dân phòng đi đều bước, người lớn thì tò mò lên xem thi thố ra sao, kết quả
mấy hôm thức đổ mồ hôi tập. Mười bốn đội về hội thi. Đội khối tôi đã được tập
trung vào chỗ qui định có tờ giấy treo đánh số. Cả đoạn đầu đường công an ngăn
xe cộ qua lại bằng một hàng sáu chiếc xe đạp dựa ngang. Đèn điện mắc sáng chói
cả vào vòm lá sấu âm u. Các phố xung quanh đổ ra đông như hội.
Tôi nhận ra cái gác lấp ló lá sấu đầu nhà kia, ngày trước Huyền Kiêu thuê ở
đấy, hồi đi dạy lớp tiểu học trường Lui Patstơ. Đinh Hùng, Nguyệt Hồ, chúng tôi
đến chơi hay ngồi thành cửa sổ, nhìn xuống đường. Hiệu tạp hoá Sinômura của
Nhật nhà hai tầng ở gác ngã tư. Đằng kia, phố Thiên Tân, ngày xưa, ngơời ấy ở
phố đấy. Chặp tối, đứng đợi chỗ ngã ba Cửa Đông này. Rồi hai đứa lên vườn hoa
Canh Nông.
Bây giờ tôi đi dẫn đội dân phòng vào. Một thoáng xa, chẳng bận bao giờ đến
nhau, nhưng cùng một chỗ này, kể cũng lạ một thoáng ngậm ngùi. Đội phố tôi bị
xếp gần cuối. Chờ lâu, càng hồi hộp. Đến lúc giật mình loa gọi... alô... a lô...
98, bảo vệ Dương nhảy phắt ra, thổi cái còi kền tuýt tuýt, tiếng kêu anh ánh.
Cả đội răm rắp đẩy cái xe máy bơm. Rồi xách nước, đổ nước, thay nhau tuần tự
bơm, đội trưởng đội phó lần lượt cầm vòi vảy nước lên cái vành xe đạp bọc giấy
thiếc lấp lánh treo giữa bậc thang.
Năm lần vảy vòi, lần thứ tư cố nhất cũng không lên được cái vành sắt. Cứ gần
đụng tới thì ngọn nước lại cong xuống. Thế là thua, thua đứt đuôi rồi. Tôi như
ù hai tai. Các tối tập ở nhà lần nào cũng rọi nước vọt tung toé, cả các chị cũng
vảy trúng vòng. Sao lên đây lại đốn mả thế, mà anh em đã cố gắng hết sức.
Ngoài ngã tư, các đội được giải, chốc lại nghe gọi tên, người vỗ tay hoan hô
rầm rầm. Không biết phần thưởng thế nào, người tuôn lên chỗ loa réo. Chúng tôi
chẳng còn ngõi được đến nơi vinh quang ấy, thua tiu nghỉu, ngoảy ra ngay.
Tôi nhớ việc cúa tôi. Tôi trèo lên lưng cái thùng tô nô, bắc hai bàn tay làm
loa. Cảm như võ sĩ Bọ Ngựa, vừa ngố vừa oai, tôi hét: .
- Các đồng chí khối 98 trật tự... Cả đội đi đều, bước!
Đội dân phòng tiếp theo... một hai... một hai... Nhưng nghe như đuối hơi. Tôi
còn ngấm dư vị tiếng quát ra lệnh trước hàng quân. Nhưng đến lúc nhìn bánh sắt
cộc cộc, cái xe máy bơm đầu nghếch lên như con voi trận, bây giờ vẫn nó mà thấy
như cái xe bò tơi tả không ai buồn đẩy.
Về tới trụ sở, xe nước và vòi bơm quăng đấy, nhiều người vào húp vội bát cháo
rồi đi ngay, mà hôm ấy cháo bồi dưỡng có thịt lợn băm. Uất quá, bực quá. Phó
ban Đại nói nhỏ với tôi:
- Cái anh Dương nó xỏ lá. Bác mới ra làm việc mà nó cũng không kiềng, đểu thật.
- Thế nào?
- Những hôm tập ở nhà nó treo vòng thấp, anh em cứ cữ ấy vắt vòi phun lên. Đến
đây thì vòng chuẩn cao hơn ba gang tay. Thế là mất đà, mặt mo cả lũ.
- Sao anh biết?
- Thợ mộc chúng tôi đo bằng mắt, con mắt là cái thước, bác ạ.
- Dương cũng vào phun nước cơ mà?
- ấy thế mới thâm!
Đại bảo tôi phải làm cho ra nhẽ. Tôi nghĩ “cho ra nhẽ” cũng chẳng đi đến đâu,
đằng nào cũng thua rồi.
Chẳng bao lâu lại sắp Tết. Công tác ở phố đã được ngót một năm và gia đình tôi
về ở nhà này cũng gần mười năm rồi.
Các con tôi đã cọ gạch hoa, mua vôi vàng quét tường trước cửa- như phong tục
ông ngoại tôi ở quê ngày trước, sắp Tết lại quét vôi trắng vẽ vòng tròn cánh
cung lên mặt tường. Tôi xuống tận chợ Mơ tìm mua cái khánh, con cá đất nung về
treo cây nêu, mà không đâu có.
Nhà tôi cách một quãng phố ngắn ra bờ hồ Thiền Cuông. Tôi sinh ở nhà ông bà
ngoại xóm Giữa làng Nghè xã Nghĩa Đô. Cái nhà tôi ở thuở bé, mẹ tôi và các dì
đã bán từ lâu. Trở lại Hà Nội, tôi thuê nhà ngoài phố, đầu tiên ở trên gác gần
chợ Hôm. Đan Hà, Đan Thanh và các con chúng tôi mới bốn năm tuổi nghịch ngợm
nhảy chơi sàn nhà gỗ, bà chủ phàn nàn quá.
Tôi đi qua cuối phố gần chợ Đuổi, thấy một nhà treo mảnh các tông đề “nhà cho
thuê” tôi dọn xuống. ít lâu, Nguyễn Văn Tước - sinh viên mỹ học tôi quen ở
Matxcơva tốt nghiệp về đi tìm nhà ở mách tôi trên phố có nhà muốn bán. Trong
ngõ hẻm, căn nhà một tầng hơn sáu mươi thước vuông. Chủ nhà, một ông công chức
về hưu đã luống tuổi, cũng mới ở nhà này mấy năm muốn ra ở ngoại ô.
Tôi đã mua nhà bằng tiền kịch bản Vợ chồng A Phủ, vừa làm phim lại vừa in sách
- cả thảy trên hai nghìn đồng. Văn tự nhà, hai bên thoả thuận viết hạ xuống một
nghìn rưỡi để ttánh thuế - ông làm mối nhà xui thế. Trong ngõ có hơn mười cái
nhà liền một bên, trước mặt là tường một cơ quan. Có mấy nhà tư, lẫn nhà thuê
của thành phố. Ngõ cụt, không phải người ở trong ấy thì không ai đi vào làm gì.
Bởi vậy, đi tìm phố, có khi hỏi công an trật tự cũng không biết phố này. Trên
đầu tường nhà tôi - miếng lá vả trát giữa, hai cột trụ đắp nổi chữ số 1923 năm
xây, mái lợp ngói Satic của nhà máy gạch Tây phố Quan Thánh. Cái năm chữa làm
gác xép, dỡ những cột rầm trong lòng tường ra đầu cột bọc giấy trang kim chống
mọt.
Các hoạ sĩ Huỳnh Văn Gấm, Trần Văn Lắm trong Nam ra học trường Mỹ thuật Đông
Dương đều đã trọ học ngõ này. Các anh còn nhớ trong nhà có cái giếng.
Nhà tôi ở, trần cót quét vôi còn hai cái móc sắt để mắc quạt kéo. ở sân bếp,
một cái giếng mạch ngang, nước sủi váng vàng ố, nước để giặt rũ, không làm nước
tắm nước ăn được.
Nhà như cái ống thế mà người ở phố này từ thời Tây nói nhà tôi có đến ba bốn
chủ ở. Chồng đống gồng gánh bán quà sáng, quà tối, góc nhà quây lại nuôi cả lợn
ở chung với người. Hôm nay đầu ngõ vẫn còn một vòi nước công cộng trước ở vỉa
hè ngoài đường được chuyển vào ngõ, tuổi cái vòi nước ấy phải ngót thế kỷ.
Những năm Mỹ ném bom thành phố, các con đi sơ tán, vợ tôi lắm đêm trực chiến cơ
quan, cái giếng làm hầm trú ẩn cho tôi. Nhà toán học Lê Văn Thiêm kể chuyện khi
Berlin bị quân Đồng Minh bao vây tấn công, nã đại bác và ném bom cả tháng liền.
Ngày đêm, Thiêm và các bạn học đã chui xuống ăn ngủ trong lòng giếng cạn giữa
thành phố.
Chúng tôi dọn đến, đồ đạc chỉ một xe xích lô, hàng phố không ai biết. Mỗi người
đến một túi, một ba lô còn gọn hơn. Khi ở hẳn, hai bên láng giềng mới biết nhà
có chủ mới. Vợ chồng tải bằng xe đạp hay xách bộ, một cái giường nan vầu, một
tủ đứng hai ngăn, một bàn gỗ lim dài một thước, mấy túi xoong nồi, quần áo.
Những đồ đạc ấy về sắm ở chợ Giời. Đến bây giờ vẫn còn, chỉ vứt đi cái giưòng
vầu gãy nan. Chiếc bàn gỗ lim cứng như sắt, mối xông cúng không nhằn được, để
làm bàn thờ.
Dẫu sao, nhà ở mới cũng thoáng hơn cái buồng bốn thước vuông chợ Đuổi. Nhưng
hai con gái tôi thì sợ. Những đứa trẻ nhìn cái nhà bằng con mắt hãi hùng như
ngày trước tôi ở túp nhà cô hồn như nhà hoang của ông bà ngoại, mà tôi đã nhớ
lại trong những trang mở đầu Cỏ dại. Khi nhà vắng, chỉ có hai chị em, chỗ nào
cũng thấy ma hiện ra. Không dám ra gần thành giếng, ma dìm chết. Cái cửa nách
nhà rêu trơn u ám quá, trong kia, trên tường lù lù dây móng rồng xanh eo éo như
con ma xoã tóc. Đã tan học, bố mẹ đi làm chưa về, ở trường về không đứa nào dám
vào nhà, chị em ra đầu ngõ ngồi ngóng.
Có lẽ đến năm tôi làm công tác khu phố, các tổ trưởng tổ phó họp ngay cạnh bàn
viết của tôi kín ra đến cửa và rồi có đông các em hơn, mà bấy giờ cũng nhớn
nhao rồi, các con tôi mới thấy nhà đỡ u ám.
Người ta nói ngày trước lòng hồ ăn vào tận đầu phố, có cầu ao bắc ra, nước ăn
nước rửa đều ở hồ.
Bây giờ hồ lùi ra bên kia đường, nhưng mỗi khi mưa to lại như hồ ngày trước,
nước dềnh vào tận các phố, các ngõ, có khi ngập liền mấy ngày. Trẻ con lội
chơi, cả lũ kêu loạn xạ, gặp con rắn nước ở đâu ngoi ra.
Dáng dấp các phố vùng này cũng là kiến trúc phố cũ thời Pháp mà qui hoạch và
bảo tàng thành phố chưa để ý. Không đặt tên phố (rue) mà Tây gọi là khu vườn
phố (cité immobilière), không biết ai đã dịch ra là xóm, giữa phường phố có một
cái xóm. Các ngõ ngoắt ngoéo, có đến năm sáu lối thông ra các phố bên. Nhà xây
đá tảng chống ngập nước một tầng lửng, cột đá cột gạch đỡ sàn gỗ. Xung quanh
mỗi nhà, vườn nho nhỏ, cây nhãn, cây cau. ở đây trước xưa khi chỉ có người Pháp
ở, thường là công chức các sở Liêm phóng Bắc kỳ, công ty hoả xa Vân Nam, những
công sở gần đấy.
Nhà thơ Ngô Linh Ngọc kể ngày trước trong phố có nhà của Jean Marquet mà anh ấy
còn nhớ cả số nhà, ông ta làm sở Đoan và là văn sĩ thuộc địa đã viết quyển Năm
bông hoa (Bắc, Trung, Nam kỳ, Ai lao, Cao Miên), có bài trích sách tập đọc
tiếng Pháp và những tiểu thuyết phong tục ngô nghê của mắt ông Tây xem người
bản xứ. Học trò lớp ba lớp tư chúng tôi phải học thuộc lòng, đọc ra rả như cuốc
kêu, tận bây giờ còn nhớ: Il fait froid! Il fait froid! De longues rafales
parcourent le Ton Kin. Les feuilles du banian rougeoient le sol... Trời lạnh
rồi! Trời lạnh rồi! Từng cơn gió bấc đã thổi qua xứ Bắc Kỳ. Những lá đa rụng đỏ
mặt đất... Chắc lá bàng, Tây gọi là lá đa.
Những tên xóm Hạ Hồi, phốNguyễn Du, phố Nguyễn Gia Thiều đều là tên mà ông thị
trưởng thời Nhật bác sĩ Trần Văn Lai đã đặt. Năm 1945, phố Nguyễn Gia Thiều,
nhưng được gọi chức và tên hiệu là Ôn Như Hầu. Cái nhà ở gần đầu phố, công an
đã ập vào bắt hết bọn Quốc dân đảng ở đấy. Tôi là phóng viên báo Cứu Quốc, đã
vào nhà này. Hồi ấy, một số toà nhà tương tự, Quốc dân đảng đóng rải rác các
phố. ở đây, ở hàng Bún, ở đường Quan Thánh, trụ sở Trung ương Quốc dân đảng
đóng ở trường Yên Thành, lại chiếm cả khu các phố trong bán đảo Ngũ Xã hồ Trúc
Bạch. Còn nhiều nhà ở kín, khó biết, mà cái nhà hai tầng ở Ôn Như Hầu này cũng
là cơ quan bí mật của Quốc dân đảng.
Nhà có một vườn nhỏ đằng sau, liền hai bên hàng xóm. Những người bị giết trong
nhà khi đào xác lên còn thấy quang gánh, nón lá. Người sang trọng bị tống tiền,
cả người bán phở, cháo gà, bánh giày bánh giò, thức ăn đêm, bọn canh gác gọi
vào, ăn rồi quịt tiền, đánh chết người, vùi xác trong vườn. Nhà ở láng giềng đã
phát giác ra tiếng gào khóc đêm khuya. Đấy là mấy chục năm trước, hôm nay đi
qua chỉ thấy một phố thoáng đãng, yên tĩnh dưới hàng cây phượng lưa thưa. Nhưng
mà chỉ cũng là bề ngoài của những sinh hoạt đời thường.
Bỗng có người gọi: “Ông hoà giải ơi! ông ra mà can, không thì vợ chồng nhà nó
giết nhau kia kìa”. Tôi biết rồi, lão quét vôi thuê đi làm về, say rượn, doạ
giết vợ. Trông lão gày kheo khư, mà bà lão thì to béo như con trâu trương. Tôi
quát: “Im đi! Trật tự! ". Bà lão mếu máo: “Xin ông bắt nó lên đồn công an
đêm nay, không có thì nó giết em mất". Lão đã nằm quay mặt vào tường ngáy
khò khò. Tôi lững thững về.
Đầu phố đằng này có toà nhà ba tầng, cửa sổ trổ ra như những lỗ tổ ong. Mỗi chủ
ở một buồng, buồng trong buồng ngoài, túi bụi, nhếch nhác. Dưới sân, người ngồi
giặt, người giã cua, người chẻ củi, trẻ con nhảy nhót, những cụ già móm mém
nhìn ra đường. Chỉ thiếu cảnh sưởi nắng lần tay áo nhá trứng rận, không thì
chẳng khác sân làng quê một ngày nắng hanh. Tôi đi quan sát qua các nhà trong
khối phố. Đại bảo tôi nhà này của một ông trước làm quan, cự phú, người ở nhờ
không phải thuê, đều là các con cháu được gọi đến cho ở, thành phố không lấy
nhà được.
Tôi biết thế. Cô Đàng, công an, bảo:
- Lũ trẻ con phố này hay trêu ghẹo ông cụ ở chỗ nhà ba tầng. Bác doạ chúng nó
phải lễ phép với người già. Bác bảo thì chúng nó nghe hơn tôi nói.
Rồi cô Đàng kể:
- Cụ ấy ngồi đái ngoài vỉa hè, chúng nó hét đả đảo. Tôi bảo không được làm thế,
chúng nó cãi: ông này đái đường làm mất vệ sinh, cô công an không bắt thì để
chúng cháu bắt.
Tôi trông thấy trong nhà thường đi ra một ông lão người nhỏ thó, mặt và râu
nhọt nhạt, áo sơ mi trong áo vét tử tế nhưng đã cũ. Cụ ra vỉa hè, ngồi xuống
vén ống quần. Mấy đứa trẻ như đã rình đằng kia, vừa chạy lại vừa la: “Chúng mày
ơi! Lại xem cụ đái... cụ sắp đái! ”. Nghe chúng nó gọi nhau thế, cụ lại đứng
lên, thong thả đi vào trong. Nhưng quả là có hôm khác tôi trông thấy cụ ngồi
xuống, vạch quần ra đái tự nhiên.
Người già cũng như trẻ con, đứng đâu đái chẳng được.
Ta nhìn nhiều cũng đã quen. Chỉ còn ngượng, nếu khi nào đưa khách nước ngoài từ
sân bay vào thành phố, thỉnh thoảng trông thấy các chị đi trên đê, đương gồng
gánh tong tả, lại xắn quần, đứng giạng háng ra. Cô Đàng hỏi:
- Cụ ấy trước là cán bộ cao cấp đấy, bác đã bảo các cháu phải lễ phép chưa?
Cô biết cụ là cán bộ gì...
- Trong sổ hộ khẩu tên cụ là Vi Văn Định.
- à thế thì cụ là quan đế quốc, không phải cao cấp ta.
Tôi nghe tiếng Vi Văn Định tử thuở nhỏ, khi làm tổng đốc Hà Đông. Bây giờ mới
biết mặt cụ Vi Văn Định, mà tôi tưởng phải to con, dữ tợn, hách dịch, bởi cứ
nhớ nghe chuyện người làng tôi kể Vi Văn Định ghét bèo Nhật, đến làng nào trông
thấy bèo Nhật dưới ao, quan bắt nọc lý trưởng, phó lý phạt đánh roi giữa sân
đình. Sau này, đi công tác lên Lạng Sơn tôi đã vào Bản Châu huyện Lộc Bình quê
ông ấy. Dinh cơ của Vi Văn Định khang trang, như lâu đài, như toà thành, đoàn
chuyên gia lão nông tri điền của tỉnh Quảng Tây Trung Quốc sang giúp Lạng Sơn
trồng ngô giống mới đã ở cả tháng trong trang trại ấy. Nghe nói từ năm xuống
xuôi làm quan rồi lên chức tổng đốc tỉnh Thái Bình thì ông không về quê nữa.
Nguyễn Công Hoan kể: ở thị xã Thái Bình, buổi trưa ai lê guốc ngoài đường mà
trong dinh nghe tiếng, tổng đốc Vi Văn Định cho lính bắt vào đánh..
Ra cái cụ gầy còm lù khù ấy là Vi Văn Định. Cụ lại ra vỉa hè, lừ đừ thong thả
đi.
- Chào cụ Vi.
Ông cụ ngước mặt. Tôi nói:
- Tôi đã đuổi đám trẻ con hỗn với cụ, cụ cứ đái tự nhiên.
Cụ Vi nói khe khẽ:
- Ông nhặt cho tôi hòn đá, tôi ném vỡ đầu có thằng. Ông trông tay tôi cứng gân
thế này.
Cụ giơ cánh tay, cổ tay cụ nổi gân xanh như que đóm, không cứng gân như cụ
tưởng tượng. Cụ lại nói:
- ăn thịt mỡ, ăn mỡ cả lá, ăn mỡ thì khoẻ cái ấy lắm, ông ạ.
Tôi quen ông nhiếp ảnh Lê Đình Chữ ở phố trên, người cũng trạc tuồi các cụ Vi,
cụ Võ An Ninh. Các cụ già đĩ mồm hay khoe khỏe cái ấy. Cụ Chữ chiều chiều đi ăn
cơm bụi rồi uống cà phê đen. Cụ Chữ, cụ Võ cũng khuyên tôi ăn nhiều mỡ, ăn mỡ
lá... Các lão kễnh tám chín mươi lẫn lộn hoài cổ với hoang tưởng.
Tôi không bắt chuyện ăn nhiều mỡ của cụ Vi, tôi hỏi:
- Cụ có hay về chơi Lạng Sơn không?
Cụ Vi nhìn tôi, lờ đờ mắt và lặng im. Cụ biết tôi biết cụ hay là cụ nhãng tính,
nặng tai, hay là cụ vờ nhớ nhớ quên quên không muốn nhắc chuyện cũ.
Chữ ký và chứng nhận, chứng nhận và chữ ký, tôi bận nhiều nhất công chuyện này.
Dường như ngày nào cũng có, tờ giấy đơn giản mà phức tạp.
Bà ải kể lể:
- Tôi với bà Lữ lên phố Lãn ông. Chúng tôi đương ăn cái ngô luộc thì cán bộ
phòng thương nghiệp ra khám túi. Chúng nó lấy của tôi 9 đồng bạc, nửa cân phiếu
đường một cân phiếu thịt, 20 cân phiếu bột mì. Oan ức tôi quá. Bà Lữ ấy mà, về
nằm rên suốt đêm, gần sáng thì chết.
- Tại sao bà ấy chết?
- Uất quá mà chết, chết thiệt thân, có bằng chứng giết người đâu mà kiện, có mà
kiện củ khoai.
- Thế bà đến kêu việc gì?
- Xin ông cái giấy chứng nhận tôi không buôn bán lề đường, tôi đã học tập, tôi
không vi phạm quản lý thị trường. Trả cho tôi các thứ...
Tôi nghĩ vài cái lặt vặt, bắt cũng chẳng ra thế nào.
Tôi nói:
- Bà vẫn buôn bán lề đường nên mới bị thu đấy. Người ta thuộc mặt bà rồi. Tôi
chứng nhân cho bà lần này, lần này nữa thôi.
Ông kia mới chuyển đến, xin chứng nhận cho con được học đúng tuyến. Một ông bỏ
vùng kinh tế mới trên rừng trở về, chưa nhập lại được hộ khẩu, không có sổ gạo.
Tôi nói:
- Ông thì việc con đi học, ông thì phải có gạo ăn, tôi cho giấy một lần rồi
phải đi lo ngay hộ khẩu đấy.
Một chị dược sĩ đến.
- Người nhà em bên Pháp gửi quà về. Xin ông chứng nhận cho em mới nhận quà lần
đầu.
- Quà gì?
- Một cái xe ca mi ông, một ít thuốc.
Tôi trả lời:
- Tôi chứng nhận cho chị có hộ khẩu ở phố này.
- Em chưa nhận quà bao giờ.
- Tôi không biết, tôi không chứng nhận được.
Ngày mai, ngày kia lại những việc tương tự.
ở rải rác trong phố có mấy nhà có tên gọi là hộ đặc biệt. Hộ đặc biệt khác các
nhà khác. Nhà biệt thự, cửa sổ trên gác không mấy khi mở. Có ô tô đưa đón, cửa
xe treo rèm vải hoa, không trông thấy người ngồi trong. Cổng trấn song sắt, một
tấm tôn che kín, khoá và xích xủng xoảng, bên trên có nút bấm chuông điện.
Các hộ này không liên quan đến khối phố. Không có tên hộ khẩu ở sổ cái của ban
bảo vệ. Hàng năm, không phải bận lên danh sách tem phiếu. Chỉ mỗi dịp bầu cử
thành phố hay Quốc hội, chúng tôi phát thẻ cử tri cho các hộ ấy và vị chủ hộ
được giấy mời ra dự khai mạc, ngồi ghế danh dự trên hàng đầu và được bỏ phiếu
trước. Đã mấy dịp thế, nhưng tôi không biết, cũng chẳng làm quen với ai, chỉ
đoán cụ nội chính, cụ thương nghiệp, cụ phó thủ tướng...
Thế mà cũng vẫn có việc phải làm với các hộ này.
Việc thứ nhất là cái chuông bấm. Trẻ con hay với tay lên bám chơi một cái rồi
chạy. Tôi nhận được công văn cơ quan phê bình để “nhân dân cãi nhau mất đoàn
kết” và “không giáo dục thiếu nhi để trẻ nghịch bấm chuông cổng mất trật tự.
Đầu ngõ kia, một số nhà có nhiều hộ ở chân tường mà bên trong là một hộ đặc
biệt ở cơ quan. Cái số nhà lắm hộ này chật chội kinh khủng, suốt ngày đụng chạm
lủng củng to tiếng như có bệnh cãi nhau. Nhưng không khi nào xô xát dao gậy.,
họ loạn xạ chán rồi im dần. Ban hoà giải đã đến mấy lần, chưa có cách nào dẹp
được. Cơ quan nọ phê bình, tôi không trả lời.
Lần sau, hàng xóm cách tường cãi nhau, cơ quan cho cán bộ bảo vệ sang tận nơi.
Nhưng các người ta chỉ ngồi một chỗ ném lời qua tiếng lại, tức quá thì văng xa
xả, chưa phạm trị an. Không đứng lên nắm tóc, đấm đá, cáo cấu, giằng xé. Đồng
chí bảo vệ không biết can thế nào, nói nhỏ nhẹ hay nói xẵng, chẳng ai chịu im
mồm. Mấy lần sau cũng chẳng doạ nổi, thôi không thấy sang nữa. Vị chủ hộ đặc
biệt bên kia tường đành chịu đôi khi điếc tai, hay là đã dọn đi, tôi không
biết.
Việc thứ là cái chuông bấm thì tôi đánh máy trả lời như công văn, cũng đánh số,
đề ngày và ký tên cẩn thận. “Chúng tôi đã cấm thiếu nhi không được nghịch bấm
chuông. Nhưng về mặt chủ động, chúng tôi không có điều kiện canh cổng nhà đồng
chí 24/24.
Chúng tôi đề nghị đồng chí gắn cái chuông bấm lên cao quá đầu người thì trẻ con
sẽ không nghịch được.
Kính chào quyết thắng".
Mấy hôm đi qua cổng, để ý thấy trên cổng sắt, chỗ bấm chuông đã gắn nhích lên
lại đặt hõm vào trong tường, trẻ con kiễng chân cũng không tới được. Chắc các
nhà có chuông bấm đã rỉ tai nhau, cổng nào cũng lắp chỗ bấm cao hơn. Các chú
nhóc đành chịu. Không thấy nhà nào có lời cám ơn khối phố có sáng kiến. Tôi
đương phấn khởi việc ấy. Thì tổ thanh niên báo cáo con gái vị thứ trưởng kia
không họp thanh niên, mời ra giúp thiếu nhi phố vui hè cũng không nhận, còn trả
lời kênh kiệu. Chả là các cô các cậu ở các hộ đặc biệt cũng đi học tiểu học các
trường quanh đấy. Chặp tối, tôi cùng nhóm thanh niên đến nhà vị thứ trưởng. Tôi
bảo một hai cậu thủ cái gậy, phòng nhà này có chó béc giê.
Dương bảo tôi:
- Không nên cho con thằng tù vào nhà hộ đặc biệt, anh ạ.
ý Dương muốn nói Xuân, con ông Phong, ông Phong là công chức. Ông bị đi tù.
Người ta nói lờ mờ ông hai mang, ông đã làm cho Tây thời bị chiếm. Tôi ra làm
việc phố, ông Phong vào tù đã lâu. Đến năm ông được tha, tôi cũng thôi trưởng
ban rồi. Ông đến chơi, có ý cảm ơn tôi đã đối tốt với con cái ông. Tôi hỏi:
“Ông phải vắng nhà mấy năm?” - "Thưa cán bộ, mười năm rưỡi". Ông vẫn
chưa quên cách thức thưa gửi trong trại tù.
Tôi trả lời Dương:
- Nó có phải tù như bố nó đâu, nó là thanh niên đường phố.
- Anh làm thế mạo hiểm quá.
Tôi cười.
- Mọi việc Xuân đều đầu tầu. Chôn chuột chết bả, đào sộng Tô Lịch, dạy thiếu
nhi sáng bè tập thể dục, thiếu nó thì rầy rà.
Dương nói theo ý nghĩ:
- Còn bố nó, còn lý lịch nhà nó. Anh mạo hiểm quá. Anh có phải là Nhân Văn
không?
Tôi ngạc nhiên nhìn lại Dương. Dương thì chẳng biết Nhân Văn là thế nào, nhưng
có thể có người đã bảo với anh và Dương đã hiểu Nhân Văn là có tội nặng, cán bộ
nhà văn nhà báo mà lại phải vào hầm mỏ, đi nông trường, phải về công tác khu
phố thì phải là có vấn đề. Buổi họp phố chỉ có các bà nội trợ, trẻ con hay cụ
già, nhưng ở nhà thì chẳng thiếu người hiểu biết, cán bộ các ngành, người đi
họp về kể lại và Dương.
Chắc đã nghe những lời đồn đoán về tôi. Với Dương, cho một đòn thế này thì hết
thắc mắc, và lại phấn khởi là cái chắc, tôi nói:
- Tôi làm việc cơ quan, tháng lĩnh lương, hay được đi nước ngoài, nhà treo bằng
Huân Chương Kháng Chiến Hạng Nhất, anh trông thấy đấy, anh bảo tôi Nhân Văn ở
chỗ nào?
Dương phân trần:
- Có đứa nói láo thế, tôi báo cáo lại với anh.
Xuống đến mọi người thì mọi chuyện đều cứ mơ hồ và cụ thể lẫn lộn lạc ra nhiều
nghĩa khác nhau theo mỗi người. Một lần tôi tiếp ở cơ quan một người cháu
Nguyễn Bính. Chị ấy là đối tượng kết nạp đảng của chi bộ. Có người phát hiện
nhà thơ Nguyễn Bính là Nhân Văn. Hoang mang chẳng biết thế nào, cô đến hỏi cơ
quan chúng tôi. Tôi đã trả lời: “Báo Trăm Hoa của chú Nguyễn Bính cháu không
phải là báo Nhân Văn". Rồi tôi phải viết xác nhận, cô mới chịu ra về.
Chương XII
Bộ máy tổ
chức ta dựng lên thì khoa học, trong ý nghĩ và trên giấy, nhiều cấp và cán bộ
lại thu thập tài liệu và dư luận bằng nghe ngóng. Chu Văn, trưởng ty văn hoá
tỉnh Nam Định được dự kiến đề cử tỉnh uỷ khoá mới. Đấy lên tin đồn anh ấy là
Nhân Văn, thế là bị nhấc ra. Chu Văn viết thư kể nỗi oan và đề nghị can thiệp-
tôi đã được phân công xuống gặp bí thư tỉnh, nhưng rồi cũng không lại được lời
đồn. Can thiệp với dư luận “có tin bảo, có người nói” thì như đánh nhau với
bóng tối, cứ phòng sẵn cho chắc đã. Và cái việc Chu Văn bị dính đến những lôi
thôi mập mờ này, đã làm cho Chu Văn hóa ra cứng rắn khác thường. Những ai đã
công tác cùng Nguyễn Bính ở ty văn hoá Nam Định có thể biết Chu Văn đã quần
Nguyễn đến điều thế nào. Nguyễn Bính về Nam Định rồi quyết định ở hẳn dưới ấy
chỉ vì Nguyễn Bính đã sắp nên vợ nên chồng với cô hàng cà phê thành Nam. Nguyễn
Bính đã bỏ không ở nhà xuất bản Hội Nhà Văn với tôi để xin ra làm báo Trăm Hoa.
Khi Trăm Hoa hết tiền phải đình bản, Nguyễn Bính không còn ở biên chế nào thì
Hội Nhà Văn đã giới thiệu Nguyễn Bính về Nam Định.
Nhưng có giai thoại rằng Nguyễn Bính bị đầy phải xuống xin việc dưới quê,
Nguyễn Bính chỉ được biên tập ca dao, hò vè. Nhưng mấy người biết được thời kỳ
ở Nam Định, Nguyễn Bính đã in nhiều sách trên Nhà xuất bản Phổ Thông ở Hà Nội.
Trường ca Tiếng trống đêm xuân, lại vở chèo Cô Son đương công diễn.
Mỗi lần lên lấy nhuận bút kha khá, tôi được Nguyễn Bính và Trúc Đường rủ đi
đánh chén. Có tiền, Bính đã đưa vợ con về Thiện Vịnh tậu đất, làm căn nhà có ao
cấy cần, có giàn mồng tơi, có vườn cải hoa vàng như trong thơ. Nhưng trong thơ
và ngoài đời không như nhau, chẳng bao lâu thì bán nhà, lại gồng gánh ra tỉnh.
Cái năm Nguyễn Bính mất, tôi đi với Phạm Lê Văn, Bùi Hạnh Cẩn về ăn giỗ trăm
ngày còn được nghỉ trưa nhờ ông chủ sau cái gian nhà tranh tre của Nguyễn Bính
đã tàn tạ như cái lều vịt.. Rồi ở phố cũng không yên, tam tứ phen chửi nhau
đánh nhau, vợ chồng xé đôi chiếc chăn đắp. Cái tờ bướm của ty văn hoá có bài vè
diễu, tiếng đồn là của Chu Văn viết đấy.
Ấy bị thành kiến như Chu Văn rồi người đâm ra lên gân thì cũng là lẽ thường của
miếng võ giữ mình.
Tôi bảo Dương:
- Các cháu chơi hè có liên quan đến trật tự, anh vào đây với tôi.
Nhưng Dương không vào. Không phải vì ngại tôi cứ đi vào cùng Xuân là con người
tù phản động. Mà chắc Dương ngại nếu có lôi thôi thì Dương mất chỗ đi lại Tôi
được biết các nhà hộ đặc biệt Dương thường ra vào. Nhưng lại hay giữ ý. Có nhà
mời tôi đến ăn giỗ. Tôi bảo Dương đi thay. Dương nói: anh cử tôi đấy nhé, không
tự ý tôi, chẳng có chúng nó lại quạc mồm bảo tôi chỗ nào có ăn thì la liếm.
Chị chủ nhà ra mở cổng, mời chúng tôi vào phòng khách. Thứ trưởng và cả nhà ở
trên gác, thấy ánh đèn sáng hắt ra hiên.
Tôi trình bày tôi đến đề nghị cháu ra sinh hoạt thanh niên giúp thiếu nhi khối
phố vui chơi trong dịp hè. Chị chủ nhà vui vẻ:
- Vâng, tôi sẽ bảo các cháu. Công tác hè thì của thanh niên rồi.
Câu nói nhẹ nhàng và trách nhiệm dịu hẳn cái dự định hăng hái phê bình, chất
vấn của mấy cậu thanh niên lúc nãy lăm le. Bây giờ các cậu ngồi im, nhìn tranh
ảnh trên tương.
Tiễn ra cửa, chị chủ nhà hỏi tôi:
- Có phải đồng chí là nhà văn?
Tôi đáp:
- Không phải ạ.
Cũng chẳng bao giờ cô con gái vị thứ trưởng ra họp thanh niên khối, tôi cũng
không biết mặt nó.
Tôi đi tuần tra. Một tốp hai người đeo băng đỏ, tay cầm cái đèn hai pin của đội
dân phòng. Người đi tuần theo cắt lượt. Vào những dịp ngày lễ, ngày bầu cử hay
có khách Chính Phủ các nước đến Thủ Đô. Ai lờ đi hay gọi mãi không ra thì cũng
thôi. Nhưng số người đi tuần bao giờ cũng nhiều. Trưởng ban được chiếu cố không
phải đi quá khuya. Tôi cũng không để ý, mọi người tưởng tôi tích cực, thực ra
chẳng đi tuần thì vào giờ ấy tôi vẫn đi dạo hay là thức đọc sách.
Tôi đã bị bệnh áp huyết tử hồi ấy. Chữa bệnh, mỗi tốì tôi đi quanh hồ ba bốn
vòng. Có khi quá bước lên cả trên hồ Hoàn Kiếm. Một hôm trời rét, trông thấy
trong quầng sáng điện giữa đường một người đội mũ, quấn phu la. Một người đạp
xe đằng sau lưng lên, quơ tay giật cả mũ và khăn quàng. Người mất của đứng ở
ra, rồi kêu: cướp! cướp! Đường thì vắng tanh.
Sau đấy, tôi ngại quá bỏ không đi quanh hồ. Rồi lại đi, nhưng tránh giờ ấy. Đến
mùa hè, tôi để đầu trần. Không phải vì lo mất mũ, mà tôi muốn trật cái đầu hói
ra cho đĩ điếm khỏi mất công hỏi han. ấy thế mà không yên, vẫn bị quấy rầy.
Phó ban Đại hay đi tuần với tôi, có khi tôi rủ, có khi Đại đợi. Chẳng phải đến
lượt đi đôi với Đại, mà Đại thích đi với tôi. Đêm nằm khàn, Đại nhớ bia. Nửa
đêm chúng tôi vào quán Gió hàng bia nhà mậu, uống thả cửa, trả tiền không lấy.
Chả là nhiều khi tôi đi với công an khu tuần tra công viên tới đây vẫn uống
thế. Năm trước, tôi đi Pnôm Pênh, buổi sáng thấy người đội xếp dẫn bố mẹ, vợ và
lũ con ra nhà hàng ăn hủ tíu, uống cà phê xong rồi đứng dậy về. Tôi cười cái
thời ông hoàng Sihanuc chẳng ra thế nào, thì bây giờ cái chẳng ra thế nào ấy
hiện về đây và chúng tôi cũng hoá ra người đội xếp Pnôm Pênh. Có những lần tôi
kéo cả Nguyên Hồng, Dương Bích Liên đi thưởng thức cái lộc của trưởng ban.
Tôi vào trong phố. Phố đêm vắng vẻ thấp thoáng bóng cây. Các phố này không buôn
bán, không cửa hàng cửa hiệu, ban ngày cũng như bấy giờ, vỉa hè không so le
nhấp nhô bàn ghế hàng quán. Giữa bóng tối lặng lẽ, trong tôi bao nhiêu ý nghĩ
vật vờ ngổn ngang. Mới năm nao mà đã ra hơn năm mươi năm qua, tôi đi trong đoàn
người thất nghiệp từ phố Dã Tượng kia rẽ vào sân cỏ nhà Đấu Xảo mít tinh ngày 1
tháng năm 1938, mỗi khi nhớ lại còn ám ảnh trong mắt ánh màu lá cờ đỏ bay đằng
trước. Rồi tôi bị bắt vào xà lim sở Liêm phóng, chỉ bên kia tường cái phố cụt
nhà tôi bây giờ.
Mấy đêm nằm sàn xi măng, chân bị cùm, trước khi phải giải xuống đề lao Nam Định
đối chất việc tổ chức Văn hoá Cứu quốc.
Rồi cuối 1946 toàn quốc kháng chiến, tôi làm phóng viên báo mặt trận Hà Nội.
Đêm ấy trú ở một nhà trong phố bờ hồ Thiền Cuông, cả phố đã đi hết bỏ nhà
hoang, thành phố không người. Không nhớ đã ở nhà nào, hay nhà ấy đã bị bom đạn
phá huỷ, chỉ nhớ các bãi cỏ dọc bờ hồ ngày ấy là những luống khoai lang, những
bụi cây chuối. Thành phố đương kêu gọi mọi người tăng gia chống nạn đói. Tiếng
xe bọc sắt, xe tăng đằng phố Duy Tân ầm ầm trổ xuống. Sớm hôm sau, đến ban chỉ
huy đơn vị chiến đấu đóng bên phố Khâm Thiên cạnh trạm gác của địch ở nhà dầu
Sen biết tin đoàn thiết giáp Pháp từ trong thành ra tới ngã tư đầu hồ, chiến sĩ
quyết tử Nguyễn Thành đã ôm một quả bom ba càng lao ra cản đường. Tôi đã viết
tin ấy gửi về báo Cứu Quốc.
Chỗ nào cũng mờ chồng lên những chuyện cũ, chuyện mới. Tôi vẫn đương đi qua các
phố. Tôi nhớ lại... tôi đương đi như bây giờ. Tôi ở trong làng đến năm ngoài
hai mươi tuổi thì đi kháng chiến lên Việt Bắc ngót mười năm, rồi trở về thành
phố cũng đã chừng ấy năm, bây giờ đến sinh sống tại phố này, đi tuần, đi họp
phố chẳng khác trai tráng ngày trước đi hộ đê, đi việc làng, đi dạy truyền bá
quốc ngữ, đi khiêng đòn đám ma...
Rồi mỗi hôm đến cơ quan tôi là toà nhà ba tầng, ngày ngày mở cửa sổ ngồi vào
bàn, các thứ cuộc họp nối nhau, rồi lĩnh lương, đi uống bia, uống rưọu mà vẫn
thấy lạnh lẽo thế nào. Đời bàn giấy làm nhạt nhẽo cả ngòi bút.
Chẳng bao lâu đã lại đến cuối năm. Việc dồn dập, đương bình cứu tế lại đến
những tờ hướng dẫn kê khai, lên danh sách tem phiếu mua lương thực, tôi phải
thuê các cháu học sinh giúp rà soát, đối chiếu...
Phố này nhiều cán bộ công nhân làm các cơ quan và nhà máy khác nhau. Cái năm
mới về, nhà bỏ không, nhà treo bảng cho thuê, cứ vào hỏi, cứ đến ở. Có một số
nhà vắng chủ thành phố cũng lắp người ở. Mới thật, nhưng cái ở cái ăn bấy giờ
cũng chưa phải đáng lo.
Chúng tôi còn mải kéo lũ đi loăng quăng nhìn đây nhìn đó dẫu tôi trước kia đã ở
Hà Nội. Kỷ luật tiếp quản Hà Nội không được la cà hàng quán. Tôi đi công tác
chống di cư ở Phúc Nhạc về, vào hàng chén bát phở, sau mới biết không được thế.
Kỷ luật chặt quá, đến lúc không giữ được lại hoá lung tung. Khác nào nhiều nhà
đón người họ, người làng cho ở, qui vì đi kháng chiến về, lại cũng sợ nhà rộng
bị qui tư sản, đến lúc ở lâu rồi sinh rắc rối, kiện tụng nhau. ở khối, ban hoà
giải tôi đã mất nhiều công về mấy vụ này.
Mới dần dần biết trong những số nhà có người mới về có những nhà đã ở đây lâu.
Người làm thuê, người thất nghiệp, người chạy chợ, mỗi nhà một nỗi nhưng đều
không phải đã ở thành phố nhiều năm, nhiều đời, mà số đông là những người di
chuyển theo thời thế.
Họ ở trong làng ra hay năm trước đã hồi cư về. Chiến tranh tràn lan, ở quê
không thở được, phải nhao ra tỉnh, đến khi Tây rút đi, còn ta thì đi đâu, đi
đâu chẳng phải lăn lưng làm, thế là đâu vẫn đấy.
Có những nhà dường như khá giả - vẻ người thành thị, lối ăn mặc và cách ăn nói,
cho là sắp lên tư sản đến nơi, thế là không dám giao thiệp. Ông ấy thắt cà vạt
đội mũ phớt, giày đánh xi bóng, quần là phẳng.
Tôi đội mũ lá cọ, mặc đại cán đôi khi đánh quần áo nâu, mùa rét thêm cái áo
bông ka ki kẻ múi trám kiểu Liên Xô. Chúng tôi đồng loạt thế.
Người đi họp phố đông, đông nhất là những bà con ở trong này, ai cũng muốn biết
chính phủ thế nào, bởi đều phấp phỏng nghe những đồn thổi quái lạ: thịt con gà
phải đi báo cán bộ, ai cũng ra quét đường, hót rác, móc cống. Nghe ghê ghê thế
nhưng bảy giờ a lô! a lô! tổng vệ sinh, người ta cầm chổi ra quét cái hè, cái
rãnh trước cửa, thấy chẳng có vẻ khác mọi khi.
Bà con giờ mỗi nhà chỉ cắt một người đi họp chứ cái hồi mới giải phóng thì vui
lắm, cả nhà cùng đi.
Đến bây giờ ra làm việc khu phố và đi họp chỉ còn, chỉ có các bà trung niên,
các bác thợ may, công nhân khuân vác ngoài ga, có nhà cho trẻ con hay người già
đi cốt đủ đầu người. Nhiều người không biết trụ sở khối đâu. Thật ra thì cũng
khó biết, vì nó chỉ là một căn phòng trong một nhà ở.
Nơi họp, một gian nhà mượn, hàng ngày nhà chủ để làm gì không biết, tối nào báo
họp, đến đã thấy gian phòng quang đãng. Trưởng ban bảo vệ Dương tới sớm, mở cửa
sổ, kê mấy băng ghế dài, một cái bàn và mắc lên giữa nhà một bóng điện.
Người đến lác đác, tổ trưởng phải đi gọi từng nhà, có hôm hơn tám giờ còn thưa
thớt. Tôi báo cáo công việc xong phó ban Đại nói thêm mấy câu giải thích dài
dòng rồi giải tán. Lao động công ích đào sông Tô Lịch. Cấm thả rông chó. Danh
sách đợt đi nghĩa vụ quân sự. Lĩnh thuốc bả chuột về phải nhốt mèo, nhốt gà cẩn
thận. Giới thiệu danh sách tổ hoà giái. Các nhà treo cờ ngày Quốc tế Lao
động...
Hộ nào cũng có người đi họp đã thành lệ, nhưng cũng thành tật đến đúng, đến
muộn tuỳ tiện. Có người hay kề cà, cũng có người đi làm ca kíp về còn lo cơm
nước. Có người rỗi rãi hẳn hoi cũng cứ đà đận đợi tổ trưởng gọi giục.
Tôi đặt thành giờ giấc bảy rưỡi đánh kẻng thì tám giờ họp. Có mấy người tôi
cũng cho họp và đến lúc nghe còi ủ thành phố báo chín giờ thì tan họp. Dần dần
thành thói quen, người ta chịu khó đến đúng giờ.
Khi thành phố bỏ còi ủ để tránh lẫn với còi báo động thì tôi xem đồng hồ, chín
giờ đương nói, đương còn việc cũng ra về, để hôm khác bàn tiếp.
Cái máy móc giờ giấc ấy cũng hay hay. Nhưng cũng có khi làm tôi ngượng, tội
nghiệp. Tôi mới đi Liên Xô về anh Nguyễn Xiển bảo đến câu lạc bộ đảng Xã Hội
nói về quyển Dải đất hẹp của Brơ-giê-nep vừa được giải thưởng Lê- nin. Tôi thật
có duyên tai ách với quyển này. ở Matxcơva, báo Sự Thật đã mời tôi viết bài phê
bình. Hà Nội chưa dịch in hồi ký Dải đất hẹp, mới có một đoạn trích dịch ở hoạ
báo Liên Xô, hai bản tiếng Pháp, tiếng Việt, nhưng báo này dịch nhạt nhẽo, tôi
không mấy khi đọc. Thế mà tôi vẫn viết được bài cho báo Sự Thật. Nhà văn Marian
Tkchốp dịch, được đăng trang nhất báo, nhận nhuận bút một trăm rúp. Tôi thưởng
sáng kiến và nhiệt tình khuyến khích tôi viết của hai bạn Marian và Misen,
phóng viên báo Tin Tức đã ở Hà Nội nhiều năm, chúng tôi đi uống vốt ca, ăn thịt
cừu nướng rồi đến nhà hát Digan. Mẹ của Marian khen tôi “bây giờ làm to dám viết
về Tổng bí thư”.
Đến câu lạc bộ đảng Xã Hội, tám giờ tôi bắt đầu nói, vừa chín giờ nghe còi ủ
tôi cám ơn các bạn thính giả xin hết lời và bước xuống bục. ở đây, chẳng ai nói
tan sớm thế. Có người còn chưa đứng dậy. Tôi thì ngỡ đương họp ở khu phố!
Nguyễn Xiển hỏi tôi:
- Cậu say rượu à?
- Không, nói hết chuyện rồi..
Tôi không nói tôi quen cái đồng hồ ở khối phố, tôi đã nhầm giờ giấc. Ngồi họp,
tan họp đúng như nhau, đầu tiên lấy làm lạ rồi “còi chín giờ đã giải tán” ai
cũng ra về, bà con thích thú cái sự về sớm ấy nhiều hơn nhớ công việc.
Hôm ấy bàn tổ phục vụ nấu bánh chưng tết thì có lo cơm nồi nước sôi như mọi
ngày không. Bấn việc đấy. Nhà nào thì gửi gạo, đưa lá dong và phiếu thịt rồi
chỉ việc nhận bánh, nhà nào gói lấy rồi thuê luộc.
Tôi hô hào các nhà ra nhờ tổ phục vụ, nhưng nhà tôi thì vẫn nấu lấy cho các con
tôi vui nồi bánh, tôi thì nhớ ngày xưa. Bắc nồi ra giữa sân bếp, vợ tôi đèo củi
về. Nhà mậu bán củi phiếu, nhưng toàn củi rều vớt ở sông Cái, củi cành xà cừ
còn cả lá, “Ông nhà nước” vơ vội củi Tết mà phải đem phơi, sang giêng mới đun
được. Nhà tôi có năm thì bác Ba trên Nghĩa Đô đèo củi gộc tre xuống cho, có khi
mua củi gốc cây, của những người đi chặt cây thuê trong phố, củi này chắc và
đượm lửa, ninh bánh chưng được rền.
Con gái con rể tôi làm ở bệnh viện, mượn về nồi hấp và ống truyền, những thứ để
thay cây nửa tép đục đốt với cái mu rùa, nồi đồng hai mươi. Tôi nấu rượu Tết,
đổ mốc men thơm cả sang hàng xóm. Cấm nấu rượu, mà tôi nấu để uống. Vả chăng,
nhà trưởng ban nấu rượu lậu, ai có biết chắc cũng chỉ thấy vui.
Nhưng tôi cũng chỉ nấu có một mẻ. Không phải ngại tai tiếng mà bởi rõ ràng làm
lấy, bố con ủ men, ống thuỷ tinh nước rượu lên sạch sẽ, mả ra rượu nếm vừa đắng
vừa khét, rượn chính phẩm lại như rượu rởm.
Không phải cứ có các thứ chính cống và đồ lề hảo hạng thì ai cũng nấu ra rượu
ngon, nếu thế thì tài nang vứt đi rồi.
Trưởng ban bảo vệ Dương báo với tôi tình hình an ninh cuối năm từng ngày.
- Phố còn một nhà nuôi chó. Phải triệt, không nhỡ ngày tết mà chó cắn ai thì
lôi thôi.
- Bảo nó thịt hay bán đi, mà phải thịt sớm, tết nhiều nhà kiêng thịt chó.
Hôm sau, Dương đến lắc đầu.
- Tôi nói nó không nghe. Vừa đi ra nó còn chửi theo: tiên sư chúng mày!
Tôi ngờ chưa chắc đã phải thế. Dương hay kéo tôi di cùng. Cái khoé và cũng là
hãnh diện của Dương.
Có người mách, mấy chị quảy thúng bán ô mai, củ sắn luộc, kẹo vừng ở cửa trường
học Dương cứ lấy ăn tự nhiên lại phải đút tiền cho Dương mới được đỗ gánh ở
đấy. Đêm Dương đi tuần, đem về trụ sở cái mũ cát, đôi dép râu bảo có đôi trai
gái đứng xó tường đằng kia, thấy người chúng nó bỏ chạy. Có hôm sáng sớm Dương
xách đến nhà tôi cái khung xe đạp. “Kẻ trộm tháo hết phụ tùng rồi vứt khung xe
ra đường. Lôi thôi quá, ta lại phải trình báo". Dương lẩm bẩm thế rồi lại
vác cái khung xe đi, chẳng biết có trình báo hay đem xuống chợ Giời, tôi cũng
không xét nét hỏi lại.
Bọn dân phòng nói với nhau: “Nhà lão những ba bốn cái tàu há mồm. lúc nào cũng
hong hóng thì phải xoay cái ăn chứ". .
Dương đưa tôi vào một nhà cuối phố, tôi cũng chưa vào trong này lần nào, phố
ngóc ngách quá. Lô xô những nhà một tầng, nhà hai tầng chĩnh chện, nhà này chỉ
có mái giấy dầu một phía ghếch vào đầu tường.
Nhà nuôi chó có hai vợ chồng, một ông bố và hai đứa con. Vợ chồng đi làm, hai
con đi học. Bố ở nhà cơm nước. Tôi ngỡ con chó cũng thằng nhôm thằng vện lau
nhau, không ngờ con chó ta mà to như chó bẹc giê, đứng cao ngang đầu gối ông
lão.
Thấy khách vào nhà, ông lão vuốt vuốt một cái, con chó nằm mọp ngay xuống cạnh
chân ông. Người con cầm cái xích có cổ dề ngoằng xuống, dắt chó vào nhà trong.
Anh ấy nói nửa thật nửa đùa:
- Nó quái lắm. Nó mà nghe các vị bàn tán bán chó thịt chó, nó xông ra đợp các
vị đấy.
Tôi ngại quá. Con chó khôn mà giằng cái xích mỏng mảnh kia ra thì làm thế nào.
Thỉnh thoảng tôi nhìn vào góc nhà, nhưng rồi lại không dám, hình như con sọm
già đương đụng đậy tai, nghe nghe. Nhưng chắc nó chả hiểu câu chuyện đương nói.
Tôi khen:
- Cụ nuôi được con chó to nhỉ?
- Thưa ông, đem trong quê ra đã ba năm nay. Cơm canh trẻ con rơi vãi, gọi là
chó làm cảnh ấy mà. Nó có ý lắm, biết là ở phố chật chội, ai vào trông thấy mới
biết nhà có chó. Nó chỉ rũ lông, không rít, không bao giờ cắn thành tiếng.
Tôi giải thích:
- Nhưng ở nông thôn khác ở thành phố, cụ ạ. ở thành phố không được nuôi chó.
Nhỡ phải con chó gió nó cắn tung lên thì khốn nhiều người lắm. Thuốc tiêm chó
gió phải cầu kỳ tiêm vào rốn, mà đắt tiền.
- Tôi không cho nó đi đâu bao giờ.
Dương láu táu chêm:
- Nó cắn ngay người nhà ấy chứ, chó dại mà.
Người con trai ở trong nhà ra, sẵng giọng:
- Xin phép ông trưởng ban, anh Dương nói đổ xuống sông xuống bể, phỉ phui, con
chó cũng không nghe được.
Dương đứng lên, giơ gậy. Gã kia xông đến. Tôi nói to:
- Trật tự nào!
Tôi còn giảng giải một lúc về cái vô tích sự nuôi chó trong thành phố. Người
con trai hầm hầm vào trong buồng, ông lão ngồi yên. Lát sau, ông lão chắp tay:
- Thưa ông, ông nôi thế cháu đã nghe ra, để rồi nhà cháu xin thu xếp.
Thật cũng khó khăn và khổ tâm, lão thu xếp thế nào. Gọi lái chó vào hay mấy nhà
quanh đây đánh đụng. Nhưng nghe ông lão nói nhà cháu thu xếp, coi như đã ổn,
tôi đứng dậy.
- Cụ làm ngay, cụ ạ. Năm hết tết đến rồi.
- Thưa vâng.
Rồi có lúc ngẫm nghĩ, tôi cứ áy náy. Con chó vàng to như con Bô Tô ngày trước
bố tôi nuôi. Bố tôi đi Sài Gòn, để con chó ở nhà. Ông ngoại qui Bô Tô, nuôi Bô
Tô nhiều năm đến khi già, Bô Tô ốm chết thì đem chôn, mấy hôm tôi khóc nhớ Bô
Tô. Thế là ông lão sợ, nhà lão đem bán chó, nhà lão sẽ gọi đụng. Cứ bảo tết nhất
ăn thịt chó hãm tài, nhưng năm ngoái, hôm ba mươi, ông Hộ trên Nghĩa Đô đã đem
xuống cho nhà tôi đôi bánh chưng nhân thịt chó, nhà túng, không có tiền mua
thịt lợn. Chẳng sao, tôi không sợ xúi quẩy nhưng gói cái bánh chưng nhân thịt
chó thì nghèo túng đến rớt mồng tơi rồi. Nghĩ xa nghĩ gần, vấn vơ.
Dương gặp tôi.
- Nhà nó giải quyết xong con chó rồi.
- Thịt à?
- Nó đem gửi, dắt đi chiều qua.
Tôi cười:
- Thịt hay đem gửi cũng là con chó khuất đã mắt rồi. Đừng làm lôi thôỉ người ta
nứa.
Dương không nói gì. Ông lão gửi con chó, có thể con chó không chết. Tôi nhớ
mang máng ngày trướcTây cho nuôi chó trong thành phố, nhưng chó ra đường phải
buộc mõm, luật lệ Tây ở đây hay tôi đã đọc trong truyện thấy nói như thế ở bên
Tây. Giấc ngủ tôi chập chờn. Buổi tối, tôi vào nhà ông lão. Thấy tôi, lão chắp
tay, vái một cái..
- Báo cáo ông khỏi bận tâm...
- Ông đem gửi chó rồi chứ gì.
- Không, giết rồi ạ.
Tôi hỏi:
- Thế a? Tôi đến nói cho ông biết có thể nuôi chó.
- Nhà nước cho nuôi chó?
Tôi lại nhớ thêm: ngày trước thằng Tây đi chơi, dắt con chó cái rọ da đóng vào
mõm, bên cạnh có con đầm cầm bó hoa loa kèn trắng. Tôi nói
- Con chó phải có khoá mõm mới được ra đường.
- Chó nhà cháu quanh năm ở trong nhà.
- Vậy là được, nhưng mà làm thịt mất nó rồi.
- Từ hôm nọ cán bộ chẳng bảo nhà cháu.
Thế là nhà này thịt mất con chó. Nó dắt đi thịt chứ không phải đem gửi. Con chó
vàng to đẹp thế, đã vào bụng người cả, hoài của.
Một chặp tối rét co ro. Có tiếng gõ cửa khẽ. Tôi mở cửa, thấy ông lão tay cầm
cái xích. Con chó vàng cao lớn, quanh lưng xuống tận bụng buộc mảnh khố tải như
áo ấm, cái rọ da to xủ đóng quanh mõm. Ông lão cúi chào rồi hỏi tôi:
- Báo cáo ông thế này được chưa, đúng luậ t chưa ạ?
Tôi còn ngẩn người. Con chó hay hồn ma con chó, thế là thế nào? ông lão nói như
trả lời băn khoăn của tôi:
- May quá, nó sắp thịt.
Rồi ông lão vuốt đầu, ghé vào tai con chó, nói thầm:
- Con lạy ông nào!
Con chó bị đóng rọ mõm khuyu hai chân trước xuống, đến lúc ông lão lại vuốt nó,
con chó mới đứng lên như lúc nãy.
Con chó giỏi như người, hơn người. Tôi buột miệng:
- Tài quá.
- Thưa ông, nó ngoan, dạy được ạ.
Tôi nhìn theo ông lão dắt con chó, đóng cửa rồi vẫn như còn trông thấy ông lão
và con chó trong bóng tối rét mướt xa xa. Ông lão bảo giết chó rồi cơ mà, hay
là con chó ma, chó ma mới khôn thế.
Dương đến nói như khoe:
- Nhà nó lại đem chó về.
Tôi bảo:
- Chó ra đường phải rọ mõm. Ông lão ấy đến báo cáo tôi rồi.
Nói xong, tôi lại chột dạ. Dóng rọ mõm, không biết nhớ có đúng không. Dương
không hỏi thêm. Một tối, mừng cuộc họp đầu năm, có hai bao Tam Đảo, hộp mứt bí
nhà mậu điểm mấy cục đường giả làm hạt sen, quà Tết tiểu khu gửi xuống. Ông lão
đến cạnh tôi:
- Báo cáo ông, tôi đã nộp hai đồng tiền thuế nuôi chó cho ông Dương.
- Ai bảo ông đóng thuế chó?
- Ông Dương ạ.
Tôi không bực mình Dương làm tiền tợn quá, mà tôi nghĩ lại mọi việc tôi thật
chậm hiểu hơn Dương và hai bố con ông lão nuôi chó. Chỉ có một con chữ mà người
ta múa rối, người ta đánh phép, tôi đần độn đi. Xử sự, đối phó, giải quyết...
vẩn vơ trong đầu thế thôi rồi tôi lại nghĩ bãi ra và tự yên ủi rằng việc gì
cũng quấn vào mình thì có đến ba đầu sáu tay cũng hết hơi. Vả chăng, lại năm
cùng tháng tận đến rồi, cho nó kiếm chác đôi chút.
Lẫn lộn với giấy tờ và bản thảo, một đệp biên lai, một cặp tem phiếu gạo và
thực phẩm, một hộ mấy người trẻ con và người già, người không biên chế nhà
nước, mỗi người một từ, chưa tính các hộ độc thân. Vẫn chưa đủ so với thống kê.
Mai phải đi lĩnh đợt nữa. Sai số hay thừa thiếu thế nào, tôi lấy làm lạ trong
ngần ấy năm làm tem phiếu, ký sổ, ký tờ rời không thấy trên hỏi lại, truy lại
lần nào. Chẳng lẽ tôi lại chỉ có đúng, hay là không biết chừng trên đã có sổ
cái, đã dò đã chữa hộ tôi. Ký miên man nhất vào các kỳ tem phiếu, phóng hàng
nghìn chữ nguệch ngoạc, đến bây giờ chữ ký tôi chưa run nét có lẽ cũng nhờ
những năm, những dịp luyện tay kịch liệt này..
Lại họp cán bộ cơ sớ, cả sáu tổ trưởng tổ phó, một đệp việc:
- Triệt để không còn chó thả rông, chó không tiêm phòng dại.
- Thông qua đăng ký đợt 1 tiểu thương (cua ốc, ngô luộc, chè tươi), tiếp tục
lên danh sách các tổ.
Liên hoan tiễn 2 chiến sĩ tân binh, lên khu lĩnh 2 gói chè Hưong Sơn, 5đ mua
kẹo bánh.
Việc đột xuất: mức nước cuối thình lình lên báo động số 2, một tổ xung kích dân
phòng đi thường trực.
Dương cặm cụi sổ sách thì cô người hỏi. Chẳng ra giờ giấc gì cả. Đi cơ quan thì
họp, bè bạn thì ở quầy bia bọt chiều chiều, khách trưa khách tối người khu phố,
đêm đọc sách và đi ngủ lẫn lộn, không biết có ngày chủ nhật.
Vào cửa, một chị với hai đứa bé trạc năm, sáu tuổi. Ba mẹ con gày gùa, trong
ánh đèn mà cũng nhìn được nước da xạm, bởi những con mắt trong leo lẻo khác
thường. Dáng chị quen quen, chắc hay gặp đi họp phố.
- Thưa bác, mẹ con cháu đến xin bác...
- Việc gì thế?
- Có cái tem phiếu...
- Tem phiếu phát theo năm mới dương lịch mà.
- Cháu chỉ xin trước bác một tờ.
- Sao lại một tờ?
Thưa bác, nông nỗi nhà cháu...
Nghe chị kể, chị làm y tá cơ quan. Vừa rồi, đi khám, bị chớm bệnh lao. Hai
tháng nay nghỉ chữa bệnh, vẫn được lương. Hai con trai đứa lớn mới lớp bốn.
Chồng cũng y tá, nhưng đi tiêm tư. Anh ta bỏ nhà biền biệt cả năm, không biết
đi đâu.
- Năm ngoái, cháu đã xin được, bác cho.
- Anh ấy nhận phiếu ở cơ quan nào?
- Không, nó ăn vào hộ khẩu ở nhà. Cháu phải bán phiếu của nó lấy vài đồng...
- Ngộ Tết anh ấy về thì sao?
- Mẹ con cháu cấm cửa nó rồi..
- Mà sao lại bán tem phiếu của nhà nước. Bán ở đâu?
- úi già, bác không biết chợ tem phiếu đông hơn chợ Đuổi dưới Vân Hồ. Cán bộ
lĩnh tem phiếu rồi đem bán ngay, nhiều lắm.
- Rồi cả năm xoay xở làm sao?
- Chỉ xin trước bác tờ phiếu của nó thôi, còn phiếu cả năm của mẹ con cháu thì
khi nào túng mới phải bán.
- Chị nói, tôi thông cảm hoàn cảnh. Hôm nào có thì tôi cầm đến cho.
Thật ra tôi đã có phiếu, nhưng tôi không dám đưa xé lẻ. Chị ta đã nói bịa “năm
ngoái bác cho", như thật.
Trưa hôm sau, tôi tạt vào nhà chị ấy. Mới nhận ra tôi đã biết ngõ này có một bác
đạp xích lô quê Thái Bình lên Hà Nội từ năm 14 tuổi, năm nay trên năm mươi mà
chưa về lại quê lần nào. Bác làm nghề xe từ thời kéo xe bánh sắt chỉ được vào
đến đầu ô Khâm Thiên. Thuê xe lùn của cai Mơ, cai Mơ người nhăn nhó như thằng
bả gà, mà giàu nứt đố đổ vách. Bây giờ, bác có cái xe xích lô của nhà, về thì
xích vào sau cột vách. Xăm lốp nhà mậu bán cung cấp. Mua chui xích Pháp, mới
toanh chưa bóc giấy bóng. Đi họp nói toang toang cứ như bác ấy thì trên đời chỉ
có đạp xe xích lô là sướng nhất, vì “không có ai đè nén” được.
Qua cái mái tôn nhà bác xích lô yêu đời, đến nhà chị ấy. Cái mái vảy ghếch vào
lưng tường nhà bên cạnh, nước mưa ẩm rườn rượt mặt tường nổi rêu tối như cái
hang. Ba mẹ con ở nhà, ngồi trước cái lò đun bằng giấy vụn, lá xà cừ.
Mẹ con nhà này trông ban ngày mới khiếp sao. Những đứa trẻ mặt ơ hờ như ngái
ngủ, người mẹ ngôi rúm ró, đầu gối trắng nhợt lồi ra như hai củ đậu. Đêm trước
mới chỉ nhìn thấy những con măt ho lao của người mẹ, con mắt trong veo bây giờ
sáng rợn lên.
Chị ấy run run đứng dậy, nói:
- Bác đem phiếu cho các cháu.
- Chưa có đâu. Nhân tiện đi qua, tôi vào thăm ba mẹ con. Đun nồi gì đấy?
Người mẹ lặng yên như không nghe tiếng. Thằng bé lớn nhanh nhảu mở nắp cái
xoong. Nồi rau muống đã sôi, mấy hạt cơm nhào lên nhào xuống trên mặt rau. Gọi
là nồi cháo rau hay là nồi rau cháo cũng thế.
- Cơm trộn rau à?
Cái cười héo trên mặt người mẹ. Nhà cháu quanh năm cháo rau thế này, cũng quen
rồi.
Chị lại kể về cái chợ tem phiếu ở trên đê. Không phải chỉ có tem phiếu đem bán,
mà người ta mua tem gạo, bán lại ngay đấy cho người khác. Đổi chác cò con thế
mà cũng có cai đầu dài, có buôn đi bán lại. Nhưng công an dẹp dữ, đương vơ vẩn
vỉa hè, thoáng thấy bóng áo vàng đã biến sạch. Tôi chưa biết mặt mũi những cái
chợ nhỡ độ đường này.
Tôi đưa chị ấy năm chục bạc.
- Cháu cám ơn bác, cháu không dám lấy.
- Tôi cho vay thôi. Bao giờ có tem phiếu bán thì trả, tôi không lấy lãi đâu.
Chị cứ cầm.
Tôi đã ra tận vỉa hè, ngoảnh lại còn thấy những con mắt nhìn theo, trắng nhả
như mắt người da đen ở tranh dân gian nước Kênia châu Phi.
Dương đi với một anh thấp bé, đội mũ tai bèo đã đứt một bên dây quai. Cái quần
lính vá hai miếng đầu gối, nham nhở vết dầu, tay anh ấy cầm chiếc vành xe đạp.
Chưa hỏi, đã biết anh nghề chữa xe.
- Giới thiệu anh: đồng chí Mẫn thương binh. Anh Thắng cán bộ tiểu khu bảo khối
ta nhận đồng chí Mẫn về làm phó ban bảo vệ.
Dương thêm một câu nịnh “anh Thắng cán bộ tiểu khu”, mặc dầu không có Thắng ở
đây và Dương đã quên mọi khi Dương vẫn khoe không cần phó chỉ một tay Dương làm
hết, xong hết. Mà Dương nói:
- Công tác nhiều, tôi mong có người đỡ. May quá.
Tôi và Mẫn chỉ chuyện một thoáng đã ra đầu đuôi.
- Anh Mẫn thương binh mặt trận nào?
- Khu Năm.
- Bao nhiêu lâu?
- ở trong ấy hơn ba năm.
- Thế thì đã đánh nhiều trận lắm..
- Cũng phiêu lưu sơ sơ vài trận thôi. ở ngoài này đi bộ ba tháng vào đến nơi
được bổ sung cho tỉnh Phú yên. Đi các xã huấn luyện, xây dựng dân quân. Hôm ấy
đi vác gạo đến bờ sông Ba thì lộ. Trực thăng quần, định móc lên bắt sống cả
bọn. Tôi nhảy xuống khe suối va vào đá, chết ngất. Tỉnh dậy, thấy nằm ở trạm
quân y tiền phương. Gẫy xương đùi, mảnh đạn bây giờ còn nằm trong vai, tay này
không giơ lên được. Anh trông tôi bước lê lê.
- Thế mà ra được tận ngoài này.
- Đâu chẳng đi được. Ra Bắc an dưỡng, nằm mấy tháng ở nhà dân trên Vĩnh Yên rồi
tôi xin ra quân.
- Anh đi nghĩa vụ ở phố hay ở cơ quan?
- Nhà máy xe đạp.
- Sao không trở lại nhà máy?
- Chúng nó bảo tôi mới ở tổ hợp tác vào nhà máy, khi đi bộ đội chưa vào biên
chế thì bây giờ nhà máy không phải nhận.
- Lạ nhỉ?
- Cần gì! Tôi lại ra vỉa hè chữa xe đạp. Công an đuổi, bực quá. Tôi thấy không
ai dám đuổi công an, tôi vào bốt xin làm công an. Các ông ấy cho tôi xuống đây
- Đây là ban bảo vệ thôi, không có lương.
- Ban gì cũng cân. Cốt ngồi đầu đường chữa xe đạp không đứa nào dám đuổi là
được rồi.
Tôi đùa vu vơ:
- Yên chí lớn!
Mẫn đi nửa buổi trở về với một cái xe đạp không có yên, không có xích - xe chỉ
để dắt. Khung xe buộc hai cái vỏ phuy xăng, trong lỉnh kỉnh kìm, búa, lắc lê,
lọ nhựa, mảnh sắt để vá chín, bó nan hoa. Đầu chiếc bơm xe đính cái hoa ni lông
đỏ. Chất lên trên tất cả, một thùng gô có khoá, trong đựng, mọi thứ gia tài và
quần áo. Mọi đồ chữa xe dở ra ngổn ngang vỉa hè. Các nhà trong phố đã biết anh
phó ban bảo vệ mới, tối anh ngủ nhờ vỉa hè nhà có mái hiên.
Ngay tối hôm ấy, tôi với Mẫn lên đê sông Hồng. Báo động số mấy không biết..
nước đã vào lưng đê. Mùa kiệt mà nước lên, quái thật. Lối xuống bãi đã lấp,
những chiếc xe lội nước của bộ đội đứng trấn đầu đê. Các tổ xung kích khối phố
lên cắt canh từng quãng, đề phòng kẻ gian phá đê.
Hầu như ở mỗi gốc cây bên cột đèn điện buộc một con bò, những con bò người dưới
bãì nuôi để kéo xe đã chạy nước lên đây. Bò đứng nhai thong thả một đống cỏ tươi.
Một người đạp xe tới, hạ xuống cái thùng phuy, đổ ra một chậu đầy bia, vừa mua
ở quầy. Con bò đứng uống bia, nó oàm oạp một hơi cả chậu, xem ra con bò khoái
bia như người.
Tối hôm sau, tôi lại đi với tổ dân phòng lên đê. Báo động vừa được báo tin khẩn.
Bởi không có báo động số 4, đến số 4 thì nước tràn đê vào phố rồi. Những ngấn
đo nước 12m6, mà mặt bằng đê thành phố 13m50.
Mấp mé lắm, còn 90 phân nữa thì nước ngang mặt đê. Trông vào phố, vẫn êm ả như
không. Những chiếc xe lội nước của bộ đội đứng im như cái gò đất. Con bò buộc
gốc cây thong thả nhai cỏ, lại có ông bò với cái chậu bia, tiếng uống, tiếng
thở oàm oạp. Hè phố bên, tôi mới nhận ra những dãy lều bạt của người dưới bãi
chạy lên. Một đám cắt tiết những con ngỗng. Đằng kia đương mấy chỗ cạo lông
lợn. Gà qué và lợn đem dưới bãi lên, phải chạy nước dài ngày, không nuôi nữa.
Trên trời, máy bay lên thẳng lấp ló ánh đèn bay tuần nước cả đêm.
Cuộc họp cuối năm sớm nhất để xin cứu tế cho người thiếu đói, kịp phát trước
Tết. Kinh nghiệm lập danh sách cứ ghi cả chục người, trên cho ngữ từ hai đến
bốn, nài thì được thêm một. Con số như thế, chọn ra bình bầu, cân nhắc, đã
thống nhất thì viết tên và lý do túng đói rồi gửi lên. Kể ra người thiếu thốn
khó khăn thì nhiều cả nút không biết hết. Bề ngoài, cũng chỉ thấy được bề
ngoài, bởi vì ở phường phố đèn nhà ai nhà ấy rạng, lại là những nhà tứ chiếng
ghép lại, khác ở trong làng xóm đã bao nhiêu đời thuộc nhau, cho nên cứ lên
danh sách rộng ra rồi bàn, rồi trên cho thì vừa.
Có cô Đàng và Thắng tiểu khu cũng về họp, họp xong cán bộ Thắng đến nhà tôi,
xuống bếp, có mấy con dao phay, dao rựa, anh cầm đi tất. Vài hôm sau đem trả,
lưỡi con dao nào cũng sắc như nước. Tôi đùa: “Cứ thấy ông đến thu dao thì biết
là sắp Tết. Ngày trước anh làm quân giới, phải không?”. Tôi hỏi tôn lên thôi,
chứ tôi doán anh làm ở lò sát sinh vì để ý thấy dao phay, dao bàu mổ lợn được
mài sắc hơn. Anh cười hì hì, không trả lời. Anh tên là Thắng, gọi là Thắng tiểu
khu để khỏi lẫn với cụ Thắng điếc. Cô công an khối phố chưa bằng tuổi Đan Hà
con gái lớn của chúng tôi Cô Đàng người Quảng Trị, bố cô hoạt động bên kia giới
tuyến, vợ con được gửi sang Vĩnh Linh. Mẹ và các em còn bé, ra làm ruộng ở Nghệ
An. Cô được học trường trung cấp công an, học xong ra Hà Nội tập sự. Phố tôi ít
phức tạp, cô được về đây. Đến năm thống nhất, cô lấy chồng đồng hương, cùng
ngành lại cùng quê, vợ chồng chuyển vào Tây Nguyên, nghe nói rồi công tác ở Đắc
Lắc.
Trong số người phái cứu tế tôi đề nghị có Dương ban bảo vệ. Kể ra đưa tên người
làm việc vào thì dễ bị nói mình lại chia phần cho mình, nhưng cả Đại cũng không
phản đối, lại vun vào: “Công tác khối phố, cơm nhà vác tủ và hàng tổng, ông
Dương thi cơm nhà cũng còn khó khăn, phải có cái cứu tế như cái thưởng cuối năm
ấy mà". Cán bộ Thắng và cô Đàng không nói gì.
Năm nay, tôi thêm Mẫn. Mẫn từ chối ngay: “Chữa xe đạp cũng có ăn rồi. Khi nào
đói thì tôi đem thẻ thương binh lên bộ Quốc Phòng, đừng lo cho tôi".
Chỉ một cụ Thắng năm nào cũng giơ tay: “Tôi có ý kiến. Tôi không đồng ý cứu tế
anh Dương. Anh ấy đã làm ban bảo vệ, thế là cán bộ rồi". Cụ Thắng điếc
ngồi họp câu được câu chăng, tuỳ cái máy nghe, nhưng cụ lại hay nói. Có lẽ cụ
Thắng ngỡ Dương cũng đi làm cơ quan có lương. Mọi người đều bằng lòng đề nghị
Dương, không ai để ý cụ Thắng phản đối. “Bàn với cụ điếc thì đến mai cũng không
xong. Cho qua". Khi thấy xung quanh đứng lên, ý kiến mình vẫn treo lơ lửng
hay giải quyết rồi không biết, cụ Thắng cũng chống gậy đứng lên.
Cụ Thắng về hưu, ở cơ quan nào tôi không hỏi. Thiệt thòi cái tai điếc đặc chứ
cụ Thắng tích cực lắm.
Đương bàn mở lớp Bình dân Học vụ, cụ Thắng đã yêu cầu định ngày chiến dịch đánh
chuột để cụ lên lịch đi lĩnh thuốc bả. Mọi việc cụ lo, cụ đều nóng nảy, sốt
sắng. Tuy chưa khuya, nhưng cũng chẳng ai muốn nói đến chuyện chuột bọ vội, cụ
Thắng cũng cất máy nghe vào túi xách, bước ra theo tôi.
Về nhà tôi, cụ Thắng lấy máy nghe đeo lên tai rồi hỏi tôi:
- Anh có biết anh Lệnh không, Trương Văn Lệnh.
Tôi ghé miệng, hét vào tai cụ Thắng:
- Tôi biết, tôi biết.
- Anh ấy mà còn sống thì tôi khác bây giừ rồi. Tôi vào Đồng Chi hội với Trương
Văn Lệnh, tôi là đảng viên trước khi đảng ra đời. Thế mà bây giờ tay không. Tôi
chẳng đi vào uẩn khúc. ở tuổi cụ, việc quen Trương Văn Lệnh có thể có. Không
dưng, ai biết tên rõ ràng như thế được. Nhưng lan man từ ngày xưa trở về bây
giờ, thế thì... Việc khu phố chỉ có tối mắt lại làm, làm mà thôi.
Có một người dân phòng vào gọi:
- Ông ơi! Có tiếng trẻ con khóc ngoài hồ. Đứa nào vứt trẻ con xuống hồ.
Mùa đông, chưa quá chín giờ, đã im ắng như khuya. Cụ Thắng thấy tôi đứng dậy,
cụ lặng lẳng về. Tôi chạy ra cùng mấy người nữa. Cái tin ghê gớm quá, mà đứa
vào gọi đã đi biến - nó sợ lôi thôi, hay nó đùa ác, hay lả nó trông ga hoá
cuốc. Trên bờ đã lố nhố người. Mặt hồ mênh mang, sương buông mủ mịt, tôi cũng
chợt nghe một tiếng e é như tiếng kêu chẹt chân, chẹt tay, rồi im. Làm sao lội
ra được, trời rét thế này. Ai ra mượn thuyền đằng nhà thuyền. Một người chạy.
Giữa lúc ấy, tiếng Dương nói to:
- Kia kìa, trăng trắng kia kìa.
Thoáng gần ánh điện, bóng trăng trắng trên mặt nước thật. Dương đã lấy đâu được
cái câu liêm. Dương men xuống bờ hồ cạn nước, gạt đưa được cát trăng trắng ấy
vào, nó là cái nón trôi ngửa. Hai tay Dương bưng chiếc nón lên. Dưới chân cột
đèn, nhìn rõ trong nón một cái thai cuộn mớ rẻ bê bết máu. Vừa còn khóc, chắc
là tiếng kêu cuối cùng. Cái xác đã lạnh như hòn cuội. Nhiều người xúm lại.
Người nào đã nhanh tay gài mấy nén hương lên chân cột đèn. Mùi hương ngai ngái,
đã ra mùi hương đám ma.
Dương bảo Mẫn:
- Tôi cời được cái nón lên, thế là xong nhiệm vụ phần tôi. Bây giờ tôi đi báo
công an tiểu khu.
Mẫn khẩn khoản:
- Tôi xéo vào xác thằng Mỹ, thế mà tôi hãi thây trẻ con. Anh Dương làm nốt, tôi
đi báo công an.
Chẳng đợi Dương trả lời, Mẫn đi luôn. Dương chép miệng:
- Việc gì phải lôi thôi, cái thằng Mẫn bê quay thì làm chó gì. Cho tôi mượn xe
đạp, tôi đem luôn cái này đi lên khu báo cáo rồi bỏ xuống nhà xác Bạch Mai.
Sáng mai anh hỏi tiền bồi dưỡng công tác cho tôi.
Dương nói dễ như bỡn và rồi làm ngay. Chỉ bực Dương hay ganh tỵ, chỉn người
khác giữa chỗ đông. ừ, cái thai cung như con chuột chết, như cục máu. Anh An
dân phòng về dắt hộ cái xe đạ p của tôi ra cho Dương mượn, tay cầm thêm một bó
hương đã cháy nghi ngút. Dương gói cả cái nón vào miếng ni lông rách, ai đã đem
ra cho. Dương buộc cái gói, nịt vào dây cao su, với cả nắm hương đương cháy,
nhảy lên đạp đi.
Người đã về cả, bờ hồ lại vắng lặng. Mặt nước sẫm như bóng tối, đôi chỗ ánh
điện lung lay. Đã gần nửa đêm. Cái nón trên gói cục máu hon hỏn. Cái nón còn
mới, nón của nó đội. Không biết đứa con gái ấy con cái nhà ai, phố nào.
Tự dưng tôi nhớ bài thư Cái thai hoang của Trần Huyền Trân và những chuyện
buồn.
Tôi ít tuổi hơn Trân, nhưng một lứa hoạt động văn hoá cứu quốc ở Hà Nội thời kỳ
chuẩn bị Tổng Khởi Nghĩa rồi được kết nạp vào Đảng ở những cơ quan khác nhau
cùng quãng những năm 1945, 1946.
Cách mạng thành công, Trần Huyền Trân được phân công về sờ kiểm duyệt làm kiểm
duyệt về sân khấu - Nguyễn Công Hoan thì báo chí, Như Phong văn thơ.
Chỗ làm và công việc vẫn giữ như tổ chức thời Tây, thời Nhật. Đến kháng chiến,
Trân công tác về sân khấu, lên Việt Bắc phụ trách một đội kịch lưu động của Nha
thông tin. Đội kịch đi diễn những đâu mấy tháng, khi trở về, Trân bị chi đảng ở
Nha khai trừ đảng viên vì đã mất ba kỳ sinh hoạt. Trân giận dỗi, bỏ về với cơ
quan văn nghệ bấy giờ đương ở Yên Dã ( hay Yên giã? ? ? ? ) huyện Đại Từ trên
Thái Nguyên. Trong công tác sân khấu, Trân không ăn ý với Nguyễn Huy Tưởng,
thường trực cơ quan.
Trân lại bỏ đi, lênh đênh đâu mất mấy năm. Tôi chỉ nghe tin Trân yếu phổi, bị
ốm rồi về ở trong núi chỗ Đa Năng. Suối Đa Năng ngang giữa chặng đường Tuyên
Quang sang Thái. Bên Tuyên xuôi Bình Ca đến bến Chương - để tránh máy bay, rồi
vào cánh rừng Đa Năng. ở đấy có lối xuống Thiện Kế chân núi Tam Đảo, có đường
rẽ vào châu Tự Do an toàn khu của Trung Uơng, thẳng thì qua Đèo Khế sang huyện
Đại Từ đi Thái. Đa Năng, chặng dừng chân của lái buôn Tuyên - Thái, của cán bộ
đi công tác, của những đoàn quân chủ lực lên Tây Bắc. Chiến dịch giải phóng Tây
Bắc 1952, tôi theo Trung đoàn Thủ Đô xuất quân từ Kép Le ngoại ô thị xã Thái
Nguyên qua Đèo Khế sang Đa Năng ra bến Bình Ca đi Yên Bái ngược sông Thao vào đèo
Khau Vác xuống tấn công tiêu diệt tiểu khu Nghĩa Lộ.
Trần Huyền Trân ở phía trong Đa Năng, túp nhà tựa vách núi đá. Chỗ ấy cách dòng
suối to hay ngọn sông Phó Đáy - cảnh xinh xinh như non bộ. Trân có cái tài làm
cho chỗ ở thế nào ở đâu cũng gọn, cũng ưa mắt. Nhà tranh vách tre trúc, vườn
cải, rau muống cạn ra bến đá. Sau này, Trân về ở Nam Đồng cũng vẫn cái nết đẹp
ấy. Giữa phố phường huyên náo mà tựa như làng xóm, cửa sổ nhìn ra vườn, sau dậu
trúc lưa thưa đưa lại mùi hoa sen, lá sen ở đầm nước xa xa. Những chậu cảnh,
cây cảnh, cái ống bút, hòn đá chặn giấy trên bàn trông đều hay hay. Kim Lân
cũng một tính đáng qui ấy. Mấy chục năm nay ở gian nhà như trong hang mà tề
chỉnh lồng chim, cây cảnh đâu ra đấy. Kim Lân đùa triết lý: “Không chơi với
người, nhát người thì vui thú con chim cây cảnh vậy".
Ngày ngày Trân ngồi câu bên suối, chỗ ấy tốt cá lắm. Năm 1954, sau chiến thắng
Điện Biên Phủ, sắp trở về, Lành giao cho tôi đi tìm một số văn nghệ sĩ không ở
hẳn cơ quan nào, cùng về tiếp quản Hà Nội.
Tôi đã đến “thảo lư” ở Đa Năng của Trần Huyền Trân. Tâm sự ông Lã Vọng với cái
cần câu thời thế. Nhưng chẳng thắc mắc gì, Trân đi ngay.
Trân đậm nghệ thuật chèo nhất. Có phải những nghĩ ngợi và tâm trạng mấy năm náu
mình đã đưa Trân đến mê chèo. Về thành phố, Trân lo nghệ thuật của đoàn chèo Cổ
Phong. Và cho đến cuối đời, dẫu có khi tham gia quản lý văn hoá văn nghệ thành
phố miếng nghề của Trân vẫn là chèo..
Tôi có vở kịch nói Giáng Kiều - loại kịch tôi viết để đọc. Trân bảo để Trân
chuyển thể sang chèo. Tôi đã xem chèo Thạch Sanh của Trân. Khi Trân dựng Giáng
Kiều, đến đoạn kết, tôi không biết nói thế nào, dẫu không được như ý mà cũng
không muốn nói. Tú Uyên đã lấy được Giáng Kiều, Trân thể hiện thực thà như đếm.
Giáng Kiều khuyên can, nhưng Tú Uyên không bỏ được rượu. Giáng Kiều thất vọng,
Giáng Kiều lên tiên rồi lại thương, lại trở về đoàn tụ.
Kịch tôi viết kết thúc khác. Tú Uyên được Giáng Kiều, nhưng Tú Uyên không hiểu
được Giáng Kiều chính là lý tưởng của mình. Thế là Giáng Kiều bỏ đi. Có lý
tưởng nhưng tâm hồn ta thấp hèn thì lý tưởng cũng bay mất.
ở rạp Đại Nam, băng quảng cáo Tú Uyên- Giáng Kíều, tôi bảo Trân đừng đề tên tôi
cùng tác giả - Trân đã đề quảng cáo. Vì ngay cách Trân đưa tên Tú Uyên sóng đôi
với Giáng Kiều đã làm xa thêm Giáng Kiều của tôi rồi. Bên hàng rượu bà quán 73
cạnh rạp Đại Nam, Hoàng Trung Thông đương gật gù rượu suông với tôi Thông nói
như vừa nghe sang rạp: “Chúng ông uống đây mà rạp hát bên kia tường chúng nó
đương chửi những thằng uống rượu. Hay! Hay! ”. Thông không xem và không biết
trong kịch những bợm rượu của tôi chỉ là cái cớ. Tôi bảo Thông: - Không, người
ta không chửi đứa uống rượu. Thông hỏi: Thế chửi đứa nào? Tôi nâng chén lảng
chuyện khác. Bởi không phải Thông hỏi thế rồi sang ngay rạp xem sân khấu chửi
ai. Còn Trân thì lận đận và thôi hăng hái đã lâu rồi.
Trân viết theo góp ý và có khi Trân không nghe ra. Hay nghe ra mà mỏi tay,
không để tâm viết lại. Vả chăng, xưa kia, dẫu Trần Huyền Trân đã viết nhiều câu
thơ rất hay về rượu với Tản Đâ, nhưng Trân cũng không phải những hũ rượu như
Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Đinh Hùng.
Năm 1957, thành lập hội Sân khấu Việt Nam. Trân vào thường vụ được cử phụ trách
tuần báo Sân Khấu, ra được vài số. Phải khi xảy ra Nhân Văn, Trân chẳng bận bịu
đến, nhưng đòn hội chợ đương được đà, Trân cũng tai bay vạ gió. Tờ Sân Khấu
không tên không tuổi bị chết bất đắc kỳ tử. Trân cứ mờ dần, ngụp dần, khô héo
đi, chỉ còn áo quần tuy giản dị, nhưng bao giờ cũng trang nhã.
Trân đã gõ nhiều cửa xin phục hồi đảng tịch. Xung quanh khối người lầm lỗi bề
bề, mà lấp liếm, dối trá, khéo ăn khéo nói họ đã được trở lại. Tôi cũng đã xác
nhận giúp Trân nhiều lần. Mãi chẳng được, đến độ Trân không muốn nhớ, muốn nhờ
nữa. Chỉ có cái lỗi hai ba kỳ không sinh hoạt chi bộ, mà việc xảy ra đã ba bốn
năm rồi và từ ngày ấy vẫn công tác, vân hoạt động mà không được trở lại đang.
Người rầu rĩ, càng âm thầm mãi đi.
Nhưng dù cố quên, thì số phận cứ đeo đuồi, cứ hành hạ. Trong nghệ thuật, anh
chỉ buộc tội to nhất đến nhân vật bị ma men ám ảnh, thi trong đời, sấm sét đã
khủng bố cả thân phận, cả hình hài anh.
Anh chị đông con, có một con gái học khá, được ra nước ngoài học cao học. Cháu
đã yêu một thanh niên nước ấy. Một năm nghỉ hè, nó về Hà Nội, có ý ướm hỏi gia
đình, nhưng xem ra bố mẹ không đậm.
Hồi ấy dan díu với người nước ngoài còn là cái xấu, cái lo lắm. Chúng nó cạn
nghĩ thế nào mà khi trở lại bên Hung, con bé đã quyên sinh vào ngày sinh nhật,
ngày cha mẹ đẻ ra nó. Thằng kia cũng đem cái chết của mình để tạ lòng người
yêu, chết luôn. Cái lọ đựng tro đứa con gái được gửi về, anh chôn dưới chân
giường ở Nam Đồng. Một hôm, nhà cháy. Chẳng biết có bới được lọ tro khốn nạn ấy
không. Chỉ có mẹ Trân, bà lão thọ cả trăm tuổi ngồi tính từng ngày, đợi cháu,
hỏi bao giờ cháu về.
Trân lâm bệnh hiểm nghèo rồi mất. Những tháng ngày cuối cùng của anh, tôi không
dám vào thăm. Nhìn trong hố mắt đen xạm nước mắt rỉ ra tôi không thể nhìn, tôi
không nỡ dày vò tâm tư anh khổ cực đến thế. Bệnh hoại thư đã lấy của anh mất
hai bàn chân, rồi đầu gối, rồi dỡ đến cả xương đùi, anh chỉ ngồi lên được giữa
cái săm ô tô.
Lê Quang Đạo đến nhà viếng Trân. Bí thư ban cán sự đảng thành phố thời bí mật
trong bóng tối đã từng qua lại cái lều vó bè cúa mẹ Trân ở Cống Trắng. Trong
mái tranh, Trân đã cất những tờ báo Cứu Quốc, báo Cờ Giải Phóng. Nhớ cái tình
của người đồng chí thuở ấy, nhựng mấy ai thấu được cuộc đời Trân trầm luân đến
thế.
Tôi thơ thẩn bên hồ đến mãi khuya. Những trang đời cũ mờ mờ trên mặt hồ sương,
hay là mưa, trong mưa còn cái bóng trăng trắng trôi bài thơ Cái thai hoang.
Hôm sau, cô Đàng đến hỏi: “Tối hôm qua có đứa trẻ con bị vứt xuống hồ, hả
bác?”. Cô Đàng trên tiểu khu xuống hỏi, thế là Dương không đi đến nơi rồi.
Dương vứt cái xác vào đâu. Tôi bảo cô Đàng:
- Đồng chí Dương đã lên trình khu. Cái thai chết ngoài hồ từ lâu.
Cô công an mở sổ ghi sự việc. Một chốc, Dương đem trả xe đạp, khuyết mất ba cái
nan hoa. Tôi hỏi:
- Đêm qua trình công an chưa?
- Tôi trình ngay rồi. Anh nhận tiền bồi dưỡng cho tôi không có thì anh cho mấy
chữ, tôi lên lấy.
Mẫn lắp cho tôi nan hoa mới. Mẫn bảo:
- Cái thằng tù sổng chỉnh tôi là bê quay sợ xác chết, là thẻ thương binh giả,
còn nó...
Đứa nào đã hớt lẻo với Mẫn rồi. Tôi nói:
- Đâu có!
- Nó nói chỗ gốc cây, anh đứng đấy. Thằng tù sổng, tôi sẽ truy giấy tờ bắt nó
đi tù thật mới được.
Mẫn đã chữa xong. Mẫn nhảy lên, đạp đi thử một vòng rồi cúi xuống bơm dầu vào
xích..
- Tôi sợ cả chuột chết. Cũng khỉ thật. Hôm lên đê chôn chuột chết bả, tôi
nhường cho thằng Dương đi đào hố. Anh tưởng tôi làm thế để giúp cho một mình
thằng Dương được nhận mấy xuất bồi dưỡng. Không, tôi ghê chuột chết. Cái thằng
tù sổng, tôi phải làm cho ra nhẽ, nó không yên được với tôi.
- Thôi, đoàn kết làm việc.
- Tôi không đoàn kết với thằng phản động.
- Được rồi.
ở cơ sở, tất tật mọi việc lại dội xuống, thuế nhà đất tiêm phòng dịch, dẹp hàng
rong, bộ mặt xã hội và cuộc sống thu nhỏ trong tổ dân phố. Tôi hay nói được
rồi", “yên trí", “để đấy", nói nhiều quen miệng. Mai rồi mai lại
việc khác đè lên. Không quên, mà gác lại Chẳng làm thì rồi cũng tới, cũng xong,
không dở dang, cứ đưa đẩy, chống chế. Công việc cao su đã thành thói quen và cứ
thế, cứ thế, ngày tháng qua.
Làm đảng uỷ, lại công tác thường trực. Hà Nội mời giúp, tôi giữ một chân ở hội
Văn Nghệ và, với cơ cấu ban ngành của thành phố, tôi phó chủ tịch Mặt Trận phụ
trách văn xã (đến tận bây giờ 1997) và tôi uỷ viên hội đồng nhân dân. Các công
việc cứ đi thành luồng chẳng bận vướng nhau. Cuối năm, đoàn kiểm tra văn xã của
Mặt Trận, ban Nếp Sống Mới đi xem xét tĩnh hình lễ bái, mê tín. Tôi làm mọi
việc, có ý nghĩ như tôi đọc sách.
Sang giêng, mở lớp học chữ quốc ngữ. Không bỡ ngỡ, tôi đã mấy năm chăn các lớp
truyền bá ở quê.
Chỉ khác thời Tây thì làm dấm dúi, bây giờ thành phố cấp không cho học viên giấy
bút, biết chữ rồi mở thêm lớp chống tái mù. Cụ Thắng là giáo viên, là trưởng
ban, là cổ động viên đi gọi học từng nhà. Bàn ghế và tiền điện, lớp ngay ở trụ
sở, không phải đi quyên đồng nào. Mẫn bảo tôi bắt Dương học lớp tái mù. Dương
chỉ biết vạch một chữ ký, không biết đọc, đích xác thế.
Mẫn nói Dương là ban bảo vệ, Dương phải học. Dương lắc đầu:
- Tôi không xấu hổ đâu, dốt thì tôi đi học. Nhưng bận quá, việc tư việc công
vắt lên cổ, học không nhớ nữa. Thôi thì có bằng nào chữ thì phục vụ bằng nấy.
Người đến học ngồi kín chỗ, lại còn người ngấp nghé đứng ngoài. Hai lớp mới đủ,
lại thêm lớp ở trụ sở dân phòng, đèn điện bắc ra cả vỉa hè. Tôi lên lĩnh bút
giấy về phát cho học sinh, buổi đầu tiên cũng là khai giảng.
Cả mấy chục người hai lớp mờ cùng một lúc. Mỗi người nhận tập giấy, cái bút
quản gỗ có ngòi, lọ mực xanh Cửu Long, như trẻ con đi học. Các bà các chị,
người ở nhà, người chạy chợ, ông phó may, ông thợ cúp, người khuân vác ngoài
ga... Rồi đến hôm bế mạc mà còn chục người đã là kết quả. Lớp truyền bá ngày
trước cũng thế, không thể giữ đầu voi, nhưng được cái đuôi chuột đã quí. Tôi đã
nghĩ trước thế, sao cũng lắm người mù chữ nhỉ?
Tôi phát biểu khai mạc. Nhìn mặt nhiều vị mọi khi đi họp thế mà hoá ra không
biết chữ. Chỉ được cái bẻm mép tán gẫu. Người ta nhận xét tôi kỹ lưỡng đến tức
cười. “Lúc ông ấy nói, ông ấy có cái gân nói nối với gân chân, cứ đương nói lại
nhấc một bên gót.
“Các bà để ý mà xem". Bà xe gạo nói oang oang thế lúc đợi khai giảng. Tôi
cũng để ý tật tôi. Quả là khi nói, chốc chốc tôi lại nhấc một bên gót chân. Tôi
đương đứng nói. Bỗng “choang” một tiếng, vỡ cái bóng điện tối om. Nhớp nháp
trên trán, tôi sờ thấy ươn ướt, nhưng ngửi không tanh, không phải chảy máu.
Chánh phó bảo vệ chạy sục vào trong ngõ. Có người lấy ngay cái bóng đèn ra cho
mượn. Mẫn về nói:
- Một thằng vọt ra phố ngoài.
Dương hoảng hốt: “Quân phản động phá hoại... Anh có làm sao không?”. Tôi cúi
nhặt được nửa quả mõ ném vào mặt tôi. Quả mõ đã chín nát nhoe nhoét, trơ cái
hạt cứng. Trán tôi sưng bằng quả ổi. May. Nếu nh ích xuống một tý nữa thì trúng
vào mắt. Về nhà, vợ hỏi, tôi bảo: "Điện tắt, đi vấp trán vào tường".
Ai ném, đứa lưu manh ngứa tay hay đứa phá lớp, để nó khỏi phải đi học, nó uất
ức thù hằn tôi hay người nào, đoán già đoán non cũng không ra được căn do. Tôi
chỉ lạ quanh đây không có cây mõ, phải lên tận bờ hồ Hoàn Kiếm, cạnh chỗ mấy
cây lộc vừng mới có mỗi một cây mõ cổ thụ, mà chắc cũng ít người biết đấy là
cây mõ, cây rừng.
Những lớp học bình dân mở ra vẫn kĩu kịt mỗi năm một kỳ thi tốt nghiệp. Quả là
về sau vắng nhiều, nhưng cũng đến dạo báo động có máy bay Mỹ ngày nào cũng vào
trinh sát thành phố, các nhà hát, rạp xiếc bị cấm tụ tập, các lớp mới nghỉ học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét