Phạm Chí Dũng - Sau vụ thảm sát ở Côn Minh, bầu không khí động
loạn không chỉ áp chế xã hội mà cả với thể chế chính trị ở Trung Quốc. Những
dấu hiệu ngày càng rõ nét về suy thoái kinh tế càng gợi cảm cho một cuộc khủng
hoảng tương lai của đất nước “vĩ đại” này.
“Voi cưỡi xe đạp” – một hình ảnh mà giới quan
sát phương Tây dành tặng cho Trung Quốc, xem ra đang mang tính linh ứng. Một
lần nữa chúng ta cần phác ra những kịch bản biến động kinh tế – chính trị với
độ dài trước mắt đến năm 2015 cho quốc gia vẫn đang say sưa với chủ thuyết
“Trung Quốc trỗi dậy”.
* Kịch bản 1: Kinh tế ổn định, chính trị biến động nhẹ
Đây là kịch bản tối ưu mà những người luôn tự
tôn với tư tưởng Đại Hán không thể kỳ vọng nhiều hơn cho một tương lai đầy bất
trắc.
Ứng với kịch bản này, nền kinh tế duy trì được
sự ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới 10%, GDP tiếp tục duy trì mức tăng
trưởng 9-9,5%, thị trường bất động sản không bị vỡ bong bóng, phần lớn các
chính quyền địa phương thu xếp trả được nợ cho ngân hàng. Sự ổn định của nền
kinh tế Trung Quốc cũng được hỗ trợ bởi khả năng nền kinh tế Mỹ và thế giới
không bị rơi vào suy thoái kép, ít nhất trong năm 2014.
Hiện tại, điều kiện kinh tế thế giới đang khá
thuận lợi cho kinh tế Trung Quốc, và đây chính là một trong những hỗ trợ lớn
lao để Trung Quốc còn tạm giữ được thăng bằng trên thế đu dây giữa tăng trưởng
nóng quá khứ và nợ xấu hiện tại.
Tuy nhiên một thực tế không thể phủ nhận là
khoảng chênh lệch giàu – nghèo và hố phân cách xã hội vẫn hầu như chưa được cải
thiện, nếu không muốn nói là vẫn tiếp tục xu thế giãn rộng hơn. Do đó về mặt xã
hội, vẫn tiếp tục xảy ra những cuộc khiếu kiện đất đai, đình công, biểu tình
quy mô nhỏ như tình trạng hiện nay. Những mâu thuẫn tại các khu tự trị Nội
Mông, Tây Tạng và đặc biệt từ Tân Cương vẫn tiềm ẩn và không loại trừ phát sinh
xung đột với quy mô nhỏ và trung bình.
Với những điều kiện kinh tế – xã hội trên,
không khí chính trị tiếp tục duy trì ở mức độ bất ổn nhẹ (như hiện nay).Trước
mắt, Tập Cận Bình vẫn củng cố được quyền lực và thực hiện chiến dịch “diệt cả
hổ lẫn ruồi” cùng kế hoạch cải cách trung hạn. Tuy nhiên, không loại trừ những
cải cách này sẽ vấp phải sự phản ứng thù địch từ các nhóm lợi ích dày đặc trong
giới quan chứccao cấp Trung Quốc, dẫn đến những âm mưu phản nghịch ngấm ngầm.
Đây cũng là trường hợp mà một giáo sư kinh tế chính trị học của
Đại học Havard – Dani Rodrik – cho rằng “Kinh tế tốt không phải luôn là
chính trị tốt” (Good economics need not always mean good).
* Kịch bản 2: Kinh tế suy thoái, chính trị biến động tương đối
mạnh
Kịch bản này đang có một số dấu hiệu xảy ra
khi trong hai năm 2012 và 2013, nền kinh tế Trung Quốc không còn duy trì được
sự ổn định khi mức tăng GDP giảm xuống còn 6-7%. Trên thực tế theo giới phân
tích độc lập, mức tăng GDP của Trung Quốc chỉ là 3-4%.
Thị trường bất động sản tuy vẫn chưa xuất hiện
nhiều dấu hiệu vỡ bong bóng, nhưng nghịch lý là mặt bằng giá treo cao song nợ
xấu của các chính quyền địa phương đối với ngân hàng cũng tăng lên. Một báo cáo
vào cuối năm 2013 của chính Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã phải thừa nhận
số nợ xấu của chính quyền địa phương không phải là 1.500 tỷ USD như công bố vào
năm 2011, mà đã lên đến 3.000 tỷ USD.
Cùng với hiện tượng tư bản nước ngoài rút vốn
khỏi thị trường tài chính, vận động đi ngang của thị trường chứng khoán mà
không thể “cất cánh” như kỳ vọng, và nguy cơ vỡ nợ trái phiếu lẫn phá sản cận
kề đối với một số tập đoàn và ngân hàng, Có khả năng bắt đầu từ năm 2015, nền
kinh tế Trung Quốc sẽ chính thức dặt chân vào giai đoạn suy thoái, dẫn tới suy
thoái nặng nề trong một số năm sau đó cùng tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt.
Ứng với những điều kiện kinh tế trên, làn sóng
bất mãn xã hội vốn tích tụ nhiều năm nay có thể tăng lên, thậm chí tăng đáng
kể. Có khả năng xuất hiện nhiều hơn số lượng các cuộc khiếu kiện đất đai, đình
công, cùng biểu tình đòi quyền dân chủ. Nếu các hoạt động mang tính phản ứng xã
hội này có mối liên hệ và cộng hưởng vào một thời điểm nào đó thì có thể dẫn
đến những cuộc biểu tình phức hợp, tạo thành phong trào phản kháng mạnh mẽ đa
thành phần với quy mô lớn, dẫn đến xáo trộn khá mạnh về không khí chính trị và
cũng có thể dẫn đến xung đột với hình thức bạo động, bạo loạn với các cơ quan
chính quyền và cảnh sát.
Nếu khả năng trên xảy ra, không có nhiều hy
vọng để Bắc Kinh sẽ kiềm chế được hoạt động đòi tự trị, dân sinh và dân chủ tại
các khu vực Tây Tạng, Tân Cương và Nội Mông. Hoạt động phản kháng này sẽ trở
nên phức tạp hơn hẳn và có thể dẫn đến sự xung đột (bạo động, bạo loạn) ở quy
mô lớn tại các khu vực này.
Kịch bản trên vẫn có thể xảy ra đối với Trung
Quốc ngay cả trong điều kiện nền kinh tế thế giới không bị rơi vào suy thoái
kép.
Đây là kịch bản đang có xác suất xảy ra cao
nhất đối với Trung Quốc trong những năm tới.Tuổi thọ tối đa của đảng cầm quyền
Trung Quốc ứng với kịch bản này sẽ chấm dứt vào những năm 2022-2023.
* Kịch bản 3: Kinh tế suy thoái, chính trị biến động mạnh
Trong trường hợp xấu nhất, nền kinh tế thế
giới rơi vào suy thoái kép và kinh tế Trung Quốc cũng chịu hệ lụy tương ứng.Thị
trường xuất khẩu của Trung Quốc sẽ bị hạn hẹp đáng kể. Đầu tư nước ngoài vào
Trung Quốc cũng giảm mạnh, kéo theo tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh. Khi đó, GDP
Trung Quốc có thể giảm xuống còn 4-5% và lạm phát tăng vọt từ15-20%. Tình hình
này gần như chắc chắn sẽ làm cho bong bóng bất động sản bùng vỡ, giá bất động
sản giảm rất mạnh (trên 50% hoặc hơn) với thanh khoản kém. Mặt khác, chính
quyền địa phương gần như mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng, dẫn đến phản
ứng dây chuyền về việc phá sản của một số ngân hàng lớn và làm chao đảo hệ
thống tài chính quốc dân.
Những điều kiện kinh tế trên cũng là ngòi nổ
cho các hoạt động phản ứng và phản kháng xã hội. Khiếu kiện đất đai, đình công
và các biểu tình đòi quyền dân sinh, dân chủ sẽ trở thành các phong trào diễn
ra liên tục, quy mô tăng dần, lan rộng tại nhiều tỉnh và thành phố, hoàn toàn
có thể dẫn đến xung đột mạnh với chính quyền. Không loại trừ sự kết hợp và cộng
hưởng giữa các hoạt động phản kháng xã hội có thể dẫn tới yêu sách thay đổi thể
chế chính trị, mà về thực chất có thể xem là “cách mạng hoa nhài” như đã từng
xảy ra ở Bắc Phi và Trung Đông vào những tháng đầu năm 2011.
Những điều kiện kinh tế – xã hội và chính trị
trên cũng là nhân tố kích thích các phong trào phản kháng rộng lớn ở Tân Cương,
Tây Tạng và Nội Mông.Tương ứng với điều kiện đặc thù về lịch sử của các khu vực
này, không loại trừ quá trình xung đột bình thường và tự phát có thể dẫn tới
những cuộc xung đột vũ trang có tổ chức và gây nguy hiểm cho sự tồn tại của thể
chế chính trị ở Trung Quốc.
Tuổi thọ tối đa của đảng cầm quyền Trung Quốc
ứng với kịch bản này sẽ chấm dứt vào những năm 2019-2020.
Nhận định
Trong vài năm qua, khả năng tốt nhất (kịch bản
1) đã gần như trôi qua. Một cuộc “cách mạng” về thể chế kinh tế của Tập Cận
Bình tại Hội nghị trung ương đảng vào tháng 11/2013 đã không thể làm được những
mục tiêu mà ông ta nhắm tới: mở rộng cơ chế sở hữu đất đai, xóa độc quyền và
cải cách hệ thống ngân hàng. Sau đó, vị tổng bí thư đảng kiêm chủ tịch nước này
đành phải quay lại phương pháp truyền thống: sáng lập một ủy ban an ninh quốc
gia và tìm cách bóp nghẹt các hoạt động dân chủ và nhân quyền.
Chỉ còn khả năng cho hai kịch bản sau, ứng với
nền kinh tế đang có dấu hiệu suy giảm và luôn tiềm ẩn một cơn nguy biến về nợ
xấu bất động sản và bong bóng tín dụng.
Dù chưa biết kịch bản 2 hay kịch bản 3 sẽ
chiếm ưu thế, nhưng điều có thể chắc chắn là đảng cầm quyền ở Trung Quốc sẽ
không thể hạ cánh mềm trong tương lai không quá xa.
Tương lai đó có thể kéo dài sự tồn tại của
đảng cầm quyền Trung Quốc từ 7-10 năm, như một kết quả khảo sát vào năm 2013
của một cơ quan nghiên cứu Anh quốc.
Và tương lai không mấy sáng sủa như thế cũng
có thể tác động đến tình hình Việt Nam, nhưng lại theo một khía cạnh mà đại đa
số dân chúng và những người yêu chuộng dân chủ nhân quyền nước Việt đặc biệt
mong muốn: một Trung Quốc đang chìm nghỉm sẽ khó có thể can thiệp sâu vào đời
sống chính trị và nền kinh tế của người dân Việt.
Thậm chí Bắc Kinh cũng không đủ tiền và nhiệt
tâm để cung cấp một “gói kích thích” đủ dày nào, ngay cả khi Hà Nội lâm vào
khủng hoảng chính trị trong ít năm tới…
Ghi chú: Mời xem lại bài “Kịch bản nào về những biến động trong lòng
Trung Quốc?” đăng trênBauxite VN ngày 26/7/2011 của cùng tác
giả. Đây là bài viết đầu tiên của nhà báo Phạm Chí Dũng ở “Lề trái”, trước khi
anh bị bắt khẩn cấp với tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền” đúng một năm sau
đó, vào tháng 7/2012.
***
Phần 1. Xu thế phản kháng trong lòng xã hội Trung Quốc
Vòng cung Tây – Bắc và cả nội địa
Bản đồ hành chính Trung Quốc
|
Khoảng một tháng sau vụ 1.000 người lao động
nhập cư từ tỉnh Tứ Xuyên đổ ra đường phố thị trấn Tân Đường, tỉnh Quảng Châu
phản ứng dữ dội với cảnh sát và các cơ quan công quyền, vào trung tuần tháng
7/2011, tại khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân cương lại một lần nữa xảy ra bạo động.
Những người dân tộc thiểu số Duy Ngô Nhĩ đã tấn công vào một đồn cảnh sát người
Hán, làm thiệt mạng 2 cảnh sát và 2 con tin.
Dù hãng tin Tân Hoa xã của Trung Quốc tuyên bố
vụ việc Tân Cương trên là hành vi của một nhóm khủng bố, nhưng chỉ có những
người mơ hồ về chính trị mới không hiểu được những nguyên cớ thâm sâu về lịch
sử trong quan hệ của người Hán với vùng tự trị này. Đó không chỉ là mâu thuẫn
đơn thuần về địa giới hành chính mà còn liên quan đến nhiều vấn đề khác như sự
cách biệt đáng kể về chính sách mà người Hán được hưởng so với các sắc tộc
thiểu số, sự lấn át về văn hóa và tôn giáo mà người Hán đã tạo ra đối với người
Duy Ngô Nhĩ…
Tương tự như khu tự trị Tân Cương ở Tây Bắc,
các khu tự trị Tây Tạng ở Tây Nam và Nội Mông ở phía Bắc đang trở thành những
hiểm họa ngấm ngầm đối với tình trạng an ninh của người Hán sống tại những khu
vực này và cả với thể chế chính trị mà Bắc Kinh đang cố gắng duy trì đến chừng
nào có thể. Từ năm 2008 đến nay, những hiểm họa này đã có chiều hướng bùng phát
và trở thành nguy cơ không hề nhỏ đối với một dân tộc có truyền thống tự tôn
cực đoan như người Hán, thu hút sự chú ý của toàn thế giới.
“Gây rối trật tự xã hội” là cụm từ mà các cơ
quan tư tưởng và ngôn luận của Trung Quốc thường dùng để chỉ những vụ việc xảy
ra ở Nội Mông, Tây Tạng và Tân Cương. Đó thường là những vụ phản ứng theo cách
đập phá tài sản của cơ quan công quyền, làm rối loạn giao thông, đốt xe cộ…
Nhưng đến khi tình hình trở nên căng thẳng hơn với những vụ người dân tấn công
cảnh sát và công chức nhà nước, luồng thông tin tuyên truyền chính thống đã
chuyển các vụ tấn công sang “hành động khủng bố”.
Nhưng lại có một mâu thuẫn rất lớn nằm trong chính cách tuyên
truyền trên. Bởi nếu quy kết cho những người dân của ba khu tự trị thiểu số là
khủng bố thì Tân Hoa xã làm sao giải thích được những vụ việc
gần như tương tự cũng đã xảy ra ở ngay trong lòng Trung Quốc, do chính người
Hán gây ra? Tại thành phố Phúc Châu, tỉnh giang Tây, một người đàn ông 52 tuổi
đã cho nổ ba quả bom trước tòa hành chính thành phố. Trước đó, người đàn ông
này đã bày tỏ tình trạng tuyệt vọng trên mạng Internet về việc không thể đòi
bồi thường khi bị thu hồi đất đai. Tại thị trấn Hoàng Thạch, tỉnh Hồ Nam, một
vụ nổ nhắm vào một đồn cảnh sát đã làm cho đồn này bị phá hủy hoàn toàn, với
một cảnh sát thiệt mạng và hai người khác bị thương. Cũng một người đàn ông đã
cho nổ bom bên ngoài tòa nhà chính quyền địa phương ở thành phố cảng Thiên Tân
làm ít nhất hai người bị thương. Tuy Tân Hoa xã nêu ra lý do
hung thủ “muốn trả thù xã hội”, nhưng lại càng làm cho dư luận nghi ngờ về tính
chất mù mờ trong tuyên truyền. Ở quy mô phản ứng rộng lớn hơn là vụ hàng ngàn
công nhân nhập cư ở Triều Châu, tỉnh Quảng Đông đụng độ với cảnh sát địa
phương, sau khi một công nhân nhập cư làm việc tại một nhà máy đồ gốm địa
phương bị ông chủ đâm do cãi cọ về chuyện tiền lương, đồng thời cha của nạn
nhân cũng bị đánh trọng thương.
Chẳng lẽ tất cả những vụ việc trên đều là hành
vi khủng bố? Hoặc cứ giả định đó là khủng bố, thì rõ ràng đối tượng khủng bố
không chỉ là những nhóm dân thiểu số mà còn bao gồm cả người Hán, hoạt động khủng
bố không chỉ nằm ở những vùng xa xôi mà còn nổ ra ngay trong lòng Đại Hán. Vậy
vì lẽ gì mà người Hán lại khủng bố chính đồng bào của mình?
Tất cả những vụ việc bị coi là khủng bố, mà
thực chất là phản ứng của xã hội với chính quyền và cảnh sát, đã diễn ra khá
đồng loạt trong khoảng thời gian tháng 5-6/2011.Đây cũng là thời gian đã diễn
ra sự kiện biển Đông.
Chiến dịch đánh lạc hướng dư luận ra Biển Đông
Hẳn nhiều người trong chúng ta còn nhớ rõ,
khoảng thời gian tháng 5-6/2011 cũng chính là lúc những người mặc chiếc áo Đại
Hán tỏ ra rất nhiệt tình trong việc tung ra các hoạt động gây hấn ở khu vực
Biển Đông. “Đường lưỡi bò” là một cái cớ được dựng lên để các tàu hải giám
Trung Quốc vi phạm chủ quyền biển của Việt Nam và khiêu khích bằng chuyện cắt
cáp tàu Việt Nam.
Cũng trong thời gian đó, như một mật lệnh được
thông báo từ trước, làn sóng công phá Việt Nam nổi lên từ hoạt động của những
nhóm biểu tình Trung Quốc, báo chí Trung Quốc, cũng như một chiến dịch hacker
xâm lấn và phá hoại các website Việt Nam đã được tiến hành. Tất cả đều diễn ra
một cách tuần tự và bài bản về hành động lẫn lời ăn tiếng nói. Tất cả đều như
tuân theo một kịch bản có sẵn. Tất cả đều trở thành một kiểu cách “vừa ăn cướp
vừa la làng” đến mức khiến cho công luận và dư luận người Việt phải phẫn uất và
trở thành lý do chính đáng để khối người Việt yêu nước liên tục biểu tình phản
đối âm mưu của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cuộc
chiến về dư luận giữa hai quốc gia một lần nữa lại nổi lên.
Một hiện tượng rất đáng chú ý là trong phần
lớn thời gian Trung Quốc can thiệp vào chủ quyền biển của Việt Nam và
Philippines, số vụ việc “trả thù xã hội” trong lòng quốc gia này đã giảm hẳn.
Ngay cả những nhân sĩ tiên phong của phong trào đòi quyền dân chủ như họa sĩ
Ngải Vị Vị cũng lắng lại.Cùng với những biện pháp cương – nhu xen kẽ, dường như
chính quyền Trung Quốc đã tương đối đạt được mục đích tạm ổn định tình hình
chính trị – xã hội của họ.
Hiển nhiên là chiến dịch định hướng công luận
và dư luận nhằm chỉ trích, lên án “Việt Nam vi phạm chủ quyền lãnh hải Trung
Quốc” đã hướng dư luận trong nước ra Biển Đông, vô hình trung làm dịu bớt làn
sóng bất mãn ở các khu tự trị lẫn bất bình từ lớp người có thu nhập thấp và từ
giới trí thức tại Trung Hoa đại lục.
Cũng bởi thế, việc Trung Quốc chỉ dùng tàu hải
giám để can thiệp vào vùng biển Việt Nam chứ không phải tàu quân sự, cùng những
động tác khiêu khích và gây hấn dích dắc luân phiên, rất có thể nhằm mục đích
kéo dài thời gian để kéo dư luận trong nước hướng về sự tranh chấp biển đảo,
nhưng lại không chủ trương làm căng thẳng quá mức vấn đề tranh chấp. Minh họa
điển hình cho chủ trương này là khi Philippines tỏ ra cứng rắn thì ngay lập tức
Trung Quốc đã phải đấu dịu.
Từ chiến dịch tuyên truyền về tranh chấp Biển
Đông của Trung Quốc, chúng ta có thể rút ra một nhận xét là trong những điều
kiện bình thường, khi mối quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc với các nước láng
giềng có liên quan đến quyền lợi của Trung Quốc chỉ mang tính va chạm cục bộ và
nhỏ lẻ, Trung Quốc thường khá mặn mà với chiêu thức ngụy tạo những nguyên cớ để
gây xung đột nửa vời, đồng thời sử dụng cơ quan tư tưởng và giới truyền thông
để chuyển hướng dư luận trong nước ra nước ngoài. Trong những năm tới, những
chiến dịch như vậy hoàn toàn có thể được lặp đi lặp lại, tất nhiên tùy điều
kiện phát sinh mà nội dung và mục tiêu chiến dịch sẽ được thay đổi cho phù hợp
hơn.
Cũng từ chiến dịch tuyên truyền của Trung
Quốc, chúng ta có thể rút ra một đánh giá cơ bản về tình hình nội tại của quốc
gia này. Vào những năm trước, giữa Trung Quốc và những quốc gia có liên quan
đến khu vực Biển Đông cũng xảy ra va chạm, thậm chí xung đột, nhưng đã không
diễn ra một chiến dịch tuyên truyền lớn như vừa qua của Trung Quốc. Đó cũng là
khoảng thời gian mà tình hình chính trị Trung Quốc được xem là khá ổn định,
không xảy ra các phong trào đòi quyền dân chủ của các nhân sĩ trí thức bất đồng
chính kiến, cũng chỉ lẻ tẻ diễn ra một số phản ứng xã hội của những nhóm người
dân khiếu kiện đất đai và hoạt động đình công. Nhýng ðến nay, khi các sắc thái
phản ứng xã hội đã trở nên gay gắt và dễ bộc lộ hơn nhiều, việc Trung Quốc phải
tổ chức một chiến dịch tuyên truyền công phu cũng cho thấy tình hình chính trị
và nhiều vấn đề xã hội của quốc gia này không thật sự tốt đẹp như họ thường tuyên
bố.
Nói cách khác, hiện giờ chính quyền Trung Quốc
đang phải đối mặt với rất nhiều mối lo nội tại.Vậy đó là những mối lo gì?
Ngay trước mắt, Trung Quốc đang phải đối mặt
với ít nhất hai khó khăn rất lớn. Khó khăn thứ nhất thuộc về kinh tế như nạn
lạm phát, sự sa sút trong tăng trưởng GDP, bong bóng của thị trường bất động
sản. Khó khăn thứ hai là các vấn đề xã hội như tham nhũng, khiếu kiện đất đai
và đình công, phân hóa giàu nghèo, kể cả làn sóng người giàu di cư ra nước
ngoài.
Những khó khăn kinh tế
Vào quý 2/2011, mặc dù tỷ lệ tăng trưởng GDP
của Trung Quốc vẫn đạt đến 9,5%, nhưng đà tăng đã bị giảm sút đôi chút so với
quý 1/2011 (9,7%). Tình trạng chững lại của GDP đã gây nên sự lo lắng mơ hồ đối
với các nhà quản lý kinh tế của Bắc Kinh khi vào giữa năm 2008 – thời kỳ gay
gắt của khủng hoảng kinh tế thế giới – Trung Quốc vẫn đạt GDP trên 10%, còn vào
năm 2007 tỷ lệ tăng trưởng GDP cao điểm là 13%. Do chính quyền bắt buộc phải
liên tục nâng lãi suất cơ bản (từ cuối năm 2010 đến giữa tháng 6/2011 đã 5 lần
nâng lãi suất cơ bản) để hạn chế lạm phát, tín dụng cho sản xuất cũng theo đó
bị siết chặt, dẫn đến GDP giảm dần.
Trái ngược với đà giảm sút của GDP là đường
biểu diễn tăng dần của tỷ lệ lạm phát. Nếu vào tháng 7/2010, tỷ lệ lạm phát ở
Trung Quốc chỉ khoảng trên 3%, thì đến giữa năm 2011, lạm phát đã tăng hơn 6%.
Lạm phát tăng khiến giá cả hàng hóa tăng theo và chính quyền trung ương buộc
phải thắt bầu tín dụng, lại càng làm cho lĩnh vực sản xuất khó khăn hơn.
Một phần không nhỏ – khoảng 2,5-3% trong cơ
cấu GDP – được đóng góp từ khu vực bất động sản. Trong giai đoạn 2009 – 2011,
khu vực này đã tăng trưởng rất mạnh, tạo nên một mặt bằng giá mới cao hơn hẳn
thời điểm sau khủng hoảng kinh tế 2008. Tuy nhiên với tình trạng giá nhà ở Bắc
Kinh đã tăng đến hơn 8 lần từ năm 2005 đến nay, bất cứ người dân Trung Quốc nào
cũng có thể nhìn rõ là giá nhà đất đã bị các công ty bất động sản đẩy lên quá
cao, vượt quá xa sức mua và mặt bằng thu nhập của người dân có thu nhập trung
bình và dưới trung bình. Do vậy, một khi giá nhà đất bị kéo xuống theo quy luật
điều tiết tự nhiên, nguồn thu về bất động sản của các công ty bất động sản và
các chính quyền địa phương tất yếu sẽ giảm mạnh, kéo theo đà giảm sút tiếp nối
của GDP.
Riêng đối với chính quyền địa phương, nguồn
thu về bất động sản thường chiếm khoảng 60% trong cơ cấu thu của họ, mà các
chính quyền này lại đang mang nợ khoảng 2.200 tỷ USD đối với Ngân hàng trung
ương Trung Quốc. Do vậy nếu thu không đủ thì có khả năng nhiều chính quyền địa
phương sẽ phải đối mặt với tình thế vỡ nợ và làm lây lan đến sự tồn vong của
một số ngân hàng trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc.
Sau giai đoạn khủng hoảng năm 2008 với mức
tăng GDP có lúc thấp nhất chỉ còn hơn 6%, nền kinh tế Trung Quốc đã có một sự
phục hồi khá thần kỳ khi dần lấy lại nhịp tăng trưởng mạnh mẽ vào thời kỳ năm
2006-2007.Khi đó, chỉ có rất ít ý kiến của chuyên gia nước ngoài tỏ ra quan
ngại về tình trạng tăng trưởng quá nóng của đất nước này. Một phần khác, do kho
dự trữ ngoại hối của Trung Quốc thường xuyên trên dưới 3.000 tỷ USD, đứng thứ
hai trên thế giới sau Mỹ, nên khó có mối quan ngại nào có cơ sở. Thậm chí ngay
cả khi thị trường bất động sản Trung Quốc tăng trưởng quá nóng, giới chuyên gia
cũng chỉ dám đề cập đến bong bóng bất động sản chứ ít khi nói đến bong bóng
kinh tế.
Song trong thời gian gần đây, những tổ chức
phân tích độc lập của quốc tế như Moody và Fitch đã có cái nhìn khác hơn về
kinh tế Trung Quốc.Theo Moody, tuy gần đây Trung Quốc đã phải công bố số nợ của
các chính quyền địa phương là 1.650 tỷ USD, nhưng số liệu này còn thấp hơn ít
nhất 500 tỷ USD so với con số thực tế.
Sự khác biệt giữa con số thống kê chính thức
với thực tế vẫn luôn là một vệt mờ trong tính minh bạch của nền kinh tế. Trong
điều kiện kinh tế phát triển bình thường và Trung Quốc không phải chịu nhiều áp
lực, vệt mờ này có thể chỉ nằm ở một góc nhỏ nào đó trong bức tranh kinh tế
tổng thể. Nhưng nếu nền kinh tế bắt đầu xuất hiện những nhược điểm tồi tệ, vệt
mờ đó rất có thể sẽ nhanh chóng trở thành một đám mây mờ có thể che lấp cả mặt trời
Trung Hoa và góp thêm một yếu tố tiêu cực làm cho nền kinh tế mau chóng bị rơi
vào tình trạng mất thăng bằng hơn.
***
Phần 2. Phân cực xã hội: an nguy lớn nhất của Trung Quốc
Trong Phần 1 – “Xu thế phản kháng trong lòng xã hội Trung
Quốc”, bài viết đã tóm tắt thực trạng của hiện tượng phản kháng xã hội đang
diễn ra trong lòng xã hội Trung Quốc, xuất phát từ các vùng tự trị Tây Tạng,
Tân Cương, Nội Mông và từ cả một số tỉnh, thành phố trong nội địa. Đó chính là
nguyên cớ chủ yếu dẫn đến chiến dịch của Trung Quốc nhằm đánh lạc hướng dư luận
trong nước ra khu vực biển Đông thuộc Việt Nam.
Trong Phần 2, bài viết tiếp tục phân tích
những an nguy nội tại mà Trung Quốc hiện phải đối mặt.
Ẩn số từ bong bóng bất động sản
Liên quan đến tính minh bạch của nền tài chính
Trung Quốc, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody ước tính nợ xấu trong ngành ngân
hàng Trung Quốc có thể lên tới 8 đến 12%, trong khi con số công bố chính thức
chỉ là 1,2%. Còn nhớ vào đầu năm 2011, Fitch đã ước tính nợ xấu của Trung Quốc
có thể chạm tới mức 30%. Với mức độ nợ xấu này, nhóm doanh nghiệp nhỏ – là nhóm
mang lại khoảng 80% việc làm cho người Trung Quốc nhưng gặp rất nhiều khó khăn
trong tiếp cận với tín dụng – sẽ chịu tác động tiêu cực nhất.
Với những khó khăn hiện tại và thiếu minh bạch
trong tài chính Trung Quốc, Moody và Fitch đã bắt đầu tính toán đến khả năng
nền kinh tế quốc gia này rơi vào tình huống xấu hơn, thậm chí là tồi tệ hơn.
Theo cách nhìn của các tổ chức này, nền kinh tế Trung Quốc sẽ phải chịu sự chấn
động khi tốc độ tăng trưởng kinh tế dưới 7% – sẽ xảy ra khi lạm phát quá cao
hay thị trường bất động sản bị đảo ngược về tăng trưởng. Nếu kinh tế Trung Quốc
bị chấn động, chính phủ Trung Quốc sẽ phải chi tiêu mạnh tay cho các kế hoạch
giải cứu, tái cấp vốn. Nhóm chính sách này sẽ tác động không nhỏ đến Đài Loan,
Úc và Chilê.
Cách đây không lâu, Roubini, một chuyên gia
thượng thặng của Mỹ, người đã từng dự đoán chính xác về cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới năm 2008, đã tiên đoán Trung Quốc sẽ phải chịu một sự hạ cánh không
an toàn (hay còn gọi là “hạ cánh cứng”) vào năm 2013 khi các khó khăn về lạm
phát, sự sụt giảm của GDP, khả năng tan vỡ của bong bóng bất động sản cùng lúc
tác động lên nền kinh tế Trung Quốc.
Khá tương đồng với Roubini, Tổ chức xếp hạng
tín nhiệm Fitch gần đây cũng đã cảnh báo có đến 60% khả năng Trung Quốc có thể
rơi vào một cuộc khủng hoảng ngân hàng từ giữa năm 2013 trở đi. Vậy tác nhân
nào có thể tạo nên sự chấn động đối với hệ thống ngân hàng?Chỉ có thể là lĩnh
vực đầu tư địa ốc với quá nhiều hình ảnh đầu cơ không giới hạn.
Hiện thời, một lý do khá dễ hiểu cho sự dao
động kéo dài tại vùng đỉnh của mặt bằng giá nhà đất Trung Quốc là vẫn có những
nhóm lợi ích tiềm tàng không muốn (hoặc chưa muốn) chỉ số giá địa ốc bị sụt
giảm mạnh. Đó là các ngân hàng thương mại – nơi giữ cửa các món vay khổng lồ
cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, và chính quyền các địa phương –
những nơi có không khí tăng giá nhà đất nóng sốt. Tất cả đều liên quan đến
nguồn thu thường xuyên, hợp pháp cũng như bất hợp pháp, của các tổ chức và cá
nhân. Với lý do đó, điều đương nhiên là sẽ khó có một cuộc đổ vỡ ngay lập tức
của bong bóng bất động sản ở Trung Quốc, mặc dù quả bong bóng này đã được định
dạng từ lâu nay. Nguồn tín dụng sẽ tiếp tục được chảy vào một số doanh nghiệp
bất động sản, dù có khắt khe hơn trước.
Do vậy, thị trường bất động sản Trung Quốc là
một ẩn số lớn đối với tương lai nước này. Từ đầu năm 2011 đến nay, kinh tế
Trung Quốc đã bị bao phủ bởi nguy cơ lạm phát. Việc chính phủ Trung Quốc thực
hiện chính sách thắt chặt tiền tệ dù có hạn chế được tỷ lệ lạm phát nhưng lại
dẫn đến giảm sức tăng trưởng – yếu tố vốn đang có xu hướng giảm. Mặt khác, việc
thắt chặt tín dụng sẽ đương nhiên làm giảm đi sức cầu tiềm tàng đối với thị
trường bất động sản và càng làm cho thị trường này khó tiêu thụ hàng hóa, trong
bối cảnh doanh thu tại nhiều thành phố đang bị giảm sút trông thấy. Điều này
đương nhiên càng làm cho khả năng trả nợ của chính quyền địa phương và các
doanh nghiệp bất động sản cho ngân hàng trung ương Trung Quốc vô vọng hơn.
Trong trường hợp ngược lại, bong bóng bất động
sản trở nên hiện hữu thì hậu quả bùng vỡ của nó có thể làm sụt đến 3% GDP của
Trung Quốc và sẽ tác động tức thì hệ thống ngân hàng nước này và dẫn tới những
hậu quả xã hội khó lường.
Hố phân cực đã quá lớn
Tại Trung Quốc, hiện thực “hố đen” không chỉ
tồn tại trong quan hệ cung – cầu bất động sản mà đã từ lâu tồn tại bởi mức
chênh lệch giàu-nghèo lên đến 65 lần giữa 10% dân số có thu nhập cao nhất và
10% công dân có thu nhập thấp nhất tại Trung Quốc.
Trước khi con sóng phục hồi bất động sản hình
thành vào giữa năm 2009, đa số người dân nước này đã phải thắt lưng buộc bụng
để dành tiền mua nhà. Song khi con sóng ấy bất thần dâng cao, nó thật giống với
một cơn đại hồng thủy lừng lững đổ ập xuống đầu người tiêu dùng – tầng lớp thấp
cổ bé họng còn chưa kịp hoàn hồn sau cơn địa chấn khủng hoảng kinh tế năm 2008.
Cho đến nay, giới có thu nhập trung bình ở
Trung Quốc vẫn không thể mơ tưởng đến một căn hộ dù là giá bình dân, vì sau đợt
tăng bất động sản năm 2009-2010, cho đến nay sự thật đơn giản là bong bóng bất
động sản Trung Quốc vẫn chưa chịu nổ. Sự xì hơi chậm chạp của nó, được chứng
minh bởi chỉ có 9/70 thành phố có giá nhà đất giảm nhẹ trong 6 tháng đầu năm
2011, đã làm dấy lên sự công phẫn từ tầng lớp bình dân đối với giới đại gia địa
ốc của nước này.
Cần nhắc lại, vào tháng 10/2009, những người
giàu nhất của Trung Quốc đã được thống kê thành nhóm “10”. Trong số 10 đại gia
có tài sản trên 4 tỷ USD ấy, có đến 7 người kinh doanh các lĩnh vực tài chính
và bất động sản. Chỉ có ba đại gia khác thuộc về các ngành ô tô, linh kiện điện
thoại, nhôm.
Vào tháng 8/2010, Tập đoàn tài chính Credit
Suisse của Thụy Sỹ đã trở thành tổ chức phân tích độc lập đầu tiên nêu ra thực
trạng về “quỹ đen” của giới thượng lưu Trung Hoa. Theo một nghiên cứu kéo dài
nhiều năm của tập đoàn tài chính Thụy Sĩ này, các hộ gia đình Trung Quốc đã che
giấu khoảng 9.300 tỷ nhân dân tệ (tương đương 1.400 tỷ USD) không được công bố
trong báo cáo thu nhập cá nhân. Số tiền khổng lồ này, chủ yếu bất hợp pháp hoặc
hợp pháp nửa vời, tương đương với 30% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn đất
nước Trung Quốc.
Credit Suisse cũng nhận định rằng hầu hết tài
sản ngầm nằm trong túi các gia đình giàu, với nhóm 20% dân số giàu nhất sở hữu
tới 81,3% của con số 1.400 tỷ USD. Lần đầu tiên, thế giới được biết đến Trung
Quốc bằng vào một sắc mặt khác: tình trạng bất bình đẳng về thu nhập đã được
đẩy lên rất cao.
Phản ứng xã hội lại đang đi trước những hậu
quả về kinh tế. Các kế hoạch cung cấp nhà cho người có thu nhập thấp ngày càng
xa vời trong thực tế. Một phần trong số đối tượng có thu nhập thấp ấy chắc chắn
là những người dân có đất đã bị doanh nghiệp kinh doanh bất động sản “lấy cắp”
khi chỉ đền bù cho họ 1/10 hay 1/20 cái giá trị mà lẽ ra chính họ phải được
hưởng khi thị trường đạt đỉnh.
“Nước nghèo giàu có”!
Hãy khoan bàn đến vấn đề Tây Tạng, Tân Cương,
Nội Mông – những khu vực bị người Hán kỳ thị – mà ngay cả nội tình giữa những
người Hán với nhau cũng đang diễn ra sự kỳ thị trầm trọng.
Hố phân cách giàu nghèo quá lớn ở Trung Quốc đang dẫn đến thái
độ được coi là “thù địch” của người nghèo đối với người giàu. Gần đây đã xuất
hiện một khái niệm mới của giới phân tích phương Tây: Trung Quốc là một “nước
nghèo giàu có” đầu tiên trên thế giới, được minh chứng bởi tình trạng người
dân thì nghèo nhưng tổng khối lượng kinh tế của cả nước thì lại rất giàu.
Credit Suisse đã khẳng định thêm một sự thật
khác rằng Trung Quốc là một trong những nước có khoảng cách giàu nghèo lớn nhất
thế giới, cao hơn nhiều so với công bố chính thức: nhóm 10% dân số giàu nhất có
thu nhập bình quân đầu người 97.000 nhân dân tệ, tương đương 14.280 USD, cao
gấp 65 lần so với nhóm 10% nghèo nhất. Trong khi đó, báo cáo từ Cục thống kê
Trung Quốc đưa ra tỷ lệ phân cách chỉ 23 lần (năm 2010). Còn trước đó vào năm
2008, cũng Cục thống kê Trung Quốc đã đưa ra tỷ lệ phân cách chỉ có 9 lần,
trong khi một cuộc điều tra độc lập của giáo sư Vương Tiểu Lỗ thuộc Quỹ Cải
cách Trung Quốc đã cho thấy khoảng cách này lên đến 25 lần.
Thực tế là tại nhiều vùng xa thành thị ở Trung
Quốc, mặt bằng thu nhập bình quân của người dân vẫn còn rất thấp, những điều
kiện sống và môi trường giáo dục, y tế, đi lại không được đảm bảo so với tất cả
những gì tốt nhất mà giới giàu có được hưởng. Theo cơ quan quản lý hệ thống
ngân hàng Trung Quốc, đến cuối năm 2009, hơn 50 địa phương thuộc 3 tỉnh nghèo
nhất của Trung Quốc là Tây Tạng, Vân Nam và Tứ Xuyên vẫn chưa có dịch vụ ngân
hàng. Điều này có nghĩa rằng người dân những nơi này không hề có các dịch vụ
tài chính cơ bản.Chính vì thế, làn sóng người nhập cư vào các thành phố lớn
ngày càng mạnh mẽ và tất nhiên cũng gây ra nhiều rắc rối cho chính quyền sở
tại.
Hệ số Gini (thước đo mức phân phối thu nhập
trong một xã hội) ở các vùng nông thôn đã tăng từ 0,35 lên đến 0,38 trong giai
đoạn từ năm 2000 đến 2010, cho thấy sự bất bình đẳng ngày càng tăng trong khu
vực này. Theo chuẩn quốc tế, hệ số Gini ở mức 0,4 cho thấy sự bất bình đẳng ở
mức nguy hiểm.
Những nguồn cơn của hố phân cực
Sự bức xúc và bất mãn của dân chúng cũng căn
cứ vào vấn nạn ngày càng nhiều quan chức nhà nước tìm cách tuồn nguồn tiền có
được từ tham nhũng ra tài khoản ngân hàng nước ngoài, gửi vợ con ra nước ngoài
và đến lượt mình có thể sẽ “biến” ra nước ngoài một khi có điều kiện thuận lợi.
Một điểm trùng hợp cũng cần ghi nhận là tỷ lệ
“quỹ đen” của giới nhà giàu Trung Quốc chiếm đến gần 1/3 GDP, lại bằng với giá
trị tham nhũng tại quốc gia này – cũng khoảng 1/3 GDP. Nhà nghiên cứu Vương
Tiểu Lỗ của Quỹ Cải cách Trung Quốc đã tìm ra con số tham nhũng lên đến 9.600
tỷ NDT (khoảng 1.500 tỷ USD). Với những quan chức nằm trong diện tham nhũng đậm
đà như thế, hiển nhiên cách thức an toàn nhất của họ là đi theo xu hướng di cư
của giới giàu có ra nước ngoài, vừa có thể rửa tiền bất chính, vừa an toàn hơn
hẳn so với việc tiếp tục ở lại trong nước.
Vào tháng 6/2011, một công bố khá bất thường
của Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã cho thấy các quan tham Trung Quốc đã gửi
ra nước ngoài đến 120 tỷ USD trong giai đoạn 1990-2008. Những địa chỉ được ưa
chuộng gửi tiền là Mỹ, Australia, Canada và Hà Lan. Cùng với sự bốc hơi tài
chính là sự bốc hơi về con người khi có đến 16.000 – 18.000 quan chức và nhân
viên các công ty quốc doanh đã rời khỏi Trung Quốc.
Hiện tượng giàu đột biến ở Trung Quốc cũng kéo
theo một hiện tượng xã hội ở quốc gia này: nhiều người nghèo đã công khai chỉ
trích lớp người thượng lưu muốn rời khỏi Trung Quốc là “không có lòng yêu
nước”.
Việc người giàu Trung Quốc di cư ra nước ngoài
đã trở thành một hiện tượng xã hội từ năm 2006-2007.Trong cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới năm 2008, hiện tượng này tạm lắng đi. Nhưng sang năm 2009 và đến
giữa năm 2010, giới giàu có Trung Quốc đã công khai bàn tán chuyện chỉ mất nửa
triệu USD để có một tấm thẻ xanh ở Mỹ hay Canada.
Vào tháng 5/2011, một cuộc điều ra của công ty
tư vấn Bain đã cho thấy có đến 60% người giàu Trung Quốc mong muốn định cư ở
nước ngoài. Đây là số người giàu với tài sản bình quân trên 10 triệu USD.Trong
số 2.600 người được điều tra, ít nhất có 10% gần như hoàn tất mọi thủ tục xuất
cảnh. Theo Bain, càng giàu họ lại càng muốn ra nước ngoài. Đối với những ai
đang có hơn 100 triệu nhân dân tệ, 27% đã rời Trung Quốc, còn 47% đang cân nhắc
ra đi. Bến đỗ mới của những người này tập trung vào các quốc gia phương Tây như
Mỹ, Canada, Australia hoặc một số nước châu Âu.
***
Phần 3. Ba kịch bản về những biến động trong lòng Trung Quốc
Trong hai phần đầu, – “Xu thế phản kháng trong lòng xã hội
Trung Quốc”, và “Phân cực xã hội: an nguy lớn nhất của Trung Quốc” - bài
viết đã phân tích xu thế phản kháng xã hội xuất hiện trong lòng xã hội Trung
Quốc và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng phản kháng, trong đó chủ yếu xuất
phát từ hố phân cực giàu nghèo quá lớn. Cùng với vấn đề sắc tộc thiểu số ở vòng
cung Tây – Bắc, đó chính là nguồn cơn có thể dẫn đến những biến động chính trị
– xã hội trong lòng Trung Quốc trong 2-3 năm tới, được tác giả phân tích và dự
báo trong Phần 3 của bài viết này.
Sự oán giận của người dân
Những hậu quả trầm trọng về kinh tế bao giờ
cũng kéo theo ảnh hưởng lớn lao về xã hội, hằn đậm trong ý thức của tầng lớp
“dưới đáy” một tư tưởng được coi là thù địch với lớp người giàu có – điều luôn
có tiền lệ ở Trung Quốc. Rồi khi những hệ quả xã hội vốn không được giải quyết
và lại có nguy cơ dẫn đến tình trạng xáo trộn và bùng nổ, khi đó tình thế của
nền kinh tế mới thật sự trầm kha.
Trong quốc gia “nước nghèo giàu có”, rất nhiều người dân
bị mất đất vào tay các doanh nghiệp bất động sản đã phải chứng kiến đất đai của
họ bị thổi giá lên đến hàng chục lần so với giá đền bù. Đó cũng là điều mà Thủ
tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã phải công khai thừa nhận là “sự oán giận của
người dân” (có tác giả dịch là “sự căm phẫn của người dân”). Do đó không có gì
ngạc nhiên khi liên tiếp trong những tháng gần đây, tại Trung Quốc đã xảy ra
hàng loạt vụ biểu tình của người dân khiếu kiện đất đai, của giới sinh viên ở
Nội Mông, của người nhập cư ở Quảng Châu và Quảng Đông, kể cả những vụ đánh bom
vào các cơ quan công quyền ở Thiên Tân. Từ sau vụ Thiên An Môn năm 1989, bầu
không khí xã hội đã một lần nữa trở nên căng thẳng với màu sắc đối đầu hơn là
đối thoại.
Với vùng tự trị Tân Cương, rõ ràng tình hình
mấy năm nay đã thoát khỏi tầm chế ngự của không khí đối thoại. Thực chất, đó là
một cuộc bạo loạn vừa mang tính tự phát, nhưng cũng manh nha được tổ chức bởi
các nhóm sắc tộc Duy Ngô Nhĩ. Gần hai trăm người chết của cả hai phía Duy Ngô
Nhĩ và người Hán vào năm 2008 đã cho thấy tính trầm trọng đến thế nào của vụ
xung đột này.
Cũng tương tự quá trình tích tụ từ lâu nay đối với người dân tộc
thiểu số, hàng loạt vụ đánh bom của người Hán vào cơ quan công quyền và cảnh
sát, điều trước đây chưa từng xảy ra, đã khẳng định điều mà Thủ tướng Trung
Quốc Ôn Gia Bảo thừa nhận là “sự căm phẫn của người dân”, chứ chẳng phải là một
cụm từ nào nhẹ nhàng hay né tránh như cơ quan thông tin Tân Hoa xã vẫn
thường phát đi.
Trên tất cả, những vụ việc phản ứng của người
dân, dù là người dân tộc thiểu số hay người Hán, đều xuất phát từ bất công xã
hội được tích tụ theo thời gian và được đẩy lên quá ngưỡng chịu đựng của những
nạn nhân bị trắng tay mà không nhìn thấy một tia sáng nào từ công lý.
Trong một số nghiên cứu về tình hình Trung
Quốc, đa số các chuyên gia nước ngoài đều thừa nhận quốc gia này có hệ thống
chính trị khá vững mạnh, trong đó xương sống của chế độ là sự trung thành của
quân đội. Trong sự kiện Thiên An Môn năm 1989, khi quân đội thi hành lệnh bắn
vào sinh viên biểu tình, kể cả dùng xe tăng để nghiến nát người biểu tình,
những hình ảnh kinh hoàng và dã man như thế đã được truyền đi khắp thế giới.
Thế nhưng điều lạ lùng là sau đó sự kiện này đã được Bắc Kinh xoa dịu, còn mối
quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa Trung Quốc với Mỹ và các nước khác lại trở về
nhịp sinh hoạt bình thường trước đó.
Tuy nhiên từ năm 1989 đến nay, thời gian đã
trôi qua gần một phần tư thế kỷ.Đó là một khoảng thời gian đủ dài để nhiều
chuyện thay đổi. Khác hẳn với năm 1989, tình trạng phân hóa giàu nghèo hiện nay
ở Trung Quốc đã trở nên quá trầm trọng, sự đan xen hoàn toàn không rõ rệt giữa
đường lối “chủ nghĩa xã hội hài hòa theo kiểu Trung Quốc” với quá nhiều bất
công kinh tế và xã hội mà chỉ thường diễn ra vào thời kỳ đầu của “chủ nghĩa tư
bản dã man” đã dần biến xã hội Trung Quốc thành một thứ nhà kho lộn xộn về ý
thức hệ. Trong bối cảnh lộn xộn đó, thật khó có được một đánh giá hoàn hảo về
sự trung thành của quân đội, khi phần lớn sĩ quan và binh lính đều có gia đình
và người thân liên quan đến sự thất vọng từ các bất công xã hội.
Văn Cầm Hải – một nhà văn và cũng là nhà nghiên cứu lịch sử ở
nước ngoài – cho rằng chính sách ngoại giao lòng dân của Trung Quốc đã bị thất
bại ở Tây Tạng. Trong một chuyến đến vùng Nội Mông, ông đã viết lại những ghi
nhận của mình: “Tôi đã biết về sự nhẫn nhịn của người sa mạc qua một người
bạn Mông Cổ mời tôi ăn thịt nướng trong đêm mưa ở Lan Châu – thủ phủ tỉnh Cam
Túc. Anh ta khuyên tôi rằng, nếu muốn giết sói, hãy cho nó chạy và hú đến lúc
nào nó quỵ xuống vì sức lực mà chúng bỏ ra!…Trung Quốc cần có một sự thay đổi
tận gốc quan điểm lịch sử và thời đại về sức mạnh và sự tồn tại hài hòa của
mình với thế giới. Nếu không thay đổi, dù có bỏ ra hàng tỷ đô la, dù có hào
nhoáng kết nối với chính quyền bản địa bằng những thỏa thuận hay kiềm chế chính
trị nhưng không thể nào mua được lòng dân, Trung Quốc sẽ quỵ ngã bởi chính sức
mạnh hung hãn của mình, như hình ảnh con sói mà người Mông Cổ từng nói với tôi
trong đêm mưa ở Lan Châu”.
Chính trị không phải tự thân vận động, cũng
như các nhóm đòi quyền dân chủ ở Trung Quốc sẽ khó có thể đạt được nguyện vọng
của họ chỉ đơn thuần bằng những khẩu hiệu có vẻ như hơi trừu tượng và ít liên
hệ đến đời sống hàng ngày của tầng lớp bình dân. Nhưng nếu chính trị bị tác
động bởi nguyên cớ xác đáng là những bức xúc, bất mãn xã hội thì tự thân chính
trị có thể bị thay đổi. Trong trường hợp Trung Quốc, bức xúc xã hội lại bắt
nguồn từ đời sống kinh tế và thu nhập – điều quá khó để có thể thay đổi vào lúc
này.
Ba kịch bản về những biến động trong lòng Trung Quốc
Vậy với những dấu hiệu và mầm mống đã và đang
phát sinh trong lòng mình, liệu trong tương lai có thể xảy ra những kịch bản
biến động nào ở quốc gia này?
Với chính thể Bắc Kinh, có lẽ yếu tố tiên quyết
họ phải giữ bằng được là sự ổn định về kinh tế và làm dịu bớt những căng thẳng
giàu – nghèo. Chẳng hạn vào tháng 7/2011, chính phủ Trung Quốc đã thông báo một
kế hoạch đầu tư đến 138 tỷ nhân dân tệ (21 tỷ USD) trong 5 năm tới để tài trợ
cho 226 dự án lớn tại Tây Tạng, tập trung vào cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng
và bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên nền kinh tế Trung Quốc trong 2-3 năm
tới lại phụ thuộc rất lớn vào ba ẩn số là chỉ số lạm phát, mức tăng trưởng GDP
và độ bền vững của thị trường bất động sản.Theo cách nhìn của chúng tôi, đối
với trường hợp Trung Quốc trong bối cảnh thế giới hiện nay, kinh tế sẽ là yếu
tố mang tính quyết định đến chính trị tại quốc gia này.
Thời gian trung hạn từ năm 2011 đến 2013 sẽ
quyết định việc nền kinh tế Trung Quốc có vượt qua được thử thách lớn hay
không. Trong thời gian đó, sự biến thiên của 3 ẩn số kinh tế lạm phát, GDP và
bất động sản sẽ tác động trực tiếp đến phản ứng xã hội và do đó sẽ dẫn dắt dây
chuyền sang hệ quả chính trị. Nếu các ẩn số này trở nên xấu hơn, kế hoạch đầu
tư của chính quyền trung ương cho các vùng tự trị cũng đương nhiên bị hạn chế
nhiều, đồng thời có thể dẫn đến cả sự thay đổi về đường lối và thậm chí là thể
chế chính trị.
Tùy vào mức độ biến thiên của ba ẩn số trên,
trong khoảng thời gian 2011-2013 và có thể sau đó 1-2 năm, nội tại Trung Quốc
có thể xảy ra một số kịch bản biến động được chúng tôi phân tích và dự báo dưới
đây:
* Kịch bản 1: Kinh tế ổn định, chính trị biến động nhẹ
Nền kinh tế duy trì được sự ổn định, lạm phát
được kiểm soát dưới 10% trong năm 2011-2012, GDP tiếp tục duy trì mức tăng
trưởng 9-9,5%, thị trường bất động sản không bị vỡ bong bóng, phần lớn các
chính quyền địa phương thu xếp trả được nợ cho ngân hàng. Sự ổn định của nền
kinh tế Trung Quốc cũng được hỗ trợ bởi khả năng nền kinh tế Mỹ và thế giới
không bị rơi vào suy thoái kép.
Có một khả năng là ngay cả trường hợp nền kinh
tế thế giới rơi vào suy thoái kép, kinh tế Trung Quốc, với tiềm lực mạnh mẽ và
dự trữ ngoại hối tốt, vẫn có thể giữ được đà tăng trưởng và kềm chế được lạm
phát.
Tuy nhiên khoảng chênh lệch giàu – nghèo và hố
phân cách xã hội vẫn chưa được cải thiện so với hiện trạng, hoặc còn phải mất
nhiều năm nữa mới được cải thiện. Do đó về mặt xã hội, vẫn tiếp tục xảy ra
những cuộc khiếu kiện đất đai, đình công, biểu tình quy mô nhỏ như tình trạng
hiện nay. Những mâu thuẫn tại các khu tự trị Nội Mông, Tây Tạng và Tân Cương
vẫn tiềm ẩn và không loại trừ phát sinh xung đột với quy mô nhỏ.
Với những điều kiện kinh tế – xã hội trên,
không khí chính trị tiếp tục duy trì ở mức độ bất ổn nhẹ (như hiện nay). Đây
cũng là trường hợp mà một giáo sư kinh tế chính trị học của Đại học Havard –
Dani Rodrik – cho rằng “Kinh tế tốt không phải luôn luôn là chính trị tốt”
(Good economics need not always mean good).
* Kịch bản 2: Kinh tế suy thoái, chính trị biến động tương đối
mạnh
Nền kinh tế Trung Quốc không duy trì được sự
ổn định khi mức tăng GDP giảm xuống còn 6-7%, chỉ số lạm phát tăng trên 10%
trong năm 2011 và nặng nề hơn trong năm 2012, đồng thời thị trường bất động sản
có dấu hiệu vỡ bong bóng, giá bất động sản giảm mạnh (trên 30%) và bắt đầu xuất
hiện dấu hiệu tỷ lệ nợ xấu của các chính quyền địa phương đối với ngân hàng
tăng lên.
Nền kinh tế thế giới rơi vào trạng thái suy
thoái kép hoặc có dấu hiệu bị suy thoái kép.
Ứng với những điều kiện kinh tế trên, làn sóng
bất mãn xã hội vốn tích tụ nhiều năm nay sẽ tăng lên đáng kể. Có khả năng xuất
hiện nhiều hơn hẳn số lượng các cuộc khiếu kiện đất đai, đình công, cùng biểu
tình đòi quyền dân chủ. Nếu các hoạt động mang tính phản ứng xã hội này có mối
liên hệ và cộng hưởng vào một thời điểm nào đó thì có thể dẫn đến những cuộc
biểu tình phức hợp, tạo thành phong trào phản kháng mạnh mẽ đa thành phần với
quy mô lớn, dẫn đến xáo trộn khá mạnh về không khí chính trị và cũng có thể dẫn
đến xung đột với hình thức bạo động, bạo loạn với các cơ quan chính quyền và
cảnh sát.
Nếu khả năng trên xảy ra, không có nhiều hy
vọng để Bắc Kinh sẽ kềm chế được hoạt động đòi tự trị, dân sinh và dân chủ tại
các khu vực Tây Tạng, Tân Cương và Nội Mông. Hoạt động phản kháng này sẽ trở
nên phức tạp hơn hẳn và có thể dẫn đến sự xung đột (bạo động, bạo loạn) ở quy
mô lớn tại các khu vực này.
Kịch bản trên vẫn có thể xảy ra đối với Trung
Quốc ngay cả trong điều kiện nền kinh tế thế giới không bị rơi vào suy thoái kép.
* Kịch bản 3: Kinh tế suy thoái, chính trị biến động mạnh
Trong trường hợp xấu nhất, nền kinh tế thế
giới rơi vào suy thoái kép và kinh tế Trung Quốc cũng chịu hệ lụy tương ứng.
Khi đó, GDP Trung Quốc có thể giảm xuống còn 4-5% và lạm phát tăng vọt từ
10-15%, kéo theo tỷ lệ thất nghiệp phi mã. Tình hình này gần như chắc chắn sẽ
làm cho bong bóng bất động sản bùng vỡ, giá bất động sản giảm rất mạnh (trên
50% hoặc hơn) với thanh khoản kém. Mặt khác, chính quyền địa phương gần như mất
khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng, dẫn đến phản ứng dây chuyền về việc phá
sản của một số ngân hàng lớn và làm chao đảo hệ thống tài chính quốc dân.
Những điều kiện kinh tế trên cũng là ngòi nổ
cho các hoạt động phản ứng và phản kháng xã hội. Khiếu kiện đất đai, đình công
và các biểu tình đòi quyền dân sinh, dân chủ sẽ trở thành các phong trào diễn
ra liên tục, quy mô tăng dần, lan rộng tại nhiều tỉnh và thành phố, hoàn toàn
có thể dẫn đến xung đột mạnh với chính quyền. Không loại trừ sự kết hợp và cộng
hưởng giữa các hoạt động phản kháng xã hội có thể dẫn tới yêu sách thay đổi thể
chế chính trị, mà về thực chất có thể xem là “cách mạng hoa nhài” như đã từng
xảy ra ở Bắc Phi và Trung Đông vào những tháng đầu năm 2011.
Cũng cần tham khảo một đánh giá của giáo sư kinh tế và chính trị
học Barry Eichengeen của Đại học California về cuộc cách mạng hoa nhài ở Bắc
Phi: “Sự bất ổn chính trị đã bắt nguồn từ thất bại của chính quyền trong
việc phân chia lợi tức một cách công bằng, đặc biệt đối với những giai cấp bị
thiệt thòi trong xã hội là giới trẻ, nông dân và công nhân… Trong kinh tế, sự
phân chia lợi tức quốc gia một cách công bằng cũng quan trọng không kém gì sự
phát triển lợi tức”.
Những điều kiện kinh tế – xã hội và chính trị
trên cũng là nhân tố kích thích các phong trào khả kháng rộng lớn ở Tân Cương,
Tây Tạng và Nội Mông.Tương ứng với điều kiện đặc thù về lịch sử của các khu vực
này, không loại trừ quá trình xung đột bình thường và tự phát có thể dẫn tới
những cuộc xung đột vũ trang có tổ chức và gây nguy hiểm cho sự tồn tại của thể
chế chính trị ở Trung Quốc.
Hiện thời, vẫn còn khá sớm để đánh giá về xác
suất có thể xảy ra của từng kịch bản trên, cũng như về sự biến thái của 3 kịch
bản trên thành nhiều kịch bản khác. Tuy vậy theo quan điểm phân tích của chúng
tôi, 3 kịch bản trên vẫn là những khả năng cốt lõi với sự ảnh hưởng mang tính
quyết định của các vấn đề kinh tế đối với vận động chính trị trong lòng xã hội
Trung Quốc.
Liên quan đến Việt Nam, trừ kịch bản 3, khi
chính quyền Trung Quốc sẽ phải toàn tâm tập trung các nguồn lực để đối phó với
biến động trong nước, còn với hai kịch bản 1 và 2, khả năng Trung Quốc sử dụng
phương án đánh lạc hướng dư luận ra bên ngoài lãnh thổ bằng cách tạo ra những
vụ việc gây hấn, tranh chấp ở khu vực biển Đông và vùng biên giới liên quan với
Việt Nam, vẫn có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào họ thấy cần thiết.
Cảnh sát và người dân đối đầu trong vụ biểu
tình ở Lichuan ngày 9-6 – Ảnh: AFP
Chiều 12.6, khu ngoại ô Zengcheng [Quảng
Châu], cảnh sát chống bạo động phun hơi gas để giải tán đám đông công nhân nhập
cư phản đối sự ngược đãi của những nhân viên bảo vệ đối với một phụ nữ trẻ bán
hàng rong đang mang thai. Ảnh: Reuters
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét