Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

HỒI KÝ HOA XUYÊN TUYẾT CỦA BÙI TÍN - KỲ 1


Tôi kính tặng cuốn sách nầy: 


Tất cả những người Cộng Sản, Quốc Gia, Không đảng phái, các tôn giáo... bị tù đày, bị đàn áp, bất công và oan ức do các chế độ thực dân, độc tài, độc đoán, đô/c đảng và chuyên quyền.


Các chiến sĩ kiên cường đang đấu tranh cho một nền dân chủ - đa nguyên.

Các bạn trẻ thân yêu trong cả nước sắp đưa tổ quốc vào kỷ nguyên dân chủ, tự do, hòa hợp và phát triển.
Paris, Thu 1991

Thành Tín

LỜI MỞ ĐẦU CỦA TÁC GIẢ

Các bạn đọc thân mến!



Sau khi tôi đưa ra "Bản kiến nghị của một công dân", nhiều bạn bè khuyến khích tôi viết một cuốn hồi ký, kể lại cuộc có ích cho sự đổi thay của đất nước, tôi đã viết một mạch liền đời mình và những suy ngẩm bản thân. Với ước vọng việc làm này sẽ trong cuốn sách này. Tôi khởi đầu trong những ngày đầu xuân Tân Mùi 1991 ở Paris, khi những lớp tuyết dầy mùa đông tan dần, vô vàn, những đóa hoa bật dậy từ những hạt mầm im dưới băng giá, xuyên tuyết (tiếng Việt ta chưa có tên), dịch theo tiếng Pháp: perce-neige.

Hình ảnh của hoa xuyên tuyết cổ vũ tôi suốt cuộc hành trình đi ngược dòng đời tôi, cũng là đi ngược một phần nào cuộc hành trình của đất nước, để nhớ lại và suy ngẩm...

Tôi viết với niềm tin rằng lẽ phải, tâm huyết và sự hiểu biết của tất cả những người Việt có tấm lòng ưu ái với đất nước, dù cho có gặp những hoàn cảnh khó khăn đến khốc liệt, cuối cùng cũng sẽ bật dậy trong một cuộc tập hợp rộng lớn và xúc động, cùng đua Tổ quốc thân yêu vào một mùa Xuân mới của đoàn kết, dựng xây và phát triển.

Tình hình đất nước Việt Nam ta đang làm băng khoăn lo lắng mỗi con em đất Việt ở trong và ngoài nước. Cuộc khủng hoãng về mọi mặt dai dẳng đè nặng lên cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân, từ trẻ em, phụ nữ, người già, người nghĩ hưu, người tàn tật để các thương binh trong chiến tranh ở các phía...Người lao động, bà con nông dân, anh chị em trí thức, văn nghệ sĩ...ngày đêm mong mỏi một cuộc đổi thay tốt đẹp, đất nước sớm thoát khỏi cảnh nghèo nàn, chậm tiến về chính trị, kinh tế và đời sống thoát khỏi hỗn loạn và bất công xã hội.

Tôi viết cuốn hồi ký này trong sự tĩnh tâm và tĩnh táo. Nhớ thế nào kể thế ấy, nghĩ thế nào viết thế ấy. Tâm niệm lấy sự thật làm nội dung. Tôi coi những trang sách như những buổi tâm sự cởi mở và chân thành với bạn đọc, đặc biệt là những bạn trẻ trên mọi miền của đất nước, với lòng mong mỏi từ những chuyện của quá khứ đầy biến động có thể gợi mở những suy nghĩ phong phú về hiện tại và tương lai của Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

Mong muốn tốt đẹp ấy vấp phải những khó khăn về hoàn cảnh sống, về thời gian eo hẹp của người viết chỉ dựa vào trí nhớ và nhất là do tầm nhìn còn hạn chế, một cách viết còn vụng về, xin được sự lượng thứ của bạn đọc xa gần.

Paris 5 tháng 6, 1991

Thành Tín


Đã 15 năm nay, từ những ngày Hòa Bình, nhiều nỗi đau giằng xé lòng tôi. Những nỗi đau không vật chất, không thể xác. Những nỗi đau ngấm sâu trong tâm linh. Không phải nỗi đau của sinh, lão, bệnh, tử. Dù cho lưỡi hái của Tử thần đã kề cổ tôi vào đêm 2- 6- 1989 ấy trong một cơn nhồi máu cơ tim cực hiểm.




Đó là nỗi đau của tinh thần, của trí tuê... Lý tưởng xâm nhập tôi tự nhiên, sâu sắc ở tuổi 18. Tôi sống từ đó lạc quan, hừng hực cả thời tuổi trẻ. Vào bộ đội, nhẹ tênh, phơi phới, chỉ một bộ quần áo cũ, một chiếc áo len nâu cụt tay, thủng một lỗ ổ bên ngực. Đại đội trưởng ở dịch hậu (hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng, Quảng Trị), khi chưa tới 19 tuổi, lo chuyện súng đạn, gạo, muối, lo chuyện trinh sát đồn địch, dẫn anh em đi phục kích, chan hòa với đồng bào sống dọc những bãi cát, sung sướng với củ khoai luộc ăn cùng cà muối của các bọ, các mạ (các bố, các mẹ), cũng có hồi cả đại đội bị sốt rét, bị bệnh ghẻ lở sâu quảng- những vết lở tròn sâu hoắm- mà vẫn vui hát náo nức trong các buổi lửa trại quân dân... Nhiều lúc vuốt mắt cho đồng chí, xé lòng tiễn đưa cậu đại đội phó Dung, cùng dân học trò, bạn thân, để sau đó lại phơi phới, hăm hở, lao vào những trận đánh mới dọc đường số 9, từ Khe Sanh lên Lao Bảo, rồi Sê- Pôn, Mường Phìn... Nghĩa làm trai, thời buổi loạn lỵ Mang sức trẻ đền bồi non nước... Lòng yêu nước, tình đồng chí, nghĩa đồng bào, lòng tự tin dân tộc, niềm tin vững chắc ở chính nghĩa... là nguồn vui sống đẹp của cả một thời tuổi trẻ. Vào đảng ở tuổi 19, tôi tuyên thệ dưới ánh đèn dầu mãi mãi trung thành với lý tưởng: Giải phóng nhân dân, giải phóng nhân loại. Ôi, thật là sung sướng, là hạnh phúc trong đấu tranh và tin tưởng. Cuộc sống sôi nổi mà giản đơn, lẽ đòi vằng vặc sáng trong, không gợn chút ngần ngại băn khoăn...

Từ sau 1975, sau những ngày hoan hỉ tràn đày hứng khởi, vào tuổi gần 50, tôi sinh ra nghĩ ngợi, đăm chiêu, lòng chẳng thấy mấythư thái và thanh thản. Những câu hỏi khá gay gắt cứ xoáy sâu vào tâm trí để tìm sự lý giải của chính mình, đúng ra là tìm sự lý giải về số phận của đồng bào mình. Lạ vậy, khi chiến đấu căng thẳng, vất vả, cuộc sống nội tâm khá giản đơn, còn trong hòa binh mới thật lắm chuyện, mà lại những chuyện lạ lùng, khó hiểu, cần tìm cho ra nhẽ.

Đã bao lần tôi thầm thốt lên: ôi! Số phận của con người!

Cuộc chiến tranh đã hao phí hàng triệu sinh linh, đều là con em đất Việt, đồng bào ruột thịt cả. Để làm gì? Để đến nỗi này chăng? Nói là giải phóng đất nước, giải phóng đồng bào, mà sao hàng trăm nghìn người lại phải vào ngồi tù trong các trại tập trung cải tạo, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn ngày, với biết bao tủi cực và khổ đau... Nhân danh lẽ phải? Nhân danh lẽ công bằng? Nhân danh cách mạng? Tôi chẳng sao lý giải nỗi nữa!

Và cách mạng, hy sinh, chiến đấu để làm gì? Để sau toàn thắng, cuộc sống của nhân dân ta còn lầm than, bi đát hơn cả thời chiến tranh, để Nguyễn Du sống lại sẽ còn phải khóc cho thân phận hàng chục vạn nàng Kiều hiện đại, đang nhan nhản trên các hè phố Hà Nội, Sài Gòn khi nắng chiều vừa tắt,...

Tôi đã vào Campuchia ngày 7- 1- 1979 cùng một mũi tiến quân lớn của bộ đội Việt Nam, sáng sớm đến sân bay Pochentong, trưa vào Hoàng Cung và sau đó vào sứ quán Tàu, ngôi nhà lớn nhất của Pnompenh. Hàng vạn người gầy ốm, ghẻ lở, ngơ ngác như ở địa ngục trở về, lang thang suốt hơn 3 tháng trời trên các nẻo đường cát bụi, không giầy guốc, giữa nắng gắt và mưa rào. Những hố chôn người tập thể rộng lớn, những cánh đồng đầy đầu lâu, xương sọ vỡ của những người bị đánh chết, ám ảnh tôi hàng chục ngày đêm ròng rã... Tất cả những điều rùng rợn ấy là từ một chủ trương "xây dựng một xã hộ cộng sản trong sạch nhất, công bằng nhất, tinh khiết nhất... "Tôi sững sờ tìm đọc và nhờ mấy anh bạn Cămpuchia dịch những tập nguyệt san lý luận "Cờ đỏ" xuất bản trong những năm 1977 và 1978 để hiểu rõ những cơ sở lý luận của những hành động tột cùng man rợ ấy, suy nghĩ về khả năng tha hóa đến mức nào của những tư duy bệnh hoạn.

Sau đó, tôi sống trên các chốt tiền tiêu dọc biên giới Cămpuchia, Thái Lan với người lính " tình nguyện " Việt Nam, 2 chữ tình nguyện này ngày càng trở nên khó nghe và mĩa mai đối với tôi, chúng tôi chắt từng giọt nước đọng trên lá chuối và lá cây báng súng vào chiếc đĩa nhôm để uống, lau mặt và nấu cơm... Trên những chuyến bay định kỳ An- to- nốp 24 của Liên xô, tôi từng trở về thành phố Hồ Chí Minh cùng anh em thương binh ta, phần lớn bị cụt một hoặc hai chân do vấp mìn cá nhân của Trung Quốc chế tạo, ở bên trong biên giới. Có hôm cùng chờ với anh em trong nhà chứa máy bay ở sân bay Pochentong, tôi tranh thủ làm một cuộc phỏng vấn điều tra nhỏ. Cả 16 anh đều là con em các gia đình nông dân ở Long an, Trà Vinh và Long Xuyên. Không một ai là con đảng viên, con cán bộ cả. Những cuộc điều tra tiếp theo làm tôi sững sờ và day dứt không nguôi. Thì ra gánh nặng của cuộc chiến tranh này đè lên vai một tầng lớp xã hội nằm ngoài quyền lực! Con cái của các quan lớn nhỏ hình như không phải sinh ra để đi làm cái "nghĩa vụ quốc tế cao cả" này, như chính cha anh họ không ngớt loan truyền. Các gia đình "thượng lưu" về chính trị đã có nhã tâm "nhường" lại vinh quang này cho kẻ khác, cho những người thấp cổ, bé họng trong xã hội, để giành lấy phần mình cái "gánh nặng" lo lắng cho con em đi xuất ngoại, nghĩa là gánh nặng " tiền " và " hàng " về cho gia đình. Những bất công xã hội đang lan rộng một cách cụ thể nhãn tiền như vậy đó... Những nấm mộ quân " Tình Nguyện" Việt Nam rải rộng từ bến Sỏi (Tây Ninh) đến Hồng Ngự, Long An, từ ngoại ô Pnom Pênh đến Xiêm Riệp và Bát tam bang, ở Pai Lin, Xằm Lốt... ám ảnh tôi suốt hơn 10 năm! Đã có tới 52 ngàn liệt sĩ và gần 200 ngàn thương binh Việt Nam cần có chính sách trợ cấp, từ giải đất Khờ Me bất hạnh này!

Đi trên đường phố Hà Nội những năm này là chịu một sự tra tấn tinh thần dữ dội và triền miên. Trẻ em gầy còm, nói năng tục tĩu. Các chị phụ nữ hốc hắc, tức tưởi, đăm chiêu, cống rảnh ngập ngụa. Đây đó, bất cứ lúc nào, đều có thể bùng nổ những cuộc cãi cọ, chửi bới, đánh đập, đến cả đâm chém, thanh toán lẫn nhau... Cờ bạc, số đề, trộm cắp, đĩ điềm, hút sách nhan nhản... Tôi ở số nhà 221 C Khâm Thiên, một phố sầm uất từ thời xa xưa, nay là phố thợ may với gần 200 hiệu bán và đo may quần áo. Tôi có những người bạn lâu năm khá thân thiết, qua đó có thể bắt mạch được xã hội theo nhu cầu của người viết báo. Đó là một anh công nhân hơn 40 tuổi đã có 4 con, 3 trai, 1 gái, bị thải hồi từ một nhà máy quốc doanh, vợ anh là công nhân vệ sinh, quét hè phố thủ độ Anh làm đủ nghề, mà nghề nào cũng có hoa tay: xây nhà, đắp nền, đóng bàn, tủ, giường, sửa chữa xe đạp, xe máy, may quần áo., nhất là chớm đông, may áo NATO lót vải len y hệt như áo nhập từ Thái Lan. Chiều đến anh cùng đứa con trai nhỏ dọn hàng ra bán nước chè, thuốc lá trước ngôi nhà của tài chính quận, khi họ thu hồi vé xổ số, đó là bà hàng bán cháo lòng to béo mà hiền lành, xởi lởi, ông chồng vừa chết vì ung thư vòm họng. Đó là bà cụ hơn 80 tuổi với gánh quà vặt cho trẻ em. Đó còn là ông đại tá chuyên nghiên cứu lịch sử quân chủng phòng không không quân, vừa về hưu, bán sữa chuạ Đó cũng là ông trung tá về hưu từng đánh trận phá máy bay Pháp ở sân bay Bạch Mai thời Điện Biên Phủ, nay sống bằng chiếc bơm xe đạp cũ, đầu vòi bơm luôn quấn một sợi cao su đỏ cũ, và một ông bác sĩ y khoa tốt nghiệp từ Paris (Pháp) trở về làm việc tại bệnh viện mắt trung ương, sống cô đơn trong một căn phòng 12 mét vuông, cặm cụi đọc sách, cặm cụi nấu cơm bằng chiếc bếp đầu cũ kỹ, cặm cụi xách từng xô nước vẩn đục, chảy thất thường, ông không còn thói quen ăn sáng để đi làm... Những con người sống nhẫn nại, chịu đựng, đăm chiêu, chẳng mấy hào hứng với cuộc đời, chai lỳ với cúp điện, cúp nước, với môi trường hôi hám xung quanh. người ta thét vang lên sung sướng khi điện tắt ngầm bổng vụt sáng. Ôi! Những niềm đau cháy lòng khi nghĩ đến thân phận con người.

Đã hơn 15 năm nay, cho đến tận hôm nay, khi cầm bút để khởi đầu một cuốn sách, tôi cảm thấy ngày càng rõ ràng và sâu sắc nhân dân Việt Nam đang là cả một khối bất hạnh lớn trên thế gian này. Nỗi đau này không của riêng ai, nó ắt phải có căn nguyên của nó. Hay là ông cha ta đã phạm tội gì tầy đình lắm để con cháu ngày nay phải gánh chịu món nợ tiền kiếp? Ắt không phải như vậy. Đã mấy năm nay tôi cố tìm ra lời giải. Tai họa chồng chất trên đất nước này không phải do hoàn cảnh ngẫu nhiên, do sơ xuất hoặc vụng dại nhất thời, cũng chẳng phải do đế quốc, phong kiến, chiến tranh và thiên tai như lập luận chính trị hay nói đến. Nó ắt phải có nguyên nhân sâu xa lắm! Không cùng nhau nhận ra thật rõ ràng và đày đủ thì không thể sửa đổi và thoát khỏi tai họa! Vâng. Tai họa, nỗi bất công và thống khổ vô cùng mà người Việt Nam đang phải chịu đựng phải chăng là do từ những cách nghĩ, cách làm, những quan điểm sai trái về con người, về xã hội, từ ý muốn làm cách mạng để cho cuộc sống tốt đẹp hơn thì trên thực tế lại làm cho cuộc sống tủi nhục và cùng cực, nhân danh giải phóng con người lại dẫn đến kềm kẹp con người, nhân danh tập thể, cổ xúy tập thể mà thủ tiêu mọi cá tính sáng tạo của con người và dìm cả tập thể nhân dân và đất nước vào thế khốn cùng. Và có lẽ điều tệ hại nhất là một cơ chế, một hệ thống chính trị, xã hội đã đè nặng, chụp lên số phận của mỗi con người, thủ tiêu một cách tinh vi và trắng trợn và- thật khủng khiếp- một cách triệt để nữa, nhân cách của mỗi công dân. Một sự hủy diệt rất ác độc. Có thể nói trong mấy chục năm qua, xã hội Việt Nam ta đã bị giam hãm trong những quan niệm sai lầm, dẫn đến những bất hạnh rộng lớn. Đã đến lúc bỏ hết những chấn song của nhà tù vô hình này, điều tiên quyết để có tự do và chân lý, mở đường cho tương lai.

Tôi viết cuốn sách này trong nỗi đau lòng của một người cộng sản ở trong Đảng Cộng sản Việt Nam vừa tròn 45 năm, sau khi bị khai trừ tháng 3, 1991. Tôi không chút cay đắng hoặc căm hờn. Tôi cố viết trong sự tỉnh trí và sáng suốt. Tôi cố nói lên sự thật như nó vốn là thế, không chút thổi phồng, thêu dệt, bóp méo. Tôi nghĩ đến tất cả tuổi trẻ Việt Nam ta khi viết cuốn hồi ký này. Các bạn trẻ là tương lai của đất nước. Hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho mimh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xạ Các bạn hãy coi đây là tâm sự, là lời tâm huyết của một người đi trước nhận tội lỗi của thế hệ mình, của chính mình trước thế hệ trẻ thân yêu và tin cậy.

Lịch sử luôn sòng phẳng. Tư duy xã hội luôn sòng phẳng. Nó rất công bằng trong đánh giá đúng sai, tốt xấu, công tội, vượt qua những nhiễu loạn của thế hệ đương thời.

Một anh bạn thân ở Hà Nội biết tôi viết sách liền gửi thư sang khuyến khích. Anh dặn tôi hãy viết lên sự thật một cách ngay thẳng chớ ngại nói thật mất lòng. Cuối thư, anh lấy từ cuốn cổ học tinh hoa câu chuyện tu thân của Tuân Tử, chép gửi cho tôi như sau:

Thấy người hay thì phải cố mà bất chước, thấy người dở thì phải tự xem mình có dở như thế không? Chính mình có điều hay thì cố mà giữ lấy, chính mình có điều dở thì cố mà trừ đi.

Người chê ta, mà chê phải, ấy là thầy tạ Người khen ta, mà khen phải, ấy là bạn tạ Còn người nịnh hót ta lại là người cừu địch hại ta vậy. Cho nên quân tử trọng thầy, quý bạn, ghét cừu địch, thích mà không chán điều phải, nghe lời can mà biết răn mình, như thế là muốn không hay cũng không được

Kẻ tiểu nhân không thế, đã bậy lại ghét người chê mình, đã dở lại thích người khen mình. Bụng dạ như hổ lang, ăn ở như cầm thú. Thấy người không phục mình lại không bằng lòng, thân với kẻ xiểm nịnh, xa cách kẻ can ngăn, thấy người chính trực thì chê, thấy người trung tín thì cười, như thế dù muốn không dở cũng không được.

Đây là sự đúc kết rất sâu sắc thâm thúy sự cư xử ở đời tôi ghi nhận, suy ngẫm và cố gắng làm đúng: khen, chê cho đúng sự thật, không nói quá, không tâng bốc, cũng không dèm phạ Xin cám ơn anh bạn về sự hổ trợ quý báu này.

Nếu cuốn sách này làm thay đổi được những nếp nghĩ cũ sai lệch đã hằn sâu trong thời gian dài của bạn đọc, thì người viết cảm thấy hạnh phúc và biết ơn.
II. DẤN THÂN

Đến nay đã có hàng trăm lá thư từ các nơi trong nước, từ các nước khác nhau (Thái Lan, Hồng Công ở Châu á, Canada, Hoa Kỳ từ châu Mỹ, Liên Xô, Pháp, Tiệp Khắc, Anh, Đức từ Châu âu, Ai Cập, An giê ri từ Châu Phi), hàng trăm cú điện thọai và hàng trăm bạn bè từng quen hoặc mới làm quen trực tiếp hỏi tôi: Vì sao anh làm việc này, từ Paris, vào lúc này?



Tại sao tôi lại viết bản ""Kiến nghị của một công dân" vào tháng 11- 1990 và công bó nó tại Paris?

Từ những suy nghĩ dầu tiên dể trở thành ý định, rồi lớn dần thành chủ định và quyết tâm hành dộng, là cả một quá trình. Tôi đã từng ra nước ngoài gần 20 lần. Năm 1965, tôi sang Trung Quốc rồi Cộng Hòa Dân Chủ Đức (qua Liên Xô) là lần đầu và lần cuối cùng trước khi sang Pháp gần đây là sang Inđô- nê- xi- a năm 1989. Tôi dã dến các nước xã hội chủ nghĩa, đến ấn độ, Cămpuchia, Lào, Thái Lan, In đô nê xia, Mã lai xi a, Phi líp pin, Nhật bản, Xanh ga bo ở Châu á, đến An- giê- ri, Ai- cập, ê- ti- Ô- pi- a, Dim- ba- bu- ê ở Châu Phi, đến ác- hen- ti- na, Hoa Kỳ ở Châu Mỹ. Còn Pháp thì chưa một lần! Đây là lần đầu. Đã từ lâu tôi hằng mong một chuyến đi Pháp. Nền văn hoá Pháp đã hấp dẫn tôi từ những năm 13 đến 17 tuổi, khi tôi học trường Khải Định (Quốc học Huế), với hiệu trưởng, hiệu phó và gần một nửa giáo viên người Pháp. Đến nay tôi còn nhớ nét mặt, dáng đi, cử chỉ, giọng nói của từng người... Những ký ức thật khó quên của tuổi thơ ấu. Những bài văn của Alfonse Daudet, của Victor Hugo, Anatole France, những luận điểm chính trị của Voltaire, Montesquieu, của Jean Jacques Rousseau là một phần hành trang tinh thần của tôi khi từ giã gia đình, nhà trường để đi kháng chiến.

Hàng năm, báo L'Humanité của Đảng Cộng sản Pháp tổ chức ngày hội báo vào tháng 9. Đầu năm 1990, họ gửi giấy mời đích danh tôi, do sứ quán Việt Nam ở Paris chuyển vè Hà Nội.

Từ giữa năm 1975, tôi bắt đầu có những ý kiến riêng và thường phát biểu những chính kiến của mình bằng cách này hay cách khác. Với tư cách phóng viên, hồi đó tôi đã hỏi chuyện tất cả viên tướng, các công chức cao cấp Sài Gòn ở các trại Thủ Đức, Long Thành, Quang Trung...

Họ được báo đi tập trung học tập "vài ngày", sau đó là "vài tuần", rồi cứ ở lại hoài... Tôi từng gặp ông thứ trưởng Nội Vụ Viễn Chi để góp ý về việc này, và cũng gặp cả bộ trưởng Nội Vụ Phạm Hùng để nói về trường hợp tướng Nguyễn Hữu Có, mới làm quyền Tổng tham mưu trưởng có hơn 38 giờ. Khi cải tạo ""tư sản", xoá bỏ "gian thương" ở miền Nam những năm 1977 và 1978, tôi gặp thứ trưởng Nội vụ Sáu Hoàng (Cao dăng Chiếm) và để xuất đến việc lãnh đạo quá lỏng lẻo, tiền bạc, vàng, kim cương,... thất thoát hết... Sau khi vào Cămpuchia tháng 1, 1979 đến năm 1982 tôi cùng mấy phóng viên báo Quân đội nhân dân Việt Nam và báo Quân đội Cămpuchia đi các chiến trường Bát tam boong và Xiem Riệp về, tôi gặp đại sứ Ngô Điền, vốn là bạn của tôi, cùng thiếu tướng Lê Hai phụ trách công tác chính trị quân Tình nguyện Việt Nam và đưa ra nhận xét: "Tình hình hiện nay là bộ đội ta bị sa lầy, chỉ có cách là rút sớm toàn bộ các đơn vị ta về nước, giao lại cho bạn, và chuyển sớm cho Liên Hợp Quốc cùng Cộng đồng quốc tế giải quyết vấn đề Cămpuchia, nếu không tình hình sẽ còn gay go cho đất nước ta hơn nhiều"... Rồi giữa năm 1985, tại giảng đường Bách Khoa Hà Nội, ủy ban khoa học xã hội tổ chức cuộc hội thảo về ""Mối liên minh dặc biệt giữa 3 nước Đông Dương", tôi lên phát biểu ý kiến cho rằng ngay tên của cuộc Hội thảo là không thích hợp, hai chữ "đặc biệt" bao hàm mối quan hệ không bình thường, không bình đẳng giữa một nước lớn hơn 60 triệu dân với 2 nước nhỏ có 6 triệu và 3 triệu dân, chữ Đông Dương cũng không còn thích hợp...

Rồi đến năm 1986, sau khi ông Lê Duẩn mất, ông Trường Chinh được cử làm quyền Tổng Bí Thư, tôi đã viết một bản kiến nghị dài 5 trang đánh máy (hiện tôi còn giữ được bản lưu) đề nghị đổi mới một cách mạnh mẽ, dứt khoát cả về kinh tế và chính trị, thực hiện hòa giải với tất cả các nước thù địch cũ (Nhật, Pháp, Trung Quốc, Hoa Kỳ) chủ động cử các đoàn đi theo các hướng trên đây, và mở một cuộc Hội nghị Chính trị đặc biệt làm động lực cho công cuộc đổi mới toàn diện, cả về kinh tế và chính trị, về đối nội và đối ngoại... Trong bản Kiến nghị này, tôi đề nghị giảm số quân từ trên 1, 6 triệu xuống 60 vạn trong 3 năm, ngang với mức trung bình của thế giới. Tôi đưa một bản cho ông Hà Nghiệp, thư ký của ông Trường Chinh và một bản cho ông Trường Chinh. Ông Trường Chinh xem qua, nhận xét: "ý kiến mạnh dạn, nhưng phải trình Trung Ương xem xét... " Thế rồi im lặng!

Tôi hiểu ngày càng rõ ràng cái cơ chế này đã trở thành kín mít, có dân chủ chăng chỉ là dân chủ hình thức, lãnh đạo luôn tự cho mình là độc quyền của chân lý, lẽ phải, độc quyền cả lòng yêu nước và sự sáng suốt, yêu cầu mọi người phải tin tưởng, phải tuân theo, không bàn cãi, càng không được có ý kiến ngược, nhân danh" Khối đoàn kết thống nhất vững như bàn thạch của một đảng cộng sản trung kiên và thuần nhất"...

Do đó tôi phải tính đi một con đường khác. Một con đường vòng, quanh co, đầy khó khăn, trắc trở, mang tính chất may rủi, lại có phần mạo hiểm nữa...

Có thể nói đây là một chuyến đi hồi hộp, đơn thương độc mã tác chiến, khi lên đường còn có nhiều ẩn số ở trước mắt. Nước Pháp ra sao? Thái độ của chính quyèn Pháp ra sao? Người Việt ở bên Pháp thế nào? Có thể dựa vào ai? Sẽ sinh sống ra sao, lại còn lo sức khỏe, vì sau khi tôi bị một trận nhồi máu cơ tim nặng tháng 6 năm 1989, tim tôi luôn có khả năng bị tái phát một cơn đau mới.

Có những đêm trằn trọc lo âu. Đang làm việc ổn định, có khí thế nữa, nhất là từ tháng 2, 1989 tôi trực tiếp đảm nhận nội dung xuất bản tuần báo Nhân Dân Chủ Nhật, đến nay đã gần 2 năm. Tôi lên kế hoạch, định hướng từng thời kỳ, xây dựng một lực lượng rất gọn, nhẹ, chỉ có 12 người, tin cậy nhau và tôn trọng nhau trên ý thức "niềm vui làm báo", một tờ báo kiểu mới, "có ích", không dạy đời, không đại ngôn, cố gắng tăng những lượng thông tin phong phú và bổ ích, với những bài thật ngắn gọn- Xã luận trang 1 chỉ 200 đến 300 chữ (so với báo Nhân dân hàng ngày thường từ 1500 đến 2000 chữ). Cố gắng đưa lên những ý kiến khác nhau, là diển đàn tự do cho bạn đọc... Báo in nhiều trang 4, 5 màu, cố tìm ảnh màu đẹp... và quả nhiên tờ báo ăn khách. Tháng 2, 1989 ra thử 60, 000 số, tháng 4, 1989 lên đến 82, 000 số, tháng 9, 1989 lên 120, 000 và cuối năm lên trên 140, 000 số. Giá từ đầu 350 đồng một số, lãi mỗi số hơn 100 đồng, được thị trường cả nước chấp nhận. Và chúng tôi được lãi lớn, không những chấm dứt thời kỳ bao cấp, bù lỗ triền miên, mà còn lập được quỹ phúc lợi, quỹ thưởng, quỹ đầu tư kỹ thuật, từ đó xây dựng được một quán ăn trưa với khá nhiều thiết bị. Cứ những dịp đầu năm, kỷ niệm, lễ lạc, như những ngày Phụ nữ, Thanh Niên, Thiếu Niên, Nhà báo, Quốc tế lao động, Quốc Khánh... đều là những cớ hợp pháp để phát tiền thưởng cho toàn thể cán bộ, công nhân viên, gồm gần 300 người của toàn toà soạn. Đời sống dể thở hẳn từ đó. Toàn toà soạn đều quan tâm đến số phận của Nhân Dân Chủ Nhật, và lòng quý mến đối với những anh em trực tiếp làm báo Nhân Dân Chủ Nhật cũng biểu hiện rõ rệt, đặc biệt với cá nhân tôi. Lòng say mê nghề nghiệp làm cho tôi vui bao nhiêu với tờ báo mới, thì những cản trở gặp phải làm cho tôi nản lòng. Vì tôi tuy là Trưởng ban biên tập tuần báo Nhân Dân Chủ Nhật, trên thực tế làm hết mọi công việc của một Tổng biên tập, nhưng Tổng biên tập báo Nhân Dân lại là người phụ trách cả Nhân dân và Nhân dân chủ nhật trên danh nghĩa. Có những bài báo tôi muốn đưa lên, đã duyệt sơ bộ rồi, như bài của nhà sử học Trần Quốc Vượng nói về thế hệ trẻ, thì lại không được duyệt ở khâu cuối cùng! Và có cả bài tôi viết cũng bị kiểm duyệt1 Tất nhiên đó là 2 bài gai góc, nói về bệnh kiêu ngạo, hoành hành từ năm 1975 đến nay và bài bàn về đa nguyên... Hiện tôi còn giữ được bản thảo của cả 2 bài báo này.

Chính cuộc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo nội dung của Nghị quyết trung ương lần thứ 8 (tháng 3, 1990), được tiến hành ở tòa soạn báo Nhân dân tháng 6 năm 1990 đã làm tôi nhận thấy cần một thái độ dứt khoát và mạnh dạn để đưa đất nước ra khỏi một cuộc khủng hoảng toàn diện, nghiêm trọng chưa từng có, và cũng từ đó cứu số phận của báo chí, của những người làm báo nước tạ Sức chịu đựng của nhân dân, của bản thân tôi đều đã quá mức, đạt đến độ quá tải rồi.

Tôi lên đường, từ biệt gia đình, từ biệt bạn bè thân thiết trong tâm trạng lẫn lộn. Niềm vui có cơ hội làm một việc có ích cho đời. Nỗi lo dấn thân vào một nơi vô định. Nỗi buồn xa vắng cô đơn, Tôi gạt nước mắt ôm hôn 2 cháu ngoại, Hoài Anh lên 4 và Quỳnh Anh lên 8. Hai đứa coi ông ngoại như bạn, hay đòi ông ngoại đưa đi mua tranh, mua sách vẽ, mua báo nhi đồng và thiếu nhi, đi vườn hoa ăn kem, nhất là đi vào khu "Kính dị dạng", nơi thì người soi cao vút lên, nơi thì người soi béo ụ, lùn tịt, cả 3 ông cháu cười sặc sụa...

Có những chuyện "hệ trọng", bí mật của trẻ thơ, truyện ở vườn trẻ, ở lớp học, về cô giáo, về bạn bè, chúng không kể cho bố mẹ mà chỉ kể cho ông ngoại thôi.

Nhưng trên tất cả những đắn đo, lo âu, buồn nhớ là một niềm tin tuy chưa sâu sắc, chưa vững chãi, nhưng là niềm tin mang theo hy vọng. Vì những chính kiến mang dần tính hệ thống của tôi, tôi nhiều lần đưa ra trao đổi với bạn bè, với các đồng nghiệp, những người viết báo lớn tuổi hay còn trẻ, ở Hà Nội hay SàiGòn, ở Thái bình, Hà Sơn Bình hay Hà Nam Ninh, ở Vũng tầu hay ở Sông Bé... tôi đều nhận được những sự đồng tình khá sâu sắc. Rồi những buổi nói chuyện rộng rãi tại trường Đảng cao cấp Nguyễn ái Quốc, ở trường Tuyên huấn trung ương, ở lớp Báo chí, ở một số cơ sở kinh tế địa phương (những nơi này đều có ghi âm), tôi cố vượt ra ngoài khuôn phép, nói lên chính kiến riêng của mình. Và tôi ngỡ ngàng một cách thú vị nhận ra rằng hầu hết người nghe đều tán đồng những chính kiến của tôi, hầu như không có ai phản đối cả. Ở Trường đảng Nguyễn ái Quốc, tôi nói rõ: "Đảng cộng sản Việt Nam đã vi phạm có hệ thống hiến pháp vì trong một thời gian dài đã coi những nghị quyết Đại hội Đảng, Nghị quyết bộ Chính trị, Nghị quyết Trung Ương như là những quyết định có tính chất pháp luật, bắt buộc Nhà nước và nhân dân phải chấp hành. Hiến pháp chỉ rõ: Toàn bộ quyền lực của nhà nước nằm trong tay nhân dân và các cơ quan dân cử. Dân bầu ra các Hội đồng nhân dân, ra Quốc hội, chứ đâu có bầu ra Trung Ương và Bộ Chính tri... "

Tôi còn nói rõ: các cơ quan dân cử vẫn không thật sự do nhân dân lựa chọn và cử ra, việc bầu cử đều là hình thức, hơn nữa các đại biểu Quốc Hội phần lớn đều nắm chính quyền, là thứ trưởng, là bộ trưởng, chủ tịch Uỷ ban nhân dân, tổng cục trưởng các tổng cục... thành ra vừa nắm quyền lập pháp, vừa nắm quyền hành pháp và quyền giám sát chính quyền, nghĩa là vừa đá bóng vừa thổi còi, gây nên bất lực và hỗn loạn...

Tất cả những chuyện này là những điều bất hợp lý nhất, đã được nêu lên phê phán, nhưng không ai chịu sửa cả!

Tôi đã nói chuyện ở các trường của Đảng, ở các tỉnh về cái tệ phi pháp đã hình thành từ lâu là Đảng bao biện làm thay và tệ hơn nữa là lấn át chính quyền. Các bí thư Tỉnh Uỷ hay Uỷ viên thường vụ tỉnh uỷ tự cho mình có quyền tối cao giải quyết mọi việc. Các vị này đi đến đâu cũng được "xin ý kiến quyết định của các đồng chí", nào là dựng nên nhà máy gì, ở nơi nào, chổ kia xây dựng trường học hay bệnh viện, xuất khẩu ra sao, thay đổi nhân sự thế nào, các vị cứ cho ý kiến tuốt! Rất nhiều khi việc ấy Chủ tịch ủy ban, phó chủ tịch ủy ban không hề biết gì cả! Các hội đồng nhân dân lại càng lép vế, không có quyền hành gì hết. Tất cả các chuyện này tôi nêu lên, anh chị em học viên các trường cao cấp của đảng là thứ trưởng, tổng cục trưởng đều tán thành và nhiệt liệt hoan nghênh, mong mỏi đảng sớm từ bỏ tệ bao biện, gia trưởng, chuyên quyền. Đặc biệt là ở các tỉnh, anh chị em trí thức làm việc ở các cơ quan chuyên môn không còn chịu đựng được sự kém cỏi và phải nói là dốt nát của một số khá lớn các vị lảnh đạo trong cấp žy đảng, họ chỉ có trình độ hiểu biết và văn hoá cấp trung học, tiểu học. Chính anh chị em nói những câu chí lý là:

Sự dốt nát cộng với nhiệt tình thành ra phá hoại và phản động. Vì thường các vị dốt lại thích tỏ ra ta đây không dốt, cứ giải quyết bừa mọi việc và chỉ gây nên khó khăn và đổ vỡ ở địa phương...

Niềm tin mang nhiều hy vọng của tôi còn dựa vào thực tế từ cuối năm 1986, sau Đại hội 6 anh chị em cán bộ trẻ đã dám mạnh dạn nói lên những điều mình nghĩ, không còn e dè, sợ sệt như trước. Khẩu hiệu: "Nói hết, nhìn "thẳng vào sự thật" đã có tác dụng rõ rệt. Những khẩu hiệu mới mẻ ấy lợi hại vô cùng. Khi đã nói ra rồi, công bố rầm rộ trên báo, trên đài rồi, dù có muốn thu về, muốn hạn chế, hoặc xí xoá đi thì cũng thật là khó.

Hơn nữa, có những điều đã mở ra rồi không sao có thể quay ngược lại được. Trước năm 1975, ai nghe đài BBC, đài tiếng nói Hoa Kỳ đều là phải vặn rất nhỏ, chỉ vừa đủ nghe trong nhà. Hàng xóm láng giềng biết được là không ổn, có khi rất phiền. Cán bộ, công an nghe thấy được lại càng rầy rà, sinh chuyện... Từ năm 1975, người ta nghe tự do hơn, cả những băng nhạc cải lương bị cấm lưu hành. Rồi từ năm 1986 quyền tự do được khẳng định thêm một bước lớn, quyền đòi hỏi bình đẳng, chống đặc quyền, đặc lợi được cất lên mạnh mẽ. Ở nhiều chi bộ, các đảng viên chất vấn những người lãnh đạo: "Chúng tôi là kỹ sư, tốt nghiệp đại học, có phải là trẻ con đâu mà chúng tôi không được đọc các tài liệu tham khảo kia của Thông tấn xã Việt Nam? Chúng tôi chỉ là cán sự, các vị chuyên viên ăn lương cao hơn chúng tôi, nhưng chưa chắc về hiểu biết, cũng như về nhân cách ai hơn ai đâu! Nói là chống đẳng cấp mà cái đảng này chúa là chia theo đẳng cấp... mỗi đảng viên phải bình đẳng! Mỗi công dân phải bình đẳng!" Thế là từ đó, khó còn có thể ngăn chia thứ, bậc như trước được nữa. Mọi nguồn thông tin được tự do tiếp nhận qua đài phát thanh nước ngoài, qua các tài liệu, báo chí của nước ngoài, tuy còn rất hiếm hoi. Một cửa sổ nhìn ra thế giới khá quan trọng là 10 đến 15 phút tóm tắt tình hình thế giới hàng ngày trên màn truyền hình Việt Nam, được chuyển tiếp từ Đài truyền hình (Liên Xô) qua đài thu phát Hoa Sen. Người xem truyền hình Việt Nam được biết qua hình ảnh sống những biến động của thế giới, như bức tường Berlin sụp đổ, Ceaucescu bị xử bắn ở Ru ma ni, tổng thống Havel xuất hiện ở Tiệp Khắc, cuộc bầu cử đa nguyên ở Mông cổ... Tuy hiện nay sự kiểm soát, lựa chọn nội dung truyền hình có chặt chẽ hơn, cố tránh những sự thật gai góc, nhưng không còn có thể trở về lối cũ, bịt mắt, bịt tai nhân dân như trước. Sự hiểu biết về thế giới là một lợi thế sâu sắc của nhân dân, họ hiểu rõ những sự kiện của thế giới- trông người lại nghĩ đến ta nuôi dưỡng những hy vọng lành mạnh cho tương lai.

Chính những thay đổi tích cực trong nhận thức, tư duy của hàng triệu con người đang vươn tới cái tiến bộ, cái thiện, vươn lên đòi quyền tự do, dân chủ, bình đẳng, quyết từ bỏ cái gì là bảo thủ, trí tuệ, cũ kỹ... đã tạo nên sức mạnh động viên tôi cố gắng làm một cái gì đó để đất nước thân yêu của tôi có thể thoát ra khỏi cơn khủng hoảng hiễm nghèo.

Và tôi đã tính toán kỹ, cân nhắc kỹ để dấn thân một cách kiên quyết và quả đoán trong chuyến đi Paris, thủ đô nước Pháp vào cuối năm 1990. Trong suy tính của tôi, công cuộc đổi mới như hiện nay là bế tắc. Kinh tế đổi mới, mà chính trị như cũ thì không ổn, hai chân đi khập khiểng sẽ vấp ngã lăn kềnh. Mà lãnh đạo thì rất sợ đổi mới về chính trị, họ sẽ mất quyền, cả quyền lãnh đạo và quyền lợi riêng.

Đất nước bất hạnh chính là vì thế- "Thế cùng tất biến", nhiều người nói như vậy. Vì đó là quy luật. Nhưng lại là quy luật xã hội. Cứ chờ thì không ổn, biết bao giờ mới thay đổi! Phải có sự thức tỉnh, có ý chí, có hành động của con người! Nếu không sức ỳ sẽ lì lợm tồn tại.

Đông đảo nhân dân vốn có sẵn lương tri sẽ thức tỉnh khi có người trình bầy lý lẽ và thuyết phục. Tôi không mong chờ gì ở sự tỉnh ngộ, thức thời của những người lãnh đạo. Họ đã khác xưa quá nhiều rồi! Có hai đức tính cần thiết nhất cho người lãnh đạo thì ở họ quá nghèo nàn. Đó là đức tính biết lắng nghe, tiếp nhận những điều hay, lẽ phải, và đức tính biết thích ứng một cách chủ động với những biến chuyển đi lên của thế giới ngày naỵ Tai hoa. của đất nước phải chịu đựng là từ đó, từ hai lỗ hổng tai hại ấy.

Vậy chỉ có nguyện vọng của nhân dân được thức tỉnh, và nguyện vọng đó được bộc lộ rõ ràng, rộng khắp, họa chăng mới tạo lên được áp lực xã hội cần thiết để buộc lãnh đạo phải thay đổi.

Nhiều thế lực ở nước ngoài cho rằng chế độ mất lòng dân và độc đoán chỉ có thể lật đỏ bằng bạo lực từ bên ngoài đưa vào. Tôi hoàn toàn không tán thành chủ trương này. Nhân dân đã quá khổ trong chiến tranh, trong đối địch bằng bạo lực rồi. Đấy chỉ là ảo tưởng rất nguy hiểm, xét cho cùng chỉ là trò thiêu thân vô ích.

Ngay cả những lực lượng ở ngoài nước, có tinh thần dân tộc và dân chủ, đề xướng hoặc tán thành hòa giải và hòa hợp cũng hầu như không có tác dụng gì đối với trong nước. Những tổ chức, những nhân vật của họ hầu như chẳng mấy ai ở trong nước biết đến. Họ không có tiếng nói, không có lực lượng, không có quần chúng. ý muốn của họ mãi mãi chỉ là ý muốn, dù cho có thiện ý đến đâu. Thông tin từ ngoài vào trong nước, từ trong nước ra ngoài, vẫn còn bị kiểm soát, bưng bít, phong tỏa một cách gắt gao.

Tôi nghĩ có thể làm được gì để cưú vãn tình thế hiểm nghèo, đưa đất nước vào con đường dân chủ thực sự, tạo điều kiện để phát triển? Lực lượng quan trọng trực tiếp nhất phải là số đảng viên có lương tâm, có nhân cách và có hiểu biết, cùng với anh em trí thức ngoài đảng và đông đảo tuổi trẻ có tâm huyết với đất nước, cùng chung sức, chung lòng tạo nên sức ép để thay đổi. Dù cho số này ước lượng chỉ độ 10 phần trăm tổng số đảng viên hiện nay là 2 triệu, nhưng cái chất là chính. Khi tình thế biến động họ có thể lôi kéo đông đảo đảng viên khác và đông đảo nhân dân hòa nhập vào một phong trào chung.

Cho nên tôi viết "Bản kiến nghị của một công dân" với 12 điểm chính là hướng về nhà, để gợi ý cho đồng bào và một số đông đảng viên lương thiện một phương hướng suy nghĩ mới. Tôi biết khả năng lãnh đạo chấp nhận đề nghị của tôi là rất ít ỏi. Tôi đã tìm ra cách để ý kiến của tôi đến được với đồng bào ở trong nước. Đó là qua đài BBC. Tôi nghĩ đến khả năng này từ khi ở trong nước, khi nghe đài BBC, thấy làn sóng ổn định, tiếng nói rõ ràng, ít khi bị nhiễu, thời gian buổi sáng và buổi chiều, tối, đều thích hợp cho đông đảo người nghe, tôi trực tiếp thấy cán bộ, đảng viên, các gia đình bình thường cho đến thanh niên, nông dân... đều ưa nghe đài BBC nhất. Tôi còn biết rất rõ ràng rất nhiều ngưới lãnh đạo đất nước như thủ tướng Phạm Văn Đồng trước kia, hay đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đều là người nghe đài chuyên cần của BBC. Trong chiến tranh BBC đưa tin và bình luận về miền Bắc Việt Nam có phần thiên vị. Những năm tháng gần đây, họ đưa tin khách quan, rất đa dạng, phong phú và sớm sủa, chọn nhiều giọng đọc hấp dẫn. Có tiếng nam, tiếng nữ- Các giọng nói đều truyền cảm. Rõ ràng các buổi BBC đã lôi cuốn hàng triệu lượt người nghe đài Việt Nam.

ông Đỗ Văn làm công tác biên tập và phát thanh trong các buổi tiếng Việt của BBC là người tôi quen biết va sau khi tham khảo với đài BBC đã tỏ ra tán thành... Ông ta hỏi chuyện ai là đi thẳng vào vấn đề, kể cả nhữmg vấn đề gai góc. Tôi và ông ta có những buổi tranh luận khá găng ở ngay Tòa soạn báo Nhân dân. Năm 1988, rồi năm 1989 tôi lại gặp ông ta ở Hà Nội. Vốn là dân Hà Nội, có mấy người em còn ở Hà Nội, xuất thân từ một gia đình trí thức thủ đô, ông là người có hiểu biết, xét đoán khá tinh tường, nói chuyện rất bộc trực, còn biểu lộ nỗi lo âu sâu sắc trước hiện tình đất nước lâm vào khủng hoảng: số thất nghiệp đông, trộm cắp lan tràn, phụ nữ phải bán dâm, trẻ em bị suy dinh dưởng, trí thức giỏi không được tin dùng. Tôi nghĩ ông Đỗ Văn có thể hiểu được việc tôi làm và do đó có thể tham gia việc tiếp sức cho tôi, từ lòng yêu nước. Tôi tìm được số điện thoại của BBC ở Luân Đôn và mời ông Đỗ Văn sang Paris để trao đổi ý kiến. Ông ta nhận lời vào giữa tháng 10, trước khi có cuộc Hội thảo về tướng Le Clerc. Cuộc Hội thảo này, ông đại sứ Phạm Bình xin phép Hà Nội cho tôi ở lại để dự, sau khi tôi đã dự Hội báo L'Humanité ở Paris và cuộc Hội nghị bàn tròn về quan hệ Pháp- Việt ở Marseille (cuộc họp này cũng do đại sứ quán Việt Nam ở Paris mời tôi tham dự).

Tôi gặp ông Dỗ Văn ở phòng số 2 trên gác một của Foyer Việt Nam, cửa hàng ăn của Hội người Việt tại Pháp, 80, phố Monge, giữa quận 5, một quận trung tâm Paris. Tôi ở đây theo sự sắp đặt của Hội, vì ban chấp hành Hội chính thức mời tôi ở lại vài tuần để gặp gỡ những nhân vật trong Hội và tìm hiểu phong trào người Việt.

ông Đỗ Văn rất quan tâm đến nội dung bản kiến nghị của tôi vừa thảo xong và tỏ ra tán thành việc thực thiện một cuộc phỏng vấn, chừng 4 hoặc 5 câu hỏi, với thời gian độ 25, 30 phút... Tôi nghĩ là chừng đó chưa đủ để nói rõ nội dung, lập luận, chính kiến của mình. Ông Đỗ Văn cho biết xưa nay BBC chưa từng có cuộc phỏng vấn nào đến hơn 30 phút cả! Sau chúng tôi cùng nhau thảo luận là sẽ công bố "Bản kiến nghị của một công dân", làm ngay phần đầu của cuộc phỏng vấn, rồi tùy thuộc vào tình hình, nghe ngóng xem trong nước quan tâm đến đâu để sẽ tính liệu sau, liệu cơm gắp mắm. Kết quả vượt quá dự kiến của chúng tôi. Đài BBC bắt đầu công bố tối thứ tư 28/11/1990 bản kiến nghị của tôi, và tối thứ bảy 31/11 bắt đầu phát về cuộc phỏng vấn với những câu hỏi của Đổ Văn và những câu trả lời của Thành Tín. Ngày 3- 12, phóng viên Roi- tơ ở Hà Nội đã điện về Paris và Luân Đôn là: "người nghe đài ở Việt Nam, nhất là ở Hà Nội và Sài Gòn, rất chăm chú nghe các buổi này", "Bùi Tín đã nói ra những điều mà rất nhiều người, kể cả quan chức trong bộ máy nghĩ đến mà không dám nói ra". Ngày 13- 12 một nhà báo Pháp ở Việt Nam mới trở về gọi ngay điện thoại cho tôi: "Xin chúc mừng! Bom nguyên tử ở giữa thành phố Hồ Chí Minh! Ai cũng bàn đến chuyện Bùi Tín suốt hai tuần nay! Thứ bảy và chủ nhật phố xá vắng hẳn vì người ta gọi nhau về nghe BBC!".

Tôi rất xúc động, nhưng luôn tỉnh táo. Tôi nói vui trong máy:

"Không! Không phải bom, càng không phải bom nguyên tử, cậu cứ hay thổi phồng. Một trái lựu đạn thôi!". Cậu ta cãi lại: "Không đùa đâu! Thật đấy... ", rồi anh ta viết thư kể chuyện, ngoài phong bì còn tinh nghịch đề: "ông bạn bom nguyên tử của tôi!"...

Qua Đỗ Văn, tôi được biết anh chị em làm việc trong bộ phận tiếng Việt của đài BBC đều chú ý về các buổi phát thanh ăn khách, đã có thư từ trong nước gửi sang cho đài để hoan nghênh. Và cứ thế là mỗi thứ bảy và chủ nhật, trong 12 tuần lễ liên tiếp, cuộc phỏng vấn của tôi được truyền về với bà con trong nước, mỗi buổi từ 9 đến 22 phút, tùy theo câu trả lời ngắn hoặc dài. Tổng cộng tất cả cuộc phỏng vấn này dài 180 phút, thật là cực hiếm trên một đài phát thanh quốc tế. Đã vậy, mỗi tối thứ tư hàng tuần, BBC còn điểm báo chí quốc tế, điểm dư luận trong nước và thế giới về bản kiến nghị của tôi và nội dung cuộc phỏng vấn.

Ngay sau Tết âm lịch, cuối tháng 2, 1991, tôi nhận được một số thư các bạn từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần thơ... cho biết: "Khi được biết về bản kiến nghị của anh, anh chị em trí thức, giáo viên, văn nghệ sĩ, cán bộ bàn tán khá sôi nỗi và có xu thế là mạnh dạn nói lên sự thật, không e dè, ngần ngại như trước. Những người từng mạnh dạn thì mạnh dạn hơn". Tôi coi đó là một dấu hiệu quan trọng. Tôi không bao giờ cho ý kiến của riêng mình là giải pháp duy nhất đúng. Cần thúc đẩy cho thật nhiều sáng kiến và biện pháp, thật nhiều người nuôi dưỡng hoài bão, góp phần cứu đất nước khỏi họa hiểm nghèo. Có vậy mới hình thành được phong trào mang tâm huyết và trí tuệ của thời đại, mới huy động và tập hợp được lực lượng đấu tranh có hiệu quả theo những giải pháp đúng đắn. Cuối tháng 1, 1991, bản kiến nghị của ông Nguyễn Khắc Viện đến được Paris, tạo nên một làn gió mới. Đây là bức thư tâm huyết ông Viện gửi cho Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Nguyễn Hữu Thọ. Sau đó là bản kiến nghị của ông Hoàng Minh Chính, nguyên Viện trưởng Viện Triết Học và sau đó là cả một "Chương trình cấp bách nhằm khắc phục khủng hoảng và tạo điều kiện lành mạnh cho sự phát triển đất nước" do ông Phan Đình Diệu, nhà toán học nỗi tiếng, phó Viện trưởng Viện Khoa Học Việt Nam, khởi thảo và kiến nghi... Ở phía Nam, ông Lữ Phương, nhà văn hoá có tầm cỡ, vốn là thứ trưởng Văn hoá của Chính Phủ Cộng Hoà miền Nam Việt Nam, đã viết bài báo: "Chủ nghĩa xã hội Việt Nam, di sản và đổi mới", rất được đồng tình vì đã đề xuất một phương hướng rất táo bạo mà lại hợp đạo lý: đảng Cộng Sản phải giao toàn bộ quyền lực cho nhà nước, trở về với xã hội công dân, tự đặt mình trong luật pháp, bình đẳng với mọi tổ chức chính trị và xã hội, từ đó khẳng định lại năng lực và phẩm chất của mình. Gần đây nhà báo cao niên Vũ Hạnh cũng đã gửi cho đài phát thanh Moscow bài báo nhan đề: Trơ trơ đối mặt với nhân dân của họ" (Thư của một nhà văn Việt Nam). Bài báo được đăng trên Tuần báo Tin Tức Moscow ra bằng 12 thứ tiếng (không có tiếng Việt), ngày 31- 3- 1991, với câu kết luận: "Những người lãnh đạo của chế độ này đang lo sợ vì cảm thấy trơ trọi, họ quen dựa dẫm vào 'sự ủng hộ', và 'tình đoàn kết' của các nước được gọi là xã hội chủ nghĩa, nhưng thật ra là những chế độ độc đoán vừa sụp đổ, họ cảm thấy mình đứng trơ trọi trước mặt nhân dân và sắp phải trả lời về những đau khổ và thiếu thốn mà họ đã bắt nhân dân phải chịu đựng trong hàng chục năm qua... ".

Mỗi tiếng nói gọi thêm nhiều tiếng nói khác, mới mẻ và cộng hưởng. Mỗi ý nghĩ có trách nhiệm gợi lên hàng nghìn ý kiến xác đáng, thức thời. Tất cả đều bị bộ máy trong nước bưng bít, che dấu, kiểm duyệt. Họ lại giả dối và ăn gian. Báo chí ở Việt Nam, đài phát thanh, đài truyền hình đều im lìm về những kiến nghị của những Nguyễn Khắc Viện, Hoàng Minh Chính, Phan Đình Diệu và tôi... Họ sợ sự thay đổi thật. Vì ở họ có "đổi nhưng không có 'mớí, có 'tháy mà không có 'đổí", thay một hồi lại quay về cái cũ rích!

Tức nước ắt phải vỡ bờ.

Sức bị dồn nén lâu ắt phải bật dậy.

Cùng tất biến, là một qui luật của tạo hoá.

Con giun xéo lắm phải quằn, là một sư.

thật được nhận thức trong nhân gian.

Cuộc khủng hoảng toàn diện đã đến mức cùng cực. Ở Hà Nội tôi từng nghe mấy vị làm báo hóm hỉnh kháo nhau: "Cuộc sống tưởng là hạnh phúc, vì có thể ngoi lên. Thế mà có đến 10 tầng đáy. Và các đáy đều thủng! Cuối cùng là thùng không có đáy!" Để nói lên sự sa sút vẫn còn tiếp tục, đến độ thê thảm, bất bình và phẩn nộ đang lan rộng và ăn sâu trong toàn xã hội! Không chịu được nổi nữa. Sắp đến lúc lịch sử sẽ đi rảo bước, một ngày bằng vài chục năm... Phải làm tất cả để chuẩn bị, tạo điều kiện và thúc đẩy lịch sử bước vào điểm nút quyết định...

Cần tính đến sự lợi hại của khoa học kỹ thuật viễn thông trong thế giới ngày naỵ Không còn như ngày xưa, ngày xửa, tin tức từ Thăng Long vào Đàng Trong hoặc từ kinh đô Huế ra Bắc Hà phải chuyển bằng chạy bộ hoặc đi bằng ngựa trạm, rồi có xe lửa, xe ô tô... Cũng không còn là thời kỳ ở rừng núi Việt Bắc, báo chí thư từ đi về mất đến hàng tuần, hàng tháng và tin tức thế giới đến được thì lõm bõm chậm chạp. Ngày nay đồng bào cả nước có máy thu thanh, thu hình hiện đại, có thể biết ngay lập tức mọi diễn biến thời sự sốt dẻo ở trong nước và thế giới, không ai có thể bịt tai, bịt mắt đông đảo nhân dân được. Đây là một lợi thế to lớn luôn luôn phải tính đến và tận dụng.

Đầu tháng 12, 1990, một ông bạn cũ làm việc ở sứ quán Việt Nam ở Paris trách cứ tôi: "ông làm cái việc này để làm gì thế? ông dại dột quá thế. Bỗng chốc đổ xuống sông, xuống bể tất cả thành tích, uy tín, công lao gần hết một đời người!"

Tháng 2, 1991, một anh bạn trẻ ở báo Nhân Dân từ Hà Nội gửi thư cho tôi, viết: "Chú ơi, ở đây rất nhiều anh chị em nhớ chú, giữ một niềm tin ở tâm huyết và sự sáng suốt của chú. Thế nhưng một vài anh em trẻ ít suy nghĩ thì cho rằng chú sang đó rồi ở lại là do tuổi lớn rồi, đã đến tuổi nghỉ hưu rồi, chú ắt phải tìm chỗ an nhàn để lo cho thân mình lúc cuối đời thôi, nhất là khi lại có điều kiện. Cháu không nghĩ thế!"

Một nhà báo nước ngoài nhận xét: "Bùi Tín là con người thường có mặt ở địa điểm và thời điểm nỗi bật nhất (the right place at the right time). Lần này cũng vậy. Ông ta lại làm một việc mà ai cũng phải chú ý... ". Quả thật, tôi không bao giờ tìm cơ hội để làm nổi mình lên- Không! Đây quả thật là một cuộc dấn thân. Tôi đang có chức có quyền. Từ 4 năm nay, tôi ở bậc lương chuyên viên 8, ngang với một thứ trưởng. Làm báo tôi lại có được một danh tiếng nào đó. Nhất là từ khi phụ trách trực tiếp tờ tuần báo Nhân dân chủ nhật, tôi được hầu như mọi người trong tòa soạn báo Nhân dân (chung cho Nhân dân hàng ngày và Nhân Dân Chủ Nhật) quý trọng hơn. Tờ tuần báo Nhân Dân chủ nhật với chủ trương thoáng đạt, tôn trọng bạn đọc được cả nước đánh giá khá cao, nên anh chị em làm báo Nhân Dân cảm thấy đỡ tủi thân. Báo Nhân Dân vốn vẫn bị chê là khô khan, tẻ nhạt, lên gân hay dạy đời nhất, nghĩa là bảo thủ nhất trong làng báo Việt Nam vốn đã khá bảo thủ. Sao tôi lại bỏ mà đi trong khi tôi đang có uy tín, được quý trọng?

Mỗi lần dấn thân lại có một nét riêng, để lại những kỷ niệm khó quên trong cuộc đời. Những ngày trước và sau Cách mạng tháng Tám, tuổi trẻ dấn thân sao mà nhẹ nhàng, thanh thoát, tự nhiên đến thế. Ở tuổi 18, những bài hát Tiến quân ca, Nào ta đi hồng binh, Nhớ chiến khu, Chiều Bắc Sơn... có sức thôi thúc rất mạnh mẽ. Chúng tôi nhập cuộc như là hít hơi thở trong lành buổi sáng vậy. Sự nhập cuộc mang tính chất lãng mạn của tuổi trẻ, máu hiệp sĩ nổi dậy, bất chấp khó khăn, gian khổ và hy sinh... Tôi lẳng lặng ra đi, gói một bộ quần áo, một chiếc áo len nâu, một chiếc khăn mặt, tất cả trong chiếc túi vải nhỏ. Anh bạn Việt Minh dắt tôi đến ngôi nhà cạnh Bắc Bộ Phủ, trụ sở của chi đoàn Quang Trung mới ở Việt Bắc về. Tối đầu tiên xa nhà, nằm trên chiếc ghế dài, ngủ ngon lành, không chút trằn trọc. Bữa cơm đầu tiên xa nhà, cơm xới từ một chiếc rá đan bằng tre, ăn ngon lành cùng với các đồng chí trong cùng một tiểu đội quân giải phóng...

Sau đó là dấn thân vào những trận chiến liên miên. Ổ địch hậu Quảng trị, ở hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng, ở vùng Khe sanh, Đầu Mầu, Lao Bảo trên đường số 9, ở quanh thị trấn Mường Phìn, gần các bản Nam- Cha- Lo, bản Đông trên đất Lào... Những trận phục kích bắn cối, tiến công các đồn bốt địch... Rồi các trận đánh của sư đoàn 304, được thành lập từ năm 1950, ở các chiến trường Hà Nam Ninh, Hòa Bình, rồi Điện Biên Phủ... Những cuộc hội nghị quân chính, những cuộc học tập nghị quyết về các chiến dịch Thu Đông, Xuân Hè, những cuộc hành quân đêm, rét lạnh, lầy lội, buồn ngủ rũ người... Những cuộc nghiên cứu chiến trường trên bản đồ, trên sa bàn, trên thực địa... Những trận tấn công đồn địch trong tầm phi pháo (máy bay và pháo địch ném nom, bắn phá)... , những cuộc hỏi cung tù binh, binh lính và sĩ quan lê dương, lính dù, cơ quan tham mưu địch, những công việc thường ngày của người lính, báo động tập hợp, hành quân, dừng chân, làm bếp, nấu cơm, giặt giũ, cắm trại, tắm rửa, đào hố vệ sinh... vất vả liên miên, đầy lo toan mà cũng nhẹ nhàng, chẳng mấy nặng nề và cũng không cảm thấy khổ sở vất vả... Vẫn cười, vẫn hát, vẫn kể chuyện tiếu lâm, vẫn trêu chọc nhau... Vẫn cứ yêu đời và lạc quan.

Hồi đầu năm 1964, sau khi có nghị quyết trung ương lần thứ 9, cũng đúng vào lúc hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu bị chết trong một cuộc đảo chính, và sau là vụ bí hiểm giết tổng thống Hoa Kỳ Kennedy, tôi lại "dấn thân" một chuyến vào miền Nam, qua đường mòn Hồ Chí Minh. Hồi năm 1961, tôi đã đi qua con đường này khi nó thực sự còn là đường mòn, cây cối còn rậm rạp, hành quân còn mang ba lô, chống gậy lách đi trong rừng rậm. Đầu 1964, đường mòn đã mở rộng hơn, nhưng cũng chỉ vài tấc, đến một thước rưỡi, cho xe đạp, thồ đi quạ So với những cuộc dấn thân sau này, qua đường mòn Hồ Chí Minh những năm 1972 và 1975 thì nguy hiểm về bom đạn lúc ấy chưa có gì đáng kể cả. Thế nhưng số người hy sinh trên đường mòn không phải là ít. Cách vài binh trạm (mỗi binh trạm cách nhau 20 đến 30 km) lại có một nghĩa trang, chôn cất anh em hy sinh trên đường mòn. Hồi ấy có đến vừa đúng mười kiểu chết khác nhau trên con đường hành quân Nam- Bắc. Lạc đường trong rừng rậm, đi miết, không tìm được lối trở ra, bị chết đói. Đi tốp nhỏ, ngủ đêm bị hổ vồ. Trời mưa, không nhìn rõ, đạp lên rắn độc, bị cắn chết. Bị đau ruột thừa cấp tính, hoặc bị sốt rét ác tính không chữa chạy kịp. Mắc võng dưới cây to, có cơn lốc bất thường, cành cây lớn gẫy hay cả cây to đổ, bị đè chết. Qua suối lớn, nước chảy xiết, cầu trơn, trượt chân, bị cuốn đi, không cứu kịp... Có khi chỉ con vắt xanh, hàng trăm, hàng nghìn con ngọ nguậy trên đường ngửi thấy hơi người, bám vào chân rồi leo lên người ở nơi có động mạch, hay nơi có tĩnh mạch lớn, cắn và hút thỏa sức, thường là ở nách, ở bẹn và cả ở bộ phận sinh dục của nam và nữ, không cầm máu được. Có khi leo núi đá đầy rêu, trời mưa, đất trơn như đổ mỡ, trượt chân nhào xuống vực sâu cùng với ba lô nặng sau lưng. Lại có khi ăn phải nấm độc, rau độc... Không cứu kịp. Chưa nói đến những vụ lụt cực lớn trên rừng như năm 1965 ở Tây Nguyên, nhà cửa, trâu bò, heo, gà và cả người nữa bị nước dâng lên cao và cuốn đi. Vậy mà chúng tôi vẫn nhẹ nhàng dấn thân vì có một niềm tin vững chắc ở thắng lợi, vì luôn nghĩ: "Chí làm trai thời loạn, phải có mặt ở nơi mũi nhọn. Cầu an, bảo mạng, nhường hy sinh gian khổ, cho người khác là sự ươn hèn và ích kỷ đáng hổ thẹn với lương tâm... ".

Năm 1972 rồi 1975, tôi đi dự các chiến dịch lớn ở chiến trường miền Nam là những cuộc dấn thân do máu nghề nghiệp làm báo. Dù biết rằng chiến sự sẽ rất ác liệt, Mỹ đưa vào cả một bộ máy chiến tranh lớn, vối đủ loại vũ khí tân kỳ: Xe tăng Abrams, pháo bầy, xe bọc thép, máy bay Con ma, Thần sấm, pháo đài bay B52, các loại mìn dây, mìn bướm... tôi vẫn nhẹ nhàng khoác ba lô lên đường. Hồi ấy tôi còn ở báo Quân đội nhân dân. Tất cả các chuyến đi ấy là tự tôi nêu ý định ra hỏa tuyến, không có lần nào do cấp trên hay tập thể yêu cầu. Nghiệp vụ làm báo thôi thúc tôi lên đường, tôi quen khá nhiều các nhà báo quốc tế, từ Burchett đến Walters Conkrite, từ Peter Arnett đến Nayan Chanda hay Felix Bolo và Tiziano Terzani... Sao báo chí phương Tây họ xông xáo, họ sưu tầm tài liệu và các sự kiện lớn, họ đưa tin nhanh nhậy, họ viết sách ăn khách... mà phóng viên Việt Nam ta không làm được.

Trong những cuộc ra mặt trận ấy, quả thật có những lúc tôi lo và phảng phất một nỗi sợ. Đó là khi B52 rải thảm bom đầu tiên vào đội hình hành quân hồi 1972, không khí bị lay động như dông bão, cây cối đổ rầm rầm, ánh chớp lóe lên rồi tắt ngấm trong đêm đen... Đó còn là hồi đầu năm 1973, tôi đi trên máy bay lên thẳng chở các phóng viên của žy ban Quân Sự Bốn Bên thi hành Hiệp Định Paris, đi Lộc Ninh, Cần Thơ, Mỹ Tho, Đà Nẵng, Nha Trang... Những ngày đầu qua Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ bị súng ở dưới bắn lên, súng của cả hai bên, có những viên trúng vỏ ngoài của máy bay... Nhất là ngồi trong xe tăng đang hành quân, nghe trưởng xe nhận định: Phía trước ta bên phải, cách một ngàn tám trăm mét, một ổ tên lửa chống tăng xuất hiện, yêu cầu cối và pháo ta diệt những hỏa điểm ấy... Những nỗi lo sợ thoáng qua...

Năm 1979, tôi lại dấn thân trong cuộc hành quân vào Cămpuchia. Cho đến nay, ít người được biết sự kiện quân sự này. Sau ngày giải phóng miền Nam, tôi ở lại phía Nam. Các cuộc xung đột ở biên giới Việt Nam- Cămpuchia nổ ra ngay sau ngày 30- 4- 1975 và ngày một ác liệt. Đặc biệt là sau đó hai năm, từ đêm 30- 4- 1977, nổ ra những cuộc thảm sát ở Châu Đốc, rồi suốt cả năm 1978 dọc biên giới các tỉnh Minh Hải, An Giang, Long An và Tây Ninh, quân Khơ- me đỏ ngày càng tỏ ra táo tợn và khát máu hơn. Quân ta chống trả rất khó khăn vì chưa được phép đánh hẳn sang bên kia biên giới. So sánh trong một tháng có khi số quân ta bị chết và bị thương cao hơn trong thời kỳ chống Mỹ. Vì quân Khơ- me đỏ quen thuộc địa hình, lại rất quen chịu đựng thủy thổ, cộng với ý thức quá khích được nuôi dưỡng từ lâu.

Cho đến cuối năm 1978, có quyết định chuẩn bị gấp cuộc hành quân lớn, gần bằng cuộc hành quân mùa xuân 1975, nhằm đánh thẳng lên thủ đô Pnômpênh, giải phóng cả nước, phối hợp với một số đơn vị Cămpuchia ly khai mới vừa được tổ chức lại. Cuộc hành quân này bắt đầu từ ngày lễ Nô- en 25- 12- 1978 và đến ngày 7- 1- 1979 thì đánh chiếm xong thủ đô Pnômpênh. Tôi đi cùng với cánh quân phía nam qua Tà Keo lên Pnômpênh, vào đến sân bay Pô- chen- tông tờ mờ sáng 7- 1- 1979 và trưa đó thì đến Hoàng Cung, chiều đó ghé vào đại sứ quán Trung Quốc, ngôi nhà lớn nhất và hiện đại ở thủ độ Quân Khơ- me đỏ rất ngô ngáo, gan dạ khi đánh nhau ở vùng gần giáp giới với Việt Nam, nhưng khi hệ thống phòng thủ của chúng bị chọc thủng và tan vỡ thì chúng mất hết tinh thần, bỏ chạy tan tác, hầu như không còn kháng cự có tổ chức nữa. Đêm 6, rạng ngày 7- 1 ấy chúng tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên trên đường hành quân. Chúng tôi có năm anh em làm báo quân sự đi trên một chiếc xe ô- tô com măng ca Liên Xô do thượng úy Qúy lái. Chúng tôi có đại úy Xuể, phóng viên nhiếp ảnh của báo Quân đội nhân dân, hai phóng viên của phòng phát thanh quân sự thuộc Cục Tuyên huấn, tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam, và tôi. Xe nhà báo chúng tôi xuất hành từ chiều ngày 6, ở cuối cuộc hành quân. Cánh quân này gồm có hai sư đoàn (sư đoàn 4 và sư đoàn 8 của quân khu 9). Cả thảy có đến gần 400 xe đủ loại (xe tải chở bộ binh, xe kéo pháo, xe cứu thương, xe thông tin, xe bọc thép, xe tăng, xe chỉ huy, có cả xe công binh làm cầu phà... ). Chiếc xe com- măng- ca của chúng tôi len lỏi dần lên phía trên, đến gần nửa đêm thì lên đầu sư đoàn 4, trong khi sư đoàn 8 đã ở phía trước khá xạ Tôi quyết định cho chiếc xe này tách khỏi sư đoàn 4 để cố đuổi cho kịp sư đoàn 8. Xe tắt đèn trong hành quân. Phía trước và phía sau đều có tiếng súng nổ. Quân Khơ- me đỏ mở vài cuộc phục kích, nhất là ở những đoạn đường rừng núi hiểm trở. Chiếc xe con đi một mình trong đêm tối, được chừng 10 km thì đại úy Xuể ghé tai tôi nói:

"Thủ trưởng ạ, ta đi thế này có mạo hiểm không?". Tôi yên lặng không trả lời. Chúng tôi chỉ có hai khẩu súng AK và ba khẩu súng ngắn. Chiếc xe vẫn lao lên phía trước. Bỗng tôi nóng ruột một cách khác thường. Tôi nghĩ đến trách nhiệm của mình đối với anh em. Cần dũng cảm, nhưng không nên quá mạo hiểm. Tôi bảo thượmg úy Quý: "Dừng lại, Qúy ạ. Ta đành chờ sư đoàn 4 lên thôi". Chừng 20 phút sau, sư đoàn 4 đến. Để một xe tăng dẫn đầu đi qua, chiếc xe của chúng tôi lại ghé vào đi tiếp. Chỉ chưa đày 10 phút sau, một tiếng nổ đanh vang dậy với một sức ép nhỏ. Chiếc xe tăng đi đầu khựng lại. Thì ra ở ngã ba đường, giữa một cánh rừng cao su, lính Khơ- me đã đưa một chiếc xe tăng Bát nhất của Trung Quốc còn mới nguyên đặt giữa đường và chĩa thẳng khẩu đại bác 75 ly ra phía trước và đã bắn vào chiếc xe tăng đi đầu, làm một chiến sĩ ta chết, hai bị thương nhẹ, trục truyền lực của xe bị gẫy. Anh em ta nhẩy xuống, bắn đuổi theo bọn lính áo đen đang bỏ chạy, đưa chiếc xe tăng Bát Nhất vào thay chiếc xe tăng bị bắn hỏng và tiếp tục cuộc hành quân. Xác một liệt sĩ ta được quấn vào vải trắng và đặt trên một xe cứu thương. Chúng tôi cả năm anh em hú vía! Nếu cứ đi tới thì chiếc xe con của chúng tôi ắt sẽ bị bắn nát và cả năm chúng tôi đều là liệt sĩ! Từ đó hằng năm, bốn anh em ấy thường ghé nhà tôi, họp mặt vào ngày 7 tháng giêng để nhắc lại những kỷ niệm cũ với tình cảm đồng đội gắn bó trong những ngày khói lửa.

Lần này tôi lại làm một cuộc "dấn thân". Không giống chút nào với những lần trước đây. Tôi sang Pháp cuối tháng 9 năm 1990 một mình, trơ trọi và lẻ loi. Một vé máy bay của Hàng không Việt Nam, một hộ chiếu ngoại giao, một chiếc va ly nhỏ bé có hai bộ quần áo và một chiếc túi xách nhỏ. Một nỗi buồn sâu đậm về đất nước và nhân dân trong cảnh đói nghèo, hỗn loạn, chưa có lối thoát. Một sự mong đợi đang được định hình để góp phần cứu nước khỏi cảnh lầm than, cô quạnh. Còn biết bao khó khăn, thử thách ở trước mắt. Những ý kiến của mình sẽ đạt kết quả phần nào chăng? Hay lại uổng công vô ích và chuốc vạ vào thân? Chuốc vạ cho mình, cho gia đình và cho cả bạn bè mình nữa? Thế nhưng không được ươn hèn, yếu đuối và cam chịu. Không thể bỏ mặc nhân dân trong cảnh lầm than và tuyệt vọng, chỉ biết phận mình, vô trách nhiệm với đồng bào ruột thịt của mình!

Và thế là quyết tâm dấn thân chín dần trong lòng tôi. Các con tôi đã lớn và trưởng thành. Con gái tôi là bác sĩ ở Viện Mắt trung ương. Con rể tôi là cán bộ Ở ủy ban nhà nước về Hợp tác và đầu tự Con trai tôi vượt biên trong đám thuyền nhân từ Hải Phòng sang Hồng Kông từ đầu năm 1989, là kỹ sư chế tạo máy. Sau khi tốt nghiệp trường đại học Bách Khoa Hà Nội, con trai tôi đã chán nản trước cung cách xử dụng nhân tài, muốn học thêm để nâng cao trình độ kiến thức, nhưng chất lương đào tạo trong nước quá thấp nên cố tìm cách ra nước ngoài để có điều kiện trau dồi thêm trình độ. Trong gia đình, vợ chồng tôi không khuyến khích, nhưng cũng không ngăn cản việc cháu đột ngột ra đi với trăm nỗi nguy hiểm trên đường biển. Cháu và người yêu của cháu, một nữ sinh viên sắp tốt nghiệp trường đại học sư phạm ngọai ngữ Hà Nội khoa tiếng Anh, chỉ kịp xin giấy đăng ký kết hôn ở ủy ban phường có một ngày trước hôm lên đường. Mấy tháng sau, chúng tôi mới nhận được thư và biết hai cháu đã lênh đênh trên biển vừa đúng 28 ngày. Sau đó hai cháu ở trong trại cấm gần một năm rưỡi, đến tháng 7, 1990 mới được hưởng quy chế tự do để chờ được phía Hoa Kỳ nhận vào đất Mỹ, do cô em gái ruột tôi hiện ở La Puente (Cali) bảo lãnh. Tôi vừa lo cho con trai, vừa cảm thấy yên tâm và tự hào vì nó có suy nghĩ độc lập, có ý chí và nhân cách.

Đây có lẽ là cuộc dấn thân cuối cùng trong đời tôi, một cuộc dấn thân khác hẳn mọi cuộc lên đường thời trai trẻ, thời sung sức. Thế nhưng tôi vẫn tự bảo: "không thể làm khác được, không thể ươn hèn được, nỗi bất hạnh của đồng bào ta rộng khắp quá, sâu đậm quá! Không thể để mặc cho số phận, phải làm tất cả những gì có thể làm được để góp phần đưa đất nước ra khỏi thảm họa dân tộc chưa từng có này... "

Và đúng một tuần lễ trước khi lên đường, tôi ghé về thăm quê tôi ở xã Liên bạt, huyện _ng Hòa, Hà Sơn Bình (Hà Đông) để thăm viếng mộ thày mẹ tôi. . Từ năm 19 tuổi, tôi vẫn giữ một niềm tin ở lẽ phải, cái thiện và những điều mà từ khi vỡ lòng thầy mẹ tôi đã dạy bảo: "ở hiền gặp lành, tu nhân, tích đức, đói cho sạch rách cho thơm". Thầy tôi sinh ra từ một dòng họ lớn. Cụ nội tôi là Bùi Tuấn, thi đỗ Giải Nguyên, năm 34 tuổi đỗ tiến sĩ, sau đó được cử vào làm giám khảo các cuộc thi Hương ở Nghệ An và Huế, rồi làm tổng đốc tỉnh Ninh Thái (gồm Thái nguyên và Bắc Ninh), và tham tri Bộ Binh khi cụ Nguyễn Tri Phương là thượng thư Bộ Binh. Năm 1869, khi bọn giặc Trung Quốc Ngô Côn quấy nhiễu, cụ cùng với cụ Ông ích Khiêm dẹp loạn, lập nên chiến công hiển hách, được ghi vào sử nước tạ Ông nội tôi là Bùi Tập, tuần phủ tỉnh Hưng hóa, cùng một lớp với các cụ Cao Xuân Dục, Vũ Trọng Bình, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Hữu Độ là những quan lại nổi tiếng về thanh liêm và văn học cao thời bấy giờ. Ông nội tôi mất sớm khi mới 47 tuổi.

Ba anh em cha tôi mồ côi từ tấm bé, khi hai anh cha tôi lên 7 và 10 tuổi, còn cha tôi mới lên 5, . Ba anh em phải xuống thị trấn Vân Đình, ở nhà ông chú dượng là cụ Dương Lâm để học chữ Hán. Cạnh nhà ấy là một ngôi chùa nhỏ. Ba anh em ruột Bùi Bằng Phấn, Bùi Bằng Thuận, Bùi Bằng Đoàn sáng dạ, chăm học, thường quét lá đa ở cửa chùa để đến tối đốt lên thay đèn đọc sách. Năm 1906, ba anh em lên đường vào kinh đô Huế cùng dự thi Hương và đều đỗ, gọi là đồng khoa, một điều rất hiếm. Cha tôi đổ cử nhân Hán học lúc mới 17 tuổi, ngay sau đó phải khai thêm 3 tuổi để vào trường Hậu bổ học ba năm tiếng Pháp. Cha tôi đổ đầu thi tốt nghiệp. Sau khi làm chánh án tỉnh Bắc Ninh, Tuần Phủ tỉnh Cao Bằng, rồi tỉnh Ninh Bình, đầu năm 1933, cha tôi được chọn vào Huế làm Thượng Thư (bộ trưởng) bộ Tư Pháp khi mới 44 tuổi. Mười hai năm ở kinh đô, trông nom việc xử kiện của tất cả các tỉnh Trung kỳ, cha tôi giữ một đức tính liêm khiết đến mức tuyệt đối, dồng thời trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo các bộ luật cho Trung Kỳ, các bộ luật mới này đều thảo bằng tiếng Pháp, tiếng Việt và dịch ra cả chữ Hán. Đến năm 1945, sau cách mạng Tháng Tám, cụ Hồ Chí Minh mời cha tôi ra làm việc. Hai lần đầu cha tôi từ chối, viện cớ tuổi đã cao (56 tuổi), sức đã yếu, nhưng chính là do quan điểm Nho giáo: Trung thần không thể theo hai vua!. Đến lần thứ ba cụ Hồ khẩn khoản yêu cầu, cha tôi mới nhận lời sau khi xin ý kiến hai ông anh và cả gia đình. Mới đầu cụ Hồ giao cho cha tôi làm Tổng thanh tra chính Phủ, cùng ông Cù Huy Cận làm ủy viên thanh tra, cha tôi yêu cầu: có chức thì phải có quyền, và được Chủ tịch nước đồng ý. Cha tôi đã xử lý một cách kiên quyết và công tâm một số vụ tham nhũng và lợi dụng quyền hành ở Vĩnh Phú và Hà Nam, trong đó có một số cán bộ cấp tỉnh là đảng viên cộng sản. Cha tôi làm chủ tịch ủy ban thường vụ Quốc hội từ cuối năm 1946, đến đầu năm 1955, thường ở rất gần Hồ Chủ Tịch trên căn cứ địa Việt Bắc. Khi cha tôi mất do bị chảy máu não (tháng 4, 1955), chính phủ làm lễ Quốc táng trọng thể và dự định an táng ở nghĩa trang Mai Dịch ở thủ đô, nhưng cha tôi trước khi tắt thở đã yêu cầu chôn cất ở làng quê, trên mảnh đất quê hương bên những người thân yêu. Ngoài một ngôi nhà nhỏ ba gian ở quê, cha tôi không có một ngôi nhà nào khác ở Hà Nội, hay ở những nơi khác đã từng làm việc. Khi mất, cha tôi không để lại một tài sản nào đáng kể cho tất cả mười người con, tám gái, hai trai. Chúng tôi không có cả đến một chiếc xe đạp để đi. Tất cả chúng tôi đều bảo nhau rằng, gia tài người để lại là cực quý, là vô giá: Đó là đức tính liêm khiết, trong sạch của một ông quan đại thần suốt đời sống dản dị, khiêm nhường, được cả xã hội quý trọng về đức độ và nhân cách. Chính đức tính ngay thật, thẳng thắn tất cả vì lẽ công bằng của xã hội của cha tôi đã cổ vũ tôi hôm nay dấn thân vì cuộc sống của đồng bào và đất nước thân yêu.

Tôi cũng đã thắp nén hương trên mộ mẹ tôi, ở ngay bên mộ cha tôi. Mẹ tôi là vợ thứ hai của cha tôi, bà cả mất sớm trước khi cha tôi vào Huế. Bà cả có năm con đều là con gái. Mẹ tôi đẻ năm lần, hai trai, ba gái. Bà cả thuộc gia đình nho giáo. Mẹ tôi xuất thân từ một gia đình nhà nghèo ở miền quê Bình Lục, Hà nam (nay là Hà Nam Ninh). Chính giọng hát quyến rũ của mẹ tôi với những làn điệu sa mạc, ca trù, ả đào... đã làm cha tôi mê mệt. Mẹ tôi lại ham làm, luôn tay khâu vá, làm bánh, nấu nướng, muối dưa, muối cà, làm tương... ngay cả khi đã được gọi là "bà lớn"... Điều tôi nhớ nhất ở mẹ tôi là tấm lòng nhân ái, thương người, chỉ thích làm quen, kết bạn, chơi thân với những người giản dị, ít kiểu cách. Sau cách mạng Tháng Tám tôi đi bộ đội xa, không cho gia đình biết nơi tôi hoạt động. Mẹ tôi cố đi tìm ở những trại Quân giải Phóng mà không thấy. Từ đó mẹ tôi luôn có các anh em bộ đội ghé qua nhận làm mẹ nuôi và chăm sóc anh em như là chăm sóc con đẻ vậy. Lòng nhân ái và lòng vị tha sâu đậm, sống chan hòa với xung quanh trên căn bản của Tình Người ấy đã có ảnh hưởng quyết định đến cuộc sống tình cảm của tôi, và cũng là một động lực thôi thúc tôi hôm nay...

Tôi tin rằng đất nước mình không thể nghèo khổ, bị đọa đầy mãi được, nhân dân mình không thể cam chịu cảnh đạo lý bị đảo ngược và tan vỡ, xã hội bị đảo điên đến thế này. Đó là điều không ai có thể chấp nhận. Chung một lòng cứu vãn đất nước khỏi khủng hoảng, tất cả những người có lương tri, trọng nhân cách và đạo lý ắt phải tập hợp nhau lại. Sát cánh đấu tranh cho tương lai của dân tộc. Và tôi thấy trong lòng có một sức thôi thúc mạnh mẽ đến quyết liệt để dấn thân..
III. CÂY BÚT

Tôi bước vào nghề báo từ tháng 10, 1964, sau một chuyến đi nghiên cứu ở Tây Nguyên và khu Năm gần một năm. Tình hình ở báo Quân dội nhân dân đang khá căng thẳng. Tổng biên tập cũ Văn Doãn, sau khi theo học trường đảng cao cấp, đã xin cư trú chính trị Ở Liên Xô từ năm 1962. Tổng biên tập mới Hoàng Thế Dũng cũng vừa bị đình chỉ công tác vì không tán thành nhiều quan điểm chủ yếu của Nghị quyết trung ương lần thứ 9. Từ khi còn ở quân khu 4, tôi từng viết một số bài đăng trên báo Quân đội nhân dân. Chính đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng cục chính trị đã đưa tôi về báo Quân đội. Tôi được phân công chuyên trách về biên tập các vấn đề thời sự, thời sự trong nước và thời sự quốc tế. Đồng thời tôi cũng cộng tác với các tạp chí Quân đội mhân dân, tạp chí Học tập (cơ quan lý luận của đảng cộng sản Việt Nam) qua những bài phân tích về thời cuộc. Bài "Vết thương sọ não" giới thiệu cuốn sách "Những người xuất sắc nhất" của David Hamberstam rất được chú ý. Công việc thời sự bắt tôi phải đọc khá nhiều sách báo nước ngoài và tiép xúc với nhiều nhà báo quốc tế đến thăm Hà Nội, khi Mỹ leo thang đánh phá miền bắc bằng không quân.



Đầu năm 1972, sau khi ở chiến trường Quảng Trị về, tôi được ban bí thư trung ương đảng biệt phái sang báo Nhân dân do tình hình chiến sự miền nam bước vào thời kỳ sôi động. Nhiệm vụ của tôi là làm chiếc cầu nối giữa Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục chính trị và báo Quân đội nhân dân với báo Nhân dân của đảng. Với thẻ ra vào đặc biệt, được Bộ tư lệnh cảnh vệ Bộ quốc phòng cấp, cứ ba tháng lại cấp lại một lần, tôi có thể ra vào tất cả các cơ quan của Bộ Quốc phòng như Cục Tác chiến, , cục Tuyên huấn, bộ tư lệnh phòng không không quân, Bộ Tư lệnh Pháo binh, Bộ tư lệnh Hải quân, Bộ tư lệnh các Quân khu... , dự các cuộc phổ biến tình hình tuyệt mật, đọc các thông báo quân sự của Bộ tổng tham mưu. Do tình hình của cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ diễn ra rất quyết liệt trên miền Bắc, nên sáng nào tôi cũng dự cuộc giao ban ở Bộ Tổng tham mưu, rồi trở về thông báo lại cho Ban biên tập báo Nhân dân, và góp ý kiến để xử lý ngay việc viết bài (xã luận hay bình luận, tường thuật, tin chiến sự, chụp ảnh... ) và cử phóng viên đi các nơi để viết bài ngay trong ngày. Công việc thật căng thẳng và vất vả thường đêm nghỉ lại ở tòa soạn, có hôm nghỉ ngay trong hầm tránh bom vì báo động kéo dài và không quân Mỹ đánh ngay thủ đô vào ban đêm.

Chỉ riêng năm 1972, tôi viết hơn 80 bài gồm cả xã luận, bình luận các trận đánh ở miền Nam và ở miền Bắc, tổng hợp tình hình chiến sự, nhiều bài về người lái Mỹ bị giam giữ tại khách sạn Hilton Hà Nội, từ những người lái Thần Sấm F105, con ma F4, Cánh cụp cánh xòe F111 và Pháo đài bay B52 (mỗi tốp lái có 5 hoặc 6 người). Tôi từng hỏi chuyện Alvarez, Schumaker, những người lái bị bắt đầu tiên, đại tá Risner từng tham gia chiến tranh Triều Tiên, các đại tá lão luyện Flynn, Denton, Stockdale, trung tá Hải quân MacCain định đánh dứt điểm nhà máy điện Yên phụ, nhưng bị trúng đạn và nhẩy dù xuống hồ Trúc bạch...

Trong tháng chạp 1972, sau 12 ngày đêm liền Mỹ ném bom rải thảm vào các thành thị miền Bắc, các cuộc thương lượng ở Paris được nối lại và dẫn đến ký hiệp định Paris. Tôi được cử vào doàn đại biểu nước Việtnam dân chủ cộng hoà trong uỷ ban quân sự bốn bên, làm uỷ viên chính thức kiêm người phát ngôn của đoàn.

-Đoàn ở trong trại Davis, một khu nhà gỗ vốn cuả một đơn vị truyền tin Mỹ, trong sân bay Tân sơn Nhất, Sàigòn. Tôi vừa tham dự cuộc họp chung cuả bốn đoàn, vừa tiếp các nhà báo quốc tế ngay tại trụ sở, viết bài cho báo quân dội nhân dân và báo nhân dân. Có đến 14 phóng viên báo quân đội và 6 phóng viên báo nhân dân tham gia các đoàn ở Sài gòn và các đoàn ở đia. phương như Huế, Đà nẵng, Buôn mê thuột, Biên hoà, Mỹ tho, Cần thơ... Ngày 29. 3. 1973 thiếu tướng Lê quang Hòa, trưởng đoàn đại biểu quân sự giao cho tôi quan sát buổi rút cuối cùng của quân nhân Mỹ ở sân bay Tân sơn nhất.

Tôi không tìm kiếm hư danh, không cố làm để cho mình nổi tiếng, để lấy "le", như bà con trong nam thường nói. Do công việc tôi đãm nhận, tôi cũng không bao giờ thoái thác những công việc vất vã, căng thẳng hay nguy hiểm để đùn cho người khác, nên tôi được chứng kiến hai sự kiện quan trọng. đó là lúc người Mỹ rút quân, và lúc chính quyền Sài gòn sụp đỗ ngày 30. 4. 1975

Thời kỳ 1976, 1977, tôi ở trong thành phố Hồ chí Minh, phụ trách cơ quan đại diện của báo quân đội nhân dân ở phía nam, viết tin, phóng sự điều tra về các trại cải tạo sĩ quan, viên chức chính quyền Sài gòn, về các cuộc bài trừ "gian thương, " các cuộc "cải tạo giai cấp tư sản" và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp... Tất cả những chính sách vội vã, dùng mệnh lệnh hành chính thay cho thuyết phục, làm lòng dân không yên, sản xuất không phát triển, làm cho tôi bắt đầu chán ngán, mệt mỏi và nhiều lúc bực bội. Câu nói một nhà báo Mỹ thật là sâu sắc "Các ông đã thắng trong chiến tranh, nhưng đã không thắng được trong hoà bình, các ông không chinh phục cũng không giải phóng được miền nam, các ông xử sự như những đội quân chiếm đóng".

Trong những năm 1978, tôi đã đến các trại tỵ nạn người Cămpuchia ở Bến sắn (Tây Ninh) và hỏi chuyện chừng hơn một trăm người, gồm sư sãi, nhà báo, một số giáo sư bác sĩ, một số công nhân và nông dân, sau đó tôi viết một bài phóng sự dài về những gì đã xẫy ra ở Cămpuchia sau khi Khờ me đỏ nắm quyền từ 17. 4. 1975 và lần đầu tiên dùng hai chữ "Diệt chủng ". Bài báo gửi ra tòa soạn báo nhân dân ở Hà Nội vào tháng 5. 1978, nhưng tổng biên tập ngần ngại không đăng vì lúc đó vẫn coi đảng của Pôn- Pốt là "Đảng cộng sản anh em". Tôi phải ra Hà Nội với 4 cuốn sổ tay dày ghi các cuộc phỏng vấn, trình bày những điều tôi đã nghe kể, toàn là những chuyện giết người hàng loạt một cách man rợ, bằng gậy, bằng cuốc xẻng, với những hố chôn người tập thể, những đám cưới tập thể kỳ cục, dẫn đến một đất nước không có thành phố, không có chợ búa, trường học và bệnh viện, không có tiền bạc, không có màu sắc, chỉ có một mầu đen mốc thếch, máu, nước mắt và sự tuyệt vọng. Đến tháng tám, bài của tôi được đăng kèm theo sáu bức ảnh của tôi chụp... Sau cuộc hành quân vào Cămpuchia tháng giêng năm 1979, tôi viết một cuốn sách về cuộc hồi sinh nhanh chóng cuả đất nươc chùa tháp sau nạn diệt chủng với đầu đề "Trên đất nước của nụ cười không bao giờ tắt", do nhà xuất bản Văn Học thành phố Hồ chí Minh phát hành. Đây là cuốn sách thứ bảy của tôi.

Tôi nhớ lại cuốn sách đầu tay của tôi là cuốn "Liên khu năm bất khuất" do nhà xuất bản Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1965. Sau đó là cuốn " Dưới bóng tòa đại sứ Mỹ" do nhà xuất bản của Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam xuất bản năm 1972, được dịch ra ba thứ tiếng: Pháp, Anh và Tây Ban Nha, với nội dung nói về chính quyền Nguyễn văn Thiệu trong quan hệ với Oa- sinh- tơn. Đầu năm 1973 nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản cuốn sách thứ ba của tôi "Những người hùng Mỹ chóng mặt", viết về những người lái máy bay Mỹ bị bắt, những "khách du lịch" không mời mà đến trong khách sạn Hin- tơn Hà Nội. Cuối năm 1973 nhà xuất bản Văn học in cuốn sách thứ tư "60 ngày ở Sài Gòn" viết theo kiểu nhật ký ghi lại những sự kiện trong 60 ngày ở Sài Gòn ngày sau khi ký Hiệp định Pa- rị Năm 1976 nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh in cuốn sách thứ năm của tôi mang đầu đề "Sài Gòn, trong ánh chớp của lịch sử. " ghi lại những sự kiện tháng 4 và tháng 5. 1975. Năm 1982, sau khi theo dõi cuộc chiến đẫu ở Lâm Đồng, Buôn mê thuộc và Công- tum, Plây- cu để giải quyết tận gốc phong trào chống đối vũ trang Ful- Rô, tôi viết cuốn: "Ful- Rô, con bài thời hậu chiến", do nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh in. Năm 1987, nhân dịp kỷ niệm 70 năm cách mạng Tháng mười ở Liên Xô, tôi viết cuốn " 70 năm khai phá và sáng tạo ", dựa trên những con số thống kê trên báo chí Liên Xô (Phần lớn là những con số thổi phòng quá đáng để tuyên truyền!" và giới thiệu cuộc cải tổ theo hướng Pê- re- xtrôi- ka của Gorbachev, những đổi mới chính trị và kinh tế còn mới phôi thai và chập chững ở Liên Xộ Đây là cuốn thứ tám của tôi. Đó là những cuốn sách mang nhiều nét cụ thể sống động, được thể hiện với ít nhiều mục đích tuyên truyền kịp thời.

Cuốn sách tôi đang viết đây là cuốn thứ chín, là cuốn sách tôi viết với nhiều đắn đo suy nghĩ nhất. Chắc chắn là cuốn sách mang tâm huyết. Tôi cố viết thật trung thực, đúng như sự thật, có thế nào nói như thế. Tôi tự xác định một thái độ tỉnh táo, không cay cú, không tức giận, không thù oán, có thể dẫn đến thiếu khách quan, không khoa học. Tôi viết cuốn sách này để bạn đọc trong nước và nước ngoài hiểu rõ hơn một thời kỳ sôi nổi của đất nước, từ đó rút ra những kết luận cần thiết. Tôi nghĩ nhiều nhất đến các bạn trẻ, từ mười tám, đôi mươi đến ba mươi, bốn mươi tuổi, những người sẽ đưa đất nước vào thế kỷ 21. Ước mong rằng các bạn sẽ có thể hiểu rõ một thời kỳ có nhiều sự đánh giá khác nhau, do những chổ đứng và quan điểm khác và trái ngược nhau, và từ đó tự mình xem xét lịch sử của đất nước bằng cái đầu tỉnh táo của chính mình, làm giàu thêm hành trang nhận thức và tư tưởng để cùng nhau đưa đất nước vào một thời kỳ dân chủ, hòa hợp, phát triển và hạnh phúc cho mọi người dân Việt nam ta.

Có mấy anh bạn ở Paris thường hỏi tôi : Trong mấy chục năm làm báo cộng sản, anh thấy những điều gì lý thú và bổ ích nhất? Thì ra đây là một vấn đề tôi suy nghĩ rất nhiều trong gần 10 năm lại đây. Từ khi tôi được đọc đều các báo Mỹ, báo Pháp, báo Anh như: Newsweek, Far Eastern economic review, Le Monde, Liberation, Time, The Independent... và gặp gỡ trao đổi ý kiến với cả trăm phóng viên báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình các nước, tôi thấy làng báo Vietnam ta cổ lỗ thủ cựu quá! Có nhiều người có tài năng, cũng có ý định tốt đẹp, có tâm huyết, nhưng cái cơ chế quan liêu nó đè nặng, triệt tiêu hết mọi tài năng và tâm huyết... Tôi đâm ra thất vọng. Tôi từng lên lớp cho anh chị em sinh viên khoa báo chí của trường tuyên huấn trung ương, lên lớp cho cả lớp bổ túc được dành cho các phóng viên báo chí ở Lào và Cămpuchia, tôi vẫn thường nêu một cách ngay thật những yếu kém cổ lỗ của báo chí Việt nam, cũng như của báo chí các nước xã hội chủ nghĩa.

Cái tệ đầu tiên là báo chí rất coi thường người đọc báo, mặc dầu câu đầu lưỡi là vì nhân dân, là phục vụ nhân dân. Đây là một nền báo chí quan liêu, chuyên lên lớp, răn dạy, đe nẹt người đọc. Theo thuyết định hướng dựa trên lập trường đấu tranh giai cấp được hiểu một cách máy móc, báo chí cho người xem biết được những điều gì là tùy thuộc lợi ích tuyên truyền, do đó sự thật bị bóp méo, bị sai lạc đi rất nhiều. Có cả một khoảng cách to lớn, một sự đối lập giữa cuộc sống thật và những điều báo chí nói đến. Khẩu hiệu đưa ra từ Dại hội đảng lần thứ 6 :"Nói thẳng, nói thật, nói hết" vẫn chỉ tồn tại về đại thể trên giấy, người đọc không tin, chê bai, không muốn đọc báo chí là vì thế. Có người nói đùa một cách chua cay rằng, trên báo nhân dân chỉ có tin dự báo thời tiết là có thể tin cậy phần nào, (vì vẫn có trường hợp dự báo sai), có thể tin được hoàn toàn chỉ là tin buồn, tin cáo phó. Họ nói quá để nhấn mạnh một cái tật.

Cái tệ rất nghiêm trọng nữa của báo chí là căn bệnh quan liêu bao cấp, ăn quá sâu đến mức không sao thay đổi hay cải tiến được, phải có một cuộc cách mạng về quan niệm và tổ chức. Tổng biên tập nhiều khi chỉ là cán bộ tổ chức, cán bộ tuyên huấn, không có tay nghề và năng khiếu làm báo. Cũng như ở các nghành kinh tế, người không am hiểu thì chỉ đạo người ít nhiều am hiểu hơn, người giỏi dạy người kém chứ ai lại để người dốt, người kém ngồi trên người am hiểu hơn, sự trái khoáy là ở chổ đó. Anh phóng viên viết một bài báo, anh phó phòng chữa rồi ký duyệt, anh trưởng phòng xem lại, sửa thêm rồi ký, sau đó ông phó tổng biên tập xem lại, sửa, ký rồi ông thư ký tòa soạn sửa thêm nữa và cuối cùng ông tổng biên tập ký duyệt... Một bài báo phải qua 4 đến 5, 6 chữ ký! Qua mỗi vị bài báo lại bị cắt xén, sửa chữa cả ý, lời, thêm bớt ít nhiều, cho đến khi ra mắt người đọc thì chỉ còn là "Một công trình tập thể" tròn trịa, đủ ý tứ, nhưng không có thịt da, không còn gì là nét riêng, dấu ấn riêng, tư duy riêng của người viết nữa, có khi người viết đọc lại bài đã được sửa, không còn nhận ra đứa con tinh thần của mình.

Do đó bên cạnh những căn bệnh kinh niên của báo chí là ngoa ngôn và đại ngôn (nghiã là dùng những chữ rất ồn ào mà rỗng tuếch như: Vĩ đại, anh hùng, vô cùng, cực kỳ, rất là, tuyệt đối... )thì nạn công thức hoành hành dữ dội. Viết xã luận kỷ niệm ắt phải mở đầu bằng: Trong không khí tưng bừng phấn khởi... , nhắc đến nghị quyết thì ắt phải mở đầu là: Dưới ánh sáng của đại hội Đảng... nhắc đến nhiệm vụ thì ắt phải viết: Chúng ta phải ra sức quán triệt... , (chữ quán triệt là một chữ tàu được dùng bừa bãi, vô tội, vạ, có khi trong bài lắp đi, lắp lại hàng chục lần, có thể nói không có số nào là không có!).

Đến bao giờ trong làng báo Việt Nam nhập được vào làng báo thế giới để theo cùng một cung cách đánh giá bài báo, đánh giá người viết báo thì báo chí ta mới khởi sắc lên được. Nếu không vẫn bị sa lầy trong làng báo công chức, thủ tiêu hết mọi cá tính của các bài báo, của mỗi một người viết báo. Theo hệ thống công chức, tài năng làm báo được xếp đặt theo bậc lương theo kiểu cách ở cơ quan hành chính, từ cán bộ tập sự lên cán sự từ bậc 1 đến bậc 6, rồi chuyển lên chuyên viên, từ bậc 1 lên bậc 6, bậc 7... Cứ 3 hay 4 năm lại được bình để lên chức một lần. Anh ở bậc cao hơn luôn tự cho mình là nhà báo kỳ cựu, giỏi hơn anh ở bậc thấp hơn mình! Anh có quyền sửa bài của người khác thuộc cấp thấp hơn! Nghĩa là một làng báo theo đẳng cấp chặt chẽ, dựa vào cấp bậc, theo bậc thang công chức, nấc thang lương bổng!

Chính do những căn bệnh và những cái ách quan liêu dè nặng mà những cây bút có thể là có tài, thường là những cây bút trẻ, có nhiều triển vọng, có suy nghĩ và tìm tòi, có nghị lực thâm nhập cuộc sống và có lương tâm nói lên sự thật... , đều gặp những khó khăn chồng chất, bị kẹt cứng trong bộ máy cổ lỗ, các bài vở của họ bị bác bỏ phê phán, họ bị chụp mũ đủ thứ : tự do, không thuần, học đòi theo báo chí tư sản, thiếu tính đảng... Và thế là cả làng báo Viet nam phải trở về khuôn phép, nhà báo trở thành thợ viết, viết cho trên hài lòng, viết theo com măng của cấp trên, viết theo " gu " của trên, viết theo kiểu vô thưởng vô phạt, các bài viết trên đại thể là giống nhau, một vấn đề, một đề tài nào đó được phân công viết thì ai nấy viết theo một kiểu cách giống nhau, đọc phần trên đã đoán ra phần dưới, đọc tít bài đã đoán ra cả bài, đọc câu đầu đã đoán ra câu sau... Một làng báo rất "tập thể", rất nhàm chán, rất xuôi chiều, mà cái thiếu lớn nhất là dấu ấn của cá nhân, dấu ấn của cây bút mang tên của tác giả bài báo. Nhiều tài năng báo chí bị chết yểu, bị triệt tiêu, bị loại bỏ vì những quan điểm bảo thủ, lạc hậu về báo chí, vì căn bệnh coi tập thể là tuyệt đối, đối lập tập thể với cá nhân, đi đến thủ tiêu cá tính. Ngẫm nghĩ kỹ thì đó chẳng phải của riêng làng báo, mà đó là số phận hẩm hiu và bế tắc của mọi trí thức, mọi tài năng khoa học, văn hóa nghệ thuật và kinh doanh trong một bộ máy còn quá lạc hậu, và lạc lõng với thế giới ngày nay.

Cuối năm 1989, khi luật báo chí được quốc hội thông qua và công bố tại Hà nội, một số phóng viên ở các nước Đông nam á xin vào Việt nam để đưa tin. Sau cuộc họp báo ở câu lạc bộ quốc tế, nghe đại diện bộ thông tin giới thiệu dài dòng về luật báo chí mới, một phóng viên báo Nation ở Bangkok lắc đầu chán ngán, để rồi điện về Thái lan một mẩu tin ngắn gọn: " Luật báo chí của Việt nam được công bố hôm nay có hai nét nổi bật, đó là nhà nước kiểm soát chặt chẽ báo chí và cấm tư nhân ra báo. Chấm hết ".

Qủa thật ngành tuyên huấn của đảng và ngành thông tin của nhà nước kiểm soát rất chặt chẽ báo chí, cả về nội dung hình thức, tổ chức các tòa soạn, nề nếp làm việc và công tác phát hành. Tháng 7. 1990 một chỉ thị của ban tư tưởng và văn hóa của trung ương đảng gửi cho tất cả những người phụ trách báo chí, đài phát thanh, và truyền hình của cả nước : Từ nay không được nói đến chữ Staline và đa nguyên. Ai để lọt hai chữ này sẽ chịu trách nhiệm trước dảng và nhà nước. Thế là tất cả dều phải im rẹ Vì nói dến Staline là nói dến tệ sùng bái cá nhân một cách cực đoan là nói đến tác phong thiếu dân chủ, chuyên quyền, dộc đoán và tàn ác, vi phạm quyền tự do của công dân, nói đến Staline là khơi lại những vụ án chính trị, khoa học và văn hóa bất công, sẽ làm nẩy nở những yêu cầu minh oan vì công bằng xã hội và dân chủ ở Việt nam, diều mà lãnh đạo rất lo sợ. Nói đến đa nguyên là nói đến dân chủ, ắt dẫn đến quan niệm đa đảng, một điều tối kỵ đối với cơ quan lảnh đạo.

các nước phương tây, người làm báo có một vị trí xã hội khá đậc biệt, được dư luận xã hội coi trọng, được chính quyền vị nể. Đó là vì có quy luật cạnh tranh đào thải, rất gay gắt. Chỉ còn tồn tại lâu bền những người làm báo thật sự có tay nghề cao, bất kể tuổi tác, tuổi nghề ra sao. Những bài viết của họ tạo cho chữ ký của họ uy tín xã hội lớn. Đó là uy tín nghề nghiệp có thực chất. Các báo chí, các nhà xuất bản nổi tiếng, các hãng truyền hình đều cố tìm đến những nhà báo để mời viết bài, viết sách và gặp gỡ người đọc, người nghe và người xem truyền hình... Các nhà báo dều bình đẳng. Sự phân biệt giá trị duy nhất là tài năng là do sự tự rèn luyện mà nên. ta cơ chế quan liêu, cách thức quản lý báo chí cổ hủ đã làm thui chột, bóp chết mọi tài năng báo chí. Thước đó giá trị của người viết báo trên thực tế không phải tài năng nghề nghiệp mà thường là những tiêu chuẩn ngoài nghề nghiệp, làm cho báo chí chỉ phát huy dược khả năng động viên, cổ vũ trong chiến tranh và tỏ ra bất lực, nhạt nhẽo và quá ít hiệu quả xã hội trong xây dựng đất nước.

Không biết bao nhiêu lần tòa soạn báo Nhân dân đã thảo luận về chức năng của mình. Đây là cơ quan ngôn luận chính thức của đảng cộng sản Việt nam, đồng thời do chưa có "Công báo", chưa có tờ báo chính thức của chính phủ và quốc hội, nên báo nhân dân được kiêm nhiệm thêm là tiếng nói của đảng, của nhà nước, của chính phủ và của quốc hội nữa. Do đó các ủy viên bộ chính trị nào cũng gọi đến báo nhân dân để ra chỉ thị. Có khi tổng bí thư, có khi chủ tịch hội đồng nhà nước, hoặc chủ tịch quốc hội và rất nhiều lần chủ tịch hội đồng bộ trưởng chính thức chỉ thị cho báo Nhân dân phải viết tin, đưa bài, đưa ảnh về hoặt động cơ quan mình. Rồi các trưởng ban trung ương (có hơn chục ban), các bộ trưởng và thử trưởng, đều coi báo Nhân dân có trách nhiệm đưa bài, tin về ngành mình. Thế là báo Nhân dân trở thành diển đàn chung của tất cả bộ máy đảng và nhà nước, nó nghiễm nhiên trở thành một kiểu công báo nặng nề, khô khan, tẻ nhạt, toàn là chuyện hội họp, lể lạt, chỉ thị nghị quyết, các đoàn thăm viếng chính thức, với các diễn văn đưa đón, chiêu đãi, tiễn biệt... Như là tra tấn người đọc vậy.

Từ sau đại hội 6 của dảng cộng sản Việt nam, có một tư duy mới được hình thành, đó là: Báo chí của ta, báo Nhân dân vừa là báo chí của đảng, vừa là diễn đàn của nhân dân. Thật là hay, thật là đẹp và đủ nữa! Về lý luận, báo chí dược coi là công cụ của sự nghiệp đổi mới, công cụ của quá trình dân chủ hóa, nghe càng hay, càng kêu! Thế nhưng làm được đầy đũ hai chức năng đó thật khó, có khi mắc kẹt. Vì trong khi lãnh đạo của đảng có nhiều sai lầm, nạn tham nhũng lan tràn như bệnh dịch trong các cơ quan nhà nước, các cơ sở kinh tế, lòng dân không yên, họ phẫn nộ và căm giận với những kẻ thối nát và bất tài đang cầm quyền, thì báo nhân dân đứng về phía nào? Có dám mạnh dạn đứng về phía Nhân dân không? Và rõ ràng báo Nhân dân đã được chỉ đạo là trước hết và trên hết phải báo vệ uy tín của đảng và nhà nước và phải rất gượng nhẹ, có tính toán liều lượng trong việc đưa những bài phê bình chỉ trích của nhân dân, của bạn đọc.

Cho nên những nhà báo lão thành hay đùa kiểu châm biếm : Báo thì của đảng, mà lại lấy tên là Nhân dân! Và lại có người hóm hỉnh nói : Mình sẽ cùng một nhóm ra một tờ báo tư nhân lấy tên là : Đảng, ai có hỏi thì xin trả lời rằng : Đảng đã lấy mất cái tên thật của chúng tôi, nay chúng tôi xin lấy lại tên của đảng vậy. Để thương lượng, trao đi đổi lại, trả lại cho nhau cái tên thật của mỗi bên.

Giữa năm 1990, tất cả cán bộ đảng viên đều phải tiến hành phê bình và tự phê bình sau khi nghiên cứu và thảo luận về nghị quyết 8 của trung ương. Có nghị quyết 8 A (Về quan hệ giữa đảng và quần chúng) Nghị quyết 8 B (Về tình hình các nước Đông âu). Các bản tự phê và phê đều phải viết tay, ký tên đưa cho cán bộ tổ chức để ghép vào hồ sợ báo Nhân dân, tôi cảm thấy mình là một đối tượng của cơ quan tổ chức, mặc dù tôi là phó tổng biên tập Kiêm Trưởng ban văn hóa và văn nghệ (cho cả báo nhân dân hàng ngày), đồng thời trực tiếp tham gia các bài viết về quan hệ quốc tế, về quốc phòng và an ninh... Tôi không bao giờ tránh né lo lắng, nhưng đàng hoàng và tự tin. Sau khi tổng biên tập kiểm điểm, đến lượt tôi. Tôi nhắc lại: Các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu sụp đổ nguyên nhân bên trong là chính, tuy có nguyên nhân bên ngoài. Đây là theo phép duy vật biện chứng. Do không có dân chủ, do bệnh quan liêu, vô trách nhiệm. Tôi cho rằng đa nguyên là đúng, là cần thiết, là cơ sở của đổi mới. Tôi cho rằng trung ương thi hành kỷ luật đồng chí Trần Xuân Bách, đưa ra khỏi bộ chính trị, ban bí thư, ban chấp hành trung ương là quá nặng. Có chừng hơn 30 cán bộ trong phòng họp (từ phó ban biên tập các chuyên nghành trở lên) Một cán bộ phụ trách ban bạn đọc chất vấn " Anh Thành Tín cần xem lại quan điểm của mình có ăn khớp với quan điểm của đảng không? nhà tập thể tôi ở, vừa rồi họ gọi nhau đi nghe băng ghi âm anh nói chuyện ở đâu đó, có tới 4, 5 chục người kéo đến một buồng nhỏ để nghe, có người con khen : Nói chuyện thế mới là nói chuyện chứ, hơi đâu mà nghe các ông tuyên huấn". Một phó tổng biên tập móc máy:"Số tết báo Nhân dân vừa rồi, bài anh Thành Tín viết nhận định về tình hình Đông âu là không chặt chẽ, là không khớp với nhận định của đảng". Tôi trả lời " Vâng đó là bài báo: sắc xuân của dòng chảy trong đó tôi viết: sự độc ác đối với con ngưòi, đi cùng tệ quan liêu, độc đoán và tham nhũng luôn luôn xa lạ với con người cộng sản chân chính, những điều nhân dân không bao giờ chấp nhận và cam chịu. "

hội trường lớn trường đảng Nguyễn i Quốc ở Hà Nội tháng 4. 1990, tôi đã nói rõ " Đảng đã bao biện, ôm dồm, dẫm chân lên chính quyền quá lâu rồi, đã đến lúc phải trả lại toàn bộ chính quyền cho các cơ quan dân cử. Có thể nói chính đảng đã vi phạm có hệ thống hiến pháp là luật cơ bản của đất nước, trong một thời gian dài. Hiến pháp chỉ rỏ rằng : nước ta, toàn bộ chính quyền thuộc về tay nhân dân, thông qua các cơ quan dân cử là hội đồng nhân dân và quốc hội. Nhân dân không bầu ra trung ương đảng và không bầu ra bộ chính trị. Trung ương đảng và bộ chính trị quyết định những nội dung, biện pháp, chỉ số, chính sách, về kế hoạch nhà nước trong 5 năm hay trong 1 năm về nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp v. v... đều là sai nguyên tắc, làm vậy là lấn quyền của quốc hội và hội đồng nhân dân... "

Chính tháng 5. 1990, Bộ nội vụ mời tôi nói chuyện về tình hình trong nước và người nghe gồm cán bộ trung cao cấp của bộ và sở công an Hà Nội. Tôi nói về số lượng quân đội và an ninh quá cao, cao một cách kinh khủng so với tỷ lệ các nước khác, tôi nhận xét thêm " Một vị lãnh đạo không nhận giải thưởng hòa bình Nô - Ben (Đây là chủ trương của đảng) là một thái độ chủ quan, kiêu ngạo, rất không nên, làm mất cảm tình của dư luận và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới". Khi nói chuyện xong tôi hỏi mấy cán bộ tuyên huấn và an ninh " Thế nào mình nói thể có mạnh quá không?" Các vị đều vui vẻ trả lởi "Anh em rất thích thú, anh nói thẳng thắn, đầy sức thuyết phục, cuộc nói chuyện hết sức bổ ích... "

Cũng vào giữa 1990, anh em ở tỉnh Hà nam Ninh và thị xã Ninh Bình mời tôi về nói chuyện. Đây là một chuyến đi khó quên. Anh phó chủ tịch tính đưa tôi cùng mấy anh em phóng viên trẻ xuống vùng biển Xuân Thủy, ra thăm những vùng cồn cát bạt ngàn vửa nỗi lên mấy năm nay, do nước biển rút dần ra xa, Chúng tôi thăm cồn Lu, rồi vùng Bạch Long, nơi cách đây vừa đúng 60 năm, khi cha tôi làm tri phủ ở phủ Xuân Trường, đã đôn đốc bà con ỏ phủ đắp đê lấn biển, dành được hơn hai nghìn mẫu đất ruộng. Đê quai ấy vẫn còn và còn cả một sinh từ miếu thờ người có công từ khi người ấy còn sống, dựng lên từ hồi đó, để ghi lòng biết ơn của nhân dân đối với sự nghiệp lấn biển phục vụ dân sinh ấy. Tôi nhớ lời kể của cha tôi cho các chị em tôi về công cuộc đắp đê ấy khi chúng tôi còn học ở Huế. Hồi đó cha tôi luôn đứng trên mặt đê, có lúc suốt cả ngày và đêm, chỉ ăn bánh quy và nước chè nóng đựng trong chiếc téc- mốt nhỏ. Một chi tiết làm tôi nhớ mãi là sau đó, khi làm tuần phủ ở Ninh Bình, rồi làm thượng thư ở triều đình Huế, thầy tôi khi đi các địa phương để làm việc không bao giờ ăn uống ở nhà nhân dân vì luật lệ cấm rất ngặt việc các quan lại phiền nhiễu, hà sách nhân dân thuộc quyền... Tôi vừa được biết mới đây, trong tháng ba, tháng tư 1991 Tổng cục an ninh cử người xuống Nam Định và thị xã Ninh Bình điều tra về các buổi nói chuyện của tôi hồi năm ngoái (Tôi nói chuyện với cán bộ báo chí và ngân hàng tỉnh 2 buổi và 2 buổi nữa ở xí nghiệp Cảng và nhà máy cơ khí Ninh Bình) Anh em ở đây trả lời một cách bình tỉnh: " Vâng, chúng tôi có mời anh Thành Tín xuống đây nói chuyện. Chúng tôi biết trường đảng cao cấp Nguyễn ái Quốc và bộ nội vụ cùng mời anh ấy đến nói chuyện kia mà. Vì anh ấy là phó tổng biên tập báo nhân dân, khi nghe anh ấy nói chuyện, chúng tôi đều thấy hay và bổ ích. "

Tháng 8. 1990, khi chuẩn bị sang Pháp, các bạn tôi ở Hà Nội vừa đi công tác vào Vinh, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh về cho tôi biết ỏ những nơi nầy đều có bán băng ghi âm những buổi nói chuyện của Thành Tín, mỗi băng 3000 đồng! Một bạn ở Hà Nam Ninh cũng cho tôi biết các cửa hàng sang băng ở chợ Rồng Nam Định có kinh doanh băng nói chuyện của tôi! Và những băng ấy được đưa vào tận Rạch Giá, Minh Hải... cũng như leo lên tận Lai Châu, Sơn La... Một anh bạn què ở Vinh về thăm nhà cũng mang ra băng nói chuyện của tôi ở Ninh Bình do các bạn anh ở Vinh sang lại và làm quà. Tôi nói vui rằng " Vậy mà mình không có một trinh bản quyền nào hết!" Tôi biết bà con ta nhất là các bạn trẻ, đang khao khát những thông tin mới mẻ, chân thật và trung thực. Họ đã chán ngấy những bài báo, những cách nói hô hào suông, đạo lý rỗng, nói lấy được, kiểu đại ngôn và ngoa ngôn không còn lọt tai nổi, ví như hai chử "Chúng ta". Chúng ta đã sai lầm, chúng ta đã phạm khuyết điểm, chúng ta đã mất thời gian... để hòa cả làng, để dĩ hòa vi quý, để xuề xoà với nhau và không còn ai biết tội lỗi thuộc về ai cả! Văn kiện đại hội 7 cũng ghi thả cửa : Chúng ta, là ai? Là tất cả mọi người, không còn là ai sất cả! Hòa! Cười trừ! Chấm hết!. Chủ nghĩa tập thể là vậy, chữ tập thể có cái hay ấy thật tuyệt!

Trong những buổi nói chuyện trên, tôi cũng kể cho đông đảo người nghe về những gì hay ở Mỹ, ở Nhật, ở các nước Đông Nam á mà tôi quan sát được. Cũng như tôi viết 20 bài báo rất ngắn (chỉ 200 đến 400 chữ) về những kinh nghiệm cụ thể ở nước ngoài, được các bạn đọc quan tâm và gửi thư về báo Nhân Dân khen ngợi.

Đó là chuyện kể về thái độ lịch sự và kỷ luật trên đường phố, về mối quan tâm bảo vệ môi trường, và vệ sinh trong xã hội (trong khi ỏ Hà Nội hè phố không còn là hè phố, mà là nơi ăn uống, nơi bán hàng, nơi tiếp khách, trò chuyện, nơi cãi nhau, nơi trẻ con đá bóng, nơi giặt dũ, nơi tâm sự, nơi đánh bạc và là nơi vệ sinh cá nhân và ngủ ngáy nữa), tôi cũng viết về người thường trực ở một cơ quan, lịch sự, am hiểu công việc và tận tình hướng dẫn khách ra sao (so với những người thường trực các cơ quan ở ta uể oải, phớt lờ, thiếu tận tình), Về tuổi trẻ ở các nước đó (Có giáo sư giỏi tuổi hơn 30, có trợ lý cho tổng thống, thủ tướng tuổi trên dưới 30, có thù tướng 39 tuổi... ) so với tuổi trẻ ở ta không được coi trọng, luôn bị coi là non quá, thiếu kinh nghiệm... Về mối quan hệ với cử tri và người được bầu (ông đại biểu của tôi, bà nghị sĩ của tôi), trong khi ở ta bầu chỉ là hình thức, không có mối quan hệ gì giữa cử tri và người được bầu từ trước khi bầu cử, trong khi bầu và đến sau khi bầu cũng vậy... Chính vì ta bị cô lập quá lâu với thế giới bên ngoài, ta sống, làm việc theo một kiểu cách riêng, rất cũ, rất cỗ lổ và do dó chịu thiệt thòi rất nhiều so với những kinh nghiệm phong phú mà loài người đã tích lũy được.

Trong nghề làm báo tôi quen rất nhiều nhà báo quốc tế và không ít là những nhà báo tài năng vì Việt Nam là điểm nóng, những tài năng báo chí nhào vô không ít. Tôi học được khá nhiều ở họ, về tính nhậy bén, về lòng yêu nghề nghiệp, về trách nhiệm với bạn đọc. Và nhất là về sự tôn trọng sự thật, sự thật đúng như nó có, không che dấu, không bóp méo, không thêu dệt...

Hồi đầu năm 1973, sau hiệp định Paris, tôi vào Sài gòn, ở trại Davis, bên đường băng Tân sơn Nhất. Cứ khoảng 2, 3 ngày tôi lại hợp báo, gặp gỡ báo chí nước ngoài. Họ gọi điện thoại đến trụ sở đoàn suốt ngày, cả vào ban đêm. Họ đi lẻ, họ đi cả tốp, có khi cả đoàn... Đó là Carl Robinson của hãng AP (Mỹ) còn trẻ, săn tin rất nhạy, đó là Barney Seibert của hãng UPI, khá thâm trầm. Đó là Paul Vogle của London Daily Express nói được tiếng Việt, thường đi cùng với cô Tracy Wood cũng của UPI và cô Liz Trotta của NBC News. Đó còn là Fox Butterfield của New York Time hay hỏi tôi tin từ sáng sớm và biếu tôi những bức ảnh anh chụp. Đó là Peter Collins của VOA (tiếng nói Hoa Kỳ), đã tỏ ra hoài nghi việc quân đội Sài Gòn có thể đứng vững nổi khi quân đội Hoa Kỳ rút về nước. Washington Post thì có Thomas Lippman viết bình luận rất nhanh và khá sắc sảo. Có hôm vào buổi sáng, vượt qua các trạm gác của cảnh sát Sài Gòn, ba nhà báo Mỹ là Donald Kirk của Chicago Tribune, Larry Green của Chicago Daily News và Arnold Isaacs của Baltimore Sun lọt vào gần phòng họp chính của đoàn. Tôi chạy ra ngoài gặp họ và mở một cuộc họp báo chớp nhoáng ngay trước cửa trụ sở. Những vấn đề lớn họ quan tâm là việc trao trả hết tù binh của các bên, về những tù binh là người lái máy bay bị bắt trên miền Bắc, về những cuộc hành quân lấn chiếm của 2 bên sau khi hiệp định có hiệu lực... Bà Frances Sparner, người Mỹ, hồi ấy đã hơn 50 tuổi, phóng viên của Far Eastern Economic Review (Tạp chí kinh tế viển đông), viết bài rất khoẻ và chụp ảnh cũng rất nhanh, thường có mặt dự họp báo trong trại Davis. Trưa ngày 30. 4. 75 gặp lại bà ở Dinh Độc Lập, bà biếu tôi một số ảnh rất quý bà chụp được hôm ấy. Hồi 1973, Felix Bolo, phóng viên của AFP, người rất to con, xông xáo, cũng luôn liên hệ với đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa để săn tin.

Trưa 30. 4. 1975. Tôi làm quen thêm với một số nhà báo khá nổi tiếng. Đó là Boris Gallash, người Đức và Tidiano Terzani người _, đều là phóng viên cho báo Der Spiegel (Tấm gương). Một chi tiết ít ai biết đến là lời tuyên bố ngừng bắn của đại tướng Dương văn Minh đã được ghi âm trước hết vào băng đặt trong máy ghi âm nhỏ của Boris Gallash, sau đó mới truyền qua đài phát thanh SàiGòn. Ngày 1. 5. 1975, tôi đã nhận chuyển giúp cho Terzani bài tường thuật của anh sang Đức qua thông tấn xã Việt Nam của Hà Nội, trong khi bưu điện Sài Gòn đóng cửa, không ai có thể chuyển bài ra nước ngoài. Tôi thấy anh ỉu xìu, hỏi anh vì sao vậy, anh chìa bài đánh máy ra nói như khóc : Đây! Tao viết bài rồi mà chịu! Anh văng tục ra rồi than : Tao chỉ muốn chết!, tôi bảo: "Tao giúp mày nhé!" Anh ta chổm dậy : Gì? Mày nói gì? Mày có cách nào? Thật không? Tôi mĩm cười "Có thể được, tao là quân nhân, đã hứa là làm. Chiều nay có chiếc IL 18 vào đây rồi trở ra Hà Nội ngaỵ Tao có bạn ở thông tấn xã, họ có thể chuyển được ". Anh ta lăn xuống sàn nhà, lăn người đi 2, 3 vòng rồi nhỏm dậy ôm lấy tôi la lớn " Tao có thể chết vì sướng được! Một ngày nào tao còn sống, tao còn nhớ ơn mày!" Và quả nhiên bài của anh được chuyển ngay qua Đức. Sau đó tôi làm quen với De Nerciat, còn rất trẻ, phóng viên của AFP, anh vừa từ Cambodge chạy về Sài Gòn sau khi Khờ me đỏ vào Pnôm- Pênh ngày 17. 4. 1975. Hồi ầy tôi nhiều lần trả lời phỏng vấn cua Peter Sharrock (Phóng viên của hãng Reuters) và của Alexander Thompson (của BBC luân đôn) về chiến dịch Hồ Chí Minh... Về phóng viên chụp ảnh phải kể đến hai người bạn của tôi :

Jean Claude Labbé, người Pháp, từng vào vùng giải phóng sau hiệp định Paris, và Peter Arnett, người Mỹ rất nỗi tiếng về những bức ảnh chộp được tại trận. Cả hai là những phóng viên nhiếp ảnh tài ba, được thế giới phương Đông và phương Tây biết tiếng.

Đầu năm 1979, khi bộ đội Việt nam mở cuộc hành quân vào Cămpuchia, tôi ở lại để giúp cho việc thành hình cơ quan thông tấn xã SPK và các báo quân đội, báo Nhân dân (Pro- chê Chuôn) của chính quyền mới. Chúng tôi đã đón tiếp nhiều đoàn báo chí đến Pnôm Pênh. Tháng 2 năm đó, thủ đô Pnôm- Pênh còn vắng vẻ, tôi gặp lại Jean Claude Labbé với Takano (Phóng viên của báo cờ đỏ Aka- ha- ta Nhật Bản, rất thạo tiếng Việt, tốt nghiệp trường Đại học tổng hợp Hà Nội), Cũng như với Jean- Emile Vidal (Trưởng ban quốc tế của báo L'Humanité Pháp). Chúng tôi cùng đi ca nô xuôi sông Mê Công, đến nghiên cứu tại chổ một cái bếp tập thể của Khờ me Đỏ, sau đó đi máy bay đến Xiêm riệp thăm chùa Tháp Ăng co Thom. Takano vội vã trở ra Hà Nội khi được tin Trung quốc tiến công Việt Nam ở biên giới phía bắc. Anh đả hy sinh tại Lạng Sơn bởi một viên đạn của lính Trung quốc!

Cuối năm 1988, trong dịp đi công tác ở Liên Hợp Quốc tại New York, tôi gặp lại Brian Ellis, phóng viên của đài truyền hình Mỹ CBS, anh mời tôi đến thăm Studio cùa CBS ở ngay trung tâm New York, thăm toàn bộ dây chuyền công việc của hãng, và đặc biệt là thăm nơi làm việc của lão tướng Walter Conkrite, gần 80 tuổi, đả về nghỉ hưu. Hồi năm 1973, chính Brian Ellis đả nhờ tôi xin phép cho Conkrite ra Hà Nội. Tôi gọi Walter Conkrite là lão tướng quả là không ngoa, vì ông ta là một phóng viên truyền hình chuyên về thời sự quốc tế rất được vị nể ở Mỹ và nổi tiếng khắp phương Tây. Hồi 1968 đến 1973, tối nào người dân Hoa Kỳ cũng chờ đón 10 phút thông báo và bình luận thời sự của Conkrite, chính ông đã dự đoán và thúc đẩy sự xuống thang của Mỹ và quá trình phi Mỹ hóa cuộc chiến tranh Đông Dương.

Trước đó, theo giới thiệu của Vụ báo chí bộ ngoại giao Hà Nội, tôi đã làm quen với nhà sử học, kiêm làm phim nổi tiếng Hoa Kỳ là Stanley Karnow. Ông sang Việt Nam năm 1980, cùng với ê- kíp quay phim lớn để chuẩn bị làm một bộ phim đồ sộ: Việt Nam- thiên lịch sử truyền hình", huy động hơn hai mươi nguồn tư liệu lịch sử, trực tiếp phỏng vấn gần 200 nhân vật cùa các bên, dựng nên một bộ phim dài đến gần 13 tiếng đồng hồ về toàn bộ cuộc chiến tranh Đông dương trong 30 năm... Stanley đã phỏng vấn tôi nhiều lần về chiến tranh chống Pháp, về chiến tranh chống Mỹ, về chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ trên miền Bắc, về chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh... Có thể học được ở ông thái độ rất khách quan và tác phong tỉ mỷ, cụ thể, luôn đối chiếu các tư liệu với nhau để tiếp cận sự thật một cách chặt chẽ. Sau đó ông gửi biếu tôi một cuốn sách dầy: "Việt Nam, một thiên lịch sử". Có thể nói đó là cuốn sách tỉ mỷ và đầy đủ nhất của phương Tây về các cuộc chiến tranh ỏ Đông dương. Nhà báo mà tôi quý trọng nữa là Nayan Chandạ Anh là người gốc Ấn độ, từng học ở Pháp và Hoa Kỳ. Tôi từng gặp anh ở Sài Gòn và sau đó ở Hà Nội. Anh làm việc cho báo FEER (Far Eastern Economic Review), là phóng viên mũi nhọn của tạp chí này ở Châu á. Anh am hiều tình hình Đông nam á một cách cặn kẽ, những bài viết của anh về Việt Nam rất có uy tín với đông đảo người đọc, vì luôn luôn có những tài liệu cụ thể mới mẻ, và những ý bình sắc sảo. Những năm gần đây anh đóng đô ở Washington, làm đại diện cho FEER ở thủ đô Hoa kỳ. Cuốn sách gần đây nhất của anh là "Những người anh em thù địch", xuất bản năm 1989 nói về những đảo lộn liên minh trong hàng ngũ những nước cộng sản, trong các mối quan hệ: Trung- Xô, Trung- Việt, Việt Nam- Khờ me đỏ... VV. Đây là một cuốn sách bán chạy nhất ở phương Tây. Đầu năm nay, anh làm tổng biên tập tờ báo mới: "Tuần báo Wall Street ỏ New York. Chúng tôi gặp nhau ở úc (Australia) hồi đầu năm 1988, với tư cách là học giả, nhà nghiên cứu, trong một cuộc hội thảo khoa học về tình hình và chính sách ở Đông Nam ỏ nói chung và ở Cămpuchia nói riêng, do trường đại học Griffith tổ chức.

Các nhà báo Pháp chiếm số đông trong những người bạn quốc tế của tôi. Đó là Jean Lacouture tìm hiểu tình hình Việt Nam từ năm 1950, đó là Olivier Tođ, phó tổng biên tập tờ Nouvel Observateur, người từng viết cuốn "Tháng tư độc ác", (Le Cruel Avril), nói về những sự kiện trong tháng tư năm 1975. Hồi tháng tư năm 1984, nhâm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi đả hướng dẩn các nhà báo của L'Humanité: Francois Hilsum, Tổng biên tập của tuần báo "L'humanité chủ nhật", Yves Moreau người bình luận khá nổi tiếng, và Daniel Roussel phóng viên thường trú cùa báo này ở Hà Nội lên thăm thị trấn Điện Biên Phủ. Sau đó trở về nghe đại tướng Võ Nguyên Giáp kể chuyện về chiến dịch lịch sử này. Mới đầu chỉ dự định gặp trong 40 phút tại nhà riêng, sau cuộc gặp gỡ kéo dài đến 2 giờ đồng hồ. Vị tướng của trận Điện Biên Phù kể tỉ mỷ tất cả sự thật về quyết định khó khăn nhất trong đởi làm tướng dẫn đến toàn thắng của chiến dịch... Tại Paris tôi có dịp gặp lại những nhà báo quen biết cũ, có những cuộc gặp thân mật và bổ ích với Alain Ruscio, nguyên phóng viên L'Humanité ở Hà Nội, với Jacques Renard, của tuần báo L'Express và với những phóng viên am hiểu Việt Nam của hãng AFP như Michel Blanchard, Philippe Debeusscher, Gilles Campion... Những phóng viên Anh của hãng Reuter làm việc tại Paris như Peter Sharrock, Simon Heyden và Bernard Edinger đã từng gặp tôi nhiều lần ở Hà Nội và hiện nay theo dõi tình hình Việt Nam một cách chặt chẽ trước và sau đại hội 7 của Đảng cộng sản Việt Nam...

Các bạn đồng nghiệp quốc tế nói trên rất quan tâm đến tình hình Việt Nam. Họ có những nhận thức khác nhau, những chính kiến khác nhau, nhưng đều chung một mong muốn là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam được thực hiện nhất quán cả về kinh tế và chính trị, để nước Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển và phồn vinh... Tôi đã giúp các bạn ấy hiểu rõ những nét đặc biệt của tình hình Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam, những khó khăn to lớn còn tồn tại,

đồng thời cũng học tập được khá nhiều ở các bạn, hiều thêm tình hình nước Pháp và Châu âu, nền văn hóa và chính trị của các nước ở đây, mở rộng những suy nghĩ của mình.

Viết đến đây tôi được tin nhà báo Kim Hạnh, Tổng biên tập của báo Tuổi Trẻ ở thành phố Hồ Chí Minh đã bị mất chức. Trong số báo tháng 5 vừa qua, báo Tuổi Trẻ đã đăng ở trang bìa tin vừa nhận được qua một cuốn sách của một nhà sử học Pháp nói rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh khi còn trẻ đã có một người vợ người Trung Quốc, và trích dẫn một lá thư gửi cho người vợ Ẫy. Đây là một hình thức kỷ luật rất nặng đối với Kim Hạnh, những người lãnh đạo đả sử xự quá đáng, vô lý, làm cho giới báo chí quốc tế không sao hiểu nổi. Phải chăng những người lãnh đạo ngành tư tưởng và an ninh đã thủ cựu đến mức cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh được suy tôn là một vị thánh sống rồi thì không được phép là một con người bình thường, để có được một tình yêu thời trẻ, như mỗi con người khác! ở một sự khám phá nhân văn đáng vui mừng thì họ lại cho là một sự xúc phạm không thể tha thứ, đúng vào lúc ở đại hội 7 các văn kiện khi nói về xây dựng chủ nghĩa xã hội đều gắn liền với câu: "mà Bác kính yêu của chúng ta đã lựa chọn", nhằm ngăn cấm mọi ý kiến khác lạ! Vậy thì ai mới chính là kẻ đã xúc phạm đến người đã quá cố? Tôi còn nhớ từ năm 1989, Kim Hạnh đã bị đe dọa mất chức, trong một bài báo viết về cuộc Liên hoan Thanh niên quốc tế ở Bình Nhưỡng (Bắc Triệu Tiên), Kim Hạnh đã có mấy câu nói đến chế độ không được mấy tự do ở nước Triều tiên phía Bắc, nơi mà người con đã được chính thức trao chức Thế tử để thay cha trị vì, một sự thật cả thế giới đều biết.

ê Việt Nam, những người ngay thẳng và dũng cảm, dám nói lên sự thật như Dương Thu Hương, như Kim Hạnh chưa nhiều. Những bài báo phơi bầy đầy đủ sự thật, những sự thật đau lòng và phũ phàng- thường phải len lỏi, luồn lách đủ kiểu mới lên được mặt báo.

Đó là những bài nghị luận ngay thật, phê phán những quan điểm chính trị cổ hủ lỗi thời, của Phan Đình Diệu, Lương Dân, Thái Duy, Lữ Phương... Đó là những bài báo chấn động nhân tâm trên tạp chí Văn Nghệ thời tổng biên tập Nguyên Ngọc, như bài "Cái đêm hôm ấy đêm gì" của Phùng gia Lộc, (cái đêm dân quân được lệnh tịch thu hết đồ đạc của một gia đình nghèo để nộp thuế với những tiếng thét thất thanh: ệi đảng ơi là đảng ơi!), bài "Người đàn bà quỳ của Trần Khắc, kể lại người đàn bà oan khiên đưa đơn hết "cửa quan cách mạng" này đến cửa khác mà không sao được giải quyết, bài "Đêm trắng" của Hoàng Hữu Các phơi bầy hiện trạng của môt xã có đến 200 hương chức (xưa một xã chỉ có 5 người), lộng hành, đè nén người dân thường, nhung nhúc những kẻ cơ hội mọt dân, bài "Tiếng kêu cứu của một làng văn hóa" của Võ Văn Trực, la trời lên vì sự phá hoại những cảnh quan thiên nhiên, triệt hạ những cây cổ thụ, phá hủy những đình chùa miếu mạo, cho tất cả thần linh vào sống tập thể tuốt, đồng thời diệt sạch những tập quán đẹp cùa quê hương, hay như bài: "Công lý ơi! đừng quên ai!" của Lâm Thị Thanh Hà ở Cần Thơ đăng trên báo Nông nghiệp, nói lên những oan ức chồng chất ở nông thôn, sự lộng hành của cán bộ xã, công an xã, đè nặng lên cuộc sống của bà con, những đơn kiện, kêu gọi công lý chất đống mà không ai buồn giải quyết, tâm trạng oán giận, kinh hoàng và tuyệt vọng của vô vàn công dân không còn ai bênh vực. Những bài của Trần Huy Quang về "ông Vua lốp" và "Lời khai của một bị can", của Minh Chuyên "Thủ tục làm người còn sống" có ý nghĩa tố cáo sâu sắc thái độ độc ác vô trách nhiệm và chủ nghĩa lý lịch tai hại. Những chuyện ngắn của Ngô Ngọc Bội về thảm cảnh của nông dân, của Hoàng Minh Tường về thảm cảnh của giáo viên và nền giáo dục nước ta cũng gây xúc động mạnh. Những bài lý luận văn nghệ của Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Minh Châu, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đô... được người đọc trong cả nước chú ý vì gợi lên những suy nghĩ mới mẻ...

Những tác phẩm của Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp... lần lượt xuất hiện, được giới văn học và bạn đọc sớm đón nhận như những tài năng có nhiều hứa hẹn. Đó là những cây bút dũng cảm, tài hoa, đau cái đau lớn của đồng bào mình, nhìn thấu và khắc họa bản chất của sự thật, biểu thị phẫn nộ với sự ác độc, phi nhân tính, bênh vực lẽ phải và cái thiện ở trên đời. Những chuyện ngắn "Tướng về hưu", "Phẩm tiết", "Vàng lửa", "Thiên sứ", "Mê lộ" của Phạm Thị Hoài, những tác phẩm như "Bên kia bờ ảo vọng", "Những thiên đường mù", "Chuyện tình kẻ trước bình minh", và gần đây là "Tiểu thuyết vô đề" của Dương Thu Hương là những tác phẩm đặc sắc, gợi lên những suy nghĩ sâu xa về cuộc đởi và con người, về triết lý sống...

Những bài báo và tác phẩm văn học nói trên được dư luận xúc động đón nhận từ hồi 1986 đến 1989, chứng minh rất rõ quan hệ giữa chính trị và văn nghệ. Khi "đổi mới" được khởi động, không khí tự do bắt đầu chào đời, các tài năng có tâm huyết được giải phóng thì hàng loạt tác phẩm xúc động lòng người xuất hiện. Tuần lễ nào, tháng nào cũng cò bài báo mới, truyện ngắn mới, tiểu thuyết mới, được bàn luận sôi nổi. Song cuộc khởi sắc này chẳng tồn tại được lâu. Sau khi các nước Đông âu lâm vào khủng hoảng và một số nước sụp đổ, một không khí hoảng hốt xâm nhập cơ quan lảnh đạo. Kinh tế vẫn cố giữ thế mở cửa, tự do hóa, nhưng chính trị thì đóng lại. Lại lên gân, kiểm soát, răn đe, bắt bớ...

Sáng tác văn học cũng phải chịu chung số phận! Người ta từng hô hào cởi trói cho văn nghệ sĩ, cổ vũ họ tự cứu lấy mình, chớ uốn cong ngòi bút, thì nay người ta quay phắt lại, dạy bảo văn nghệ sĩ phải đi vào khuôn phép, đe nẹt họ phải biết điều. Nguồn sáng tác vừa khởi sắc bị bịt lại, im lìm, nhường chỗ cho sự tẻ nhạt, tầm thường và chờ đợi...

Tất cả những bông hoa đẹp, vẻ đẹp của những đóa hoa trên thân cây xương rồng đầy gai nhọn ấy đã nở rộ một thời, khi đổi mới vừa được đề xướng, và cũng nhanh chóng thưa thớt dần cho đến hết sạch sau khi lãnh đạo hoảng hốt lo sợ về một cuộc nổi dậy và sụp đổ nào đó như ỏ Đông âu. Thế là từ đầu năm 1989 người ta lại hò hét: phải kỷ luật, phải vào khuôn phép. Trên thực tế chế độ kiểm duyệt đã được thiết lập trở lại, còn thắt chặt hơn xưa! Tháng 8. 1989, tôi viết một bài dự định đăng trên báo Nhân dân chủ nhật, nhưng nó cứ bị kẹt, nằm ngâm tôm hoài ở phòng thư ký vì tổng biên tập cứ khất lần mãi "Cho tôi xem thêm đã... " Đó là bài: Bệnh kiêu ngạo, có đoạn như sau:

"... - Ở ta, sau toàn thắng, bệnh kiêu ngạo đã hòanh hành khá mạnh, khá lâu. Chiến thắng có khi đã làm cho người ta say sưa, hết tỉnh táo. Mọi việc trở thành dễ ợt, bất chắp quy luật của tự nhiên và xã hội.

Tệ kiêu ngạo làm toàn dân phải trả giá, cả xã hội cũng phải trả giá rất đắt. "

Sau đó tôi viết một bài về: "Chủ nghĩa đa nguyên và quan điểm đa nguyên về chính trị" cũng bị kiểm duyệt khéo, ghi bên cạnh là: "Để trao đổi thêm với anh Thành Tín". Thế là im luôn...

Ngày 16. 10. 1989, ngày khai mạc Đại hội lần thứ năm của những người làm báo, tôi vừa qua một cơn ốm rất nặng. Tôi viết một bài báo ngắn, chỉ hơn 300 chữ với đầu đề "Hội làng ta", có những đoạn: Hơn 6000 người viết báo đặt khá nhiều kỳ vọng ở đại hội. Và hàng triệu bạn đọc đang quan tâm. Đã hơn 2 năm đổi mới, báo chí đã có một sự thay đổi lớn, khác hẳn trước. Có thể gọi đó là sự khởi sắc về chức năng xã hội, về truyền đạt thông tín, về hiệu quả chính trị trong sự nghiệp dân chủ hóa, trong cuộc đấu tranh cho công bằng xã hội, vì sự nghiệp phát triển toàn diện của đất nước. Đây chỉ là bước đầu theo định hướng còn mới mẻ: xây dựng nền báo chí hiện đại, có hiệu quả xã hội cao. So vởi chức năng lịch sử, khả năng vốn có, đáng lẽ báo chí ta còn có thể làm nhiều hơn, tốt hơn. Cần nói thẳng: tâm huyết và bản lĩnh trong làng báo còn thấp, dưới tầm trách nhiệm trước nhân dân và đất nước. Vẫn còn không ít những bài báo tẻ nhạt, vô bổ hoặc nặng về hiếu hỷ, hoặc mờ nhạt thông tin, thiếu sinh khí của thực tiễn, không gợi mở trí tuệ và tâm hồn bạn đọc, làm lãng phí giấy mực, công in và thời gian xã hội.

Cần duyệt lại đội ngũ. Cần tinh không cần nhiều. Tổ chức các tòa soạn nên theo đội ngũ chiến thuật, theo vấn đề, chủ đề và thể tài trong từng thời kỳ, hơn là theo cơ quan hành chính kiểu quan chức.

Nội bộ các nhà báo cần đối xử bình đẳng. Bài báo là một sản phẩm đơn chiếc, mang dấu ấn của cá nhân về vốn sống, trí thức, tâm huyết, sự rèn luyện của tác giả. Nó cần được đánh giá theo giá trị khách quan và hiệu quả xã hội sau đó, tránh đánh giá theo chức vụ, tuổi nghề, bậc lương kiểu quan chức.

Khí phách của người làm báo trước sự thật là thước đo phẩm chất công dân. Dù hiểm nguy đến tính mạng, trước sự hấp dẫn của "cây" của "chỉ", của bổng lộc, lên lương và ghế ngồi, ở chiếu trên hay chiếu dưới trong sân đình làng báo, người viết báo chân chính coi khinh tất cả. Chỉ có lương tâm nghề nghiệp và ý thức trách nhiệm trước xã hội luôn như tờ giấy trắng trinh bạch trước mắt mình...

Đó là những suy nghĩ cháy bỏng, những mong ưỡc sâu xa của tôi khi suy nghĩ về nghề làm báo, về cây bút nhẹ tênh mà nặng chĩu trong tay.

1      2      3      4 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét