CHƯƠNG 58
Thế là hắn đã bị bịt kín mọi lối. Chỉ còn một
chút ánh sáng ở con đường dẫn đến ông Hoàng. Lại một lần nữa hắn được gặp ông
Hoàng ở nhà khách thành phố vào một buổi tối. (Gần như những dịp về công tác
tại P, có điều kiện, ông lại gặp hắn). Hắn thuật cho ông nghe mọi chuyện, từ
chuyện ông Trần tới chuyện ông Khuổng. Ông nghe và im lặng.
Hắn không thấy vẻ bực bội trên khuôn mặt nhân
hậu của ông, mặc dù rõ ràng như vậy là những người cán bộ cũ của ông gây ra
việc oan trái nhưng không chịu sửa. Hơn thế, họ còn quyết chống lại ông, tuyên
chiến với ông. Hắn lo sợ, vì hắn, ông đã bị xô đẩy vào một tình thế khó xử. Hắn
nhìn ông như người có lỗi.
Ông giở cặp, lấy bút giấy ra viết. Đó là bức
thư gửi giám đốc, bí thư đảng uỷ xí nghiệp đánh cá, nơi ông đã dự kiến cho hắn
về làm việc. Là thủ trưởng của ngành, việc ấy với ông không gặp khó khăn. Nhưng
còn cái giấy của tiểu khu. Ông hiểu chuyện ấy. Có lẽ chính ông sẽ phải xuất
tướng để giải quyết cái việc cỏn con mà quan trọng này. Người ta đi làm mà cũng
không cho. Thật không thể hiểu được. Cuộc sống sẽ ra sao, chế độ sẽ ra sao, nếu
những việc như vậy tiếp diễn, bất chấp đạo lý, dư luận và lý tưởng của Đảng...
Đồng chí Tổng Bí thư nói nếu nhìn một phụ nữ đẩy xe bò mà trong lòng không xúc
động thì không còn là người cộng sản nữa. Ông nghĩ tới điều ấy vì ông bỗng thấy
mình đơn độc. Lòng con người với con người xơ cứng lại rồi. Người ta dửng dưng
trước những đau khổ xảy ra với người khác. Hoặc ít nhất, người ta im lặng.
Chẳng có bộ luật xử những người im lặng trước nỗi đau khổ của người khác. Nhưng
phải thấy đó là điều đáng sợ đối với xã hội. Đó là sự đồng loã, là môi trường
để cho cái ác phát triển”. “Thương người như thể thương thân”. Câu ấy không
thấy nhắc lại nữa. Vì nó không mang tính giai cấp. Hay xã hội ta tốt đẹp, không
có những con người đáng thương nữa?
Đôi mắt ông đượm buồn, và hắn biết hắn là
nguyên nhân nỗi buồn của ông. Hắn đỡ lá thư ông vừa viết gửi lãnh đạo xí nghiệp
đánh cá, nghe ông căn dặn, động viên. Hắn muốn quì xuống cám ơn ông. Ra về, hắn
nghĩ về ông. Ông như một nốt nhạc lạc lõng trơng dàn nhạc. Hẳn nhiều lúc ông
thấy mình rất cô đơn...
Ngọc không nói gì khi xem bức thư của ông
Hoàng. Nàng lại thắp hương. Bên cạnh cái nhìn trần thế giờ đây nàng có cái nhìn
xa vắng. Cái nhìn hướng về một nơi nào đó xa vời, thăm thẳm. Nàng bảo hắn:
- Mai anh xuống xí nghiệp, đưa thư của ông
Hoàng đi. Ngày mai tốt ngày đấy.
Giờ thì Ngọc tính toán rất kỹ ngày tốt ngày
xấu. Hắn đi về phía cuối thành phố, nơi đặt trụ sở của xí nghiệp đánh cá với
bức thư của ông Hoàng. Và những kỷ niệm lại đến với hắn. Hàng phi lao, nơi đây
một lần hắn đã mua mấy cân cá mực vào dịp mồng hai tháng Chín do anh thông tin
viên của xí nghiệp đã làm sẵn hoá đơn. Hàng phi lao đã to thế này, nhưng hắn
vẫn nhận ra nhờ khúc đường nhựa lượn cong và con lạch dẫn nước thải đen chảy về
phía bờ sông. Hắn cân mực chính ở chỗ này, chỗ có cái cống này. Và bãi sú bỗng
hiện ra. Một dòng sông mải miết trôi xuôi.
Những cánh hải âu bay lượn. Đó chính là điều
hắn vẫn nghĩ tới những trong ngày đêm bị nhốt ở một lòng chảo giữa rừng. Hắn
như ngửi thấy mùi thoáng đãng của biển cả.
Điều đó chỉ tăng thêm sự hồi hộp khi hắn tới
gặp ông giám đốc, ông bí thư đảng uỷ để đưa bức thư của ông Hoàng. ở đây người
ta đã biết mọi chuyện về hắn. Ông Hoàng đã nói chuyện. Họ nhìn hắn dưới góc độ
của ông Hoàng. Thật vô cùng thuận lợi.
Ông trưởng phòng tổ chức tiếp hắn, tôn trọng,
cởi mở và thông cảm. Thật khác với những ông trưởng phòng tổ chức được miêu tả
trong các sách thời đó. Thời đó người ta bắt đầu chán kiểu viết xuôi chiều.
Người ta viết và cũng muốn gai góc trong những điều mình viết. Bí thư đảng uỷ,
giám đốc thì không dám đụng đến vì giám đốc đại diện cho chính quyền, bí thư
đại diện cho Đảng. Đụng đến các ông ấy là đụng đến chế độ, là khốn khổ cả đời.
Các ông ấy không thể có khuyết điểm nhất là khi đã được điển hình hoá trong văn
học. Nếu có đáng phê bình thì chỉ có thể là “đồng chí quá thẳng thắn thành ra
đôi khi hơi nóng nảy”, hoặc như Bình nói: “Đồng chí làm việc nhiều quá, khuya
quá, ít chú ý giữ gìn sức khoẻ để làm việc lâu dài. Sức khoẻ của đồng chí không
còn là của riêng đồng chí. Nó thuộc về nhân dân. Nó là tài sản của nhân dân.
Tôi thẳng thắn phê bình đồng chí. Dù đồng chí có hiểu nhầm tôi, nhưng tôi có
bổn phận...” Vậy thì đành lôi mấy ông trưởng phòng tổ chức ra hành, vì ông là
lãnh đạo, nhưng chỉ ở mức độ nào thôi. Trên ông đã có những người mẫu về đạo
đức, về trí tuệ, về tác phong. Đó là giám đốc, là bí thư, những người đại diện
toàn năng cho chế độ.
Ông trưởng phòng tổ chức nói rất thành thật:
- Có chỉ thị trực tiếp của anh Hoàng, chúng
tôi chấp hành thôi. Không có vấn đề gì đâu. Anh không phải lo lắng gì cả. Anh
về làm cho chúng tôi cái đơn và giấy giới thiệu của phòng lao động khu phố.
ắn chết lặng. Hắn đã biết đó là thủ tục bắt
buộc phải có, nhưng vẫn hy vọng mình được ngoại lệ, vì ông Hoàng giới thiệu và
đảm bảo. Hắn càng hiểu cái đòn của ông Khuổng (thực ra là của ông Trần - Ông
Trần đánh chưởng qua tay ông Khuổng) là hiểm. Ngón đòn hắn không thể nào đỡ
được. Đứng trước ngón hiểm đó hắn chỉ có thổ huyết. Cuộc đấu này giữa hắn và
mấy ông không đồng cân đồng lạng. Hắn đã bị đo ván, không gượng dậy được, mà
mấy ông còn xúm lại chơi đòn hội chợ diệt cho đến chết. Biết rằng không bao giờ
ông Trần cho hắn gặp nữa, nhưng hắn vẫn đến Sở, đăng ký xin gặp. Còn biết bấu
víu vào đâu. Khi ông Khuổng nói: “Tôi chỉ thị cho tiểu khu rồi. Tiểu khu không
được ký giấy cho anh đi làm”, thì chỉ có ông Trần mới giải được câu bùa chú đó
thôi. Hắn không được gặp ông và hắn nghe tin ông đi học Nguyễn ái Quốc. Đó là
cửa ải ông bắt buộc phải qua, là Vũ Môn để cá chép hoá rồng.
Một chút hy vọng mơ hồ, mỏng manh mà hắn cố
nhen nhóm đã tắt lịm.
Thôi. Đành chết trong cuộc sống.
CHƯƠNG 59
Tôi tin lời ông bác sĩ nào đó đã nói với Chủy,
nhưng tôi nghĩ đó còn là vấn đề khác nữa. Đó chính là sự sống đã thắng cái
chết. Cuộc sống mới đủ sức xoá đi những đau khổ cũ. Cuộc sống mới tuy còn cả lo
âu và những khó khăn, nhưng có rất nhiều niềm vui lớn.
Hắn đọc lại một lần nữa những câu cuối cùng
trong truyện ngắn Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương của hắn. Truyện kể về một
chị công nhân xi-măng hoạt động bí mật bị Pháp bắt, tra tấn dã man. Đến lúc lấy
chồng (một anh thợ lò nung) mỗi khi mang thai chị lại bị ngất và thai sẩy.
Trong những lần ngất đi ấy những vết giày đinh phòng nhì Pháp giẫm lên chị năm
nào lại hiện về rõ mồn một, tím bầm trên người chi những lỗ tròn nhỏ của đầu
đinh, cái gót hình vành cung có cá sắt và cái mũi bè bè của đôi giày lính.
Những vết giày đinh ở bắp tay, ở lưng, ở cổ, ở ngực chị. Chiến tranh qua đi
nhưng cái bóng dáng ghê tởm của nó chưa chịu buông tha người ta ngay đâu. Sau
nhiều lần sa sảy, cuối cùng chị cũng đã vượt qua được tất cả, cái mầm sống
trong người chị cũng vượt qua được tất cả. Chị sinh con. Mẹ tròn con vuông. Và
từ ấy những vết giày đinh trên người chị biến mất. Những cơn ngất bất thình
lình biến mất. Ông bác sĩ bảo đó là sự chuyển hoá trong cơ thể người phụ nữ sau
khi sinh đẻ. Nhưng hắn nghĩ đấy là sự sống đã thắng cái chết, cuộc sống mới đủ
sức xoá đi những đau khổ cũ...
Truyện viết lấy ý từ một cô gái Lâm Động, bí
thư chi đoàn khi hắn từ báo T về Lâm Động viết bài cho số báo xuân. Cái chi
tiết những vết giày đinh tuồng như bịa đặt, nhưng lại là sự thật với cô bí thư
chi đoàn, cô gái cùng quê, bạn hắn. Thời ấy cứ cùng lứa tuổi cùng chí hướng gặp
nhau là bè bạn...
Hắn nhìn lại dòng ngày tháng hắn đã ghi khi
hoàn thành truyện ngắn. Năm tháng ấy chẳng gợi một ý niệm gì. Một ngày nắng hay
một ngày mưa. Lúc viết xong là chiều, sáng hay đêm khuya. Chẳng làm sao nhớ
được.
Ngồi mơ màng một lúc, hắn gấp mấy tờ giấy đánh
máy lại, cho vào túi ni-lông đựng thư từ. Đó là những trang bản thảo của hắn
còn giữ lại được trong số trên một ngàn trang đã bị tịch thu. Nhớ Phượng.
Phượng đánh máy thêm một bản mà không ngờ đó là bản duy nhất còn lại đốl với
chính người đã viết ra nó.
Hắn đọc Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương
lần này là lần thứ ba. Ba lần đọc. Mỗi lần một ý nghĩ khác nhau. Đã đành “văn
mình, vợ người”, nhưng hắn đọc lại không phẫi để thưởng thức, nhấm nháp văn
chương của hắn. Hắn đọc để trở về quá khứ. Đời hắn bây giờ chỉ còn quá khứ.
Truyện ngắn ấy như hắn nghĩ, nói được hắn. (Viết bao giờ cũng là sự tự thể hiện
mình, dù viết về ai, về điều gì. Hắn lúc nào cũng tin như vậy). Nó nói được
khát vọng của hắn, của mọi người về một cuộc sống tốt đẹp hơn, niềm tin vào
cuộc sống mới đó. Khi hỏi cung, các ông công an có vặn vẹo hắn về quan diểm,
lập trường, nhìn đời den tối, kêu ca, bất mãn... hắn đã dẫn chứng phản bác lại
bằng những trang viết của hắn mà các ông ấy đã tịch thu, trong đó có “Vợ chồng
người thợ xóm Chiêu Thương”. (Hắn rất muốn nói thẳng với các ông ấy rằng, hắn
có quyền bất mãn với những cái xấu và sự bất mãn đó là tích cực, là cách mạng,
nhưng không dám. Thôi, đừng khiêu khích các ông ấy làm gì).
“Cuộc sống mới tuy còn cả lo âu và những khó
khăn, nhưng có rất nhiều niềm vui lớn”. Ngày xưa hắn thành thật tin như vậy.
Bây giờ đọc lại hắn thấy mình quá ngây thơ. Nỗi đau còn quá nhiều. Nỗi đau còn
quá lớn. Nó chỉ thay đổi vẻ mặt, thay đổi y phục mà thôi. Nhiều người đã nhận
ra điều ấy, trong đó có hắn. Nhưng còn rất nhiều người chưa nhìn thấy. Lại có
vấn đề “đôi mắt” .
“Đôi mắt ngày ấy còn là đôi mắt trẻ thơ mà đã
bị qui là phản động rồi. Và đó chính là cái mày gọi là cuộc sống mới”. Hắn chua
chát nghĩ. Hắn lẩm bẩm rằng chính bọn hắn phải chịu trách nhiệm về những gì
đang xảy ra trái với những mục tiêu của cách mạng. Hắn cùng bao người đã thành
thật ca ngợi cách mạng. Đẩy lên thành sự tô hồng. Rồi đẩy quá nhanh tốc độ của
sự tô hồng mà thành thật tin rằng mình chỉ nói sự thật hoặc báo trước sự thật.
Để sau này nhìn ra thì không hãm được nữa. Tốc độ ấy cuốn theo cả những người
đã tạo ra nó. Bọn hắn vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Và hắn lại thấy đổ vỡ,
trống rỗng. Một lỗ sâu hoác, không đáy. Cảm giác trống rỗng của thất vọng, của
niềm tin sụp đổ. Thà cứ được là con chiên loá mắt trước Chúa, trước nước thiên
đàng, còn hơn bỗng nhiên chẳng thấy ảo ảnh đâu mà chỉ có thực tế trần trụi. Và
hắn bỗng nhớ tới Dự. Hẳn Dự cũng đã trải qua những cảm giác ấy. Cho dù có đơn
giản hơn, nhưng vẫn là những cảm giác ấy.
Đó là những gì hắn nghĩ khi đọc lại truyện hắn
viết lần thứ nhất...
Lần thứ hai hắn đọc để rồi đem đốt đi. Sau khi
xuống xí nghiệp đánh cá trở về, hắn ra phòng lao động gặp ông Thưởng, hỏi ông
về cái giấy giới thiệu đi làm. Ông Thưởng nói như người có lỗi:
- Thằng Khuổng hiểm quá. Nó rất cáo. Nó không
dám đặt vấn đề với tôi, mà nó nói với tiểu khu chúng tôi không thể làm được hồ
sơ cho anh. Đó là nguyên tắc.
Rồi ông tiếp:
- Tôi cũng đã xuống tiểu khu. Đúng là thằng
Khuổng đã chỉ thị cho họ như vậy, nhân danh khu uỷ. Bậy bạ thế chứ. Tôi cũng ở
trong khu uỷ . Khu uỷ nào có nghị quyết như vậy.
Hắn cũng đã làm đơn lên tiểu khu, xin được đi
làm. Ông phụ trách tiểu khu nhìn hắn vừa như ái ngại, vừa như khinh bỉ:
- Hiện nay chưa có việc gi cho anh đi làm đâu.
Hắn nói rõ là có nơi nhận hắn. Ông tiểu khu
như đã biết mọi chuyện:
- Đâu thế mà được. Cơ quan, xí nghiệp nào cần
người phải có chỉ tiêu về phòng lao động. Phòng lao động phân bổ cho các tiểu
khu. Trên cơ sở ấy tiểu khu mới tuyển. Anh hiểu không? Không thể làm sai nguyên
tắc được.
Hắn lại xuống xí nghiệp, chầu chực gặp ông
trưởng phòng tổ chức. Ông trưởng phòng tổ chức khẳng định một cách rất vô tư
rằng không có giấy của phòng lao động thì không thể tiếp nhận hắn dù có chỉ thị
trực tiếp của Tổng cục trưởng.
- Với lại tôi cũng không giấu anh làm gì. Bên
an ninh họ can thiệp vào chuyện của anh dữ lắm. Chưa đâu vào đâu, họ đã xuống
đây hỏi han, dò xét và nói dứt khoát anh chỉ đựợc đi lao động.
Hắn chân tình nói với ông Thưởng:
- Tôi biết anh đối với tôi rất tốt, nhưng việc
này ngoài ý muốn của anh. Tôi chẳng bao giờ quên được tình cảm của anh dành cho
tôi.
Hắn hoàn toàn tuyệt vọng. Nguyền rủa cuộc đời,
nguyền rủa số phận, nguyền rủa những người rượt theo đánh hắn khi hắn đã ngã
gục, hắn quyết làm lại từ đầu. Hắn phải quên hắn đi. Phải chính mình cũng không
biết mình là ai như già Đô đã làm. Cài trái cửa, hắn lấy bộ quần áo tù ra ngắm
nghía, mặc vào người và đứng trước gương. Tấm gương tây vuông vắn mà thằng Hiệp
đánh vỡ hồi nó lên ba, hắn giữ lại mảnh to nhất, vẫn dựng trên bệ lò sưởi.
Trong mảnh gương vỡ, một anh tù CR 880 viết bằng sơn đỏ trên ngực. Chiếc quần
dải rút xám, số đỏ ngang đùi CR 880. Đây mới thật là hắn. Là cái cuộc đời dành
cho hắn. Là cái đã tồn tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại cùng với hắn. Thành thật
thú hết tội lỗi còn giấu giếm hoặc chưa nói hết. Thật thà tố cáo tội lỗi của
đồng phạm và bọn phản cách mạng mà mình biết dù chúng đã bị bắt vào trại hay
còn ở ngoài xã hội...
Nội quy đấy. Nào. Thử xem còn thuộc nội qui
không. Hắn lẩm nhẩm trong óc và lẩm nhẩm thành lời lúc nào chính hắn cũng không
biết.
Điều 8. Không được trao đổi tội lỗi cảa mình
với người cùng giam. Không được trao đổi khi đi khai cung về hoặc nói những
điều đã khai cho người khác biết.
Điều 9. Cấm mang vào trại những loại kim khí,
dao, que sắt, vật nhọn sắc, gạch đá, dây thừng, thuốc nổ, dây cháy chậm, mìn,
kíp mìn, các loại chất độc nước hay bột, quần áo bộ đội, cảnh sát, rượu, thuốc
phiện. Không mang vào buồng giam những loại giấy bút, sách vở, diêm, bật lửa,
dao cạo râu nếu không được phép của ban giám thị.
Điều 10. Không được lén lút mang giấy thông
hành, chứng minh thư, các loại giấy chứng nhận khác, tiền nong vàng bạc vào
trại. Ai có tiền, vàng bạc phải ghi lưu ký, lấy biên lai. Nêú có thể thì cho
gửi về gia đình.
Điều 11. Không được tự ý đổi chỗ nằm và đi quá
phạm vi đường cấm qui định ở trong trại. Không được sang khu vực khác, buồng
khác. Không được đứng hát, nói chuyện, gọi tên người khác cùng giam ở khu vực
khác trong trại. Không được tự ý mở cửa sổ con ở buồng giam riêng (xà lim).
Điều 12. Không được dùng bất cử hình thức gì
để thông cung liên lạc giữa người nọ với người kia ở trong và ngoài trại.
Điều 13. Không được chuyển thư từ đồ vật cho
bất cứ ai...
Hoá ra hắn vẫn nhớ rất rõ từng điều trong bản
nội qui. Thì đã bao đêm mất ngủ, hắn cứ đứng ở buồng giam, trước cái bể đựng
nước uống, cạnh chỗ nhóin trung tâm nằm, nơi sạch nhất, xa nhà mét nhất, thoáng
đãng nhất, học 37 điều nội qui ghi kín một bức tường. Không phải một mình hắn.
Nhiều người nữa. Đứng im lặng trong đêm khuya dưới ánh điện vàng vọt lầm rầm
như người cầu nguyện. Đứng im lặng ở lối đi giữa hai sàn gỗ, hai bên là hai dãy
màn thấp sít nhau. Lúc thì tất cả buồng như thiếp đi. Lúc rộ lên những tiếng mê
sảng: “Khéo ngã! Khéo ngã! Con!”. “ối giời ơi! Lạy các ông. Đau quá! ự. ự”. “Mẹ
ơi! Con ăn nhé!”. Lạ nhất là mọi người cùng thi nhau nói mê một lúc. Rồi những
tiếng lầu bầu, tiếng nghiến răng, tiếng thở dài, chóp chép mồm khi trở mình. Và
lại im bặt cùng một lúc. Những khi tù vào nhiều (thường là trước Tết) phải nằm
ngủ dưới nền xi-măng ẩm ướt gầm sàn, chân thò ra cả chỗ người đứng học nội quy,
nơi ấy có một rãnh nước chạy dọc buồng giam.
Chỗ trước bể nước ấy lúc nào cũng có nhiều
người đứng. Đứng một lúc tê chân lại về chỗ, chui vào màn. Nằm ê ẩm lại ra đấy
đứng. Đứng đó khi đã có kẻng cấm là phạm nội quy. Nhưng đứng đó học nội quy thì
được, thì không phải là vi phạm nội quy. Và dù bất kỳ lúc nào dậy ra đấy lẩm
nhẩm “sôi kinh nấu sử” cũng thấy hai ảnh tù trực ca ngồi giữa buồng giam. Cạnh
cái sọt đựng điếu cày, gục đầu xuống gối im lặng. Hắn quên nhiều thứ. Trí óc
hắn mụ mị, nhưng những điều trong bản nội quy hắn vẫn nhớ rành rành vì nó nhập
tâm rồi! Hắn còn nhớ những điều ấy được viết như thế nào trên tường, đến chữ
nào thì xuống dòng, chữ nào đã tróc sơn. Hệt như hắn vẫn nhớ cả tranh vẽ minh
hoạ đi kèm theo những bài học trong các sách “Đồng ấu”, lớp Dự Bị khi hắn mới
lên bảy, lên tám đi học ở trường làng và giờ đây vẫn có thể đọc thông một mạch:
“Năm nay tôi lên bảy. Tôi đã lớn. Tôi không chơi đùa lêu lổng như những năm còn
bé...” “Thầy bảo anh Xuân đọc. Anh đứng dậy, hai tay cầm quyển sách...” Hay Nhà
ga. “Nhà ga là nơi xe lửa đậu để cho khách lên xuống. Ga nào cũng có chỗ bán
vé, chỗ cân hàng...”
Hắn phấn khởi vì trí nhớ hắn vẫn khá, dù chỉ
khá ở mặt nhớ nội quy nhà tù. Và hắn lại tìm cách thử trí nhớ một lần nữa. Hắn
tự bảo: Không đọc thứ tự Đọc thứ tự thì ai chả thuộc. Đọc ngay điều 25 Cấm ăn
những thức ăn thiu, sống, rau sống quả xanh và các thứ mà ban giám thị cấm.
Đúng! Điều 18 Cấm không được tự ý sửa chữa quần áo của trại phát hoặc cho mượn.
Đúng rồi. Nhân đôi lên xem nào 18 nhân 2 là 36. Điều 36! Bị can là phạm nhân
nào vi phạm nội quy này tuỳ theo mức dộ nặng nhẹ mà xử lý theo các hình thức
sau:
- Cảnh cáo ghi hồ sơ.
- Đình chỉ viết thư, nhận quà có thời hạn.
-Phạt giam buồng riêng. Cùm một chân từ l đến
7 ngày.
- Truy tố trước pháp luật.
Đọc luôn điều 37 đi. Điều 37. Điều cuối cùng.
Chính dòng này chữ M hoa ở đầu câu bị tróc sơn đây. Mỗi bị can và phạm nhân
được vào trại trong vòng hai ngày phải học tập nội quy này để nghiêm chỉnh chấp
hành, tuân theo.
Rõ ràng thừa chữ được. Được bị bắt. Được vào
trại giam. Được đóng thuế. Được đi dân công. Nhưng đứng ở góc độ nào mà phân
tích thì chữ được dùng đúng, chứ không sai đâu, không thừa đâu. Được vào trại
giam nghĩa là được cứu vớt, được ngăn chặn. Để khỏi mắc những tội to hơn, khỏi
phải tù lâu hơn. Đó là vì lợi ích chính mình. Được đóng thuế xây dựng đất nước.
Đất nước của ai? Của mình. Đóng thuế là xây dựng cuộc sống cho chính mình. Đây
là vấn đề chỗ đứng. Là lập trường. Có lập trường đúng mới phân biệt được hiện
tượng với bản chất. Cùng là hiện tượng đóng thuế nhưng khác nhau về bản chất.
Cùng là việc đi phu, nhưng với ta là nghĩa vụ công dân. Cũng là hiện tượng đi
tù. nhưng khác nhau về bản chất. Mình đi tù cho chính mình. Vì tương lai của
mình. Mà cũng không phải là đi tù. Đấy là đi cải tạo. Chính xác lắm. Không cãi
vào đâu được. ở nước ta ai cũng là nhà ngôn ngữ học.
Tự tra khảo mình về bản nội quy, lan man sang
chuyện chữ nghĩa, hắn lại lấy thư ra đọc. Thư con Nguyệt năm nó lên 6 tuổi. Thư
đầu tiên của Ngọc gửi vào xà lim 76 báo tin Ngọc mang bầu thằng Dương. Thư ông
Chân gửi vào trại cho hắn. Và đọc lại Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương một
lần nữa. Rồi đốt. Phải chặt bằng được quãng đời trước quăng đi. Quên đi. Đừng
luyến tiếc làm gì. Hắn đưa xếp giấy đánh máy bản thảo vào gần ngọn đèn không có
thông phong. Tay hắn run lẩy bẩy. Một góc giấy bắt lửa. Hắn nhìn ngọn lửa vàng
đang liếm vào góc giấy mà thấy người bỏng rát lên như chính hắn đang bị đốt
cháy. Mồ hôi đầm đìa, hắn vội vàng lấy - cả bàn tay ấp lên lửa. Hắn gục đầu im
lặng.
Hôm đó nhà vắng. Ngọc đi làm. Lũ trẻ đi học.
Bé Dương về quê với ông bà từ tuần trước. Hắn xem lại những trang bản thảo.
Ngọn lửa mới bắt vào phần lề. Cũng có trang mất ít chữ.
Hắn hiểu rằng hắn vẫn cứ là hắn. Chẳng thể nào
khác được. Chẳng thể nào đốt cháy quá khứ thành tro. Chẳng thể nào thay hết máu
trong người, thay cả tim, cả óc. Không thể đầu hàng. Hắn bỗng nhớ đến già Đô và
nghĩ: Không biết già có đầu hàng không? Hay chỉ thua thôi. Đi trên đường phố
hắn để ý tìm bóng dáng quen thuộc của già, nhưng không thấy. Hắn đau xót nghĩ:
Có thể già đã chết rồi. Đám ma già có những ai? Có đông bằng đám ma Xìn Cắm,
đám ma Ôtenlô không?
Hắn đang định bàn với Ngọc, bán mấy cân mì lấy
tiền đi Hà Nội gặp ông Hoàng, thì Bình tới. Bình bảo Bình nhận cho hắn một suất
hợp đồng với nhà xuất bản về tập sách những điển hình tiên tiến, mà trong đó
không thể thiếu được người gác đèn biển. Hắn viết cái bút ký về người gác đèn.
Hắn đọc Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương một lần nữa để tìm lại cái hơi văn
đã quên đi.
“Kỷ niệm về biển, kỷ niệm về người”. Anh Lê.
Bình xuýt xoa với cái tít.” Khá quá. Mày vẫn là thằng đặt tít vô địch”. Không phải
ngẫu nhiên có cái tên ấy đâu Bình ơi. Biển chỉ còn là kỷ niệm. Người cũng chỉ
còn là kỷ niệm. Kỷ niệm xa vời và đã chết hẳn rồi. Hắn viết. Say mê. Dồn nén.
Không giống cái truyện ký trước cũng viết về người gác đèn, nặng về thuật thành
tích, đây là những khao khát khi còn đang trong lò lửa luyện đan thèm một ngọn
gió mát rượi hơi nước từ chân trời thổi đến. Là hôm đi lấy than trong rừng ở
trại QN, nhìn thấy hai cô gái Mán váy áo hoa văn sặc sỡ, vòng bạc sáng loá,
lông mày cạo nhàn nước da vàng vọt, bỗng nhiên thấy xao xuyến, hiểu rằng một
nửa thế giới là phái đẹp và mình đã đánh mất cuộc đời. Là hôm lấy phân xanh ở
VQ, tự nhiên nghĩ tới con cá mòi khô và ao ước nhặt được nó trên đường. Bài
viết có con chim hải âu bị chém cánh bay đến thả mình cạnh nhà đèn. Anh gác đèn
nhận ra nó giữa hàng trăm nghìn con hải âu khác. Có nỗi nhớ cồn cào một bàn tay
bật công-tắc điện những lúc nhá nhem để căn buồng sáng bừng lên... Hắn viết và
biết rằng đây là lần cuối cùng hắn còn viết được, viết hay. Hắn như bị hút vào
trang giấy.
Và cũng trong một đêm khuya ngồi viết, hắn
bỗng cảm thấy Ngọc đứng sau lưng. Hắn ngửa người về phía sau, chạm đầu vào ngực
nàng. Nàng ôm lấy đầu hắn. Hắn nói như người bị bắt quả tang đang làm một việc
xấu xa:
- Anh chỉ viết lần này nữa thôi.
Ngọc nói, thương xót:
- Không hay gì cái nghề này đâu. Nó đã làm
chúng ta khổ cả đời rồi.
Hắn viết rất nhanh. Chưa đầy một tuần lễ. Vừa
nháp vừa chép lại. Bình kêu lên:
- Trong sáng quá. Tao không ngờ mày vẫn trong
sáng như vậy.
Bình ơi! Lòng chúng ta có bao giờ không trong
sáng. Có bao giờ chúng ta không yêu mến con người. Có bao giờ chúng ta căm ghét
cuộc đời này. Có bao giờ chúng ta thù ghét ca dao Bình nhìn tên tác giả: Anh
Lê. Anh bảo:
- Đến một lúc nào đó phải công bố đây là sáng
tác của mày. Phải trả cho Xêda những cái gì của Xêda.
Có biết bao Xêda trên cuộc đời này. Hắn phải
viết văn chui, đội cái tên phải đổi của Bình. Bình phải đổi tên. Anh Lê. Và Lê
Bàn thì đang cố làm cho tên mình xuất hiện ở mọi nơi để nó trở thành quen
thuộc. Báo tường ở tiểu khu. Vài dòng lượm lặt gần xa đăng ở góc trang về những
ai béo nhất thế giới, ai nhổ nước bọt xa nhất thế giới. Bình được nói rõ: Vẫn
được in nhưng phải đổi tên. Còn Bàn thì không ai nói gì. Người ta chỉ không in
của anh thôi. Tức là một án treo lơ lửng. án treo có cái nguy hiểm là người ta
lảng tránh anh như ngày nay người ta xa lánh người bị bệnh AIDS nhưng cũng có
cái lợi là không chính thức tuyên án. Anh tận dụng điều này. “Nụ cười”, “Lựợm
lặt gần xa”, ý kiến bạn đọc yêu cầu không vứt chuột chết ra đường. Ký Lê Bàn.
Tiến lên viết những bài nếp sống văn hoá mới trên đài phát thanh. Cái loa Ngã
Bảy thỉnh thoảng lại vang lên những bài của Lê Bàn dạy mọi người cách chào hỏi,
cách cảm ơn, cách xin lửa hút thuốc lá, cách vào bệnh viện thăm bệnh nhân. Dù
đang khốn nạn nhưng vì cái tính hài hước chưa chết hẳn, hắn bảo Ngọc và lũ trẻ:
- Im. Nghe bác Lê Bàn dạy mọi người cách hỏi
thăm đường...
Chương trình “Phục hồi nhân phẩm”của Lê Bàn
còn kéo dài kiên trì, dai dẳng.
Phải nói Lê Bàn có một khả năng vô tận về mặt
này. Tiến lên một bước cao hơn, anh viết bài dự thi do Mặt trận Tổ quốc tổ
chức. Giữa những bài viết của các vị hoà thượng, linh mục, các nhân sĩ, vàn
chương anh cứ lấp lánh lên. Anh trúng giải và so với các vị cai quản các xứ đạo
các thượng thư triều Nguyễn, anh còn là con nít. Anh ăn thêm một giải nữa, giải
dành cho những người viết văn trẻ vì anh chưa đến sáu mươi hai. Trong thời gian
ấy anh vẫn viết chui, đứng tên những người mới viết. Giao dịch với nhà xuất bản
là họ, lĩnh nhuận bút là họ, anh được một phần họ đưa cho. Đã có người nhờ anh
mà trở thành tác giả quen thuộc, những uỷ viên chấp hành chi hội văn nghệ địa
phương. Làm thuê cho những tác giả mới, anh có giọng văn của người mới viết,
anh biết phải viết như thế nào trong một đoạn để nhà xuất bản có thể góp ý yêu
cầu sửa chữa.
Hẳn là có nhiều Xêda. Những gì phải trả cho
Xêda hẳn là không ít. Nhưng đến bao giờ điều ấy được thực hiện? Nó quá xa vời,
nó huyền viễn theo cách nói của bố.
Bình đánh giá cao sáng tác mới của hắn, nhưng
hắn lại coi là một thứ tầm phào. Ai cũng viết được cái hắn vừa viết xong. Hắn
vẫn có tật ấy. Suy nghĩ về những điều đã viết và thể hiện nó trên giấy giống
như một trò thi đấu thể thao. Thích thú. Say sưa. Và như mê mụ đi. Nhưng tới
khi viết xong thì chán. (Khi in xong lại càng chán nữa). Chán mình vì mình chỉ
làm được có vậy. Thấy rõ khả năng hạn chế của mình. (Rổi đi tuyên bố sẽ bẻ bút,
không viết nữa để bị kết luận là bất mãn và biến thành tội phạm).
Đưa bản thảo cho Bình, hắn coi như việc ấy đã
kết thúc. Giờ đây có mong là mong sách in ra để được ít đồng nhuận bút. Bài này
nhà xuất bản có tính mạt hạng cũng phải trên trăm đồng. ý nghĩ ấy động viên hắn
nhiều hơn.
CHƯƠNG 60
Rừng lại đang ở trước mặt hắn. Không phải một
khu rừng thông thường. Rừng già QN đang ở trước mặt hắn. Hai năm sống ở QN hắn
chỉ nhìn thấy nó từ góc độ đứng trong lòng chảo của trại. Hôm nay đi từ dốc U
vào hắn nhận ngay ra nó. Một dải xanh thẫm, chất ngất, nhấp nhô, uyển chuyển
giàng hàng, trùng điệp. Hơi nước, hơi sương hay mưa bụi mờ mờ. Những sắc độ
thẫm nhạt tuỳ theo nhưng đoạn uốn lượn của rừng. Rừng già nào chẳng vậy. Thế
nhưng dù lần đầu tiên đi từ phía U này, lần đầu tiên từ góc độ ấy, hắn vẫn nhận
ra nơi hắn ở trong lò nung luyện. Bên kia nếp rừng lượn này là lòng chảo đã lưu
đầy bọn hắn, ở nơi ấy rừng vút lên bốn chung quanh, ở nơi ấy Dần khi ngồi lê
nhổ cỏ đã hỏi hắn:
- Thế này là làm cỏ vê đây phải không?
Hắn đã nói về từ corvée mà ta phiên âm là cỏ
vê dùng để chỉ một công việc khổ sai. Chẳng cứ gì nhổ cỏ, chẳng cứ gì trong tù,
ngoài đời cũng có bao người phải làm cỏ vê.
Đỉnh núi chất ngất kia là nơi Sáng đã ở năm
ngày liền khi trốn trại mà không sao vượt được. Chỗ nào cũng có người, có chó.
Và những viên đạn đã lên nòng. Cứ lối này đi vào là đến trại cá. Nhà bò ở phía
bên kia. Chỗ Gò-Thằng-Công đi xuyên qua một rẻo rừng, một nương sắn, tới cái
dốc xoai xoải cạnh tường rào trại, Lê Bá Di đã cho hắn bãi cứt trâu ở đó. Còn
lối ra trại, lối ấy qua lò vôi, tới một con đường rải đá đối xứng với con đường
hắn đang đi tới. Hắn đã mấy lần đi lối ấy. Một lần từ 75 đi vào. Một lần từ đó
về 75, tưởng được tha. Rồi lại từ 75 trở lại, sau mấy ngày nằm khàn ở 75. Một
lần nữa đi ra, khoá chung tay với già Đô, ngược lên VQ.
Hắn vừa đi vừa nhớ lại. Đường mòn ăn vào bìa
rừng xoai xoải. Cỏ quệt vào chân. Lá cây vờn ra, có những cành tưởng đánh vào
mặt làm hắn quay vội đi tránh theo phản xạ tự nhiên.
Một bên là rừng cao vút. Một bên là suối. Suối
QN không trộn đi đâu được. Nước trong và cạn. Chảy nhanh trên những hòn sỏi,
hòn cuội như xếp ở đáy suối. Những hòn đá to rải rác rẽ nước làm hai. Những cây
cao bên bờ xoè tán lá. Thấp thấp bên suối là những cây vú bò, cây lưỡi hổ, mua
và dương sỉ.
Lần theo con suối này sẽ đến được khu nuôi cá.
ở đó có một người tù huyền thoại mà hắn đã gặp một lần cách đây ba năm, khi hắn
được làm chân coi vườn. Trời ở đó rộng ra. Đất ở đó rộng ra. Núi thấp dần khiến
có cảm giác rừng như nới rộng vòng vây. Một mình hắn từ vườn trong đi tới. Nghe
rõ tiếng chân dội vào rừng. Hôm ấy là chủ nhật. Chặt ít cải bắp cho bếp trại và
hái nửa lồ su su cho bếp cán bộ, hắn về bếp lấy cơm. ăn xong, lẽ ra cầm màn
xuống suối đơm cá, hắn băng rừng về phía trại cá, về phía người tù huyền thoại.
Hăm hở quên cả mệt nhọc, quên cả thân phận tù
đầy hắn đi và nghĩ đến Cần, người tù lâu nhất nhì trong cả nước. Người tù cùng
một trại nhưng mấy ai biết mặt. Anh ta cũng giống như châu úc hồi đầu thế kỷ
người ta nói đến mà không đi đến bao giờ. Hắn chỉ biết anh ta người miền trong.
Họ Ngụy Như, một dòng họ nổi tiếng. Anh ta tù từ ngày đầu chống Pháp. Trước cả Nguyễn
Văn Phố. Anh ta không có khái niệm gì về mậu dịch, về tem phiếu, những sản phẩm
của chế độ đến với từng người mà thiếu nó cuộc sống không còn là cuộc sống. Khi
lên trại VQ hắn mới biết tiếng tăm của Cần vượt khỏi trại QN đến tất cả các
trại. Bao nhiêu người hỏi hắn:
- Anh có tù với Ngụy Như Cần không?
Dự còn vênh mặt lên:
- Tôi cùng một toán với Ngụy Như Cần, ở với
Ngụy Như Cần mãi đây.
Dự bốc phét đấy. Thấy người sang bắt quàng làm
họ đấy. Dự chưa hề cùng toán với Cần. Khi Dự từ Phố Lu về đây thì Cần đã trông
trại cá rồi. Dự nhận vơ thế để cho oai, để được anh em kính nể.
Người ta nhắc đến Cần vì Cần vượt ra ngoài
khuôn khổ. Cần là tận cùng của sự chịu đựng. Là nguồn an ủi cho những ai sa vào
tù tội. Cần như ngọn đèn Long Châu xa xôi, mù mịt tít chân trời đêm đêm toả
sáng mà những người gác đèn rải rác cửa sông trong này hướng về để tự động viên
mình. Có ai tù lâu như anh? Hai mươi ba năm. Không gia đình. Không người thân
thích. Anh vẫn sống. Mỗi người tù ít nhiều đều nhận ở anh một nguồn sức mạnh động
viên, một lời an ủi mà anh không biết.
Anh lại càng được nhiều người nhắc đến vì gần
như không ai biết mặt anh. Vì những con lợn rừng anh bẫy được khiêng về sân cơ
quan, những gánh cá tươi rói gánh về bếp cán bộ, những con rết to bằng cái đũa
cả dài hơn gang tay bò dựng đứng lạo xạo trong những cái chai cán bộ xách từ
chỗ anh về để ngâm rượu. Người ta bảo anh là gián điệp Pháp. Có người lại bảo
là người của Mỹ, nắm mạng lưới tình báo cả miền Trung. Có người bảo anh đã vận
động thanh niên chống lại cách mạng... Nhiều tin. Khác nhau. Nhưng giống nhau ở
một điểm: Anh chống lại cách mạng. Và không được xử. Hẳn những người bắt anh
cũng không ngờ sẽ giữ anh lâu đến thế. Và anh cũng không ngờ anh bị tù lâu như
thế.
Hắn đến gặp anh. Vượt qua một cánh rừng. Tới
con suối bên kia rừng. Là cứ xuôi theo suối. Vừa nhô ra khỏi vạt rừng, bắt gặp
con suối chặn ngang, con suối dẫn tới Ngụy Như Cần, hắn bỗng khựng lại vì suýt
vấp phải đàn bướm. Một dải bướm vàng bay ngang qua mặt hắn. Hàng triệu con bay
dọc suối. Những cánh bướm màu hoa cải như một dải lụa dập dờn trên không trung
uốn lượn theo con suối ngoằn ngoèo. Nó từ đâu trôi tới và còn đi đâu nữa. Nó
trôi giữa những hàng cây bên suối cành lá khum khum làm thành một đường hầm. Nó
cong xuống sát mạt suối để tránh một tán cây xoè ngang. Nó bốc lên vì một cành
cây khô gẫy nẳm chỏng chơ trên suối. Những cánh bướm vàng tươi, mỏng manh giống
hệt nhau bay theo một hướng như trảy hội, quấy động không khí, lấp lánh lấp
lánh trên nền xanh đen nghiêm nghị của rừng.
Im lặng quá.
Như không có cả tiếng suối chảy róc rách. Như
một huyền nhiệm của vũ trụ, như sự bình yên thuở sơ khai. Và như một lời trách
móc đối với hiện tại. Lời trách móc của quá khứ gửi về hiện tại. Hắn đứng nhìn
đàn bướm, những cánh bướm xinh đẹp, mỏng manh giống hệt nhau diễu qua và bước
theo chúng. Đàn bướm dẫn hắn đi mãi theo suối. Chúng bay như đã có một chủ
định, náo nức và kỷ luật. Không một con nào đỗ lại dọc đường. Rõ ràng chúng
phấn khởi với nhiệm vụ rừng giao: Dẫn hắn đi dọc suối. Dẫn hắn tới một người đã
biến thành cổ tích ngay khi đang sống.
Đã tới cái đập ngăn dòng suối. Hắn biết sắp
tới trại cá. Nước dâng cao, mặt nước rộng ra, trong leo lẻo, hút về một con
mương nhỏ xẻ dọc sườn núi. Đó là con đập dẫn nước đến những ao cá. Trời ở đây
như rộng ra. Vì núi thấp xuống. Vì cây cối bị đốn quang. Hắn đã nhìn thấy bảy
cái hồ hình bậc thang nối tiếp nhau. Đó là ao cá. Là nơi Cần ở. Là sào huyệt
của Cần. Như vui mừng vì đã dẫn hắn tới nơi, đàn bướm vàng tản ra, loãng ra,
quẩn lại toả trên bầu trời rộng như một đám mây vàng lớn để chào từ biệt hắn.
Rồi chúng thu lại, đậm đặc lại thành một dòng suối vàng lơ lửng chui vào tán lá
rừng, trôi trên dòng suối bạc, lẩn mình trong đó.
Hắn đã tới được nơi con người đau khổ nhất
trong những người đau khổ. Những ao cá vuông vắn ăn vào sườn núi, chạy dài, nối
nhau, công sức của những người tù đã vạc núi, khiêng đá, làm đập, xẻ mương...
Nước róc rách tràn từ ao nọ xuống ao kia theo những cửa xây. Ao cao nhất nhận
nước từ suối qua một con mương nhỏ, chảy xuống những ao dưới. Đó là một phương
pháp thay nước để nước luôn có ô- xy. Những đàn cá rô phi, cá mè... ăn nổi,
miệng ngớp ngớp, đứng xa nhìn như những giọt mưa rơi.
Lại càng tĩnh lặng.
Khi đàn bướm đã mất hút trong ngàn, lại càng
tĩnh lặng.
Nhà người coi ao cá đặt ở trung tâm, gần ao
thứ ba, thứ tư. Hắn đã nhìn thấy ngôi nhà con con dưới gốc cây lim to còn sót
lại. Cạnh đó là mấy luống rau mà khi tới gần hắn thấy một nửa là su hào, cải
bắp, một nửa là rau muống đầu mùa. Hắn bước tới căn nhà - nửa nhà nửa lều ấy.
Không có một ai. Có thể anh ta đã vào rừng. Hắn đứng nhìn quanh. Và hú. Có
tiếng chim ríu rít vọng lại, rồi một tiếng hú trả lời. Hắn nhìn về nơi ấy, một
lùm cây nhỏ rậm rạp ven rừng. Lại một tiếng hú từ đó. Một đàn chim từ đó bay
lên. Và một người rẽ lùm cây đi ra, bước về phía hắn, dáng đi quen thuộc của
những người tù vừa đi vừa chúm miệng thả vào không trnng những tiếng chim thánh
thót. Đàn chim rừng ríu rít lượn trên đầu anh ta bay theo anh ta tới giữa ao cá
mới vút vào rừng. Đó là một người xương xẩu, cao lớn. Hắn khung xương anh ta
rất to. Và anh ta có một sức khoẻ kỳ lạ để chịu đựng nhiều năm tháng đến thế.
Nhưng cũng phải nói điều ấy là nhờ trại. Anh được trại giao công việc sao cho
có thể sống đến ngày về. Tóc bạc, râu đã hoa râm, mắt lờ đờ, nhưng hàm răng còn
tốt, trắng đều. Đấy mới thật là điều lạ. Hắn nhìn dòng chữ số đỏ trên ngực áo
và ống quần anh ta: AB077. Nghĩa là đã qua Cổng Giời trước tất cả mọi người hắn
gặp. Người ấy nhìn hắn:
- Lấy cá à? Giấy đâu?
Giọng miền Nam khiến hắn lại nhớ đến anh tù
cắt tóc cho hắn hồi còn ở xà lim 76.
Người ấy là Ngụy Như Cần. Hắn lắc đầu:
- Không. Tôi coi vườn trong. Ra thăm anh, chơi
thôi. Đứng một lúc Cần bảo:
- Vào trong này.
Chẳng ra nhiệt tình, chẳng ra lạnh nhạt. Hắn
cứ tưởng Cần ở biệt lập thế này, có người ra chơi hẳn sẽ thích lắm, nhưng hình
như Cần đã quen sống một mình. quen đối thoại một mình.
Lần đầu tiên hắn bước vào lán của một anh tù
tự giác (Chỉ có ba cái lán như vậy. Của Cần nuôi cá, của Thắng nuôi ong, và của
Quí nhà bò). Một cái giường, nội vụ gấp vuông vắn để ở đầu giường. Một cái hòm
gỗ kê ở chân giường. Quần áo tù cái gấp, cái treo. Dao quắm, cuốc, xẻng. Bếp,
than, tro. Củi. Bát đũa. Nồi to nồi nhỏ. Gạo đựng trong vại sành. Chum nước...
Như một hộ độc thân ngoài đời. Cần đun nước bằng nồi. Chè có mùi ám khói. Khi
biết hắn chính là người trại đã tha, rồi lại trở lại trại, Cần nhìn hắn một lần
nữa:
- Thì ra anh.
Hoá ra dù ở biệt lập mãi đây. Cần cũng biết
chuyện của hắn và có vẻ có thiện cảm. Uống đi anh. Con người ta có số cả. Tránh
không khỏi số đâu. Anh cứ nghiệm mà xem. Biết được số mệnh của mình rồi thì cứ
vậy mà sống. Đỡ phải suy nghĩ. Đỡ được đau khổ. Thế ra anh là nhà báo à. Vâng.
Tù lâu chưa. Bốn năm rồi. Bốn năm còn khổ. Mười năm cũng còn khổ. Trên mười năm
thì không khổ nữa. Nhưng phải bặt vô âm tín gia đình cơ. Được thế, không khổ
nữa đâu.
Hắn nghe mà rùng mình. Tôi thì tù đến mấy chục
nă m cũng vẫn khổ như ngày mới bị bắt thôi, anh ơi. Anh ở một mình thế này có
buồn không? Mới đầu thì buồn, nhưng quen rồi. Lắm lúc cũng thèm được về một
toán, được nhốt, cho nó có anh có em. Bọn tôi chỉ mong được như anh. Tự do lại
không thiếu thốn. Thì cái gì cũng thế. Được cái này mất cái khác. Anh có nhớ
nhà không? Không. Quên hết rồi. Anh có nhận được tin nhà không? Không, may thế
đấy. Họ không có tin mình. Có lẽ họ cũng chết hết cả rồi. Cũng có thể còn một
số người. Nhưng mình đã quen nghĩ là họ chết rồi. Họ cũng nghĩ mình chết rồi.
Đừng để họ biết mình còn sống. Họ chỉ khổ thêm. Họ quen nghĩ là mình chết rồi.
Như thế tốt cho mình, tốt cho họ. Anh vẫn còn nhớ nhà? Thế thì còn khổ đấy. Nhà
không còn ai thì ở đây cũng được, cũng tốt. Hoặc nhà còn người nhưng quên đi
được ở đây cũng tốt. Anh quên đi sẽ thấy ở được đấy. Nhưng chưa quên ngay được
đâu. Phải trên mười lăm năm, mà phải bạt vô âm tín gia đình cơ. Quen chứ. Sao
lại không quen? Cái gì cũng quen được hết. Họ đã quen mình chết rồi thì đừng để
họ biết mình còn sống. Thì chính tôi đã quen đây. Bây giờ nghĩ về ngày trước
lại thấy mình không quen cơ đấy.
Những điều ghê gớm ấy Cần nói với vẻ thản
nhiên như nói về một người nào khác. Chẳng xúc động, đau khổ, hoặc sầu não,
than thân trách phận. Cần đã quen với sự không có họ. Họ cũng đã quen với sự
không có Cần. Chẳng bao giờ đôi bên còn nghĩ đến chuyện gặp lại nhau. Cần chẳng
một lời kêu ca oán trách rằng Cần đã tù quá lâu. Rằng bao nhiêu đợt tù vào, tù
ra Cần vẫn ở trong trại. Mọi người đều quên Cần. Và Cần thì chẳng nhớ được gì.
Cần cứ thế sống. Chẳng nghĩ. Chỉ có buổi tối vẫn còn buồn tý chút. Mười mấy năm
nay đêm nào cũng một mình mình với rừng già. Anh không sợ à? Chẳng có gì mà sợ.
Chỉ có rừng cây tối đen sâu thẳm thôi. Hổ không có. Báo cũng không. Ma cũng
không có đâu anh ơi. Giọng Cần nuối tiếc vì một hy vọng đã tắt ngấm. Hắn hiểu
sự thất vọng của Cần. Vào thời gian ấy, từ 75 trở lại QN hắn cũng mong có ma.
Mưa phùn như nén rừng xuống. Như gói rừng lại. Hắn gọi ma. Gọi con ma ở vườn
trong vẫn ngoáy mũi trêu chọc anh chăn bò ra trò chuyện. Nhưng chỉ có rừng
không biết xót thương, cũng chàng biết chuyện trò. Rưng trĩu mưa phùn thản
nhiên với nỗi cô đơn mênh mông của mình, chẳng chú ý gì đến hắn. Hắn hiểu những
đêm dài của Cần, của Thắng, của Quý. Cái khổ nhất là con người không thể biến
thành cây cỏ được.
Cần không nhìn hắn. Cần kể chuyện con khỉ cách
đây chục năm. Cần bắt được nó khi nó còn bé tý, khi nó còn bú mẹ. Sau một đêm
mưa bão, sáng ra Cần thấy nó nằm co quắp dưới một gốc cây, mắt nhắm nghiền. Nó
ướt và lạnh cóng. Cần ủ nó vào ngực, sưởi ấm cho nó. Nó cựa quậy. Nó mở mắt,
chớp chớp. Sẵn có hộp sữa chác được của một anh lâm sản, Cần pha vào bát, lấy
cùi dìa bón cho nó. Rồi nó liếm láp được sữa trong đĩa men. Cần nuôi nó lớn.
Cần bắt rận cho nó. Nó bắt chấy cho Cần. Cần dạy dỗ nó, quát bảo nó. Nó biết
nhặt rau, cho thêm củi vào bếp. Nó biết cầm đũa, ăn cơm bằng bát. Biết gắp cả
thức ăn. Anh chẳng hiểu khi có nó ở nhà, khi có nó ăn cùng, khi có nó bé con
con ngồi đối diện ở mâm vui thế nào đâu. Như có một người nữa ở với mình. Đi
đâu cũng có nó. Nó ra ao cá với tôi. Ra vườn rau với tôi. Tôi mắng mỏ, bảo ban,
giảng giải cho nó mọi chuyện.
Thế rồi việc đến tai ông giám thị. Ông ra tận
đây xem và thích con khỉ lắm. Tôi thì tôi sợ. Tôi chỉ muốn nó chuyền vào rừng,
hay ẩn vào bụi cây nào đó, nhưng nó cứ quanh quẩn trong nhà. Rồi lại nhảy lên
vai tôi, nhổ tóc bạc cho tôi trước mặt ông giám thị. Thấy ông ấy cười tán thưởng
nó càng trổ tài, cầm rổ chạy ra vườn hái rau, vặt ớt. Tất cả là tại tôi. Tại
tôi không biết dạy dỗ nó đến nơi đến chốn. Quả nhiên ông ấy bắt tôi nộp cho ông
ấy con khỉ. Khi ấy con khỉ đã to rồi. Lông vàng mượt. Nó nằm yên cho tôi đai
vào cổ nó cái vòng dây da mà ông giám thị đem đến, lim dim thích thú như được
đeo một đồ trang sức. Tôi nói thầm trong lòng: “Chạy đi. Trốn đi khỉ con” Và
chỉ muốn bấu mạnh vào nó, cho nó đau, nó sợ: nó chạy đi nhưng không dám. Thấy
sợi xích sắt nó còn thích, còn nghịch nữa cơ chứ. Mãi tới khi ông giám thị cầm
xích lôi đi nó mới hiểu. Nó cắn xích, giằng ra, không chịu đi. Nó cứ quay lại
nhìn tôi. Nó khóc. Nó chảy nước mắt thật anh ạ. Tôi cũng khóc. Nhưng phải quay
đi, giấu ông giám thị. Đừng để ông ấy biết mình khóc. Đừng để ông ấy biết mình
tiếc mình thương con khỉ.
Thế là lại lũi cũi một mình. Đi một mình. Về
một mình. Ngủ một mình. Nấu nướng một mình. ăn cơm một mình. Chẳng có nó ngồi
bên xem mình làm, nghe mình giảng cho nó. Rồi tôi nuôi con trăn... Mắt Cần nhìn
đăm đăm vào những ngày đó trong quá khứ. Cần nuôi con trăn đã gần chục năm. Chỉ
sau khi con khỉ bị bắt vài tháng. Trước con cá chép ba năm (đúng một lệnh). Có
lẽ nó chết chứ nó không bỏ Cần đâu. Anh có biết trăn sống được bao lâu không.
Con trăn này ít nhất cũng gần mười tuổi. Tôi nuôi nó gần mười năm. Nó ở đây.
Trong nhà này. Có hôm nó vào rừng chơi. Cả ngày. Cả đêm. Nhưng vẫn về. Trước
còn phải buộc dây dắt nó. Rồi tôi đi đâu nó đi đấy. Chỉ vỗ vào nó là nó hiểu.
Nó ngủ với tôi. ăn với tôi. Như con khỉ. Nhưng rút kinh nghiệm con khỉ, tôi dạy
nó biết sợ người lạ. Bất kỳ ai đến là nó luồn vào rừng, không để cho nhìn thấy
nó. Anh em phạm cũng thế. Cán bộ cũng thế. Vì vậy nó mới an toàn ở với tôi được
gần mười năm. Giá tôi cũng dạy con khỉ như vậy thì đâu đến nỗi. Con trăn chẳng
thể bằng con khỉ được, nhưng nó cũng biết nghe tôi. Nó không biết nói thôi. Chứ
cứ như người vậy. Có nó tôi đỡ bao nhiêu.
Hắn thấy Cần như đã biến được thành cây cỏ.
Quên hết gia đình nhưng lại thương con khỉ, tiếc con trăn. Con trăn vào rừng
rồi không về. Chắc nó chết ở đâu. Chẳng con gì bắt được nó. Nó to lắm. Mới đầu
cứ bần thần cả người. Như chết một đứa con. Rồi cũng quen. Đêm đêm ngồi một
mình ở bờ ao nghe cá đớp. Nhìn vào rừng tối đen thỉnh thoảng lại rào rào con
thú chạy. Rồi nhìn sao đổi ngôi. Mỗi ngôi sao đổi ngôi là một người chết phải
không anh? Nếu vậy nhiều người chết. Đêm nào cũng có người chết. Tự nhiên thèm
một tiếng người, được về một toán. Được nhốt cho có anh có em, có câu chuyện
câu trò. Đấy là nghĩ như vậy chứ sao thực hiện được. Phải quen thôi. Tất cả là
quen. Nhưng này, anh ăn cơm chưa? ãn rồi à. ăn thêm với tôi cho vui. Quay vào
bờ vách ăn một mình chán lắm rồi. Bây giờ tôi mới nấu đây. à, mà bóng nắng đã
tới giọt gianh rồi. Chờ tý đã nhé.
Cần cầm nồi ra ao cá gần nhất, ngay trước lều.
ở đó anh bắc một cầu rửa bằng hai thân cây gỗ đâm ra ao. Anh cầm nồi gõ liên
thanh rồi nhìn xuống ao chờ đợi Hắn theo ra nhìn xuống ao chỉ thấy bóng hắn,
bóng Cần lộn ngược trên ao sân lờ lờ nước ngán. Cần xua tay:
- Anh đi vào quá trong kia. Có người. Nó sợ.
Không hiểu một chút gì, hắn lùi vào, ngồi
xuống, nấp sau một lùm cây nhỏ cạnh ao, chờ đợi, Cần lại gõ vào nồi và bắt mổm
mấy tiếng như người chép miệng khan. Mặt ao bỗng nhiên rung rinh. Một bóng đen
dài loang loáng cạnh cầu rửa làm mặt nước càng chuyển động mạnh. Cần cười. Nụ
cười ngây thơ, như nụ cười con trẻ trên gương mặt đen đủi phong sương. Anh lấy
tay vét cơm, đặt chìm cả bàn tay đựng cơm dưới nước. Hắn nín thở. Cố căng mắt
ra nhìn. Và thấy một cái đầu xanh bóng cong cong nhô lên. Một hàng vây lưng của
một con cá dài dễ đến gần một mét từ từ dựng lên cắt mặt ao và cái đuôi của nó
ở phía sau quẫy nước sôi sục.
Cần dịu dàng mắng bảo:
- Khe khẽ chứ. Làm gì mà tớn lên thế.
Nửa phần đuôi nhô lên mặt nước xoè ra như một
cái quạt hồng hồng dịu hẳn lại. Nó đưa đi đưa lại đều đặn làm gợn lên một làn
nước mỏng. Anh bóp nát một khúc sắn trong nồi và dìm hẳn nồi xuống nước. Một
tay cầm nồi, tay kia luổn xuống (hẳn là xuống dưới bụng nó) và nâng nó lên dần
dần. Thoạt đầu là cả bộ vây lưng xoè ra với những gai sắc nhọn, vẩy lưng xanh
thẫm, cái lườn cong ròng ròng nước, hai vi ở mang đỏ hồng mềm mại đung đưa, sợi
râu dài bên mép lõng thõng và cái bụng trắng xoá như bạc. Con cá đổ kềnh, nằm
ngang trên tay Cần, ngoan ngoãn và thoả mãn. Cả đời hắn chưa trông thấy con cá
nào như vậy. Nó là siêu phàm. là nghệ thuật, lại là một cái gì hư ảo hoang
đường.
Con cá nằm im cho Cần vuốt ve. Cân lẩm bẩm
những điều gì hắn cố nghe nhưng không rõ. Rồi Cần hạ dần con cá xuống nước, vỗ
vỗ vào nó, vuốt dọc thân nó xoai xoải như một cái gò nhỏ đang chìm xuống sâu.
Hắn chỉ nhìn thấy loáng cái sóng lưng xanh đen của nó uốn lượn và mất hút trong
nước. Như chẳng để ý gì đến vẻ ngạc nhiên của hắn, Cần rửa nồi, vo gạo. Về
khoản gạo, Cần có vẻ dư dật. Anh được lĩnh một suất gạo hai mốt cân, ngang với
anh em lâm sản, lò vôi. Anh lại có một nương sắn riêng, một vườn rau riêng. Anh
có nồi đựng nước tiểu. Anh có nhà xí, lấy phân tăng gia. Thỉnh thoảng anh làm
một đợt phân nhà bò, ném xuống ao cá, bớt lại vài gánh thì cứ thoải mái mà
giồng.
Cần ăn khá sang. Cá. Thịt. Cá dưới ao, muốn ăn
thì câu. Thịt thì chịu khó làm bẫy. Món thường xuyên là sóc. Sóc thì nhiều lắm.
Coi như không bao giờ hết. ăn đến phát chán. Hôm nay lại trúng bẫy ba con sóc.
Cần và hắn ăn với nhau một bữa cơm thịt sóc. Vừa so xong đũa, Cần như sực nhớ
ra điều gì, vào rừng ngắt mấy búp lá để trên mâm. Và lấy ra hai cái chén. Lại
bước ra cửa, ngay chỗ bậu cửa phía ngoài ngó trước ngó sau lấy ngón chân đá đá
và cày dũi xuống đất. Đất ở đó tơi như bột tung lên bụi mù. Cần cúi xuống moi
lên một bi-đông nhựa, cùng loại với cái bi-đông của hắn. Anh phủi bụi, mở hai
lần nắp và nút nhựa, rót ra chén thứ nước trắng trong veo, toả mùi thơm, chỉ
ngửi cũng đã thấy say ngây ngất. Anh lại vặn nắp bi-đông, vùi lại chỗ cũ, chỗ
mà ai ra vào cũng phải đặt chân lên. Thật là một nơi yểm bất ngờ và kín đáo. Đó
là biểu hiện của lòng tin, hơn thế lòng quý mến.
Xong xuôi Cần mới ngồi vào mâm. Hớp rượu tan
ra đến tận đầu ngón chân, ngón tay hắn. Cần đưa búp lá rừng cho hắn:
- Anh ăn đi. Để hết hơi rượu.
Cần cũng vặt mấy lá cho vào mồm nhai và cầm
hai cái chén đi rửa, rồi mới trở lại mâm. Sự cẩn thận đó không thừa. Rượu là
thứ phạm qui rất nặng. Thịt sóc nướng ngọt và thơm. Xương sóc giòn. Cần chọn
một miếng nạc nhất, miếng thịt đùi gắp cho hắn và cũng để riêng ra cạnh mâm cho
mình một miếng như thế, nhưng không ăn.
Cơm xong như những người độc thân, Cần xếp bát
đũa vào nồi, để đấy. Anh ngồi thẳng người, mồm chúm lại, cổ nổi gân và chăm chú
nhìn lên mái nhà. Từ cổ họng Cần bật ra những tiếng:
- Kắc... Kè è...
Hắn nhìn lên mái nhà, nơi ánh mắt của Cần đạt
tới. Kề với cây cột gỗ sát vách là những con sóc nhồi bông.
- Kắc... Kè...
Tiếng tắc kè kêu lần thứ hai. Con sóc nhồi
bông động đậy. Và hình như có một đôi mắt ló ra.
Những tiếng “kắc kè” tiếp theo ngắt quãng và
như môi lúc một đuối hơi. Hai con gì đó nhô hẳn ra, phóng theo cột, xuống
giường và bò vào mâm, một miếng gỗ vuông có gờ ở bốn chung quanh. Không phải
thằn lằn. Hai con tắc kè loại bự. Sau này hắn đã đi nhập tắc kè cho ngoại
thương, qua tay hắn hàng nghìn con tắc kè, nhưng không có con nào to như vậy.
Có lẽ chúng to gần bằng con rồng đất già Đô bắt được ngày nào. Nếu lắp cho mỗi
con một cái vây lưng nhấp nhô như riềm cờ hội chạy từ gáy xuống giáp đuôi thì
hệt con khủng long bé tí... Chúng giương cặp mắt nhìn Cần, hai cái đuôi dài
thõng thượt, ve vẩy. Cần nhìn chúng trìu mến. Anh lấy tay vuốt trên lưng mỗi
con. Lưng chúng khi mới xuống màu xám tối đã sáng hơn một chút. Những mảng mốc
trên mình trắng thêm một chút. Có sắc xanh thẫm từ phía lưng và nhạt dần về
phía bụng. Một con đập đập một chân trước. Con kia ngọ nguậy cái đầu, bước một
hai bước về miếng đùi sóc còn lại trên mâm. (Thì ra Cần để phần cho nó). Cần
lấy ngón tay khẽ đặt lên mình nó, giữ nó lại, miệng quát:
- Ki! Hư nhé. Ai cho ăn mà ăn. Trông bạn mày
kìa, Tô nó ngoan thế chứ.
Mỗi con một tên. Hai con giống hét nhau, nhưng
Cần vẫn nhận ra con nào là Ki, con nào là Tô.
Con tắc kè có tên Ki ngoan ngoãn nằm im, dù
anh đã nhấc ngón tay khỏi lưng nó.
Hài lòng, anh xé miếng thịt sóc thành những
sợi nhỏ. Chúng ăn. Cách chúng ăn giống cách con thạch sùng bắt mồi. Toàn thân
không động đậy. Cái đầu hơi lúc lắc, lưỡi từ trong miệng bật ra phía trước rất
nhanh, và kéo theo sợi thịt sóc vào miệng. Chúng ăn cả cơm. Cần chăm chú nhìn
chúng ăn, vẻ âu yếm và hài lòng. Khi miếng thịt sóc đã trơ xương, anh bảo
chúng:
- ăn thế thôi nhé, no quá rồi đây này.
Hai cái bụng mỏng đã càng mọng. Anh dẹp nốt
xương sóc, cơm vãi còn trên mâm. Và nhấc hai con tắc kè về một góc mâm..
- Nào tập luyện một tý nhé.
Anh lấy đũa gõ vào bát một tiếng. Hai con tắc
kè chạy quanh mâm, con nọ chèn con kia để vượt lên trước hệt những tay đua lành
nghề, cảnh tượng trông thật ngộ nghĩnh.
Hết ba vòng mâm, anh cầm đũa gõ xuống mâm một
tiếng “cạch!. Chúng dừng lại thở phập phồng. Anh nhấc từng con lên xem chân,
xem bụng nó, rồi reo:
- Hình như mang trứng rồi đây này. Anh xem
giúp tôi có phải con Tô mang trứng dây không? Quả là có cái gì đó tròn tròn nhỏ
xíu phồng lên dưới làn da bụng con Tô.
- Chỉ tuần nữa đẻ thôi. Ngoan lắm, con ạ. -
Anh nói với nó và lại đặt hai con xuống mâm, con nọ trước con kia. Tay anh cầm
đuôi con trước quệt quệt vào mồm con sau. Nó biết nó phải làm gì. Nó há mồm
ngậm lấy đuôi bạn nó. “Keng”. Hiệu lệnh từ cái bát vang lên. Chúng đi bước một,
con sau ngậm đuôi con trước, một kiểu diễu hành. Hắn hết nhìn cảnh tượng kỳ lạ
đó, lại nhìn khuôn mạt Cần đang chăm chú vào hai con vật hoang đã anh nuôi. Nét
mặt anh dãn ra, thơ trẻ say mê. Hắn cả quyết lúc ấy anh chẳng nhớ mình là ai,
đang ở đâu, đã bao nhiêu tuổi. Trò cuối cùng Cần bắt hai con tắc kè biểu diễn
là chạy thi dưới đất. Cũng có vạch xuất phát: Sát tường phía trong. Và cái đích
phải tới: Bậc cửa ra vào.
Anh thưởng cho chúng theo cách của anh khi cả
hai con đã tới đích: Anh giơ bàn tay khum khum che lên hai con vật. Chúng phóng
thẳng vào ống tay áo anh, lục sục chui qua nách, tụt xuống bụng, vòng lên ngực
và ló đầu ở sau gáy. Anh bảo chúng:
- Thôi, về chỗ. Hôm nay có khách, chơi thế
thôi. Và lại một tiếng tắc kè từ bụng anh âm u phát ra nơi cổ, hoang đã, cô
đơn, gọi bạn. Con tắc kè ở gáy anh đáp lại... Đó là những điều kỳ lạ nhất về
loại vật mà hắn biết. Cần bảo hắn:
- Loài nào cũng vậy. Mình yêu mến chúng, cho
chúng ăn, mình quí nó là nó quí mình. Nó biết hết đấy!
Hắn chỉ gặp Cần có mỗi lần vào hôm ấy. Chủ
nhật 9 tháng 4. Hắn nhớ rõ ngày vì chủ nhật sau là 16 tháng 4, hắn đang lùa cá
dưới suối thì máy bay Mỹ ném bom ồ ạt trở lại, bay vòng qua QN. Ngọc và con
Nguyệt kẹt dưới phà. Và ít ngày sau hắn chuyển lên VQ, chung một khoá tay với
già Dô, gặp Phố, tù 18 năm mới chuyển từ Phú Sơn về đó.
CHƯƠNG CUỐI
Khi đi qua cây vả mọc bên suối, nhìn thấy cái
ao cá đầu tiên loá nắng, hắn khựng lại. Đã tới nơi. Đây là cái ao thấp nhất.
Cái ao cuối cùng. Nhưng từ phía này đi lại nó là cái ao đầu tiên.
Xin đi làm không được. Nắng mới lên, không ai
hút thuốc cuộn nữa, hắn theo người ta vào rừng lấy lá găng. Một thứ lá nhỏ vò
ra, lọc, để đông lại, làm thạch. Cái thời ở QN hắn đã được ăn thạch găng mấy
lần, của Cương, toán lâm sản, lấy ở rừng về, và của Giang chác được. Hắn cùng
mấy người chặt cành gàng, để héo và đập đập cho lá rụng rồi cho vào bao. Vất vả
lắm. Lá khô, lồng cồng một bao chẳng được mấy tý. Nhưng có việc gì không vất
vả? ăn ngủ tại ngoài ấy, nhờ người quen của một người cùng đi. Thế rồi qua trò
chuyện hắn biết hắn đang ở gần QN, rất gần ao cá, những cái ao cá nổi tiếng cả
một vùng. Khi mọi người chở lá găng về thành phố, hắn vào rừng. Hắn nhận ra
phương hướng bằng mỏm rừng cao nhất, nơi Sáng đã trốn mấy lần và bị bắt trở
lại. Hắn đi. Một mình hắn đi ngược sâu nữa vào rừng. Như có một ma lực, không
sao cưỡng được. Hắn muốn vào trại cá gặp lại Cần. Hắn muốn vào vườn trong. Vào
đấy thôi, chứ chẳng ra khu vườn ngoài làm gì. Rồi hắn lại nghĩ: Thôi, gặp lại
Cần, nhìn trại cá một tý là đủ... Cũng chẳng thích thú gì trở lại nơi mình vừa
bị đày đoạ (Chỉ tới trại cá xem Cần đã được ra chưa? Thế thôi). Đó là chưa kể
ra vườn trong có thể gặp lại các ông bà cán bộ. Chỉ nguyên chuyện xưng hô thôi
đã khó rồi. Gọi họ là ông là bà thì hắn không muốn. Mà gọi là anh là chị nghe
có vẻ thế nào, cứ như một kiểu qua sông đấm b. vào sóng. Hắn đã nhìn thấy trại
cá. Nhìn thấy cái lều của Cần. Vẫn là rừng rậm ấy. Thăm thẳm. Xanh đen. Những
dây leo gốc đẫy một vòng tay, lá to như cái nón với những đốt dài đầy lông măng
nhoai ra hung dừ, hăm doạ, khiến hắn có cảm giác nếu Sáng trốn tù mà leo lên
cây cao, đứng im trên ấy chỉ một ngày thôi là sẽ bị dây leó quấn chết, những
dây leo vươn lên cao mãi, ngọn nọ xoắn bện vào ngọn kia, đổ xuống phủ thành một
tấm thảm dày trên tán lá, rủ xuống bìa rừng, tưởng chừng một con chim không thể
hạ cánh. Vẫn tiếng nước rỉ rách tràn từ ao nọ xuống ao kia như tiếng suối. Hắn
bước đến gần và gọi to:
- Anh Cần ơi! Anh Cần ơi! Hú.
Tiếng hú đập vào rừng sâu, vọng lại từng đợt
từ gần đến xa.
Một người bước ra. Quần áo xám, số chắn, cao
gầy, cổ ngẳng lộ hầu, má hóp, nét mặt đau khổ và cam chịu..
Hai người nhìn nhau trân trân và cùng ngạc
nhiên như nhau..
- Ông hỏi anh Cần ạ?
Người ấy lễ phép hỏi hắn. Đúng là kiểu cách
của những người tù, kiểu cách của hắn mấy năm trước.
- Anh Cần được tha rồi, hả anh?
- Báo cáo ông, anh Cần được tha tháng trước ạ.
Hắn không giấu được mừng vui, vì điều hắn mong
đợi đã thành sự thật. Hắn nói to ý nghĩ: Thế là cuối cùng anh ấy cũng được tự
do. Anh ấy tù đến bây giờ là hai mươi nhăm năm.
Người ấy chắp hai tay vào nhau kính cẩn:
- Ông là người nhà anh Cần?
- Đừng gọi tôi là ông. Tôi cũng tù ở đây.
- Ông... Anh được tha lâu chưa?
- Tôi được tha hơn hai năm rồi. Nhưng tha ở
trại khác. Trại VQ.
- Anh với anh Cần...
- Tôi là bạn tù với anh ấy.
Người tù khe khẽ:
- Thế thì... Anh ấy chết rồi.
Như bị đánh mạnh vào sọ, hắn đứng lặng một
lúc, rồi ngơ ngác:
- Sao? Anh Cần được tha rồi cơ mà.
- Vâng. Anh ấy đã có lệnh tha, nhưng chưa ra
khỏi trại.
Lại càng không hiểu ra sao nữa. Hắn đứng ngây
ngô, nhìn anh tù như muốn nuốt chửng anh ta.
- Anh ấy tự tử chết.
- Có lệnh tha mà lại tự tử. Anh nói sao, tôi
không hiểu?
- Lệnh tha đưa anh ấy sáng hôm trước. Mọi
người tưởng anh ấy đã ra ngoài xã hội. Thì hôm sau một anh lâm sản thấy anh ấy
treo cổ lủng lẳng trong rừng, chết cứng từ bao giờ.
Thật khủng khiếp. Không thể nào tin được. Hắn
bàng hoàng:
- Chuyện anh ấy tự tử giữ kín lắm, nhưng rồi
ai cũng biết.
- Anh ấy chôn ở đâu?
- Khu Gò-Thằng-Công.
Lại khu Gò-Thằng-Công. Lại một cái mả mới cạnh
mả Lỷ Xìn Cắm. Anh ấy là người tự do rồi. Sao vẫn chôn ở đấy?
Có tiếng tắc kè rúc ở đâu đó. Hắn ngẩng lên
nhìn mái nhà. Mấy con sóc nhồi bông đã biến mất. Đó là tiếng kêu của con tắc kè
Cần nuôi vẫn nhớ ánh, gợi anh hay con tắc kè hoang dã. Hắn hỏi:
- Con tắc kè còn không?
- Con tắc kè nào?
- Còn con cá chép?
Anh tù càng không hiểu. Hắn đứng lên vớ lấy
cái xoong nhôm và cái đũa, mang ra cầu ao gõ gõ... Anh tù chợt kêu lên:
- Con cá chép đưa về bếp cán bộ rồi.
Lại một bất ngờ nữa. Anh tù giải thích:
- Anh Cần chết. Tôi ra thay. Mấy hôm liền nó
cứ nổi lên bơi dọc ao, rồi há mồm ngớp ngớp ở chỗ cầu rửa này. Trông như một
thằng bé con. Ông quản giáo thấy nó. Ông ấy rút súng bắn. Máu đỏ ao. Con cá to
thật đấy. Dài gần quết đất, hai người khiêng mới nổi.
Hắn dường như không nói được nữa. Họ đi vào
nhà. Mãi sau hắn mới hỏi:
- Anh bọp hay án”
- Tôi án bốn năm. Giam cứu một năm. Lên đây
hai năm, còn một năm nữa thôi. Liệu có được giảm không? Tội tôi khó giảm lắm.
Tôi biết.
- Anh mắc tội gì?
- Tôi chỉ là đuôi vụ thôi. Đầu vụ lĩnh án tử
hình. Thằng Cảnh ăn cắp gạo. Tôi chỉ tiêu thụ cho nó một ít. Nào tôi đâu có
biết nó đánh chìm cả một thuyền gạo để phi tang...
Hắn vét túi đưa cho anh tù tất cả số thuốc
cuộn còn lại, chào anh, rồi ngược trở ra, vẫn chưa hết bàng hoàng về cái chết
của Cần. Cần chết khi được tự do. Vì sao? Nó làm anh choáng ngợp. Nó làm gia
đình anh phải đau khổ lần nữa? Nó ném anh vào một thế giới khác lạ, không phải
của anh mà anh đã từ bỏ được trong mấy chục năm qua? Nó làm anh phải xa rời thế
giới đích thực của anh, cuộc sống cây cỏ rừng sâu của anh? Hay đơn giản chỉ là
anh thấy mình không cần sống nữa? Sống thế đủ rồi. Đến đây là giới hạn, là đã
trả xong món nợ đời, chết được rồi.
Không dám nói với Ngọc chuyện kinh hoàng ấy,
hắn thu thập tiền nong bán lá găng, định đi chuyến nữa, thì ông Thưởng, trưởng
phòng lao động đến. Lại một đệ tử đèo ông, và khi ông lên gác gặp hắn. Anh ta
vui vẻ ngồi chờ ông ở cổng với cái xe đạp. Ông Thưởng ôm lấy hắn:
- Cuộc đời là thế đấy. Ai cũng hiểu anh bị oan
khuất, nhưng có ai dám cứu anh ngoài ông Hoàng? Tôi cũng là một thằng hèn. Tôi
thật lòng muốn giúp đỡ anh, nhưng bị chúng nó bao vây. Thằng Khuổng không nói
làm gì. Đây là chủ trương của ông Trần, của lãnh đạo thành phố. Không thể vi
phạm nguyên tắc. Tôi không thể cấp giấy cho anh khi không có giấy tiểu khu. Tôi
biết anh chẳng oán trách gì tôi. Anh thông cảm với tôi điều ấy. Nhưng chỉ mình
tôi biết tôi có lỗi với anh. Chỉ tôi biết rằng tôi vẫn có thể giúp được anh mà
tôi sợ.
Ông rút trong túi áo ngực ra một tờ giấy in
theo mẫu, ông đã viết vào đó những dòng chữ cần thiết, ký tên đóng dấu. Tờ giấy
phòng lao động khu phố giới thiệu hắn đi lao động ở xí nghiệp đánh cá. Tờ giấy
mà hắn không dám nghĩ tới nữa. Hắn cầm tờ giấy, không tin ở mắt mình. Hắn nhìn
ông Thưởng. Ông Thưởng nói như giải thích cho hắn:
- Tôi biết thằng Khuổng làm theo lệnh ông
Trần. Hẳn anh cũng biết như vậy. Nhưng tôi giới thiệu anh đi lao động. Không có
giấy tiểu khu tôi vẫn cứ ký cho anh. Tôi không ký cho anh đi ăn trộm, ăn cắp.
Tôi ký giấy cho anh đi lao động.
Ông nói to, giọng khẳng định như đang nói với
ai đó. Đúng là không phải ông chỉ nói với hắn. Ông còn nói với một người vô
hình nào nữa cũng đang có mặt ở đây ông nhấn mạnh mấy tiếng đi lao động, rồi
nói tiếp với giọng gay gắt như thách thức người vô hình đang đứng trước mặt
ông:
- Kỷ luật tôi thì kỷ luật. Tôi không sợ. Tôi
không ký giấy cho người ta đi ăn trộm ăn cắp. Tôi ký giấy cho người ta đi lao
động. Người ta có quyền lao động.
Rõ ràng đây không phải lần đầu tiên ông nói
điều này với người vô hình. Ông đã rất nhiều lần lẩm nhẩm một mình, tranh cãi
với người vô hình toàn năng đang im lặng buộc tội ông trước khi ông ký giấy cho
hắn. Và dù đưa giấy cho hắn rồi, sự việc đã xong rồi, ông lại càng phải nói,
phải trình bày rằng mình vô tội vì người vô hình càng lừng lững trước mạt ông,
mím môi nghiêm khác, giận dữ nhìn ông. Hắn hiểu rằng ai cũng có một người vô
hình để mà trình bày, để mà sợ sệt và thầm cãi lại sau lưng. Người vô hình luôn
bên cạnh mỗi người như hình với bóng, cả trong giấc ngủ. Nhưng thật ít người
dám như ông vùng lên chống lại vì cái giá phải trả thường là cuộc đời, là sinh
mạng. Vẫn cầm tờ giấy trên tay, hắn im lặng nhìn ông. Rồi vội quay đi. Không
giữ được rồi. Hai giọt nước mắt tròn to đã bị mi mắt hắn kẹp vỡ.
Ngã Sáu. Bắt đầu viết tháng 6-1990
Xong tối thứ bảy 30-11-1991
Xem lại lần cuối 8-1998
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét