61.
Nằm… đếm mùa Thu qua…
Trời đã lại chuyển sang Thu. Cứ mùa Thu rồi lại mùa Thu.
Tôi cứ nằm đây để đếm mùa Thu qua, cho đến mùa Thu nào là mùa Thu cuối
cùng?…Trên đài nheo nhéo là cho đến hôm nay, miền Bắc đã bắn rơi được…1261 máy
bay Mỹ đủ loại; và đã bắt được nhiều phi công… Cứ mỗi trận đánh, hoặc trong một
ngày, trên đài, trên báo chúng thường thông báo rõ ràng. Thậm chí, nhắc đi nhắc
lại con số máy bay Mỹ các loại bị bắn rơi trên miền Bắc, cộng vào từng ngày
nâng tổng số là bao nhiêu chiếc. Nhưng, riêng về phi công, thì chúng luôn luôn
nói lấp lửng: hôm nay bắt thêm 3 tên, hôm khác bắt thêm hai tên, hôm khác nữa
bắt thêm một số tên v.v…nhưng không hề tuyên bố, đã nâng tổng số là bao nhiêu
phi công. Điều đó, chứng tỏ là ngay từ lúc này, Việt Cộng đã có ý đồ dùng vấn
đề phi công để làm áp lực với Mỹ sau này.
Ai cũng hiểu, Cộng Sản
ra cái vẻ thông báo với thế giới từng trận đánh, và con số “1261 máy bay Mỹ bị
hạ cho tới nay” là phóng đại.
Tôi tưởng tượng một câu
chuyện về số máy bay Mỹ bị hạ trên miền Bắc, rồi cười một mình:
“Một hôm Mao Trạch Đông
nhấc điện thoại đặc biệt hỏi chuyện Hồ Chí Minh:
-A lô! Chú Hồ đấy hả?
-Dạ, em đây. Anh cần
dạy gì em?
-Trên đài và báo chí,
chú mày nói đã hạ được 1261 máy bay Mỹ. Chỗ anh em trong nhà, chú mày phải nói
thực với ta: Đúng ra chú mày hạ được bao nhiêu cái?
-Thưa, anh hỏi em phải
nói thực, để cùng nhau rút ra những bài học kinh nghiệm. Thú thực, chỉ có 514
cái thôi anh ạ.
Một tiếng “thình!”, Mao
giận quá nên đập tay lên bàn:
-Chú mày lại bịp cả ta
nữa! Theo tin của cơ quan tình báo tại chỗ của ta thì, Bắc Việt từ khi có chiến
tranh phá hoại của Mỹ tới nay, mới bắn rơi được 184 cái thôi! Đến ta với chú
mày vừa là đồng chí, vừa là anh em mà chú mày còn bịp, thì trên cái cõi đời
này, còn ai mà chú mày không bịp nữa?”.
Sáng hôm sau, mùng 2
tháng 9. Mọi năm vào những ngày này, ôi, cứ là nhức cả đầu với tiếng loa. Nào
là, thuyết minh cảnh diễn binh, biểu tình; nào là bài diễn văn trang giang đại
hải… Nhưng năm nay, chúng đã im lìm làm lễ trước rồi, trong một xó xỉnh núi
rừng nào đó. Bởi vì, hầu hết bọn đầu não Cộng Sản Hà Nội đâu còn ở thủ đô nữa;
chỉ trừ những trường hợp cá biệt, một hay hai tên đi về tiếp xúc với các phái
đoàn ngoại giao mà thôi!
Chẳng hiểu hôm nay, máy
bay Mỹ có vào “thăm” miền Bắc, hoặc Hà Nội không đây? Có thể, người Mỹ lịch sự,
hay có “giơ” chơi kiểu người lớn! Tôn trọng văn hóa các dân tộc, và nhân phẩm.
Dù rằng có phải vì thế mà lính bị chết nhiều, hoặc thua Cộng Sản, thì cũng
không thể chơi kiểu tiểu nhân như Cộng Sản được? Cho nên, bà con có thể cứ yên
tâm đi cày cho khỏe vào, mà hưởng ngày “Cuốc Khéo”!…
Mãi gần 9 giờ, cán bộ
mới vào mở các buồng cho tù ra đổ bô. Đến lượt buồng tôi, vừa mới ra khỏi cửa,
tôi thoáng thấy tên Dư hôm nay mặc quần áo đại lễ vàng ươm, ủi cứng ngắc. Hai
miếng “hàm” chuẩn úy đỏ loẹt, mới toanh gắn chéo vào hai bên ve áo. Mặt y tươi
roi rói dưới cái mũ kê-pi cũng màu vàng, có chiếc đai đỏ như máu. Tôi có cảm
tưởng cả bộ quần áo, và cái mũ như bằng giấy, nhất là nhìn xuống đầu hai tay áo
của y, một bên chỉ thấy chùm chìa khóa đang rung rung, lúc lắc; còn bên chỉ
nhìn thấy có hai, ba đầu ngón tay giữa thò ra chừng một đốt, đang ngọ nguậy. Cả
con người lão trông, có lúc y hệt như những hình nhân xếp đầy ở ngoài hè, trên
phố hàng Mã thời trước 1954. Nhưng, có lúc như những người nhà “đòn” đội mũ,
mặc đồng phục để khênh quan tài người chết.
Vào buồng tắm, tôi vừa
cọ bô vừa suy nghĩ. Đâu phải những tên cáo già Bộ Chính Trị miền Bắc không thấy
như vậy! Nhưng, vì chúng đã hiểu, chính những cái “quê một cục” ấy là một yếu
tố không thể thiếu, để tạo nên sức mạnh của chế độ đấy! Chúng thừa hiểu những
bộ đồ “đờ luých” cắt may vừa vặn, những sự ngang bướng, lấy le, trở thành hình
thức oai phong, nhưng trống rỗng tâm hồn hoặc chỉ bàn tán chửi đổng, cấp trên
mà thôi! Cho nên, như con rắn, chỉ cần cái đầu thật khôn lanh, tinh quái, còn
phần đuôi chỉ biết theo đầu, thì mới mạnh được.
Lúc ôm bô trở ra, dù đã
hiểu thế, nhưng khi thấy tên Dư (người thì bé nhỏ, mà y lại tỏ ra bộ điệu quan
trọng nữa chứ, khi y di chuyển chỗ này đến chỗ kia, trông nó cứng ngắc như
trong cái hộp, giống như con ốc “mượn hồn” đang đi trên bãi cát ở biển), tôi
phải qua đi chỗ khác, để cho hai cái mép của mình được thoải mái kéo rộng ra
hai bên.
Khi ra lấy cơm, tôi lại
thấy hai tên Chiến và Nhiễm cũng như hai con ốc “mượn hồn”, đang từ ngoài cổng
xà lim đi vào. Tên Chiến lên thiếu úy, tên Nhiễm cũng lên chuẩn úy. Mặt tên nào
cũng tươi roi rói. Tôi nhớ là mới năm 1963 vừa rồi, chúng đã được lên một lượt
nữa. Phải chăng, hoàn cảnh đã dẫn
đến thời chiến, những
tên Bộ Chính Trị phải cần mua, phải cần “bơm” nhưng tên cán bộ cơ sở, hạ tầng
trong mọi ngành nghề của toàn quốc? Tôi không được nhìn thấy cán bộ của các
ngành khác, cho nên tôi chưa dám kết luận.
Ngày hôm sau, mới sáng
ra, tên Bằng đã gọi tôi đi cung sớm. Đã khá lâu rồi, phải tới 2, 3 tháng nay,
không hề gọi tôi đi. Chả hiểu hôm nay lại có chuyện gì mới? Khi ra khỏi cổng xà
lim, nhìn ra sân trại chung, tôi thấy đã khác lạ hẳn với trước dây. Từ mấy căn
nhà cạnh xà lim II, ra tới cái chòi, có mắc bốn cái loa ở giữa sân, bây giờ đã
đóng cột quây cót lại thành một khu riêng. Những lá cót đóng, che cao chừng
2m2. Nhưng, phía dưới chân để hở ra chừng 30 phân của cái tường cót, thấy rất
nhiều những cái chân trắng, đầy lông lá. Đa số là đi chân không, chả có giày,
dép đi. Tôi hiểu ngay là mấy buồng kia, cạnh xà lim II, là chỗ giam phi công
Mỹ. Phải quây cót ra, chiếm một phần sân, để hàng ngày cho phi công Mỹ ra tắm
rửa, ăn uống. Phải quây cót lại vì Cộng Sản không muốn tù Mỹ và tù Việt Nam
nhìn thấy nhau.
Tôi mải ngoái cổ nhìn
những bàn chân to, nhưng gầy (thỉnh thoảng có những bàn chân đen ngòm, xen lẫn
với những bàn chân còn quấn băng từng cục), mãi tới khi một tiếng quát làm tôi
giật mình:
-Không đi, nhìn cái gì?
Tôi quay lại, tên Bằng
đang lừ đừ nhìn tôi. Tôi tỏ vẻ trầm trồ, nói với y:
-Bắt được nhiều phi công
quá!
Y lạnh lùng, chẳng trả
lời tôi. Khi tôi ra tới chỗ phòng trực, cũng vừa lúc có hai tên cán bộ chấp
pháp lạ, đang nhận lãnh hai anh phi công, một anh cao lênh khênh gầy nhỏng và
một anh tầm thuớc có bộ râu quai nón chổi xể. Anh có bộ râu quai nón đưa mắt
nhìn tôi hai lần; chẳng hiểu anh nghĩ gì? Chắc anh thấy một thân hình trắng
xanh, ốm tong teo với đôi mắt trắng dã, nên anh nhìn chăng? Nghĩ thế, vì mấy
lần trước đây, khi bị đi gọi cung, ra tới sân trại chung, tôi thấy một đám tù
thanh niên rách rưới, tuổi khoảng trên, dưới 20, chỉ trỏ tôi với nhiều tiếng
nói to:
- Nguyễn Văn Trỗi,
chúng mày ơi!
Tôi cũng không hiểu tại
sao đám tù đó nhìn tôi lại gọi là “Nguyễn Văn Trỗi”? Phải chăng chúng nhìn thấy
tôi từ ở trong cổng xà lim ra, phía sau có một cán bộ áo vàng; và có thể tôi có
một dáng dấp giông giống như tên Nguyễn Văn Trỗi “chó chết” chăng, nên chúng đã
thì thầm gán ghép cho tôi? Phải nói, sự gán ghép này chẳng làm cho tôi vui gì.
Nhất là tôi cũng chẳng nhìn thấy hình ảnh tên Trỗi ra làm sao?
Khi ra tới sân trước,
tức là sân có giàn nho, trên hành lang thang đi qua các phòng, tôi liếc vào
cũng thấy một vài anh mũi lõ, mắt xanh đang ngồi ở chiếc ghế đẩu của bị can,
giống như tôi vẫn ngồi. Như thế, điều này cho phép tôi hiểu, dạo này một số
trong ngành chấp pháp của miền Bắc đã được học lớp cấp tốc Anh văn, hoặc những
người đã giỏi Anh văn được huấn luyện để bổ sung cho ngành chấp pháp, nhằm tăng
cường người hỏi và khai thác phi công Mỹ về tin tức, về những phương pháp, cũng
như nghệ thuật không chiến và bắn phá, v.v…
Kẻ hỏi cung tôi hôm nay
là tên Đặng, người Huế. Kỳ này y lại đeo kính trắng nữa chứ. Một tên cán bộ lạ
đang giở chồng hồ sơ dầy cộm trên bàn. Tôi chưa xác định được vấn đề gì, cho
nên, theo thói quen như mọi khi, tôi ngồi yên cúi đầu và chờ đợi. Với giọng
miền Trung giòn và cứng, tên Đặng bắt đầu lên tiếng:
-Dạo này anh khỏe hỉ?
-Thưa ông, tôi vẫn bình
thường.
Y nhìn tôi đăm đăm qua
đôi mắt kính, rồi chậm rãi:
- Hôm nay, chúng tôi
nghiên cứu lại toàn bộ hồ sơ của anh. Đã hơn ba năm rồi, tư tưởng của anh không
có gì chuyển biến, chỉ vì anh đã mang sẵn trong người giòng máu phản động.
Chính vì vậy, anh chỉ thấy chủ nghĩa xã hội nghèo nàn, lạc hậu, người dân phải
đẩy xe bò, không có tự do đi lại, v.v… Anh làm sao nhìn thấy sức mạnh đang vuơn
lên như Phù Đổng của toàn dân, một sức mạnh mà Mỹ, một tên hiếu chiến siêu
cường hùng mạnh nhất thế giới, cũng đang phải điên đầu, ngang ngửa. Rồi đây,
thời gian sẽ gột rửa giòng máu phản động trong con người của anh. Vậy, anh hãy
nghe tôi đọc. Những đoạn nào trước đây anh đã khai báo nhưng chưa ký, bây giờ
yêu cầu anh ký vào.
Cúi đầu, ngồi yên nghe
y nói, tôi nhớ lại một buổi gần 3 năm về trước, hai tên Nhuận và Thành đã vui
vẻ hỏi tôi nhận định về xã hội chủ nghĩa: Điều gì đồng ý? Điều gì tôi không
đồng ý?
Tôi nhìn toàn bộ. Ngay
từ cái gốc, Cộng Sản chỉ là một chủ nghĩa bịp bợm người ngây thơ, người lười suy
nghĩ, để rồi cuối cùng khi mình bị chúng trói được rồi, chúng mới lột mặt nạ ra
cho xem bộ mặt thật. Chúng chỉ là một lũ quỷ mắt đỏ, mồm xanh, răng nanh dài
thượt, nhọn hoắt, chuyên ăn thịt người. Lúc đó, mình có muốn chống lại, đã muộn
rồi!
Trong cái thế của tôi
lúc đó, khi hai tên Thành và Nhuận hỏi, tôi vẫn không có ý kiến, hoặc nói ngược
hẳn lại ý nghĩ, rằng tôi thích xã hội chủ nghĩa lắm. Mãi tới khi tên Nhuận cam
đoan những lời nhận định, góp ý xây dựng của tôi sẽ
không ảnh hưởng gì đến
tôi cả, thì vô lý, không biện chứng; nên đành chỉ nói điều mà ai cũng trông
thấy. Đó là cảnh người kéo xe bò, v.v… thấy họ cực khổ quá, nhưng tin chắc rằng
ít năm sau sẽ khá hơn… Tôi cố ý nói như vậy để chúng mới tin là “tôi thích Cộng
Sản” và cũng có một vài điểm tôi thấy chưa tốt. Tôi còn lạ gì lời dụ dỗ, hứa,
hay cam đoan của Cộng Sản! Chỉ có thế. Bây giờ, sau hơn 3 năm rồi, chúng lại
đem cái đó ra để sỉ vả tôi. Càng thêm một bài học cho tôi!
Chúng chỉ đọc sơ lại,
rồi đưa tôi ký. Nhiều chỗ, chúng chẳng đọc cứ đưa tôi ký. Tôi cũng chẳng ngán
gì. Dù bảo tôi ký vào bản án tử hình bây giờ, tôi cũng ký. Hơn nữa, tôi cũng tự
hiểu, khi đã ở trong tay chúng rồi, những chuyện này cũng chỉ là hình thức. Nếu
chúng định giết, định bắn, thì có lý bằng trời chúng cũng bắn, cũng giết. Vậy,
ít ra phải hiểu nhau một tí chứ! Chính tôi đã nói thẳng với tên Đặng là khỏi
cần phải đọc lại, mất công, cứ xem chỗ nào cần tôi ký, cứ đưa đây! Cả hai tên
đều nhìn tôi bằng ánh mắt dịu mềm. Vậy mà cũng tới trưa, tôi mới được chúng cho
về. Trên đường theo lão Bằng về xà lim, khi qua sân giàn nho, lão Bằng gặp một
tên cán bộ, nên y ra hiệu tay bảo tôi chờ, để ý nói chuyện với tên cán bộ đó.
Mấy tháng nay, mới lại
nhìn thấy màu trời. Trời mùa Thu thăm thẳm trong xanh. Một vài áng mây trắng
lưa thưa đây đó, như những bông cúc, bông huệ trắng dính vào miếng vải xanh
cánh chả. Mũi tôi đang tưởng tượng mùi huệ, mùi cúc, chợt mắt tôi nhìn thấy mấy
đốm trắng bé tí ti, sáng chói như những con cò trắng bay rất cao.Đến khi tôi
chợt nhận ra, đó là những chiếc máy bay, cũng là lúc còi báo động hồng hộc rú
lên như con bò mộng bị thọc tiết, nấc lên từng đợt ùng ục. Rồi súng và bom nổ
rầm trời…
Hôm nay, tôi mới trông
thấy máy bay Mỹ nhào xuống như điện chớp; và những đường đạn phía dưới bắn lên
khắp đó đây như những đường chỉ trắng, ngắt từng quãng đều nhau chọc thẳng lên
bầu trời xanh, trông như những tua khói trắng của chiếc pháo bông, sau khi nổ
trong đêm hội hoa đăng.
Tôi mải mê ngửa cổ nhìn
lên trời, bỗng tôi thót người vì tiếng quát giật giọng:
-Chui vào đây! Muốn
chết à!?
Tôi nhìn về phía tiếng
quát. Mãi trong một lỗ hầm tối om, ở một góc sân, một bàn tay áo vàng đang thò
ra vời tôi rối rít. Tôi chạy tới gần cửa hầm, nhìn vào bên trong, thì ra tên
Bằng cùng với 4, 5 tên áo vàng nữa, tôi chả biết ai với ai. Tên Bằng đang trợn
trừng nhìn tôi. Tôi vừa cúi đầu chui vào, y đã cầm tay tôi lôi tụt vào trong,
làm tôi ngã chúi đầu vào y.
-Ai cho phép anh đứng
đấy nhìn máy bay?
Tôi nghĩ bụng: “Tôi cho
phép tôi đứng chứ ai!” nhưng tôi chỉ nhỏ nhẽ trả lời:
-Thưa ông, tôi tưởng
không được vào hầm với các ông!?
Y chẳng biết phải nói
gì với tôi thế nào, cuối cùng, chỉ buông thõng:
- Vớ vẫn!
Ngồi trong hầm nhìn ra,
tôi chỉ thấy một luống hoa hướng dương đã gần tàn, che lấp cửa hầm. Bên ngoài,
bom cứ rơi, đạn cứ nổ. Có vào trong hầm, nghe những tên cán bộ thì thầm nói
chuyện, tôi mới biết là đa số cán bộ Hỏa Lò phải chạy chui vào trong hầm, là vì
chúng sợ máy bay Mỹ thì ít, mà sợ mảnh đạn phòng không rơi vào đầu thì nhiều.
Qua câu chuyện của chúng, Hà Nội đã có nhiều người bị thương, thậm chí có người
chết vì…mảnh đạn của đại pháo và trung pháo phòng không.
Hơn một tiếng đồng hồ
sau, còi mới báo an. Tên Bằng giục tôi về xà lim ngay. Khi về qua sân trại
chung, tôi thấy sân vắng tanh. Như vậy, mỗi khi có còi báo động, tất cả tù phải
vào trong buồng.
62. Thăm tù… Người lạ mặt là ai?
Sau buổi đi cung chừng hơn tuần lễ, một buổi chiều, tôi
đang nằm nhắm mắt dưỡng sinh, chợt có tiếng khóa xọc xạch, rồi cửa mở.
Tôi vội vàng ngồi dậy,
nhìn ra: tên Dư. Tôi đang lạ là cơm nước đã ăn, bát trả rồi; lúc này lại sắp
hết giờ làm việc; vậy còn cung kẹo gì nữa, y vào buồng tôi làm gì?… Với một
giọng nhè nhẹ và dịu dàng, tên Dư nói:
-Được lệnh Ban Giám
Thị, tôi tha cùm cho anh!
Mắt tôi mở to! Mồm tôi
há hốc! Tôi tưởng mình nghe lầm. Tôi đờ đẫn cả người, chỉ dạ lên một tiếng; mặc
dù trong lòng muốn hỏi lại là “cán bộ nói gì!”
Tên Dư trở ra ngoài,
rút chốt cùm đánh xoạch một cái. Tôi vẫn còn chưa hết bàng hoàng, chậm chạp
nhấc cùm, rồi nhấc chân ra. Tôi vừa đặt cùm xuống, y thò cổ vào ngó, rồi y đút
chốt cùm lại.
Cửa đã cài khóa rồi,
tôi còn ngồi ngơ ngác ngẩn ngơ, như vẫn chưa tin. Hai tay tự nhiên cứ vuốt ve,
xoa nắn cái chân vừa lấy từ cùm ra.
Đã hơn ba năm nay,
chiếc cùm cứ ám ảnh đời tù của tôi như một oan nghiệt! Nhiều lần, tôi tưởng đã
phải về lòng đất Mẹ cũng vì nó. Đến nỗi, năm ngoái, đã có lần tôi định lên gặp
chấp pháp tự nguyện, tự nhận mình là kẻ có tội với nhân dân, với đảng, đáng
phải chặt một bàn chân để đền tội và để khỏi cùm nữa. Bởi vì, lúc đó, tôi quá
khổ đau, phẫn uất, suốt tháng này qua tháng khác, cái chân cứ lằng nhằng trong
cùm đêm cũng như ngày. Thà chịu chặt một bàn chân còn sướng hơn! Còn chân, hay
mất chân, tấm thân này cũng vẫn ở trong tù. Chặt chân, chỉ bị đau vài tháng,
nhưng sau đó, sẽ không còn cái cảnh đái, nằm, ngồi, ngủ, thức với biết bao
nhiêu khổ cực, bực dọc vì cái chân cứ dính chặt vào cùm.
Thế mà bây giờ, lại
được tha! Vậy là từ nay tôi đã được tự do rồi! Sẽ tha hồ, muốn ngồi thì ngồi,
muốn đứng thì đứng, muốn đi thì đi. Tha hồ tập thể dục!
Ôi, tự do! Sao mà mi
quý giá vô ngần! Ta nguyện tôn thờ mi trọn cuộc đời ta!
Nhìn lại gia tài mình,
tôi chẳng có cái gì để ăn mừng cả, thật đáng tiếc! lòng tôi lúc này cảm thấy
nhẹ nhàng, lâng lâng phơi phới.
Bây giờ, hàng ngày, tôi
có thể làm được nhiều việc trong buồng, chứ không còn đơn điệu chỉ có nằm và
ngồi như mọi khi nữa. Sáng sớm, ngoài những động tác tập thể dục như mọi lần,
tôi lại chạy tại chỗ 100 bước, thở hít nhiều hơn. Nắm chán, tôi lại bò dậy đi
bách bộ, cứ 8 bước vừa đúng một vòng cái
khung nền hình chữ nhật
giữa hai sàn xi măng. Hai cạnh dài, mỗi cạnh 3 bước; hai cạnh ngắn, mỗi cạnh 1
bước. Tôi đi bách bộ nửa tiếng, lại nằm nửa tiếng, rồi ngồi nửa tiếng; cứ luân
phiên như vậy, cho tới 9 giờ tôi thì đi ngủ. Sáng 6 giờ dậy. (Dĩ nhiên, thời
khắc tôi chỉ ước chừng gắn liền với tiếng đài và giờ giấc làm nghỉ của cán bộ).
Cứ như vậy, ngày nào
cũng như ngày nào, từ sáng đến trưa, từ trưa tới chiều, từ chiều tới tối…
Lúc này, vì mới được
tha cùm, nên có vẻ ngoan ngoãn lắm, chưa hề dám tính đến việc tò mò liên lạc,
nói chuyện với các buồng khác. Nhưng, vào lúc 8 giờ tối hôm qua, khi tôi nghe
thoáng tiếng động ở cánh cổng xà lim, rồi có tiếng giày cồm cộp từ ngoài cổng
xà lim, rồi có tiếng giày, còn có cả tiếng xền xệt của đôi dép râu nữa; tôi
ngạc nhiên vểnh tai lên nghe ngóng. Ngay khi tôi còn ở Hà Nội, rồi đến những
ngày cung kẹo ra vào, lên xuống trong Hỏa Lò hàng mấy năm, tôi cũng chưa hề
thấy ai đi giầy, nện xuống gạch cồm cộp như vậy cả. Tôi phân vân, rồi phán đoán
hay là người ngoại quốc. Vì vậy, tôi càng cố gắng nghe xem tiếng nói chuyện;
nhưng vẫn còn im phăng phắc. Cuối cùng, tiếng giày cộp kệt như đập vào tai mọi
người đang đi dần vào buồng số 4. Tôi hơi hồi hộp, buồng số 4 ngay cạnh buồng tôi.
Một lúc, rồi cửa đóng,
khóa. Không còn một tiếng động. Mãi sau đó, tôi nghe tiếng kéo bô đi giải, rồi
không còn nghe gì nữa…Chán rồi tôi cũng ngủ. Ngày mai, trước sau, thế nào chả
biết, nhất là bây giờ tôi lại không bị cùm, dễ có điều kiện tìm hiểu hơn.
Sáng hôm sau, đến giờ
đi đổ bô, tôi lắng nghe khi mở buống số 4 xem thế nào: có tiếng chân ra vào nhà
tắm, nhưng không còn nghe tiếng cộp cộp của đôi giày độc đáo nữa. Rồi sau đó,
khi buống số 4 đi cung, tôi cũng không còn nghe thấy tiếng giày nữa. Như vậy,
số 4 phải là người Việt! Mà người Việt gì lại đi giày hách thế? Chắc rằng số 4
cũng thấy là tiếng giày của mình lạc lõng, lẻ loi, không thể yên tâm đi được ở
đây; vì thế, đã phải bỏ ra để đi chân đất.
Chỉ ba ngày sau, tôi
nghe thấy tiếng số 4 khi báo cáo xin thuốc đau bụng đi ngoài. Nghe qua tiếng
nói, trọ trẹ như giọng Quảng Bình nhưng đã pha nhiều tiếng Bắc, tôi đoán số 4
sấp sỉ chỉ bằng tuổi tôi, nghĩa là khoảng 26, 27 . Điều đó, càng gây cho tôi tò
mò, nhất là tiếng giầy đặc biệt. Những ngày tới, tôi sẽ phải tìm được câu trả
lời!
Sáng hôm sau, sau khi
cơm nước xong, tôi đang chuẩn bị đánh một giấc ngủ ngày, bỗng từ ngoài sân có
tiếng ồn ào của một đoàn người đi vào xà lim. Tôi nghĩ, lại có phái đoàn nào đó
vào tham quan hai cái buồng của Hoàng Văn Thụ
và Trần Đăng Ninh?
Nhưng, như mọi khi, phái đoàn tham quan thường đi vào Chủ Nhật; vậy nếu không
phải, thì đây là đoàn gì?
Tôi bước gần ra phía
cánh cửa. Áp sát tai vào chiếc cửa sổ nhỏ lắng nghe. Có tiếng mở buồng số 2;
rồi lại buồng số 13. Tôi đoán không sai mà! Tôi đang chờ như mọi khi, sẽ lại có
tiếng thuyết trình của một tên cán bộ tuyên huấn nào đó về tội ác của thực dân
Pháp, đã giam hãm những người cách mạng, v.v… và v.v… Nhưng, cho tới khi cửa
của hai buồng đó đóng lại, cũng không nghe thấy một tiếng nói? Thật là lạ, khác
thường không giống mọi lần!
Tôi đang băn khoăn chưa
hiểu đây là loại phái đoàn gì, tai vẫn áp vào cửa sổ nhỏ nghe ngóng; bất chợt,
tôi giật thót người lại vì: “Xoạch!”, cửa sổ nhỏ của tôi mở ra. Tôi chỉ kịp lùi
vào phía trong, ngơ ngác. Thoáng nhìn ra thấy lố nhố nhiều người, cả màu vàng
đồng phục, lẫn thường phục.
Cửa lớn buồng tôi mở
ra. Tôi càng ngỡ ngàng, và phản ứng tự nhiên là lùi lại sát tường phía đầu sàn.
Thật là quá đột ngột, tôi không nghĩ là phái đoàn lại mở cửa buồng các tù nhân,
nhất là lại chính buồng tôi; nên phải nói, tôi mất hẳn tự nhiên lúc đầu.
Đi đầu là một người mặc
chiếc áo ka ki xám 4 túi, tóc đã điểm sương, chừng 50 tuổi. Hai hàng lông mày
dầy, tua tủa lông đen như hai con sâu róm lớn đậu phía trên hai con mắt, làm
cho đôi con ngươi màu tro của lão như thụt sâu vào, đẩy hai bên gò má gồ ra,
càng làm cho nét mặt lão tựa như con khỉ đột, vữa dữ tợn, vừa nghiêm trang.
Phía sau lão là hai tên Phó giám thị Thượng úy Trì và Lê, cùng lúc nhúc 5, 6
tên nữa phía bên ngoài. Hai tên Trì và Lê đeo đầy đủ quân hàm, thái độ tỏ ra sợ
sệt, lễ phép với tên mặc ka ki xám.
Tên mặc áo thường phục
này nhìn tôi một cách soi mói. Mắt y đột nhiên dịu xuống. Môi y rung rung, rồi
nhếch ra cười nửa miệng:
-Anh có khỏe không?
Chẳng biết y là ai,
nhưng thấy thái độ của tên Trì và Lê như vậy, nên tôi cũng phải tỏ ra ngoan
ngoãn:
-Cám ơn ông, tôi khỏe!
Y quay lại nhìn hai tên
Trì, Lê; rồi y cười thành tiếng, vừa gật gật đầu, vừa nói:
- Anh uống thuốc liều,
một mình dám mò về Hà Nội!
Mặt y tươi hẳn lên,
nhìn tôi. Tôi cũng nhìn y, định cười; nhưng môi tôi mím chặt, không trả lời y;
trong khi đó, hai tên Trì và Lê, mỗi tên đều tay nọ để lên mu bàn tay kia, úp
vào phía dưới bụng mặt vẫn nghiêm trang lạnh lùng.
Tên mặc áo ka ki xám
đưa mắt nhìn suốt người tôi, rồi lại cười, y vừa quay ra, vừa nói:
-Thôi, chào anh!
Tên Dư đã đóng cửa.
Đoàn người đã ra tới sân. Những tiếng xôn xao bàn tán nhỏ dần ra phía cổng xà
lim. Tôi vẫn đứng yên trong buồng, với tư thế lúc nói chuyện với tên lạ mặt. Đầu
óc tôi vẫn còn ngỡ ngàng chả biết y là ai? Y vào hỏi tôi mấy câu như vậy để làm
gì? Có ảnh hưởng gì đến những ngày tới của tôi không?
Qua hiện tượng nhìn
thấy khi nãy, y phải là một nhân vật có quyền hạn nhất định nào đó của ngành
công an, mới khiến cho hai tên Trì và Lê không dám có một tiếng nói, dù là tên
đó cười đùa nói với tôi mấy lần.
Hai hôm sau, là ngày
tắm rửa. Chiều hôm đó, sau khi trả bát xong đã 4 giờ, tôi chờ tên Dư mở cửa cho
ra lấy quần áo phơi ngoài dây.
Với những tên cán bộ
khác, ngày tắm rửa, bữa cơm chiều, khi trả bát xong, các buồng đều phải báo cáo
để ra lấy quần áo phơi ngoài sân. Khi ra, nếu quần áo còn ướt, thì để lại mai
xin lấy. Chứ thường là đã trả bát (bữa chiều) rồi, chúng không mở cửa nữa.
Nhưng, đối với tên Dư, có hơi khác…
Về cuối Thu, nhiều khi
trời không còn cái nắng chói chang của mùa Hè; và có những ngày nhiều mây, gió
nồm Nam, không có ánh nắng, nên quần áo, cái nào dầy, chả khô được. Vì vậy, tên
Dư để cho mãi gần 5 giờ, đó là giờ tan tầm, trước khi bàn giao cho “ca” khác, y
mới đi mở cửa cho từng buồng ra lấy quần áo. Nhờ vậy, quần áo thường được khô,
đỡ hôi hám; nhất là đối với những buồng không có thân nhân tiếp tế, làm gì có
xà bông (một việc nhỏ đã nói lên con người của y).
Tôi đang hai tay chắp
sau lưng, lững thững nhà du đi bách bộ trong cái khung nền xà lim, giữa hai
sàn, đầu óc đang chơi vơi, chẳng chuyên chú suy nghĩ một cái gì, tự nhiên cửa
lớn buồng tôi mở. Tên Dư nói vừa đủ để tôi nghe:
-Cho anh ra sân chơi
một lúc!
Ô! Sao lạ vậy!?…Đến nỗi
tôi không tin vào cái tai của mình nữa. Tôi ở xà lim đã gần 4 năm rời. Chưa
từng bao giờ thấy có cán bộ nào lại mở cho một buồng nào ra sân…chơi! Vì vậy,
tôi phải mất mấy giây ngỡ ngàng, rồi vội vàng chạy ra sân.
Tên Dư vào bàn ngồi,
lúi húi viết. Thấy ánh nắng vẫn còn một phần ba sân, tôi cởi rất nhanh áo, rồi
đứng ra ánh nắng, ưỡn ngực cho ánh nắng mặt trời chiếu thằng vào người.
Tôi vừa háo hức, hân
hoan vặn vẹo người đàng trước, đàng sau, cạnh phải, cạnh trái cho những tia
nắng chui rúc vào toàn cơ thể; tôi xắn cả quần lên, cho đôi chân cũng được
hưởng cái món ăn tuyệt vời, từ gần 4 năm nay, không có!
Đã gần 4 năm nay, tôi
hầu như chỉ ở trong ánh sáng lờ mờ của căn buồng, cho nên nỗi hưng phấn của tôi
đã tràn ra ngoài. Tôi chưa thiết nhìn cảnh vật chung quanh, mặc dù tôi hiểu
trời Thu tuyệt vời. Nhưng, hãy chờ đấy! Hãy cho cơ thể tôi đói khát ánh nắng
lâu ngày, bây giờ, được ăn, được hưởng một bữa tràn trề đã!
Gần 20 phút, lúc này,
tôi mới kịp suy nghĩ. Tại sao tên Dư lại cho tôi cái đặc ân này? Và, tại sao y
biết tôi thích ánh nắng đến cái độ say sưa thế này mà y cho?…Phải rồi, trước
đây có mấy lần, khi ấy tôi vẫn còn bị cùm, y đã bắt gặp tôi ngồi trong buồng,
giơ từng cánh tay nghểng đầu, ngửa cổ để đón nhận một chùm ánh sáng chỉ bằng
quả cam nhỏ. Có thể vì vậy, y đã nảy ra ý định ban hạnh phúc cho một người, mà
y không mất mát gì cả, chỉ mất chút công mở cửa thôi, chăng? Dù sao, tôi vẫn vô
cùng biết ơn y. Không hiểu y có biết rằng, nhiều khi chỉ nhờ cơ thể một người
được bồi dưỡng lúc này, lại là điều kiện để thoát khỏi những bệnh hoạn trầm kha
về sau?
Để khỏi mất cái đặc ân
này, nhất là hôm nay là lần đầu tiên y cho ra, có thể y phải theo dõi, nếu
không có gì rắc rối, phiền hà, y mới cho ra tiếp sau này. Vì nghĩ như vậy, cho
nên khi tôi thấy buồng số 14 và buồng số 10 thò đầu lên cười với tôi, rồi thụt
xuống; tôi vẫn giữ vẻ nghiêm trang lạnh lùng.
Bỗng, tôi nhìn thấy
trên dây phơi, ở khoảng giữa, có một cái áo “pa-đờ-suy” và hai cái “sơ-mi”
trắng còn mới tinh, tay áo có “măng- sét” cẩn thận.
Dù nhìn từ xa, tôi cũng
hiểu đó là áo “sơ-mi” của nước ngoài, chứ ở miền Bắc, không ai có quần áo đó.
Tôi nhìn thoáng cái dấu hiệu ở cổ áo, nhưng vì xa quá tôi không thể đọc được.
Trí tò mò của tôi bị khích thích. Nét mặt vẫn bình thản, không tỏ vẻ gì khác
lạ, tôi liếc nhìn về phía bàn Dư, y đang cúi viết. Tôi vờ đi bách bộ vòng quanh
sân. Khi tới chỗ hai cái áo “sơ-mi”, dù trước đây lúc còn ở Sài Gòn tôi cũng là
tay ăn diện (ăn diện theo lối thanh niên học sinh), tôi phải thừa nhận hai cái
áo “sơ-mi” này thật tuyệt hảo với những đường cắt may điêu
luyện, vải Popeline
trắng chói mắt, dấu hiệu may cắt tại Paris. Hai cái khuy “măng-sét” bằng hai
hạt xoàn giả trông như thật.
Phải nói ngay ở Sài
Gòn, hai chiếc “sơ-mi” này cũng thuộc loại sang rồi, huống chi là ở miền Bắc,
lại ở trong Hỏa Lò. Nó là vật không thể lẫn lộn, nó độc đáo, như chọc vào mắt
hiếu kỳ của mọi người. Tôi còn phải ngây ngất nhìn, thì mắt những tên cán bộ
chắc phải “ngứa”, rồi “nhức” lên chớ không chơi đâu.
Ai là người có những
loại quần áo này? Có đem trộn lộn cũng không chệch vào đâu được nữa. Quần áo
này phải đi đôi với tiếng giày cồm cộp hôm nọ, nghĩa là của buồng số 4. Vậy là,
bao nhiêu câu hỏi lại hiện lên trong có tôi, càng gợi thêm tò mò về buồng số 4
là loại người nào? Tại sao lại phải vào xà lim?… Nhiều điều dồn dập cuốn hút
lòng tôi, nên tôi quên cả cảnh vật chiều Thu, mà bao nhiêu lâu mới có dịp để
ngắm nhìn. Phải nói, hôm nay vừa được “cải thiện” mắt, mà tấm thân cũng được
bồi dưỡng những món ăn tuyệt vời.
Tôi đang ngẩn ngơ ngụp
lặn, bơi lội trong biển nắng, tên Dư ở bàn đã đứng dậy ra mép hè nhìn tôi, tay
lúc lắc chùm chìa khóa:
- Lấy quần áo vào đi!
Tôi ngoan ngoãn, lẹ
làng vơ quần áo trại của tôi, rồi đi vào buồng. Khi đi ngang qua y, tôi nhìn y
bằng con mắt dìu dịu, tình cảm:
- Xin cảm ơn ông!
Ánh mắt y nhìn tôi cũng
thiện cảm, nhưng không nói một lời. Tôi định gợi chuyện rồi hỏi y về người hôm
trước vào buồng tôi là ai; nhưng, ý nghĩ cứ sắp sửa phát ra thành lời lại bị đè
vào, vì tôi thấy thời cơ chưa thuận tiện cho những câu hỏi như vậy…
63. Người nữ gián điệp của Sài Gòn!
Buổi trưa hôm nay, gió bỗng nổi nhiều hơn, trời đã lành
lạnh, xà lim mới cho mượn chăn. Vì thế sau khi ăn cơm sáng, buổi trưa tôi đã
nằm đắp chăn cho ấm, rồi lim dim đi vào giấc ngủ ngày lúc nào cũng không hay.
Một lúc, tôi chợt giật
mình tỉnh dậy, vẫn nằm im trong chăn, tôi lắng nghe: Ngoài tiếng gió rung những
lá bàng ở ngoài sân, tôi đinh ninh không lầm là có nghe thấy, không những bằng
tai mà còn bằng cảm giác, một tiếng động lịch kịch phía sàn bên kia… tường.
Nghĩa là bên buồng số 6. Chỗ sàn tôi nằm ở sát buồng số 6. Lạ, số 6 từ nửa
tháng nay không có người mà!… Nói chung, xà lim dạo này tương đối vắng, có tới
3, 4 buồng không có người. Chính vì thế, khi nghe thấy tiếng động vào sàn, tôi
ngạc nhiên. Nhưng vẫn nằm yên lặng, tôi cố vểnh tai chờ nghe có tiếng động nào
khác không?
“ Chả lẽ trong khi tôi
đánh một giấc ngủ trưa, có người vào buồng số 6 mà tôi không biết? Tại sao mải
không vào, lại… đợi đến khi tôi ngủ mới vào?”, tôi tự nhủ. Rồi lại nghĩ cũng có
thể vì mới thức giấc, thần kinh còn đang chơi vơi nên tưởng lầm như vậy chăng?
Cục kịch! Lần này thì
rõ ràng rồi! Rõ ràng tiếng động của ai đó nằm bên kia tường giở mình. Phải rồi,
một người bạn, một đồng loại, một sinh vật cũng nằm song song với mình, chỉ
cách một bức tường dày 20 phân. (Tường ngăn giữa hai buồng dày 20 phân; còn
tường trước và sau dày 50 phân).
Để tìm một nguồn an ủi,
trong cái vắng lặng heo hút, lẻ loi; tôi rút tay ra khỏi chăn, gõ nhè nhẹ vào
tường hai cái: Cạch! Cạch!
Im ắng như tờ. Vẫn chỉ
có tiếng gió lướt thướt rì rào chui luồn qua mái ngói. Tôi lại gõ thêm hai
tiếng nữa như chào, như gọi người bạn mới, nằm cạnh nhau… Cũng vẫn không có một
âm thanh nào đáp lại!
Tôi suy nghĩ: có lẽ,
người bạn mới bị bắt vào, tâm hồn còn đang giao động, hoang mang; cho nên ai
gõ, mặc ai, lòng đang đảo lộn đất trời, cuộc đời tan tác, vào tù rồi, còn thiết
cái quái gì nữa!
Tôi thông cảm với người
bạn mới, tâm trạng nghiêng ngả ngược xuôi khi cuộc đời rơi xuống hố, cho nên,
tôi lại gõ nữa, như lời thăm hỏi an ủi của một người. Tôi vểnh tai lên nghe
ngóng một lúc. Vẫn yên lặng như không có người. Tôi băn khoăn, thấp thỏm, chả
lẽ tôi mơ? Hay, buồng bên ấy có…ma!…Nghĩ như vậy thôi, chứ ngay ban ngày, ban
mặt…
Tôi thấy mỏi người,
liền xoay lại thế nằm quay sang phía khác, không hướng mặt vào tường nữa. Một
lúc sau, hai mắt lim dim thả hồn lơ mơ vào giấc tỉnh say. Thình lình, một âm
thanh vang lên như tiếng xiết, trượt mạnh vào tường của một vật gì bằng gỗ?
Không nằm mơ! Tôi xoay hẳn thế nằm lại, và giơ tay gõ nhè nhẹ vào tường “cạch,
cạch!”. Bây giờ thì có hai tiếng gõ đáp lại, rất nhẹ, và thưa. Chính lúc này,
tôi cũng không hiểu tại sao, chỉ nghe hai tiếng gõ mà lòng mình thấy vui hẳn
lên. Với tay lấy cái lược sừng ở đầu sàn, tôi khua canh cách rốt rít vào tường
như reo vui, như vỗ tay chào đón người bạn mới. Bên kia im lặng. Chừng nửa
tiếng sau, tôi lại khe khẽ gõ hai tiếng nữa. Cũng có hai tiếng đáp lại, như
hiểu ý định tôi nói gì.
Tới bữa cơm chiều. Sau
khi lấy cơm vào rồi, tôi cố chờ không ăn vội, lắng nghe. Khi cán bộ mở buồng số
6, lấy cơm xong, cửa đóng; tôi nghe rõ tiếng bát đặt lên cái cùm như tôi bên
này. Tôi liền gõ tường liên tục 5, 6 tiếng nhẹ, như ý mời anh bạn xơi cơm. Anh
cũng ríu rít gõ đáp lại. Chỉ là những tiếng động thay lời, mà tôi thấy lòng
mình hân hoan, ấm áp hẳn lên. Khi ăn xong, tôi cũng gõ, và cũng có tiếng vồn vã
trả lời. Rồi trả bát, vào buồng, lại đi nằm. Cứ thỉnh thoảng, tôi lại nhè nhẹ
gõ hai tiếng vào tường như muốn hỏi anh bạn buồng bên đã ngủ chưa? Hay có buồn
không?… Anh cũng luôn sốt sắng gõ đáp trả lời tôi. Dần dần rồi tôi đi vào giấc
ngủ đêm thâu.
Ngủ được một giấc khá
dài, tôi chợt choàng thức dậy. Đêm đã khuya, nhớ đến anh bạn nằm sát bên cạnh,
tôi lại “cành cạch” hai tiếng thật nhẹ, để nếu đã ngủ, anh bạn cũng không vì
thế mà mất giấc. Vẫn thấy hai tiếng trả lời. Rồi, tôi lại thiếp đi; được một
chốc, lại tỉnh. Lại gõ, vẫn có tiếng trả lời. Tôi ngạc nhiên. Như vậy là anh
bạn bên ấy không ngủ ư? Suốt đêm, cứ lúc nào chợt tỉnh, tôi gõ, cũng đều thấy
tiếng gõ trả lời!?…Gần về sáng, tôi thấy thương người bạn cả đêm sầu héo không
ngủ được, nên tôi lấy cái lược gõ liên tục 7, 8 cái liền. Vừa như trách anh sao
không ngủ, vừa như an ủi đừng buồn nữa. Anh bạn cũng đáp ứng vồn vã như hiểu ý
tôi.
Chính vì chẳng nói
thành lời, nhất là trong cảnh heo hút, vắng lặng thế này, lòng tôi càng bị lôi
cuốn.
Ngày hôm sau, tôi muốn
chờ nghe tiếng nói của anh bạn với cán bộ để có chút ý niệm về anh. Nhưng, đến
buồng anh, lúc đổ bô, cũng như khi lấy cơm, trả bát, tôi không hề nghe thấy một
âm thanh gì khác, ngoài tiếng những bước chân xèn xẹt đi qua lại trước buồng
tôi. Vì lòng háo hức, muốn biết về người bạn nằm cạnh buồng, nên chiều hôm đó,
đợi khi mở buồng số 6 ra lấy cơm, tôi ghé đầu sát đất, để nhìn qua khe hở, rộng
chừng độ nửa phân, giữa mép dưới cánh cửa và nền nhà. Hai đôi bàn chân mờ mờ
bước qua trước cửa buồng tôi, một đôi bàn chân dép râu đen đen của tên cán bộ
Dư; còn đôi bành chân kia đi dép Thái Lan, quai đỏ. Đôi bàn chân rất trắng và
nhỏ…như của phụ nữ làm tôi
giật mình. Phải chăng
người nằm phía bên kia, chỉ cách nhau một bức tường dày 20 phân, vẫn đêm ngày
gõ chuyện trò với tôi là một người…phụ nữ?…
Vẫn như trước, tôi gõ
mời xơi cơm. Ăn xong, lại gõ như chào đã ăn cơm cong. Bây giờ, bất cứ lúc nào
tôi gõ là bên ấy lại gõ trả lời ngay.
Đêm hôm ấy, vào lúc nửa
khuya, tôi chợt giật mình thức dậy, và tai nghe tiếng nức nở, nỉ non văng vẳng,
lẫn vào tiếng gió rít của đêm thâu, nghe thật não nùng. Tiếng khóc, rõ ràng là
âm thanh của một người nữ. Thổn thức, nấc lên từng cơn nghẹn ngào như cầu cứu,
như van xin sự giúp đỡ của cuộc đời!
Tôi ngồi bật dậy, xác
định hướng của tiếng khóc. Đúng là bên buồng số 6. Tôi vội vàng gõ mạnh mấy cái
vào tường như hỏi tại sao lại khóc? Hãy nín đi thôi! Không có tiếng trả lời và
tiếng khóc cũng ngừng bặt. Để động viên và an ủi, tôi gõ dồn dập thêm mấy cái.
Có tiếng gõ trả lời, và đặc biệt là không còn khóc nữa, như hiểu ý.
Tôi suy nghĩ một cách
chủ quan rằng, có thể trong khi tôi ngủ, người bạn tù nữ ở buồng bên đã gõ gọi,
mà tôi không biết; rồi người bạn tù tự dưng cảm thấy tủi thân, giữa đêm khuya
vắng lặng không ngủ được, nghĩ đến thân gái sa chân vào chốn ngục tù. Chung
quanh im lìm, heo hút như nghĩa địa tha ma, chỉ thấy bốn bức tường lạnh lẽo và
hai cái cùm to đen xì nằm im ỉm. Một nỗi cô đơn dâng lên, chỉ còn biết khóc.
Chợt một ý nghĩ đến với
tôi: Người nữ này tội gì? Chính trị hay hình sự? Ở Hỏa Lò đã gần 4 năm, tôi
chưa thấy người phụ nữ nào bị giam một mình ở xà lim cả. Phải nói, xà lim lúc
ban ngày đã vậy, huống chi ban đêm, nhất là những đêm mưa dầm gió bấc không ngủ
được, cứ trằn trọc một mình một bóng trong căn buồng hẹp vắng vẻ, cô liêu, chỉ
nghe những tiếng rên la, hoặc tiếng hét trong cơn mê sảng của các buồng khác;
ngay đàn ông cũng ít người chịu đựng được nổi, huống hồ là đàn bà. Do đó,
thường chúng phải giam hai người để dựa vào nhau những lúc tối lửa tắt đèn;
hoặc giả để không vì chán nản và tuyệt vọng quá mức mà nảy ra ý định tự tử. Thế
mà bây giờ lại chỉ có mỗi một phụ nữ trong buồng số 6? Buồng này, tôi đã từng
ở, và cũng là nơi tôi đã có kỷ niệm trốn tù bất thành. Buồng đó ở đúng chỗ gẫy
khúc của xà lim, nên rộng hơn các buồng khác một chút. Vì vậy, nỗi hoang vắng
lại càng lớn thêm ra. Một mình, cứ ngồi đấy suốt đêm, ngày, chỉ có thối ruột ra
thôi.
Nhận thấy tiếng gõ của
mình làm cho buồng số 6 ngưng tiếng khóc, tôi nảy ra ý định phải tìm cách liên
lạc được với buồng số 6, để an ủi và hiểu rõ về người bạn tù “láng giềng” này.
Nếu liều lên tiếng hỏi, dù có theo dõi được sự ra vào của cán bộ để không sợ bị
bắt; nhưng, kinh nghiệm đã qua cho biết, trong xà lim không phải là không có
những loại người của Cộng Sản cho vào nằm cùng
buồng, dùng khổ nhục
kế, để moi tin, để khai thác cũng như điều tra một người nào đó, hoặc qua những
lời đối thoại hỏi han nhau giữa các buồng… Như vậy, che dấu được cán bộ xà lim,
nhưng chấp pháp vẫn biết tôi có liên lạc với buồng số 6. Phần khác, buồng số 6
là phụ nữ, các buồng khác họ cũng muốn nói chuyện với buồng số 6, nhưng số 6
không chịu trả lời; vậy càng bất tiện nếu tôi lên tiếng. Tôi nằm nghĩ ngợi, suy
tính. Cuối cùng, tôi nghĩ thử đánh kiểu “morse” xem sao, có thể số 6 hiểu lối
đánh này. Vì lối này khá thông dụng, ngay trong Hướng Đạo cũng có dạy. Nghĩ
thế, tôi lồm cồm bò dậy. Bằng sống chiếc lược sừng nhỏ, với khuỷu đốt ngón tay,
tôi hỏi: “Ai đấy?”, im lặng một lúc, rôi tôi nghe tiếng bàn tay xoa xoa lên
tường, như trả lời không hiểu.
Vậy là số 6 không biết
lối đánh “morse”, tôi hơi nản lòng. Nhưng, chợt nảy ra một phương pháp khác…
Trước hết, tôi gõ nói
về ngày bị bắt của tôi. Nếu số 6 thông mình, hiểu được, sẽ trả lời tôi ngày bị
bắt của số 6. Đêm khuya, hơi lành lạnh, tôi lấy cái chăn khoác lên người. Rồi
bắt đầu, tôi gõ hai tiếng:”Cạch, cạch!”. Sau khi số 6 cũng gõ hai tiếng trả lời
như mọi khi, cũng có nghĩa là lúc này số 6 đang lắng tai nghe. Tôi lại lấy sống
chiếc lược sừng để gõ, vì tay gõ mãi cũng thấy đau đau. Tôi bắt đầu gõ:”Cạch
cạch…24 lần, ngừng lại; gõ tiếp 6 lần, ngừng lại; 1 lần, ngừng; 9 lần, ngừng, 6
lần, ngừng; 2 lần, ngừng. Tôi chờ đợi, nghe bên kia tường có âm thanh rê đi rê
lại, hình như của một cái cán quạt thì phải, như có ý nói là không hiểu, chưa
hiểu!
Tôi lập lại một lượt
như trên. Vẫn tiếng rê ở trên tường. Tôi hiểu “vạn sự khởi đầu nan” là chuyện
thường tình; vậy cần phải kiên trì, đừng nản lòng. Từ suy nghĩ này, tôi lại gõ
đúng như trên một lượt nữa. Im lặng. Tôi ngồi bên này tường, hình dung ở bên
kia, số 6 đôi mắt đang tuy mở, nhưng sẽ chẳng nhìn thấy một cái gì rõ, chỉ vì
óc đang bận suy tính về những tiếng gõ của tôi ở trên tường. Chợt, tiếng cán
quạt đập rối rít vào tường một lúc, rồi ngừng lại. Và bắt đầu gõ: 24-6-1962.
Mắt tôi lúc này hẳn sáng lên, tay tôi cũng cuống quít đập cả lược, cả tay vào
tường (dĩ nhiên tôi cũng kềm chế để âm thanh tiếng đập cũng như tiếng gõ không
quá lớn đến độ các buồng khác cũng nghe thấy rõ). Vừa mừng vì số 6 đã hiểu; lại
vừa thích thú vì số 6 tỏ ra thông minh. Sau đó, số 6 gõ hai tiếng:”Cạch cạch”.
Tuy không quy định, nhưng tự nhiên hai tiếng gõ bây giờ như thay cho hai tiếng
gọi nói chuyện. Tôi đáp lại hai tiếng như trả lời: “Sẵn sàng”! Rồi, số 6 gõ “25
(ngừng” 9 (ngừng) 1965. Tôi đập chiếc lược lia lịa vào tường mừng rỡ. Như vậy,
số 6 đã bị bắt hơn một tháng rồi. Hôm nay, 18-10-1965. Và, cũng có nghĩa là số
6 đã hiểu tôi bị bắt đến nay đã 3 năm rưỡi rồi.
Tôi gõ tiếp: Ngày,
tháng, năm sinh của tôi. Tôi được trả lời: Ngày, tháng, năm sinh của số 6. Số 6
năm nay đã 37 tuổi. Hơn tôi những 10 tuổi.
Điều buồn là đến đây,
cách nói chuyện kiểu này gặp trở ngại. Tôi muốn hỏi tên số 6, và bị bắt về tội
gì, v.v… nhưng đành chịu. Thật là tức, suốt đêm ngày ngồi không, mà chẳng nói
chuyện với nhau được.
Bần thần nghĩ ngợi một
lúc, chợt trong đầu tôi lóe lên một tia sáng. Phương pháp này tuy hơi mất công
lúc đầu; nhưng khi quen, cũng tạm được. Ngay “morse” khi mới tập, cũng nhiều bỡ
ngỡ, khó khăn. Nhưng, cứ dùng mãi, đánh mãi, sẽ quen và trở thành gần như nói
chuyện bình thường vậy. Muốn nói chuyện tạm được với nhau, cách gì cũng phải
qua vần a, b, c…Ở đây, hãy dùng vần chữ Việt, 23 chữ cái: A, B, C, v.v… Vậy A:
1, B: 2, C: 3, v.v… cho tới Y: 24. Để giản đơn và ngắn gọn hơn cứ 10 là một
tiếng “thình” của gót bàn tay đập vào tường. Thí dụ: Chữ “Y” là thình thình,
cạch, cạch, cạch, cạch. Chữ “K” là thình; chữ “N” là thình, cạch, cạch, cạch,
v.v…
Sau khi nhẩm tính xong,
vấn đề kế tiếp là làm sao để số 6 cũng biết như mình. Tôi hiểu số 6 cũng đang
tức bực, không biết cách gì để hỏi và nói chuyện với tôi.
Bắt đầu, tôi gõ “cạch,
cạch” là tiếng gọi “nói nhé?”; và sau khi số 6 đáp trả hai tiếng “sẵn sàng!”,
tôi gõ “cạch”, rồi nói to:”A…À…À…”; “cạch, cạch” lại hô “Bê…ề…ề…”; “cạch, cạch,
cạch” lại hô “xê…ề…ề…”. Tôi ngừng, lắng nghe, âm thanh cái cán quạt bên số 6 rê
đi rê lại trên tường một cách chậm chạp. Tôi lại làm như trên một lần nữa. Một
lúc, một lúc, bỗng tiếng cán quạt đập liên hồi vào tường. Rồi số 6 gõ lại:”Cạch
(ngừng); cạch, cạch (ngừng); cạch, cạch, cạch (ngừng); cạch, cạch, cạch, cạch
(ngừng).
Tôi cũng đập rối rít;
thậm chí cả gót chân của tôi cũng rung rung, đập đập xuống sàn cho số 6 thấy
nỗi vui mừng của tôi. Sau đó, tôi gõ: 5 cạch, 1 cạch, 1 thình 1 cạch, 7 cạch;
rồi lấy cái sống lược kéo một cái trên tường nghĩa là sang chữ khác: 3 cạch, 8
cạch, 9 cạch, 1 thình 3 cạch, 8 cạch, kéo lược. Ngừng một lát, bên số 6 cứ xoa
xoa tường, ra vẻ không hiểu. Tôi lập lại lần nữa. Số 6 rối rít gõ lại cho tôi…
Tôi được biết tên số 6
là: Đào Thị Bắc, Bằng phương pháp cổ lỗ sĩ ấy, tôi và chị Bắc say mê nói chuyện
với nhau đêm ngày; trừ lúc ăn cơm hay đi đổ bô thôi. Đêm nào cũng thức khuya để
nói…chuyện. Một điều tôi không tưởng tượng được chị Bắc lại là…gián điệp của
Sài Gòn.
Bốn, năm ngày đầu còn
chậm chạp, khó khăn để hiểu nhau; nhưng sau đó, nghe gõ là đã biết ngay chữ gì.
Hơn nữa, có nhiều chữ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong câu chuyện, chúng
tôi gõ “tắt”, nên càng nhanh hơn. Thí dụ: Chữ “Bình”, chỉ cần gõ chữ “B”, và
“Ba”; là “Bắc”; hoặc “CP” là “chấp pháp”, v.v…
Sau khi biết được chị
Bắc là điệp viên của Sài Gòn và cũng là điệp viên của miền Bắc nữa, tôi càng
ngạc nhiên. Như thế, chị Bắc là loại gián điệp “hai mang” ư? (Agent double).
Tôi hỏi, chị lại bảo là không phải. Rất nhiều điều tôi muốn biết rõ về chị;
nhưng phương pháp liên lạc này không cho phép hỏi được nhiều, nhất là chờ thời
gian, nghĩa là hỏi dần dần, vì dạo này, chị thường phải đi cung luôn.
Những lúc chỉ đi cung,
tôi nằm trong buồng lại thấy buồn. Kể cũng kỳ, trước đây, cứ một mình lùi lủi
mấy năm trời có sao đâu; thế mà những lúc chị đi cung, tôi thấy như thiếu vắng
một người bạn tâm tình đồng chí. Tôi nghĩ đến buồng số 4. Một điều vui mừng là
anh chàng này cũng tỏ ra rất thông minh. Tôi chỉ giải thích vài lần, anh và tôi
đã nói chuyện được rồi. Tên anh là: Nguyễn Lân, ở Quảng Bình, anh cũng cùng
tuổi với tôi. Bố anh là liệt sĩ trong cuộc chiến tranh chống Pháp. Anh là sinh
viên du học ở Roumanie. Anh mới bị bắt, và bị đưa vào Hỏa Lò ngay.
Về phần tôi, vì sự việc
dài giòng, phức tạp, cho nên tôi chỉ nói với anh tôi là giáo viên Cấp II ở Phủ
Lý. Chỉ có tên tuổi là tôi nói thật thôi. Ngay cả với số 6, tuy tôi đã biết chị
là đồng chí, đồng nghiệp, nhưng tôi cần tìm hiểu thêm nhiều về chị Bắc đã; bây
giờ cũng cứ tạm nói là giáo viên. Rồi dần sau tôi sẽ nói thực.
Tự dưng, tôi nôn nao
muốn nhìn thấy con người thực của chị Bắc ra làm sao. Đến ngày Chủ Nhật đó, tên
Bằng trực. Tôi chỉ theo dõi một lúc, đã nắm được hướng đi nước bước của y. Cứ
mở cửa một buồng xong, y lại trở ra bàn ngồi; trong 5, 10 giây sau, người tù
trong buồng mới ôm bô đi ra. Có khi y đã ra tới gần bàn, trong này người tù mới
ra khỏi buồng. Có thể, y muốn ra ngay để khỏi phải đi cạnh một anh tù hôi hám,
lại ôm cái bô thối hoang. Vả lại, y vừa ra tới bàn đã đứng quay lại nhìn tù ôm
bô ra rồi. Có thể y nghĩ là như vậy thì tù làm sao có thể liên lạc với nhau
trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó được.
Vì nắm được như thế,
cộng thêm sự háo hức muốn nhìn mặt của số 6, và lại không muốn báo trước cho số
6 biết; cho nên, khi tên Bằng mở buồng số 6, tôi đã chuẩn bị trước, trèo đeo
ngay lên khung cửa sổ lớn phía trên cửa ra vào. Mặt tôi giô lên, lộ ra ở chiếc
khung có lưới thép. Trèo lên đứng kiểu này không phải dễ; phải có một cánh tay
và một cái chân khỏe mạnh đủ để có thể chịu đựng sức nặng của cả cơ thể.
Số 6 ôm bô ra đi; tôi
phải công nhận “trường” mắt của số 6 tương đối bén nhạy. Mặt tôi cao hơn số 6
đến 1m2, 1m3; thế mà số 6 đã ngửng lên trong khi ôm bô đi ra. Bốn mắt nhìn
nhau, chả dám nói một câu. Bỗng số 6 cúi ngay xuống, có thể tên Bằng đã từ
ngoài nhìn vào, tôi vụt tụt xuống. Lòng bâng khuâng nghĩ ngợi về con người của
chị Bắc.
Mặt chị hơi dài, da
trắng, môi dưới hơi thưỡn ra. Trên đầu chị, phía trước bên trái có một chùm tóc
bạc giữa những lọn tóc đen buông xõa phía sau vai. Chị mặc một chiếc áo trắng,
quần đen, như người nửa tỉnh, nửa quê. Nhưng, tôi cũng hiểu, quần áo đây chỉ là
cách trang bị cho một “vỏ bọc” sống ở môi trường miền Bắc mà thôi.
Có một điều tôi hơi băn
khoăn, là, khi bất chợt chị nhìn thấy tôi, đôi mắt chị sáng lên, tỏ ra một sự
vui mừng như lâu ngày mới gặp lại người thân; nhưng ngay sau đó, một nỗi buồn
như chiếc màn đen bỏ xụp xuống khuôn mặt của chị. Vì sao thế? Tôi chả hiểu
được. Vì vậy, khi chị từ nhà tắm về, tôi im lặng không gõ nữa; và chị… cũng im
luôn.
Chẳng hiểu vì lý do gì,
làm như là thi gan với nhau, không ai chịu gõ gọi nhau nữa. Cho đến suốt bữa
cơm chiều, tôi ăn xong, trả bát, sang gõ hỏi anh Lân mấy câu, rồi chào đi nằm
ngủ… Mãi tới khoảng 10 tối, thoáng nghe có tiếng người khóc nức nở, trước nhỏ,
sau to dần, tôi bò dậy lắng nghe. Thì ra tiếng khóc của chị Bắc. Đã từ nửa
tháng nay chị không khóc; bây giờ tại sao lại thổn thức trong đêm khuya? Nếu là
một người có lập trường ý thức chính trị rõ rệt, thì ngay gặp một người phụ nữ
bình thường trong cảnh này, tôi cũng phải tìm mọi cách, tùy theo điều kiện, để
an ủi, giúp đỡ; huống chi đây là một đồng chí, một chiến hữu, vừa là một đồng
nghiệp của mình. Vì vậy, tôi không nghĩ ngợi lôi thôi nữa. Tôi gõ cành cạch hai
tiếng để gọi. Im lặng. Một lúc, tôi lại gõ hai tiếng. Lần này, chị Bắc đã trả
lời, mặc dù rất nhẹ và rời rạc.
Tôi hỏi: “Tại sao chị
khóc?”. Chị trả lời: “Buồn, nên khóc”. Tôi chỉ biết khuyên chị hãy nhìn cảnh
tôi, để mà vui. Tôi đã bị bắt từ hơn 3 năm rồi, mà vẫn còn nằm ở buồng tối đây
này. Vả lại, buồn có giải quyết được vấn đề tha sớm hay muộn đâu. Do cách gõ,
cho nên tôi chỉ nói được vài ý, mà cũng nói không hết, thường người nghe phải
cố suy đoán thêm.
Nói chung, sau đó chị
hết khóc. Và những ngày sau, tôi và chị tiếp tục gõ thăm hỏi nhau đêm, cũng như
ngày.
64. Một phương pháp liên lạc thần kỳ!
Buổi chiều nay, sau khi hết giờ làm việc. Tôi đang ngồi
khoác chân, dựa tường, gõ liên lạc với chị Bắc (chắc cũng đang ngồi như tôi,
chỉ cách nhau một bức tường), bất chợt, cửa sổ nhỏ mở.
Tôi hơi giật mình. Khi
tôi nhìn lên, cửa sổ con đã đóng, lại có tiếng mở khóa cửa lớn. Tôi chồm vội
xuống đất, cứ tưởng là chúng đã phát hiện ra tiếng gõ liên lạc giữa buồng tôi
và buồng số 6; nhất là người mở cửa lại là tên Trì, Phó giám thị. Cái mặt y đầy
thịt. Cái đầu cắt tóc ngắn. Hai cái môi xám xịt, ngọ ngoạy dưới cái mũi vừa to,
vừa sần sùi. Nhất là hai con mắt y trắng nhờn nhợt. Y đứng nhìn tôi một lúc,
rồi lại đưa mắt nhìn khắp buồng một lượt.
Tôi thấy rõ tim mình
đập mau hơn, chẳng hiểu y muốn gì mà từ nãy cứ lừ lừ chẳng nói. Mãi một lúc
sau, với cái giọng miền Trung quả tạ, y mới lên tiếng:
- Anh có cái gì mang ra
hết đi!
Tôi cảm thấy hơi hụt
hẫng vì sự bất ngờ này. Thật ra, trong tù tôi cũng đã dọn buồng nhiều lần.
Nhưng lần này, tôi thấy tiếc nuối cái buồng. Thứ nhất, chính từ căn buồng này,
tôi được tha cùm; thứ hai, số 6 và số 4 là hai người bạn tôi mới quen, chưa
biết hết về nhau đã phải chia tay. Chia tay không một lời từ biệt. Nhất là, với
số 6, người bạn tù mà tôi tin là cuộc chia tay này sẽ làm chị buồn nhiều hơn
tôi. Vì chị là đàn bà, lại có tuổi rồi; chắc rằng nước mắt, sẽ còn phải chảy
nhiều nữa.
Tôi muốn gõ mấy cái để
như lời từ biệt số 6; nhưng tên Trì cứ đứng nhìn, nên tôi cứ phải vờ tìm cái nọ
cái kia để kéo dài thời gian. Tôi cứ vờ như xong rồi, ôm bọc đi ra, tới gần cửa
lại sực nhớ, quay vào lấy cái bàn chải, rồi tới cái lược, v.v…mục đích mong y
đi ra, để tôi gõ vài cái gọi là giã biệt, hoặc vĩnh biệt (?) người đồng chí, và
đồng cái nghề “hang một lỗ” này. Chắc y cũng đã hơi sốt ruột nên quay ra. Y vừa
quay người, tôi lẹ tay gõ vào tường mấy cái nhè nhẹ.
Tôi ôm đổ chăn chiếu ra
khỏi cửa, đừng chờ y chốt và khóa buồng số 5 lại. Tôi đang lắt lay, thấp thỏm,
không biết y sẽ đưa tôi đi phương nào? Thì không ngờ! Tại sao lại có thể có hai
cái không ngờ xảy ra chỉ trong chốc lát: Y qua ra mở buồng số 11! Buống số 11
lại…đối diện với buồng số 6. Nhưng, một điều khác cũng quan trọng không kém đối
với tôi là, buồng số 11 nhìn ra được ngoài sân xà lim. Đã từ hơn một năm nay ở
xà lim I này, tôi mơ ước được chuyển qua phía dẫy bên này, có được nhiều ánh
sáng vì cửa sổ to phía sau, nhìn ra sân xà lim không bịt gỗ, và quan trọng là
được nhìn cái sân, được nhìn cảnh vật bên ngoài (dù rằng cái bên ngoài cũng vẫn
là ở trong tù). Nhìn toàn bộ cây bàng, và tôi có thể sẽ biết mọi bộ mặt trong
xà lim, một cách rõ ràng nhờ cái sân này; vì buồng nào chả cần phải tắm giặt và
rồi phải ra sân phơi quần áo.
Tôi đã vào buồng rồi,
lòng vẫn còn bồng bềnh, khấp khởi trong nỗi vui của đường đi rộng mở dần. Không
hiểu số 6 có biết tôi được dọn sang phía đối diện không?
Có lẽ, khi chúng nhìn
bản sơ đồ giam người ở xà lim I, chợt thấy số 5 và 6 là hai tên gián điệp cùng
của Sài Gòn, nên đã nảy ra ý nghĩ là tại sao lại để cạnh nhau “nhỡ chúng liên
lạc với nhau bằng “morse” thì sao!”. Vì vậy, chúng đã chuyển tôi sang dẫy đối
diện.
Từ ngày tôi vào Hỏa Lò
đến nay, ngoài những chuyện to lớn là tự tử và trốn tù ra, những nội quy như
liên lạc, hay chuyện trò với các buồng khác, hầu như chúng không hề thấy tôi vi
phạm. Hơn nữa, cũng đã gần 4 năm, chúng hành tôi ở những chỗ tăm tối rồi. Bây
giờ, chúng cho tôi ra ánh sáng một tí kẻo tôi “củ” một cách vô ích, trong khi
tôi còn phải là một con vật, để lao động trả nợ sau này cơ mà.
Đối với tôi, tất cả
những chuyện gì đó, sau hãy xét; bây giờ, tôi được chuyển sang đây, khác nào
như cá lại mọc thêm cánh, chim lại còn biết lặn xuống nước nữa. Tôi đang vừa
vẩn vơ nghĩ ngợi, vừa quét dọn cho sạch sẽ cái buồng (vì đây là nơi tôi vừa tập
thể dục, vừa đi bộ giải trí hàng ngày), chợt có tiếng cán bộ từ ngoài cổng xà
lim vào.
Tiếng mở cửa sổ nhỏ, từ
buồng số 1 đi dần vào tới buồng tôi. Tôi đã biết y là cán bộ Vân, béo ụt ịt,
người miền Nam, đang đi kiểm tra người để nhận bàn giao phiên trực. Y mở cửa
con rồi, chỉ khép lại chứ không cài chốt phía bên ngoài. Có lẽ để thuận tiện
cho y khi đi ‗tua‘ khẽ mở ra, không cần phải mở chốt, không có tiếng động, kiểm
tra mà tù không biết.
Tôi chờ cho tới khi y
đi ra. Thậm chí, tôi nghe đoán được tiếng bước chân y đi tới đâu, tôi trèo ngay
lên sàn nhìn theo phía sau lưng y. Lúc ra khỏi cổng, y còn khép cổng lại.
Bây giờ, phải nói, tôi
làm chủ tình hình ở xà lim này. Dù vậy, như tôi vừa trình bày ở trên, trong xà
lim sẽ có một vài người nằm vùng, kiểu khổ nhục kế. Nếu không biết điều này,
không những bị chân vào cạm, lại còn nguy hiểm hơn vì đôi khi thò cái tư tưởng
thật của con tim mình ra, mâu thuẫn với những điều mình đã khó nhọc che dấu và
khai báo từ trước tới nay. Để một vài ngày nữa đã, tôi phải kiểm soát được rõ
ràng ai là địch, ai là bạn hãy hay.
Ngay tối hôm đó, tôi
thử dùng cách liên lạc không tiếng nói. Tấm sắt nhỏ che chiếc cửa con khép hờ,
ai không biết, tò mò muốn nhìn ra ngoài, lấy ngón tay mở rộng ra. Đẩy ra thì
được, nhưng muốn khép lại như cũ thì ngón tay không thể kéo lại được. Cán bộ
trở lại, thấy cánh cửa mở to, biết ngay là tù đẩy ra, sẽ chửi mắng, nạt nộ. Nhưng,
nếu khôn lanh một tí, cứ tha hồ đẩy rộng ra, nhìn thoải mái. Nghe tiếng cán bộ
sắp vào, dùng một cọng chổi thanh hao (buồng nào chả có chổi) có một cái cành,
để làm cái ngoéo kéo lại. Hoàn toàn chủ động, đẩy ra kéo vào theo ý mình.
Do đó, tôi đẩy thẳng
ra, vừa để nhìn rõ, lại vừa đưa mũi ra hít không khí bên ngoài trong lành hơn
là trong buồng. Tên Vân, người miền Nam, không được quái lắm, cho nên khi kiểm
tra phía dẫy buồng đối diện, y mở toác cửa sổ ra. Còn phía bên tôi, khép hờ.
Bây giờ, tôi đẩy ra, hai bên cửa sổ nhìn thông thống sang nhau, chỉ cách một
lối đi chừng 2 thước. Tôi nhìn sang buồng số 6 thấy im ắng không động tĩnh gì.
Như thế này, chứng tỏ chị Bắc không hề biết tôi lại sang buồng đối diện. Có thể
vì thấy tôi đi, chị Bắc buồn bã quá, không chịu theo dõi nghe ngóng. Phần khác,
cũng có thể chẳng phải ai cũng tò mò tinh quái như nhau.
Tôi chõ mồm ra ho mấy
tiếng, rồi nhìn qua lỗ cửa sổ nhỏ mỗi bề 18 cm vào buồng số 6. Vẫn không hề
thấy động tĩnh gì. Cũng vì từ trước tôi không ho, nên số 6 không biết tiếng ho
của tôi. Tôi không gọi, vì không muốn các buồng chung quanh biết tôi định liên
lạc với số 6. Tôi đi bách bộ hàng nửa tiếng đồng hồ, nhìn sang bên số 6, vẫn
lặng như tờ. Hàng tiếng đồng hồ sau, cứ loay hoay bực dọc mãi, tôi đã kéo cửa
sổ nhỏ lại, đi nằm, thoáng nghe tiếng kéo bô ở bên buồng số 6. Tôi liền bò nhổm
dậy, lại đẩy cửa sổ ra, nhìn sang, thấy thấp thoáng một cánh tay trần với một
khoảng vai có cái áo lót màu đen. Tôi định ho gọi, nhưng cảm thấy hơi bất lịch
sự, nên lại thôi, đành chờ. Chắc rằng, thế nào trước khi vào màn, chị Bắc thế
nào cũng phải nhìn ra cửa sổ nhỏ một lần, vì cửa sổ đang mở toang toác ra như
vậy. Lúc đó, chắc chị sẽ giật mình khi thấy bộ mặt của tôi, chỉ cách có 2 mét.
Thật đúng là đàn bà, chị loay hoay một lúc, rồi giơ tay nhấc cánh màn lên, định
chui vào ngủ, không hề nhìn ra ngoài!
Không được! Tôi đành
chõ mồm ra ho gọi. Cũng phải ho hai, ba tiếng, tôi mới thấy chị Bắc quay mặt
ra. Khi nhìn rõ tôi, phản ứng đầu tiên của chị là luýnh quýnh, rồi vội lấy
chiếc áo khoác lên người, làm cho tôi buồn cười. Thế rồi, chị Bắc nét mặt tươi
rói, áp sát mặt vào cửa sổ con, cười, nhìn tôi bằng ánh mắt long lanh, như thể
lâu ngày gặp được người bạn thân.
Trong cảnh xà lim vắng
lặng, chúng tôi nhìn nhau, không thốt một câu, vì không muốn cho buồng khác
biết. Nhưng, chỉ bốn mắt nhìn nhau, mà cũng nói được rất nhiều, tôi cảm thấy
như bao nhiêu nỗi niềm ứ đầy trong lòng được vơi bớt.
Tôi cũng hiểu là chị
Bắc hoàn toàn tin tưởng nơi tôi đã tinh quái để gác cán bộ, nên thái độ của chị
rất bình tĩnh, chị áp mặt vào khung cửa sổ nhỏ mà không sợ hãi gì cả. Như hai
người câm điếc, tôi dùng tay ra hiệu ý muốn nói với chị Bắc là: Ngày mai, khi
nào tôi “ho 2 tiếng, chị đứng lên sàn” bên đó, tôi cũng sẽ đứng lên sàn bên
này, rồi tôi sẽ chỉ chị cách nói chuyện. Chỉ có bấy nhiêu ý, mà hai tay tôi,
mắt tôi, vừa múa máy, vừa nháy nhó, mãi chị Bắc mới hiểu. Cứ thỉnh thoảng tôi
lại ho hai tiếng, mỗi khi tay phải làm lại, động tác chỉ trỏ như lần trước.
Cũng vừa lúc ấy, thoáng
một tiếng động nhỏ bên ngoài sân, tôi vội vàng ra hiệu tay cho chị Bắc vào màn;
còn tôi, nhẹ nhàng kéo cửa sổ con lại, rồi cũng lên sàn nằm. Một lúc sau, tiếng
bước chân nhè nhẹ đi vào; đến cửa buồng tôi, thấy cánh cửa sổ hé to ra một tí,
lại đẩy vào như cũ. Tôi biết nhưng vờ nhắm mắt như đang ngủ say. Tôi tự nghĩ,
khi chưa bị bắt, mình còn qua mặt hàng bao nhiêu tên phản gián, huống chi ở đây
chỉ có một tên, lại là một tên công an đơn thuần, làm quái gì có nghiệp vụ!
Ngay đêm hôm ấy, tôi
suy nghĩ từ những điều kiện thực tế của các căn buồng của xà lim, để tìm ra một
kiểu liên lạc tốt nhất. Chỉ một lúc, tôi đã tìm ra được một cách liên lạc hữu
hiệu. Xà lim I thật tĩnh mịch và hoang vắng, cho nên chả một tên cán bộ nào lại
điên rồ ngồi một mình trong đêm khuya khoắt, để rình mò. Chúng chỉ thỉnh thoảng
vào đi “tua”. Bây giờ, tôi ở phía dẫy bên này, lại không bị cùm, có thể nói một
cách chắc chắn là nếu tôi muốn, tôi luôn luôn dư sức chủ động nắm được đường đi
nước bước ra vào, của bất cứ một tên cán bộ tinh quái nào. Tóm lại, ngay đêm
hôm đó, tôi đã tìm ra được một phương thế liên lạc toàn bộ trong xà lim, dù cho
có cán bộ ngồi thường xuyên ở bàn trực xà lim chăng nữa.
Sáng sớm hôm sau, ngay
khi cán bộ trực chưa đến, tôi đã đứng lên, ho gọi số 6 để thí nghiệm. Số 6 đứng
lên hớn hở tươi cười khi nhìn thấy tôi. Với thế đứng của hai người, tôi tính
toán hình dung hai thế đứng nhìn nhau, qua hai khung cửa sổ phía trên cửa ra
vào. Khung cửa này, bề nằm 60 phân, bề cao 50 phân, có 5 chấn song sắt to, bên
trong có ghép lưới thép đan, mỗi mắt ba phân vuông. Như vậy, từ hai khung cửa
này, tôi và số 6 nhìn sang nhau, đều thấy một khoảng tường hình chữ nhật theo
khung cửa sổ, nghĩa là một tấm bảng 50×60 phân. Vì hơi chéo, nên tôi phải tính
toán vị trí của số 6 nhìn “tấm bảng” đó ở bên tôi trên tường. Bằng ngón tay
trỏ, tôi chỉ viết chữ in; thí dụ:”CHỊ CÓ NHÌN RÕ KHÔNG?”. Vừa viết, tôi vừa
quay lại nhìn chị Bắc. Mặt chị tươi roi rói gật lia lịa. Tôi lại viết “CHỊ VIẾT
ĐI”, để tôi điều chỉnh tấm bảng cho tôi nhìn thấy trên tường, bên chị bằng hiệu
tay.
Thế là từ đấy, chúng
tôi có thể liên lạc với nhau bất cứ lúc nào, dù có cán bộ hay không. Tuy vậy,
để bảo đảm an toàn cao nhất, trừ những lúc cần thiết, còn
thông thường tôi để cho
cán bộ ra khỏi xà lim, mới nói chuyện. Mật hiệu đã định sẵn. Tôi “ho một tiếng”
là “có cán bộ”, chị Bắc chỉ việc ngồi xuống; “ho hai tiếng” là “gọi nói chuyện
được”, chị Bắc đứng lên.
Cũng với phương pháp
này, ngoài buồng số 6, buồng tôi cón có thể nhìn sang hai buồng ở hai bên buồng
số 6 là buồng số 5 và buồng số 7 nữa. Và cứ như vậy, số 5 nhìn sang dẫy tôi
cũng được ba buồng là 12 đối diện, và 11, 13 ở hai bên. Rồi, buồng này có thể
làm trung gian cho buồng kia, từ đấy, có thể nói chuyện, liên lạc toàn bộ các
buồng trong xà lim. Dù cán bộ có ngồi ngay đấy canh, thậm chí có những tên cán
bộ mẫn cán tích cực kê ghế ngồi đọc sách hàng mấy tiếng đồng hồ để rình, cũng
không bắt được chúng tôi liên lạc với nhau. Tù liên lạc với nhau, phải nói
chuyện. Ở đây, dù ngồi cả ngày để canh chừng, chúng cũng chẳng nghe thấy một
tiếng; có chăng chỉ là tiếng ho, tiếng khạc mà thôi.
Lúc đó, tôi nghĩ nếu
bọn thực dân Pháp ngày xưa và bọn Cộng Sản bây giờ, biết được là có một phương
pháp liên lạc chuyện trò với nhau như thế này, chắc chắn chúng không bao giờ
thiết kế xây xà lim có hai dẫy buồng đối diện nhau nữa. Mục đích của xà lim là
không cho người này trông thấy người kia (trừ trường hợp chúng chủ ý để hai
người trong cùng một buồng) để gây áp lực tâm lý. Làm cho tù hoang mang, giao
động và không thể hỏi han, trao đổi những khúc mắc khó khăn trong khi cung kẹo.
Tâm lý của con người nhiều khi rất lạ kỳ, chỉ cần nhìn thấy một người khác cùng
vào nghĩa địa, tha ma với mình, tự nhiên mình sẽ thấy mạnh bạo hơn lên. Nhưng,
khi chỉ có một mình mình trong rừng sâu, đêm khuya, với những ngôi mả hoang, là
rợn tóc gáy, rùng mình, rồi cảm thấy cô đơn, không có ai bấu víu. Mục đích của
xà lim là như vậy.
Chính vì chúng thấy tôi
và số 6 ở cạnh nhau không tiện, nên phải cho sang dẫy đối diện. Sang dẫy đối
diện, nếu liên lạc mới nhau bằng lời nói, dù canh kỹ đến đâu thì đi đêm mãi,
thế nào chả có ngày gặp ma. Hơn nưa, chúng còn có người gài vào nằm thường trực
ở một buồng nào đó trong xà lim, ngoài nhiệm vụ chính là moi tin những người
cùng buồng. Nói cách khác, sở dĩ, tôi có thể tung hoành, chủ động sự liên lạc,
chuyện trò trong cả xà lim I, chỉ vì Cộng Sản chưa biết rõ khả năng của tôi,
cũng như những kẻ hở của chúng. Nếu chúng biết, chúng thừa sức hóa giải, thừa
sức ngăn cấm tuyệt nọc. Cho nên, để cho đối phương biết được về mình, là điều
tối nguy hiểm. Vậy mà, Mỹ, cũng như thế giới tự do cứ tự…vạch áo cho Cộng Sản
xem lưng, để rồi vắt chân lên cổ mà chạy.
Từ một người lính, cho
đến một người dân bình thường, ai cũng nói, cũng thuộc câu “Tri kỷ tri bỉ, bách
chiến bách thắng”; nhưng tôi có thể nói ngay rằng nhiều chiến lược gia, những
nhà quân sự cầm quyền của phe ta chỉ đọc phương châm đó như là con vẹt thôi.
Còn thực tế, thế nào là hiểu đối phương?
Thế nào là hiểu mình?
Tôi dám nói là họ chưa đủ hiểu. Nếu hiểu, đã không phải chạy hết chỗ này, rút
hết chỗ kia. Có nói, lại đổ cho lý do này khác… mà không thấy cái khuyết điểm:
hời hợt, rỗng tuếch của chính mình.
Khi đã chuyện trò với
chị Bắc được mấy ngày rồi, tôi thấy bây giờ cũng thuận tiện cho nên tôi đã nói
thật với chị là tôi cũng ở trong Nam ra. Tôi cũng kể sơ qua gần một tháng trời,
khi còn ở bên ngoài, tôi đã đấu tranh đầy thủ đoạn với tụi phản gián Hà Nội.
Cuối cùng, tôi ngỏ ý muốn chị thuật lại cuộc đời của chị ra sao, mà lại vừa là
gián điệp cho Cộng Sản, lại vừa cho Sài Gòn, để bây giờ phải vào xà lim, thân
gái một mình thế này?
Tôi nghĩ, cứ mỗi ngày
một tí, điều gì cần rõ, tôi lại sẽ hỏi thêm. Sau khi tôi yêu cầu như vậy, mắt
chị đỏ lên, mí mắt rung rung, ngấn lệ long lanh chảy dài xuống má, chị làm cho
tôi cũng xúc động, phải nhìn ra hướng khác. Vừa thổn thức chị vừa viết, nội
dung:
- Như một cơ duyên, tôi
rất sung sướng được gặp anh ở đây. Tôi đã suy nghĩ mấy ngày hôm nay. Đời tôi
đến đây coi như chấm dứt rồi. Nhưng vì tôi còn một đứa con trai duy nhất hiện
vẫn ở miền Nam. Vậy, tôi xin kể lại chi tiết đời tôi, như một lời giối giăng và
gởi gấm giọt máu của tôi cho anh.
Tôi nhìn chị viết, đôi
vai gầy rung rung, thỉnh thoảng lại đưa chiếc khăn trắng lên chùi mắt. Tôi lại
liên tưởng đến đời mình. Chị giối giăng ký thác cho tôi ư? Trong cảnh này, tôi
hay chị, ai là người sẽ về lòng đất trước, chị có biết được không? Mặc dù lòng
mình đầy vơi những nỗi niềm, nhưng nhìn chòm tóc bạc trên đầu chị, nhìn cái
dáng đứng nghiêng nghiêng làm cái cổ chị rụt lại; tôi đành phải đè nổi niềm của
mình xuống, để gọi là làm “cái cọc mục cho rêu bám” vậy!
Từ hôm ấy, trừ những
ngày chị phải đi cung, bất kể ngày đêm, tôi và chị thường đứng viết “nói
chuyện” với nhau. Thậm chí, nhiều lần, tôi còn giúp chị được những ý kiến để
hóa giải một phần nào mưu mô, đòn phép của chấp pháp.
65. Đời hoạt động của người nữ gián điệp.. bất hạnh!
Những ngày đầu thuật lại chuyện, nước mắt chị Bắc vẫn cứ
vòng quanh. Nhìn dáng chị đứng viết, thỉnh thoảng chị quay lại, đôi mắt đỏ hoe,
tôi có cảm tưởng như chị kể lể nghẹn ngào. Nội dung sơ lược như sau:
…………
“Đời hoạt động, bây giờ
bị bắt, đã là không may rồi; nhưng, ngay đời tình cảm của tôi cũng đầy nước mắt
đau thương. Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả ở ngoại thành Hà
Nội. Tôi là nữ sinh Trưng Vương của những năm 1948-1949. Bấy giờ, tôi đang yêu
một nam học sinh trên tôi 3 lớp. Khi đó, tôi đang thi Trung Học Phổ Thông và
anh ấy thi phần II Tú Tài. Chúng tôi đã yêu thương nhau hơn 4 năm rồi. Anh đã
được gia đình tôi công nhận. Vì vậy, thường xuyên hàng tuần, thậm chí, hàng
ngày anh vẫn đến kèm dạy thêm cho tôi. Chúng tôi và gia đình đều đã có ý định
chờ anh và tôi thi xong sẽ làm lễ cưới. Hai ngày sau khi thi đỗ, như mọi lần,
anh đạp xe đến thăm tôi. Lúc về, trở ra tới đầu phố, chẳng hiểu thế nào mà, anh
bị một chiếc xe GMC cán vỡ óc, chết ngay, còn chiếc xe đạp cũng bị gẫy đứt đôi.
“Được tin sét đánh, tôi
tưởng như trời sập. Tôi đã định tự tử theo anh, nhưng nhiều lần đều bị gia đình
ngăn cản. Dù chưa cưới, nhưng tôi quyết xin gia đình cho tôi đưa đám anh, như
một người vợ. Sau đó, tôi nguyện khép chặt cửa lòng, quyết định suốt đời sẽ
không lấy ai nữa, bỏ ngoài tai những lời khuyên nhủ của bố mẹ và bạn bè.
“Tôi đã xin về một vùng
quê xa xôi ở Hưng Yên, rồi Bắc Ninh để dạy học. Gần hai năm tôi sống thu mình
như một nhà tu hành. Lấy các em học sinh làm nguồn vui của đời. Tôi cương quyết
khước từ nhiều người tìm cách rấp ranh, muốn xây dựng gia đình với tôi. Tôi
cũng tưởng như vậy là yên thân. Nhưng, chiến tranh đã không để cho các em học
sinh được yên lành đi học. Thành ra, tôi cũng chẳng còn chỗ để dung thân, đành
lại trở về Hà Nội.
“Khi ấy là 1952, chiến
tranh ngày càng ác liệt. Một đêm, tôi không ngủ được, và chợt tìm thấy một
hướng đi cho đời mình. Đó là, vào quân đội. Mấy ngày sau, tôi thực hiện ngay ý
định của mình, dù gia đình có ngăn cản. Là con gái, lại có bằng Trung học Phổ
thông, mà anh đã biết, bằng “Diplôme” của 1952 về trước, cũng có nhiều giá trị
lắm. Cho nên, quân đội rất hoan nghênh, ưu đãi tôi. Chỉ phải 6 tháng huấn luyện
quân sự sơ sơ, tôi đã được đeo lon Thiếu Úy, làm việc văn phòng trong bộ Tổng
Tham Mưu.
“Quân đội là nơi thu
hút biết bao những người anh hùng, những nhân vật lỗi lạc tài hoa của đất nước.
Nhất là lại ở bộ Tổng Tham Mưu, nơi có đủ mọi binh chủng, có đủ mọi loại quái
kiệt, xuất chúng. Cho nên, tôi, một cô gái Thiếu Úy, tuổi mới 22, 23; không
“đổ” với nhân vật này, rồi sớm muộn cũng “đổ” với nhân vật tài hoa khác. Cho
nên, cuối cùng, trái tim sắt đá, cánh cửa lòng đã định mãi khép chặt, nay đành
mở toang, để đón nhận một nhân vật hào hoa mã thượng, là Thiếu Tá Trần Ngọc
Tính.
Trái tim tưởng như khô
cằn, hết nhựa tình yêu từ khi mối tình đầu tan nát, bây giờ lại chảy tràn trề
nhựa sống, cho mộng tràn gối chăn, cho tình tràn trước ngõ. Để rồi, một đám
cưới linh đình hoa bướm với xá pháo đỏ ngập sân…
Đùng một cái, đất nước
chuyển mình, Hội nghị Genève ký kết. Lúc này, bụng đã có mang 4, 5 tháng, tôi
được điều động sang bộ phận đón rước và lo di chuyển cho gia đình binh sĩ di cư
vào Nam. Tôi nỗ lực, tích cực công tác lo cho thân nhân, gia đình, vợ con quân
đội, nên thường xuyên đi ra, đi vào giữa Sài Gòn và Hà Nội. Cũng giai đoạn này,
nhà tôi được chuyển vào Nam và được thăng lên cấp Trung Tá. Tôi miệt mài công
tác, cho tới khi trở dạ sinh được một cháu trai mới tạm nghỉ. Cháu trai thật
xinh và bụ bẫm. Tôi và anh Tính đặt tên cho cháu là Trang; Trần Ngọc Trang.
Tôi những tưởng do mình
ăn chay, ở lành, ngày ngày cầu xin Trời Phật độ trì, cho nên Trời Phật đã đền
bù cho tôi một cuộc sống tràn trề hạnh phúc giữa thế giới tự do. Nhưng cũng bất
ngờ, lại một tin sét đánh nữa đến với tôi. Trong một chuyến công tác, chồng tôi
cùng hai, ba người nữa lái chiếc xe “díp” lên Đà Lạt; rồi không hiểu vì sao,
trên một khúc quanh, lại gặp trời ẩm ướt, chiếc xe đã bị lao xuống vực thẳm.
Hai người bị thương nặng; hai người bị chết, trong đó có chồng tôi.
Tôi như điên rồ, gào
thét, vật vã mấy ngày đêm. Nếu không vì giọt máu của tôi và anh ấy cỏn đỏ hỏn,
lần này, tôi không thể sống được nữa. Tôi còn thiết gì cõi đời đầy máu và nước
mắt này. Tôi quá ư đau đớn! Ruột tôi đêm ngày như vặn xé, đứt ra từng khúc. Vì
vậy, cho dù bao nhiêu lời khuyên giải, bao nhiêu lời úy lạo của quân đội cũng
như chính quyền, tôi đều bỏ ngoài tai. Tôi không cần biết thế giới này tự do
hay Cộng Sản, tôi cũng chẳng còn ý niệm về chính trị cũng như con người.
Lúc này, cũng sắp hết
hạn 300 ngày di cư của Hải Phòng. Tôi đã như một người điên, không còn đủ sáng
suốt nghĩ suy, quyết định ôm con trở về Bắc với gia đình tôi. Sống, chờ đứa con
khôn lớn, rồi tôi xin thí phát ăn mày cửa Phật. Tôi gạt hết mọi lời ngăn cản
của bạn bè, ngay của chính quyền cũng như quân đội. Cuối cùng, vì thấy tôi đau
khổ quá, họ cũng đành ngao ngán thở dài, để mặc tôi ôm con trở về quê cũ.
Tôi trở về Hà Nội. Trên
đường đi vì có con dại, nên tôi không gặp khó khăn gì. Tôi về sống với bố mẹ và
họ hàng ở khu lao động Thịnh Hào, ngoại ô thành phố Hà Nội
Tôi trình bầy tất cả sự
thật đời tôi với nhà cầm quyền địa phương của Cộng Sản. Vì đấy là thực tế, họ
cũng thấy rằng cuộc đời tôi quá nhiều đau thương về mặt tình cảm. Thêm nữa, ở
địa phương, hầu như suốt ngày đêm, tôi chỉ quấn quít với con tôi, cho nên họ
cũng để yên, không làm phiền hà gì cả. Nhưng, điều chính mà sau này tôi mới
biết, là vừa về chiếm lại nhiều thành phố, nhiều xóm làng, Cộng Sản còn nhiều
công việc khác to lớn, cấp thiết hơn phải lo, cho nên chúng mới để cho tôi sống
yên thân. Mặt khác, càng những năm sau này, các em, các cháu tôi phải đi nghĩa
vụ quân sự. Vậy là gia đình ngày càng có nhiều người trong hàng ngũ Cộng Sản.
Vả lại, chính tôi, để được yên thân, ngay trong địa phương tôi cũng tỏ ra tích
cực họp hành, học tập, tham gia mọi sinh hoạt v.v… Tôi cũng chả cần biết thế
giới này ngược hay xuôi nữa. Cuộc đời tôi cứ thế đều đặn như vậy theo thời gian
trôi đi, cho mãi tới đầu 1960. Lúc đó, cháu bé đã 5 tuổi, đã bắt đầu cắp sách đến
trường.
Vào giai đoạn này, có
lẽ đám đầu não Tình Báo miền Bắc, phát hiện được ra tôi như là một người có đầy
đủ điều kiện và khả năng, chui được vào trong giai cấp lãnh đạo của chính quyền
miền Nam để hoạt động: – Đào Thị Bắc, một phụ nữ đã từng làm việc ở bộ Tổng
Tham Mưu, bản thân lại là cựu sĩ quan, có chồng là trung tá Trần Ngọc Tính. Như
vậy, thiếu gì bạn bè, những bạn bè quen biết trước đây, ngày nay, hẳn có người
đã leo lên nhiều chỗ đứng cao của quân đội, cũng như của chính quyền Sài Gòn.
Một chỗ dựa, một thế đứng vững chắc. Không còn một “miếng mồi” nào tốt hơn
miếng mồi Đào Thị Bắc.
Từ chỗ chúng tìm tòi
nghiên cứu để nhận định, đến khi đã thấy rồi, chúng chỉ còn bắt tay thực hiện.
Chúng nghiên cứu tỉ mỉ tư tưởng, cuộc sống của Bắc qua những đoàn thể địa
phương, và chính quyền sở tại. Khi đã phân tích nắm được chỗ ưu, chỗ nhược của
Bắc rồi. Tùy theo điều kiện, chúng lựa dần dần bằng nhiều hình thức khác nhau,
từ nhiều phía khác nhau, để đi đến với Bắc. (Tới đây, chị Bắc không xưng là
“tôi” nữa, mà chỉ viết xưng tên).
Sau nhiều lần gặp, cuối
cùng chúng ngỏ ý, với những lời phỉnh phờ, dụ dỗ, khích lệ có nghiên cứu. Nào
là, Bắc đã thích cách mạng nên với về với cách mạng; nào là, Bắc là một người
dân thì, phải có trách nhiệm với đất nước, với cách mạng, v.v…và v. v… Nghĩa
là, trong cái thế bị chi phối từ nhiều phía, Bắc đã phải đồng ý để chúng tuyển
mộ và huấn luyện những bài học cần thiết, về hoạt động tình báo.
Sau gần một năm huấn
luyện bí mật, nghiên cứu thực tập nhuần nhuyễn vỏ bọc, cũng như các đường dây
liên lạc, Đào Thị Bắc đã được Tình Báo miền Bắc
tạo điều kiện hợp lý,
hợp tình, để ôm đứa con 5 tuổi vượt tuyến vào Nam. Lý do vượt tuyến, rất đơn
giản hợp tình, hợp lý đó là: tuy đã chán hết mọi sự đời, ôm con về Bắc, tưởng
được sống âm thầm, yên ổn nhưng, vì điều kiện xã hội miền Bắc nên cũng phải lao
động, làm thợ may trong một hợp tác xã và tham gia hầu hết các buổi học tập của
xóm giềng. Nghĩa là tỏ ra tích cực để được sống yên nhưng, dần dần, càng ngày
càng bị để ý. Những tên công an xóm, xã dùng đủ mọi hình thức o ép, đe dọa. Hơn
nữa, cuộc sống cũng mỗi ngày một khó khăn, không thể chịu đựng nổi được nữa,
nên nhen nhúm dần tư tưởng trốn trở lại miền Nam đã lâu. Mãi tới dịp này, khi
gặp thời cơ thuận tiện đưa đến, mẹ con đã luồn lọt, cuốn gói ôm nhau lội sang
bên kia bờ sông Bến Hải. (Tất nhiên, những “khâu” này, chúng đã phải dàn dựng
như thật, và “lô gích” nữa). Khi đã qua sông Bến Hải rồi, giai đoạn đó, bất cứ
ai vượt tuyến cũng đều được đón tiếp để đưa về Huế, rồi đưa vào Sài Gòn ở trại
đón tiếp đồng bào vượt tuyến bên Gia Định.
Đúng như mọi dự tính
của tình báo Hà Nội. Ngay khi vào tới Sài Gòn, Đào Thị Bắc, đã được nhiều bạn
bè khi nghe được tin, đã sang trại đón tiếp đồng bào vượt tuyến Gia Định để
thăm hỏi. Trong đám này, có Trung Tá Xuân là bạn của Trần Ngọc Tính và Bắc ngày
xưa. Cũng chính Trung Tá Xuân đã bảo lãnh và đón mẹ con Bắc ra trại, về một cư
xá sĩ quan ở tạm. Trung tá Xuân cũng là một nhân viên…Tình Báo của Sài Gòn…
Đến đây, chẳng hiểu vì
tư tưởng của Đào Thị Bắc thích thế giới tự do, hay vì nghệ thuật khai thác, móc
nối của Tình Báo Sài Gòn cao tay, cuối cùng Đào Thị Bắc đã khai báo hết sự thật
với Tình Báo của Sài Gòn, mà đại diện là Trung Tá Xuân.
Tình Báo Sài Gòn, cũng
nằm trong lề lối chung của chính quyền miền Nam, là làm việc, hời hợt, thiếu ý
thức trách nhiệm trong công việc của mình; ưa hình thức đao to, búa lớn, nhưng
bên trong rỗng tuếch. Như vậy, làm sao tìm ra được một kế hoạch hoạt động tinh
vi. Một kế hoạch mà muốn thành công, đòi hỏi phải nhiều tâm sức, vắt óc tính
toán, mổ xẻ phân tích nhiều ngày đêm. Thậm chí, ăn sẽ không ngon, ngủ sẽ không
yên nếu chưa tìm tòi nghiên cứu được một kế hoạch thỏa đáng! Hoặc, sẽ đau đầu,
nhức óc, về việc tại sao công tác vừa qua lại bị thất bại! Nhân viên, bị bắt,
bị chết! Phải coi nhân viên đó như ruột thịt của mình. Luôn luôn phải đào sâu,
xét kỹ từng vấn đề để rút tỉa kinh nghiệm.
Những người chịu trách
nhiệm của cơ quan tình báo phải làm việc theo phòng cách: vì việc nước, phải
gửi, phải phái người anh, người em, người con mình vào đất địch để hoạt động.
Nếu người anh ấy, người con ấy bị bắt, bị chết, thái độ của mình sẽ ra sao? Từ
đấy sẽ thấy là, phải coi việc nước như việc nhà.
Tóm lại, với cách làm
việc, với lề lối phong thái như trên, làm sao có được một kế hoạch tốt. Cá biệt,
có điều gì thành công, hầu như phần lớn là do may mắn mà thôi. Hay, nói theo
cách thông thường, là hôm đó, hay lúc ấy, “trời đi vắng”!
Chính vì vậy, khi thấy
Đào Thị Bắc khai báo, hay nói đúng ra là thú hết những âm mưu, ý đồ của Tình
Báo miền Bắc, Tình Báo miền Nam đã vội vàng ra cái vẻ “tương kế tự kế”, bí mật
tuyển mộ lại Bắc. Tất nhiên, lại phải huấn luyện theo “lò” Tình Báo của Sài
Gòn. Rồi, một mặt vờ cung cấp một số tin tức không phải thiết yếu để hòng “thả
con săn sắt, bắt con cá rô”. Một vài năm sau, cố vờ tạo lên một sơ hở của Bắc
để SàiGòn nghi ngờ, nghĩa là thúc ép tình báo Cộng Sản là “động rồi đấy, hãy
đưa Bắc về Hà Nội đi; nếu không, SàiGòn sẽ bắt”.
Phần vì, đánh giá khả
năng của đối phương qua đôi dép râu, qua bộ quần áo cà quỷnh; rồi nhìn từ chỗ
đó, để suy ra những khả năng khác của kẻ thù; nên đã không thấy một điều quan
trọng thiết yếu của Cộng Sản: Chủ trương của chúng là “chỉ dùng người ngu”.
Dùng những thuộc hạ chỉ biết nghe lời. Dù người lãnh đạo có ra lệnh lầm, thuộc
hạ cũng cứ cắm cúi thực hiện. Không có, và không cần loại thuộc hạ bàn ngang,
tán láo. Loại thuộc hạ này không làm được gì cả. Cứ nhìn những thuộc hạ đầy ngu
ngốc, đầy cà quỷnh, đầy ngây ngô, khỉ mán trong rừng…mà quên đi là những tên
lãnh đạo trong bộ chính trị của chúng là những tên cáo già, chỉ ngày đêm nghĩ
suy, tính toán. Không phải một vài tên, mà là 15, 16 tên như vậy. Hầu như chúng
đã thấy trước được nhiều vấn đề (sau này, tôi sẽ minh chứng cụ thể). Một bộ óc
trong cái tập thể ấy, sẽ không kém gì một bộ óc khôn quái của chúng ta. Ba cái
đầu, hơn một cái đầu. Ở đây, 15, 16 cái đầu chắc chắn phải hơn một cái là ông
Tổng Thống. Huống chi, những cái đầu của những vị nguyên thủ phía ta, đến quá
nửa thời gian lại dành cho hưởng thụ, phục vụ cho những tham vọng cá nhân và
gia đình. Như vậy, làm sao đặt để được một kế hoạch thấu đáo. Làm sao chống lại
được Cộng Sản miền Bắc, mà không phải hết cầu cứu với ông lớn nước này, lại cầu
cứu với ông lớn nước khác! Nếu các ông ấy không giúp, tất yếu là …đổ.
Tóm lại, về tình huống
của chị Đào Thị Bắc: nếu đầu não của Tình Báo Sài Gòn là người hiểu biết kẻ
thù, phải thấy ngay là, những loại người như Bắc, không bao giờ Cộng Sản tin
dùng cả. Chúng chỉ dùng theo thời gian, theo những yêu cầu đòi hỏi của những
giai đoạn ấy; rồi sau đấy; sẽ cho phép “ngồi chơi xơi nước” nếu làm tốt cho
chúng. Còn, trong quá trình công tác, lại có gì sai trái, tùy theo mức độ chúng
gạt luôn, hoặc cho vào “ấp”. Chúng không tin Bắc, đã không tin, chúng phải theo
dõi, để ý. Chỉ cần một hiện tượng không bình thường là chúng đã phát hiện ra
ngay rồi. Như thế, cố gắng đẩy chị Bắc về miền Bắc, chẳng khác gì đẩy chị vào
tù, hay nói khác, đẩy Đào Thị Bắc vào chỗ…chết!
Như vậy, người lãnh đạo
Tình Báo miền Nam lúc ấy, phải nhận một trong hai khuyết điểm sau:
- Chưa đủ hiểu sự tinh
quái của Cộng Sản.
- Hiểu, nhưng vẫn còn
đẩy Đào Thị Bắc đi. Một là để lấy tiếng vang, hoặc may ra có kết quả. Còn nếu
không, chết, mặc xác; tù rục xương cả cuộc đời, cũng không cần biết!
Nếu là khuyết điểm
trên: còn gì để nói nữa (!). Chiến đấu với kẻ thù mà không đánh giá được kẻ
thù! Còn nếu là khuyết điểm ở dưới: người chỉ huy vô nhân đạo. Bất cứ một nhà
nước nào, một tổ chừc nào, một cá nhân nào, làm việc không có hậu như vậy, sớm
muộn sẽ bị thất bại, đổ vỡ.
Đào Thị Bắc, từ tim
gan, ruột phổi cho đến giòng máu đang chảy trong cơ thể là người quốc gia,
nghĩa là Bắc là con ruột của ta. Con ruột mà ném vào miệng cọp thì thật là hết
ý! Vậy, không thể lấy lý do mượn tay kẻ thù, để trừ đi một người ta cần chặt
bỏ. Riêng tôi, khi xem chị Bắc viết thuật đến đây, tôi hiểu Tình Báo Sài Gòn
mắc cả hai khuyết điểm trên, cũng chỉ vì lề lối làm việc hời hợt.
Trở lại sự việc Đào Thị
Bắc:
…Cho tới đầu năm 1965,
theo kế hoạch của miền Nam, chị Bắc báo cáo với Cộng Sản là đã bị lộ. Sài Gòn
đã nghi ngờ. Sau một thời gian bảo Bắc đợi lệnh, cuối cùng, vào đầu tháng 5,
lệnh từ Hà Nội cho Bắc về. Tất nhiên lại một sự dàn dựng của cả hai bên để Bắc
rời Sài Gòn về miền Bắc…
Khi chị Bắc qua sông
Bến Hải thì được đưa tuột về ngay Hà Nội. Chúng đưa chị đến ngôi nhà số 23 phố
Hàng Đường, lên một căn buồng ở trên gác, phía dưới là một cửa hiệu quốc doanh.
Khi vào trong buồng, chúng đưa cho chị một tập giấy, bảo chị hàng ngày hãy viết
lại tất cả mọi sự việc từ khi vào Nam: làm những cái gì, giao thiệp với những
ai, đi những đâu…một cách chi tiết.
Chị bị coi như giam
lỏng, giấy tờ chúng thu hết với lời khích lệ là viết tốt, viết xong mới cho về
với gia đình.
Gần một tháng trời cặm
cụi viết, khi viết xong, nộp cho chúng rồi, chị tưởng là chỉ hai, ba ngày nữa
sẽ được cho về thăm gia đình. Nhưng, chúng đã mắng, đã nạt nộ chị, là chúng đã
biết hết mọi sự thật. Thậm chí, chúng đưa và nêu cả hình ảnh, chứng cớ. Thế là
chị Bắc đành phải khai báo sự thật. Là Sài Gòn đã tuyển mộ chị, huấn luyện chị.
Và, tương kế tựu kế, để chị về Hà Nội, nằm trong tổ chức Tình Báo miền Bắc,
hoạt động cho Sài Gòn v.v… và v.v… Khai, viết xong một lần nữa, chị bị chúng
đưa thẳng vào buồng số 6, mà tôi đã gặp.
Trong suốt những lần
đứng viết thuật lại mọi sự việc cho tôi, lúc nào nước mắt chị cũng lưng tròng,
nét mặt đầy vẻ khổ đau. Chị cũng hiểu, đời chị đến đây là hết! Chị không còn
thiết bất cứ một điều gì trên cái cõi đời này. Nếu trong chị còn le lói chút
ánh sáng nào, đó chính là giọt máu duy nhất của chị và của người chồng kính
yêu. Cháu vẫn còn ở miền Nam, năm nay đã 11 tuổi rồi, hiện nay đang sống với
một người họ hàng ở đường Phan Thanh Giản. (Bây giờ, tôi không thể nhớ rõ số
nhà là bao nhiêu nữa).
Từ lúc, chị biết tôi
cũng là người của chính quyền miền Nam, lại cùng gặp nhau trong cảnh khốn cùng
này, ánh mắt chị nhìn tôi đã thay đổi hẳn. Cũng là ánh mắt ấy, nhưng trước đây
mỗi khi chị nhìn tôi, hãy còn cái nhờn nhợt của màu nâu, cái màu của nhiều rụt
rè, băn khoăn, xa lạ; bây giờ, nó đã đổi sang màu xanh, cái mầu của thân
thương, ruột thịt, người trong một nhà. Chính chị đã viết, đời chị lúc này đang
như cánh bèo bị nước cuốn chìm nổi, dập vùi, chơ vơ lạc lõng, thế mà cơ duyên
gặp được tôi. Cánh bèo ấy như được dạt vào đám bèo to; tuy rằng giòng nước vẫn
còn đẩy đưa đám bèo này đi mãi…Thấy chị nghĩ như vậy, tôi cũng cố giả vờ ra vẻ
là một đám bèo cho chị dựa: chứ thực ra, trong lòng tôi cũng mịt mùng chả biết
đường đi ngả nào, còn đấy hay mất đi lúc nào cũng đâu có hay.
Một lần, sau khi cán bộ
đã đi ra, tôi lại gọi chị đứng lên nói chuyện. Chị phàn nàn, băn khoăn là quần
áo của chị bị mấy chỗ tuột chỉ và đứt mấy khuya áo, nhưng không có kim. Tôi
cũng hiểu, gặp khó khăn, chị viết như vậy để kể lể, cũng chỉ như là san sẻ tâm
sự; chứ chị làm sao có thể nghĩ rằng tôi lại có kim. Chiếc kim của tôi thực vô
cùng quý giá, chẳng bao giờ rời khỏi mình tôi; nhưng với chị, tôi có thứ gì để
tiếc chị nữa. Bởi vậy, tôi nói với chị là tôi có kim. Mắt chị mở to, miệng chị
mấp máy như nửa tin, nửa ngờ, cho là tôi nói đùa. Nhưng, nét mặt của tôi đang
nghiêm trang nghĩ cách nào để đưa được kim cho chị. Và, tôi đã tìm ngay được
một cách. Tôi vội viết: “hãy ngồi xuống, chờ một tí”.
Tôi lấy cái kim ra, xỏ
vào một sợi chỉ, buộc thắt lại. Nối hai, ba sợi chỉ dài độ 3, 4 mét, rồi buộc
một đầu vào một đoạn cọng cuốn chổi thanh hao dài khoảng 2, 3 phân. Tôi trèo
lên sàn, gọi chị và viết: “Hãy cúi sát xuống nền phía cửa. Tôi sẽ “búng” cái
cuống chổi sang. Chị nhặt lấy kéo về. Còn muốn dùng chỉ thêm, ngay trong chăn
của trại, cứ cách hai sợi, rút một sợi, không sao cả. Một cái chăn có thể rút
được 15, 16 sợi chỉ, mỗi sợi dài trên 2 mét. Tha hồ khâu vá”. Sợ mất cái kim,
tôi dặn chị, khi nào tôi ho hai tiếng, chị cứ việc khâu. Nếu nghe một tiếng ho,
cất ngay đi. Tôi sợ cán bộ bất chợt đi vào, đứng rình thấy chị Bắc khâu, vừa bị
tịch thu kim, lại vừa bị cùm nữa. Còn một tội to hơn là…phá hoại tài sản của xã
hội chủ nghĩa.
Thế là chị có kim. Chị
bắt đầu việc khâu vá, trong khi đó tôi gọi anh Nguyễn Lân, buồng số 4, đứng lên
nói chuyện…
66.
Hai cái áo sơ-mi thay đổi một cuộc đời!…
Thuận tiện nhất cho tôi có trình bày ở trên, là viết liên
lạc với ba buồng đối diện là 5, 6 và 7. Buồng số 5 và số 7 đã hơi chéo góc với
buồng tôi rồi, nhưng khoảng cách cũng còn không xa lắm, nên tấm “bảng” cũng
không nhỏ đi mấy. Bây giờ, buồng anh Lân (số 4) lại chéo góc hơi xa, tấm “bảng”
vì vậy chỉ còn bé tí. Phải viết chữ lớn hơn mới trông rõ. Tôi và anh Lân cũng
cố điều chỉnh mãi, dần dà việc nói chuyện cũng không còn khó khăn lắm.
Có lẽ vì suýt soát tuổi
nhau, nên anh Lân tỏ vẻ rất thích tôi. Hầu như anh cứ đứng suốt buổi để nói
chuyện với tôi. Một phần nhờ tôi ở dẫy phía ngoài, có điều kiện canh chừng cán
bộ ngày từ ngoài sân; phần khác, tôi ở xà lim đã lâu, thành tinh, nắm được hầu
hết những kẻ hở của cán bộ trông coi xà lim, nên mọi việc nói chuyện với chị
Bắc hay với anh Lân đều do tôi chủ động. Bởi vậy, nếu tôi không gọi anh, anh
đành chịu. Tôi đã quy định, với chị Bắc khi gọi nói chuyện là “hai tiếng ho”;
còn với anh Lân là “hai tiếng khạc”; và với số 7 là “hai tiếng nhổ khô”. Nhưng,
tôi không cho buồng này biết điều quy định của tôi với buồng kia!
Sau nhiều lần nói
chuyện, tôi biết được sơ lược nội dung sự việc của anh Nguyễn Lân như sau:
Câu đầu tiên anh viết
với tôi, đã làm tôi thật ngạc nhiên và buồn cười: “Nguyên nhân chính làm cho
cuộc đời anh bị bắt vào Hỏa Lò là do “hai chiếc áo sơ-mi‘“. Hai cái áo này, đã
có lần tôi thấy phơi ngoài sân.
Quê anh ở miền “Thắt cổ
bồng” của đất nước. Cái miền mà chó phải ăn đá, gà phải ăn sỏi”. Bố anh là một
cán bộ ưu tú của Cộng Sản, đã nằm xuống cho cuộc chiến tranh chống thực dân
Pháp. Vì vậy, anh được coi như thành phần cốt cán, con trai duy nhất của một
liệt sĩ. Nhờ đó, khi anh mới học hết lớp 6 Phổ thông Trung học, anh đã được ưu
đãi chiếu cố đặc biệt của chính phủ, để đi du học ở Roumanie 5 năm về ngành
Quản lý kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa. Một tương lai sáng lạn rộng mở khi
anh tốt nghiệp trở về nước. Năm nay, 1965, anh đã bước vào năm thứ tư rồi. Cuộc
sống cũng như việc học hành của những sinh viên Việt Nam ở thủ đô Bucharest tuy
còn nhiều khó khăn về vật chất, nhưng so với quê nhà, đã như từ đang ăn cơm với
rau bây giờ được ăn thêm món cá. Chỉ còn một năm nữa thôi là đã thành đạt rồi;
nhưng trong dạ của anh lại không mang niềm phấn khởi; vì nhìn về quê hương Việt
Nam, anh thấy đầy dẫy nghèo nàn lạc hậu. Sau hàng chục năm tiến lên xã hội chủ
nghĩa, vẫn không có gì thay đổi cả. Vì thế, tuy không quá buồn, nhưng lòng anh
cũng chả thấy vui khi sắp được trở về mảnh đất quê hương, để trở thành một cán
bộ nồng cốt.
Rồi, cuộc đời, cũng như
mặt biển, chẳng bao giờ phẳng lặng bình yên mãi…!
Anh có một người cậu,
em ruột của mẹ. Vì mảnh đất đầy khắc nghiệt của quê anh, người cậu từ trước
1954 đã đi tha phương cầu thực, lang bạt kỳ hồ nổi trôi; hết làm phu phen ở Tân
Thế Giới, rồi lại trôi dạt về “mẫu quốc” là nước Pháp. Hiện người cậu, đã có vợ
con, làm nghề tài xế Taxi ở Paris, sống một đời thợ thuyền nghèo nàn ở thủ đô
xứ người. Từ khi biết thằng cháu được đặc tuyển đi du học Roumanie, ngay gần
cạnh nước Pháp, thôi thì, tình ruột thịt cậu cháu hàn huyên qua những cánh thư
thương nhớ hàng tuần, hàng tháng. Rồi, kỳ Hè năm ngoái, toàn bộ du học sinh
Việt Nam học ở Roumanie được chở đến bờ biển Hắc Hải để cắm trại. Người cậu đã
biết do đứa cháu báo tin, nên cũng đem gia đình đi nghỉ mát ở đấy, để gặp thằng
cháu đã lâu ngày xa cách. Thật là tay bắt, mặt mừng, cậu cháu, anh em được dịp
tỏ bầy lòng thương, nỗi nhớ chất chồng từ hàng chục năm qua. Trong dịp gặp gỡ
này, người cậu cho đứa cháu yêu vài món quà vặt vãnh, trong đó có…hai chiếc
sơ-mi trắng nói trên.
Qua những cánh thư trao
đổi mấy năm trước đây, theo hình dung của anh Lân, gia đình người cậu làm nghề
Taxi, chắc cũng rất là chật vật, thuộc loại dân nghèo thành thị, trong giới cần
lao. Với sự tưởng tượng của Lân, từ ống kính nhìn giới thợ thuyền ở quê nhà,
nghèo nàn phải ở cảnh mặc quần áo vá, đội mũ bạc màu, gia đình vợ con nheo
nhóc, nhếch nhác… Vì thế, do tình quý mến và thương cậu, Lân đã dành dụm được
50 francs, định trong dịp gặp cậu này, sẽ gọi là một chút giúp đỡ mợ và các em.
Bởi vì, anh đã được may mắn sắp sửa bước lên giai cấp trên, giai cấp có thế có
quyền, nên anh nghĩ phải có trách nhiệm cưu mang họ hàng. Nhưng, khi gặp cậu mợ
và các em, anh đã mở to mắt, há hốc mồm, trân trân đứng nhìn đến nỗi quên cả
bắt tay người cậu. Gần 50 francs anh dành làm quà cho cậu đã như cục than nóng
trong túi quần. Anh cứ cho tay vào túi mân mê, định lấy tiền ra, rồi lại ngập
ngừng lấy tay ra; để rồi một lúc sau lại đút tay vào, mất cả vẻ tự nhiên khi
anh nói chuyện với cậu mợ. Cuối cùng, người cậu đã đút vào túi cháu 500 francs
và nói là vì…cậu quá nghèo, mong cháu thông cảm cho lòng cậu, gọi là của thảo
để cháu mua thêm giấy bút, sách vở…(!). Đến lúc này, gần 50 francs trong túi
của Lân mới chịu nguội lạnh, nằm yên.
Trên đường trở về
Bucharest, tiền thì anh đã giấu kín, nhưng hai chiếc sơ-mi thì đã thành một đầu
đề, điểm đầu mối để anh em sinh viên suy nghĩ bâng khuâng về cuộc sống con
người và xã hội. Ngay chính bản thân anh Lân, cũng từ hai chiếc áo sơ-mi này,
đến những hình ảnh gia đình của người cậu, đã phải thay đổi nhiều cách nhìn
đời. Từ những suy nghĩ này, đẻ ra những suy nghĩ khác. Chính ngay khi ông cậu
cho hai chiếc áo sơ-mi này đã nói…”đây là loại áo thường cậu mua cho cháu, cậu
không dám mua loại sang, e rằng cháu về quê nhà mặc, sẽ không tiện, không phù
hợp với môi trường, sinh hoạt của quê hương…”. Hai chiếc áo sơ-mi “thường” mà
còn làm cho Lân và bao nhiêu bạn học phải ngẩn ngơ về cuộc sống con người, về
những viễn ảnh của đất nước xã hội chủ nghĩa.
Rồi, chính Lân dần dần
chuyển biến tư tưởng, thập thò nhen nhúm ý tưởng sẽ giã từ chủ nghĩa xã hội “ưu
việt” của loài người, “đỉnh cao” của trí tuệ, “trái tim” của nhân loại để chạy
sang với ông cậu sống một cuộc đời…phồn vinh giả tạo, tự do chết đói, đầy dẫy
những lạc hậu và bất công…(!) Vì vậy, trong những lá thư sau, Lân có những lời
thăm dò, bóng gió để hỏi cậu xem, Pháp có nhận người tị nạn chính trị chạy sang
không? Nhờ cậu chuẩn bị lo trước về công ăn việc làm, cũng như cuộc sống, v.v…
Khi ông cậu trả lời, tất nhiên cũng bóng gió xa xôi nhưng Lân cũng hiểu là, cứ
đi, cậu sẽ lo liệu mọi vấn đề cho, cậu rất hoan nghênh ý kiến đó của cháu, v.v…
Dù chỉ là những lời bóng gió, nhưng những lá thư như vậy Lân đều đốt hủy đi.
Ít ngày gần đây, tự
nhiên như do linh tình, Lân cảm thấy tâm hồn bất an, dù anh vẫn tiếp tục học
hành bình thường. Nhưng, rồi anh vẫn không nhận thấy một hiện tượng gì để cho
mối lo ngại băn khoăn của anh có cơ sở. Anh cho rằng, chẳng qua, vì lòng đã có
ý định chuồn, nên có tật thì giật mình mà thôi, anh lại bỏ qua những băn khoăn
anh đã cho là vô căn cớ đó.
Cho tới hơn một tháng
trước đây, đột nhiên anh nhận được một tờ điện tín từ quê nhà là mẹ anh bệnh
sắp chết, phải về ngay. Anh cầm bức điện lên anh tổ trưởng, đồng thời cũng là
Bí Thư Chi Bộ, với nét mặt đầy băn khoăn lo lắng, nên về hay không về? Vì, tuy
anh là con trai duy nhất, nhưng anh cũng biết rằng dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa, tình cảm gia đình không phải là một vấn đề lớn lắm. Anh lại sắp ra
trường. Bài vở của năm cuối rất nhiều cho nên, chưa chắc Chi Bộ Đảng đã đồng ý
cho anh về.
Nhưng, thật là bất ngờ,
không những anh không gặp những lời ngăn cản hay phản đối, mà lại là những lời
thúc giục, khuyến khích anh phải về. Nào là, mẹ anh chỉ có một mình anh là con,
đời bà đã đau thương quá nhiều, cha anh đã hy sinh cho Tổ Quốc khi mẹ anh còn
quá trẻ v.v…
Anh đã được tổ chức
lãnh đạo lo liệu cho giấy tờ thuận tiện, vé tầu, xe cả về lẫn đi trong nửa
tháng. Cùng về với anh cũng có một đồng chí ở sứ quán Việt Nam tại Bucharest.
Khi về tới Mạc Tư Khoa, qua thái độ của người đồng chí mà anh phải đi cùng,
cũng như qua một số hiện tượng, anh cảm thấy như bị theo dõi, và bị giam lỏng.
Giấy tờ của anh đều do đồng chí sứ quán nắm giữ hết, với lý do là đồng chí ấy
có trách nhiệm trình báo, cũng như lo liệu giấy tờ trên đường về.
Chính anh Lân, cũng là
người tinh quái, sau một đêm suy xét, tính toán, cảm thấy lần này về không ổn
chút nào cà. Nhưng biết làm sao, anh hoang mang
cùng độ, biết trở về
đến Việt Nam là có chuyện. Vì thế, ngay sáng hôm sau, một mình anh lần ra phố,
vẫy một chiếc Taxi, bảo chạy bừa đến tòa đại sứ Pháp. Thực ra, vì anh lo quýnh
quá rồi, thấy mình từ từ lăn xuống hố mà không còn bấu víu vào đâu, nên đành
liều chạy đến tòa đại sứ Pháp v.v… chứ anh chả biết một chữ Pháp nào, thì biết
ăn nói làm sao đây.
Sau khi trả tiền xe
Taxi, anh thấy ngôi nhà có lá cờ Pháp thì xông bừa vào. Lúng ta, lúng túng,
ngôn ngữ bất đồng, chẳng ai hiểu ai. Nhất là, khi tòa đại sứ Pháp thấy thái độ
của anh nhớn nhác, lo sợ, cứ hai tay chấp lại, lạy xin cứu mạng, rồi định chạy
vào chỗ kín để trốn nấp; nên họ đã đưa anh ra xe, đem trao trả cho nhà chức
trách Liên Xô. Để rồi, cuối cùng anh bị giong về Việt Nam. Đi qua Trung Quốc,
trên đường về, bây giờ kèm thêm một người nữa có vũ trang. Khi về tới Hà Nội,
họ đưa ngay đến Hỏa Lò và vào thẳng xà lim (mà tôi đã nghe thấy tiếng giầy cồm
cộp độc đáo hôm nọ).
Nhìn anh viết kể lại,
biết được chuyện của anh, tôi cũng thấy buồn và tiếc cho đời anh. Ngay sau khi
anh kể xong sơ lược sự việc bị bắt, tối hôm đó, tôi lại gọi anh đứng lên trao
đổi tiếp. Tôi hỏi anh là, gần một tháng nay, anh đi cung kẹo thế nào? Sao anh
không dứt khoát chối là không hề có ý định chuồn sang Pháp?
Anh trả lời tôi rằng,
ngay từ đầu, anh đã khăng khăng một mực là không và chưa bao giờ anh lại có ý
định sang Pháp cả. Anh đã tận dụng đủ mọi lý do. Nào là, anh không khi nào lại
dại, thả mồi bắt bóng, sắp tốt nghiệp, nghiễm nhiên là một cán bộ có khả năng
và có uy tín của nhà nước; nào là, anh còn người mẹ kính yêu, không lẽ lại lỡ lòng
bỏ mẹ lại bơ vơ một mình…Dù chúng có dọa nạt, trước sau, anh cũng vẫn một mực
chỉ khai như vậy. Còn lý do vào tòa đại sứ Pháp, anh nói là vào lầm chỗ. Anh
định đến tòa đại sứ Roumanie để nhờ họ chuyển một chiếc khăn tay kỷ niệm cho
một người bạn gái Roumanie; chứ anh không biết một chữ Pháp nào cả, vậy đến tòa
đại sứ Pháp để làm gì…
Mãi cuối cùng, chấp
pháp đưa ra hai tấm hình “photocopy”. Một tấm là của một tờ giấy…nháp lá thư
anh gửi cho ông cậu. Tờ giấy này, anh đã xé nhỏ, bỏ trong sọt rác, thế mà,
trong anh em sinh viên đã có người theo dõi ngấm ngầm, nhặt hết và ghép lại để
“photo”, còn một tấm nữa là bức thư của ông cậu gửi cho anh (chúng đã bóc ra
đem chụp, rồi dán lại như cũ, anh vô tình nên không biết). Vì thế, anh không
còn chối cãi được nữa.
Anh đứng nhìn tôi, tôi
nhìn anh. Trông anh mặt mũi cũng sáng sủa, có hai cái tai vều ra hai bên thật
to như tai con dơi. Dáng anh cao cao. Tôi cứ tưởng tượng anh mặc áo “ba đơ
suy”, đi đôi giầy cồm cộp. Chợt, tôi nhớ đến câu nói của tên Bí thư Chi bộ sinh
viên Việt Nam ở Roumanie: …Anh phải về vì mẹ anh đã đau khổ nhiều. Khi cha anh
đã hy sinh cho Tố Quốc, mẹ anh hãy còn quá trẻ…”. Vậy, bây giờ anh Lân đã trở
về đấy, và chúng còn cho anh vào…”ấp” nữa. Chắc tên bí thư kia nghĩ rằng người
mẹ đã rất vui mừng và tự hào có một người chồng đã hy sinh vì chống Pháp, và
bây giờ, bà cũng rất hân hoan sung sướng, hả hê vì đảng đã bắt con bà, một tên
phản động định chuồn ra nước ngoài. Phải cho nó cực khổ chết dần trong ngục tù
(!).
Buổi tối hôm đó, đã
muộn, tôi vẫn chưa ngủ được. Câu chuyện đời anh Lân vẫn còn làm đầu óc tôi bồng
bềnh với nhiều ngả ngược xuôi của cuộc đời. Bỗng, đèn phụt tắt! Tiếng còi báo
động lại hồng hộc, ùng ục như tiếng nấc nghẹn, rồi ré lên một hồi dài u ử.
Tiếng rú hãi hùng của hồi còi chưa hết hơi, thì những tiếng nổ đinh tai nhức óc
đã bắt đầu rền vang kéo dài. Những lằn chớp xanh lè cả bức tường trắng trước
mặt. Tôi tung chăn ngồi bật dậy.
Lúc này những tên cán
bộ ở Hỏa Lò đang chúi đầu vào “tăng xê”. Vậy là, tôi lại tha hồ thoải mái, kê
hẳn một cái chăn lên sàn để đứng cho cao. Tôi đứng sát cửa sổ, nghiêng nghiêng
ngó ngó ra ngoài trời. Cả một vạt trời phía Đông Bắc mầu tím thẫm. Từng chuỗi,
từng chuỗi những dây chỉ bằng lửa, sợi to, sợi nhỏ, sợi cong cong thun thun,
sợi thẳng tuột, vắt ngang, vắt dọc chọc tuốt lên bầu trời; trông nhiều lúc cứ
như tuyết rơi vào một đêm Đông trên…màn ảnh ấy. Điều khác là những luồng sáng
trắng lại rơi ngược từ đất lên trời và đủ màu xanh, đỏ, da cam, trắng bạc…Trong
bức tranh “tuyết rơi ngược” ấy, vẫn có những luồng sáng trắng bạc vun vút chạy
ngang, chạy dọc; có lúc quay vòng, vẽ lên những đoạn cung bằng lửa trắng, hoặc
mầu da cam vàng ối, ánh cả vào trong xà lim của tôi. Đột nhiên, giữa màn tím
thẫm ấy lóe lên một làn chớp làm lóa mắt, rồi một tiếng nổ tưởng đến xé tai của
tôi. Một tiếng “choeng” ở ngay sân xà lim bật lóe ra những tia lửa xanh lè làm
tôi giật mình, hụp vội đầu xuống, tưởng như một quả bom rơi. Tôi vừa gượng đứng
lên, vừa mỉm cười tự chế nhạo mình, sao mà tôi can đảm thế! Thôi, tạm tha thứ,
chỉ vì đầu óc đang quá say sưa nhìn ngắm bức tranh muôn mầu hào quang, nên đã
không kịp phân biệt rõ ràng. Đó cũng chỉ là một phản xạ tự nhiên mà thôi.
Không khí đặc quánh
lại, mùi mặn chua của thuốc nổ kích thích vị giác, khiến tôi thấy thèm thèm. Tự
dưng cánh mũi tôi phập phồng, ngực tôi như to dần, rồi căng lên, hít sâu mãi
vào cho đầy ắp hai buồng phổi cái mùi thuốc nổ say sưa ấy.
Chợt, chẳng hiểu vì
đâu, tôi nảy lên trong óc một ý nghĩ, một ước muốn thì đúng hơn, len lỏi vào
tâm tư là được một quả bom rơi xuống giữa sân Hỏa Lò! Có thể có nhiều người
chết, kể cả tôi. Thế là hết cảnh đọa đầy! Nhưng chắc mũi tôi sẽ được hít ngửi
mùi ngầy ngậy, mằn mặn chua chua ấy một cách thỏa thê.
Đột nhiên, một tiếng nổ
lớn rất gần, ngay đâu đây. Tôi nhìn thấy những chiếc lá bàng rung giật lên, rồi
rơi xuống một loạt. Có những chiếc lá còn xanh nguyên đang chao đảo lao xuống
đất, dù gió chỉ nhè nhẹ, hiu hiu. Cả cái lưới thép tôi đang tì trán vào cũng
rung lên. Tiếp theo là những tiếng lộp độp trên mái ngói, tiếng choeng choeng ở
sân trong và sân ngoài. Phải nói, từ ngày tôi dọn sang buồng 11 tới nay, đã nhiều
đêm, nhiều buổi tối, cả ban ngày, tôi đã được nhìn theo dõi những trận không
tập của máy bay Mỹ, cũng như sức chiến đấu, chống trả từ mặt đất nhưng chưa có
trận nào vừa lâu, vừa hứng thú như trận đêm nay.
Tôi đang mải mê đôi
mắt, về góc trời hướng Đông, theo hai đốm lửa to mầu da cam chạy vùn vụt qua
những sợi dây lửa xanh đỏ lao xuống đất với góc xiên độ 30 độ, thì một tiếng
gào rít lên, tưởng như có sức đè đổ cả cây bàng, và làm sập cái xà lim tôi đang
đứng, đến nỗi tôi vội vàng giơ một tay lên đầu như chống đỡ. Quả thực, có một
luồng gió ào ào quạt qua những chiếc lá bàng giẫy lên đành đạch, rồi thốc vào
xà lim, làm tóc tôi bay ngược ra phía sau.
Hơi hồi hộp mà thực say
mê. Giá mỗi đêm có một trận thế này, thì cảnh đời ở xà lim đỡ sầu biết mấy! Tôi
thấy hứng quá liền ho hai tiếng. Mãi một lúc, tôi mới thấy chị Bắc nhô đầu lên.
Tóc chị rối bù, dáng dấp chị còn rụt rè, tôi buồn cười, viết mấy chữ hỏi:
- Đầu óc và mặt mũi chị
làm sao thế?
Bàn tay của chị còn run
run, viết nguệch ngoạc:
- Tôi sợ quá, phải chui
xuống dưới gầm sàn!
Thực ra, trong lúc này
máy bay bắn phá, đèn đóm trong Hỏa Lò tắt hết nhưng, nhờ ánh lửa của đạn, bom
nổ chớp sáng bầu trời, ánh vào cả trong xà lim, nên chúng tôi cũng có thể trông
rõ nhau. Tuy vậy, để dễ đọc ra chữ, tôi và chị đã phải viết nét lớn hơn, như
thế một ý tưởng, một câu nói, phải viết lâu hơn, hoặc chỉ viết ý chính trong
câu để người kia đoán hiểu ra.
Thấy chị viết trả lời
như vậy, tôi thầm nghĩ thế mà chị lại nói chị không thiết tha gì đến sự sống
nữa. Bây giờ, chị lại làm như vậy. “Nói dậy mà không phải dậy”. Câu này phải
nói theo giọng miền Nam mới hay. Tuy nghĩ như thế, nhưng thông cảm vì dù sao,
chị cũng là phụ nữ, đêm khuya, một mình một buồng trong xà lim án chém này. Máy
bay gầm rú, súng, bom nổ rát ràn rạt, nhà cửa rung lên như trời sắp sập. Có khi
mấy buồng kia, ngay đàn ông, cũng chui xuống gầm sàn, huống chi là chị. Vì vậy,
tôi cười và động viên chị, đại ý là:
- Chị thử nghĩ xem, nếu
bom rơi trúng, hay sát gần đây, dù có chui xuống dưới gầm sàn, tôi và chị cũng
cứ dắt tay nhau cùng về bên kia thế giới. Còn như bom không rơi, việc quái gì
phải chui vào gầm sàn cho khổ. Hãy như tôi, từ đầu trận đánh tới giờ, tôi nhìn
say mê một bức tranh hào quang muôn màu. Bức tranh tuyệt vời ấy lại có cả âm
thanh nữa. Ngoài ra, người họa sĩ lại vừa xóa đi, lại vừa chấm phết thêm nhiều
nét mới. Cũng cùng một chiếc khung, nhưng luôn luôn biến đổi màn ảnh.
Thấy thái độ của tôi
như vậy, chị cũng có vẻ đỡ sợ. Tôi quay ra sân, vì tai tôi chợt thoáng “nghe”
tiếng chân người. Phải nói, do sự cảnh giác cao độ luôn sẵn có trong tiềm thức
mình; nên tôi “nghe” được tiếng bước chân người, hoàn toàn là do “trực giác”;
chứ làm sao mà “nghe” nổi tiếng bước chân đi, hay chạy, trong lúc đạn nổ, bom
rơi ầm ầm ngoài kia!
Chà, tên Nhiễm. Y đang
đi cúi đầu lao về phía trước. Y chỉ mặc mỗi cái quần xà lỏn, chạy như điên,
chúi xuống cái hầm cá nhân ở một góc sân xà lim. Cũng may, y mải chạy, chả còn
hồn vía đâu mà ngửng đầu lên. Giá ngửng lên, chắc y đã thấy tôi rồi. Tôi cũng
hơi giật mình vì bất ngờ. Tôi không thể nghĩ đang lúc tên bay đạn nổ, lại có
một tên cán bộ chạy vào như vậy… Lúc tôi quay lại, chị Bắc đã “biến mất” rồi.
Trận không tập này tương đối khá lâu, có lẽ gần hai tiếng đồng hồ. Như vậy, Mỹ phải huy động rất nhiều loại máy bay, ở nhiều tầng khác nhau, từ nhiều hướng khác nhau, thay nhau quần đảo với những bài bản của nghệ thuật không tập. Ngược lại, phía dưới đất chắc cũng phải “vãi” ra không biết cơ man nào là đạn, là tên lửa; cứ như bắp rang suốt gần hai tiếng đồng hồ, trong phạm vi ít nhất mỗi bề 20 cây số, như vậy là từ 4 đến 500 cây số vuông…
Trận không tập này tương đối khá lâu, có lẽ gần hai tiếng đồng hồ. Như vậy, Mỹ phải huy động rất nhiều loại máy bay, ở nhiều tầng khác nhau, từ nhiều hướng khác nhau, thay nhau quần đảo với những bài bản của nghệ thuật không tập. Ngược lại, phía dưới đất chắc cũng phải “vãi” ra không biết cơ man nào là đạn, là tên lửa; cứ như bắp rang suốt gần hai tiếng đồng hồ, trong phạm vi ít nhất mỗi bề 20 cây số, như vậy là từ 4 đến 500 cây số vuông…
67.
Bản di chúc “sống” của Đào Thị Bắc…
Những ngày sau đó, càng chìm sâu vào mùa Đông, trời càng
lạnh. Mùa Đông thứ tư của tôi. Dạo này, chấp pháp hình như quên hẳn tôi, không
còn gọi đến nữa. Chị Bắc càng ngày trông càng thảm thương, chùm tóc bạc trên
đầu chị ngày càng rộng ra. Ngay suất cơm hàng ngày, chị cũng ăn không hết.
Trong khi đó, tôi ước gì mỗi bữa đuợc ăn 3 suất.
Thấy tình trạng của chị
như vậy, tôi rất lo lắng cho sức khỏe của chị. Tôi dùng đủ thứ để động viên
chị. Nhưng, mặt mày của chị luôn luôn như tàu lá héo úa của những ngày cuối
Thu, không làm sao mà tươi hơn được. Thấy suất cơm của chị cứ để thừa, có khi
là một phần ba, một phần tư; thậm chí, đôi khi đến một nửa, như thế, chị sẽ chết
mất thôi!
Còn tôi, tôi cũng có
điều khó khăn tranh đấu với chính mình. Nhiều lần, tôi ngập ngừng định mở miệng
nói với tên Dư xin chỗ cơm ấy; nhưng sợ lão nghi ngờ có sự liên hệ giữa hai
người miền Nam. Phần khác, cũng thấy ngượng ngùng. Cho nên, nhiều khi, tiếng
nói tưởng như đã ra tới cổ họng rồi, nhưng lại phải nuốt sâu xuống, và đôi chân
lại tiếp tục chậm chạp, dùng dằng đi vào buồng.
Hình như tên Dư cũng
thấy, và hiểu ra những phút ngập ngừng, đắn đo đó của tôi; cho nên một hôm, sau
khi các buồng trả bát hết, y vào mở cửa buồng tôi, nói vừa đủ nghe:
- Anh có đói ra lấy bát
cơm vào mà ăn …
Được lời như cởi tấm
lòng, mắt tôi sáng lên nhìn y và nhanh nhẹn chạy ra. Ở chõng cơm, một bát cơm
đã ăn đúng một nửa bên bát, còn nửa bên này để nguyên. Tôi cầm vào, chỉ ăn hai
phút là xong, vì không muốn làm mất nhiều thì giờ của y. Dù vậy, lão Dư cũng để
tới 10 phút sau, mới vào mở cửa để tôi đem bát trả.
Khi hết giờ, tôi gọi
chị Bắc đứng lên, nói thẳng cho chị biết sự việc như vậy. Mắt chị long lanh,
môi chị run run xúc động. Nước mắt chị chảy dài bên gò má. Chị quay vào tường
viết:
- Anh hãy cố gắng ăn
đi. Anh còn trẻ, anh cần phải sống, để còn làm nhiều việc.
Được ăn thêm cơm, nhưng
trong hoàn cảnh này, tôi không cảm thấy vui gì. Tuy rằng tôi không bảo chị
nhường cơm cho tôi, nhưng tôi vẫn thấy lòng bứt rứt.
Cuối cùng, tôi phải ra
điều kiện với chị. Mỗi ngày, buổi sáng chị phải cố gắng ăn hết suất cơm; buổi
chiều để lại một nửa, tôi mới xin ăn. Nếu không, tôi cương quyết không ăn nữa.
(Bởi vì, mấy ngày trước đó, bữa ăn sáng và cả bữa chiều, mỗi bữa chị đều để lại
nửa suất).
Có lẽ tên Dư cũng thấy
kỳ này chị ốm yếu quá, vì thế, thỉnh thoảng, sau khi cho hết các buồng ra đổ bô
rồi, y vào mở cửa buồng số 6, nói gì đó. Sau đấy, tôi thấy chị Bắc đi sâu vào
phía buồng số 9 bên trong; rồi tôi nghe tiếng mái chổi quét rào rào, nhè nhẹ,
càng lúc càng nghe rõ dần ra phía ngoài này. Khi chị quét qua buồng tôi, tôi
cúi mặt xuống sát nền để nhìn. Bỗng tôi thoáng thấy một bóng khác nhấp nhoáng,
chỗ tối chỗ sáng ở lối đi nơi chị Bắc đang quét. Phản xạ cấp thời, tôi nhẩy lẹ
lên sàn nằm nhắm mắt. Đúng lúc ấy, cửa con xoạch mở: mặt tên Dư.
Cửa nhỏ lại đóng vào!
Tên Dư này, trông vậy, cũng quái lắm. Y nghi giữa tôi và số 6 có thể có liên
lạc với nhau. Y dự đoán, lúc chị Bắc quét ngang buồng tôi, có thể tôi sẽ cúi
xuống khe cửa để tìm cách liên lạc. Do đó, từ ngoài y đột xuất vào mở cửa buồng
tôi, để xem xét. Nhưng, thấy tôi vẫn nằm, như chẳng để ý gì đến số 6. Chắc rằng
y sẽ cho là mối nghi ngờ của y trước đây, nếu có chút nào, là không đúng. Hoặc
ít ra, mối nghi ngờ ấy sẽ thu bé lại.
Khi chị Bắc quét ra tới
ngoài sân, tôi nghe ngóng, phán đoán xem tên Dư hiện đang đứng ở đâu và đang
làm gì. Trước hết, phòng hờ phía sau lưng, tôi để mắt sát xuống nền nhìn qua
khe cửa, quan sát lối đi giữa hai dẫy buồng xà lim: không có gì. Như vậy, có
thể tên Dư ra ngồi lại ở bàn trực, hoặc đứng ở sân? Làm thế nào để biết rõ được
đây? Chỉ cần thoáng nhô cái đầu lên khung cửa sổ to nhìn ra sân xà lim, là
người ở ngoài thấy ngay. Ác một cái là khi nhô đầu lên để cho tầm mắt vừa đủ
quan sát, cái đầu tóc thò lên trước rồi. Chợt, tôi nghĩ ra một cách. Nếu tên
cán bộ nào đang đứng ở sân để theo dõi, quan sát các cửa sổ; trong tâm y là chờ
thoáng nhìn cái “đầu tóc đen” thò lên là biết ngay. Vậy, bây giờ tôi sẽ ngửa
hẳn mặt lên trần, rồi từ từ nâng cao lên đến mép dưới của cửa sổ, mắt tôi sẽ
liếc ngang. Vì mang tâm niệm trên, nên cán bộ sẽ không để ý mép dưới cửa sổ.
Chà, tôi đã thoáng nhìn thấy tên Dư đang đứng ở sân, đưa mắt nhìn khắp các cửa
sổ của các buồng. Tôi im ắng tụt nhanh xuống. Chừng 5 phút sau, tôi lại làm một
“cú” y như vậy nữa. Tôi vẫn còn thấy y đi đi lại lại ở sân, mắt vẫn không rời
các cửa sổ.
Đột nhiên, y đi vào với
dáng vẻ vội vàng. Vậy là y đã nhìn thấy buồng nào đã đứng lên? Tôi hơi chột dạ,
vội vàng nằm ngay xuống, đắp chăn. Tiếng mở cửa sổ nhỏ của buống số 14. Giọng
tên Dư vang lên, sắc và lạnh:
- Anh đứng lên làm gì?
Một giọng yếu ớt, run
run ngắt quãng:
- Thưa cụ, tôi xin lỗi
cụ, xin cụ tha cho!
Tên Dư quát to, vẻ rất
bực tức:
- Anh ngậm miệng anh
lại! Anh bỏ chân vào cùm ngay!
- Tôi xin nhận lỗi!
Sau, tôi xin hứa không bao giờ tái phạm.
- Tội của anh đang như
tày đình, không biết lo, không dốc một lòng sám hối, thì không còn có ngày về
với vợ, với con! Tôi mà bắt được một lần nữa, vừa cùm, vừa ghi hồ sơ!
Rồi, tiếng cửa nhỏ nghe
đóng đến “xập” một cái như tức bực. Qua sự việc náy, tôi nhận thấy hai điểm:
1. Phương pháp quan sát
của tôi hữu hiệu. Tôi đã đứng lên, nhìn ra sân 2, 3 lần, tên Dư đứng ngay ở sân
rình mà không biết.
2. Kết hợp với một số
lần trước đây, tôi có thể kết luận: – 3 lần trước, ở những tháng trước, khi bắt
được số 8 có lưỡi “lam”, Dư chỉ mắng và tịch thu; số 10 đứng lên nhìn ra ngoài,
và số 1 nói chuyện với số 3, y đều quát, chửi, nạt nộ, rồi cho một màn lên lớp
chứ không cùm.
Ngược lại, hai lần
khác, một lần tên Bằng bắt được buồng số 12 đứng lên, khi bất chợt y từ cổng xà
lim đi vào, y báo cho Dư (là cán bộ đang trực chính xà lim). Hôm sau, tên Dư đã
cùm buồng số 12, mặc cho lạy van xin tha. Một lần, vào buổi tối, mụ Hoa vào
buồng tắm gội, đã bắt gặp buồng số 3 đứng lên. Sáng hôm sau, Dư vào sớm, cùm
buồng số 3.
Tại sao như vậy? Chỉ có
thể giải đáp: tên Dư đã khôn khéo xử thế theo lối “nhất cử, lưỡng tiện”. Chính
y bắt được tù dưới quyền y trực chính, phạm nội quy, y chỉ giáo dục ngăn ngừa,
không cùm. Đối với tù, như vậy y là người có lòng nhân có độ lượng; đối với tổ
chức, với cấp trên, những người tù y coi ít phạm nội quy chứng tỏ được là y có
uy, có khả năng giáo dục nên tù không hề phạm nội quy, phải ngoan ngoãn mọi bề.
Ngược lại, tù để cho cán bộ khác bắt
gặp phạm nội quy dù
nhẹ, y cũng không tha, tỏ rằng cứng rắn, chuyên chính với kẻ thù.
Tóm lại, tôi đã nắm
được ý của tên Dư. Sau đấy, nếu cần hoạt động hay nhấp nhỏm gì, cứ đợi giờ,
ngày lão ấy trực.
Ngay chiều hôm ấy, tôi
gọi chị Bắc đứng lên, để dặn dò một vài quy định cho chắc ăn: khi chị ra sân,
nếu tôi ho một tiếng là ý hỏi có cán bộ đừng rình không; nếu y ngồi ở bàn, chị
ho trả lời một tiếng. Im lặng là có cán bộ rình. Khi tôi đã đứng, tôi chỉ cần
để ý phía cổng sợ bất chợt có cán bộ nào khác ở cổng đi vào. Vậy, nếu cán bộ ở
bàn đứng dậy đi ra sân, chị đưa tay gãi đầu, tôi sẽ hiểu và thụt xuống; hoặc y
đứng lên đi vào phía trong, có nghĩa là y vào rình mở cửa nhỏ, chị cứ ra hiệu
tay vẫy ngồi xuống.
Thực ra, khi một người
ra sân, giữa sân, giữa ánh sáng chang chang ở ngoài trời, mình có đứng lên cũng
chỉ là để nhìn nhau, thỉnh thoảng cười, để cho mắt mình thấy một người bạn đồng
loại; chứ ngày nào cũng nhìn thấy tên áo vàng, tuy cũng là đồng loại nhưng
không phải là bạn, vẫn cảm thấy khô khan, cô đơn nặng trĩu một bên lòng.
Hai hôm sau, chị Bắc
lại được ra quét nữa. Khi chị quét ngang buồng tôi, tự nhiên tôi thấy một gói
giẻ buộc lại, to bằng ngón tay nhỏ, nhét vào khe cửa, nhưng hơi khít, nên nhét
mãi chỉ vào được một nửa. Tôi lẹ tay, cầm lấy rút vào, rồi giúi ngay vào cạp
quần. Một lúc sau, nghe ngóng không có gì, tôi mới mở ra: đó là một miếng giẻ
cũ, to bằng bàn tay. Kèm thêm cái kim chị dắt vào bên trong trả lại tôi. Miếng
giẻ có thêu chữ, kiểu chữ in, bằng chỉ nhuộm máu; máu đã thành màu nâu xám. Nội
dung như sau:
Trang con yêu quý,
Đây là di vật bằng máu
của mẹ. Đời mẹ sắp về với cát bụi.
Chú Bình là đồng chí,
là chiến hữu của mẹ sẽ thuật lại cho con những ngày cuối của đời mẹ, tại xà lim
án chém Hỏa Lò.
Một luồng lạnh từ xương
sống chạy ngược lên gáy, làm hai tay tôi cầm miếng giẻ cũng như run run. Tôi
vừa cảm động trước mối tình mẫu tử thiêng liêng, vừa thương cho một người mẹ
tàn lụi trong khổ đau, và cay đắng.
Tối hôm đó, tôi gọi chị
Bắc. Chị đứng lên, mắt đã đỏ hoe. Như vậy là chị đang khóc thầm một mình. Chị
lấy khăn lau nước mắt rồi viết cho tôi:
- Rồi đây, trong muôn
nẻo cuộc đời, anh hãy cố gắng tìm hỏi, giúp đỡ cháu Trang. Dù tôi có nhắm mắt,
vẫn một lòng tin nơi anh không bỏ cháu Trang. Đấy là giọt máu duy nhất của tôi
còn lại trên cõi đời này.
Thấy chị quá khổ đau,
lại năn nỉ khẩn khoản, tôi đành phải nhận lời cho chị vừa lòng. Chứ trong lòng
mình, tôi tự hiểu, đã rơi vào tay Cộng Sản, ngày về cũng như lá bàng giữa mùa
Đông vậy.
Chị cũng nói lên một
ước nguyện của chị là nếu sau này, Trời Phật thương cho chị không chết, và có
ngày được thả ra, chị nguyện tìm đến ngôi chùa Cao ở Bắc Ninh để thế phát ăn
mày cửa Phật.
Qua ý kiến đó, tôi thấy
chị thật lạc hậu. Lạc hậu ở chỗ chị nhìn và xét về Cộng Sản 5 năm về trước cũng
giống như 5 năm về sau. Chị chưa thấy được rằng, khi mới chiếm được toàn bộ
miền Bắc, chúng còn nhiều việc khác cần phải lo ngay, lo trước đã: đó là quốc
phòng và an ninh. Quốc phòng phải mạnh. Còn an ninh, bất cứ chuyện gì về chính trị,
chúng phải làm ngay; lấy bạo lực của quốc phòng giải quyết tận gốc. Còn các vấn
đề khác, sẽ dần dần. Vững cái này rồi mới nói tới cái kia. Khi được cái kia,
mới hỏi tội cái này, v.v…Về vấn đề tôn giáo, chúng chủ trương sẽ diệt sạch. Nếu
còn phải để tôn giáo, dưới hình thức nào đó, chẳng qua vì những điều kiện khác,
vì cái thế của chúng, vì còn một nửa nước là miền Nam nữa; cho nên, chúng chưa
thể ra tay diệt sạch tôn giáo miền Bắc. Nhưng, vì vấn đề an ninh xã hội, chúng
phải bóp chặt tôn giáo, hoặc sẽ thay đổi nội dung. Bình cũ, rượu mới. Hình thức
tôn giáo vẫn thế, nhưng do người của chúng điều hành. Đừng hòng một cá nhân nào
đó tự tìm đến chùa, tìm nhà thờ, để đi tu theo ý mình. Tuy hiểu như vậy, nhưng
trong tình cảnh này của chị, hãy để chị hy vọng, ước mơ. Thái độ của tôi phải
làm như vậy, trong lòng tôi lại càng dào dạt thương chị hơn. Tôi đã hình dung
thấy con đường chị sẽ phải đi tới. Nếu không chết trong tay chúng, chị cũng bị
đầy đi một công nông trường hẻo lánh nào đó cho tới khi chị tàn lụi gục xuống ở
đấy mà thôi, chứ đừng hòng chúng buông tha.
Mấy ngày hôm sau, tên
Dư lại mở cửa buồng cho chị ra quét nữa, nhưng chị đã mệt quá rồi. Mấy lần
trước, chị cố gắng ra quét, mục đích là để đưa trả cái kim và gửi lá thư máu
cho tôi. Chị ăn uống như vậy, ngay đứng hay ngồi, cũng hoa mày, chóng mặt,
huống chi là quét dọn. Do đó, chẳng hiểu tên Dư cân nhắc, suy nghĩ ra sao, y
lại mở cửa buồng tôi, bảo tôi lấy chổi ra quét. Được ra quét dọn, đối với cảnh
sống ở xà lim, là một… ân huệ. Bất cứ người tù nào cũng muốn ra khỏi căn buồng
chật hẹp của mình. Ra ngoài, vừa thênh thang, vừa có không khí trong lành, chỉ
trừ quá ốm yếu, không kể.
Vì là lần đầu tiên được
quét dọn, tôi tỏ ra hết sức ngoan ngoãn. Trong thực tế, tôi chưa hề vi phạm một
điều khoản nội quy nào của xà lim cả. Dùng chữ thực tế không đúng lắm, phải nói
là y chưa bắt được tôi, hoặc cán bộ khác, cũng vậy. Vã lại, như tôi đã trình
bày, y có một chút thiện cảm với tôi. Tuy nhiên, vì tôi đã có lần toan vượt
ngục, thêm vào đó là ý chí phấn đấu để còn sống của tôi, mà y đã nhiều lần
thấy, cũng làm y “nể” và e ngại. Vì thế, tuy cho tôi ra ngoài làm vệ sinh,
nhưng y vẫn để ý coi chừng và theo dõi.
Người tôi, dạo này
trông đã đỡ hẳn. Những bắp tay, bắp chân của tôi đã có thịt nhum nhúm lên.
Những khi ngồi không buổi tối, tay tôi xoa xoa bóp bóp chỗ bắp thịt, lòng tôi
vui buồn lẫn lộn. Vui mừng vì thấy cơ thể mình có sức hẳn lên, nước da tay chân
đã đỡ xám xanh đi; nhưng, buồn vì máu thịt này là của chị Bắc. Gần hai tháng
nay, trừ những hôm cá biệt do cán bộ khác không kể, còn thì ngày nào cũng có
thêm nửa suất cơm. Tôi có xương thịt ra, trong khi chị Bắc lại càng ngày gầy
đét lại, làm sao lòng tôi yên được. Đã có lần, tôi gọi chị Bắc và vờ nói là kỳ
này tôi hay bị đau bụng lắm; cho nên không thể ăn thêm cơm được nữa. Tôi cũng
nói với tên Dư như vậy. Mục đích của tôi là, nếu tôi không ăn nữa, chị Bắc phải
cố mà ăn hết. Nhưng, sau đó 5 ngày liền, tôi vẫn thấy chị để cơm dư như vậy,
không biết phải làm sao hơn, đành phải xin tên Dư để ăn lại.
Trong lòng tôi vẫn bị dằn
vặt, giữa việc nhìn thấy sức khỏe mỗi ngày mỗi hao mòn của chị Bắc và cái đói
của bản thân mình trước những bát cơm thừa, chắc sẽ đổ đi khi trả về nhà bếp.
Ngày ngày, nhìn tấm thân ốm yếu, tiều tụy của chị Bắc, tâm trạng của tôi như
trong gia đình có người ruột thịt bị bệnh nặng sắp chết vậy.
Dần dà, ngay việc đứng
lên viết, nói chuyện với tôi, chị cũng chỉ chịu đựng được 5, 10 phút là cùng,
rồi lại ngồi xuống. Nhìn chị thiểu não, mỗi khi đứng lên ngồi xuống phải vịn
hai tay vào tường, mái đầu có chòm tóc bạc càng trắng ra đang ngoẹo một bên gục
vào tường, tự dưng một niềm xúc động dào dạt dâng lên trong lòng làm tôi muốn
khóc. Tình đồng chí, nghĩa đồng bào tràn ngập hồn tôi.
Một buổi sáng, sau khi
cơm nước và trả bát xong, tôi đang nằm ngóng chờ tên Dư ra khỏi xà lim, để tôi
gọi chị Bắc nói chuyện, thì lại có tiếng chân y đi vào. Mở cửa buồng tôi, tên
Dư nói nhỏ đủ một mình tôi nghe:
- Anh ra đây, tôi nhờ
một tí!
Tôi vội vàng theo y ra!
Tới buồng số 13, y lại nói cũng với giọng nho nhỏ:
- Anh về buồng, lấy cái
bô của anh, và cái chổi, lấy nước dội, rồi quét sạch từ trên sàn trở xuống hai
buồng số 13 và buồng số 2.
Tôi nhanh nhẹn về buồng
lấy cái bô và chổi vào nhà tắm lấy nước. Vừa mở vòi, tôi vừa suy nghĩ: cũng
may, từ ngày tôi vào xà lim I đến nay đã gần hai năm rồi, tôi vẫn có ý muốn
nhìn hai căn buồng này xem nó ra làm sao, mà chưa có dịp, hôm nay lại được quét
rửa. Điều này, như vậy, cũng nói lên là tên Dư có phần tin tưởng tôi thêm. Có
lẽ y thấy tôi nhiều lần ra quét dọn, chả có tò mò, hoặc vi phạm những điều cấm
kỵ quy định trong xà lim.
Hai buồng này, lúc mới
bước chân vào, điều đầu tiên đập vào mắt tôi là cái màu ghê rợn của toàn bộ căn
buồng: bốn bức tường và cả dưới nên đến trên trần, tất cả đều quét vôi đen, làm
cho toàn bộ căn buồng tối om, đượm đầy không khí tù ngục, thê lương, ảm đạm.
Hai cái cùm nằm hai bên sàn cũng đen ngòm. Trên tường, ngay thẳng đối diện với
cửa ra vào, có treo một tấm bảng gỗ kích thuớc khoảng 80×40, viết bằng sơn
trắng trên nền màu đỏ loét:
“Đây là nơi thực dân
Pháp đã giam hãm,
cùm kẹp, đầy đọa đồng
chí Trần Đăng Ninh”.
Đó là câu ở buống số
13, còn ở buồng số 2 cũng viết như vậy, chỉ thay vào tên khác là “Hoàng Văn
Thụ”. Lúc quét dọn xong, cũng là lúc hết giờ buổi sáng, tôi về buồng. Buổi trưa
hôm đó, tôi loay hoay lấy đầu mũi kim cậy nhiều chỗ trên tường trong buồng
mình, tôi thấy có chỗ tới 8 lớp vôi quét. Như vậy, từ khi xây lên xà lim này đã
được quét vôi ít ra là 8 lần rồi. Trong 8 lớp vôi đó, tôi thấy chỉ có hai lần
màu vàng, và 6 lần màu trắng. Không hề có một lần quét vôi đen nào cả. Như vậy,
rõ ràng lớp vôi đen ở hai buồng số 13 và số 2 là do chúng quét thêm lên, mục
đích lòe bịp với những phái đoàn tham quan là thực dân Pháp dã man, dùng màu
đen để uy hiếp tinh thần người tù, và để cho cảnh ngục tù của thực dân Pháp
thêm rùng rợn, dã man, tàn khốc hơn.
Hôm nay, là ngày tắm.
Khi chị Bắc ra sân phơi quần áo, tôi đứng lên nhìn chị. Tôi giật mình, ngỡ
ngàng, dạ tôi xót xa như vò muối. Hai bàn chân của chị phù, tái nhợt. Hai mi
mắt của chị mọng lên. Bồi hồi và xúc động, tôi phải cúi mặt xuống, không dám
nhìn chị nữa. Mới chỉ bốn, năm ngày không nhìn thấy chị, mà chị đã thay đổi
nhanh đến như vậy! Tôi thấy thuơng chị quá! Lúc này, những người họ hàng thân
thích của chị, những người của Tình Báo miền Nam đã đẩy chị xuống vực thẳm của
cuộc đời, có ai biết là chị sắp chết không? Có ai còn hình dung ra chị đang đếm
từng ngày, đợi chờ giờ về lòng đất trong tăm tối, tủi nhục của một kiếp người
hẩm hiu, bất hạnh không?…
Giờ đây, tôi ngồi viết
lại những giòng này, đã vừa đúng 19 năm rồi. Không hiểu chị Bắc còn sống, đang
chìm nổi nơi đâu, hay chỉ còn là một nắm xuơng khô, vùi nông ở một xó rừng heo
hút nào đó? Còn cháu Trần Ngọc Trang, mảnh giẻ di vật của mẹ cháu, chú vẫn còn
giữ. Mảnh giẻ đó còn máu khô và hơi hướng của mẹ cháu. Lúc này, cháu ở đâu?
Phương trời nào? Còn sống, hay đã như thế nào trong những biến thiên, đổi thay
của cuộc đời, của đất nước? Làm sao, chú thực hiện được lời ký thác của mẹ cháu
bây giờ?…
68.
Bí mật về nữ sĩ Thụy An! Đào Thị Bắc rời Hỏa Lò!
Thấm thoát thời gian lại sắp tới Hè, nhìn những chiếc lá
bàng mới hôm nào, chỉ nhú một một nhúm màu xanh xanh ở những đầu cành, thế mà
giờ đây đã căng tròn màu con gái, ngày ngày đón ánh mặt trời để khoe hương với
gió, để lắc lư, lả lơi với đời. Mấy con sẻ lạc đàn đa tình cứ rúc mãi vào những
chùm lá. Những chiếc cánh nho nhỏ khỏa đập làm những chiếc lá non rung rinh.
Vài sợi tơ trời, bồng bềnh vắt ngang sân xà lim. Lóng lánh màu vàng óng của
nắng, như muốn cuốn buộc, níu kéo nàng Xuân sắp từ giã khung trời này để về một
phương trời khác. Một cơn gió thoảng nhẹ đẩy mùi hương cuối Xuân vào trong
buồng. Tự nhiên ngực tôi cao dần, mũi tôi cong lên, hít sâu mãi vào cho đầy ắp,
cái hương ngầy ngậy của chiều Xuân gần tàn.
Một tiếng động mạnh vào
cánh cổng xà lim làm tôi giật mình. Cánh cổng từ từ mở to, tôi vội vàng ngồi
thụp xuống, lòng hãy còn lâng lâng luyến tiếc bẩu trời cuối Xuân. Những tiếng
bước chân lẹp xẹp đi qua sân xà lim. Bất chợt vang lên một câu: “turn right here”
của một người Việt nói tiếng Anh làm tai tôi vểnh lên nghe ngóng. Không một
tiếng nói nào khác nữa, chỉ có những tiếng bước chân đi dần về phía buồng tôi,
rồi tiếng mở cửa buồng số 10. Buồng 10 ngay cạnh buống tôi. Hẳn phải là người
ngoại quốc! Ngoại quốc mà phải vào xà lim lúc này, chạy đằng trời cũng chỉ là
Mỹ. Tôi yên lặng nghe ngóng. Tôi chỉ nghe được giọng người Việt lúc nãy, cái gì
cũng bằng tiếng Anh, nhưng rất nhỏ, nghe tiếng được, tiếng mất. Không hề nghe
tiếng đáp lại của ai.
Tôi đang đứng đờ người,
vận dụng mọi giác quan để theo dõi, đột nhiên cửa sổ nhỏ buồng tôi bật mở khiến
tôi giật thót người lại. Tên Dư, y trỏ một ngón tay vào ngoay ngoáy, miệng nói:
- Anh dọn hết đồ của
anh lại, chuyển buồng!
Tôi vừa vơ gọn chăn
chiếu và một số thứ lặt vặt, vừa ngẩn ngơ tiếc nuối lo lắng, không biết bây giờ
chúng chuyển tôi đi đâu. Vừa xa chị Bắc, vừa không còn điều kiện để nhìn thấy
người ngoại quốc (chắc cũng vì người ngoại quốc này tôi mới phải chuyển buồng
vào dẫy trong, hoặc xà lim khác?), và một điều to lớn khác… mất nguồn tiếp tế
hàng ngày.
Khi tên Dư mở cửa
buồng, tôi nhìn y như luyến tiếc mà có lẽ tôi có thiện cảm nhất ở Hỏa Lò, bên
phía kẻ thù. Tôi ra khỏi buồng với một tâm trạng bâng khuâng. Lại thấy y mở
buồng số 12! Lòng tôi ngúng nguẩy mừng vui, như vừa đánh mất một món tiền, lại
tìm thấy được. Như vậy, chúng chỉ sợ tôi ở cạnh buồng số 10 thôi. Ở buồng số 12
này, tất cả những điều kiện thuận lợi, tôi tưởng mất, vẫn còn.
Tôi loay hoay quét dọn
lại sạch sẽ căn buồng. Chợt, tôi nhìn thấy trên tường, chỗ gần phía cùm, có mấy
dòng chữ khắc sâu vào tường:
Tại nơi này, tôi đã
dùng đũa chọc, hủy bỏ một con mắt của tôi, để phản đối chế độ Cộng Sản độc tài
phi nhân đàn áp dã man văn nghệ sĩ.
“Thụy An: Lưu Thị Yến”
Tôi mần mò mãi mới đọc
được hết những giòng trên. Phần vì bóng của chiếc cùm làm tối đi; phần khác, vì
lâu ngày đã quét thêm một lớp vôi (cũng may, giòng chữ lúc khắc khá sâu, nên
lớp vôi không lấp hết được). Nhưng, nếu ai vào buồng chỉ đứng nhìn cái cùm, vô
tình sẽ không nhìn thấy giòng chữ viết ở chỗ hơi khuất này.
Tôi lại càng tò mò,
nhìn tìm khắp chung quanh bốn bức tường, cả những chỗ khuất để xem, may ra còn
thấy gì khác nữa không, trong khi óc tôi lần giở lại dòng thời gian xa xưa…Khi
đó, tôi còn ở miền Nam, có lần tôi được đọc trên tờ nhật báo Tự Do, thiên phóng
sự “Bên Kia Bức Màn Sắt” của ông Hoàng Hải Thủy, trong đó có nói đến cuộc đời
tình cảm, cũng như sự nghiệp của nữ sĩ Thụy An. Mối tình của bà có liên quan đến
Hoàng Quốc Việt. Theo ông Hoàng Hải Thủy, Hoàng Quốc Việt là tên điệp viên số
một của miền Bắc. Hiện, y là chủ tịch Tổng Công Đoàn. Y là một trong 5 tên đầu
sỏ. Những ngày lang thang đây đó trên miền Bắc, tôi thường thấy một cái khung 5
tấm hình, được treo mọi nơi: ở những cổng chào, ở những cơ quan khắp các tỉnh
trên miền Bắc. Chính giữa là cáo Hồ, sát hai bên là Trường Chinh và Phạm Văn
Đồng, hai bên ngoài nữa là Võ Nguyên Giáp và Hoàng Quốc Việt.
Như vậy, nữ sĩ Thụy An
đã bị giam ở buồng này. Bây giờ, không biết bà ở đâu? Đã chết hay còn sống ở
trại nào?…Chẳng hiểu sao, tôi cứ hình dung tưởng tượng nữ sĩ Thụy An chắc là
đẹp lắm. (Sau này, khi đi trại trung ương, tôi được gặp nhiều nhân vật trong đó
có Thụy An, Nguyễn Văn Tiến, Tôn Thất Tần, Lý Cà Sa, Nguyễn Chí Thiện, v.v… với
biết bao nhiêu vấn đề. Lúc đó, tôi mới có điều kiện để hiểu cụ thể về nhiều sự
việc).
Chiều hôm ấy, lại thấy
đưa một người ngoại quốc nữa vào buồng số 8. Vì có hai người ngoại quốc, nên
dạo này có nhiều cán bộ ra vào xà lim. Đa số là cán bộ lạ! Qua những ngày trước
đây, tôi đã thấy buồng số 7 giam hai người: một người gầy, cao, chừng 35 tuổi,
nước da bánh mật; còn người kia tầm thước, khoảng 30 tuổi, đặc biệt có hai con
mắt lồi ra ngoài như hai con mắt cá vàng. Anh cao đi cung thường xuyên. Anh mắt
lồi thỉnh thoảng mới đi. Nhưng, đặc biệt, nhiều lần anh cao đi rồi; anh mắt lồi
mới được gọi, và…lại về trước. Vậy, anh cao không thể biết anh mắt lồi có đi
cung, nếu anh này muốn giấu.
Thấy hiện tượng lạ, nên
tôi đặt vấn đề. Đã đặt thành vấn đề, tất nhiên, phải để ý theo dõi, nghe ngóng
với điều kiện có thể được của tôi. Đã hai lần, khi anh cao đi cung rồi, tên Dư
mở cửa buồng số 7 gọi anh mắt lồi ra. Chừng nửa giờ sau, tôi thấy anh mắt lồi
ôm một vốc vỏ chuối, lá bánh và giấy báo vụn ra ngoài phía cổng xà lim, một lúc
sau mới trở vào. Từ đó, tôi đã có thể tạm kết luận: tù ra khỏi cổng xà lim phải
có cán bộ đi theo; ở đây, hắn đi một mình. Qua việc này, tôi lại hiểu thêm là,
chỗ bàn trực của tên Dư có một cái tủ nhỏ, không chỉ để đựng giấy tờ, hồ sơ, mà
còn là chỗ để thức ăn, bánh trái. Đã biết về tên mắt lồi như vậy, nên tôi không
bao giờ lên tiếng nói chuyện với các buồng khác. Nhất là đối với những người
ngoại quốc mới vào. Nhưng, vì tính tò mò, tôi cũng quyết sẽ gọi thử hai buồng
10 và 8 khi nào điều kiện cho phép để tôi nói chuyện, may ra biết được tí chút,
dù tiếng Anh của tôi chỉ thuộc loại cóc kêu.
Hai ngày sau, khoảng
nửa đêm, tôi đang ngủ bỗng giật mình, nghe như có tiếng gấu kêu ở trong rừng.
Tôi mở mắt, bò dậy, vểnh tai nghe. Thì ra, tiếng buồng số 10… khóc! Phải nói,
đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy tiếng một người đàn ông Mỹ khóc. Nghe ồng ộc,
hô hố, rất lạ tai. Mới thoáng nghe, tiếng khóc y hệt tiếng người Da Đỏ hát ở
trên… màn ảnh mà tôi vẫn thường coi trước đây. Mãi một lúc sau, vì có tiếng nấc
và tiếng xụt xịt tôi mới biết đó là tiếng khóc. Sau đó, bỗng một tiếng khóc
khác lại ư ử rúc lên ở buồng số 8. Có lẽ vì nghe thấy buồng 10 khóc, vì đồng
cảnh, lại là đồng bào, nên cũng chạnh lòng dào dạt nguồn cơn…
Tôi hiểu, hai anh ở Mỹ
sướng quen rồi, bây giờ phải ở cảnh này. Đìu hiu, tịch mịch, hoang vắng như
nghĩa địa tha ma suốt đêm ngày, bảo sao không buồn. Đấy là các anh không bị
cùm, nếu cùm như chúng tôi, chắc các anh chả chịu nổi đâu.
Tôi đã biết chắc các
anh là phi công Mỹ. Vì sáng hôm qua, khi gọi buồng số 10 đi cung, tôi đã liều
đứng lên quan sát theo kiểu của tôi. Tôi đã thấy một anh mặc bộ đồ sọc màu đỏ
sậm như của tôi. Vì cao lêu nghêu nên đầu của anh gần sát xà trên, của cổng xà
lim. Anh đang nói và chỉ trỏ ra sân trại chung với tên cán bộ lạ mặc quần áo
thường dân. Anh số 10 có bộ mặt dữ tướng. Bộ râu quai nón như chổi xể càng làm
cho đôi mắt anh xanh thêm. Người trông như vậy, mặt như thế mà lại… khóc. Dù
trong lòng rất thông cảm và tội nghiệp cho anh, nhưng cứ tưởng tượng ra nét mặt
anh khi khóc, tôi cũng phải mỉm cười một mình.
Tôi cũng đã thấy mỗi
ngày hai lần, một tên cán bộ dẫn một anh tù hình sự bê hai tay hai cái đĩa to,
trên mỗi đĩa thường có khúc bánh mì, một quả chuối và một miếng thịt to bằng ba
đốt ngón tay. Nhìn khẩu phần ăn của phi công Mỹ, tôi đã phải đăm chiêu suy
nghĩ. Đời là thế! Con nhà giầu bao giờ cũng hơn. Người dân của nước lớn, dù thế
nào chăng nữa, dù ai có hô bình đẳng dân chủ đến rách mép, vẫn cứ hơn người dân
một nước nhỏ.
Rất nhiều vấn đề, trên
cõi đời này, nói là một việc, nhưng trong thực tế lại là một việc khác, hoàn
toàn không giống nhau. Nhưng, đã bảo “đời là thế”, thì còn nghĩ suy làm quái gì
cho mệt óc. Thôi, hãy trở về với xà lim.
Bởi ánh nắng, những
chiếc lá bàng thời kỳ con gái từ màu lá chuối non, nay đã đổi thành màu xanh
thẫm. Những chùm hoa nho nhỏ đã bắt đầu xuất hiện. Hàng ngày, những trận nồm
Nam thổi bay rắc tứ tung đầy sân những cánh hoa bàng vàng hoe bé tí. Thật cũng
lạ, cây bàng to như vậy, mà bông lại bé tí teo! Cứ hai ngày, tên Dư lại mở cửa
buống cho tôi ra quét sân một lần. Chỉ quét hoa bàng mà mỗi lần cũng hốt được
cả thúng. Nhiều lúc tay tôi vốc từng vốc hoa vàng ngạt ngào hương sắc bỏ vào
sọt, tôi tưởng tượng nếu không phải là tù, được sống trong cảnh này thôi, cũng
tuyệt rồi! Những khi quét sân, thỉnh thoảng lúc tên Dư cúi xuống bàn hí hoáy
viết, tôi lại liếc nhẹ về phía buồng số 10, mong anh phi công đứng lên để nhìn
một cái cho đời đỡ tê. Tôi liếc hoài, mà khung cửa sổ của anh vẫn là màn ảnh
trống trơn mãi chả thấy nổi hình.
Tôi biết anh nhớ quê
hương, nhớ gia đình, anh buồn nhiều lắm. Nhưng, suốt ngày cứ ngồi gục trong căn
buồng nhỏ đó để mà suy nghĩ, anh cũng chẳng giải quyết được gì hơn. Hãy thỉnh
thoảng đứng lên, ngắm thiên nhiên, thả hồn bay bổng với trời mây, hoa lá…Anh
bạn chiến hữu ơi! Tôi cũng hiểu, trước khi tụi chúng đưa anh vào xà lim, chúng
cũng bắt các anh học thuộc nội quy xà lim rồi. Nhưng, học là một chuyện, vì đấy
là ý của chúng. Chúng ta vẫn còn phải có ý của chúng ta nữa chứ!
Mấy hôm trước, hai đêm
liền máy bay Mỹ xâm nhập bầu trời Hà Nội. Tôi đã được thưởng thức nhiều trận mà
tôi gọi là hội hoa đăng. Tôi dám bảo đảm từ xưa đến giờ, chưa có ai tổ chức
được một đêm hoa đăng sinh động và vĩ đại như vậy.
Tối nay, tôi đi ngủ sớm
để đến đêm, nếu có mở hội, tôi còn thức mà tham gia. Chợt, nghe tiếng cán bộ
vào mở cửa buồng số 6: buồng của chị Bắc. Tôi vội cúi xuống sát nền, nhìn qua
khẽ cửa, thấy chỉ có một cán bộ. Nhìn đôi dép râu, tôi chưa thể phán đoán được
là tên cán bộ nào thì chị Bắc đã đi ra. Tôi hồi hộp và thấy lòng bâng khuâng,
vì chị Bắc ôm hết chăn màn đi. Như vậy, là chuyển buồng? Chuyển xà lim? Hay
chuyển trại?…
Khi hai người ra tới
sân xà lim, tôi lắng nghe và tính qua tiếng bước chân, khi ra gần tới cổng xà
lim, tôi mới dám đứng dậy. Lúc này, nếu tên cán bộ nó quay hẳn người lại, y mới
nhìn thấy tôi. Nhưng nếu muốn quay như vậy, qua những động tác của cơ thể trước
khi xoay người, tôi có thể biết trước được. Hơn nữa,
quay hẳn người lại 180
độ như vậy nhanh nhất cũng phải 1 phần 10 giây, thời gian này cũng đủ để tôi
thụp người ngồi xuống. Chẳng ai xa lạ, chính là tên Thế “mũi cà chua”. Thảo
nào, y vào lúc nào tôi cũng không hay, tên này quái lắm!
Nhìn hình ảnh chị Bắc
mặc chiếc áo cánh nâu, đầu đội chiếc khăn vuông mầu xanh nhạt, hai tay túm ôm
bọc chăn màn khệ nệ, ì ạch, tập tễnh bước ra khỏi cổng xà lim, lòng tôi bồi
hồi, xót xa thương cảm. Như vậy là chị Bắc đã chuyển khỏi xà lim này rồi! Chúng
sẽ đưa chị đi đâu? Qua xà lim khác của Hỏa Lò? Hay đi trại trung ương?… Đó,
cũng là hình ảnh cuối cùng của chị Bắc mà tôi nhìn thấy; để rồi, không còn bao
giờ, dù nghe một ai nói về chị.
Lúc bấy giờ, trời đã
bắt đầu vào Hè, năm 1966; và như vậy, chị Bắc đã ở xà lim I này được 6 tháng.
Hai anh phi công Mỹ,
càng về sau càng khóc nhiều, cứ vào lúc đêm khuya. Có nhiều đêm, tiếng khóc của
hai anh cũng làm tôi chạnh lòng nhớ nhà. Khiến tôi cũng bị lôi cuốn vào vòng
bồi hồi thổn thức. Tôi không muốn nghe hai anh khóc nữa. Tôi vẫn còn những nóng
nảy, bực bội của tuổi trẻ, nên đã không dằn được, tôi quát lên:
- Don‘t cry anymore!
Cả hai anh đều im bặt
tiếng khóc, có lẽ các anh tưởng tên cán bộ nào quát! Quát các anh xong, các anh
im lặng, tôi lại thấy buồn cười, xen lẫn một chút ân hận. Các anh có biết
không, tôi rất thích nói chuyện với các anh. Dù sao, cuộc đời của các anh và
tôi đã có một khoảng thời gian cùng thở hít một bầu không khí của Hỏa Lò mà các
anh vẫn gọi là “Khách sạn Hilton” đó! Cùng chung một kỷ niệm, chúng ta dễ trở
thành bạn lắm chứ, phải không các chiến hữu? Sở dĩ, tôi phải nghĩ và nói với
các anh nhiều, bởi vì, trong đáy lòng tôi, tôi vẫn ngưỡng mộ và biết ơn các anh
đã chiến đấu cho quê hương tôi, một đất nước mà người dân quá khổ cực, lầm than
này.
Thật là nhanh, mới hơn
một tuần lễ, từ những chùm lá bàng sum suê đã nhú ra những cụm quả xanh bé tí;
chỉ vài ngày không nhìn, lúc xem lại, đã thấy quả to gần gấp đôi rồi. Thậm chí,
tôi có cảm tưởng là tôi nhìn thấy những quả bàng lớn dần từng giờ, to dần theo
sức nóng của mùa Hè.
Hè năm nay cũng thật
lạ, chẳng thấy chú ve sầu kêu? Chẳng biết các chú đi đâu, hay năm nay đặc biệt
ngủ muộn! À, phải rồi, có lẽ những tiếng đạn rơi, bom nổ như rung chuyển trời
đất của loài người đã làm cho các chú giận, hay sợ, bỏ đi nơi khác, để ngủ yên
một giấc dài Đông Xuân chăng? Chứ làm sao giải đáp được là, năm nay tôi chả
nghe thấy những tiếng vi vu rền rĩ của bản
nhạc cộng đồng vĩ đại
của dân tộc các chú tấu lên: “điệu nhạc trưa Hè” hàng năm!
Chỉ khoảng mười ngày
sau, cả hai anh phi công Mỹ đã được ra trại chung. Rất tiếc, tôi chưa tìm được
dịp nào hỏi chuyện các anh. Tôi chỉ đoán, việc các anh phải vào xà lim có thể
là vì khi ở ngoài trại chung, các anh quen tính ngang tàng của người hùng,
trong thế giới tự do mà tôi vẫn nhìn thấy trên các phim ảnh, nên đã tỏ chí khí
quật cường bất khuất với tụi Cộng Sản. Nhưng, các bạn cũng như tôi, chỉ biết
chuẩn bị đương đầu với dao búa, súng đạn mà đã không biết và không ngờ, là kẻ
thù của chúng ta lại khốn nạn và ti tiện túm ngay cái huyệt của con người để
chi phối. Đó là cái dạ dày của chúng ta! Chúng hèn thật, nhưng cũng phải công
nhận một điều là cái hèn đó của chúng đã từng làm cho những quái kiệt anh hùng,
ba đầu sáu tay, đã từng ăn gan Cộng Sản phải chịu phép một bề; hoàn toàn ngoan
ngoãn theo sự chỉ huy của chúng!
Hai anh phi công Mỹ ở
buồng số 10 và số 8 ra trại chung vào buổi sáng, thì ngay buổi chiều hôm ấy,
tôi nghe có những tiếng léo nhéo báo cáo. Qua đó, tôi biết được là chúng đưa
vào buồng số 9 hai …cô gái.
Từ ngày chị Bắc đi, tôi
cũng thấy buồn. Vừa vắng một người bạn đồng chí, đồng nghiệp, vừa mất một nguồn
“chi viện” quan trọng cho cuộc sống hàng ngày. Cái bụng đã quen được hưởng thêm
tiêu chuẩn, bây giờ phải trở về mức cũ một cách đột ngột, cái mức chỉ đáp ứng
được 1/3 số lượng dạ dày mong muốn hàng bữa. Vì vậy, ít ngày sau, tôi phải bắt
buộc áp dụng lại cái phương pháp…nhịn buổi sáng, để dành buổi chiều ăn hai khẩu
phần vào một, và chỉ hai ngày thứ Ba và thứ Sáu mỗi tuần. Vì mải lo cho cái ăn,
nên có một số người vào, tôi chả đôn đáo nép chỗ này, ngó chỗ kia để tò mò tìm
hiểu về người mới tới như mọi khi.
Chiều hôm nay, sau khi
các buồng đã trả bát xong, tự nhiên tên Dư vào mở cửa buồng tôi. Vẫn bằng giọng
nói nho nhỏ, nhưng hôm nay có vẻ tình cảm hơn:
- Anh đi ra bàn tôi
gặp!
Khi tôi đã ngồi ghế đâu
đấy, y tỏ vẻ thân mật:
- Ngày mai, tôi nghỉ
phép hàng năm, sẽ có cán bộ khác đến thay. Vậy, anh phải nhớ lời tôi: trong
thời gian tôi không có mặt ở xà lim, anh đừng để cho cán bộ nào bắt được anh vi
phạm nội quy. Nếu tôi về, nghe các đồng chí phản ảnh, anh đừng trách tôi!
Qua câu dặn dò ân cần
của y, tôi thấy y cũng thừa hiểu “típ” người như tôi hay tò mò, sục sạo; chỉ có
điều y chưa bắt được tôi tại trận, hoặc là y biết nhưng lờ đi, không muốn bắt.
Nhưng dù thế nào, tôi cũng không thể phủ nhận là y có thiện cảm với tôi. Thực
vậy, theo nguyên tắc, chả có một tên cán bộ nào lại gọi tù trong xà lim ra bảo
mình sắp đi phép cả, lại còn dặn dò điều này, điều nọ. Nghĩ như vậy, nên tôi
cũng tươi nét mặt:
- Ông về phép ở đâu?
- Về quê.
- Quê ông ở đâu ạ?
- Hà Nam.
- Ông cho tôi gửi lời
thăm hỏi và chào mừng gia đình!
Y có vẻ xúc động, đầu
chóp mũi y đỏ lên rồi rung rung, mắt y nhìn tôi đăm đăm và gật gật đầu. Thấy
thời cơ thuận lợi, tôi hỏi luôn một vấn đề thắc mắc trong lòng mà chưa có dịp:
- Thưa ông, hôm nọ có
một ông đi với ông Trì và ông Lê vào buồng thăm tôi, ông biết là ai không?
Y hơi ngập ngừng, nhìn
tôi một lúc, rồi nói chậm rãi:
- Ông Nguyễn Văn Long,
giám đốc sở Công An Hà Hội.
À , ra thế! Thảo nào
hai tên Trì và Lê nể sợ là phải. Tên Long này còn là đại tá, thường vụ Thành Ủy
Thủ Đô của cả nước xã hội chủ nghĩa này nữa đấy. Trên đài truyền thanh Hà Nội,
tôi vẫn thường xuyên nghe nói nhiều về y.
Sau khi trả lời tôi câu
này, hình như tên Dư cảm thấy rằng y đã nói hơi nhiều; mà lại nói cả những điều
không được phép nói; vì vậy y tỏ ý bảo tôi vào…
69.
Những hành động bẩn thỉu của bọn quản giáo với nữ tù
Sáng hôm sau, tên cán bộ trực xà lim thay Dư, không ai xa
lạ, chính là tên Thế “mũi cà chua”! Ngay từ trận thử lửa trong ngày đầu tiên
tôi bước chân vào Hỏa Lò, giữa tôi với y cách đây đúng 4 năm về trước; cho tới
bây giờ, bất cứ lúc nào gặp nhau, tôi và y vẫn bốn mắt gườm gườm. Tôi rất hận
y, nhưng không thể làm gì được. Còn y, là một tên rất nhỏ nhen, vặt vãnh, vẫn
sẵn lòng thù ghét tôi, nên hễ có dịp là y hành tôi đến nơi , đến chốn. Dù sao
tôi chì là một tên tù, nên vẫn cúi mặt làm theo ý y, nhưng ruột gan tôi hẳn
phải tím bầm lại. Vậy mà, bây giờ nó lại trực xà lim nữa. Do đó, với tên hung
thần luôn nghĩ cách “trù ếm” tôi này, tôi quyết định, trong thời gian này, tôi
phải nằm im nghỉ ngơi.
Khi y mở tới cửa buồng
tôi, ôm bô đi vào nhà tắm mà tôi biết là cặp mắt ti hí đang đăm đăm nhìn tôi
soi mói, như mắt của con rắn nhìn con ếch vậy. Nhưng, cái thế của một tên tù,
tôi phải lờ đi coi như không biết.
Sau khi cho tù ăn cơm
nước xong, y vào mở cửa cho hai cô buồng số 9 ra sân chơi! Hai cô này, mới vào
xà lim được ba, bốn ngày, mà tên Thế lại mở cửa cho ra sân chơi? Điều này làm
cho tôi tò mò, muốn nhìn xem hai cô là loại người nào. Tuy nhiên, cũng biết tên
Thế này rất quái quỷ. Y cũng chỉ hơn tôi 1, 2 tuổi thôi; nhưng, nhìn đôi mắt
lươn của y, tôi biết y quả thực không vừa. Tôi cũng hiểu điều làm y thích nhất,
là bắt được tôi phạm nội quy. Vì thế, tôi lại càng phải cẩn thận. Không hiểu
sao, tự trong lòng tôi, tôi lại thấy ham, muốn tranh đấu, thủ đoạn với tên Thế
này, một tên quái nhất trong những tên quản giáo ở Hỏa Lò Hà Nội.
Tôi đang băn khoăn nghĩ
ngợi, tính cách làm sao để đứng lên nhìn hai cô buồng số 9 đang ở ngoài sân;
chợt giật mình vì tiếng quát của tên Thế:
- Anh kia, đứng lên làm
gì đấy?
Biết ngay mà, tôi tự
nhủ, thế nào y chẳng rình! Tiếng chân rầm rập đi vội vào buồng số 10. Buồng 10
cũng mới vào được hai ngày sau khi anh phi công Mỹ ra trại chung, vậy mà đã bị
bắt phạm nội quy. Thật xui xẻo! Tiếng cùm rút nghe đến “xoạch”, không hề có một
tiếng hỏi, chỉ có giọng tên Thế khô đanh:
- Bỏ chân vào!
Thời cơ đẹp, lúc này
chính là lúc an toàn nhất, nhanh như một con cắt, tôi đứng ngay lên sàn, nhìn
ra sân.
Trời! Tôi cũng phải
bàng hoàng giật mình. Một phụ nữ chừng 25, 26 tuổi, dáng cao, gầy đang cúi đầu
đi đi, lại lại phía sát tường ngăn sân trại chung xà lim. Còn cô kia, chừng 21,
22 tuổi, đẹp như một nàng tiên trên trần, hai tay chắp ngược lên phía sau gáy,
đang nhịp nhàng xoay một điệu Valse lả lơi, nhún nhẩy của một khúc nghê thường!
Tôi như đờ người ra và
ngỡ ngàng vì không thể ngờ nổi. Bốn năm trước đây, hơn một tháng trời lang
thang khắp phố phường Hà Nội, tôi chẳng thấy một người đẹp nào cả. Vậy mà,
trong lúc này, ở ngay trong xà lim, tại sao lại có một giai nhân tuyệt thế như
vậy! Thảo nào mà tên Thế đã vội vàng cho hai người ra sân. Và, buồng số 10 mới
vào xà lim đã bị cùm.
Tôi mải mê suy nghĩ,
mắt vẫn đăm đăm nhìn tấm thân ngà ngọc đang nhịp nhàng, uyển chuyển dưới ánh
nắng vàng. Đôi tay trần chắp sau gáy như muốn khoe với thế nhân, đây là tuyệt
tác của hóa công. Làn tóc mây, óng lên màu nắng, phất phơ buông thả phủ nửa
kín, nửa hở đôi vai trần.
Hình như cô ấy cảm thấy
có một tia lửa điện vô hình đang chà, xát chiếu thẳng vào khắp người cô, nên
đột nhiên, cô ngửng đầu lên nhìn về phía cửa sổ buồng tôi. Thấy bóng người lờ
mờ sau khung cửa sổ, cô dúm người như một phản xạ tự nhiên, khuỵu xuống, hét
lên một tiếng thất thanh, rồi nhào thụt vào sát phía chân tường, dưới cửa sổ,
khuất tầm mắt tôi. Cô lớn quay lại, nhớn nhác, hỏi giật giọng:
- Cái gì? Cái gì vậy?
Không có tiếng cô bé
trả lời. Lúc đó, tôi đã ngồi thụt người xuống. Từ phía trong, tên Thế đã cùm
xong số 10 và chạy vội ra sân, quát hỏi:
- Cái gì thế!
Tim tôi như thắt lại,
hồi hộp chờ câu trả lời của cô bé. Im lặng một lúc. Rồi một tiếng cộc lốc:
- Không!
Người đẹp có khác, tù
mà dám trả lời với quản giáo như thế! Vậy mà cũng không nghe tiếng hạch sách
gì. Phần tôi, ở trong buồng, tôi cũng thở ra một hơi dài như vừa trút được một
mối ưu lo.
Chiều hôm ấy, sau khi
các buồng đã cơm nước xong xuôi và các cửa cũng khóa rồi. Lúc này, mới độ 4 giờ
chiều, còn một giờ nữa mới hết giờ hành chính, (cách gọi của Cộng Sản là hết
giờ làm việc, hay giờ “tan tầm”). Với thính giác bén nhậy của mình, rõ ràng tôi
nghe có tiếng chân sền sệt, nhè nhẹ đi vào. Vội vàng ghé mắt sát xuống nền, tôi
nhìn qua khe cửa. Chà! Một đôi bàn chân không dép đang rón rén đi vào phía
trong, phía buồng số 9. Tôi vểnh tai, lắng chờ nghe tiếng mở cửa. Nhưng, tuyệt
nhiên không hề có một âm thanh hay tiếng động nào khác, ngoài thỉnh thoảng có
tiếng động kéo bô, tiếng nước giải tồ tồ, róc rách, hòa lẫn với những tiếng
rên, tiếng thở dài của các buồng chung quanh…
Như vậy, tên Thế vào
trong đó để làm gì? Nếu muốn rình bắt các buồng nói chuyện, y ngồi ngay ngoài
buồng trực cũng đủ biết. Hơn nữa, ở Hỏa Lò 4 năm nay, lần đầu tiên tôi mới thấy
hiện tượng tụt dép, rón rén kiểu này. Vậy, đây là một hành động mờ ám. Do đó,
chỉ có hai vấn đề: một, y lén vào buồng số 9, mà lúc nãy y đã không đóng cửa
buồng này, nên tôi không nghe tiếng mở cửa. Hai, y đã làm một việc bẩn thỉu là
nhìn qua khe cửa, để theo dõi những sinh hoạt riêng của phụ nữ.
Trường hợp một, khó có
thể xảy ra, vì buồng số 9 có những hai người, đâu có thể làm như thế được. Vậy,
chỉ còn trường hợp hai. Qua vấn đề này, tôi thấy tên Thế cũng chờn các buồng
khác để ý, biết được việc làm mờ ám của y. Nhưng nói chung, những người phải
vào xà lim, ai cũng chết cả cõi lòng về tội lỗi, về cuộc đời, để ý làm quái gì
những việc chung quanh. Do đó, số người tò mò chỉ là số ít. Tò mò mà tinh ranh,
y mới ngán. Qua những cái nhìn và thái độ của y, tôi biết tên Thế cũng kỵ tôi
lắm. Tôi tự nói một mình: “được, những ngày tới, tao sẽ biết rõ về mày!”.
Hôm sau là ngày tắm
giặt. Tới buồng tôi ra sân phơi quần áo. Tôi giặt và phơi đôi “bí tất” vĩ đại
của mình, trông chúng như đôi hia, vá chằng vá đụp bao nhiêu màu vải. Cả hai cô
buồng số 9 đều đứng lên nhìn tôi. Biết tên Thế đang đứng chỗ bàn trực rình, nên
tôi không làm một cử chỉ khác lạ nào, chỉ hơi mỉm cười đáp lại buồng số 9.
Chắc hẳn các cô đang
dán mắt vào đôi “bí tất” quái dị của tôi phơi trên dây, và ngạc nhiên thắc mắc
không thể hiểu được là tại sao một người tù, không có quần áo riêng khác mấy bộ
đồ tù, mà lại có một đôi “bí tất” vĩ đại như vậy? Đôi “bí tất” này muốn khô, dù
được nắng, phải hai ba ngày. Chúng dày đến gần một phân ấy!
Chiều hôm đó, khi buồng
số 9 ra sân lấy quần áo phơi, buồng số 14 lại có người nữa bị cùm! Hai cô số 9
mới vào xà lim chưa được một tuần, đã hai người bị cùm rồi. Đàn bà, nhất lại là
đàn bà đẹp, đáng sợ thật! Ôi! Từ xưa tới nay đã làm khóc mếu bao vị anh hùng!
Thậm chí tan xương, nát thịt cũng vì giai nhân!
Hai cô buồng số 9,
không biết là loại người gì và bị bắt vì tội chi? Nếu không sợ buồng số 7 (nằm
vùng) và tên Thế tinh quái, tôi có thể tìm cách hỏi chuyện để biết được.
Tên Thế chó chết này,
không những cứ cuối giờ đi chân không vào trong phía buồng số 9; lại còn, cả
trong giờ trực tối của cán bộ khác, y cũng vào xà lim. Có khi y vào nhà tắm đi
cầu, rồi lại vờ ra cổng xà lim đóng cửa nghe “thình” một cái, xong lẳng lặng rút
dép ra cầm tay, rón rén đi trở vào phía buồng số 9. Thái độ của y nhớn nhác,
lấm lét, quả “cà chua” chín ở giữa mặt y dạo này hình như càng to ra và không
còn mọng như 4 năm trước; trái lại, bắt đầu sần sùi dưới cặp mắt lươn nhấp
nháy, và đôi mắt dầy xám ngoét như hai miếng thịt trâu xào với rau muống. Trông
y thật buồn cho con mắt. Ấy thế mà xem ý ra, hai cô số 9 lại…chịu đấy!? Thế mới
biết, hai thứ tiền và quyền mãnh lực cũng ghê gớm thật!?
Có nhiều buổi tối, tôi
đã nghe thấy những tiếng thì thầm; và thậm chí, hai cô còn được mang thau vào
nhà tắm nữa. Tôi biết, hai cô đã lợi dụng tên Thế, để vào nhà tắm làm vệ sinh
phụ nữ, tắm rửa, hoặc lấy nước vào buồng. Hai cô có hai cái thau men rất đẹp.
Mùa đã vào Hè, trời
ngày, càng nóng, nhất là ở xà lim. Tôi cởi trần mặc quần đùi, mồi hôi vẫn nhớp
nháp khó chịu. Vì vậy, thường khoảng 9 giờ tối, trước khi đóng bộ đi ngủ, bao
giờ tôi cũng phải …”tắm” một cái cho hết mồ hôi. Đã có kinh nghiệm nhiều, cho
nên, khi trả bát buổi chiều, cầm gáo dừa đển thùng nước, tôi uống no ngay tại
chỗ. Rồi múc một gáo, để cẩn thận trong một góc sàn. Tới 9 giờ, đợi và nghe
ngóng không có tên cán bộ nào lai vãng, ra vào, tôi tụt quần ra …”tắm”. Với một
gáo nước (để uống) và một miếng giẻ (thay khăn mặt), tôi “gội” ướt cả đầu, và
lau suốt cả người. “Tắm” xong, cũng cảm thấy người mát mẻ, nhẹ nhàng dễ chịu
hơn, và khoan khoái “đóng bộ” đi ngủ.
Ở xà lim lâu, tôi đã
biết là khi hết giờ hành chính, không bao giờ tù lại được mở cửa cho ra ngoài,
trừ trường hợp đặc biệt, có lệnh của Ban Giám Thị. Ở đây, cả hai cô buồng số 6
đều được ra vào. Nhưng có điều, tuy đi ra, đi vào giữa bàn trực với trong
buồng, tên Thế và hai cô đểu phải đi chân đất, như vậy, là họ cố ý giấu không
cho các buồng biết. Cao hơn nữa, các cô có thể nhờ tên Thế ra phố liên lạc với
gia đình, hoặc mua bán những thứ cần thiết. Điều này là rất nghiêm trọng đối
với một bị can còn đang trong thời gian khai thác, kể cả về chính trị hay hình
sự. Sau khi tên “nằm vùng” số 7 chuyển đi rồi, tên Thế càng ngày càng ngang
nhiên hơn; hầu như không tối nào không có mặt y, thì thầm to nhỏ ở trong buồng
số 9. Mới đầu, tôi tưởng các cô là nhân vật này, nhân vật kia thế nào đó, tôi
mới quan tâm, muốn tìm hiểu. Bây giờ, thấy các cô như thế, tôi cũng chả muốn để
ý làm gì.
Còn tên Thế, tuy giữa
cá nhân với cá nhân, tôi không ưa nó; nhưng, trong việc này, về khía cạnh khác,
y là loại người xấu của xã hội (bất cứ một tổ chức, hay một nhà nước nào đứng
đắn cũng không bao giờ dùng những loại cán bộ như tên Thế). Nhưng, riêng trong
trường hợp này đối với tôi y lại rất…”tốt”. Tôi mong y tiến tới nữa; và, nếu có
điều kiện, tôi còn “ủng hộ” hoặc che giấu cho y.
Vậy mà y chả hiểu cho
lòng tôi ủng hộ y. Ngay buổi sáng hôm sau, y xuống trại thợ gọi anh thợ cắt tóc
lên xà lim. Y mở cửa từng buồng, bắt ra cắt tóc. “Tông đơ” điện, giũi một cái
đầu chỉ 2 phút, kể cả râu. Tôi để ý, những buồng khác tên Thế thường để tên tù
“thợ” cắt theo kiểu cũ, chỉ có cắt cao lên thôi. Riêng đến lượt tôi, chẳng biết
nghĩ thế nào, y lại bảo anh thợ cắt tóc hãy giũi trọc đầu tôi. Tôi phản đối, y
cười đểu nói:
- Mùa hè, cho nó mát!
Tên thợ húi tóc phải
theo lệnh, nên sau một lúc, tôi sờ tay lên đầu, như đầu sư cụ! Thật là giận tím
ruột, bầm gan! Có thể tên Thế cũng biết tôi tù đã lâu và bây giờ không còn đi
cung nữa, cho nên y mới dám làm như vậy.
Về buồng, tôi soi mặt
vào “gương”, gáo đựng nước và bô khi có nước giải là hai cái “gương” của xà
lim, trông mặt thật là ngáo! Thằng chó chết, thật hèn hạ, ỷ có quyền nên hành
tôi những điều vặt vãnh.
Một buổi, các cô buồng
số 9 ra sân chơi; trong buồng tôi cũng đang đi bách bộ. Tôi cứ đếm vừa đúng 8
bước là một vòng trong cái khung giữa hai sàn. Đầu óc thì vẩn vơ chơi vơi,
thỉnh thoảng lại đưa mắt ra nhìn lên cây bàng.
Có nhìn cây bàng mới
thấy thời gian đi vùn vụt. Những trái bàng, từng chùm, từng chùm thật đẫy đà
lốm đốm những quả chín vàng hoe. Sân xà lim cũng đã lác đác những quả bàng chín
lìa cành về với cội. Hết giai đoạn thở hít mùi hoa bàng, lại đếm thời gian ngụp
lặn trong hương bàng chín. Chân tôi vẫn bước đều, óc tôi vẫn chảy dài về đâu
đâu, đột nhiên, tôi thấy từ cái lỗ ở dưới nền chỗ sát chân tường, thông nước ra
cái rãnh phía bên ngoài sân xà lim, có mấy quả bàng chín được đẩy vào buồng
tôi. Ngồi thụp xuống, tôi chộp lấy cái que chổi thanh hao đang từ ngoài thọc
vào. Bên ngoài, kéo ra, trong này tôi kéo mạnh vào. Tôi nghe bên ngoài hai cô
cười rúc rích. Thì ra hai cô buồng số 9 nghịch ngợm, muốn phá tôi cho đỡ buồn.
Lúc trở vào, hai ngang qua buồng tôi, các cô đã “dám” liều lĩnh gõ “cạch ,
cạch” hai tiếng vào cánh cửa buồng tôi. Chỉ có một người gõ cửa, không biết cô
nào đây?
Sáng hôm sau, người mở
các buồng lại là tên Dư. Y đã về! Khi y mở tới buồng tôi, tôi thật mừng rỡ, nói
nhỏ đủ y nghe:
- Ông mới về?
Chỉ là một câu hỏi đơn
giản như vậy, nhưng đã thể hiện tràn ngập nỗi hân hoan. Y gật gật đầu, mồm
nhếch một nụ cười, mắt cứ nhìn lên đầu tôi.
Lúc tôi ở nhà tắm đổ bô
về, từ bàn trực, tên Dư đứng dậy, đi vào hẳn trong buồng tôi. Đặt một tấm mía
và một chiếc bánh nếp lên chiêc chiếu của tôi, y nói nhỏ, giọng tình cảm:
- Quà nhà quê đấy!
Của cho không bằng cách
cho. Tôi thật cảm động. Tôi cũng không hiểu từ nguyên nhân nào, y lại đối xử
với tôi như vậy. Có lẽ, một phần do y trông coi tôi đã lâu ngày, thấy được ít
nhiều tính nết của tôi, nên y mới dám làm vậy. Nếu tôi thiếu ý thức, khi gặp
chấp pháp, hay quản giáo khác khoe, kể lại chuyện quà cáp này, y sẽ bị kiểm
điểm nặng. Nhưng với tôi, vì người ân, mình phải có ý thức, thà chết đừng hòng
tôi kể lại những chuyện như vậy.
Tên Dư chỉ tay lên đầu
tôi giọng thân mật:
- Đầu anh làm sao lại
cắt trọc như vậy?
Chẳng muốn tình tiết
làm gì, nên tôi trả lời cho qua:
- Mùa Hè, cắt như vậy
cho nó mát!
Tôi chợt nhớ lại và mỉm
cười, vô tình tôi đã nhắc lại đúng câu nói của tên Thế. Tôi hỏi tiếp:
- Thưa ông, gia đình
nhà khỏe cả?
Y chậm rãi:
- Mấy đứa chúng nó đi
nghĩa vụ hết, chỉ còn mình nhà tôi ở nhà. Cỏ mọc đầy sân, tôi về gần một tháng,
chỉ suốt ngày làm cỏ với cuốc vườn.
- Thưa ông, vườn nhà có
rộng không ạ?
- Có chết đâu mà rộng.
Được có 5 phần trăm đất dành cho “cải thiện” gia đình, còn là của hợp tác xã
hết.
Qua cách nói chuyện,
tôi thấy y thật là một người nông dân chất phác, lại quê mùa nữa. Tất nhiên,
cũng chả phải người tù nào, y cũng đối xử như vậy.
Gần hết giờ làm việc, y
vào buồng số 10 và 14 mắng thậm tệ, vì khi y đi vắng hai buồng này đã phạm nội
quy.
Buổi tối hôm ấy, tôi
cũng thoáng nghe tiếng chân người đi rất nhẹ. Chắc lại là tên Thế mò vào buồng
số 9. Không hiểu sao, dạo này ít thấy y vào? Nhưng, mọi khi phải đến 9, 10 giờ
tối y mới mò vào, bây giờ mới khoảng 8 giờ? Nghĩ vậy, tôi cúi xuống xem sao.
Bàn chân cũng tụt dép ra, nhưng lại rất to và thô. Không phải tên Thế. Nhưng
tôi cũng không thể đoán ra bàn chân của tên quản giáo nào? Vậy mà, sao cũng
phải tụt dép ra làm gì? Càng nghĩ, tôi càng thắc mắc, và óc tò mò của tôi lại
càng được khích thích hơn. Để cho sáng tỏ vấn đề, tôi cố theo dõi, lắng nghe.
Rất lâu, cũng không có âm thanh gì đặc biệt cả…
Mãi tới hơn 9 giờ, mới
lại thấy đôi bàn chân dép đó, rón rén đi ra. Chắc phải ra tới chỗ bàn trực rồi
mới dám xỏ dép. Tôi nghe thấy bước chân ra tới gần cổng, tôi dùng phương pháp
“ngửa mặt” để quan sát. Tôi giật thót người lại! Người đi lén lút đó là tên
Trì, Thượng Úy Phó Giám Thị. Người y như lực điền, cái mặt to tướng, đầy thịt,
đôi mắt đỏ như mắt cá rói, với hàng lông mi rậm rì. Y vào buồng số 9 để làm gì?
Trông y cũng đầy vẻ hảo ngọt.
Rồi từ đấy, tên Trì ra
vào liên tục. Còn tên Thế? Tuyệt nhiên không dám bén mảng gì đến xà lim I nữa.
Và, cho đến sau này, tôi cũng không gặp tên Thế ở Hỏa Lò, chẳng hiểu vì sao.
Nhiều lần tôi muốn hỏi tên Dư về buồng số 9, nhưng lần nào cũng không dám. Tôi
biết y sẽ không trả lời và có thể còn đánh giá là tôi đã lợi dụng tình cảm của
y để làm tới. Cuối cùng, vào một buổi tối, sau khi xác định chắc chắn không có
tên cán bộ nào, tôi đành lên tiếng gọi:
- Số 12 gọi số 7 nè! Số
7 khỏe không?
Ở buồng số 7 tên nằm
vùng đã đi ra rồi, chỉ còn lại một anh cao cao, cho nên tôi gọi chào chơi, mục
đích là để sau đó bắt chuyện với buồng số 9. Tôi không thấy số 7 trả lời, mà
lại có tiếng số 9, nghe trong trẻo như tiếng khánh chạm nhau:
- Anh 12 khỏe không?
Mắt vẩn không rời mép
trên cánh cửa cổng, tôi trả lời:
- Cám ơn, khỏe! Số 9 ở
Hà Nội phải không?
Hai tiếng cười rúc
rích:
- Hà Nội!
Tôi hỏi tiếp:
- Tội gì thế?
- “Dạt vòm ngoại!” Còn
anh, tôi đã biết rồi nhé!
Hơi choáng người, cô
này nói đùa hay nói thật đây? “Dạt vòm ngoại” là gì? Nếu hỏi lại, thì chứng tỏ
mình “cà quỷnh”; mà không hỏi thì không biết. Nhưng các cô trả lời với tôi kiểu
như vậy, tôi đoán ngay là các cô không biết thực về tôi. Nếu thực biết tôi ở
miền Nam ra, các cô sẽ không dùng tiếng “lóng” đó với tôi, làm sao tôi hiểu
được? Nghĩ thế, tôi hỏi một câu nữa dò dẫm:
- Ở ngoài số 9 làm gì?
Một giọng cười ré lên
ngặt nghẽo:
- Văn Công Trung Ương!
Á, thảo nào! Vừa lúc
đó, cánh cổng xà lim hé rộng ra, tôi ngồi thụt xuống. Số 9 cũng im bặt. Thì ra,
các cô cũng canh cổng. Có người vào tắm giặt ở trong nhà tắm xà lim.
Số 9 là văn công Trung
Ương, không trách được đẹp thế! Còn tội “dạt vòm ngoại” là thế nào? Chợt nghĩ
đển anh Nguyễn Lân, số 4, tôi khạc hai tiếng gọi anh. Sau khi tôi hỏi bằng cách
viết chữ vì cán bộ trong nhà tắm tôi không lên tiếng được, vả lại cũng chẳng
muốn số 9 biết mình “tồ”. Anh Lân cho biết là cũng giống tội của anh, nghĩa là
“chạy ra nước ngoài”.
Mãi gần 10 giờ, người
trong nhà tắm mới ra. Tôi nghe tiếng thau để nhẹ xuống nền nhà, chắc hẳn là nữ
rồi. Tò mò, tôi khẽ đứng lên nhìn xem thử mụ Hoa, mụ Thơ hay mụ Dậu? Tôi thót
người, nhìn theo sau lưng một cô gái thật trẻ, đang cắp một cái thau men màu
xanh đậm. Mái tóc cô thật dài, buông xõa phía sau vai xuống đến ngang…mông. Cô
gái này lạ hoắc, tôi chưa trông thấy bao giờ. Tôi cứ nhìn theo mãi, cho tới khi
cô ấy ra khuất ngoài sân trại chung. Rất tiếc, tôi chỉ nhìn được phía sau lưng,
chả biết mặt mũi cô ra sao. Nhưng, cô có một thân hình đang độ căng đầy.
70.
Ta quen nhau mùa… Đông…
Thỉnh thoảng từng làn gió heo may đã bắt đầu nhè nhẹ thổi
về, làm chuyển dần màu lá bàng từ xanh thẫm sang ươm vàng. Gió heo may về như
nhắc nhở lòng ai mùa Thu trở lại.
Dạo này, bàng chín rộ.
Càng về đêm hương bàng càng ngạt ngào, theo gió tỏa khắp Hỏa Lò. Bàng lại mỗi
ngày mỗi rụng nhiều. Cứ hai ngày một lần, tôi phải quét và hốt mệt nghỉ. Công
việc này, tôi thấy đam mê như hái hoa, bắt bướm, nhởn nhơ trong cánh rừng đời.
Sáng hôm nay, tôi vừa
quét sân xà lim, vừa lắng nghe tiếng loa léo nhéo một bản tin:
“…..Theo nguồn tin UPI
và AFP, Mỹ đã chuyển thêm hai tiểu đoàn Dù nữa, đang rời từ Okinawa sang Việt
Nam, để bổ sung và tăng cường cho Sư đoàn “Anh Cả Đỏ”; đưa tổng số quân Mỹ ở
miền Nam cho đến nay lên tới…..”.
Không những rõ ràng chi
tiết số vạn, số nghìn, số trăm mà con cả số chục nữa.
Nằm ở trong lòng đất
của kẻ thù, hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, nghe những loại bản tin như thế
này không biết bao nhiêu lần. Tai đã nhàm chán, vậy mà lòng vẫn không hết ấm
ức, bực bội. Tôi vẫn hiểu là Mỹ giầu lắm, Mỹ mạnh lắm, Mỹ nói chuyện với Cộng
Sản thường nói thẳng, nói thật. Chính phủ Mỹ không nói, Quốc hội, báo chí Mỹ
cũng nói. Nếu không như thế chăng nữa, với lề lối tổ chức, làm việc ở nước Mỹ
dân chủ, tự do, các điệp viên của Cộng Sản đã lấy tin quá dễ dàng. So với cảnh
những điệp viên của thế giới tự do phải vào đất Cộng Sản lấy tin, khó khăn khác
nhau một trời, một vực.
Mỹ đã đánh giá Cộng Sản
Việt Nam theo con mắt của Mỹ nhìn…Việt Nam Cộng Hòa. Nghĩa là, Mỹ cho rằng Liên
Xô và Trung Quốc có quyền hạn tuyệt đối với Cộng Sản Việt Nam. Cụ thể, nhiều
Tổng Thống Mỹ bàn chuyện giải quyết vấn đề của Việt Nam lại bàn với Liên Xô,
với Trung Quốc. Tôi thừa nhận, trong tương quan giữa các nước trên thế giới
ngày nay, những nước lớn có ảnh hưởng hoàn toàn không giống như Mỹ đã đánh giá.
Nhất là giữa các nước Cộng Sản. Sự ảnh hưởng này, phụ thuộc vào những tình tiết
quan hệ riêng của mỗi nước Cộng Sản. Không hề giống như bên thế giới tự do.
Thật là sai lầm! Sai lầm nọ lại đẻ ra sai lầm kia, theo cái nhìn của người tư
bản. Để phần sau, tôi sẽ nêu nhiều dữ kiện minh chứng. Đó là yếu tố bí mật, bất
ngờ. Điều này sẽ làm cho đối phương mất cảnh giác, nhìn sai sự thật.
Từ ngàn xưa, nếu Khổng
Minh không sử dụng yếu tố bất ngờ, bí mật, ngày nay, ông đã không nổi danh với
chúng ta như vậy. Nước Nhật chỉ là một nước vừa phải, không lớn lắm, mà đã
nhiều lần làm cho Mỹ méo mặt, Liên Xô điên đầu, thế giới nể sợ, cũng chỉ vì
những yếu tố trên. Thế mà, nước Mỹ đã hầu như không sử dụng những yếu tố này.
Để làm sáng tỏ hơn, tôi
xin đơn cử một thí dụ: “Một binh đoàn M được lệnh đánh chiếm một hòn đảo X của
đối phương. Hòn đảo X này có một trung đoàn địch quân phòng thủ, trang bị những
vũ khí bình thường. Những kế hoạch bố phòng cũng bình thường như từ trước đến
giờ.
Binh đoàn M quân số quá
lớn, gấp 9, 10 lần lực lượng phòng thủ của đối phương. Vũ khí trang bị lại hiện
đại hơn hẳn bên phía lực lượng phòng thủ của đảo. Do đó, dù không có yếu tố bất
ngờ và bí mật. Dù đối phương có biết trước hay không, hòn đảo X cũng bị chiếm.
Nhưng, nếu biết vận
dụng và phát huy tối đa yếu tố bất ngờ, giương Đông, kích Tây; vờ chuyển quân,
bắn tin là sẽ sang phía A, lại bất ngờ đánh phía B; dùng những phương pháp
tương kế, tựu kế đánh lừa, ru ngủ địch, thực thực, hư hư… Nghĩa là, làm sao bịt
chặt mắt địch lại để đánh. Địch không thể đoán biết ta sẽ đánh chỗ nào, lực
lượng ta đặt ở đâu, chỗ địch tưởng nhiều, lại hóa ít, v.v… Vì vậy, khi ta chiếm
hòn đảo X, địch giật mình, hoang mang đầu óc. Vì địch không hề biết trước, và
có thể hôm đó đảo lại đang mở hội liên hoan chẳng hạn, cho nên, quân đổ bộ
chiếm được đảo, với số lượng thuơng vong độ 200 chiến sĩ.
Ngược lại, vì lề lối tổ
chức của phe ta, tính huênh hoang của kẻ khỏe, quân ta ở đâu, địch biết; rút đi
bao nhiêu, thêm vào bao nhiêu, địch biết; vũ khí loại gì, mới đưa vào bao
nhiêu, địch cũng biết… Khi đã biết, tất nhiên đối phương phải tăng cường tối ta
để phòng thủ, kể cả về người cũng như về vũ khí, kế hoạch, hầm hố chướng ngại v.v…
ngày đêm cẩn mật không rời tay súng.
Vì quân số của bình
đoàn M gấp bội, và vũ khí lại trội hơn hẳn như đã nói trên, nên hòn đảo X vẫn
bị chiếm. Nhưng, vì đối phương đã tăng cường quân số, vũ khí, cũng như tinh
thần không rời tay súng, v.v…nên số thương vong của binh đoàn M lên tới 1000
người…
Như vậy, đối với 800
chiến sĩ ưu tú của chúng ta, mỗi một người là một đơn vị trong chùm liên hệ của
gia đình. Thêm 800 gia đình đau thương vì mất người thân, chỉ vì muốn tỏ ra là
người “lớn”, là quân tử bảo thẳng cho đối phương “tiểu nhân” biết mọi việc khi
ta hành quân… Ai sẽ chịu tội, chịu trách nhiệm về 800 mạng người này? Các ông
Tổng Thống, các ông Tư Lệnh có chịu trách nhiệm không? Trách nhiệm là đền được
mạng sống của con người không? Xin quý vị giải đáp cho người khác nghe lọt lỗ
tai.
Đêm nay, chẳng hiểu sao
tôi cứ trằn trọc mãi không ngủ được. Tôi mở mắt nhìn lên phía cửa sổ, trăng Thu
vằng vặc như mời gọi tôi dậy. Tôi vươn vai lắng nghe, xác định tụi cán bộ, nghe
những âm thanh của đêm khuya, tôi biết đêm đã khuya lắm rồi. Thỉnh thoảng, tôi
lại nghe tiếng rên ở buồng số 1 sát nhà tắm. Tôi đứng dậy, trèo lên sàn, tựa
đầu vào lưới thép của cửa sổ, nhìn ra bầu trời bên ngoài.
Nền trời tím sẫm, không
một vẩn mây. Chéo mãi phía Đông, một mảnh trăng gầy, hạ huyền với hai đầu nhọn
hoắt quặp xuống, như đôi sừng của con dê già. Những khung nhà, mái ngói của khu
trại chung phía xa xa, vạch cắt bầu trời phía Đông Bắc thành những nét kỷ hà
đen xẫm. Một chiếc lá bàng rời cành, lắc lư, chao đảo, lấp lánh dưới ánh trăng khuya,
sà xuống nền xà lim càng làm cho cảnh đêm thâu vắng lặng. Một cơn gió nhẹ thổi
qua làm những chiếc lá bàng trên cành xao xác.
Đã lâu lắm, hôm nay,
tôi mới lại được ngửi mùi hương Thu. Tôi không biết dùng ngôn từ gì để tả rõ
được mùi hương này. Hương Thu len lén, chậm chạp luồn lách vào mũi khiến cho
hai cánh mũi tôi như cong lên, trán tôi cau lại, ngón chân cái của tôi tự nhiên
ngọ nguậy, ngúc ngắc đập nhè nhẹ xuống sàn theo một điệu nhạc mơ hồ, đưa hồn
tôi lơ lửng vào cõi… không bờ. Bỗng tiếng một con mối ré lên “chặc, chặc,
chặc…” một hồi dài đã gọi hồn tôi trở về thực tại. Đã mỏi chân rồi, thôi tôi
xin tạm biệt trời Thu để đi vào giấc ngủ đêm Thu gần tàn…
Sáng hôm sau, tôi đang
còn muốn ngủ nữa, tiếng loa đã gióng lên như tiếng con mẹ hàng xóm mất gà, đang
cất cao giọng rủa sả thiên hạ, cứ làm như cả xóm ăn cắp gà của mụ. Như vậy, làm
sao còn ngủ nổi nữa, tôi đành phải nằm nghe tiếng chửi rủa vậy thôi.
Một bản tin về chiến
trường miền Nam: loan báo số thương vong của lính Mỹ, Úc và Đại Hàn trong tháng
vừa qua. Âm thanh chọc vào tai tôi, đã đẩy mồm tôi, loe ra thành một nụ cười.
Tôi cười, vì nếu cứ ghi số thương vong của lính Mỹ, Đại Hàn và Úc từng trận
đánh, của suốt mấy năm, từ khi Mỹ bắt đầu đưa quân vào, đầu 1965, cho đến bây
giờ, ở miền Nam chả còn một người lính Úc, Mỹ hay Triều Tiên quái nào nữa. Thế
mới lạ chứ! Ngược lại, tôi cũng khen lính Mỹ, Triều Tiên, Úc ra trận càn quét,
bắn rất tài tình, nghĩa là chỉ nhằm bắn…bà già, đàn bà, con gái và…trẻ con, và
tránh rất giỏi, không hể bắn trúng vào một thằng Việt Cộng nào cả.
Nó vô lý đến độ buồn
cười như vậy đấy, và có như vậy, nó mới là lmột trong những yếu tố để sau này
tôi làm sáng tỏ lý luận chứng minh về nghệ thuật tuyên truyền của Cộng Sản. Sau
này, khi tôi có gần hai năm chuyên chú đọc những tác phẩm lý luận, của hầu hết
những nhà tư tưởng tiền khởi Cộng Sản cho đến bây giờ, kết hợp với thực tiễn
người thực, việc thực tôi đã gặp, trong hơn một chục năm ở các trại giam trung
ương, tôi đã có cái nhìn đủ điều kiện hơn về một số lãnh vực.
Thấm thoát đã lại vào
mùa Đông, mùa Đông thứ năm. Cây bàng lại khẳng khiu, trơ trụi những cành chọc
thẳng lên trời, như những cọng râu của con cá mực khô.
Cả một năm tròn vừa
qua, chấp pháp không hề gọi cung, chúng làm như đã quên hẳn tôi rồi. Thật là
kinh khủng! Ý nghĩ này đã tạo nên một sự ức chế ghê rợn đối với tâm lý của tôi.
Hơn 4 năm qua, với biết bao cung kẹo giày vò, cùm kẹp, chết đi sống lại mấy
lần, đói khát, cấu xé ngày đêm…Thế mà hầu như tôi không hề biết sợ. Chân ở
trong cùm vẫn rung lên theo những điệu nhạc ngầm của cõi lòng. Giờ đây, tôi lại
cảm thấy ghê sợ. Tôi sợ chúng đã bỏ quên tôi! Năm này, qua năm khác, cơ thể của
tôi, dù tinh thần có cố gắng phấn đấu đến đâu, cũng tàn lụi dần đi. Hoặc, không
bệnh tật, cũng điên khùng mà chết. Nếu, chúng gọi tôi ra tuyên bố rõ ràng sẽ
giam thêm ba năm, hoặc năm, mười năm nữa trong buồng kín rồi sẽ cho ra trại
chung…..tôi cũng không có cái tâm trạng ghê sợ, đến như lúc này. Đấy là, tôi
vẫn còn một chút may mắn, được tên Dư có ít thiện cảm, thỉnh thoảng cho ra
ngoài sân quét dọn. Chứ nếu không, cứ phải ngồi một chỗ cả năm, óc đến thối ra
mất. Thật là kinh khủng! Chúng dùng thời gian, thi đua với sức chịu đựng của
con người. Tôi hiểu, chủ trương của chúng đối với tôi bây giờ là để xem cơ thể
của tôi, có chịu đựng được mãi đối với thời gian hay không. Vì vậy, đang đêm,
giật mình tỉnh dậy, cứ nghĩ đến điều đó, tôi cảm thấy lạnh cả người. Một niềm
rùng rợn, ghê khiếp bao vây chặt lấy người tôi. Dù ban ngày, tôi vẫn tập thể
dục; hàng ngày, tôi vẫn thực hiện phương pháp trường sinh; nhưng cứ đêm xuống,
nỗi ghê rợn, niềm kinh hãi, vẫn ùa đến tràn ngập lòng tôi.
Tôi nhớ một buổi, lúc
tôi đang múc bùn ở lỗ cống đầu hè (khi đó là đầu 1967, tôi đã ở xà lim 5 năm
rồi; tên Dư đã lên chuẩn úy, tên Đại coi trại thợ đã là thiếu úy, (mà hồi tôi
mới vào Hỏa Lò, hắn chỉ là trung Sĩ). Hai tên Đại và Dư đang đứng nói chuyện
với nhau ở góc sân, tên Đại quay lại nhìn tôi một lúc, rồi nói với tên Dư:
- Này, ông này, cái anh
kia không biết trên giải quyết thế nào, mà cứ để mãi ở xà lim nhỉ?
Tên Dư nói nho nhỏ gì
đó với tên Đại. Đại quay lại nhìn tôi với đôi mắt nửa như tò mò, nửa như thông
cảm. Đấy! Ngay tụi quản giáo Hỏa Lò còn sốt ruột thay cho tôi nữa là.
Ngay đầu năm ngoái, một
lần tôi đi cung, chính hai tên chấp pháp Thành và Nhuận, cùng cười, nhìn tôi
một lúc, rồi tên Thành vừa nói, vừa gật cái đầu:
- Trông anh, dạng thư
sinh, thế mà anh chịu đựng tốt thật!
Nhưng, từ đầu năm 1967,
tôi bắt đầu sợ thật. Lòng tôi đầy âu lo! Tự nhiên, tôi thấy sợ cả bóng tôi.
Ngay ở xà lim I này, từ khi tôi vào, đã biết bao nhiêu người: hết đợt này ra,
đến đợt khác vào, lại ra. Trừ trường hợp của hai anh Căn và Lượng, hầu hết lâu
là một năm, còn thường chỉ mấy tháng. Có người vào xà lim độ mươi ngày hay nửa
tháng, họ đã ra rồi.
So với bốn tháng trước
đây, xà lim bây giờ toàn là người lạ. Chỉ còn anh Nguyễn Lân, buồng số 4, là
cũ. Vụ án của anh cũng hơi phức tạp, không xử được, có lẽ anh sẽ bị tập trung.
Hiện anh vẫn còn đấy, nhưng bây giờ trông anh như bộ xương biết đi, mỗi khi anh
ra sân phơi quần áo. Khi anh mới vào, tôi nhìn hai cái tai của anh đã thấy to.
Lúc này mặt anh choắt lại, gồ ghề, nhiều chỗ lồi lõm, thành ra hai cái tai
trông càng to hơn, như hai cái tai chuột cống, trong khi mặt anh là mặt chuột
nhắt.
Gần chiếu tối hôm qua,
có một người bị đưa vào buồng số 5. Đó là buồng tôi đã ở trước, đối diện với
buồng 12 của tôi hiện giờ. Số 5 thì ở dẫy trong.
Tôi nghĩ, người đó cũng
như nhiều người khác mới vào. Hơn nữa, dạo này tâm hồn tôi cũng hơi bấn loạn,
tôi chẳng còn háo hức tò mò gọi nói chuyện với người mời vào làm gì. Chỉ có với
anh Lân, lâu lâu, tôi mới gọi anh thăm hỏi một vài câu.
Khi nãy, hai buồng số 3
và số 8 báo cáo xin thuốc đau bụng và đau dạ dầy. Buồng số 8 đang rên như lợn
xề kêu. Một lúc sau, tên Dư dẫn y tá vào. Tôi ngạc nhiên khi nghe tiếng y tá,
là giọng nữ, nhưng không phải tiếng bà Dậu. Tôi cũng muốn tò mò xem y tá mới
mặt mũi ra sao. Tôi lại nghe cả buồng số 4 là anh Nguyễn Lân, cũng báo cáo:
- Báo cáo bà y tá, cho
tôi xin thuốc đau dạ dầy!
Tôi cũng thấy lạ! Từ
khi số 4 vào xà lim cũng đã 8, 9 tháng rồi, tôi chả thấy anh xin thuốc đau dạ
dầy lần nào. Hôm nay lại nhiều buồng xin thuốc thế, râm ran cả lên.
Tôi nghe tiếng hỏi dấm
dẳn, hách dịch ở phía buồng số 4:
- Buồng này, xin cái
gì?
Tiếng anh Lân, giọng
miền Trung trọ trẹ:
- Tôi đau dạ dầy, bà
cho tôi xin thuốc đi!
- Trước anh có đau dạ
dầy không, bây giờ lại xin thuốc?
- Chưa đau, nhưng bây
giờ đau.
- Sao anh biết là đau
dạ dầy?
- Của tôi, tôi biết
chứ!
Tiếng cửa sổ con đập
mạnh vào nghe “xoạch” một cái, cùng với một giọng cong cớn:
- Tôi vớ vẩn với anh
đấy à!
Lại buồng số 10 báo
cáo:
- Báo cáo bà y tá!
Buồng 10 xin ăn cháo!
Tiếng tên Dư đứng giữa
xà lim ngay chéo trước buồng tôi nói to:
- Y tá đây là cô Vân
mới có 19 tuổi thôi, các anh cứ gọi cô cho nó tiện.
Buồng 10 lại ré lên:
- Báo cáo cô y tá.
Buồng 10 xin ăn cháo .
Tiếng mở cửa sổ nhỏ,
rồi tiếng cô Vân hỏi:
- Làm sao mà ăn cháo?
- Thưa cô, tôi bị táo,
ba ngày nay không đi cầu.
- Không được! Lấy tay
mà xoa bụng nhiều lần đi!
Tiếng chân của tên Dư
và y tá ra ngoài bàn trực. Một lúc, có tiếng chân bước ra sân. Tôi lẹ làng lựa
thế đứng lên nhìn.
Á chà! Cái cô có mái
tóc dài mà có lần, tôi đã nhìn thấy vào một buổi tối, khi cô vào xà lim tắm ra.
Cô là y tá mới! Có lẽ bà Dậu, y tá cũ, đã nghỉ, hay chuyển công tác. Thảo nào,
các buồng báo cáo rối rít cả lên. Trong xà lim không có “chất” phụ nữ nên mới
như vậy. Ngay anh chàng Nguyễn Lân, sinh viên Roumanie, cũng ỡm ờ con cá đỏ với
cô ta. Thông cảm! Thông cảm! Tôi cũng chưa trông rõ mặt cô ấy ra sao. Hai lần,
tôi đều nhìn thấy sau lưng cô ta.
Mấy hôm sau, ra lấy
cơm, tôi nhìn thấy có một bát cơm đầy hẳn lên, tuy trông nát như bát bánh đúc,
nhưng vẫn còn thấy vài hạt cơm còn nguyên. Đói quá, xin ăn cháo, tuy được hai
bát, nhưng toàn nước. Húp vào, no ngay lúc ấy, nhưng suốt đêm đi giải còn mệt
hơn.
Tự nhiên, tôi có ý nghĩ
là làm sao, để xin được ăn cơm nát là tốt nhất. Trông bát cơm, tuy nát nhưng
đầy hẳn lên. Tôi để ý, biết là cơm nát của số 8, đau dạ dầy kinh niên. Tôi chưa
biết cách nào để xin được, hơn nữa, cô y tá lại hách “xì dầu” quá!
Buổi tối hôm đó, lại có
người vào xà lim tắm. Tôi không để ý, nên không biết là ai. Một lúc, chợt có
tiếng quát the thé của cô…Vân:
- Buồng kia, đứng lên
làm gì đấy?
Không có tiếng trả lời.
Tôi tưởng như là yên. Không ngờ, sáng hôm sau, tên Dư vào mở cửa buồng số 3,
mắng cho một hồi, rồi rút chốt cùm. Số 3 lạy van rối rít, nhưng vẫn bị cùm.
Mãi gần 10 giờ, y tá
mới vào cho thuốc buồng số 8 và 10. Cô này là y tá mà như công an, quản giáo
không bằng, cũng rình rập các buồng. Cô quát buồng số 4:
- Anh đưa ngay con dao
đây!
Im lặng. Lại nghe tiếng
cô ta giục lần nữa, rồi hỏi:
- Anh lấy dao này ở
đâu?
- Báo cáo, vớ được cái
đinh, tôi mài để cắt móng tay.
Tiếng cửa sổ nhỏ đóng
lại. Rồi, một lát sau tên Dư vào, mở cửa số 4, tuyên bố kỷ luật một tuần. Thấy
sự như vậy, tôi đâm ra có ác cảm với cô y tá mới này. Tôi chẳng thèm xin thuốc
men hay cơm nát nữa. Tôi đoán, chắc cô này, được vào làm y tá trong Hỏa Lò,
phải là thứ “đít đỏ như máu”. Không những bản thân, ngay gia đình phải là thành
phần cách mạng trung kiên. Cô ít ra phải là một đoàn viên thanh niên Cộng Sản
cuồng say, ưu tú!
Sau đó, hơn một tuần,
một hôm, tôi đang tập thể dục chạy tại chỗ, bỗng cửa sổ con xoạch mở. Tôi ngừng
chạy, nhìn ra: một đôi mắt rất trong đang nhìn tôi. Phảng phất dáng dấp, tôi
đoán ngay là cô Vân. Chắc cô này đang đi rình mò, nghe tiếng thình thịch trong
buồng nên mở cửa con xem là chuyện gì. Nghĩ thế, tôi không chạy nữa, xem cô này
có thái độ sao đây! Cô im lặng, trân trân nhìn một lúc, và chắc là hiểu tôi
đang tập chạy thể dục, cửa con đóng lại. Tôi cũng hơi bâng khuâng. Cô này, bộ
mặt trông cũng được đấy chứ, nhất là nước da rất trắng và đôi mắt, như nước
giếng trong của đình làng. Cái mặt như vậy, sao lại dữ thế!
Thế rồi, bẵng đi đến
hơn mười ngày sau, một hôm đang quét sân, tôi chợt nhìn thấy ở kẽ cánh cổng có
một mẫu thuốc lá. Liếc vội vàng phía trong, tên Dư đang lúi húi viết, tôi nhặt
lẹ mẩu thuốc, nhét vào cạp quần. Tôi thấy lòng vui hẳn lên. Tí nữa vào buồng,
tôi sẽ có một hơi thuốc say đê mê.
Chiếc điếu, từ ngày hút
với anh Đà tới bây giờ, để mốc meo. Dạo sau này, có dịp ra sân, năm thì mười họa
gặp tên cán bộ nào hút thuốc ném mẩu tàn lại, hôm đó, tôi mới lại có một bữa
say. Hôm nay cũng vậy, tôi lại được chơi vơi với…tình: “Tình thà coi như khói
thuốc say” mà lại! Đầu óc tôi đang xoay quanh với mẫu thuốc dắt ở cạp quần,
bỗng có tiếng động ở cổng xà lim. Tôi quay lại, vừa đúng lúc thấy hai con mắt
thật trong mở to nhìn tôi. Tôi hơi ngượng, cúi xuống quét tiếp. Một dáng đi rất
mềm, ngang qua tôi, vào chỗ bàn trực tên Dư đang ngồi. Một mùi hương rất lạ.
chưa bao giờ tôi ngửi thấy, làm mát cả một khoảng sân xà lim. Tôi thoáng nhìn
theo hai lọn tóc, gióc thành hai chiếc đuôi sam, mỗi đầu buộc bằng một sợi len
đỏ. Tôi cứ cắm cúi quét mãi, tới khi bóng đó trở ra. Tôi lại thấy cái mùi hương
lạ lùng lúc nãy. Tôi vẫn cúi, tay đưa dài mái chổi. Tôi cảm thấy mất hẳn tự
nhiên. Và…dường như có một cái gì đó thoang thoảng, mơ hồ len lén vào lòng tôi.
Mỗi lần ra lấy cơm,
nhìn suất cơm nát, tôi thấy mình bị quyến rũ quá rồi. Nhưng tôi cứ rụt rè, mãi
đến hàng chục ngày sau, tôi vẫn chưa dám báo cáo để …xin ăn. Nếu được ăn cơm
nát, có thể tôi khỏi phải mỗi tuần hai lần nhịn buổi sáng, để dành ăn vào buổi
chiều như bây giờ. Suất cơm nát với tôi lúc này, thật là lý tưởng. Điều làm cho
tôi phải rụt rè như vậy, chỉ vì y tá là một cô gái; lại là một người mà lúc đầu
tôi đã có ác cảm. Bây giờ, tôi cũng chưa biết tính ra sao.Tôi chỉ sợ bị hạch
hỏi, rồi bị từ chối, ngượng chết.
Lại nghĩ đến nguyên tắc
sống: không hiểu, nhiều khi không có cái gì cả. Thế là buổi sáng hôm đó, sau
khi ra đổ bô xong, lúc quay vào, tôi nhăn nhó mặt, nói với tên Dư:
- Thưa ông, từ ít lâu
nay, tôi cứ ăn cơm vào là lại đau bụng. Đêm ngủ, cứ bị ợ chua. Hiện giờ, tôi
thấy đau bụng lắm. Xin ông báo dùm y tá, cho tôi xin thuốc!
Tên Dư mở to mắt nhìn
tôi, như lạ lùng, như thăm hỏi bởi vì từ khi lão trực xà lim I đến bây giờ, lão
chưa hề thấy tôi xin thuốc đau ốm lần nào.
Quả là tên Dư đã quan
tâm đến tôi. Với các buồng khác, trừ trường hợp cấp cứu đặc biệt, chứ kiểu bệnh
như tôi vừa báo cáo, phải tới hôm sau, hoặc hôm
sau nữa, nếu không tiện
dịp. Chỉ một lúc sau, y tá đã đến xà lim. Dư vào mở cửa buồng tôi, rồi nói:
- Anh ra cho cô Vân xem
bệnh!
Ra tới ngoài, tôi thấy
cô Vân ngồi ở chỗ bàn trực của tên Dư. Trước bàn vẫn có cái ghế đẩu mọi khi,
tôi ngồi vào, trong khi đó tên Dư đi đi, lại lại ngoài sân.
- Anh ốm ra sao?
Giọng nói khác thường,
thật êm dịu nhẹ nhàng. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt trong, trả lời:
- Tôi cứ bị ợ chua, ăn
cơm vào là đau.
Tôi kêu đau bụng, cô
lại bảo đưa tay cho cô xem. Cô bắt mạch tay tôi, cả hai tay; rồi lại bảo tôi
kéo tay áo lên, cô xoa xoa, nắn nắn đến tận khuỷu tay. Cô không nói gì, tôi
cũng im lặng. Mãi một lúc, tôi phải lên tiếng trước:
- Thưa, tôi đề nghị xin
ăn cơm nát!
Cô nhìn tôi đăm đăm,
cuối cùng, nói nhè nhẹ:
- Anh đi vào đi!
Tôi cũng chẳng hiểu, cô
có bằng cho tôi ăn cơm nát hay không? Bữa sáng hôm ấy vẫn cơm thường. Nhưng,
tới buổi chiều, trên chõng cơm đã thấy có hai suất cơm nát!
Thế là tôi đã đạt được
mục đích. Nhớ lại thái độ của cô Vân những ngày đầu mới biết, tôi không nghĩ là
cô lại chấp thuận dễ dàng như vậy. Không hiểu sao, từ khi ăn suất cơm nát, hàng
ngày tôi ít đói hẳn đi. Tôi hiểu, tiêu chuẩn gạo thì vẫn thế thôi; nhưng tại
sao lại có hiện tượng lạ vậy? Tôi đã nghiền ngẫm phân tích kỹ, dứt khoát không
phải do tâm lý khi thấy bát cơm đầy. Cơm nát, thậm chí có khi rất khô giống như
cơm thường nấu dẻo vậy, thế mà số lượng lại gấp rưỡi suất cơm thường.
Như thế, chỉ có thể, vì
đói thiếu, nên những anh nhà bếp đã giấu, cất bớt cơm khô, lỗ hà, lỗ hỗng, đêm
đêm lấy ra ăn với nhau. Còn cơm nát, chỉ nấu cho cả trại, 5, 10 người ăn, nên
không ai “chấm mút” làm chi. Ngoài ra, ăn cơm nát nhão nhoẹt, lạt và chán nhà
bếp ai thèm ăn, nên cơm không bị hao hụt chút nào. Phần khác, cũng có thể nhà
bếp ngại thổi riêng một nồi, nên cho cả vào nấu với chảo cơm thường. Sau đó, họ
tìm chỗ nào cơm nhão, ướt nhất là họ xúc cân. Cơm thường 3 lạng thì cơm “dạ
dầy” phải 4 lạng rưỡi…Nói chung, chả
biết làm sao, nhưng rõ
ràng ăn cơm nát, thật là tôi vớ…bở! Thế mà, gần 5 năm tôi mới phát hiện ra. Thế
là từ đấy tôi cứ ăn cơm nát đều, mà chả phải uống thuốc đau dạ dầy gì cả.
71.
“Tình riêng chỉ có…chút này mà thôi!…”
Một buổi trưa, tôi đang ngồi mân mê cái điếu, óc đang miên
man nghĩ ngợi, đấu tranh tư tưởng với…một nửa mẫu thuốc lá, chưa quyết định dứt
khoát là sẽ “hưởng” bây giờ hay là để tối nay; bỗng cửa sổ con nhẹ mở. Tôi nhìn
ra, trong ánh sáng mờ mờ, chỗ trắng, chỗ đen, thấy một chiếc mũi xinh xinh dưới
hai đốm sáng long lanh trong như pha lê. Rồi hai đầu ngón tay nho nhỏ thò qua
khung cửa sổ như tì, như vịn; hai đầu ngón tay nổi rõ mầu ngà giữa hai chiếc
song sắt mầu xanh xám. Tôi cũng hơi bâng khuâng hồi hộp, cứ ngồi đờ ra nhìn.
Tôi không biết cô Vân vào từ bao giờ. Cô mở cửa sổ buồng tôi không một tiếng
động.
Bốn mắt nhìn nhau một
lúc, rồi giọng cô êm êm như gió mộng chiều Xuân:
- Anh hút thuốc lào à?
Tôi vừa gật nhẹ đầu vừa
nói:
- Hút, nhưng không có
thuốc!
- Anh đừng hút nữa!
Chao ôi, giọng nói như
tha thiết thân quen, làm mát rượi trái tim đã khô cằn nhựa sống. Thế ra, trên
cõi đời này, vẫn còn có người quan tâm đến tấm thân tàn bất hạnh của mình ư?
Tôi nhìn hai đốm sáng trong một lúc, rồi như nói một mình:
- Ở xà lim buồn quá!
Hút cho đỡ buồn thôi. Nhưng cũng không có thuốc!
Một ngón tay nhỏ như
cái ngó sen thò vào trong, ngúc ngắc, ra hiệu:
- Anh đưa cái điếu cho
tôi xem!
Như một phản xạ tự
nhiên, tôi cầm cái điếu áp vào bụng, sợ rằng cô này sẽ tịch thu cái điếu của
mình. Nhưng nhìn ánh mắt của cô dịu êm như những áng tơ trời ve vuốt, tôi từ từ
đưa chiếc điếu ra. Hai ngón tay trắng ngần thò vào cặp lấy cái điếu, kéo ra
ngoài song cửa.
Cô mân mê, ngắm nghía
cái điếu làm bằng 3 chiếc bao diêm, nối với nhau và được dán kín lại bằng giấy.
Tôi đã rút những sợi vải và vò vò thành một búi như bông gòn đặt vào mỗi ngăn,
để cản bớt bụi khói, đỡ hại phổi. Từ ruột bao này thông tới ruột bao kia đều có
lỗ. Tôi giùi những lỗ này bằng cách, vo cuộn một cái giẻ lại, đánh diêm đốt,
rồi vừa dí vừa thổi vào chỗ nào mình định giùi.
Cô nhìn cái điếu một
lúc, rồi ghé sát miệng vào cửa sổ nói nho nhỏ:
- Anh đừng hút thuốc
lào nữa. Hút thuốc lá đi!
Tôi vừa lắc đầu, vừa
nhìn chăm chăm vào hai vành môi của cô. Tôi thầm nghĩ, phải thừa nhận các nhà
văn đã tả và ví đôi môi của một cô gái đang độ xuân thì, giống như cánh hoa đào
một sớm Xuân, thật là chính xác!
Cô cũng biết tôi đang
ngắm môi cô nên mặt cô đỏ dần, mắt cô long lanh như sáng hẳn lên. Xà lim im
vắng, chỉ còn hai người. Tôi không hiểu sao mình lại “bạo” thế! Tôi cứ nhìn
trân trân vào đôi môi đỏ mọng của người con gái trước mặt, mà thấy người mình
như nóng dần lên. Nhưng, chợt một ý tưởng thoáng qua trong óc đã như một gáo
nước lạnh, dội vào trái tim đang bốc lửa. Tôi chợt nghĩ đến thân phận hiện tại
của mình: một tên tù trọng phạm, một tên tối phản động, một kẻ thù không đội
trời chung của “giai cấp công nhân” mà bọn Cộng Sản đã lừa bịp nhận là giai cấp
của chúng; tù đầy, gian khổ trước mặt còn dài, chưa biết sống chết thế nào.
Trong khi đó, người con gái đứng trước mặt tôi đây, cô y tá này đã được sinh ra
và lớn lên trong một chế độ Cộng Sản, được đảng của chúng giáo dục và uốn nắn;
nhất là được đưa vào đây, một nơi hàng ngày tiếp xúc với đầy dẫy những phần tử
“phản cách mạng”; vậy, cô ta phải là người được đảng tin cậy lắm, đã trải qua
bao nhiêu thử thách của đảng, mới được vào làm việc trong Hỏa Lò. Có thể, biết
đâu, cô ta lại chẳng là công an? (Có lần, tôi đã thấy cô mặc bộ đồ vàng của
công an!). Hơn nữa, cô lại không phải là xấu, ở trong một môi trường mà chung
quanh ngoài hàng nghìn tù nhân ra, còn hàng trăm công an vũ trang và cán bộ. Cô
như một con chim họa mi độc nhất, nhởn nhơ bay lượn trước hàng nghìn cặp mắt
đắm đuối ngất ngây chiêm ngưỡng. Như thế, về phía cô, khi nào cô lại chú ý đến
một tên tù như tôi! Còn tôi, tôi cũng có lòng tự trọng, tôi không thể thích cô
được: cô là người của bên phía…kẻ thù.
Tôi không thể mơ hồ
nữa! Hai trận tuyến, hai đường đi riêng biệt, mỗi phía đều có những hàng rào
kiên cố riêng của nhau. Sau những nỗi niềm ngang trái đó, tôi lạnh lùng lên
tiếng:
- Cô cho tôi xin lại
cái điếu!
Thái độ của tôi thay
đổi đột ngột, khiến cô hơi ngỡ ngàng. Mắt mở to nhìn tôi, tay cô nâng chiếc
điếu lên cửa sổ rồi đưa vào. Tôi đưa tay cầm lấy chiếc điếu, không dám kéo mạnh
vào, trong khi cô cũng chưa buông hẳn ra. Hai bên cứ cầm như vậy một lúc như
giằng co, như ngập ngừng, bốn mắt nhìn nhau không nói một lời. Vừa lúc ấy, có
tiếng động nhẹ ở ngoài sân, cô buông chiếc điếu và khẽ đóng cửa sổ lại.
Sáng hôm sau, khoảng 10
giờ, các buồng còn đang ra đổ bô, cô Vân đã vào cho thuốc một số buồng báo cáo
xin hôm trước. Vì đã có những ý nghĩ như hôm qua, nên tôi chẳng muốn gặp cô để
xin thuốc nữa. Tôi vẫn cắm cúi đi bách bộ trong buồng, chờ giờ ăn cơm, mặc cho
các buồng cứ râm ran xin thuốc, xin ăn cháo… Mãi một lúc, yên ắng, tôi tưởng cô
y tá đã đi rồi; nhưng lại thoáng nghe có tiếng nói chuyện ở ngoài bàn trực. Tôi
lắng tai. Giọng cô Vân, vậy là cô vẫn còn đấy.
Tôi đang sốt ruột. Nhà
bếp đã đưa cơm lên rồi, sao mãi vẫn chưa thấy tên Dư mở cửa cho các buồng ra
lấy cơm? Có tiếng dép lẹp xẹp đi vào. Đột nhiên, cửa buồng tôi mở. Tôi ngỡ
ngàng và hơi băn khoăn, không hiểu tên Dư lại mở buồng tôi làm gì. Nếu cho lấy
cơm, y phải mở dần từ các buồng đầu, có đâu lại vào mở buồng tôi ở giữa trước?
Tôi đứng yên ngập ngừng nhìn y như muốn hỏi, y nói:
- Anh ra ngoài gặp cô
Vân!
Như mọi lần, y vẫn nói
bằng giọng nhỏ nhẹ, đủ nghe, nên tôi tưởng mình nghe lầm, chỉ khẽ “dạ” một
tiếng như mọi khi, sau khi cán bộ nói, những vẫn đứng yên. Y phải nói lại lần
nữa, tôi mới ăn chắc, thong thả đi ra ngoài bàn trực.
Không hiểu sao, gặp ánh
mắt cô Vân nhìn, tôi phải cúi xuống nhìn đi chỗ khác. Ánh mắt như có điện! Tôi
quay nhìn chỗ khác mà như chả nhìn thấy cái gì. Tên Dư cũng đã ra theo, đang
đứng phía sau lưng tôi. Cô Vân mở một gói giấy trên bàn, vừa nói chậm rãi:
- Thấy cơ thể anh bị
suy nhược, tôi đã làm phiếu đề nghị để anh được tiêu chuẩn bồi dưỡng một tuần.
Mỗi ngày hai hào, như vậy anh được một đồng tư. Tôi đã nói với bác Dư ở đây,
thông cảm với đề nghị của anh. Tôi mua cho anh một gói thuốc lá “Trường Sơn”
với một bao diêm, còn bao nhiêu, tôi mua kẹo và bánh ngọt cho anh.
Nghe cô nói, tôi cảm
thấy như tôi đang được trèo lên cây măng cụt đầy quả chín lại Lái Thiêu, Bình
Dương ở miền Nam vậy. Tôi vừa lâng lâng ngụp lặn đong đưa trong hương sắc ngọt
ngào, của mùi trái chín gọi mời, vừa ngạc nhiên cùng độ: tại sao mình lại được trèo
lên cây măng cụt chín ở miền Nam lúc đang ở tù như thế này? Thành ra, tôi như
người mất hồn, nửa tỉnh nửa mê, ngơ ngẩn dại cả người ra. Mãi tới lúc tên Dư
giục:
- Đem vào buồng, rồi ra
lấy cơm luôn!
Như người máy, tôi mới
ôm các thứ đi vào. Chẳng còn nhớ tới cả lời cám ơn, chỉ vì lúc ấy hai cánh mũi
của tôi như bị hút chặt bởi mùi ngan ngát của thuốc lá,
mùi chua chua mằn mặn
của những chiếc kẹo chanh. Mùi kẹo này làm nhức ngứa trong đáy mũi, làm tuyến
nước miếng như mở toang ra, để nước chảy đầy mồm. Tôi như người không hồn, chạy
như con gà trống đuổi mái ra phía để chõng cơm, với tay múc đại một gáo nước,
rồi cầm một bát cơm vào buồng. Chắc hẳn cả tên Dư và cô Vân đều toét miệng
cười, khi trông thấy cử chỉ lính quýnh, loáng quáng của tôi.
Bữa cơm hôm nay, không
hiểu sao tôi chẳng thấy ngon lành gì cả. Có lẽ tại bao nhiêu tâm tư mình đều để
cả vào gói giấy báo, đang nằm cồm cộm một đống cạnh cái cùm kia. Tôi thấy nôn
nao không dằn lòng nổi, dù đang ăn dở bát cơm, tôi cũng buông xuống. Rồi, một
tay dằn ngửa gói giấy, một tay mở banh ra: thuốc lá, bánh ngọt, kẹo…nằm một
đống, tênh hênh. Tôi lại cầm bát cơm lên, vừa ăn vừa nhìn. Hết ngoẹo đầu sang
phía bên này ngắm nghía một lúc, lại nghiêng đầu sang phía bên kia. Đã 5 năm
rồi, bây giờ mắt tôi mới được nhìn cái kẹo gói ra làm sao. Thì ra mầu nó xanh
xanh như vậy đấy. Thế thì, vị của nó như thế nào? Chỉ một chốc nữa thôi, tôi sẽ
biết.
Lúc trả bát, cô Vân đã
ra về từ lúc nào rồi, tôi cũng chẳng biết. Trả bát xong, cửa buồng đã đóng lại.
Tôi súc miệng, rồi trang trọng ngồi xếp chân bằng tròn, cầm bao thuốc lá đưa
lên mũi hít hít, lại bỏ xuống. Cầm một chiếc kẹo đưa lên mũi, hít hà một lúc,
lại tới chiếc bánh ngọt. Nước miếng tôi đã chảy ra đầy cả miệng, nhưng tôi
cương quyết chưa ăn. Tôi cứ nghiêng ngó, hết cầm cái này, lại nhặt cái kia. Có
ai hiểu được nỗi vui mừng, nỗi hân hoan trong lòng tôi lúc này như thế nào? Tôi
có cảm giác tất cả mọi tế bào, mọi bộ phận của cơ thể tôi đều đã như đứng hết
cả dậy, từng đôi một, đang dìu nhau nhún nhẩy trong một khúc nhạc được mùa. Tôi
thông cảm với chúng.
Mới nhẹ bóc cái kẹo ra,
tôi đã nghe cuống họng mình vang lên những tiếng kêu, như tiếng suối róc rách
chảy lưng đồi. Nhìn viên kẹo xanh xanh óng lên như viên bích ngọc, tôi khẽ đặt
mấy đầu ngón tay run rẩy của mình lên viên ngọc lưu ly ấy. Nhẹ nhàng cầm viên
ngọc lên, tôi tưởng như làn da của ngón tay mình đang nếm trước được vị ngọt
ngào, thơm đến suội người ra đó. Cầm viên kẹo để chạm nhẹ vào môi, tôi dừng lại
một chút, cố tưởng tượng xem cái vị ngọt của kẹo nó như thế nào, trước khi cho
vào miệng. Tôi không thể tưởng tượng được! Mới có 5 năm mà tôi đã quên tiệt.
Năm năm này, tôi không được nếm một tí đường lần nào. Không tưởng tượng lại
được vị ngọt thì bây giờ ta cho mi biết! Tôi bỏ chiếc kẹo vào mồm nghe đến
“xèo” một cái, tưởng như cho con cá vào chảo mỡ nóng đang sôi. Tôi đổ vật nằm
ngửa xuống sàn, mắt nhắm lại, lịm người đi. Trong mồm, lưỡi tôi cứ đẩy vào cái
kẹo rồi lại rụt ra, xong lại đẩy vào, như người nhạc sĩ búng thử dây đàn. Trong
cuống họng tôi hình như có trăm nghìn cái miệng bé tí đều há hốc ra, chờ giòng
nước ngọt ấy chảy vào.
Chao ôi! Sao cái kẹo
lại ngọt và thơm đến như thế, hỡi cuộc đời? Tôi xin đại diện loài người cảm tạ
ông trời, ngài đã thương yêu loài người quá thế! Ai muốn nói thế nào thì nói,
chứ tôi cứ xin trang trọng tuyên bố: tôi rất sung sướng và tự hào làm loài
người. Nếu có kiếp sau, tôi xin “đăng ký một kiếp nữa, chứ chả như cụ Nguyễn
Công Trứ xin làm… cây thông: “Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng
giữa trời mà reo”…đâu!
Hết cái kẹo, tôi ăn một
cái bánh ngọt, rồi hút một điếu thuốc lá. Người tôi cứ dật dờ, như chiếc thuyền
con trong một chiều lộng gió, ngoài cửa sông.
Mãi đến lúc này, tôi
mới nhớ tới…cô Vân. Mà lạ thật, tôi có đề nghị cô cho tôi bồi dưỡng, bồi diếc,
hay mua cái này, cái kia cho tôi đâu! Điều này là hoàn toàn do… cô. Vậy mà khi
nãy, cô lại nói trước mặt tên Dư: “theo anh đề nghị…”. Chính cái điều này, cái
điều tại sao cô lại phải “không” thẳng thắn như vậy, phải chăng?…, hay là…? Nếu
như thế…thì thực là khó hiểu!
Buổi trưa hôm đó, tôi
đang nằm lim dim cặp mắt để mặc cho thân xác nổi trôi với thuyền, với nước,
thoáng nghe có tiếng động khẽ ở cửa. Tôi mở mắt ra nhìn, rồi vội vàng bò nhỏm
dậy, đi ra sát cửa sổ con. Cô Vân đang đứng đấy, không nói một lời, mắt nhìn
tôi đăm đăm. Vẫn hai ngón tay trắng muốt vịn vào trong song cửa, hờ hững. Tôi
nhìn hai mắt cô, rồi nhìn hai ngón tay của cô để trên mép dưới cửa sổ. Xà lim
vắng lặng lạ thường. Hai mặt gần nhau đến độ, tôi ngửi được cả hơi thở của cô.
Tôi nhìn thấy rõ những sợi lông tơ, ở trên mép của cô. Vài sợi tóc buông lơi,
theo từng cơn gió nhẹ đẩy đưa, vật vờ quấn vào những chấn song cửa sổ. Môi cô
mấp máy như nói điều gì đó, nhưng tôi không nghe thấy tiếng.
Trong cái giây phút
ngàn đời, tay tôi như muốn đưa lên đặt vào hai ngón tay trắng muốt ấy, chỉ cách
mặt tôi chừng 7, 8 phân. Tôi đã cố gắng mấy lần, nhưng sao tay tôi như cứng
ngắc, nặng như cánh tay sắt. Tôi không làm sao có thể nhắc tay lên được theo ý
mình muốn.
Một tiếng nói như ở
đâu, rất xa:
- Anh đã hút thuốc
chưa?
Tôi bàng hoàng, ngập
ngừng, nói mà không suy nghĩ:
- Trong xà lim buồn,
tôi thích hút thuốc lào hơn.
- Anh đừng hút thuốc
lào nữa!
Tôi ngút ngắc như ý
mình vẫn giữ, nhưng không nói ra lời. Nhìn chiếc túi áo sơ-mi của cô cứ động
đậy, gồ lên, thụt xuống, hồn tôi như bay đâu mất.
Chỉ nói được mấy câu,
rồi hai người lại đứng yên, chả biết nói gì. Một lúc, tự nhiên cô nói trống
không:
- Bây giờ phải xuống
chợ Hôm!
Tôi muốn hỏi: “xuống
chợ Hôm làm gì?”, nhưng chưa dám, cô đã gật gật cái đầu như chào, hai mắt cô
chớp chớp lia lịa, tay cái cửa sổ nhỏ lại. Cô đóng cửa sổ xong, đi ra rồi, tôi
vẫn còn đứng ngây như người gỗ.
Bao nhiêu câu hỏi, thắc
mắc trong đầu chưa được trả lời. Có phải cô có cảm tình với tôi chăng? Tôi chưa
thể kết luận được, phải chờ xem đã. Tôi quay vào, lấy một điếu thuốc nữa ra
hút, để nghe: Tiếng đời xua động! Để cho: Võng lòng đu đua!
72.
Người bạn tù … “Lôi Hổ”
Chiều hôm đó, sau khi cơm nước, trả bát xong, trời đang
nắng tự nhiên tối sầm lại. Mới 4 giờ chiều mà tưởng như trời sắp tối. Có những
tiếng ầm ầm, ì ì như cối xay lúa ở xa xa, càng lúc càng rõ dần. Bây giờ như có
mấy xe lửa đang chạy trên trời, suốt từ Đông sang Tây, rồi từ Nam lên Bắc. Trời
đang chuẩn bị mưa lớn.
Bỗng một làn chớp xanh
lè, rồi một tiếng nổ xé tai làm rung chuyển cả Hỏa Lò. Trên mái, đã nghe thấy
những tiếng lộp độp của những hạt mưa thưa. Càng lúc, tiếng lộp độp cành mau
hơn. Thỉnh thoảng vẫn có những làn chớp lóa mắt, kèm theo những tiếng nổ lúc
xa, lúc gần. Bỗng, tôi chợt nghe lẫn trong mưa gió tiếng gì… đầu tiên như tiếng
sáo diều, rồi mỗi lúc một to dần, để cuối cùng thành tiếng… còi hụ báo động!
Tôi như choàng tỉnh
khỏi một cơn mơ, khi những tiếng nổ rền như bắp rang của súng đạn: những tiếng
“pọp, pọp, pọp…” của trung pháo, tiếng “cùng, cùng, cùng…” của đại liên, tiếng
“ùng ục, ùng ục…” của đại pháo… Tiếng trung pháo nghe ngọt nhất. Lúc đầu, tôi
còn phân biệt rõ được từng loại pháo; nhưng sau thì lộn tùng phèo! Tiếng sấm,
tiếng sét, tiếng bom, tiếng súng, tiếng tên lửa, tiếng mưa rơi…rối rít tít mù!
Tôi chả còn biết đường nào mà rờ nữa. Tôi đứng thẳng lên trên sàn, dựa vào cửa
sổ lớn nhìn ra sân xà lim, vừa nhìn mưa rơi, vừa nghe súng nổ.
Thế này là, các anh phi
công đã lợi dụng những đám mây đen, lợi dụng trời mưa gió, sấm chớp để vào Hà
Nội. Phải nói, trận này các anh đánh thật đẹp. Nhưng, như tôi đã trình bầy, các
anh đánh để có công tác vậy thôi, chứ các anh có đánh gấp đôi như vậy, cũng
đừng hòng Cộng Sản thay đổi thái độ, hoặc theo ý các anh. Đánh miền Bắc! Không
sử dụng quân bộ thì không có cách thứ hai để giải quyết đâu!
Sau gần một tiếng đồng
hồ, trận không tập mới dứt. Cùng lúc đó, trận mưa của đất trời cũng tạnh. Sau
cơn mưa, trời lại sáng; nhưng sau cơn bom, chắc bên ngoài Hà Nội đang có nhiều
chỗ có tiếng than khóc, xen lẫn tiếng rên la. Trong chiến đấu, tất nhiên là
phải có máu chảy thịt rơi rồi.
Không khí sau trận mưa
dìu dịu mát. Tôi vẫn bần thần dựa đầu vào lưới thép cửa sổ, dõi mắt nhìn những
chiếc gương to, nhỏ nhiều hình thù khác nhau để ngửa, rải rác khắp đó đây trên
mặt sân. Thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ lướt qua làm những tấm gương nhăn mặt,
như cáu giận nàng gió lả lơi cợt đùa.
Đứng mãi một thế, mỏi
chân. Tôi vừa quay người lại, định chuyển thế đứng thì mắt tôi nhìn thoáng qua
khung cửa sổ buồng số 5. Một bộ mặt tai tái, với đôi
mắt sáng lên vẻ mừng rỡ
khi nhìn thấy tôi. Tôi mỉm cười và giơ tay làm hiệu chào người bạn xóm giềng,
chứ lúc này lòng tôi đang ngổn ngang nhiều nỗi, chả còn thiết trò chuyện linh
tinh. Tôi làm hiệu chào, định không nói chuyện, nhưng rồi tôi lại đổi ý. Tôi ra
hiệu tay cho anh biết cách thức, rồi viết cho anh như kiểu tôi thường “nói
chuyện” với chị Bắc trước đây. Tôi hỏi:
- Bị bắt lâu chưa?
Anh cũng viết trả lời:
- Bị bắt 4 tháng rồi.
Tôi hỏi tiếp:
- Mới về đây hơn nửa
tháng, vậy mấy tháng trước giam ở đâu?
- Xà lim, ở trại giam
Thanh Trì, Hà Nội.
Như thế, Hà Nội lại còn
một trại giam nữa ở Thanh Trì, tôi nghĩ thầm, rồi tiếp:
- Trước ở đâu?
- Ở Sài Gòn, bên Chợ
Lớn!
Tôi giật mình, hỏi
tiếp:
- Tội gì?
- Lực lượng Biệt Kích
“Lôi Hổ”!
Chà! Lại một đồng chí,
một chiến hữu nữa! Tôi mừng rỡ, hết hẳn vẻ mỏi mệt hỏi tiếp:
- Nhảy ở đâu?
- Vùng giải phóng,
chiến khu “D” (tức miền Nam).
————————————-
Sau cuộc nói chuyện,
tôi biết sơ lược về anh như sau:
Anh tên là Lưu Nghĩa
Lương, 24 tuổi, người Việt gốc Trung Hoa, ở số 276 đường Bà Hạt, Chợ Lớn. Anh
đi một toán gồm 6, 7 người, trong đó có một người Mỹ làm cố vấn. Nhảy trực
thăng vào một vùng trong chiến khu “D” để tìm dấu vết địch. Anh đã nhảy nhiều
lần. Lần này, không may rơi vào ổ phục kích Cộng Sản. Trong lúc bất ngờ tán
loạn, mỗi người chạy thoát thân mỗi nơi. Riêng anh, sau 2, 3 ngày lang thang
trong rừng, cuối cùng bị chúng vồ được và giong anh ra miền Bắc…
Khi đã biết Lương là
người của Sài Gòn, tôi cũng không giấu và cho Lương biết sơ lược sự thật về
tôi. Lương rất mừng rỡ, xưng em và coi tôi như một người anh. Vì Lương vẫn còn
phải thỉnh thoảng đi cung, nên với những kinh nghiệm sẵn có, tôi góp ý cho
Lương một số vấn đề để khắc phục bớt những nhược điểm của mình, cũng như nhìn
rõ một số yếu điểm của đối phương, tức là chấp pháp. Tôi cũng kể lại cho Lương
nghe sơ qua về trường hợp rất đáng thương của chị Bắc. Mãi gần về cuối cuộc nói
chuyện, Lương có vẻ ngập ngừng viết:
- Cô y tá Vân “mết” anh
lắm rồi!
Tim tôi bị bóp nhẹ, vội
vàng tôi hỏi ngay:
- Lương thấy thế nào,
lại nhận định như vậy?
Lương nói là đã mấy lần
trèo lên cửa sổ, nhìn phía sau lưng cô ấy, khi cô ấy đi vào nói chuyện với tôi.
Thật không ngờ. Tôi
cũng tiếc, nếu biết Lương là người của mình, tôi đã nói chuyện với Lương ngày
từ đầu rồi. Chắc chắn, Cộng Sản không hể biết được phương pháp liên lạc “viết”
này. Nếu chúng biết, chả khi nào chúng lại giam Lương và tôi đối diện với nhau.
Tôi cũng nói thật những
suy nghĩ của mình về cô Vân: về một mặt nào đó, cô Vân cũng chỉ dưới mắt mình
thôi, chúng ta coi khinh. Khinh ở đây là giữa địch và ta, giữa hai luồng tư
tưởng hoàn toàn đối nghịch nhau. Nhưng, trong trường hợp này, phải nói, cô ta
chẳng bao giờ thèm để ý đến những người như chúng ta. Chúng ta đã thất bại, rơi
vào tay chúng rồi, hãy cam phận là một tên tù, đừng chơi vơi mà mang nhiều tủi
hận.
Ngược lại, tôi không
hiểu Lương căn cứ vào đâu lại dám có ý kiến khác hẳn. Nào là, theo Lương thấy,
cô Vân rất hách dịch, đã cùm bao nhiêu người rồi; ngay cả số 4 cạnh buồng
Lương, anh chàng có vẻ học thức thế mà cô ta cũng tố cáo với Dư, để anh chàng
phải cho chân vào “cạm”. Nhưng riêng với tôi, cô ta lại đối xử khác hẳn. Vả
lại, nhiều buổi trưa, cô ta vào đứng nói chuyện với tôi. Nào là, Lương bảo đảm
cô Vân đã để ý nhiều đến tôi. Lương đề nghị là trong hoàn cảnh tù đầy như thế
này, tôi hãy cứ tiến tới, lợi dụng để cho đỡ buồn cảnh sống, trong xà lim hoang
vắng âm u.
“Nói” chuyện với Lương,
tôi thấy lòng len lén dâng lên một thứ tình cảm thân thuộc ấm cúng. Vừa là đồng
chí, vừa như tình anh em. Tôi hỏi Lương có hút thuốc lá không? Mắt Lương sáng
lên như ngọn đèn mờ sắp tắt, lại được đổ thêm dầu. Lương nói là từ ngày bị bắt
đến hôm nay, thèm một điếu thuốc kinh khủng mà chưa hề có một hơi thuốc lá nào
cả, chứ đừng nói là một điếu.
Buổi tối hôm ấy, sau
khi xác định là không có cán bộ, tôi liền làm theo cách thức đưa kim cho chị
Bắc trước đây. Lần này, tôi nối lại thành hai dây do bốn sợi chỉ chăn, mỗi sợi
dài khoảng hai mét. Tôi cột một mẩu cuống chổi vào một đầu chỉ, rồi búng mạnh
sang sát cửa buồng của Lương. Lương lấy một cọng chổi thanh hao có móc ngoéo ở
đầu, luồn ra qua khe cửa, móc kều sợi chỉ vào. Đầu bên này, tôi đã buộc sẵn
những điếu thuốc lá, diêm và 3, 4 cái kẹo. Tôi và Lương chỉ việc lựa, lần tay
kéo về. Làm kiểu này, chúng tôi tha hồ chuyển cho nhau những vật theo ý mình.
Trong lúc chuyển kéo
dây, tôi chợt nhớ đến chị Bắc. Một nỗi buồn thương cảm dâng đầy, nặng trĩu
trong lòng. Nếu bây giờ chị còn ở đây, bao nhiêu kẹo bánh, tôi sẽ chuyển sang
cho chị bồi dưỡng hết. Tôi chỉ ăn mỗi thứ một cái thôi, để gọi là biết mùi, còn
thì hút thuốc lá.
Lương cảm ơn tôi rối
rít và càng giục tôi tiến tới, để anh em có kẹo, có thuốc hút. Thấy Lương nghĩ
và nói như vậy, tôi cho là Lương chủ quan, nghĩ chuyện đời quá đơn giản. Chứ
theo tôi, sự việc chẳng phải dễ dàng. “Người ta” có lập trường giai cấp của
“người ta” chứ!… Tuy nhiên, những lúc nằm không, tôi cũng đã vẩn vơ suy nghĩ:
hơn 5 năm trời ở xà lim, đã mấy lần tôi tưởng không còn thể sống được nữa; khi
tấm thân tôi phù thũng, khi thì người như con cá khô, chỉ còn da bọc xương; chả
khi nào nghe thấy ai nói chuyện “bồi dưỡng”; vậy mà bây giờ tự nhiên lại có
chuyện như ở trên trời rơi xuống đất thế này! Nhất là dạo này, sau gần hai
tháng ăn thêm được một phần cơm của chị Bắc, người tôi lại có xương, có thịt
nhất kể từ khi vào tù. Rồi, đôi mắt cô Vân tại sao lại nhìn tôi thế? Tại sao,
buổi trưa cô hay vào mở cửa sổ nhỏ buồng tôi nói chuyện? Với bao nhiêu câu hỏi
tại sao, chẳng câu nào tôi trả lời rõ ràng được.
Buổi tối nay, không
biết là rằm hay 16 của tháng cuối Hạ, đầu Thu, mà trăng thật sáng? Mảnh trăng
tròn vành vạnh như thách đố, với những đám mây đen nặng chịch, đang bò lổm ngổm
như những con sâu róm từ hướng Đông về hướng Tây Nam trên nền trời tím xậm.
Tôi đang đứng ngắm
trăng để hồn say sưa, dập dờn bay đây đó, chợt cổng xà lim mở rộng. Tôi thụt
ngay người xuống, nhưng mắt vẫn còn thoáng nhìn thấy một mái tóc xõa tung,
buông dài, với cánh tay trần cắp chiếc thau men. Cô Vân tối nay lại vào tắm.
Chẳng hiểu sao, tôi thấy tim mình đập mạnh và nhanh hơn.
Tôi ngồi xuống sàn,
không dám đứng lên nữa. Nghe tiếng mở cửa nhà tắm, rồi tiếng nước chảy, người
tôi tự nhiên nóng dần lên như vừa nhắp một chú rượu đời. Lạ thật! Tôi thật là
lẩm cẩm. Tại sao mình lại như vậy? Tôi chẳng còn hiểu nổi ngay chính mình nữa!
Lý trí đã hiện rõ hai chữ “không được”, vậy tại sao còn lẩm cẩm hão huyền?
Tôi nằm xuống, chuẩn bị
những đồ chống muỗi, đi ngủ. Tôi muốn đi vào giấc ngủ ngay, nhưng trong khi tôi
nằm nhắm mắt, tiếng nước chảy, tiếng động của chiếc thau men xát xuống mặt nền
xi măng cứ như cào vào đầu, làm người tôi rần rận nóng lên, thì làm sao tôi ngủ
cho nổi. Nếu tôi có quyền, tôi sẽ không cho ai vào xà lim tắm nữa.
Dù tôi không muốn,
nhưng tôi vẫn biết cô Vân đã tắm xong. Thậm chí, tôi còn nghe thấy cả tiếng
động nhẹ của chiếc thau men để lên bàn trực nữa. Im ắng, không có tiếng bước
chân ra cổng xà lim. Tôi vẫn nằm lì, nhắm mắt, cố dỗ vào giấc ngủ. Mồm bịt kín
trong chiếc khăn che muỗi, tôi vẫn lẩm bẩm nói với lòng: “Đừng chơi vơi nữa
thuyền ơi!”
Đột nhiên, một tiếng
quát giật giọng của cô Vân từ phía ngoài sân xà lim:
- Anh kia, đứng lên làm
gì?
Rồi tiếng bước chân vội
vã, xền xệt từ ngoài sân đi vào. Tiếng cửa sổ nhỏ buồng 14 nghe “xoạch”:
- Anh nào vừa đứng lên?
Tiếng một thanh niên:
- Xin cô bỏ qua cho,
tôi thấy trời sáng trăng đẹp, nên vừa đứng lên.
Tiếng chỏng lỏn, rấm
rẳn:
- Mai anh sẽ nói như
thế với cán bộ trực ở đây này!
Tiếng cửa sổ nhỏ đóng
mạnh, tiếng bước chân đi ra, rồi lại im ắng. Như thế, hẳn cô Vân đang đứng ở
sân. Tôi đã buộc người để đi ngủ; tôi đã cưỡng lại với lòng mình; đến nỗi bỏ cả
một buổi trăng tròn cuối Hạ. Thế nhưng, tôi vẫn không ngăn được giòng tư tường
của mình: cô này “hắc” thật, con gái gì mà dữ thế! Được! Để tôi thử khả năng
quan sát của cô, xem cô nó bắt được tôi không? Đặt giả thuyết, nếu cô ta bắt
được, cũng đành một tuần bị cùm để dứt chuyện “chơi vơi”.
Nghĩ vậy, tôi liền ngồi
bật dậy, tụt đầu, tụt tay, tụt chân ra khỏi đồ nghề chống muỗi. Vuốt lại đầu
tóc một tí, rồi tôi lựa thế, ngửa hẳn mặt lên trần, và từ từ nâng mặt lên sát
mép cửa sổ.
Ngoài sân là một bức
tranh tuyệt vời. Dưới ánh trăng huyền ảo của đêm Hè là một thiếu nữ đang độ
xuân thì, căng đầy nhựa sống. Da cô đã trắng, cô lại mặc chiếc quần đen ống nhỏ
bó sát, làm lẳn lên đôi chân thuôn dài. Chiếc áo lót mùa Hè cũng màu đen làm
nổi bật đôi cánh tay trần và chiếc cổ dài lấp loáng trong làn tóc mây. Hai cánh
tay như hai thỏi sáp thỉnh thoảng lại uốn éo, hất, hong mái tóc huyền trong gió
dưới trời trăng. Mấy cành bàng nhỏ trĩu lá xanh lắc lư theo gió, nhiều lần sà
xuống như muốn vuốt ve, chiêm ngưỡng một tuyệt tác thiên nhiên. Dăm chiếc lá
bàng khô mãi từ góc sân đàng xa đang rủ nhau mượn gió lăn dần về phía bóng giai
nhân. Một mùi nồng, ngậy, ngòn ngọt của thịt da quyện vào mùi ngai ngái của lá
hô, của rêu mốc làm cho trong mũi tôi ngứa lên như có rận bò. Tôi tiếc rằng lúc
này phải chi mình là một nhà thơ, một họa sĩ, hay một nhà văn để tôi tả, tôi vẽ
được đủ nét bức tranh “trăng tròn đêm Hè” này.
Thỉnh thoảng, cô Vân
vẫn nghiêng nghiêng cái đầu, nghênh ngó đưa mắt nhìn suốt lượt các cửa sổ lớn
của xà lim trông ra ngoài sân, vậy mà cô chả nhìn thấy tôi. Điều này, càng
chứng tỏ phương pháp của tôi là hữu hiệu, an toàn (có thể sau này sẽ có lúc cần
thiết tôi phải dùng đến). Tự nhiên, một ý tưởng ngông cuồng thoáng đến trong óc
tôi:
“Cứ đứng thẳng người
lên, nhìn đường hoàng, cho cô nàng thấy, xem thử thái độ của cô ra sao?”.
Chẳng hiểu do từ nguồn
thúc đẩy nào làm tôi “dũng cảm” thế! Tôi nhô đầu lên, tựa trán vào lưới thép,
nhìn cô.
Đôi tay của cô vẫn trải
dài, buông lơi để hong những lọn tơ huyền, tôi hơi hồi hộp, đợi chờ. Kìa, cô đã
ngửng lên. Mặt cô hướng về cửa sổ buồng tôi. Tôi chờ…một tiếng quát để cắt đứt
“mối tơ vương” không nhằm chỗ của mình. Nhưng không, cô mở to mắt nhìn tôi, hai
cánh tay cô ôm chặt vào ngực, cứ tưởng như không mặc áo. Đôi môi cô mấp máy,
rồi nở thành một nụ cười! Rồi, cả cặp mắt của cô như cũng cười theo nữa!
Dưới ánh trăng, xà lim
càng vắng lặng, bốn mắt cứ nhìn nhau, im lặng. Một cơn gió thoảng qua, những
chiếc lá bàng run rẩy đập vào nhau gây lên những âm thanh rì rào, xào xạc. Tay
cô vẫn ôm ngực. Tôi lúc này, người cũng đờ ra như tượng gỗ. Hình như có một sức
hút ngấm ngầm nhưng rất mạnh đâu đây, đã từ từ kéo cô từ sát tường phía bên kia
tiến dần, tiến dần đến phía dưới cửa sổ buồng tôi! Bây giờ, cô và tôi chỉ còn
cách nhau chừng hơn một mét. Một đám mây đen kéo đển che lấp mặt chị Hằng. Cả
người cô Vân đổi thành màu xám xậm; nhưng đôi mắt của cô lại ánh lên như hai vì
sao nhỏ long lanh. Một tay cô bỗng giơ vào quãng không về phía tôi. Môi trên
của cô cong rướn lên, người cô như muốn xiêu đổ về phía cửa sổ tôi đang đứng.
Bàn tay tôi cũng tự dưng chậm chạp đưa lên, run rẩy, quờ quạng xoa lên tấm lưới
thép.
Phút này thật là nguy
hiểm. Nếu có một cán bộ từ ngoài cổng xà lim đi vào, ăn làm sao, nói làm sao
bây giờ đây? Chẳng biết rồi chuyện gì sẽ xảy ra? Có lẽ Vân cũng chợt cảm thấy
như vậy. Có thể dăm phút vừa qua, hai linh hồn đã thoát xác bay bổng, bây giờ
mới gọi nhau trở về nhập vào hai tấm thân. Cô bàng hoàng như sực tỉnh một giấc
mơ, quay vào bàn trực lấy cái thau, rồi từ từ đi ra cổng. Đến cổng, cô còn
ngoái lại, đứng nhìn tôi một lúc, rồi mới khép cánh cổng, ra về.
Tôi quay vào, đứng lên
sàn, nhìn sang buồng số 5. Lương viết nói với tôi:
- Khi nãy cô Vân quát,
em tưởng cô ấy quát anh em lo quá chừng. Sau, biết là số 14, em mới an tâm. Có
thế chứ! Hôm nào anh cứ thử đứng lên nhìn cô ở ngoài sân xem sao?
Tôi chả muốn cho Lương
biết chuyện vừa rồi, vì lại phải dài dòng kể lể nên tôi chỉ gật đầu nói là để
xem sao. Lương động viên, khích lệ tôi. Đang nói chuyện với Lương, tai tôi
thoáng nghe có tiếng dép đi nhẹ ngoài sân, liền vẫy tay ra hiệu cho Lương ngồi
xuống. Một lúc sau, qua cách mở cửa và tiếng “đằng hắng”, tôi biết là tên cán
bộ Kế, chuẩn úy người miền Nam, đi kiểm tra nhận ca trực đêm. Vậy cũng đã 9
rưỡi, 10 giờ rồi, tôi lại chuẩn bị các “thủ tục” chống muỗi để đi ngủ.
Tôi nằm nhắm mắt, nhưng
đầu óc vẫn cứ vương vấn với những hình ảnh vừa qua. Chuyện này cũng thật gay go
đây. Nhưng, như vậy thì lại càng hấp dẫn, lôi cuốn. Tôi và cô cứ phải giữ thế
của mỗi người, phải lựa ý nhau, nay một tí, mai một tí, từ từ. Cô Vân có cái tự
ái của một cán bộ, không phải một lúc mà cô có thể xé bỏ ngay được. Còn tôi,
tôi cũng có lòng tự trọng của mình, không thể nài xin, và lại càng không được
quyền tiến trước, như một chuyện tình cảm bình thường, mà phải đóng vai thụ
động.
Có một điều khiến tôi
cứ băn khoăn mãi không giải thích nổi. Đó là, không nói gì ở ngoài Hỏa Lò, hay
trong ngành công an; mà ngay trong Hỏa Lò này, gần 200 công an vũ trang toàn
loại thanh niên trẻ, thiếu gì người coi được, tại sao cô Vân lại để ý đến một
tên tù trọng phạm? Về mặt lý trí, cô thừa hiểu, tôi có thể chết, không chết
trẻ, cũng chết già trong nhà tù; tôi lại còn phải chìm nổi đọa đầy nơi rừng
sâu, hay biên cương hẻo lánh… Vậy, cô còn “lắc lư” làm gì cho tím thẫm cả hai
cõi lòng? Phải chăng, cô cũng không thoát ra được khỏi, cái chung của người đời
là chỉ thích những chuyện…không bình thường?
Tôi cứ trằn trọc mãi,
rồi thiếp đi trong giấc ngủ mờ màng. Bỗng tai tôi nghe có tiếng gọi rất nhẹ,
nhưng thật rõ:
- Anh Bình ơi! Anh
Bình!
Tôi bật nhỏm dậy, rút
đầu ra khỏi bao, nhìn về phía cửa sổ nhỏ. Một chiếc mũi ghé, thò hẳn vào giữa
hai cái song sắt của cửa sổ. Hai con mắt đen láy nhìn tôi đầy thương cảm. Tôi
rút vội hai tay ra khỏi “bao tay”, tôi tiến tới sát cửa sổ. Hai mặt thật gần
nhau, một làn hương ngầy ngậy phả ra làm ngây ngất hồn tôi. Cô Vân nhìn tôi một
lúc, rồi nói trống không:
- Mãi không ngủ được!
Tôi chỉ yên lặng nhìn
cô, và ngúc ngắc cái đầu, ý bảo cô đừng nói nữa, đừng lên tiếng nữa.Chẳng hiểu
sao, bỗng hơi thở cô dồn dập, tay cô run run đưa cho tôi một gói thuốc lào,
loại hai hào và một gói thuốc là Điện Biên. Cô nói thật nhẹ, thật khẽ vậy mà
tôi vẫn cảm thấy làn hơi thở của cô thơm nồng, quyện trên mặt tôi:
- Anh hút ít thuốc lào
thôi đấy nhé!
Lòng tôi đang xốn xang,
hồi hộp nên chỉ gật đầu mà không thể nói lên lời. Tuy vậy, khi một ý định từ nãy
chợt trở về óc tôi, tôi nói luôn:
- Mai đừng báo cáo ông
Dư về buồng 14 nữa!
- Em không muốn các
buồng họ nhìn. Nếu không thế, họ làm loạn xà lim lên ấy!
Trong thâm tâm, tôi
thừa nhận ý kiến của Vân là đúng. Dù vậy, tôi vẫn nhắc lại một lần nữa:
- Ngày mai đừng báo cáo
ông Dư về buồng 14!
Có lẽ vừa rồi, tôi đưa
ý kiến một cách bất chợt, cô chưa phản xạ kịp nên xưng “em” một cách rất tự
nhiên. Nhưng ngay sau đó, cô cũng thấy hơi ngượng ngùng, nên cô lại nói trống
không. Khung cửa sổ nhỏ có 6 khoảng trống tạo bởi 5 song sắt. Ở hai khoảng
trống chính giữa, hai đầu ngón tay trỏ và giữa của cô Vân vịn vào, như thể đỡ
cả người cô đang cúi đầu sát cửa sổ. Tôi cũng để hai ngón tay trỏ và giữa của
mình ở hai khoảng trống bên cạnh, mặt cúi sát gần mặt cô. Tôi hỏi cô một câu,
cũng trống không:
- Mấy giờ rồi?
- 12 giờ rồi!
Cô cũng trả lời không
có chủ từ, túc từ như trước. Chợt, cô nhấc hai ngón tay cuả cô lên, rồi vô
tình, để lên hai ngón tay của tôi. Như có ma lực, tự nhiên hai ngón tay của
tôi, cứ xoắn xuýt lấy hai ngón tay của cô.
Đêm khuya vắng lặng,
không hẹn, cô với tôi cùng thở dài. Rồi cuối cùng, chả biết tự lúc nào, tay
phải của tôi, đưa ngón tay trỏ ra bên ngoài để tay trái của cô cấm lấy; và tay
phải của cô cũng đưa ngón trỏ vào để tay trái của tôi giữ. Cứ như vậy, chúng
tôi “nắm” tay nhau. Bốn mắt nhìn nhau, chả nói một câu nào nữa.
Tôi và cô lúc này lại
thả hồn lửng lơ bay khắp bốn phương trời. Không gian, thời gian, thế giới và cả
xà lim đều tan biến. Cho đến khi có tiếng động bên ngoài cánh cổng xà lim, cô
và tôi đều bàng hoàng bỏ tay nhau ra. Cô đóng lẹ cửa sổ rồi nhanh chân đi vào
nhà tắm.
Cũng vừa lúc ấy, có
tiếng chùm chìa khóa ném lên bàn trực nghe cái “xoảng”. Một bóng người đi “tua”
hết lượt qua các buồng. Cũng là lúc cô Vân trong nhà tắm đi ra. Có tiếng cô
Vân:
- Chú Đại trực ca này
à?
Giọng khàn khàn của
ngan đực:
- Phải, cô còn thức
khuya thế!
Không có tiếng trả lời.
Tiếng bước chân cô Vân đã tới cổng xà lim rồi.
Hôm sau, Lương lại có
nửa bao thuốc lá Điện Biên hút. Tôi cũng nói cho Lương biết là đã nói với cô
Vân cho buồng 14. Ngày sau đó, khi Dư vào, rồi suốt cả ngày, chúng tôi cùng
nghe ngóng xem thái độ của Dư với buồng 14 ra sao. Nhưng, vẫn im lìm, không có
chuyện gì cả. Như thế, lời nói của tôi với cô Vân đã có tác dụng. Chắc hai anh ở
số 14 cũng băn khoăn thấp thỏm không ít. Riêng anh bạn trẻ nào đó sẽ ngẩn ngơ,
chẳng hiểu vì sao lại không bị cùm. Có thể anh sẽ nghĩ, biết đâu cô y tá đã đối
xử đặc biệt với anh! Để rồi anh sẽ có những giấc mơ…hồng từng đêm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét