Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2014

HỒI KÝ THÉP ĐEN - ĐẶNG CHÍ BÌNH - PHẦN 8


73.  Ân  tình  qua  cửa …  xà lim

Vào một buổi trưa Chủ Nhật, tôi đang lúi húi lấy cái bàn chải đánh răng quệt cọ vào miếng xà phòng, lấy ít bọt để đánh răng, thì cô Vân lại vào. Cô mở cửa con rộng ra, cô thở hổn hển đứt quãng, mặt lấm tấm mồ hôi, tôi hỏi khẽ:
- Làm cái gì mà thở thế?
- Vừa đạp xe bên Gia Lâm về.
Cô vừa thở vừa nói ngắt quãng. Chẳng biết từ lúc nào, tự nhiên tôi bạo hơn:
- Lau mặt đi!
Cô có cái chiếc “mùi soa” trắng đang cầm trong tay, đưa lên mặt lau. Tôi hỏi tiếp:
- Sang Gia Lâm làm gì thế?
- Sang nhà con bạn. Nó hẹn mấy lần rồi.
- Quê Vân ở đâu?
- Hưng Yên.
- Vào ngành y tế lâu chưa?
- Mới ra trường được 6 tháng.
Cô nói rồi, ghé miệng sát khung cửa sổ, nói lẫn trong hơi thở:
- Mai là thứ hai, anh lật nắp bô lên, khạc đờm vào đấy. Anh lấy tăm chọc vào kẽ lợi răng lấy tí máu, rồi chấm vào giữa bãi đờm. Anh đưa ra báo cáo bác Dư là anh đau ngực, khạc ra như vậy.
Tôi chỉ biết gật đầu. Hôm sau, tôi làm như lời cô Vân nói, rồi báo cáo Dư. Tôi cũng tỏ vẻ buồn rầu, lo lắng là tôi mắc bệnh này, có lẽ chết; rồi cứ ôm ngực.
Khi cô Vân đển xà lim cho thuốc các buồng, Dư nói với cô Vân sao đó. Một lúc sau, mở cửa buồng tôi và cô Vân bước hẳn vào bên trong. Tôi cũng nói với cô, như đã trình bầy với Dư. Cô bảo tôi nằm xuống, rồi cô đặt ống nghe lên ngực tôi. Cô hỏi đau chỗ nào, khi tôi chỉ ở phía hai lá phổi, cô lấy tay đè đè, ấn ấn. Tôi vờ nhăn mặt đau, đưa hai tay lên đỡ ngực, thành ra cầm vào hai tay của cô. Cô vẫn để yên, miệng mỉm cười, cặp mắt long lanh. Trong khi đó, Dư vẫn đứng ngoài cửa, thỉnh thoảng mới nhìn vào.
Trước khi ra, cô nhìn khắp buồng tôi một lượt, chẳng có một cái gì cả. Cô cứ nhìn một chiếc dép Thái Lan và một chiếc guốc của tôi mãi. Chiếc dép cũng đã mòn nhẵn, nứt rách chung quanh, và chiếc guốc đã vẹt hết gót, của ai đó bỏ đi, khi đi đổ rác thấy ở thùng, tôi nhặt về đi hơn hai tháng trước. Thành ra một chân dép, một chân guốc. Khi đi, chỉ có tiếng kêu “cạch…xẹt, cạch…xẹt” rất thưa, như bước chân của người đi nạng.
Hai hôm sau, tôi lại được “bồi dưỡng” kẹo và bánh ngọt nữa. Ý của cô là chả tiếc gì tôi cả, muốn mua cho tôi đôi dép mới, khăn mặt, xà bông, thuốc đánh răng, cái màn…nhưng không thể được vì tôi không có ai tiếp tế cả. Cô đã nghĩ nhiều cách nhưng đành chịu.
Tôi cũng chưa thấy cô hỏi về tội trạng, thân thế, của tôi. Qua dư luận các buồng, cô là cháu gọi tên Lê, thượng úy phó giám thị, là chú. Theo tôi suy đoán, cô đã tìm mọi cách để đọc hồ sơ của tôi, ít nhất cô đã rõ về gia đình cũng như tội trạng.
Sau khi cô đi ra, tôi ngẫm nghĩ, thật là buồn cười khi cả cô và tôi đều không nói và hỏi: cô lấy tư cách gì để mua và lo tiếp tế cho tôi các thứ đó? Cả hai người, chưa hề có một lời nào về chuyện tình cảm mà! Thế ra vấn đề này cứ phải tự hiểu ngầm, và không thể được hỏi rõ ư? Thật, nhiều chuyện lạ trên mảnh đất lạ mới đi vào này!
Một buổi tối, tôi đang ngồi bô đi cầu, cửa sổ nhỏ khẽ mở. Tôi nhìn ra: cô Vân. Tôi hơi ngượng nên mất tự nhiên. Cô đứng nhìn một lúc, rồi đóng cửa sổ lại, không nói một lời.
Cô đã bỏ đi; trong dạ tôi cũng hơi bâng khuâng, tiêng tiếc buổi gặp mặt đã mờ mờ có ý mong chờ này. Hai tay chắp sau lưng, tôi đang thả bách bộ 200 vòng thường lệ trong buồng, trước khi lên sàn đi ngủ. (200 vòng là 1600 bước, ít ra là khoảng 800 mét đường dài chứ có ít đâu). Tôi mới đi được 40 vòng, cửa con lại khẽ mở. Không hề nghe thấy tiếng bước chân. Lại đôi mắt đăm đăm ngơ ngác như ánh mắt con nai tơ, nhìn thấy con hươu gầy đơn độc vào một buổi chiều Xuân bên suối vắng. Đôi mắt vừa như e ấp rụt rè, thuơng mến, vừa như mơn man thèm muốn vào miền xứ lạ nhưng chưa biết nẻo đường. Như vậy, cô đã phải cố bước nhẹ để đi vào đây. Như bị sức hút ngầm của nam châm, tôi tiến đến và cúi sát vào cửa sổ. Mấy sợi tóc mai dài của cô buông lơi đong đưa, như những sợi tơ vàng ngất ngây vang tiếng nhạc. Một cơn gió nhẹ vô tình đẩy một lọn tóc vào trong song cửa. Những sợi tóc cứ mơn man trên má, trên mũi tôi. Một mùi ngan ngát ngọt lịm của thịt da phảng phất, làm tay chân tôi rần rần run rẩy. Hơi thở của cô dồn dập quyện mãi vào mặt tôi, làm người tôi run lên, mặt tôi nóng bừng. Hai tay tôi quờ quạng giơ lên chới với, rồi bấu chặt vào cánh cửa buồng. Một tiếng gọi khẽ lẫn vào trong hơi thở của cô:
- Anh ơi!
Tiếng gọi khẽ, hổn hển, mơ hồ như tiếng chim đêm gọi bạn. Hồn tôi lảng vảng, dập dờn vào xứ mộng.
Cô và tôi chỉ cách nhau một cánh cửa xà lim dày 4 phân, nhưng tôi cảm thấy như xa vời vợi, trùng diệp sơn khê. Cánh cửa giòng đời đã khóa chặt, như một con đê kiên cố, sừng sững, bắt một giòng chảy ra biển cả bao la, còn một giòng bị bẻ quặt lại, cho chảy vào hang sâu thăm thẳm mịt mùng.
Như choàng tỉnh một giấc mơ hoa, tôi phải gọi hồn tôi trở về. Lý trí đâu? Nghị lực đâu? Ngay từ giây phút ban đầu, hãy khóa chặt cửa lòng lại như cánh cửa xà lim này! Tôi quyết tâm lên tiếng trước, để đập tan cái không khí im lặng chết người này:
- Cô Vân, sao cô khó tính và hách dịch thế!
Bây giờ, đã 18 năm rồi, mà tôi vẫn như còn nhìn thấy rõ đôi mắt của cô Vân lúc ấy. Đang từ mầu hoa thiên lý, đôi mắt chuyển ngay thành mầu vàng của hoa bách hợp, ngơ ngơ, ngác ngác như tỉnh như say; thổn thức dâng đầy như trách oán giận hờn, đến nỗi tôi phải nói lại một lần nữa.
Mắt cô đỏ lên, rồi tràn đầy lệ, môi cô rung rung:
- Sao anh lại nói thế!
Một nỗi niềm xót xa chua mặn dâng lên làm nghẹn lòng, tôi cố nuốt xuống, giọng tự nhiên:
- Không phải tôi, một số đông các người ở trong xà lim ca thán.
Miệng nói như vậy, nhưng trong lòng tôi như đang có một trận công đồn tả tơi quyết liệt. Tôi hiểu rằng, cả cô và tôi đã phải mất bao nhiêu tâm sức, nghĩ suy, cân nhắc hơn 3 tháng nay, bao nhiêu công lao dọ dẫm, rụt rè, e ngại, lòng ướm thử lòng, để rồi leo dần lên ngôi lầu tình ái; thế mà, ngay trong giây phút “thiêng liêng” này, tôi lại nói ra những điều gì đâu… Tôi đã mạnh bạo dứt điểm, nhấc chiếc thang đưa lên ngôi lầu ngất ngây đó. Cô hỏi tôi đã có vẻ bực dọc:
- Anh nghe những buồng nào nói?
Tôi ra vẻ còn lạnh lùng hơn:
- Cô đừng hỏi tôi là buồng nào. Cô hãy tin tôi, là có nhiều buồng kêu ca. Cái đó không nói làm gì nữa. Điều chính yếu là cô có cảm thấy rằng cô đã quá khó tính, cô đã đi ra ngoài phương châm: “Y tế là người mẹ hiền” rồi không?
Cô nhắm mắt lại, hai giọt nước mắt nhỏ xuống bên ngoài cánh cửa, nhưng qua khe cửa dưới nền, mấy đầu ngón chân của tôi thấy thoáng lạnh ướt. Cô đã đóng cửa sổ nhỏ rồi. Phải chăng cô cũng thấy cần phải đóng cả cánh cửa lòng của cô nữa vì gặp phải…mùa gió chướng chăng? Tôi cũng thấy thật buồn. Tôi gọi Lương đứng dậy để tâm sự. Sau khi được tôi kể lại sơ lược câu chuyện, Lương phản đối quá chừng. Lương bảo tôi:
- Anh phải biết lợi dụng, không những cho anh, mà một phần nữa cho anh em trong xà lim dễ thở.
Tôi nói thẳng ý tôi với Lương là không thể được. Mình không có quyền làm buồn lòng một người con gái về một chuyện như vậy, một chuyện mà lúc tỉnh táo ai cũng thấy là không thể đi đến một kết quả nào cả. Tôi thú thật với Lương là chính lòng tôi cũng não ruột tái tê. Nhưng, thà dứt khoát như vậy, chỉ buồn một lần thôi, chứ dính líu vào còn tủi hận đáng cay, ê chề nhiều nữa; ảnh hưởng sang cả đầu óc, trên con đường đi tới của mình. Không lay chuyển được ý tôi, Lương cũng buồn.
Liền mấy hôm sau, cô Vân không thấy vào xà lim nữa. Có mấy buồng báo cáo với Dư để xin thuốc, nhưng cũng chẳng thấy cô lên.
Ngày đã dần dần ngắn lại, đêm càng kéo dài thêm. “Ngày tháng 10 chưa cười đã tối”. Trời chuyển dần vào mùa Đông. Từ sau buổi ấy, cô Vân có vào mở cửa sổ nhỏ buồng tôi, lần nữa vào buổi tối. Nhưng, tôi vờ nằm im ngủ. Cô gọi 2, 3 lần không được nên đành bỏ ra về.
Một buổi trưa, tôi ngồi vá đụp thêm vào đôi “bí tất” để chuẩn bị cho mùa Đông sắp tới. Đôi “bí tất” đã được hơn ba năm rồi. Cứ mỗi năm, các lần vải phía trong mục dần đi. Tôi phải móc những chỗ quá mục ra, vậy nên đôi “bí tất” bị mỏng đi dần. Tôi lại phải đụp những miếng khác bên ngoài cho nó dầy lên, cứ như vậy đã mấy lần rồi. Đôi “bí tất” của tôi lúc này, không biết bao nhiêu là chỉ ngang, chỉ dọc. Bên ngoài, những chỗ mép vải bong ra nhiều tua, có chỗ trông như lông con chuột khoang.
Tôi đang cặm cụi đặt một miếng khăn mặt cũ to bằng hai bàn tay (miếng khăn này là giẻ chùi, tôi lượm được trong thùng nhà cầu mấy tháng trước, để dành) lên chiếc “bí tất” để lựa thế khâu, cửa sổ con chợt khẽ mở. Mùi hoa nhài quen
thuộc thoảng quyện vào mũi tôi. Tôi nhìn ra: đôi mắt ánh lên mầu nâu thẫm, cái màu ủ dột lê thê là buồn. Tôi muốn che dấu miếng vải, vì một ý nghĩ chợt thoáng qua làm tôi lúng túng, mất hẳn tự nhiên. Biết đâu chừng trong những mảnh vải này lại có một mảnh vải của cô đã dùng và vứt đi. Ngay cả mảnh “khăn mặt” cũ này nữa, cũng biết đâu cô đã làm vệ sinh một lần nào? Tôi cảm thấy nóng cả mặt, một nỗi ngượng ngập dâng tràn ra cả hai tay. Nếu quả vậy, tôi biết giấu mặt đi đâu? Tôi bất giác liếc nhìn xem thái độ của cô ra sao.
Tôi cũng tưởng sẽ gặp một đôi mắt, với nét cười tinh ranh, chế diễu. Nhưng không, chỉ có ở khung cửa sổ đó có một đôi mắt đầy lệ. Nhìn đôi tất với nắm giẻ vụn tôi đang cầm trong tay, mắt cô như tràn ứ một nỗi niềm, thương cảm dạt dào. Tôi thấy lòng mình xúc động, nhưng vẫn ngồi yên, không tiến ra cửa sổ như mọi khi.
Môi cô, động đậy, mấp máy, rồi thoát ra thành tiếng gọi thật thiết tha:
- Anh Bình!
Tôi không hiểu vì sao, tôi đã không kìm hãm được lòng mình nữa. Như một cái máy, không có hồn, tôi từ từ bỏ chân xuống chiếc dép và chiếc guốc chậm chạp tiến dần ra phía cửa sổ. Thật gần. Bốn mắt lại nhìn nhau. Những chiếc lông măng trên mép của cô theo nhau nằm soãi hai bên, trông mướt như lông của quả đào non. Hai má cô đỏ au lên. Mùi xà phòng hoa nhài phả ra tràn ngập không gian của căn phòng. Nước mắt lưng tròng, cô nói trong tiếng nấc nghẹn thổn thức:
- Anh Bình giận em à?
Câu hỏi thật nhẹ nhàng, mà như cào vào trái tim rướm máu của tôi. Tôi chỉ lắc đầu, không trả lời được. Bất chợt, một tiếng động ở cổng xà lim. Cô lẹ tay đóng cửa sổ lại và đi ra.
Một lúc sau, nghe có tiếng cô Vân và tên Bằng nói chuyện ở bàn trực. Rồi tiếng chân cô Vân đi dần ra ngoài cổng xà lim. Buổi chiều hôm ấy, lúc gần hết giờ làm việc, tên Dư đi ra ngoài trại về, vào buồng tôi mở cửa. Tôi hơi ngỡ ngàng, vì đã hết giờ, trời lại về mùa Đông, lạnh rồi. Từ hơn một tháng nay, Dư không gọi tôi cho ra sân chơi, (mùa Đông, ai còn thiết ra sân đứng), mà chỉ sai tôi quét trước sân, thường vào buổi sáng. Vì vậy, tôi đã mở to mắt nhìn Dư, chờ xem y bảo tôi điều gì. Vẫn tiếng nói vừa đủ nghe:
- Mặc quần áo, đi cung!
Tôi thoáng cảm thấy hơi không bình thường. Mấy năm nay rồi, chúng có gọi tôi đi cung nữa đâu. Nhất là hơn hai năm nay, Hà Nội đêm ngày, thường bất chợt bị máy bay Mỹ đến đánh phá, các chấp pháp cũng sơ tán bớt về những trại giam khác. Tôi theo Dư ra khỏi cổng xà lim. Đã gần hai năm trời nằm giữa Hỏa Lò, ngay cái sân trại chung tôi cũng không nhìn thấy. Góc sân, gần phía xà lim II, vẫn còn quây cót, như thế vẫn còn phi công Mỹ ở Hỏa Lò, và lúc này chắc là đã…nhiều hơn. À ngôi nhà vãng lai mọi khi, bây giờ cũng để giam phi công Mỹ nữa. Chúng đóng cót bè ra sân, quây kín. Nhà vãng lai ở ngay cạnh cổng xà lim I. Thảo nào, nhiều đêm tôi nghe những tiếng rên la, quát tháo lạ tai, tôi lại cứ tưởng các phi công Mỹ ở gần chỗ xà lim II. Tuy khi ấy thấy lạ, là sao lại nghe gần thế, tôi lại không đoán ra.
Lúc này, gần 5 giờ chiều, tù nhân ở khu trại chung và hai khu phi công cũng đều đã vào buồng cả rồi. Người ta vào buồng, mình lại đi cung! Chẳng biết chấp pháp nào đây?
Đi qua phòng trực, tôi thấy cũng chả còn ai; chả có một chấp pháp nào ở đó cả. Dư dẫn tôi thẳng vào buồng giám thị. Tên Trì bây giờ đã đeo lon đại úy, trông rất bệ vệ, ngồi ở cái bàn có lá cờ của Chánh Giám Thị Hỏa Lò. Như thế, y đã lên thay tên Võ, còn tên Võ già, đeo kính trắng, người miền Nam, có lẽ đã về hưu rồi. Chả trách lâu lắm tôi không còn thấy y vào các xà lim.
Tim tôi hơi thắt lại, khi thoáng thấy người Hưng Yên đang lúi húi xếp mấy chiếc ly, tách ở một cái bàn nhỏ trong góc phòng. Dưới mái tóc buông dài như đuôi con ngựa tơ, chiếc lưng ong của nàng vặn vẹo, căng lằn làn áo nâu mỏng. Người Hưng Yên hôm nay lại đi guốc cao gót nữa chứ.
Tôi ngồi vào chiếc ghế đẩu trước bàn tên Trì đang ngồi. Mặt y hôm nay trong thật dễ chịu. Chưa bao giờ tiếng nói của y lại dịu như hôm nay:
- Hôm nay, gọi anh ra đây, tôi thông báo cho anh được biết Đảng và nhà nước đã chiếu cố đến điều kiện sức khỏe của anh, cho phép anh được ở trại chung. Bây giờ, anh về xà lim mang quần áo, chăn màn ra đó! Ở trại chung, anh phải nghiêm chỉnh chấp hành những nội quy của trại, mặt khác, cấm tuyệt đối không được nói hay kể bất cứ một chuyện gi ở trong xà lim cho phạm nhân khác.
Tai tôi nghe, lòng tôi thật không ngờ được đó là sự thật! Nhưng, chỉ một thoáng, tôi xúc động vì chợt hiểu: phải rồi, cô Vân đây! Hai, ba lần bồi dưỡng, ho khạc ra máu, v.v… tất cả, có thể với tư cách là chuyên môn, cô đã đề nghị để tôi ra trại chung. Chắc từ mấy tháng trước rồi, bây giờ đề nghị của cô mới được chấp nhận, sau nhiều cứu xét.
Thảo nào, tuy cô vờ cắm cúi lau bàn, nhưng tai cô cứ nghiêng bên này, lại nghểnh bên kia, để nghe tin Trì nói với tôi. Bây giờ đã hết giờ làm việc, cô lại không phải là người lau dọn bàn; vậy là cô cố ý chờ tôi, để nghe và vừa để nói ý cho tôi biết là do cô đấy! Nhưng cô Vân ơi! Cô đã tính sai rồi! Ở xà lim, đôi khi cô và tôi còn dễ gặp nhau, chỉ có một cái khó là tuy gần gũi nhưng phải cách một cái…cửa buồng. Bây giờ, ra trại chung, bản tính của tôi lại rất nghiêm ở chỗ đông người, tôi chả gần cô được nữa, dù có gặp.
Dư đứng chờ, dẫn tôi về xà lim. Trước khi chào tên Trì ra cửa, mắt tôi còn thoáng thấy một nụ cười của người Phố Hiến, như cánh hoa hồng đón gió Xuân.


74. Trại chung: “Xã hội chủ nghĩa thu hẹp”…

Về tới xà lim, người tôi chưa hết bàng hoàng về một chuyển hướng, một lối rẽ của cuộc đời tù. Hôm nay là mồng 2 tháng 12 năm 1967. Như thế, tôi đã ở 5 năm và gần 6 tháng trong buồng tối xà lim. Đất nước, cũng như cuộc đời đã bao nhiêu đổi thay.
Đã ở trong xà lim hơn 5 năm, có biết bao nhiêu kỷ niệm, dù phần lớn chỉ là đắng cay, tủi nhục; nhưng bây giờ phải rời đi, tôi cũng không khỏi cảm thấy…bâng khuâng. Vơ vội chăn chiếu, tôi nhìn chiếc áo trấn thủ và cái chăn, rồi ngập ngừng hỏi Dư xem thế nào? Dư bảo, trại chung thì cũng là Hỏa Lò, vậy cứ ôm cả chăn lẫn các thứ đi. Nhớ đến Lương và Nguyễn Lân, tôi liền ho hai tiếng, khạc hai tiếng như lời chào từ giã bạn bè. Tên Dư đứng ngay đấy, nhưng làm sao hiểu được ý nghĩa của tiếng ho và tiếng khạc.
Tên Dư dẫn tôi qua cái sân rộng của trại chung. Trên đường đi, gọi là tình nghĩa với nhau (tôi không thể phủ nhận được là tên Dư có chút cảm tình cá nhân với tôi. Hơn 3 năm nay, hàng ngày trông thấy nhau đều đều. Hơn nữa, biết đâu chả lại phải có thêm ý kiến của y tôi mới được ra trại chung này. Về thủ tục, hẳn rằng, trước khi giám thị Hỏa Lò quyết định, phải xin ý kiến của sở công an, của cấp trên, rồi phải gọi cán bộ trực chính của xà lim I để hỏi về…tôi nữa chứ!), nghĩ thế, tôi liền nói với Dư là tôi rất biết ơn y, và còn thêm một câu:
- Chúc ông và gia đình mạnh khỏe.
Y cũng tình cảm dặn dò:
- Anh hãy cố gắng giữ gìn sức khỏe.
Y dẫn tôi mãi qua chiếc sân rộng, tới chỗ có hành lang dẫn vào “cát xô”, nơi mà gần ba năm trước, tôi đã từ đó bò về xà lim I. Y mở khóa một cánh cửa sắt to, cao. Cánh cửa này gồm hai phần: phần trên, cao hơn đầu người, là những chấn song sắt to gần bằng cổ tay; phần dưới, bịt kín bằng sắt, thành ra trong ngoài không nhìn thấy nhau.
Tuy đã ở tù 5 năm rưỡi trong Hỏa Lò, nhưng tôi chưa hề biết trại chung như thế nào. Nhìn vào trong buồng, tôi thấy lố nhố đầy người; hàng trăm con mắt to nhỏ đang tò mò nhìn ra phía tôi. Tôi ngạc nhiên quá chừng chừng. Tù gì mà có cả…trẻ con bé tí, chỉ độ 6, 7 tuổi. Toàn buồng ước độ 150 đến 170 người: thanh niên, choai choai, nhơ nhỡ, nho nhỏ…quần áo lôi thôi, lếch thếch, vá chằng, vá đụp; ghẻ lở kềng càng; đen đũi gầy guộc. Có hai người lớn đã đứng tuổi; khoảng hơn chục thanh niên; số còn lại, toàn loại lau nhau.
Một ông chừng 40 tuổi tiến đến phía tôi, tự giới thiệu là Phan Tấn Hưng, buồng trưởng. Anh chỉ cho tôi một chỗ trống gần anh. Anh lại chỉ một người nữa, tóc đã điểm sương, giới thiệu là bác Nguyễn Văn Khánh, tài xế lái xe đò đường Hà Nội – Hải Phòng.
Anh Hưng là người miền Nam, cán bộ tập kết, tội hủ hóa và tham ô (tình ái lăng nhăng và ăn cắp của công). Trông y trắng trẻo, vẻ có học. Đặc biệt là đôi mắt của y, nửa phần trên đen mờ mờ, rất hay nhìn trộm. Lúc đầu, y và một số thanh niên mặt căng căng, khinh khỉnh, nhìn tôi một cách thăm dò. Sau khi biết tôi là một điệp viên xâm nhập Hà Nội, rồi dư âm về chuyện đánh một cán bộ phọt phân ra để đào thoát vẫn có một vài người nhắc lại (dù câu chuyện đã hơn 3 năm rồi). Những bộ mặt câng câng, khinh khỉnh, những thái độ lành lạnh, ngang ngang… biến sạch, nhường cho những nét mặt hân hoan, niềm nở.
Thôi thì, thuốc lào, thuốc lá hút tơi bời. Nhất là dăm thanh niên và trẻ con, vây vòng ngoài để hỏi chuyện. Một thanh niên chừng 22, 23 tuổi, cao ráo, trông như một học sinh, sau khi nghe biết sơ sơ về tôi, hai tay y vồ lấy tay tôi lắc lắc như gặp một người thân quen đã lâu ngày:
- Hơn ba năm trước, em ở buồng 6, có một anh nhà bếp lên thuật lại chuyện anh đánh cán bộ để trốn. Rồi anh bị đánh gần chết, đưa vào “cát xô”. Họ nói, anh là một điệp viên cừ khôi của chính quyền miền Nam, được đào tạo nhiều năm ở Tokyo. Anh còn có đệ nhị đẳng huyền đai nhu đạo nữa.
Tôi rất ngạc nhiên, y nói về tôi như một huyền thoại, chẳng có một cơ sở nào cả. Thế mới thấy cái “huyền diệu” của những tin đồn.
Y tự giới thiệu là Hoàng Hữu Phúc, biệt hiệu, Phúc “Thổ”, cầm đầu giới “chềnh vòm” (dân đi ăn trộm) khu Năm Đồng. Y đã học hết lớp 9 Phổ Thông (chương trình 10 năm, sau này Cộng Sản mới đổi thành hệ 12 năm). Mới 24 tuổi đã có 6 “tiền sự” (có bị bắt dăm ba ngày, có khi đôi ba tháng, nhưng không ra tòa) và một tiền án. Năm 1964, đã bị xử hai năm rưỡi tù, đi trại trung ương. Mới được tha chưa được 6 tháng, bây giờ lại bị bắt, vẫn là tội cũ. Phúc “Thổ” chỉ một tên có nước da ngăm ngăm, đôi mắt thật sắc, với một chiếc sẹo dài nằm vắt chéo từ mí mắt trái xuống mé tai, làm cho đôi mắt trái của y kéo xếch lên, trẻ con hẳn không dám nhìn. Y tên Thọ “Lột”, trùm dân “xô bè” (giật đồ trên xe lửa rồi nhẩy xuống sông, hoặc xuống đường, khi xe đang chạy), cũng trạc tuổi với Phúc “Thổ”. Y cũng đã học hết lớp 10.
Sơ qua như vậy, tôi thấy ở trại chung, riêng trong căn buồng này chỉ có hai ông Hưng và Khánh là tội buôn lậu và tham ô, còn hầu hết là anh chị, lưu manh, trộm cắp.
Kẻng cấm, 9 giờ tối, theo nội quy trại chung, tù đều phải đi nằm và không được nói chuyện. Đám anh chị thật ưu đãi khách mới. Chúng đã dành cho tôi một chỗ tương đối khô ráo, một mình một chiếc chiếu con, bên cạnh Phúc “Thổ” và Thọ “Lột”; nghĩa là được nằm ở chỗ “Giai cấp lãnh đạo” trong cái buồng ấy. Chúng có rất nhiều tay chân, kẻ hầu người hạ.
Mới nhìn phiến diện, tôi đã thấy từ trên xuống dưới có rất nhiều thành phần thứ bậc. Ngay như một điếu thuốc lào, chúng hút xong; loại nào được hút sái nhì; loại nào được hút sái ba; để rồi đứa cuối cùng cầm cái điếu, “kéo” đến gân cổ lên, nhưng lúc há mồm nhả khói, chỉ còn vài sợi lờ mờ, trong khi điếu thuốc đã thành tro từ bao giờ và đã chui tọt vào nõ điếu lâu rồi. Trước khi nằm xuống ngủ, Phúc “Thổ” còn ghé vào tai tôi thì thầm:
- Trước đây mà được gặp anh ở ngoài Hà Nội, thật là hết ý! Em bảo đảm với anh là, anh ở Hà Nội hàng năm, chẳng bao giờ tụi công an, phản gián “ngửi” thấy hơi của anh. Chuyến này, nếu anh được ra, chúng em là thổ công, là những con rận, con chấy trong quần áo của chúng. Nếu không vì đói phải trộm cắp bừa bãi, muôn đời chúng đừng hòng mó được sợi tóc của chúng em.
Cuối cùng, y nói nhỏ:
- Tên Hưng già là loại “Zoóc” (ăng ten, điểm chỉ trong Nam). Nhưng, nó phải biết điều với chúng em, nếu không, chúng em đã xin nó tí huyết rồi.
Tôi nhắm mắt, óc vẫn còn vẩn vơ nghĩ đến những điều Phúc “Thổ”. Y tỏ ra rất quái. Y lại là loại lưu manh có học nữa, cho nên những cái nhìn của y tương đối có giá. Tôi cũng hơi băn khoăn suy nghĩ, vì sao tụi Cộng Sản lại đưa tôi vào buồng này, gồm hầu hết là lưu manh, cắp trộm của Hà Nội. Mỗi tuần, có một chuyến đưa đi trại Mai Lĩnh và Kỳ Sơn.
Trại Mai Lĩnh ở gần chùa Trầm, Hà Đông, là một trại lớn “dành cho” nhi đồng… hư. Trại Kỳ Sơn ở Hòa Bình, cũng là một trại lớn, giam tù thiếu niên… hư. Trong Hỏa Lò, khu trại chung có hơn một chục buồng, nhốt đủ mọi loại tù. Có hai buồng chuyên giam loại chính trị nặng. Vậy tại sao chúng lại đưa tôi vào một căn buồng toàn loại trộm cắp này?
Có thể, chúng có những chủ trương như sau: tuy tôi bị bắt đã gần 6 năm, nhưng cũng chỉ là nằm một mình ở trong buồng kín, chưa biết gì nhiều ở bên ngoài cả. Ngược lại, trong Hỏa Lò cũng chả ai biết về tôi. Sau vụ tôi vượt ngục không thành, qua đó, chúng cũng đã thấy tư tưởng của tôi cũng chả tốt đẹp gì. Vậy, nếu cho giam chung với những buồng chính trị, tôi càng làm “xấu” những người còn đang thời gian khai thác, chưa thành án. Mặt khác, chúng hãy cho tôi vào buồng toàn tụi lưu manh, trộm cắp lau nhau, để tên Phan Tấn Hưng theo dõi tư tưởng, thái độ của tôi một thời gian, từ đấy chúng nhìn rõ về tôi hơn.
Trên đây, cũng chỉ là sự suy đoán, tôi phải đợi thời gian và thêm sự việc, mới có thể kết luận được. Tôi cứ miên man suy nghĩ, rồi chìm dần vào giấc ngủ chập chờn. Đêm đầu tiên ở trại chung, giấc ngủ không yên. Cứ chốc chốc lại giật mình tỉnh thức, vì tiếng thét giật đùng đùng như bị dao chém ở chỗ này, hay tiếng gào khóc lạy van ở góc kia…của những cháu nhỏ nằm…mớ.
Gần sáng, tôi ngồi dậy, muốn tìm chỗ đi giải. Mãi gần góc nhà xí, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn “60” nến, còn 4 cậu choai choai, độ 15, 16 tuổi, bị cùm mỗi cậu một chân. Đây là loại cùm “suốt” (giống như ở xà lim Hà Tĩnh mà tôi đã bị cùm). Loại cùm này tương đối thoải mái. Tù có thể di chuyển chân, hoặc đứng dậy được, vì cùm chỉ có hai cái khoen lồng vào trong một cái “suốt” sắt. Tùy theo “suốt” dài, ngắn và tùy theo chỗ cùm rộng hay hẹp, loại cùm này có thể cùm được rất nhiều người. Đây là một hình thức để kỷ luật những phạm nhân nào ngang bướng, hoặc vi phạm nội quy của trại. Đôi khi cũng dùng để trấn áp, hay khai thác… tùy theo những sự việc mà Cộng Sản muốn.
Cách thiết kế để xây dựng những căn buồng này, hẳn cũng do từ thời Pháp thuộc. Buồng làm theo hình chữ nhật, kích thước dài khoảng 15m, rộng 10m. Ở giữa là một cái bệ xi măng lớn chiếm gần hết buồng, kích thước dài 12m, rộng 7m; bệ xây cao hơn nền chừng 50 phân; lối đi là phần còn lại ở chung quanh bệ, rộng chừng 1m rưỡi.
Có thể thời Pháp thuộc, tù chỉ nằm trên bệ xi măng, còn lối đi bên dưới, chung quanh, để dép, guốc chăng? Nhưng bây giờ dưới chế độ cách mạng nhân dân, vì quá đông, cho nên tù nằm la liệt, cả trên bệ lẫn lối đi.
Tôi phải bước qua nhiều cậu đang nằm tụm 5, tụm 3 để vào… cầu tiêu. Mở cánh cửa nhà cầu, tôi thấy, dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu bé xíu, căn nhà cầu này rất nhỏ. Trên nền nhớp nháp, nồng nặc mùi phân và nước giải. Thảo nào, suốt đêm, khi ngủ thì thôi, lúc thức giấc, mũi tôi luôn luôn ngửi thấy một mùi khai, thối tràn ngập căn buồng. Từ xà lim ra trại chung, tôi vẫn đi đôi “guốc, dép” của tôi. Nhưng, vì không muốn làm mất giấc ngủ của những người tôi sẽ bước qua, nên tôi đã đi chân đất vào cầu tiêu. Cũng vì vậy, trên đường đi và về chỗ nằm, thỉnh thoảng tôi thấy như chân mình dẫm vào cái gì mềm, kêu bóp bép. Ánh sáng quá mờ, tôi đã không thể đoán được là cái gì?
Về tới chỗ nằm, tôi chả làm sao ngủ được nữa. Mùi phân, mùi nước giải, mùi hơi người lâu ngày không tắm rửa, mùi quần áo nhiều ngày không giặt, trộn lẫn với không khí trong buồng thành một mùi chua chua, khăm khẳm cay sè làm đầu tôi váng rất nặng nề. Trước đây, ở xà lim, tuy cũng phân, cũng nước giải, cũng quần áo thời gian lâu ngày không giặt, cũng thân thể lâu ngày không tắm rửa, nhưng những hơi hướm đó, chỉ là của một người, mà người đó là chính… mình, cho nên thật dễ… ngửi, chả thấy cay mũi, nặng đầu như bây giờ.
Trời đã sáng hẳn. Tiếng loa nghe rõ mồn một, đang ra rả điệu nhạc dạo đầu của đài tiếng nói “Quân Đội Nhân Dân”, rồi tiếp theo là cái giọng the thé của cô xướng ngôn viên: “…Quân đội nhân dân, trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành; khó khăn nào cũng vượt qua; kẻ thù nào cũng đánh thẳng!…”
Một khẩu hiệu thúc giục, nêu lên như một bức hình tâm lý, ngày nào cũng đập vào óc mọi người, dần dà đã in vào nếp nghĩ, nếp nhìn. Để đến một lúc nào đó thành hiển nhiên như một công lý tất yếu. Rồi những sự việc sau đó, nếu xẩy ra hợp với nội dung khẩu hiệu, là thuận; nếu xảy ra ngược lại là nghịch, là làm cho người ta băn khoăn ngạc nhiên, như một tín đồ thuận thành làm trái với lẽ đạo.
Vì là buổi sáng sớm ở trại chung, nên tôi phải bị động theo cái chung của mọi người. Đã gần tới giờ làm việc rồi, mà hầu hết cả buồng còn nằm, từng cụm, từng cụm với nhau mê mệt ngủ. Tôi không hiểu tại sao họ lại có thể ngủ nhiều như vậy được? Có lẽ, trong đêm họ có nhiều khắc khoải thao thức, hay do tuổi trẻ bất cần đời, cứ buông trôi, để mặc cho đời trôi theo giòng nước… đục? Tôi lại phải tiếp tục nằm chịu trận, rán mà nghe cái “con mẹ lắm mồm” nheo nhéo, một cách bất khả kháng… Rồi, đến cái mục “Các em thiếu nhi”. Nghĩ cũng lạ, nghe gần 6 năm rồi, tôi chẳng thấy một bài ca nào, bảo các em nghe lời của cha mẹ cả. Trái lại, ngay từ khi các em mới bập bẹ biết nói, đã dạy phải nghe lời … bác, lời đảng mà đại diện trước mắt là các cô, các thầy giữ nhà trẻ và giảng đạo của đảng. Nào là:
“…Ra vườn hoa em chơi, hoa sắc trắng nhìn em hoa cười. Nghe lời cô, em ngoan em không hái một bông hoa nào, vì hoa này là…của chung…”
Cộng Sản đã theo đúng phương châm “Dạy trẻ từ thuở còn thơ”. Chúng lại còn phát huy cao độ hơn nữa là chú ý ngay từ “khâu” chọn hạt giống, như:
“…Hạt giống đỏ…được chăm nom vun sới, thành lớp cây xanh vươn dưới…mái trường…”.
Tôi đang nằm bực bội nghe miệng lưỡi của Cộng Sản xui trẻ con ăn … cứt gà, thì cậu Phúc “Thổ”, vừa bò dậy vừa nói, trong ngái ngủ, khi cậu nhìn thấy ánh mắt tôi:
- Anh dậy sớm thế! Đêm qua anh có ngủ được không?
Tôi vừa lồm cồm bò dậy, vừa trả lời:
- Đã ngủ thì phải được. Nhưng cậu có ngửi thấy ngột ngạt phân và nước giải không?
- Không anh ạ! Người ta bảo: “Ở gần nhà xí mãi không còn ngửi thấy thối nữa”, anh!
Vừa nói, y vừa đi vào cầu tiêu. Tôi dõi mắt nhìn chéo xuống phía tay phải chỗ lối đi. Đêm qua tôi thấy một tồ chăn cuốn, chẳng có chiếu, một cái chân dài nghệu, đầy ghẻ thò ra ngoài chăn, tôi cứ tưởng một người; bây giờ cái tồ chăn đó mở ra, đến 3 đứa ngồi dậy. Một đứa, lớn nhất, da trắng, mặt rất kháu khỉnh, chừng 13, 14 tuổi. Nó đã cao, giờ lại gầy, thành ra những cái tay, cái chân lêu nghêu, kềnh càng như những cái chân con nhện. Hai đứa kia bé tí; một đứa đứng chỉ cao tới ngực, còn một đứa chỉ ngang tới rốn của thằng lớn. Chính vì vậy, đêm qua tôi mới tưởng chỉ có một người.
Cả ba đứa, tuy ngồi dựa lưng vào tường và vẫn khoác chung một cái chăn rách, nhưng 6 con mắt dã cứ thập thò liếc nhìn chiếc điếu cầy tôi đang chuẩn bị “bắn” một điếu buổi sáng. Chúng nhìn tôi bằng những con mắt vừa thèm thuồng muốn xin được hút sái nhì, hay sái ba; nhưng lại vừa sợ sệt, vì như vậy là… phạm thượng. Hôm qua, chúng đã thấy tôi được cả buồng quý nể (trong đó có cả bậc “trùm” của chúng). Tôi liếc nhìn chung quanh và thấy cũng còn nhiều con mắt trắng lấm lét, rụt rè nữa muốn được cái vinh hạnh hút sái nhì, hoặc sái ba. Tôi vẫy tay, gọi cái cuộn chăn 3 đứa đến. Mắt chúng đều sáng lên ngập ngừng tiến đến, ngồi cả xuống trước mặt tôi lấm lét nhìn tôi như chờ lệnh. Cả ba đứa, chân tay đều ghẻ kềnh càng. Tôi rút gói thuốc lào, hôm qua Thọ “Lột” đã đưa biếu, ở trong túi ra, vê cho mỗi đứa một điếu. Tôi hỏi đứa lớn:
- Cháu tên gì?
- Thưa chú, cháu là Thắng, mọi người gọi cháu là Thắng “Trắng”.
- Thế bố mẹ cháu ở đâu?
- Ở Hàng Bạc ạ!
Tôi ngạc nhiên và vội vàng hỏi tiếp:
- Cháu ở 127.
Tôi vồ vập:
- Phải hiệu Bảo Hưng Long không?
Nó mở to mắt ngạc nhiên:
- Sao chú biết? Đấy là cậu mợ cháu!
Đến lượt mắt tôi lại căng ra vì ngạc nhiên, tôi dồn dập hỏi nó về cô Thuận, về thằng Hòa, thằng Hiếu, cô Tám v.v… Cả một khung cảnh ngày xưa của phố Hàng Bạc những năm 1952, 53, 54!…Lúc đó, tôi làm thợ vàng cho hiệu Tân Hưng, Bảo Hưng Long và Đức Hưng. Ba mẹ con, Bảo Hưng Long là chị của Tân Hưng, tức cô Thuận, hoa khôi Hàng Bạc 1952. Như thế, Thắng “Trắng” phải gọi Hòa, Hiếu là cậu. Tuy thời gian ở Hà Nội, tôi làm thợ kim hoàn, nhưng tôi vẫn đi học Pháp văn, cho nên vừa là thợ, vừa là học sinh, 15, 16 tuổi.
Điều tôi băn khoăn suy nghĩ mãi là, những gia đình này ngày xưa, là loại thế phiệt trâm anh, đài các, trong giai cấp trưởng giả, vậy mà bây giờ con cái là loại lưu manh, đầu đường, xó chợ? Tại sao họ chóng sa sút thế? Không kìm được tò mò, tôi hỏi thằng Thắng:
- Tại sao cháu không đi học, lại đi cắp trộm, cậu mợ cháu không nuôi cháu à?
- Cháu đã “dạt vòm” lâu lắm rồi. Bây giờ, cậu mợ cháu đã … từ cháu.
Tôi chưa hiểu trọn vẹn ý chữ “dạt vòm” nên hỏi lại. Thằng bé nhất, từ nãy cứ nhấp nhổm muốn góp chuyện, vội vàng trả lời:
- Chú không biết à, “dạt vòm” là bỏ nhà đi bụi đời ấy mà!
Tôi quay lại nhìn thằng nhóc con, mặt nó đương vênh vênh lên như vẻ ra đây cũng là dân bụi đời. Tôi cũng thấy vui vui nên hỏi ngay:
- Cháu tên gì?
Thằng Thắng nhanh nhẩu trả lời thay:
- Nó là Phúc “Lủi” đấy chú ạ!
- Sao lại là Phúc “Lủi”?
Cả hai đứa đều cười ầm lên, thằng Thắng nói tiếp:
- Nó lủi nhanh lắm chú ơi! Nó đã vào chỗ đám đông thì có giời tìm. Nó toàn chui dưới khe háng người ta để lủi. “Cá” (công an) bắt được nó rồi thấy nó bé tí, cứ nắm lỏng tay, bất ngờ, nó giật tay ra, chạy ngay vào đám đông.
Tò mò, tôi lại hỏi:
- Năm nay, cháu bao nhiêu tuổi rồi!
Nó đứng hẳn dậy, một tay đè vạt áo xuống che cái bụng ỏng, lồi cả rốn ra:
- Cháu 11 tuổi rồi!
Tôi ngạc nhiên nhìn thằng Phúc “Lủi” đứng, người nó bé con chỉ bằng đứa trẻ lên 5, lên 6 bình thường ở trong Nam; cái mặt hơi choắt lại vì gầy; nhưng đặc biệt, đôi mắt của nó thật sáng và nhanh. Tôi đang định hỏi tiếp thì cán bộ đã đến mở cửa điểm số.
Cứ hai người một, cầm tay nhau đi ra để cán bộ điểm. Trong lúc đi ra, tôi nhìn xuống nền nhà, thỉnh thoảng có những điểm trăng trắng ngó ngoáy, bò chỗ nọ, chỗ kia. Đêm qua, lúc đi tiểu, tôi đã dẫm phải mà không đoán được đó là cái gì. Đó chỉ là những con bọ to nhỏ từ những đống phân trong nhà xí bò ra. Tôi thấy hầu hết chẳng ai để ý tới những con bọ này cả.
Khi ra tới sân, tên Hưng buồng trưởng dẫn tất cả đến một góc sân, có cái bể nổi, cao hơn mặt sân chừng sáu, bẩy mươi phân, gồm hai ngăn, mỗi ngăn rộng chừng 1 mét vuông. Nước bể đã đầy, nhưng một vòi chảy vào thì trong, nhưng nước ở trong bể lại lờ lờ. Trên mặt nước lều bều những váng ghét, của những buồng trước đã rửa. Hàng trăm người, mà chỉ có độ chục cái gáo. Vì vậy, nhiều đứa thò luôn tay vào bể, vốc một ít nước xoa lên mặt mấy cái, như mèo, thế là rửa mặt xong.
Chỉ có 15 phút rửa mặt, rồi tất cả lại xếp hàng đôi trở về chỗ quy định của buồng trong vạch vôi, ngồi xuống. Trong buồng đang quét dọn, mỗi ngày cắt ra 4 người quét dọn, làm vệ sinh buồng và nhà xí. Trong buồng chỉ một đêm mà hôi bẩn như vậy. Ngồi ở sân, tôi hỏi một cậu, tên Tiến “Ga” ngồi bên cạnh:
- Các cậu ngủ như thế, bọ bò lổm ngổm vào chăn chiếu, làm sao ngủ?
- Anh ơi, rồi quen đi hết! Nhiều đêm đang ngủ thấy ngứa tai, móc ra là một chú bọ. Bọ chui vào quần áo là thường, anh ạ.
Nghe y nói, tôi cũng thấy người ngưa ngứa. Tôi phải luồn tay vào trong áo, vừa gãi, vừa đưa mắt hỏi Tiến “Ga”. Y cười thành tiếng:
- Anh nằm trên bệ xi măng là giai cấp trên rồi, không có bọ đâu, nhưng là rận đấy. Rận, ở trong buồng thì không ai là không có.
Thảo nào! Tuy là mùa Đông, nhưng buổi sáng cũng có một lúc ánh nắng nhàn nhạt. Tôi đưa mắt nhìn toàn bộ cái sân rộng của trại chung. Lổm ngổm đầy tù, mỗi buồng chiếm một khoảng sân. Buồng nào cũng đang có người cởi áo ra để…bắt rận. Tôi đang mải nhìn hai buồng phía gần xà lim I vừa rửa ráy xong và đã vào buồng, ngồi xếp hàng 10 để…”sinh hoạt chính trị”, bỗng một cậu chộp lẹ một cái vào cổ áo tôi. Tôi quay quắt lại, thì ra thằng Phong “Trố”, hai ngón tay trái và trỏ của nó đang kẹp chặt giơ ra, miệng nói:
- Rận của anh nè!
Tôi ngửa bàn tay cho y bỏ vào. Con rận “xề” đen xì, nằm ngửa hơ hơ, đang giơ những cái chân con tí giẫy dọn tìm cách lật úp lại. Mới có một đêm, rận đã bò cả ở bên ngoài áo. Tôi chợt thấy cả người ngứa ran. Chỗ nào trong áo, tôi cũng cảm thấy như có rận chui rúc vào. Tôi vừa quyết định phải cởi áo ra xem sao, thì bác Khánh đến, chỉ tay về phía một cái bàn và bảo tôi là cán bộ gọi.


75. Những Vấn Đề … Mới!

Ở một góc mái hiên có một chiếc bàn kê tạm, để chỗ cho cán bộ làm việc. Chẳng ai xa lạ, chính là tên chuẩn úy Kế, người miền Nam. Khi tôi mới vào Hỏa Lò, y mới có hạ sĩ. Sau khi tôi ngồi vào chiếc ghế nhỏ để cạnh bàn, y lật quyển sổ to, hỏi tên tuổi và sơ qua về lý lịch của tôi để ghi. Xong, y nhìn tôi nói vẻ dìu dịu:
- Trong buồng, anh là người lớn. Vậy, tôi giao cho anh nhiệm vụ là trật tự và đọc báo.
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng lại chợt hiểu ngay. Từ nãy, chắc chắn là tên Hưng trưởng buồng đã gặp tên Kế này, và đây chắc hẳn cũng do ý kiến của tên Hưng! Tôi đang định từ chối, y đã nghiêm trang:
- Đây cũng là một hình thức để cải tạo tư tưởng của anh. Chúng tôi sẽ đánh giá anh tùy theo thái độ tích cực hay tiêu cực trong nhiệm vụ này.
Thành ra, ý định từ chối của tôi chả có dịp thốt ra nữa. Tôi chỉ nói một cách yểu sìu, không mấy mạnh bạo:
- Người tôi ốm yếu, làm thế nào được việc trật tự. Vậy, tôi xin đọc báo thôi!
Y lắc đầu, rồi nói:
- Không được! Trật tự buồng có 4 người chứ không phải mình anh. Anh không được từ chối.
Xong, y nhếch môi nói như cười:
- Anh đừng lấy vẻ ốm yếu ra mà che mắt tôi. Tôi còn lạ gì anh nữa!
Tôi cũng hiểu là trong nhà tù, làm việc với cán bộ, dù cứ một chức vụ gì to nhỏ, đều sẽ mất lòng anh em. Tuy thế, với ý thức chính trị của mình, tôi sẽ có chủ trương sau. Bây giờ trước mắt hãy cứ tạm nhận.
10 giờ: giờ đọc báo và sinh hoạt. Tất cả các buồng đều phải vào buồng mình, ngồi tập trung hết lên bệ xi măng, nghe đọc hai tờ báo “Quân Đội Nhân Dân” và “Nhân Dân”. Những bài cần đọc, đều được cán bộ đánh dấu bằng bút chì đỏ. Bác Khánh, Thọ “Lột” và tên Hưng giữ trật tự. Bác Khánh khoảng 55, 56 tuổi, nhưng người trông còn khỏe mạnh, rắn chắc, dù tóc đã điểm sương mà da dẻ vẫn hồng hào. Bác ghé gần tai tôi nói nhỏ:
- Anh vào buồng này, toàn tụi lưu manh lau nhau là may đấy. Chúng nó vào, ra tù soành soạch, vì vậy mỗi ngày, chỉ có sáng một giờ, chiều một giờ đọc báo, rất ít khi sinh hoạt. Chứ anh xem, ở các buồng bên kia, sáng hai tiếng, chiều hai tiếng ngồi “sinh hoạt tư tưởng”, bới móc, cấu xé nhau mới điên đầu.
Đọc báo xong, đã 11 giờ. Cơm, nhà bếp đã đưa lên: một thúng cơm, và một sọt bát đĩa bằng sắt tráng men. Trật tự và các tổ trưởng phải ra nhận và chia cơm. Sát mé hàng hiên là những cái “bàn” ghép bằng hai tấm ván, dài mươi mười lăm mét. Buồng tôi, lớn nhỏ 174 người. Mỗi xuất cơm được hai lưng bát con. Chỉ có một cái bát con và cái môi phải chia sao cho thật đều. Xếp bát ở trên bàn thành 5 hàng. Khi chia gần về cuối, có thể thiếu, có thể thừa. Nếu thiếu, một anh phải lấy muỗng con đi tùng suất lấy bớt ra, tùy theo một muỗng, nửa muỗng, hoặc một phần ba muỗng, v.v… Nếu thừa, thì đi “tản” thêm cho mỗi suất một phần ba, hay một phần năm muỗng tùy theo. Người chia canh, người chia cơm, người sắp xếp, người so đũa. Khi đã đếm đi, đếm lại, thấy đủ rồi, mới báo cáo cán bộ cho buồng ra. Cứ hàng một, mỗi người đến lấy một suất cơm, một suất canh. Rồi, ra sân, mỗi người tìm một chỗ ngồi ăn.
Buồng tôi, vì phần lớn là lũ trẻ con, nhàng nhàng, nhơ nhỡ. Lại là dân lưu manh trộm cắp, anh chị nên chúng hay sinh sự, đánh nhau, bắt nạt nhau… lúc ăn, lúc chơi, cũng như lúc ngủ. Vì vậy, phải có người lớn. Người này, chúng phải nể sợ chúng mới nghe; chứ gặp người lớn lù khù, hiền lành, chúng thường chửi lại.
Có thể do tình trạng chiến tranh, tinh giảm cán bộ để dành cho chiến đấu và phục vụ chiến đấu tại miền Bắc và chiến trường “B”, nên tên Kế phải phụ trách hai buồng. Buồng số 4 là buồng chúng tôi và số 5 ở sát ngay bên cạnh. Buồng số 5 hầu hết là thanh niên và người lớn. Tuy cùng một cán bộ phụ trách, nhưng hai buồng có quy chế khác hẳn nhau. Buồng số 5 phải sinh hoạt chính trị tư tưởng chặt chẽ như nhiều buồng khác.
Ăn cơm xong, tù lại xếp hàng đôi để cán bộ kiểm người cho vào buồng. Để biết rõ thêm về thằng Thắng “Trắng”, con của Bảo Hưng Long, tôi đến ngồi bên cạnh và tình cảm hỏi chuyện tiếp. Chính vì tôi hay ngồi nói chuyện trò thân mật với nó, nên cả buống có dư luận là tình cờ trở về miền Bắc, tôi đã gặp lại một thằng cháu ở trong tù.
Qua thằng Thắng, tôi cũng biết sơ lược tình hình của Hàng Bạc từ 54 tới bây giờ. Thằng Hoan “Thọt” Hàng Bạc, rồi con của Chấn Hưng, thằng Hùng em cô Mi nhà Ngọc Chương, và rất nhiều cậu cùng tuổi, hoặc sấp sỉ tuổi tôi, đều đã đi… tù về tội lưu manh trộm cắp; một số tù về tội phản động, phản tuyên truyền.
Nói chung, bố mẹ bị “đánh tư sản”, vừa bị đi tù vừa hết của cải. Nếu còn ai không bị tù, đi làm cũng chỉ được đồng lương…chết đói! Ai đi làm cũng chỉ đủ để nuôi sống…người ấy. Bố làm nuôi bố, mẹ làm nuôi mẹ. Con cái nheo nhóc, không đủ ăn. Làm bố mẹ mà không nuôi được con cái 10, 15, 16 tuổi thì làm sao bảo được chúng? Một khi chúng phải tự kiếm ăn, chúng không còn sợ bố mẹ nữa. Bố mẹ chưởi con, con cãi, thậm chí cũng chưởi lại bố mẹ. Cuối cùng để rồi con cái phải “dạt vòm” sống lang thang trộm cắp. Cá biệt, cũng có bố mẹ còn chôn dấu được của cải, rồi do lòng thương con, nên vẫn cố gắng bù đắp nuôi con cho đi học tiếp, tùy theo đến lớp 7, lớp 8, có khi đến lớp 9, lớp 10 (hệ 10 năm). Nhưng kết cục, nhà nước cũng không cho vào đại học với nhiều nguyên nhân. Đến lúc này, bố mẹ cũng đành bỏ con, và con cũng đành bỏ bố mẹ. Con cái chỉ còn hai con đường: đi bộ đội, hoặc gia nhập giới…lưu manh.
Bao nhiêu tấm gương trước đây, ai cũng nhìn thấy, với cái “đuôi” là con nhà khá giả, tư sản ngày xưa, vào bộ đội, dù có tích cực một sống hai chết, cũng là một tên bị phân biệt thành phần; nghĩa là không có lối thoát, mặc dầu chỉ muốn sống một cuộc sống bình thường, làm ăn của một người dân, cũng không thể được. Chỉ còn một giải pháp thứ hai, dù biết rằng đi theo là hủy diệt tương lai, cũng đành, vì còn những phút tự do, những phút ngất ngưỡng cuộc đời khi kiếm được tiền: đó là “dạt vòm” vào giới lưu manh trộm cắp, bụi đời.
Những ngày sau đó, tôi hỏi thăm nhiều cậu trong buồng. Mỗi cậu mỗi tình tiết khác nhau khi trả lời hai câu hỏi:
1. Nguyên nhân, hoàn cảnh nào đã đưa đẩy em vào giới lưu manh trộm cắp này?
2. Hãy kể cho anh nghe một “cú” làm ăn của em, mà em cho là nổi bật nhất, được nhiều tiền nhất, kỳ công nhất?
Qua những câu trả lời của rất nhiều thanh niên về hai câu hỏi này, tôi đã nhìn ra cái lúng túng, mâu thuẫn của những tên lãnh đạo xã hội chủ nghĩa miền Bắc.
Chủ trương của chúng là dân phải…ngu! Dân ngu, mới dễ bảo; nói thế nào dân cũng tin, nói sai, dân cũng không biết. Có như vậy, mới vững cái ghế ngồi của những tên vua không ngai của một nền “quân chủ mới”. (Quân chủ cũ, chết đi nhường ngôi lại cho con cháu. Quân chủ mới, chỉ được hưởng hết đời mình, đồng thời lại không được làm “ngai”; bình mới, rượu cũ). Nhưng, ngoài mặt chúng lại phải bịp bợm, tỏ ra xã hội chủ nghĩa là cách mạng, là văn minh tiến bộ, khoa học, là “đỉnh cao trí tuệ loài người”……Chúng đã phải làm ra cái vẻ cổ vũ “toàn dân đi học”. Nhưng, trong chương trình học, tất cả chỉ nhằm đào tạo một loại người biết nghe lời, không được tìm hiểu những cái sai, lầm trong những điều đảng dạy. Nào là: “…trung với đảng, hiếu với dân…” vân vân, và vân vân…..Đảng bảo, chỉ biết nghe lời và chấp hành.
Một mâu thuẫn của nội tại vấn để đẻ ra là: nếu cổ vũ dân đi học mãi, dân sẽ khôn, sẽ biết những cái bậy, những cái bịp, những cái nói láo tinh vi của Đảng. Do đó, chủng phải ngăn dân lại từ cửa đại học. Cần lý do? Chúng có hàng triệu lý do; hoàn cảnh đất nước, nghĩa vụ quân sự, tiêu chuẩn điểm, lý lịch, v.v…và v.v…Chúng chỉ cho những ai thuộc loại cốt cán của cách mạng lên đại học. Mà cốt cán của cách mạng thì ai cũng biết tỏng là loại người nào rồi: phải là gia đình nhiều đời nghèo. Mấy đời khổ cực ngu đần, bây giờ đảng mới cho ngóc đầu, sung sướng, tất nhiên sẽ tuyệt đối nghe lời đảng (mặc dù, hơn chục tên Chính Trị Bộ đều là…con nhà khá giả, con ông cháu cha ngày xưa; nghĩa là ở thành phần địa chủ, hoặc tiểu tư sản), Phải là gia đình liệt sĩ. Chúng đã phồng mang trợn mắt, dùng mọi cách “Xui người dân ăn cứt gà”. Ai đó, ăn cứt gà, không may, bị chết, con cái lúc đó là con liệt sĩ. Lúc này, chúng lại khích con cái thù bố, thù mẹ (có biết đâu vì ông bố dốt, bị chúng xúi ăn cứt gà nên chết) và như vậy, chúng đã buộc chặt đứa con, đứa cháu đó vào dưới trướng của chúng rồi. Những người này, chỉ biết trung thành và tuyệt đối nghe lời chúng.
Trên đây là hai thành phần cốt cán của đảng đấy. Dù như vậy, trên đại học, cũng như khi đã tốt nghiệp, còn nhiều chặng, nhiều “khâu” lọc. Cuối cùng, những người thành đạt ra, phải “đạt” những tiêu chuẩn sau:
- Đảng bảo sao, hãy làm như vậy. Việc gì đối với đời là trái, đảng bảo là phải, hãy tin điều đó là chân lý. Kẻ nào làm ngược lại là chống đảng. Ai cũng hiểu, tội chống đảng sẽ ra sao rồi.
- Phải tự nguyện lấy mạng sống để bảo vệ đảng (là bảo vệ chỗ ngồi của 15, 16 tên thuộc Bộ Chính Trị).
Nếu ai cũng hiểu như vậy, đừng ai chê: sao tên giám đốc này ngu, tên giáo sư kia dốt, tên tiến sĩ nọ du học Liên Xô mà chẳng khá về chuyên môn, v.v… Từ đấy suy ra, cũng đừng chê: dân biểu này là hốt rác; nghị sĩ kia là con sen v.v…
Sẽ có người nói, nếu Cộng Sản dùng người như vậy, đất nước nghèo khổ, sẽ lạc hậu dần. Tóm lại, nước nghèo, dân khổ lắm.
Đây cũng là một chuyện đau đầu của những “ông” Bộ Chính Trị nhà ta. Chúng chỉ có thể chọn một trong hai cách:
1. Dân sẽ sướng, đất nước phồn vinh. Như vậy, dứt khoát không còn chỗ cho chúng ngồi nữa, vì chúng thống trị bằng lừa bịp và bạo lực. Đất nước là của chung mọi người dân, chẳng phải của riêng ai. Mỗi thế hệ biết bao nhiêu người tài ba, đạo đức mới, thế mà chúng cứ chễm chệ ngồi suốt đời trên “ngai” được sao?
2. Ngược lại, chỗ ngồi vững chắc, nhưng dân sẽ nghèo khổ, đói khát, v.v…
Không cần nghĩ lâu, ai cũng thấy là bọn lãnh tụ Cộng Sản đã lựa chọn cách nào rồi. Từ đấy, cũng suy ra, chưa có ai chê nền quân sự của Cộng Sản là lạc hậu và nghèo nàn. Vũ khí của Cộng Sản cũng như những kinh phí về quân sự, của chúng thường hơn hẳn phe quốc gia (để sáng tỏ vấn đề này, xin xem những phần sau vì phải dựa vào thực tế diễn tiến).
Lúc này, tôi chỉ xin mở vấn đề như sau: nếu ai nhận định hoặc hiểu nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân các nước Cộng Sản nói chung nghèo nàn và khổ cực, không những trước đây, bây giờ và mãi mãi sau này. Người đó nhìn như vậy là đúng! Nhưng, cũng lại đánh giá như vậy về quân sự của Cộng Sản Việt Nam, hoặc của các nước xã hội chủ nghĩa khác thì thực là sai lầm. Sai lầm ở chỗ: những phương tiện để phục vụ cho đời sống con người, dưới chế độ Cộng Sản thì vô cùng lạc hậu (vì đó là chủ trương của chúng); nhưng, những phương tiện để phục vụ về an ninh, quốc phòng, cũng như để tấn công, hoặc xâm lược các nước khác của Cộng Sản lại vô cùng phong phú, tân tiến.
Đừng nghe Cộng Sản kêu la túng quẫn, đừng nhìn Cộng Sản nợ các nước, hoặc các nhà băng quốc tế, mấy năm không trả được, v.v… mà bảo là các chính phủ Cộng Sản nghèo túng. Tin như vậy là chưa hiểu Cộng Sản. Tất cả đều nằm trong sách lược của chúng cả. Khi nào các bạn thấy vũ khí cũng như nền quốc phòng của chúng nghèo nàn, lạc hậu, các bạn hãy tin Cộng Sản nghèo túng. Còn ngược lại, chớ bao giờ tin, kẻo lầm, rồi lại vắt chân lên cổ mà chạy dài!
Một khi đã hiểu như vậy, xin đừng chê người dân dưới chế độ Cộng Sản là “cù lần”, khi họ nói “ti vi chạy đầy đường”, “cá thả vào bồn vệ sinh nuôi”, v.v… để rồi ta cứ chạy và chúng cứ thắng.
Nếu ta chê bai, chế riễu người dân dưới chế độ Cộng Sản là quê mùa dốt nát; cán bộ với bộ đội mán về thành phố, v.v… chẳng khác gì là ta chê một người câm không biết nói vậy.
Buổi sáng hôm sau, vẫn quen như nếp sống trong xà lim, mới 6 giờ, tôi đã thức dậy, định tập thể dục, nhưng căn buồng đầy người như thế này, không khí lại hôi thối, vì vậy, tôi phải đành tạm bỏ tập thể dục.
Bác Khánh già cũng dậy sớm, bác khoác chăn đến ngồi bên cạnh tôi. Nhìn bác, tuy mái đầu đã muối tiêu, nhưng dáng dấp vẫn nhanh nhẹn khỏe mạnh, đôi
bàn tay thật to với những ngón tay chuối mắn, tôi tươi nét mặt nhìn vào bộ ngực của bác nói:
- Bác có bộ ngực “cốt xì lô” quá! Chắc thời thanh niên bác cũng thích thể thao?
Mắt bác sáng lên, rồi quay hẳn lại phía tôi như được gãi trúng chỗ ngứa:
- Trước, tôi là một cây quần vợt ở “Septo”. Các loại thể thao điền kinh, môn nào tôi cũng hữu hạng.
Rồi như muốn khơi mạch cho nỗi niềm vơi bớt, bác nói tiếp, giọng như thì thầm:
- Đời tôi hận lắm anh ạ! Hình như mỗi đời người, dịp may chỉ đến một lần, bỏ lỡ rồi, đành ôm hận suốt đời. Năm 1954, tôi đã xách va-li xuống đến Hải Phòng rồi. Nhưng, hai ngày ngồi chờ tầu vào Nam, tôi lại lẩn thẩn nghĩ đến mấy cái nhà ở Hà Nội, nghĩ đến nhà tôi và các con, nên tôi lại mò về.
Nói đến đây, hình như có một sự cấu xé dày vò trong lòng, mặt bác nhăn lại, bàn tay đập mạnh xuống đùi:
- Chỉ vì vợ với con, nhà với cửa, để rồi nhà cửa cũng mất; con cái cũng lang thang mỗi đứa mỗi nơi; vợ chồng suốt năm chật vật lê thê, vặc, cãi nhau như mổ bò. Cuối cùng, bây giờ đem thân vào tù vì tội buôn lậu…
Đột nhiên, mặt bác lại hồng lên, môi trên nhấp nháy rồi cong lên:
- Vậy mà anh ạ, nghĩ cho kỹ tôi vẫn còn là may đấy. Luồn lọt, đi làm tài xế chạy xe cho xí nghiệp xe khách, nên cũng yên. Chứ hầu hết những nhà tư sản, có máu mặt dưới chế độ cũ, đa số đều bị bắt ngay từ 1956-1957 rồi. Nhiều người đã tự tử, đã chết trong tù…Thật là cả một nửa nước, ai cũng bị lừa.
Ngồi nghe bác thì thầm tâm sự, tôi càng quý và thương bác hơn. Tôi chỉ mới vào đây độ ba, bốn ngày, bác đã tin tưởng thổ lộ như vậy, nên tôi cũng thử đặt vấn đề hỏi bác, vì sao bác vội tin người như vậy? Bác cười, nhìn tôi, mắt nheo nheo lại:
- Cậu ơi! Hơn một chục năm sống trong xã hội đầy lừa lọc, phản trắc đã làm cho những giác quan của chúng tôi thêm bén nhậy. Vì vậy, gặp một người, chỉ qua vài lần nói chuyện là chúng tôi ngửi thấy vấn đề, an ninh hay bất trắc rồi cậu ạ. Nhưng, cậu hãy cảnh giác tên Hưng.
Tôi khẽ mỉm cười cảm ơn bác đã có lòng tin tưởng. Bỗng dưng cái chăn cuộn 3 đứa của Thắng “Trắng” giẫy lên đùng đục, rồi một tiếng hét ré lên. Thằng Phúc “Lủi” bé tí, bị đạp thọt ra ngoài chăn, đang khóc.
Nhìn cái bàn tay con con đầy ghẻ lở của nó đưa lên quệt nước mắt, trông thật là tội. Tôi chạy lại, đập vào vai thằng Thắng. Nó và thằng Hạnh “Chui” ngồi bật dậy, nhớn nhác dụi mắt. Tôi hỏi:
- Sao cháu lại đạp thằng Phúc ra ngoài?
Thằng Thắng giẫy nảy, chối:
- Không phải đâu! Tại cháu đang nằm mơ, thấy một con rùa to cứ chui vào trong chăn cắn chân cháu, nên cháu mới đạp đấy chứ!
Tôi và ông Khánh cùng cười, thương cảm cho đầu xanh sớm phải cảnh gió bụi, chỉ vì mười mấy tên hung đồ. Tôi móc túi “vê” cho mỗi đứa một điếu thuốc:
- Thôi, ra đây cho mỗi đứa “bắn” một “bi” rồi hãy ngủ lại!
Cả ba đứa toét miệng ra cười, trông như miệng ba con ốc nhồi. Nhìn thằng Phúc “Lủi” ngồi cuộn trong cái mép chăn, chỉ bé bằng con chó con, tôi tò mò hỏi:
- Cháu 11 tuổi, vậy cháu bắt đầu ăn cắp từ bao giờ?
Ra cái vẻ ta đây là “người nhà” của chú, thằng Thắng nhanh nhẩu trả lời thay:
- Nó biết ăn cắp từ ngày 4 tuổi, chú ạ. Nó đã có 12 lần “tiền sự” rồi đấy! (Nghĩa là 12 lần bị bắt, không xử).
Tôi ngạc nhiên hỏi ngay, với vẻ không tin:
- Bốn tuổi làm sao biết ăn cắp?
- Mẹ nó đã mất nhiều công dậy nó. Mẹ nó cứ bế nó chen lẫn vào những đám đông, như chỗ lấy vé ở rạp xi nê hay rạp hát. Nó lựa thế (theo mẹ nó bảo) thò tay sang túi áo người khác để lấy kính, lấy bút máy, có khi cả tiền. Nếu không may bị họ bắt được, người mẹ xin lỗi là cháu nó trẻ con, táy máy, đùa nghịch. Thấy người mẹ bế đứa trẻ, đa số không nghi ngờ gì cả, mất cảnh giác dễ bị mất lắm.
Tôi vẫy tay ra hiệu cho thằng Thắng đừng nói, để tôi nghe chính thằng Phúc “Lủi” trả lời, tôi hỏi tiếp:
- Thế lần cháu “mổ” (móc túi. Lính mổ: loại móc túi) được nhiều nhất là bao nhiêu tiền và cách đây bao lâu?
Đôi mắt đang hấp him như hai mắt con mèo nhìn đám gà con bới thóc ở sân, đột nhiên mở to, sáng lên như thấy một chú gà con rời mẹ chạy lại gần chỗ mình:
- Tết năm ngoái, cháu “mổ” được một lần nhiều nhất là 180 đồng.
- Ở đâu và của ai?
Tôi hỏi với một vẻ trầm trồ ca ngợi, một chiến công hiển hách. Thằng nhỏ càng sáng mắt lên đầy phấn khởi trả lời:
- Hôm đó, cũng sắp sửa Tết như kỳ này, cháu xuống Hàng Gai. Cháu đang chen vào Bách Hóa định mua một hào kẹo, chợt cháu thấy một bà xách cái lẵng hoa, cũng đang mua hàng. Bà mở lẵng ra lấy ví, móc tiền trả cái áo cánh. Thấy ví dày cộm, đầy tiền, cháu liền “tăm” bà ta suốt buổi chiều hôm ấy. Nhiều lần cháu không biết làm sao được. Mãi đến lúc bà ấy xuống ga Hàng Cỏ chen vào mua vé tàu, cháu mới chui vào theo, rồi dùng lưỡi “lam” mới, cháu “chích” lẵng của bà. Vậy mà phải gần nửa tiếng đồng hồ lo âu, hồi hộp, cháu mới lấy ra được. Xong, cháu lủi lẹ.
Tôi hiểu, dưới chế độ miền Bắc lúc này, có tiền nhiều như vậy, không là thủ quỹ thì cũng là cán bộ về tài chính của nhà nước. Tôi lại hỏi:
- Thế cháu đem tiền về làm gì, đưa đi đâu, hay gửi ai?
Nó cười rộ lên nghe như tiếng dê kêu:
- Chúng cháu mỗi đứa đều có nhiều chỗ gửi tiền. Các bà bán nước trà, các bà bán hàng cơm. Lúc có tiền thì gửi; lúc khó khăn không kiếm được, thì các bà bán chịu cho, chú ạ.
- Lúc này cháu còn tiền gửi không?
- Còn chứ chú! Cháu vào “hao” (Hỏa Lò) một, hai tháng trở về, chúng cháu phải có tiền chứ. Nếu không, lúc mới về làm sao dám đi kiếm tiền!
Thằng Thắng nhịn từ nãy, bây giờ được thể nói thêm vào:
- Chúng cháu ít khi bị bắt lắm. Nếu có một vài chục hay cái đồng hồ, thường không bị vào “hao” đâu.
Tôi đang vê điếu thuốc, tai vẫn mơ màng nghe, chợt ngạc nhiên, quay lại hỏi thằng Thắng:
- Là thế nào? Chú chưa hiểu có tiền, làm sao lại không bị vào “hao”?
- Có gì đâu, chú! Các chú công an ở các khu phố, mặc thường phục cũng như đồng phục, thường đi bắt chúng cháu ấy; chúng cháu đã nhẵn mặt, biết tính từng người. Nhất là chú Ngọc ở khu Hoàn Kiếm. Thường thường đi làm ăn, chúng cháu cứ để sẵn 10 đồng, có khi là một cái đồng hồ cũ giá độ 15, 20 đồng, cùng quá thì 5 đồng ở trong túi. Không may, hôm nào đó, bất chợt bị “vồ”, tiền hay đồng hồ bị công an khám thấy, giữ để làm tang vật. Rồi, công an cứ nắm tay giong về đồn. Trên đường đi, nếu có tiền như trên, công an thường vờ bảo “đứng đây, tao vào đi tiểu (hoặc mua cái gì đó, tùy theo), mày chạy đâu, chết với tao”. Tuy vâng, dạ nhưng phải hiểu là “hãy lủi lẹ, và không bao giờ được hỏi hay nói gì về số tiền công an giữ cả”. Vấn đề này, hai bên đều tự hiểu ngầm. Hầu hết chúng cháu, lớn nhỏ ai cũng hiểu thế…..
Thì ra là vậy, tôi thầm nghĩ khi nghe thằng Thắng nói. Tôi đang định hỏi tiếp với 3 đứa chúng nó, thì quản giáo đã đến mở cửa. Tới giờ hành chính rồi…..


76. Tình Người … Hưng Yên

Ra sân, sau khi rửa mặt xong, tôi và bác Khánh lại lúi húi dọn dẹp chỗ “bàn” dài, để lát nữa chia cơm.
Sáng nào, từ ngày chuyển ra trại chung ngoài này, tôi cũng thấy cô Vân đặt một cái bàn con ở một góc sân, trên để khay thuốc, rồi hí hoáy phát và bôi thuốc ghẻ cho mấy đứa nhỏ. Tôi hiểu là thỉnh thoảng cô vẫn đưa mắt nhìn tôi. Cô muốn tôi ra xin thuốc từ mấy ngày nay, nhưng tôi cứ lờ đi coi như không biết. Tôi nghĩ sự việc rồi sẽ chẳng giải quyết được gì, mà chỉ làm cho trái tim rỉ máu nhiều hơn. Vả lại, trong điều kiện như thế này, tôi không có quyền làm buồn lòng một người con gái, dù là người đó thuộc phía đối phương. Danh dự của cá nhân tôi, và danh dự của chế độ nữa không phép tôi làm như vậy (nếu câu chuyện này vỡ lở ra, chúng sẽ có dịp bồi thêm là người của miền Nam chỉ trai gái, không có đạo đức, v.v…). Từ những suy nghĩ như trên, tôi cứ phải lẩn tránh. Bất đắc dĩ phải ra ngoài, tôi thường nhìn đi nơi khác.
Hôm nay cũng vậy, tôi dõi mắt xa xa, chỗ khe hở của tấm có vây ở sân, nhìn những cái chân trắng, đầy lông lá, đi đi lại lại. Óc đang miên man đầy vơi những nỗi niềm nghiêng ngửa của cuộc đời, chợt, một cậu bé đến cạnh tôi, thì thầm, mắt nhìn ra chỗ bàn cô Vân:
- Chú ơi! Cô y tá bảo mời chú ra cho cô hỏi gì ấy!
Tôi thấy rõ trái tim mình nhảy nhịp một cách bất thường. Cô Vân ơi! Thôi mà, xin cảm ơn tình cô. Xin hãy để cho tôi yên lành, lần mò trong quãng đường tăm tối của tôi! Dù đầu óc nghĩ như vậy; dù lòng chẳng có ý định và dù vẫn cố gắng cắm cúi lau bàn; tôi vẫn thấy trái tim mình nhảy lộn xộn loạn cả lên. Trong khi tai vẫn thoang thoảng nghe như có tiếng nói của ai đó luồn trong gió ở ngay phía sau mình, mà do những tiếng gọi nhỏ bé hun hút, từ trong hang sâu thẳm của cõi lòng tôi thúc giục đẩy đưa. Hai bàn chân tôi, từ từ tiến ra chiếc bàn cô Vân đang ngồi ghi ghi, chép chép. Rồi cô nhấc chai thuốc này, mở chai kia, như không hề chú ý đến tôi.
Tôi biết là cô đã thấy tôi ra, nhưng nét mặt cô lại rất lạnh lùng. Tôi cũng hiểu, lúc này cũng có hàng trăm con mắt đang để ý theo dõi, bởi vì dù muốn hay không, sự việc nằm ngay trước mắt người ta. Mãi một lúc, cô nhìn tôi, mắt cô run run, đang từ màu nâu chuyển dần qua máu lá mạ “nửa dòng”, rồi nhạt dần thành màu hoa thiên lý “con so”. Mặt cô thoáng hồng lên dưới ánh nắng nhạt của buổi sáng mùa Đông. Một bàn tay cô lơ đãng, đưa lên hẩy nhẹ mái tóc lả lơi buông xõa bờ vai. Môi cô mấp máy, thốt ra những lời run run trong gió Bắc hanh khô:
- Sao mấy ngày hôm nay, anh không ra?
- Ra làm gì cho buồn thêm!…
Tôi trả lời trong hiu hắt nghẹn lòng. Giữa lúc ấy, tên Lê, phó giám thị từ phía cổng trại chung đi vào. Cô Vân vội nhặt 3 viên thuốc trong khay, gói vào một miếng giấy nhỏ, rồi đưa cho tôi, nói nho nhỏ:
- Mai, gần cuối giờ, anh báo cáo ra đây xin thuốc!
Tôi cầm gói thuốc đi về chỗ bàn chia cơm, người còn bần thần như vào một buổi chiều lộng gió, ngồi một mình nhìn ra cửa biển mênh mông. Vân nhẹ trách tôi sao mấy ngày không ra, thế là rõ lòng cô đã chờ đợi mong mỏi đấy. Vân ơi! Tôi cũng mong, cũng nhớ lắm. Nỗi mong nhớ khao khát của tôi hẳn còn sâu đầy hơn Vân nhiều. Tôi biết rung động trước tình người, bén nhậy với ân nghĩa, thế mà tôi đã bị rào kín, bị bóc lột đến độ tàn bạo. Sáu năm dài buồn bã trong căn buồng hẹp, cùm kẹp lê thê, khổ nhục đã làm tôi thiếu khát mọi thứ. Tôi thèm khát mùi lá khô, mùi hoa bàng. Tôi ngẩn ngơ nhìn ánh nắng. Tôi thả hồn với mây chiều, với mưa phùn gió Bấc. Tôi đắm say nghe tiếng chim ríu rít trên cành bàng, những sinh vật duy nhất nơi đây không hận thù…..Tôi muốn được san sẻ cõi lòng, khát khao bầu bạn.
Thế rồi, Vân đã đến với tôi, với một tình người dạt dào trong sáng. Để rồi tôi đã được những phút ngập ngừng, hồi hộp, say sưa. Và Vân đã mong nhớ. Và chúng ta đã bao lần trằn trọc trong đêm khuya.
Nếu như thế đã là đôi chút của tình yêu, thì sao nhì? Phải chăng đó là phần tinh khiết cao quý nhất của con người mà sắt máu, khủng bố của chế độ này đã không đàn áp nổi? Và phải chăng, nó cũng chính là chứng nhân và thẩm phán của chân lý, của tình người, để tuyên án chế độ này?…
Đang nghĩ ngợi miên man, chợt Thọ “Lột” đến ghé vào tai tôi, thì thầm:
- Anh ơi! Mấy hôm trước, đài nói Nguyễn Chí Thanh bị mệt nặng, các bác sĩ đã tận tình cứu chữa ở Liên Xô, nhưng cuối cùng bị chết. Nhưng, thực ra, bên ngoài Hà Nội, người ta đồn là Nguyễn Chí Thanh bị bom B-52 chết ở Dầu Tiếng, trong Nam, anh a.
Để xác định rõ, tôi hỏi thêm:
- Em nghe thấy từ bao giờ, khi còn ở ngoài Hà Nội, hay mới đây? Theo em, nguồn tin này do từ cán bộ nói ra, hay từ những người nghe đài BBC, hay từ đài miền Nam?
- Thằng bạn em nghe đài Sài Gòn. Nó mới bị bắt vào, nói lại.
Tôi động viên ca ngợi nó:
- Cảm ơn em, em có những nguồn tin thật là tuyệt. Nhưng, nhớ đừng cho ai biết là em đã kể cho anh nghe!
Chiều hôm ấy, khi tôi vừa ra cửa (trật tự được quyền ra vào, nhưng cũng chỉ ở góc cửa buồng mình), thấy buồng bên cạnh có 4, 5 anh đang thập thò ở cửa. Lại nghe tiếng nói của một người nào đó, rất quen đang nói chuyện vời một anh đứng gần đấy. Cái tiếng khàn khàn, đờn đợt, trọ trẹ miền Nam, tôi ghé gần một cậu, hỏi nhỏ về người có tiếng nói rất quen đó. Với hai con mắt him híp như mắt con heo nái, liếc đi liếc lại, long sòng sọc; miệng cười hềnh hệch, nhe những chiếc răng bàn cuốc, trong góc có một chiếc răng vàng đã bẹp dúm một bên. Chính anh ta đã nghe thấy tôi hỏi cậu kia, nên đã ưỡn thẳng người lên, rồi trả lời với vẻ ta đây:
- “Long Châu Sa” Lê Văn Lương, mới ở trại trung ương về đây!
- Trại nào?
- Trại I Phố Lu, Lào Kay.
- Tại sao lại về?
- Vụ án phải xử lại.
- Thế Nguyễn Văn Căn, sao?
Y mở to mắt nhìn tôi, như hỏi sao tôi biết, nhưng miệng y vẫn trả lời dù chưa hiểu vì sao tôi lại biết chuyện của Căn:
- Đã bắn 3 năm nay rồi còn đâu!
Dù đã biết vậy, nhưng tôi vẫn thấy tim mình như thắt lại khi nghe tin cụ thể về anh Căn. Anh đã chết rồi! Như vậy, ngày từ ngày đó, ngày tôi đào thoát, rồi bị đưa vào cát xô gần hai tháng, là thời gian anh Căn bị đưa đi bắn. Tôi nhắm mắt, gục nghiêng đầu một phút để mặc niệm hương hồn của anh. Anh đã hy sinh cho quyền làm người của nhiều người.
Tên Lê Văn Lượng cũng đi trại trung ương 3 năm nay rồi. Y lại mới được đưa về đây. Mồm y ông ổng huênh hoang kể những chuyện trên trời dưới đất ở trên trại trung ương, miền núi rừng hẻo lánh xa xôi. Năm, sáu người, ngay trong phòng tôi, cũng ngồi hếch mắt, há mồm nghe, trong đó có cả bác Khánh. Riêng
tôi, tôi cứ bần thần suy nghĩ về tên người Việt gốc Căm pu chia này, một tên đểu giả vô lại (tôi cho là chưa từng thấy một người nào khả ố, lật lọng đến như vậy), lại liên quan đến tổ chức tình báo Trần Minh Châu tức Cập. Một tổ chức gián điệp được cài lại tứ 1954, dây dưa rất nhiều ẩn khúc. Anh Cập, đầu mối đã bị xử tử năm 1957. Rồi cuối cùng năm 1958, Căn và Lượng mới bị bắt, vì Lượng giết một đứa bé ở Hàng Bạc để bịt miệng, tứ đấy mà bị lộ. Căn đã bị xử tử năm 1964. Lương bị xử án chung thân, bây giờ lại được gọi về xử lại.
Đang miên man nghĩ ngợi về y, chợt nghe y nói tới một chuyện làm tôi chú ý. Y kể lại, năm 1964, miền Bắc có bắt được một vụ biệt kích. Toán biệt kích này có tên là toán “Boone”, gồm 5 người: Đinh Sơn, Nguyễn Công Thành, Nguyễn Huy Lân, Nguyễn Văn Phú và Nguyễn Văn Mạnh. Chẳng hiểu vì lý do gì, toán này khi nhẩy xuống đất, biết đã bị bao vây, nên tất cả đều hàng hết, hàng ngay.
Cộng Sản miền Bắc đã lợi dụng vụ này để làm chính trị. Đài phát thanh, báo chí, chúng làm rùm beng hàng mấy tháng trời, trong nước cũng như ngoài nước, để chuẩn bị cho một phiên tòa với nhiều đại biểu của cả nước và có cả sự tham dự, của nhiều phóng viên quốc tế, v.v… Chúng xử ròng rã 3 ngày, với bao nhiêu trỏ hề, làm đau lòng những người có giòng máu quốc gia và làm mát mặt những tên đít đỏ như rệp. Cuối cùng, để khuyến khích, cổ vũ các toán biệt kích sau này, khi ra Bắc sẽ đầu hàng ngay. Mặt khác, để chứng tỏ cho thế giới thấy chế độ xã hội chủ nghĩa “Lương tâm của loài người, đỉnh cao của trí tuệ, đầy lòng nhân đạo, thương yêu người dân như con cái trong nhà, như anh em ruột thịt, máu chảy ruột mềm v.v…”, chúng trang trọng tuyên bố tha bổng. Đài phát thanh, báo chí trong và ngoài nước bốc thơm như mít. Nhưng, bây giờ tên Lê Văn Lượng chết tiệt lại nói là, nếu các bạn muốn gặp các anh biệt kích đó, xin mời lên trại trung ương số I, Phố Lu, Lào Kay.
Câu chuyện y kể làm mọi người bâng khuâng, thấy đầy rẫy vô lý. Dù rằng y là một tên lỗ mãng, đểu cáng, nhưng có những sự việc y không thể dựng đứng lên được. Thí dụ như sự việc này, bởi vì người và việc còn đấy. Nội vụ đã đưa ra tòa, cả nước chứng kiến, bao nhiêu phóng viên quốc tế quay phim, chụp ảnh; mặt khác nữa, ngay những bị can, sau khi được tuyên bố tha bổng, lại bị đưa cả vào tù, đời nào họ chịu (!), Chính phủ ăn nói với họ ra làm sao? Cho nên, rằng muốn tin, nhưng lại không thể tin, chỉ vì sự việc còn cách một không gian từ Hỏa Lò lên trại Phố Lu. Vì vậy, câu chuyện này cũng để nó đấy, thời gian sẽ làm sáng tỏ sau.
Nhưng, có một điều chưa thể quên ngay được về câu chuyện này là, sáng hôm sau, chả biết tên chó má nào đã thọc với quản giáo. Thế là cả một buổi sáng, buồng số 5 phải ngồi tập trung lại, có tên Kế dự. Lượng phải ngồi riêng một chỗ để toàn buồng…”giúp đỡ” bằng cách sỉ vả, mạt sát y là thằng nói láo, phản tuyên truyền, xuyên tạc đường lối giáo dục, cải tạo nhân đạo của đảng,
chính sách khoan hồng độ lượng của cách mạng, v.v…Cả một nhà nước to lớn, cả một đảng Mác xít, Lê-nin-nít vĩ đại bao giờ lại thèm làm những chuyện trẻ con, lừa bịp như vậy, còn đâu là uy tín, còn đâu là nét mặt phúc hậu của “cha già dân tộc” là Hồ Chí Minh?…
Gần hai tiếng đồng hồ, mỗi người mỗi phát biểu sỉ vả. Ngồi ở buồng bên cạnh, tôi còn sốt cả ruột gan, nóng ran cả mình mẩy, huống chi Lượng. Phải nói là y tối tai, tối mắt, quay cuồng như con thú ngồi trên nồi rang. Dù y có cương cường, ngông hách đến chừng nào, cũng phải quỵ mọp đầu xuống trước hơn một trăm cái miệng châu vào bủa lưới ụp xuống đầu y.
Người ta nói “chúng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết”, huống chi ở đây hàng hơn một trăm người, lại có “chính quyền” đứng làm ngáo ộp nữa! Ở đây, phải hiểu “chính quyền” là vũ khí bạo lực. Cho nên, cuối cùng anh đã cúi đầu nhận tội nói láo, phản tuyên truyền, chuyện không, nói có. Để chuộc tội, anh xin nhận “15 ngày kỷ luật cát xô, ăn cơm muối ngày một nắm”.
Câu chuyện này vẫn chưa chấm dứt ở đây, còn dài mãi đến năm 1982, và đến… bây giờ. Tôi, do hoàn cảnh tù đầy đẩy đưa, sẽ minh oan cho Lượng bằng người thực, việc thực. Không những chỉ câu chuyện này, mà còn biết bao nhiêu những cái bí ẩn, trong một góc của cả một bối cảnh thê lương dài 30 năm của đất nước, sẽ được phanh phui ở những trang tới.
Buổi tối, tôi đang ngồi chuyện trò với bác Khánh, Phúc “Thổ” lại ghé vào tai tôi nói thầm, tay chỉ vào một góc buồng có 6, 7 cậu đang ngồi:
- Mời anh lại chỗ chúng em một tí!
Tôi ngạc nhiên, nhưng cũng đứng dậy theo Phúc. Trong đám có cả Thọ “Lột” và mấy cậu nữa cũng là những tay có hạng trong làng dao búa của Hà Nội. Chẳng biết các cậu “xoay sở” từ lúc nào, những tên đàn em, kẻ canh gác cán bộ, đứa vào nhà xí dùng giấy đun được một ca nước trà. Thấy thế, tôi nhìn tất cả ngụ ý hỏi là các cậu làm vậy, không sợ tên Hưng và những loại chó “thọc” với cán bộ hay sao? Phúc “Thổ” cười một cách tỉnh bơ, không cần giữ ý:
- Anh ơi! “Sơn ăn từng mặt” thôi, anh ạ. Thằng Hưng hay thằng nào, cũng chỉ dám hống hách, cáo cầy với những cánh nào non thôi. Chứ chúng nó mà không biết điều với bọn em, chúng em sẽ cho nó “ăn bã trầu” ngay. Vì vậy, anh đừng để ý làm gì.
Rồi nó nhìn tôi giọng tình cảm:
- Chúng em được gặp anh, chúng em quý anh lắm. Cho nên, đứa nào trêu chọc đến anh, đúng là tên đó tới số.
Thọ “Lột” ngồi im lặng từ nãy, bây giờ rót ít nước trà vào chiếc bát con duy nhất, vừa đưa cho tôi, vừa nói:
- Xin mời anh cả! Như vậy, suốt gần 6 năm ở xà lim, anh không hề có mùng mền gì ư? Mấy đêm hôm đầu, chúng em dậy đi giải, thấy anh bó người trong như cái thây ma chết rồi.
Mấy cậu choai choai đang lắng nghe câu chuyện, vội chêm vào:
- Chúng cháu thấy chú bó người nằm thẳng cẳng, kín đầu đuôi, nhiều đêm phải rủ mấy đứa mới dám vào đi tiểu.
Phúc “Thổ” quay lại chỗ mấy cái ba lô, ôm ra một cái mùng cá nhân, một quần “tê tơ rông” vàng, với một chiếc áo “bơ lu dông” màu cứt ngựa để trước mặt tôi:
- Đây là tất cả những thứ chúng em đã chuẩn bị cho anh, anh hãy dùng tạm. Anh yên tâm, chúng em sẽ lo cho anh có đủ quần áo.
Lòng tôi thật xúc động và ngạc nhiên trước tình cảm của các cậu này. Tôi nói trong cảm động:
- Anh rất biết tấm lòng của các em. Nhưng, ở trong xà lim hàng 6 năm, anh đã chịu quen rồi. Các em cũng chả có, vậy các em cứ để lại dùng. Chỉ cần tấm lòng các em quý mến anh, là anh đã được an ủi nhiều rồi. Con người của anh phong sương, chẳng thích lệ thuộc vào hình thức. Các em hãy nghe anh, cất đi!
Phúc “Thổ” nói, giọng đầy vơi tình cảm:
- Anh Bình ơi! Bọn chúng em như những người lính không nhà, tuy có nhiều lúc thật xác xơ, đói khát, nhưng cũng nhiều lúc thật đế vương. Những cái này, chỉ là những cái vặt, không là gì đối với bọn chúng em cả. Nhiều khi, một cái quần may hàng năm, sáu mươi đồng; nếu cần chỉ đổi lấy một cái bánh mì 5 hào, cũng xong. Chúng em quý trọng anh, vì anh có những cái “giơ” của lính, nghĩa là không nói nhiều.
Vừa nói, nó vừa giũ chiếc quần, chiếc áo giục:
- Anh mặc thử luôn. Anh đừng phụ lòng của chúng em!
Không làm sao được, tôi đành đứng lên mặc thử. Thằng Minh “Trố” cười hô hố:
- Vừa quá! Anh hãy còn đẹp giai lắm, chỉ phải hàm dưới anh thiếu 3 cái răng, mỗi khi anh cười, trông như lỗ châu mai của lô cốt thời Tây vậy.
Cả tôi cũng cười vang vì cách ví von của nó. Thằng Tiến “Ga” xách đến một đôi dép râu thật “nền”, đặt trước chân tôi:
- Em tặng anh đôi dép này. Ra đây, anh vẫn còn cứ đi một chiếc guốc méo, với một chiếc dép mòn mãi!
Tôi ngạc nhiên, nhìn chân nó vẫn đang đi một đôi, tôi hỏi ngay:
- Dép ở đâu em có mà tặng anh?
Nó kéo nghệch cái miệng lên, giọng ra vẻ anh chị:
- Anh ơi, người lính, có là dùng, không hỏi là ở đâu cả!
Sáng hôm sau, trong giờ sinh hoạt, tôi đang đọc báo mục “nông nghiệp”, ca ngợi “quê hương 5 tấn” Thái Bình, tôi nghe mấy tiếng cười đùa xìn xịt ở một góc của mấy cậu choai choai. Tiếng bác Khánh đã bảo chúng yên lặng mấy lần, nhưng đâu vẫn hoàn đấy. Xem ý, mặt ông Khánh đã đỏ lên vì tức bực. Những đám thiếu niên này, quen sống trong giới bụi đời, chỉ biết nể sợ đám đàn anh của chúng mà thôi. Chúng thường tuyên bố thẳng là, ngay cán bộ chúng nó cũng không sợ bằng đàn anh; bởi vì, cán bộ chỉ bắt giam chúng vài tháng, dăm ba tuấn; chứ suốt đời, chúng phải sống với đàn anh. Nếu trái lời, không lúc này thì lúc khác sẽ bị hành tội. Chỉ trừ khi chính chúng có lực, có thế khỏe hơn hẳn đàn anh, không kể, Mà xem ý ra những chuyện làm “Zoóc” (làm “chó”, trong Nam gọi là “ăng ten”, điểm chỉ) chúng nó kỵ ghét nhất. Kế tới là những chuyện o bế chính quyền, trật tự, vệ sinh, v.v… Những tên đàn anh không bao giờ quát nạt đàn em cả, nhiều khi còn ủng hộ nữa.
Cũng vì vậy, ông Khánh bực bội lắm. Nhưng, trong mấy đứa cười đùa có một thằng tên là Trung Lý Thu, chừng 15, 16 tuổi, trông cao ráo, khỏe mạnh, lại được một số lau nhau rất nể sợ. Mắt nó cũng gừ gừ nổi gai nhìn lại ông Khánh, như trêu tức. Ông Khánh không chịu được nữa rồi. Ông đứng bật dậy, xắn tay áo, chỉ tay vào mặt thằng Trung Lý Thu, gầm lên:
- Mày không đáng tuổi con tao, biết không? Mày là con tao, tao sẽ đánh bỏ bố mày!
Thằng Trung Lý Thu cũng đứng dậy. Mắt nó quắc lên, cũng chỉ tay về phía ông Khánh, trước cả buồng:
- Thật là may cho ông đấy! Ông mà là bố tôi, thì tôi cũng đánh bỏ cha ông rồi!
Cả buồng cười rộ. Tôi cũng buồn cười, nhưng chỉ rung rung dưới bụng với tí ở ánh mắt, chứ mặt vẫn phải ra vẻ không có ý kiến. Mặt bác Khánh tím lại, hai thái dương bác giật liên hồi, hai bàn tay cứ nắm lại, rồi lại mở ra nhiều lần. Hai bên quai hàm của bác bạnh ra, làm những bắp thịt con chạy lên, chạy xuống. Tôi hiểu bác giận lắm! Bác muốn xông đến đánh thằng Thu gục xuống, bác mới hả. Nhưng, chắc bác cũng kịp hiểu. Bao nhiêu đàn anh, đàn em của nó, có để bác làm theo ý bác không. Hơn nữa, đêm hôm nó sẽ đánh “đòn ngủ” làm sao mà phòng bị mãi được. Tôi đã hiểu bác cũng chẳng ưa gì Cộng Sản, nhưng vì trót làm trật tự, đã trót lên tiếng với chúng nó, phải nói đến cùng mà thôi. Điều quan trọng là bác không hiểu tâm lý thanh niên, nhất là lưu manh.
Tên Hưng ngồi đấy cũng không dám có ý kiến. Về phía tôi, cũng là trật tự, nhưng tôi lại là người đọc báo, vậy tôi cứ lờ đi cũng chả ai trách tôi được. Trong dạ, tôi muốn bỏ cái việc sinh hoạt đọc báo của kẻ thù này, trong buồng càng lộn xộn, càng tốt. Nhưng, phải nhìn rõ vấn đề, tất cả buồng vẫn nằm trong tay Cộng Sản, anh không nên làm gì quá, làm quá sẽ mất tất cả, sẽ khó khăn thêm, trừ phi anh ở cái thế nói chuyện tương đương với Cộng Sản. Còn ở đây, trong buồng hổ lốn, mất trật tự, vì tên buồng trưởng nhát, Cộng Sản sẽ đưa một tên “đuya” vào. Vì tên cán bộ không có tài, chúng sẽ đưa tên có khả năng đến. Chúng có trăm ngàn cách để trị, để làm cho khó khăn thêm, khi anh vẫn còn nằm trong tay chúng.
Tóm lại, tôi thấy sự việc đã vừa đủ rồi, nên tôi lên tiếng. Tôi cũng hiểu, cái thế của mình chỉ đủ đến lúc này mới lên tiếng, và cũng chỉ được phép một lần thôi. Không biết, tiến quá, sẽ hỏng. Nghĩ như vậy, tôi quay lại phía bác Khánh, dõng dạc:
- Thôi, bác Khánh ngồi xuống, bác đừng chấp với các cháu!
Ngoái lại thằng Trung Lý Thu, mắt tôi nhìn nó như có tia lửa, nhưng miệng tôi thì nhỏ nhẹ, tình cảm:
- Cháu Thu hãy ngồi xuống. Chú tin là cháu đã hiểu vấn đề.
Nó hơi lưỡng lự một chút, rồi ngồi xuống. Với thái độ lưỡng lự của nó, dù chỉ là mấy giây, tuy trong thâm tâm, tôi cũng không vừa ý lắm. Nhưng, tôi cũng biết là với cái thế có được của tôi, từ khi vào buồng này, chỉ dùng được đến đấy. Nếu không tự biết, tự kiềm chế, tiến thêm ít nữa là có vấn đề. Nếu muốn tiến
thêm nữa, sau này lựa dịp, một buổi nào đó phải thử sức với các đàn anh của chúng nó ở trong buồng đã. Chuyện đó, những ngày tới hãy hay! Bây giờ, đã đến giờ chia cơm, và sau đó, còn phải ra gặp cô Vân xem cô muốn nói gì.
Tôi cũng biết, từ đầu câu chuyện lộn xộn trong giờ sinh hoạt, những con mắt của Thọ “Lột”, Phúc “Thổ” và một số tên lớn tuổi khác ở trong buồng đều không bỏ sót một cử chỉ, một thái độ nào của tôi.
Ngày hôm nay, mưa Đông nhì nhẹt từ sáng, sân trại vắng hẳn. Các buồng, sau khi chia cơm xong ở mé sát dưới hàng hiên, đều được phép lấy cơm vào trong nhà ăn.
Những hạt mưa nho nhỏ, theo từng cơn gió giăng, đan thành những tấm mành mành thưa ngoài sân trại. Trên trời cao, từng cụm mây đen to tướng lổm ngổm, có lẽ đầy nước, đang chậm chạp từ phương Nam lững lờ mò về phía Đông Bắc. Trong khi những làn gió lạnh buốt thổi từng hồi, làm giạt những hạt mưa xiêu chéo về hướng Tây Nam. Lác đác đó đây vài túm lá bàng úa đỏ còn sót lại trên cành, như cố đeo đẳng níu kéo với mưa Đông. Cuối cùng, cũng lần lượt theo từng cơn gió trong mưa, dăm ba chiếc chao đảo rời cành về cội muộn. Vài con chim sẻ run rẩy núp sát dưới mái hiên, đang xù lông, rụt cổ, nhìn những tấm thân gầy thiếu áo dưới sân. Ở sát tường, dưới hiên phía cuối buồng 4, chỗ chiếc bàn con của y tế, là một chiếc lưng ong, thon thon làn áo bông màu bộ đội. Hai lọn tóc gióc đuôi sam, được thắt hững hờ bằng hai sợi len đỏ, đang cong cong dẫy dọn theo gió. Thỉnh thoảng ngút ngắc như nhắc nhở tôi, đừng quên lời dặn hôm trước của chủ nhân.
Trước bàn, hơn chục người tù xếp hàng một. Những tấm chăn rách tả tơi họ khoác trên người đã không đủ kín, để lộ ra những đôi chân khẳng khiu da bọc xương, nhưng lại sần sùi như chân gà do những mụn ghẻ lở, mủ máu. Giữa hàng dài những đôi chân gầy, thỉnh thoảng lại có hai cái chân mập ú, to quá khổ bình thường, mọng núc những nước. Tất cả đều run rẩy dưới cái lạnh cắt da của mưa phùn, gió Bấc.
Một tiếng thở dài nhè nhẹ, như nỗi niềm ê chề của đất nước và con người, khẽ thoát ra ngay bên cạnh tôi. Tôi quay lại, đôi mắt đầy vết nhăn của bác Khánh đang lơ đãng nhìn xa xa, phía bên ngoài Hà Nội. Bác đang nghĩ gì? Phải chăng tiếng thở dài vừa rồi là cho vợ con bác? Ngồi bên nhau, cùng nhìn một cảnh đời, nhưng ai hiểu được nỗi lòng của ai?
Thấy đã gần cuối giờ, chỗ bàn cô Vân chỉ còn một, hai người, tôi vờ như chợt nhớ ra:
- Tí nữa quên! Cô y tá hẹn hôm qua ra lấy thuốc.
Nói một câu trống không như vậy, rồi tôi đứng dậy, đi ra, tiến lại chỗ bàn y tế. Làm trật tự có cái lợi như vậy, vừa được ngồi ở ngoài thoải mái, vừa được ra gặp y tá không phải hỏi ai. Bình thường, tù muốn gặp y tá xin thuốc, phải báo cáo cán bộ, nếu không có cán bộ thì báo trật tự.
Tôi đã đến sau lưng cô Vân rồi, đã nhìn rõ những hạt mưa lóng lánh thủy tinh, gắn đầy trên hai cái đuôi sam đen mượt của cô. Làn hương thơm quen thuộc của những ngày cuối ở xà lim, lại bủa kín người tôi. Chân tôi như ngập ngừng không muốn bước, thế mà cô Vân hình như có mắt ở phía sau, cô cất tiếng nói êm nhẹ, trải dài vào trong gió:
- Anh Bình có lạnh không?
Tôi vừa tiến ra trước bàn, vừa như nói cho mình mình nghe:
- Đã có người làm ấm cả không gian, còn lạnh gì nữa!
Hai má cô au lên màu hoa đào, mắt cô ngỡ ngàng nhìn từ vai xuống đến chân tôi. Môi cô rung rung nhếch lên để hở ra màu trắng muốt, của những chiếc răng hình hạt na đều đặn; một bàn tay cô khẽ đưa ra mân mê hộp dầu cao “Sao Vàng” ở mé chiếc khay:
- Quần áo ở đâu, mặc oai thế?
Đến lượt tôi cũng hơi lúng túng ngượng ngùng, tôi trả lời ngắt quãng:
- Mấy cậu ở trong buồng cho, bắt phải mặc…
Cô cúi xuống mở chiếc ngăn kéo, lôi ra một cái ví nhỏ. Cô vừa mở ví, lấy ra một cái khăn mùi xoa lụa trắng con con, vừa nói vẻ thẹn thùng:
- Anh Bình thêu cho Vân cái khăn nhé?
Tôi ngạc nhiên ngơ ngác:
- Tôi có biết thêu thùa gì!
- Vân đã thấy anh thêu cái túi rồi. Anh muốn thêu gì cho Vân cũng được!
Tôi chẳng hiểu cô nghĩ thế nào, lại bảo tôi thêu khăn cho cô. Điều này cũng đã nói lên một phần bản chất đồng quê còn trắng trong, chất phác của cô. Tôi nhìn cô, cô nhìn tôi. Góc chiếc khăn lụa trắng cong lên, lất phất như ve vuốt bàn tay của người con gái Xuân thì. Dù tôi biết thêu chăng nữa, cô không thấy rằng trong trại chung, với hàng trăm thanh thiếu niên như vậy, lúc nào, và tôi ngồi
đâu để thêu dệt mộng đời lên chiếc khăn tay? Cô đã mơ, tôi phải tỉnh! Tôi đã thấy rằng đã đến lúc chẳng thể còn chơi vơi, đu đưa với võng đời mãi được nữa. Chuyện này, đâu có phải chuyện đùa chơi. Tôi muốn tỏ một thái độ dứt khoát rồi đi vào buồng, nhưng nhìn đôi mắt của cô như than van mời gọi, như oán trách giận hờn, tôi phải nhìn đi nơi khác; rồi nói một câu ngược hẳn với ý định trong đầu:
- Tôi biết thêu làm sao, và thêu cái gì:…
- Một cành hoa đào với hai con chim. Nếu không, anh vẽ để Vân thêu cũng được.
Tôi buồn cười về ý tưởng ngộ nghĩnh của cô. Tôi chẳng hiểu tại sao cô lại thích những chuyện vơ vẩn như vậy, khi giữa cô và tôi có một bức tường cách ngăn cao vời vợi.
Một cơn gió lạnh thoảng qua làm đong đưa mấy chùm lá bàng vàng úa trên cành. Một chiếc lá chơi vơi, chao đảo trong gió, sà xuống cạnh khay thuốc trên mặt bàn giữa cô và tôi. Một tấm thân gầy đầy ghẻ lở trượt chân ngã, nằm sóng xoài ở mé sân phía bên kia. Đây đó vang lên những tiếng cười khô man rợ, thờ ơ. Một làn hơi nóng dâng lên trong người tôi, đẩy thành một quyết định. Tôi lạnh lùng, nhìn thẳng vào mắt cô Vân:
- Xin cảm ơn nhiều, và xin giã biệt.
Nói rồi, tôi quay ngoắt đi về buồng, tai còn nghe tiếng gọi yếu ớt “Anh Bình!” tuôn dài vào trong mưa Đông phía sau lưng.
Vào trong buồng, lòng tôi buồn vời vợi như thi trượt. Tôi bần thần ân hận về câu nói cuối cùng của mình.Tàn nhẫn quá! Tôi tưởng như âm vang của câu nói còn đâu đây. Nhưng biết sao được, tôi đâu muốn thế. Hơn nữa, hậu ý của tôi thì trái hẳn lại. Tôi không muốn Vân đau khổ hơn vì tôi. Vân ạ, chúng ta đều đang chết héo hắt trong cõi lòng. Chúng ta không được hưởng chung một bầu trời, một vầng trăng. Tôi thương Vân đã không thể tự do sống ngay thẳng với lòng mình. Vân chỉ là một con thiêu thân cho những ngông cuống, ích kỷ của bọn họ mà thôi. Chúng bắt tôi phải mang tội, phải có tội với chúng, với tình của con người, Vân với tôi có gì để lên án, để thù ghét nhau đâu?
Nhưng, tôi đã phải nói những lời cứng cõi, lạnh lùng, tàn nhẫn với Vân. Vân ơi! Tôi không can can đảm để nhìn cặp mắt trong xanh chứa một trời mơ, hẹn ước của Vân nữa. Tôi hiểu, dưới đáy mắt Vân là một khung trời thênh thang lộng gió, mà chúng ta cùng ao ước là những cánh chim hải hồ, đan nhau bay lượn, hay nhỏ bé hiền lành như đôi chim khuyên nhảy nhót trên cành hoa đào một sớm Xuân. Nhưng Vân ơi, tất cả chỉ là ảo vọng! Tan vỡ rồi, còn tàn nhẫn gấp bội. Bởi thế, tôi không còn can đảm để tiếp tục. Tôi đã ngây ngất, nhưng tôi lại sợ hơi thở thơm nồng. Tôi lẩn tránh sống mũi xinh xinh, làn má có lông tơ, óng mượt của Vân.
Vân ạ, đừng hiểu lầm lòng tôi. Tôi không muốn Vân bị sa thải, bị coi là hủ hóa, và nhất là sẽ bị kiểm thảo, rồi có khi sẽ bị ngồi trong xà lim, cùm kẹp tàn tạ như chị Bắc, như tôi. Dù có chua xót, nhưng chúng ta đừng nơi đây. Những gì đã qua, hãy coi là những kỷ niệm khác thường trong cuộc đời, một sự khác thường ý nghĩa và lý tưởng, Vân nhé!…
Khi bước chân vào nhà tiêu, tôi gặp thằng Hỷ “Con” một mình đang đi giải, tôi thân mật hỏi:
- Này cháu, mọi khi ngày nào cô y tá cũng vào đặt bàn ở đấy cho thuốc à?
Nó ngơ ngác nhìn tôi, băn khoăn một lúc, rồi vừa lúc lắc cái đầu, vừa trả lời:
- Trước kia, cô ấy ít vào cho thuốc lắm chú ạ. Có khi hàng tuần mới có một lần thôi. Chắc kỳ này có nhiều thuốc, nên ngày nào cô cũng vào cho.
Tôi vừa trở về chỗ, vừa suy nghĩ. Có thể việc phát thuốc lại trở về tình trạng cũ thôi, nghĩa là cả hàng tuần cô mới lại vào. Đành vậy!…


77. Lại thêm sự thật…đau lòng… của “thiên đường Cộng Sản!”…

Giờ trưa đã sắp đóng cửa buồng, đột nhiên có tiếng láo nháo ngoài sân. Một số cậu chạy đến, đứng phía trong cửa buồng nhìn ra. Bác Khánh, Thọ “Lột” và tôi vì có trách nhiệm nên được ra hẳn ngoài. Thì ra từ phía cổng trại chung, tên Bằng đang dẫn hơn một chục đứa lỡ nhỡ, lau nhau đi về phía buồng này. Chỉ một vài đứa đi chân không, còn hầu hết đều đi dép, quần áo có vẻ còn sạch sẽ. Khi đến trước cửa buồng, tên Bằng quát, bắt chúng ngồi tập trung vào một chỗ, chờ cán bộ Kế về nhận tù mới.
Trong khi đó, bên trong buồng nhiều đứa đã ý ới, những lời thăm hỏi ríu rít với bên ngoài. Nào là: mày lại vào “hao” à? Thằng A, thằng C đâu? v.v… Ngược lại bên ngoài cũng hỏi vọng vào…
- Mày vào “Ấp” bao lâu rồi? Thằng X đi Kỳ Sơn lâu chưa? Thằng K còn đấy hay đi Mai Lĩnh rồi? v.v… cứ tíu tít như đàn sẻ tranh nhau ăn. Một số thằng đàn anh, nghĩa là những thằng lớn, đã chỉ trỏ… đôi dép của thằng X, tao nhận rồi; thằng thì nhận cái áo bông của thằng Y, cái dây lưng của thằng Z, cái mũ của thằng B, v.v… Có nghĩa, chốc nữa vào buồng, những thứ đó, ai phải nộp cho ai rồi. Đấy là một hình thức cá lớn nuốt cá bé, “trấn, lột” lại của nhau. Nhưng có một điều, ngay những đứa bị lột, cũng vui lòng hả hê cung tặng đàn anh.
Điều tôi đặc biệt băn khoăn là, hầu hết, vẻ mặt chúng nó vào tù chả buồn tí nào cả, vẫn nhâng nhâng chuyện trò cứ như đi…cắm trại vậy. Không hiểu được, nên tôi đành phải hỏi chung cả một đám:
- Này các cháu, các cháu vừa bị bắt vào, các cháu chả có vẻ gì buồn cả là làm sao?
Đa số những cái miệng con tí đều nhao nhao:
- Chú ơi, “hao” (có lẽ âm của tiếng house) đối với chúng cháu là nhà. Lang thang một thời gian, không may bị “vồ” là giai đoạn về nhà nghỉ. Rồi họ lại phải thả ra! Vì cứ giam mãi, Hà Nội sẽ hết cả trẻ con, chú ạ. Trẻ con Hà Nội đa số vừa đi học, lại vừa là lưu manh. Rất nhiều đứa đều có “phích” (sổ đen) bị giữ ở đồn công an một vài tuần, hoặc dăm ba ngày rồi. Chẳng bố mẹ nào có tiền cho con cái. Vậy, muốn tiêu, phải ăn cắp.
Tôi lại càng ngạc nhiên, hỏi mấy cậu 17, 20 tuổi:
- Như vậy chỉ có con trai thôi, còn con gái thì sao?
Chúng nó cười ngất:
- Anh ơi! Anh chưa đi sâu vào xã hội này, anh không biết. Cũng như chúng em, tuy hàng ngày vẫn cắp sách đến trường, nhưng một nửa ngày là lưu manh. Bởi vậy, con gái rất rẻ! Chúng em đi ăn cắp, có tiền, chỉ cho một bữa xi nê, một bát phở là đem các em đi “quất” được rồi. Chúng em có thể nói thực với anh là, hầu hết con gái Hà Nội bây giờ, khó có cô nào còn trinh cả. Chúng em bảo đảm với anh là, anh đi trên đường phố Hà Nội, cứ thấy cậu nào có vẻ “ăn diện” một chút, đều là lưu manh, ăn cắp hết. Con gái cũng vậy. Không lấy đâu ra mà tiêu xài, mà diện.
Tôi vừa nghe chúng nó nói đến đấy, tên Kế đã từ ngoài trại về. Lại ồm ồm lên khi hơn một chục đứa theo nhau vào buồng. Tên Hưng phải xóa chiếc bảng con treo ở cửa, ghi số mới của buồng thành 192.
Càng gần về cuối tuần, buồng càng chật. Thứ Sáu, thường có hai xe đưa loại tù con đi trại. Một xe đưa đi Kỳ Sơn loại từ 13 đến 17. Một xe đưa đi trại nhi đồng Mai Lĩnh, gần chùa Trầm, Hà Đông, loại từ 12 trở xuống.
Chỉ mới hơn nửa tháng ở buồng này, tôi đã tiếp xúc hàng mấy trăm đứa. Hết đợt kia đi, lại đợt này vào. Tùy loại, hoặc tùy điều kiện xe cộ, Việt Cộng bắt đám tù con nít này vào đồn công an ở khu phố đã, rồi tùy theo từng loại mới hay cũ, sau đó mới chuyển đển Hỏa Lò. Nhưng, cũng có loại, chúng đưa ngay vào Hỏa Lò. Cho nên, có lúc đưa vào vài chục đứa, có khi lại chỉ hai, ba đứa.
Khi cửa buồng đã khóa, và sau một lúc ồn ào của những màn thăm hỏi và… lột quần áo, v.v… Tôi lại muốn nghe tiếp câu chuyện còn bỏ dở của các cậu thanh niên. Vì vậy, tôi lại mò đến một đám gồm gần một chục đứa, trong đó có cả Phúc “Thổ”. Thấy tôi đến, các cậu tránh dịch ra một chỗ, mời tôi ngồi. Ngồi xuống, vẻ vồn vả, tôi hỏi ngay:
- Khi nãy đang nghe các cậu nói chuyện Hà Nội thật hấp dẫn. Chính tôi không thể ngờ được! Này, thế con gái cũng là lưu manh cắp trộm, họ có bị bắt không?
Mấy cái đầu đều ngẩng lên định nói; nhưng chỉ một mình Phúc “Thổ” lên tiếng:
- Có mà đầy, anh ạ! Ngay Mai Lĩnh cũng có ba nhà con gái. Còn Kỳ Sơn, riêng một trại bên cạnh trại giam. Cứ đủ 18 tuổi là chuyển lên trại trung ương như chúng em bây giờ. Gái Hà Nội lúc này, gần một nửa là gái điếm. Một phần là gái điếm “nghiệp dư”, một phần, tốt hơn, có bồ bịch là lưu manh như chúng em. Vì chỉ có chúng em mới có tiền, để cho các cô diện và tiêu thôi.
“Bây giờ, họ thấy Kỳ Sơn và Mai Lĩnh đầy ứ nhiều quá, em nghe nói, họ mới mở 3 trường lớn ở Lào Kay và Phú Thọ. Thực tế, đó là 3 trại giam thiếu niên lớn, nhưng họ lại gọi là: “Trường Phổ Thông Công Nghiệp I, II và III”. Cũng như trại Kỳ Sơn, đi làm lao động có công an đưa đi. Chỉ có khác, quản giáo được gọi là thầy cô.
“Khi con gái đủ 18 tuổi thì bị đưa vào trại Mỏ Chén ở Sơn Tây. Trại này có hơn 3000 người. Trong khi, ở mỗi trại trung ương vẫn có một trại nữ ở gần kế bên. Sau này, anh đi trại, anh sẽ thấy nhiều vấn đề”.
Rồi như để minh giải những lời nói của mình, Phúc “Thổ” chỉ mấy cậu đang nhấp nhổm muốn chêm ý kiến mà chưa có dịp:
- Đây, thằng Minh “Trố”, dân “nhảy nghẽo” (ăn cắp xe đạp), thằng Tín “Đen”, vua cởi “hiệng” (ăn cắp đồng hồ), thằng Đồng “Ma cô”, dân “đột vòm” (đêm vào nhà ăn trộm), thằng Thái “Gà”, “lính mồ”… Chúng nó tung hoành thường có một hay hai con rất “nốp” đi theo, nên thành công nhiều hơn. Trên tầu, xe hay đám đông, các em thơm như múi mít, cứ đứng áp vào người, hay đá lông nheo, các cậu nhà ta mặt cứ đực ra như đang bĩnh ấy, nên tha hồ chúng nó đến lột. Hàng trăm ngàn trò, có con gái là xong lẹ.
Ngay cái vụ Tòa Đại Sứ Pháp mất bao nhiêu đồ cổ quý giá, đã ầm cả Hà Nội lên, cũng do các cô em đến “chài” mấy anh lính gác, các cậu mới bò trèo vào được.
Tôi liếc nhìn thấy tên Hưng đang lúi húi ngồi hút thuốc, với bác Khánh ở mãi góc phía xa, liền đẩy nhẹ sang một tí vấn đề đất nước:
- Này, thế các cậu có thích nhà nước này không? Có thích bác Hồ không?
Cả 8, 9 thằng ngồi quanh đều cười ầm lên. Có mấy thằng hai bàn tay nắm chặt vào nhau, đưa cao lên đầu như lạy lạy ở trên không. Ba, bốn đứa đều định nói, nhưng thằng Minh “Trố” nói trước một cách dõng dạc:
- Em không nghĩ là anh lại hỏi chúng em như vậy. Chúng em nghĩ là anh đã thừa hiểu chúng em rồi. Em năm nay đã 23 tuổi, cũng đã học hết lớp 10, em nói một cách có giá trị là: không một người dân Hà Nội nào nói riêng, và cả miền Bắc nói chung lại ưa cái chế độ Cộng Sản chó chết này cả, chỉ trừ một số ít người có những ân huệ đặc biệt không kể. Chúng em chỉ mong miền Nam Bắc tiến. Lúc đó, dân và ngay nhiều cán bộ cũng quay súng bắn trở lại những lũ chỉ huy, lãnh đạo ngay. Anh nhìn thấy bộ đội hoặc tự vệ các nhà máy, quyết tâm tử chiến với máy bay Mỹ, thì tưởng là toàn dân miền Bắc chống Mỹ ghê lắm. Hiểu như vậy là hoàn toàn lầm. Chúng em cũng từng là bộ đội, là tự vệ rồi. Tất cả
chẳng qua vì cái thế, vì nồi cơm, vì chỗ đứng. Nếu không bắn sẽ bị quy về tư tưởng, người này theo kèm người kia. Chứ bộ binh của miền Nam, hay Mỹ nếu ra đây, sẽ cuốn lôi từng mảng. Rồi như giòng thác vỡ bờ, toàn dân được dịp đứng dậy trả thù lũ khát máu.
Ngừng một chút, thằng Minh “Trố” lại phấn khởi nói tiếp:
- Anh có biết, niềm mơ ước, hoài bão của người dân Hà Nội sau này sẽ thực hiện bằng được, là cái gì không anh?
Tôi nhìn khắp lượt, gần 20 con mắt đang mở to long lanh chờ câu trả lời của tôi. Tôi cho là quá dễ dàng, nên trả lời ngay:
- Mơ ước là được đổi lại chế độ tự do, tư bản chứ gì!?
Mấy cái miệng đều toét ra cười, đầu lắc lắc. Thằng Phúc “Thổ” nheo nheo đôi mắt nói:
- Điều đó là dĩ nhiên rồi, ai cũng biết. Chúng em muốn nói một niềm mơ ước, sau khi đã diệt hết lũ Cộng này rồi cơ?
Chúng nó đều nhìn tôi với những con mắt đầy màu xanh mộng ước, trên những nét mặt rạng rỡ nhìn về ngày mai. Tôi đăm chiêu nghĩ suy một lúc, thấy câu hỏi mở rộng quá nhiều vấn đề để trả lời, cuối cùng, tôi cũng lúng túng, đành chịu thua. Minh “Trố” điềm đạm nói ngay:
- Có gì đâu anh phải suy nghĩ nhiều, hở anh! Sau này, anh được ra, anh cứ đi từ nội cũng như ngoại thành; anh hỏi bất cứ người dân nào nếu họ tin anh, ai họ cũng sẽ trả lời là: một điều khắc cốt, ghi xương, nếu họ không làm được, thì họ trối lại cho đời con, đời cháu của họ, phải thực hiện cho kỳ được, nếu không, con cháu của dân Hà Nội đều bất hiếu với tổ tiên; (nó như một lời nguyền của dân tộc); là hãy phá tan khu Ba Đình, và kiến thiết xây một nhà xí công cộng, đầy tiện nghi cho người Hà Nội xử dụng!
Óc của người Hà Nội thật là phong phú, làm tôi cũng phải phì cười. Một sự việc bao quát rất nhiều vấn đề của lòng dân, đối với một chế độ mệnh danh là… “đỉnh cao trí tuệ của loài người và lương tâm của nhân loại!…”
Thấy chúng tôi cười vui ròn rã chuyện trò, tên Hưng liền mò lại. Y mới đi được vài bước, thằng Phúc “Thổ” vẫn vờ coi như không biết, đường hoàng nói tiếp:
- Anh có biết thú vui của một số các ông 40, 50 tuổi ở Hà Nội bây giờ là thế nào không?
Tôi cho là một câu hỏi để che lấp câu chuyện trên, nên cười lắc đầu; không ngờ nó lại nói tiếp để giải thích:
- Cứ bốn, năm ông kiếm một căn buồng, đưa rượu và đồ nhắm đến, rồi đưa một con nhãi chỉ 13 đến 15 tuổi, bắt lột hết quần áo, ngồi hết lòng ông này, đến lòng ông khác. Các ông vừa bế, vừa uống rượu.
Tôi cho là nó nói đùa, nên cười nói:
- Các cậu bầy đặt lắm chuyện, làm gì có chuyện thế!
Nhưng, Phúc “Thổ” và mấy cậu đều nghiêm mặt. Minh “Trố” nói tiếp:
- Chuyện này có thực đấy, anh ạ! Phổ cập là đàng khác. Các ông quá chán chường, lại không có lối nào thoát. Này nhé, tiền thì không kiếm đâu ra, tuy chơi gái thì rẻ thôi, nhưng không có tiền để tẩm bổ, nhất là khi có bệnh nữa; cho nên, các ông thích “giải trí” theo kiểu ấy lắm, anh ơi!
Tên Hưng vừa đến, định ngồi xuống, nhưng thấy thái độ của chúng nó không muốn tiếp; hơn nữa, chúng lại đang nói chuyện gái, nên y lại đi vòng qua luôn. Tôi quay lại, nhìn khắp các bộ mặt một lượt, rồi nói:
- Các cậu có những thủ đoạn, mánh lới như tình báo ấy. Tôi nể các cậu đấy!
Phúc “Thổ” cười, mặt hơi đỏ lên:
- Anh quá khen làm chúng em ngượng, chẳng qua vì cuộc sống thực tiễn đầy mưu mô, lừa lọc, rình mò, theo dõi của cái xã hội này đã dạy chúng em phải như vậy để sống còn. Như thế gọi là đổi “gam” anh ạ! Nếu tên chó chết đến, mình đang nói chuyện mà im bặt, nó càng nghi. Phải vờ coi như không trông thấy nó, nhưng đổi thành đề tài khác, rồi vẫn nói chuyện bình thường.
Buổi chiều hôm đó, trời lại hanh nắng. Tôi đang đúng ngoài cửa buồng đưa mắt về mấy khu quây cót, nơi ngăn riêng của phi công Mỹ, chợt nghe những tiếng ầm ầm quát tháo, và thấy nhiều những cẳng chân lông lá chạy xô chỗ này, quẩn chỗ kia như có cuộc ẩu đả, đánh nhau; thì có tiếng tên Kế, đang ngồi ở chiếc bàn con kê sát mé hiên nhà, gọi tôi. Khi tôi tiến đến bàn y, y đưa cho tôi một chiếc chìa khóa và nói giọng rỏn rẻn miền Nam:
- Anh vô buồng, gọi hai thằng vệ sinh trực bữa nay, đem bô và chổi vô chỗ phòng cát xô phía trên, bắt tụi nó dội rửa, quét sạch phân với nước tiểu đi nghe!
Tôi vào buồng gọi hai thằng vệ sinh. Mỗi ngày có bốn đứa, vì vậy, thấy nói vào cát xô làm vệ sinh, cả 4 đứa đều tranh nhau muốn được phân công. Tôi thấy hơi lạ thì Phúc “Thổ”, đang đứng bên Thọ “Lột”, đã nói:
- Có gì đâu anh. Ba hôm trước có bốn con “mòng” bị đưa vào phòng cát xô kỷ luật vì tội trùm chăn đánh “zoóc” ở khu nữ. Trong đó, chúng em biết có con Điệp “Nổ” và con Yến “Lai”, nhiều đứa thích, nên chúng nó muốn theo anh vào cát xô đấy. Chúng em cũng muốn vào, nhưng không được.
Thọ “Lột” móc hai điếu thuốc Điện Biên đưa cho tôi, cười:
- Mời anh một điếu, còn một anh cho con Yến “Lai” giùm em.
Rồi nó quay lại, chỉ hai thằng 15, 16 tuổi, bé loắt choắt:
- Hai thằng này theo anh Bình vào làm vệ sinh, còn hai thằng kia về chỗ.
Tôi dẫn hai thằng vào mở khóa một căn buồng. Mùi khai thối nồng nặc. Giữa buồng là cái cũi hay cái chuồng bằng sắt với những chấn song to bằng cổ tay, dựng đứng từ nền tới trần nhà, cao khoảng hai mét, các chấn song cách nhau khoảng 10 phân. Cũi hình chữ nhật, rộng chừng 1m50 và dài khoảng 2m. Bên trong cũi, có 4 cô gái chừng 15 đến 17, cô cặp tóc, cô “phi dê”. Một cô da bánh mật, còn 3 cô thật sáng sủa. Chẳng có chăn chiếu gì; trời mùa Đông lạnh buốt, các cô phải nằm ôm nhau thành một đống ở giữa cũi.
Thấy tôi vào, các cô đều bò dậy. Quần áo, phần thì chật ngắn, phần thì rách hở hang, các cô đều đỏ mặt ngượng ngùng, ngồi co dúm lại, lấy đôi tay định che kín cả người. Tôi cũng hơi ngượng, quay bảo hai tên mang bô ra chỗ máy nước ngoài sân, lấy hai bô nước vào.
Từ nãy, tôi muốn hỏi cô nào là Yến “Lai” để đưa điếu thuốc của Thọ “Lột”, nhưng vì ngượng nên lúng túng, đứng yên, chờ hai đứa mang nước vào. Có lẽ nhìn thấy tôi như vậy, nên các cô bạo ra. Một cô ngập ngừng lên tiếng hỏi:
- Chú là trật tự ở đây đấy ư?
Thấy hỏi, tôi cung bạo thêm lên, dù không dám nhìn thẳng phía các cô. Tôi đã từng ở xà lim, đã từng ở cát xô dưới hầm, tôi hiểu cái lạnh chết người của sắt và xi măng. Một tình thương cảm dạt dào dấy lên trong lòng tôi. Những mái đầu xanh này vì đâu đã sớm phải trong cảnh lầm than tù ngục như thế này!? Tôi không còn thấy ngượng nữa, hỏi thăm ngay:
- Lạnh thế này, đêm các cô ngủ làm sao?
Hình như câu tôi hỏi đã chạnh nỗi niềm vẫn khép kín trong tâm tư, mắt cô nào cũng đỏ lên. Một cô, ngấn lệ long lanh, nói trong thổn thức:
- Rét lắm chú ơi! Cả đêm, chúng cháu cứ ôm nhau khóc, không ngủ được.
Trong khi tôi và các cô nói chuyện, hai cậu nhỏ vừa dội, vừa quét chung quanh. Sau khi đã biết được tên cả 4 cô, tôi đưa cả hai điếu thuốc lá, nói rõ một điếu của Thọ “Lột” gửi cho Yến “Lai”, còn tôi chỉ có một điếu, các cô hút chung mấy hơi cho đỡ lạnh. Tôi đánh diêm cho các cô hút. Một cô, vừa ngửa cổ thở cho khói bay lên trần nhà, mắt lim dim, vừa nói:
- Chú tử tế, thương người quá nhỉ!
Tôi nhẹ nhàng nói:
- Tôi chả tử tế đâu, chẳng qua tôi cũng từng ở cảnh như các cô, cho nên tôi thông cảm.
Lúc hai cậu đã quét dọn xong, hỏi tôi cho ra giặt chổi, rửa chân tay, một cô nhìn tôi ngập ngừng một chút, rồi hỏi:
- Chú ơi, chúng cháu muốn nhờ chú một việc. Chúng cháu, 3 người bị…
Nói đến đây, tự nhiên cô đỏ mặt lên không nói được nữa. Một cô khác rụt rè hỏi:
- Thế, chú đã có vợ chưa?
Tôi cũng hơi ngượng, chỉ lắc đầu, chẳng hiểu các cô có điều gì mà khó nói thế. Mấy cô có vẻ băn khoăn, đắn đo. Một lát, một cô kêu lên vẻ ngại ngần:
- Khó quá nhỉ! Thôi, chú cứ ra gặp bà Hoa, hay bà Thơ, bà y tá nói là 3 chúng cháu bị “ăn chay”, xin bà cho đi làm vệ sinh.
Thấy tôi nhìn bằng ánh mắt chưa hiểu ý, một cô nói tiếp:
- Chú cứ nói giúp với các bà ấy cho chúng cháu như vậy, các bà ấy hiểu ngay à!
Tôi nhận lời. Khi khóa cửa, ra tới sân vừa thoáng thấy bóng bà Hoa ở phía buồng số 9 đi ra, tôi đón đường báo cáo như trên. Bà đã gật đầu, mà tôi vẫn chưa rõ là vấn đề gì. Mãi khi về buồng, kể chuyện lại, mấy cậu đều cười, giải thích là các cô có “kinh nguyệt”. Thế mà bày đặt là “ăn chay”! Phụ nữ lắm chuyện thật! Dùng lắm cái từ có trời mới hiểu.


78. Vụ án Đặng Chí Bình sắp “được”…xử! Một vụ vượt ngục “kỳ lạ” ở trại chung!

Buổi chiều, đang giờ sinh hoạt đọc báo chờ cơm, tên Điền vào gọi tôi đi cung. Đã hơn nửa tháng ra trại chung, và gần hai năm nay, tôi không hề bị gọi đi cung kẹo gì nữa; vì thế, tôi cũng xốn xang, hồi hộp, chẳng hiểu lại có chuyện gì mới nữa đây?
Một số các cậu cũng băn khoăn nhìn tôi sửa soạn quần áo, vừa như tò mò, vừa như ngạc nhiên. Đã gần 6 năm rồi, sao bây giờ gọi đi cung? Trong khi tôi đang cầm cái lược của Phúc “Thổ” đưa, chải sơ lại cái đầu, Minh “Trố” đã bắt trên cổ áo phía sau của tôi hai chú rận kềnh. Vì đang vội vàng, nên khi ra tới hiên nhà, tôi quẳng hai chú xuống rãnh mé sân. Chứ nếu bình thường, các chú sẽ bị tan thân, nát thịt. Những loài hút máu người, cũng như đồng chí của các ngươi, làm sao mà chết toàn thây, yên lành được!
Khi ra tới phòng trực, tên Điền dẫn tôi vào một căn buồng con, sát ngay phòng giám thị. Một tên cán bộ thật lạ, chừng 40 tuổi, mặc áo “vét ca rô” đã sờn cổ, mang kính trắng thật dầy. Y đang cúi gầm đọc tập hồ sơ dầy cộm trên bàn, khi tôi vào, y ngẩng lên, miệng nở một nụ cười lịch sự, tay chỉ chiếc ghế đẩu trước bàn:
- Mời anh ngồi!
Lại thêm một điều ngạc nhiên nữa! Gần 6 năm rồi, tôi chưa thấy một chấp pháp nào lại mời bị can ngồi cả, nên tôi dè dặt ngồi vào ghế, mở to mắt nhìn y, đợi chờ.
Sau khi hỏi tên, tuổi, ngày bị bắt, sơ qua lý lịch, y hắng dặng một cái như gại giọng, ra vẻ quan trọng tuyên bố:
- Tôi là cán bộ bên Tòa Án Nhân Dân thành phố Hà Nội, báo cho anh biết: Viện Kiểm Sát Nhân Dân và Công Tố Viện quyết định sẽ đưa vụ án của anh ra xử vào ngày 30 tháng 12 năm 1967. Thể theo đường lối dân chủ nhân dân, tòa cho phép anh nhờ luật sư biện hộ. Vậy, anh có yêu cầu luật sư giúp đỡ anh không?
Hơi đột ngột, nên tôi rất bàng hoàng. Dù vậy, kết hợp những hiểu biết cũ của tôi với gần 6 năm trời vật lộn nghiêng ngửa trong bàn tay của chúng, đã cho tôi rõ: cơ quan Lập pháp, Hành pháp hay Tư pháp, hoặc bất cứ một cái tên gì khác, cũng chỉ là một tên hung thần duy nhất mồm đỏ, mắt lồi xanh lè là đảng Cộng Sản, chỉ huy sinh sát mà tôi. Bởi vậy, tôi ngẩng lên, nhìn thẳng vào mặt y, trả lời:
- Tôi cần luật sư để làm gì? Tội của tôi đến đâu, tùy đảng định đoạt.
Tôi định nói thêm là nhờ luật sư, để cho họ dùng lý luận sỉ vả mình thêm nữa ư? Dưới chế độ chuyên chính vô sản, luật sư nào dám mở miệng bênh vực kẻ thù giai cấp công nhân, mà không bị quy kết về tội tư tưởng? Nhưng rồi, tôi cứ giằng co ngập ngừng, và cuối cùng thôi không nói nữa, khi tôi hiểu đây đâu phải là chỗ để mình nói những điều như vậy.
Y cắm cúi ghi một lúc, rồi lại ngửng lên hỏi:
- Anh có họ hàng thân nhân, cần báo cho họ đến dự buổi phiên tòa không?
Tôi chợt nhớ đến bà dì ở 44 Lương Ngọc Quyến, nhưng đó chỉ là hình ảnh lướt qua trong óc. Bà chỉ là một bà dì họ. Huống chi, dù có bố mẹ tôi, các anh em tôi, tôi cũng không muốn báo làm gì. “Có gan ăn cướp, thì phải có gan chịu đòn”. Mình đã làm ăn không nên, thất bại, rơi vào tay địch, chết hay sống hãy gồng lên mà chịu. Cái gì tốt đẹp hãy cho gia đình hưởng, cái gì đau thương khổ cực, ráng một mình mình chịu, đừng bắt người thân buồn khổ với mình, vô ích. Vì vậy, tôi lắc đầu quầy quậy:
- Tôi không có ai là thân nhân, họ hàng cả!
Khi ký vào một số bản y đưa cho tôi, tôi cũng chẳng cần đọc để biết là giấy gì. Cứ thấy bảo ký, là ký. Dưới chế độ độc tài phát xít, mình đã ở trong tay chúng, chúng muốn làm gì chả được.
Trên đường trở vào trại, lần này, khác hẳn với những lần trước khi còn ở xà lim, phải dẫn về giao hẳn cho cán bộ xà lim. Khi dẫn tôi qua cổng trực trại chung, tên Điền hất hàm, ngoắc tay ra hiệu, nói:
- Đi về buồng, báo cáo với quản giáo là đi cung về.
Từ cổng đi qua một cái sân rộng để về buồng số 4 phải đến 200m. Sân trại đã có một số buồng vào rồi, thế mà trông vẫn lố nhố đầy sân. Một mình tôi thong dong chậm chạp, thả lỏng từng bước một. Khi đi qua cổng xà lim I, nhìn chiếc cổng đóng im lìm của đường xưa, lối cũ; cây bàng với dáng quen thuộc của những tháng năm qua, vẫn khẳng khiu với gió Bấc Đông hàn…gợi lại trong lòng tôi bao nhiêu nỗi niềm u uất. Nếu tôi được quyền, tôi sẽ vào thăm Dư.
Đầu óc cứ mênh mang trôi nổi bồng bềnh, chân vẫn tiến bước nhưng như không có hồn để chỉ huy. Chợt, trong đám đông tù đang ăn cơm phía ngoài cửa buồng số 8, một thanh niên chừng 20 tuổi, tay đang ôm bát cơm còn chừng một nửa, cứ lắc lư, giật giật cái đầu, cái miệng cứ chóp chép, há ra ngậm vào và
nhay nháy cả cặp mắt nữa. Tôi tưởng y đang nổi hứng vừa ăn, vừa hát. Nhưng, tôi bỗng thấy miệng y đầy bọt chảy ra lòng thòng; mắt y trợn ngược lên trời chỉ còn lòng trắng; rồi y đổ kềnh ra sân, chân dẫy đành đạch; đầu đập xuống sân gạch kêu cồng cộc, đến chảy máu đỏ cả ra nền xi măng. Nhiều người chung quanh đều chạy lại nhìn, trong đó có hai tên Đản và Hồng, cán bộ buồng số 7 và số 8. Tôi ngạc nhiên, không hiểu tại sao không một ai ở ngay chung quanh đấy giúp đỡ người bị động kinh; trái lại đều đứng nhìn như xem một người đang làm trò và thỉnh thoảng lại còn có tiếng cười nữa. May quá, 2, 3 người đang chạy xô lại chỗ anh động kinh lúc này đang nằm đứ đừ, máu chảy chan hòa. Họ vội vàng quờ quạng…nhặt những hạt cơm mà người động kinh lúc ngã xuống, làm rớt cả bát cơm ăn dở bắn vãi tứ tung, chung quanh, đút vội vào mồm. Một người còn thò tay vào vũng máu, chỗ gần đầu anh bị động kinh, lấy ra một cục cơm, quệt quệt vào quần, rồi…bỏ tõm vào mồm nhai ngấu nghiến. Không cùng buồng, tôi không có quyền xông vào. Thấy một anh đúng gần, tôi hỏi ngay:
- Sao không có ai vào giúp đỡ người ta vậy?
Anh ta quay lại mở to mắt nhìn tôi như ngạc nhiên, rồi cười:
- Kinh phong, chứ có gì mà phải giúp đỡ! Bây giờ anh mới thấy à? Từ chiều đến giờ, sân trại đã 3 vụ như thế rồi, có sao đâu!
Tôi cúi đầu đi về buồng, vẩn vơ đầy vơi mãi về tình người…..
Đêm hôm đó, tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Làm sao để trả lời được rõ ràng cho chính mình, chúng sẽ xử tôi như thế nào khi đưa ra tòa. Tôi chủ quan nhìn lại toàn bộ vụ án:
- Có nhận nhiệm vụ của chính quyền miền Nam, xâm nhập vào thủ đô Hà Nội.
- Ngay từ đầu, không hề làm một việc gì để thực hiện nhiệm vụ ấy (điều này, có người của chúng bí mật theo dõi, đã thấy).
- Bị bắt, khai báo ngay sự thật từ đầu. Tuy có loanh quanh che dấu một vài điểm, nhưng chỉ là những cái râu ria như đường đi biển, lại khai đi đường bộ vì sợ gia đình bị trả thù…..
- Một lần định đào tẩu. Tự tử, không chết, chỉ vì muốn theo đảng, theo cách mạng, mà cách mạng và đảng không tin, vẫn giam cầm, không cho theo.
Chúng đã dùng bao nhiêu hình thức khai thác, mà hình thức ghê gớm nhất là thời gian. Đã 6 năm nằm trong xà lim buồng kín một mình, như vậy, xử thế nào
đây? – Nếu là chế độ của ta ở miền Nam, hay thế giới tự do nói chung, bắt được một điệp viên Cộng Sản như vậy thì đối xử ra sao? Về phía thế giới tự do của chúng ta, tôi đã hình dung thấy rồi; nhưng đây là chế độ Cộng Sản. Nếu cứ nhìn trên thực tế, trên hồ sơ, giấy bút, về một khía cạnh nào đó, tôi còn tốt hơn là đầu hàng nữa ấy chứ.
Tâm lý con người, mỗi khi xét về mình bao giờ cũng chủ quan; nghĩa là chỉ nghĩ đến những khía cạnh tốt cho mình. Vì vậy, tôi cho là chúng sẽ xử tôi nhiều lắm là 10 năm. Đã ở xà lim được 6 năm, vậy tôi còn 4 năm nữa, đi trại trung ương lao động. Rồi khi đất nước vẫn còn chia đôi, khi kết án chúng sẽ cho tôi về một công, nông trường nào đó, như một hình thức anh Trí cho tới chết.
Phải nói là tôi đã phòng hờ, bỏ rẻ rất xấu cho tôi đấy. Có như vậy mới thấy được mức độ hiểu biết ấu trĩ, ngây ngô của tôi về Cộng Sản.
Cứ miên man suy nghĩ, tôi chìm dần vào giấc ngủ lúc nào không hay. Sáng hôm sau, tôi vẫn còn ngủ, những tiếng ầm ầm, ồn ào đã làm tôi giật mình tỉnh dậy. Tiếng loa phát thanh đang nói mục “thanh niên”, như vậy là mới 7 giờ sáng. Còn những một tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ làm việc, thế mà tôi đã nghe thấy tiếng chìa khóa lách cách, tiếng ồn ào bàn tán của đám đông cán bộ phía bên ngoài cửa buồng.
Tôi chồm dậy, thấy cửa lớn đã mở toang. Nhìn ra sân, tôi thấy cả tên Trì, Đại úy Chánh Giám Thị, cùng với một lũ áo vàng, tôi chưa nhìn rõ ai với ai. Tôi chưa hiểu chuyện gì, đã nghe tiếng mấy cậu từ ngoài đó chạy vào gọi:
- Ban Giám Thị gọi buồng trưởng và tất cả trật tự ra ngoài gặp Ban Giám Thị!
Khẩn trương, chúng tôi nhớn nhác 4 người gồm Hưng, bác Khánh, tôi và Thọ “Lột” ra sân. Chúng tôi vừa bước ra khỏi cửa, tên Bằng đã khóa ngay cửa buồng lại, vì chưa tới giờ làm việc và cán bộ trực chính chưa tới. Cả 4 chúng tôi đều ngỡ ngàng, ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì, ngoại trừ thấy một đoàn cán bộ hơn một chục tên. Trong đó có cả người Hưng Yên, từ nãy vẫn đăm đăm nhìn về phía tôi nhiều lần, nhưng tôi vờ như không nhìn thấy.
Khi thấy tên Lê đang cầm tay thằng Huy “Tồ”, một phản xạ tự nhiên đến trong óc tôi. Nếu tôi không nhớ lầm, tối hôm qua, vào khoảng 7, 8 giờ, thằng Huy “Tồ” này còn ở trong buồng, vậy tại sao mới sáng sớm tên Lê đã cầm tay nó dẫn vào? Tôi nhớ được chỉ vì thằng Huy “Tồ” này thường bị lũ trẻ con trêu chọc, bắt nạt. Giữa lúc đó tên Lê nghiêm nét mặt, hướng về phía tên Hưng, nhưng hỏi chung:
- Tối hôm qua, hay đêm hôm qua, các anh có thấy thằng này còn ở trong buồng không?
Một câu hỏi làm cho chúng tôi cảm thấy như vừa từ ở trên trời nhẩy dù xuống, anh nọ nhìn anh kia ngơ ngơ, ngác ngác, ú ớ như đang ngậm đầy miệng kẹo, chả biết trả lời ra làm sao. Phần vì trong buồng này hàng 150 đứa lau nhau, lắt nhắt, ai để ý làm chi. Phần khác, cửa buồng thường khóa từ 5 giờ chiều, đêm, ai có quyền mở. Cán bộ, bí mật mở lúc nào, chúng tôi ngủ làm sao biết. Vì vậy, chúng tôi không trả lời được.
Tôi nhìn thằng Huy “Tồ”, nó chừng 14 tuổi, tuy lùn nhưng lại có da thịt, nên người nó to ngang bằng đứa 16, 17; nhất là cái đầu nó cũng tương xứng với thân hình. Trời rét, nó lại chỉ mặc chiếc quần đùi, gấu đã rách tua, chân đi đất, trông dáng điệu thật là chậm chạp, ngây ngô. Có lẽ vì vậy, tuy trông to xác nhưng những đứa khác bé hơn vẫn bắt nạt được, cho nên gọi là “Tồ” vì thế. Nó còn được gọi một tên khác nữa là Huy “Vét đĩa”. Từ “Vét đĩa” của Hà Nội là để chỉ loại lưu manh không có tài cán gì. Bố mẹ không nuôi nổi, phải “vạt dòm”, it khi kiếm ăn được nên thường phải vào các quán ăn chờ khách đứng dậy xin… vét chén dĩa, xương xẩu thừa chút ít, hoặc châu đầu ở chỗ rửa chén bát, vét lại chút cơm thừa, canh cặn. Loại này, chỉ trên cấp “cái bang” (ăn mày) một bậc.
Nhìn nó, tôi moi lại trí nhớ. Không thể chệch vào đâu được nữa rồi. Rõ ràng, khoảng 8 giờ tối hôm qua, khi vào nhà xí đi giải, tôi còn nhớ thấy thằng nhóc con Hồng “Chột”, đã lừa cốc vào đầu thằng Huy “Tồ” một cái rồi lẩn vội vào chỗ đông. Trong khi hàng chục đứa cười rộ lên, thằng Huy chỉ biết ngồi khóc.
Như vậy, vấn đề được đặt ra là: có thể Ban Giám Thị bí mật, ban đêm vào mở cửa buồng lấy nó ra, vừa để thử cán bộ trực buồng là tên Chuẩn Úy Kế, vừa để thử buồng trưởng và các trật tự, để dạy cho họ một bài học về cảnh giác, phải chú ý vào nhiệm vụ của mình chăng?
Từ ý nghĩ đó, tôi giơ tay xin có ý kiến, vừa để minh oan cho Kế (tên Trì và một số cán bộ cho là Kế đã tắc trách, điểm sót lúc 5 giờ chiều hôm qua, khi khóa cửa) và cho cả chúng tôi. Tôi nói một cách khẳng định:
- Tôi đoan quyết là thằng Huy “Tồ” này, hồi 8 giờ tối hôm qua còn ở trong buồng.
Tôi dẫn chứng hình ảnh thằng Huy “Tồ” bị cốc đầu, như đã nói trên; trong khi đó, cô Vân lách lại gần chỗ tôi đứng, mặt tươi rói, hếch mãi lên nhìn tôi nói. Có lẽ thấy sự việc càng đi vào chỗ rối mù lên, tên Trì với cái giọng cối đá, gằn mạnh:
- Lúc hai giờ đêm qua, một đồng chí đang ngủ, nghe tiếng lịch kịch ở chạn bát, cho là chuột bọ, nên xùy đuổi. Nhưng, nằm một lúc lại thấy động đậy tiếp, vì vậy, đồng chí bật dậy, mò lấy đèn “pin” chiếu sáng lên để đuổi chuột đi. Không ngờ, đồng chí thoáng thấy một bóng người chui vào gầm sàn, đồng chí vội đến xem; cuối cùng là thằng này.
“Khi đưa về phòng Giám thị, ngay từ đêm, chúng tôi đã cật vấn nó nhiều lần. Nó vẫn khăng khăng là 5 giờ chiều hôm qua, lúc điểm số xong, khi cán bộ đóng cửa, nó đã lẻn ra ngay. Cán bộ vô tình không thấy. Mùa Đông, lạnh và đói, nó phải mò xuống bếp cán bộ kiếm thức ăn.”…
Tuy là lưu manh, ăn cắp, nhưng nó lại ngây ngô, tồ tồ, như vậy lời nói của nó phải được tin hơn. Trong khi đó, tôi lại khẳng định 8 giờ tối còn thấy nó ở trong buồng. Thành ra sự việc lại đầy mâu thuẫn, bí ẩn.
Tóm lại, Giám thị đã cho nó ăn no, dẫn xuống để chất vấn cũng như để chỉnh khuyết điểm của cán bộ trực buồng. Nhưng bây giờ lại rắc rối thêm. Chỉ còn một cách duy nhất, là đưa nó vào buồng để lấy nhân chứng đa số là lũ trẻ con, v.v…
Khi vào buồng, trước mặt bao nhiêu cán bộ (bây giờ có thêm tên Kế vừa đến, vì đã tới giờ làm việc), nhiều đứa trong buồng ngơ ngác không khẳng quyết được như thế nào. Nhưng, cũng có nhiều đứa khẳng định là tối hôm qua, thằng Huy “Tồ” vẫn còn ở trong buồng. Ngay thằng Hồng “Chột” cũng thừa nhận, đã cốc vào đầu nó khoảng 8 giờ. Thậm chí, Hùng “Lác” còn kể rõ ràng chừng 10 giờ đêm qua, thằng Huy “Tồ” còn nằm ngủ cạnh nó, còn kéo chăn của nó, và nó đã đạp cho một cái, thằng Huy còn ngồi khóc mãi.
Như thế, dứt khoát chỉ còn có hai vấn đề:
1) Đêm, phải có một cán bộ nào đó mở cửa buồng cho nó ra ngoài.
2) Chỉ có mộng du, hay…tàng hình!
Ý thứ hai không thực tế, vì dù là mộng du, nhưng cửa khóa, ra cách nào? Chỉ có ý thứ nhất! Vậy, cán bộ nào đã mở cho nó ra? Trong khi hỏi nó, nó lại lắc đầu, vẫn cứ nhất định là lúc điểm số xong, đã lẻn ra.
Sự việc đành bỏ dở, vì đã 10 giờ rồi. Phần Ban Giám Thị, về còn phải triệu tập buổi họp để cán bộ nào trực đêm, đã mở cửa cho nó ra thì thành khẩn nhận.
Tôi cũng thấy sự việc mâu thuẫn quá. Thằng Huy “Tồ” vẫn lủi thủi một mình, lúc ra sân, cũng như lúc vào trong buồng. Hầu hết những người tương đối hiểu biết ở trong buồng chỉ còn dự đoán là, có thể đêm khuya, mùa Đông lạnh giá.
Thằng Huy “Tồ” lại không có chỗ nào, cho nó chui vào đắp chăn, vì vậy nó đã ra chỗ gần cửa ngồi khóc; rồi cán bộ nào đó đi trực đêm, thấy nó trẻ con lại ngây ngô, cho nên đã động lòng, mở cửa đưa nó ra ngoài, dẫn nó đến những căn buồng có hơi ấm chăng?…
Vì đây là một chuyện hơi lạ, nhất là cả Ban Giám Thị Hỏa Lò quan tâm đến, cho nên cậu lớn nhỏ trong buồng cũng tò mò muốn tìm sự thật. Các cậu đã tìm nhiều cách để hỏi thằng Huy “Tồ”. Thường nó không trả lời và cứ lủi thủi một mình (vì cái thân nó từ trước vẫn lẻ loi như vậy, chẳng ai chơi với nó); còn, nếu nó trả lời, lại cứ nói đã lẻn ra cửa, lúc điểm số 5 giờ chiều qua.
Cho mãi đến chiều hôm ấy, sự việc vẫn còn nằm im trong bí ẩn. Trong khi tất cả cán bộ Hỏa Lò và gần 200 người chúng tôi trong buồng, lòng vẫn thắc mắc không yên. Lúc gần trưa, cán bộ lại vào mang nó ra khu ngoài, điều nghiên, hỏi han gần 2 tiếng đồng hồ, rồi lại dắt về. Đành chịu không tìm ra manh mối. Điều khó, nó là trẻ con, lại ngây ngây, tồ tồ, điên điên, khùng khùng. Nếu không có những lời khẳng định của tôi và của một số đứa trong buồng, ai cũng tin như lời nó nói. Nó đã lợi dụng khi cán bộ điểm số xong, kéo cánh cửa lớn khép vào và khóa lại, nó đã lách, lẻn ra, cán bộ vô tình không biết.
Càng về chiều, câu chuyện càng được thêu dệt thành những huyền thoại ly kỳ. Nào là nó mộng du, chui qua nóc nhà ra ngoài; nào là trong Hỏa Lò có một thầy phù thủy đã ếm bùa, gọi âm binh mang nó ra ngoài, nhiều cán bộ có óc phân tích, suy lý, hầu như ai cũng cho là chính Ban Giám Thị đã bí mật, ban đêm lấy nó ra ngoài. Mục đích để răn đe, đánh động vào tinh thần đề cao cảnh giác của cán bộ; nghĩa là mỗi người phải quan tâm chú ý đến trách nhiệm, trông tù của mình.
Riêng tôi, nhìn, nghe, suy xét, tổng hợp các hiện tượng, từ ánh mắt cho đến thái độ của tên Trì, tên Lê… Tất cả đều đã cho tôi thấy rằng đây không phải là một thủ đoạn. Như vậy đầu mối tất cả mọi vấn đề làm sao hãy tìm hiểu kỹ ở ngay thằng Huy “Tồ”. Với điều kiện của tôi, dĩ nhiên là không thể tìm hiểu được ở bên ngoài. Vừa nghĩ, tôi vừa nhìn thằng Huy đang ngồi khều những mụn ghẻ ở tay, lủi thủi một mình ở góc nhà. Bấy giờ đã 8 giờ tối! Từ sáng đến giờ, nhiều cán bộ đã vào hỏi nó; trong buồng nhiều cậu cũng đã đến hỏi nó, để rồi đành chán, bỏ cuộc, chẳng tìm ra được điều gì mới lạ hơn.
Tôi cầm cái điếu đến bên cạnh nó, vê một điếu thuốc lào bỏ vào nõ, rồi quay lại nhìn nó, tôi cười, tay đưa cho nó bao diêm:
- Cháu quẹt diêm giữ cho chú hút điếu thuốc!
Nó xoay hẳn người lại, cầm que diêm đánh lửa, giữ cho tôi hút với vẻ thích thú lắm. Nó muốn đỡ lấy cái điếu như để xin được hút sái nhì. Tôi vừa thở khói, vừa đưa tay làm hiệu, rồi tôi xì sái ra, và vê cho nó một điếu khác để hút. Sau đó, tôi tỉ mẩn hỏi nó về những mụn ghẻ, rồi từ từ đến gia đình, bố mẹ quê quán, một vài thú chơi của nó khi còn ở quê, v.v… Một lúc, cu cậu có vẻ thật say mê, hào hứng kể chuyện đi bắt tổ chim, câu cá v.v… Tôi tỏ ra thật trầm trồ theo dõi câu chuyện nó kể, thỉnh thoảng hỏi một vài câu để làm đòn bẩy. Tôi ca ngợi nó tài, rồi như thì thầm, tôi đẩy nhẹ sang vấn đề:
- Chỉ có mình chú biết là cháu tài lắm. Thế làm sao đêm qua cháu lại ra ngoài được? Cháu làm cách nào mà tài thế?
Nó cũng nói nhỏ hẳn lại, mắt nhìn lên cái khung cửa sổ phía sát mái nhà:
- Chú đừng nói cho ai biết nhé, cháu chui qua cái lỗ chấn song cửa sổ trên kia kìa!
Như một làn chớp xẹt qua đầu, tôi chợt hiểu. Tôi nhìn những khung cửa sổ lớn nằm dài theo tường của buồng. Nhưng chiếc song sắt, đường kính khoảng 2 phân 2, to tướng, dựng đứng từng hàng, từng hàng. Đứng dưới này nhìn lên, khoảng cách giữa các chấn song chừng độ 14, 15 phân. Từ nền nhà lên đến mép dưới cửa sổ cao chừng 2m50. Từ mép dưới cửa sổ lên đến mép trên cửa sổ chừng 1m20. Do những cái mấu sắt xây cắm vào trong tường (chắc trước đây dùng để chăng dây trong buồng và bây giờ không còn dùng nữa), nếu muốn trèo lên cửa sổ cũng không khó. Nhưng có một điều, như một ấn tượng tâm lý, là những cửa sổ đó, những chấn song đó đã được xây dựng, thiết kế từ thời Pháp thuộc như vậy, hẳn đã được những kỹ sư chuyên môn nghiên cứu kỹ). Cho nên, dù bao đêm, ngày từ năm này qua năm khác, bao nhiêu người nằm trong nhà tù này, vẫn nhìn lên cái cửa số ấy. Nhưng từ xa xưa, chả có ai điên rồ trèo lên đấy, đút đầu vào thử có ra được không. Thằng Huy “Tồ” lại là một thằng khùng khùng, dại dại, điếc không sợ súng nên mới làm những việc điên rồ như thế. Tuy vậy, nhìn thân hình thằng Huy “Tồ”, nhìn cái đầu của nó đã to như đầu người lớn rồi, ước lượng khoảng cách giữa các chấn song ở tít trên cao kia, tôi cũng chưa tin được dù nó đã kể rõ ràng:
- Đêm rét quá, chả có đứa nào cho cháu ngủ chung cả, cháu mới theo các mẩu sắt trèo lên cửa sổ, rồi cháu thử đút đầu vào. Chỗ này không lọt, cháu lại đút chỗ khác, mãi tới một chỗ vừa khít, cháu lách đầu, rồi cả người ra ngoài. Cháu mò mẫm ra khu Ban Giám Thị, kiếm được mấy mẩu sắn luộc, cháu ăn, Cháu ngủ một giấc ở trong một cái buồng có giường, có chăn mà không có ai nằm. Ngủ một lúc, lại thấy đói, cháu lại mò đi kiếm ăn nữa. Lần này, cháu bị bắt!
Muốn biết cụ thể và thật rõ ràng tận mắt, tôi chỉ còn một cách duy nhất là bảo nó leo lên lại thử. Nghĩ vậy, tôi vê một điếu thuốc nữa cho nó hút, rồi bảo nó trèo lên chui lại cho tôi xem, tôi cũng không quên khích lệ và tỏ vẻ tin nó.
Thế là cả buồng xôn xao cả lên. Trước hàng trăm con mắt, nó thoăn thoắt bám vào những mẩu sắt ở tường, trèo lên cửa sổ. Nó ghé đầu đút thử vào 3 khoảng trống giữa các chấn song, không lọt. Đến khoảng trống thứ tư, nó chui lọt cái đầu, rồi lách cả người ra ngoài. Tên Hưng vội vàng quát:
- Thôi, chui vào ngay!
Khi đó đã gần 10 giờ đêm. Cả buồng sôi lên như cái chợ! Hàng trăm đứa đều ngơ ngác tiếc rẻ là nếu biết thế từ trước đã ra khỏi “hao” từ lâu rồi.
Tên Hưng không kìm được nữa, ra chỗ cửa báo cáo ầm cả lên. Khi một tên cán bộ trực đêm đến hỏi, y đã trình bày như trên. Một lúc sau, cả tên Trì, tên Lê cùng lúc nhúc một lũ hơn một chục tên công an nữa theo sau, vào mở cửa buồng, hỏi tên Hưng. Một lát, chúng kéo ra đứng đầy ở sân, bắt thằng Huy “Tồ” trong này trèo ra cho chúng xem.
Riêng tôi, từ nãy cứ bần thần suy nghĩ. Khi phát hiện được là thằng Huy đã chui cửa ra ngoài, tôi chỉ nghĩ nó là trẻ con, cửa sổ lại làm thưa nên nó mới chui ra được. Nhưng, qua hai lần nhìn thằng Huy biểu diễn, tôi thấy đẻ ra một vấn đề khác, một vấn đề lớn hơn. Nếu tôi biết trước như thế này, tôi phải tìm mọi cách làm cho thằng Huy không bao giờ nói điều đó với ai cả: bằng cách trộ, dọa nó, cũng như tình cảm với nó.
Lúc này, tôi chợt hiểu, đây là một cơ mưu, một dụng ý của người thợ làm song sắt. Hàng 30, 40 khoảng cách giữa các chấn song, nhưng chỉ có một chỗ là có thể lách mãi sẽ chui qua được. Mắt thường của mọi người, nhìn khung cửa sổ ở trên cao với mỗi khoảng cách giữa các chấn song là 15 phân, thấy tất cả khoảng cách như đều nhau. Nhưng, trong một hàng ba, bốn mươi khoảng cách này, có một cái rộng hơn một phân, là 16 phân, dám chắc chả ai nhìn ra, trừ phi lấy thước đo từng khoảng cách một. Nếu không, mắt thường nhìn khoảng cách nào cũng thấy như nhau.
Vấn đế đã rõ ràng: thằng Huy “Tồ”, do cái ngu của nó, đã thành công. Nó nhìn cái cửa sổ lại “tưởng” có thể chui ra được, rồi tìm cách trèo lên, chui đầu vào. Mấy khoảng cách đầu không vừa, nếu người thường, ai còn chui nữa; nhưng với thằng Huy nó cứ thử từng cái, để rồi đúng phải cái khoảng cách duy nhất, do dụng ý của người thợ trước đây đã làm, nên mới gây ra câu chuyện thần kỳ, nếu không tìm ra nguyên nhân. Tôi nghĩ, có thể ngay các buồng khác của trại chung Hỏa Lò, cũng có những điều kiện chấn song như buồng số 4 trại
chung này. Nhưng, ai đọc đến đây cũng thừa hiểu, lần này tôi đã để những ý nghĩ đó nằm yên ở một ngách trong lòng tôi.
Chúng gọi buồng trưởng và tất cả trật tự ra ngoài sân. Tên Trì hỏi tên Hưng là ai đã hỏi được thằng Huy “Tồ” thú thật đã trèo lên cửa sổ. Tên Hưng chỉ tôi! Tên Lê quay lại nhìn tôi bằng ánh mắt hơi nhay nháy:
- Anh hỏi nó thế nào, mà nó lại thú thật với anh?
Để khỏi lôi thôi lúc đó và để chúng không đánh giá thực được về mình sau này, tôi trả lời:
- Thưa, có gì đâu ông! Tình cờ tôi cho nó điếu thuốc lào, rồi tôi hỏi nó, không ngờ nó lại nói ngay ra như vậy.
Khi cô Vân vào sau, và biết tôi đã tìm ra manh mối, cô cố tìm cách đi sát lại gần tôi, nói khẽ:
- Anh Bình giỏi nhỉ!
Mặt tôi không tỏ một thái độ gì, làm như không nghe thấy lời cô, vì liếc thấy tên Lê và mấy tên nữa đang chăm chú nhìn mặt tôi, khi chúng thấy môi cô Vân mấp máy nhưng không biết nói gì.
Trong khi lòng tôi đang tím thẫm màu ân hận, tên Lê quay lại hỏi một tên cán bộ:
- Mấy giờ rồi?
Tên Hải mũi khoằm giơ cổ tay ra chỗ sáng xem, rồi nhanh nhẩu trả lời:
- Báo cáo thủ trưởng, 12 giờ đêm rồi!
Tên Lê nghiêm giọng:
- Đồng chí xuống ngay trại thợ, gọi đồng chí Đại dậy, chọn hai hay bốn thằng mang gỗ lên đóng bịt kín toàn bộ cửa sổ này. Dù có phải làm suốt đêm, cũng phải làm cho xong.
Chắc y sợ trong buồng còn bao nhiêu trẻ con lưu manh, đêm có thể chui ra làm loạn. Tóm lại, chúng vẫn chỉ đinh ninh là chấn song cửa hơi rộng, chứ chưa biết duy nhất chỉ có một khoảng cách rộng thôi. Chứng cớ, chúng đã cho đóng bít cửa sổ lại.
Vào buồng, đầu tiên là thằng Hưng buồng trưởng nhìn tôi, đánh một câu:
- “Xịa”, có khác!
Thế rồi từ đấy, tụi trẻ trong buồng có vẻ đề cao CIA, với nhiều chuyện hoang đường buồn cười.


79. Cuộc “so tài” của dân anh chị miền Bắc trong Hỏa Lò!

Ngay buổi trưa hôm sau, tôi đang ngồi vạch cạp quần lên tìm mấy con rận vì ngứa quá, tên Hưng mò đến ngồi bên cạnh, rút thuốc lá Điện Biên ra mời tôi hút. Y hỏi chuyện ngủ, chuyện ăn loanh quanh. Tôi chưa biết y muốn cái gì mà cứ phải loay hoay mãi chưa chịu vào đề. Cuối cùng, y mới ra vẻ tình cảm:
- Tôi thấy, anh có một khả năng thật tốt. Sau này, anh sẽ phải đi trại trung ương cải tạo; tôi rất có cảm tình với anh, nên tôi muốn ngỏ ý giúp đỡ anh là… anh hãy tích cực dùng khả năng ấy, chắc chắn đường đi của anh trên trại trung ương sẽ rộng mở, không biết thế nào mà nói được.
Tôi vẫn chưa hiểu rõ ý hắn định nói gì, vì thế, tôi vẫn ngồi yên nghe tiếp. Nhưng, chính thái độ bình thản ngồi chờ y nói tiếp đó của tôi, lại càng làm cho y ngập ngừng loanh quanh; để rồi, tôi sốt ruột hỏi thẳng ngay:
- Anh muốn giúp tôi cái gì, hãy nói thẳng rõ ràng ngay đi, khỏi cần rào đón nữa.
- Có gì đâu, tôi hiểu anh sắp đi trại trung ương. Ở trong trại, có người tư tưởng tốt, có người tư tưởng xấu. Người có tư tưởng xấu cũng ví như một con bệnh và các cán bộ là bác sĩ. Nếu bác sĩ không biết căn bệnh của người bệnh, chữa làm sao được? Khi bệnh không chữa được, làm sao con bệnh khỏe mạnh về với gia đình, vợ con, bố mẹ? Vì vậy, anh hãy giúp những con bệnh đó, bằng cách tìm hiểu để biết người mắc bệnh nặng tới mức độ nào. Nếu anh phê bình góp ý, họ không hiểu được nhã ý của anh, họ sẽ giận anh. Vậy, chỉ có một cách tốt nhất là anh hãy báo riêng với cán bộ. Từ đấy, cán bộ mới biết được căn bệnh của họ để chữa trị. Có như vậy, anh đó mới khỏi bệnh, chóng về với gia đình. Như thế là anh đã giúp anh đó tiến bộ.
Đến đây, tôi đã ngửi thấy con người phân của y xông ra nồng nặc rồi. Nhưng, điều tôi băn khoăn là y đã nhìn tôi từ ở khía cạnh nào, để dám đến ngỏ ý với tôi như vậy? Thôi phải rồi, chính từ sự việc thằng Huy “Tồ” hôm trước, y đã suy theo lý của y và đánh giá là tôi thích lập công với cán bộ.
Từ khi vào đây, tôi đã thấy đủ về thằng Hưng này. Y lợi dụng bộ mặt trắng trẻo, học thức, ra vẻ đạo mạo, để tiếp xúc với các cháu nhỏ trong buồng. Tôi cũng thừa nhận, y có con mắt tinh tường, nhìn đối tượng nào cần tiếp xúc, hầu như đều là đúng. Nào là chú thương cháu; nào là dỗ ngon, dỗ ngọt… Trẻ con, dù lưu manh, dù tinh khôn đến mấy, cũng vẫn là… trẻ con, nên sớm muộn đều cảm động trước những lời nói khôn khéo của y và đã nói cho… “chú Hưng” biết
tiền còn gửi ở đâu, gửi ai, gửi bao nhiêu và bao giờ v.v… Để rồi vài ngày sau, công an vào gọi tên, dẫn ra phố, đến tận những chỗ chôn giấu, những chỗ gửi tiền… lấy bằng hết. Khi đã biết khôn, thì đã dại rồi, cho nên đã rất nhiều đứa bị tên Hưng cho vào tròng. Nhờ cái tài che dấu, luồn lách giỏi của y, những đứa chưa bị đã ít biết về bộ mặt thật của tên Hưng này. Những đứa bị rồi thường phải đi trại ngay. Nhưng, y làm sao qua mắt tôi! Tôi đã trực tiếp, hoặc gián tiếp qua Phúc “Thổ” ngăn chận việc làm của y từ lâu. Nghĩa là, y ngồi nói chuyện với cháu nào, sau đó Phúc “Thổ” bí mật gặp lại cháu đó và hóa giải ngay. Vì y dựa vào “chính quyền” nên chúng tôi phải lén lút; nhất là tôi lại đóng vai lợi dụng ngược lại y, tôi cũng tỏ là người có nhiều tư tưởng “tiến bộ” để phù hợp với gần 6 năm cung kẹo của mình.
Nhưng, tôi không ngờ là bây giờ, chính y lại đến nói thẳng với tôi. Tôi muốn in bàn tay lên má nó, rồi cho nó mấy câu chửi; nhưng tôi đã kịp kìm xuống. Lạt mềm buộc chặt! Lưỡi mềm, sống lâu hơn răng cứng.
Dù nghĩ như thế, nhưng bực quá, nên tôi cũng phải nói ý cho y biết mới được. Tính vậy, tôi quay lại nói:
- Cảm ơn ý kiến giúp đỡ của anh nhiều. Nhưng, tôi muốn hỏi ý anh ra sao về một câu chuyện trong “Hán Sở Tranh Hùng”, tôi đã xem lâu lắm rồi, bây giờ chỉ nhớ ang áng nội dung như sau:
“Có một tướng của Hạng Võ tên là… Đằng Công thì phải. Một lần, do tình cờ may mắn, ông chỉ huy một đoàn quân lớn phục kích ở một nơi hẻo lánh, hiểm địa. Lúc này, Lưu Bang đang trong giai đoạn thất cơ lỡ vận, vừa bị thua nhiều trận xiểng liểng, còn một chút tàn quân lại chạy lủi vào ngay ổ phục kích của Đằng Công này. Chín mươi chín phần là chết, chỉ còn một phần là ngắc ngoải; dù vậy Lưu Bang cũng vẫn phải chiến đấu đến cùng, vì đã trót rơi vào cửa tử. Hai người đã quần thảo hơn 100 hiệp, nếu so tài chưa dễ ai thắng ai, nhưng cái thế này, Lưu ta sớm muộn cũng sẽ bị bắt hay bị giết mà thôi. Trong lúc thập phần nguy hiểm như vậy, chợt Lưu ta mới loé lên một ý hay. Ông ta đánh bậy một thế, rồi nhảy ra ngoài quát to:
- Bớ vị tướng tài giỏi và thông minh kia! Sở Vương và ta, hai người đang giành nhau thiên hạ. Hôm nay, ta gặp người cũng là người tài. Anh hùng quyết tử với nhau, thế nào cũng có người sống, người chết. Vậy không gì bằng hãy “pha vơ” thông cảm cho ta lúc này. Sau này, có dịp sẽ đền ơn đích đáng.
Nghe Lưu nói, Đằng Công suy nghĩ thấy cũng phải, và trong bụng cũng phòng hờ sau này, Hạng Võ có thua Bái Công, mình vẫn còn chỗ đứng. Thế là y thu quân, tha cho Lưu Bang.
Rồi, vật đổi sao dời, thế sự nổi trôi thăng trầm. Cuối cùng Lưu Bang thống nhất sơn hà, lên ngôi Hoàng Đế. Lúc này, Lưu là chúa tể thiên hạ, hiển hách như trời. Lưu đền công, định tội ân oán trong những ngày gian khổ, chiến đấu vào tử ra sinh. Đằng Công nhớ lại ơn tha chết cho Lưu ngày xưa. Ơn này đâu phải là nhỏ! Nếu lúc đó bắt, hoặc giết Lưu, làm gì Lưu còn ngày nay ngồi ngất nghểu trên ngôi cửu trùng. Đằng Công lặn lội đến gặp Lưu.
Khi đến nhà khách của triều đình, Đằng Công được một vị đại quan ra tiếp. Sau khi biết khách là Đằng Công đã có công vô cùng to lớn, đã tha chết cho Hoàng Đế ở trận “X” v.v… Chính ông quan lớn này, trên đường vào cung báo cho Hoàng Đế biết sự việc, cũng phải trầm trồ ca ngợi cái may có một không hai, của Đằng Công.
Khi vị quan quỳ mọp tâu trình sự việc xong, và y đang chờ sự hân hoan mừng vui của Hoàng Đế, được gặp lại người ân xưa, bỗng một tiếng quát gầm lên như sấm dậy, Hoàng Đế ra lệnh:
- Đem Đằng Công ra pháp trường chặt đầu ngay lập tức, để làm gương cho các quan và hậu thế! Ta không muốn nhìn kẻ một dạ hai lòng. Người phản trắc thì không một chế độ nào ưa cả. Lừa thầy, hại bạn, muôn đời ai cũng phỉ nhổ!…..”
Mặt tên Hưng sượng sùng ngồi nghe tôi kể chuyện. Tôi hỏi thẳng:
- Theo anh, Đằng Công và Lưu Bang, ai đúng, ai sai?
Y vừa chống tay đứng dậy một cách uể oải, vừa trả lời:
- Ồ, chuyện cổ xưa, bây giờ đâu còn phù hợp nữa…..
Rồi, y trở về chỗ của y nằm….. Chiều hôm đó, tôi và Thọ “Lột” đang cặm cụi chia cơm, một đoàn cán bộ công an lạ hoắc đi vào sân trại. Họ chia mỗi người đi về mỗi góc sân, đứng nhìn tù đang ăn, hoặc đang chia cơm.
Một tên chừng ngoài 30, có đôi mắt thật sâu, hàm râu lún phún đen xì như con sâu róm nằm cong cong, tòe ra hai bên phía dưới mũi. Tôi biết y đang khoanh tay trước ngực, đứng cheo chéo phía sau lưng tôi và đang nhìn tôi chia từng suất cơm. Lúc tôi ngẩng lên như xoay lại thế đứng cho khỏi mỏi, mắt tôi và mắt y gặp nhau. Y nờ một nụ cười xã giao, dìu dịu nói:
- Này, tôi hỏi thực các anh, các anh ăn suất cơm này có thấy đói lắm không?
Thấy cách ăn nói của y mềm dẻo, dễ lọt tai, tôi xoay hẳn người lại, thong thả nói:
- Thưa ông, phải nói là đói thật nhiều chứ ông. Ngay các cháu thiếu nhi, có thể còn phải ăn hai suất cơm không thế này, mới no. Chúng tôi phải ăn 3 suất mới đủ.
Nghe tôi nói, trán y cau lại như gặp một vấn đề thật khó hiểu. Cuối cùng, y nói như tâm sự:
- Tôi là cán bộ bên sở, được trình bày của các đồng chí bên “lao cải” (Cục Lao Động Cải Tạo), với tiêu chuẩn chất bột như vậy là đủ rồi đấy. Thế mà các anh lại kêu đói!? Tôi nói thực với anh, nhìn suất cơm này, ngay chúng tôi ở ngoài, mỗi bữa cũng chỉ ăn thế thôi. Như vậy là thế nào?
Nhìn mặt y có vẻ thành thật, nghĩa là y thực sự không hiểu được tại sao lại khác nhau như vậy. Thôi, cũng chẳng tiếc chút nước bọt, tôi bỏ hẳn cái bát xuống bàn, nói rành mạch:
- Thưa ông, cái này có gì đâu mà khó hiểu ạ. Con người sống được, nói một cái khái quát, phải cần có: “protit, lipit và glucit”. Nghĩa là chất mỡ, đạm và đường. Thí dụ, một ngày, một người trung bình phải cần một nghìn đơn vị chất đạm, một nghìn đơn vị chất mỡ và một nghìn đơn vị chất đường để sống và sinh hoạt. Ông ở ngoài tự do, lúc ông ăn một cái kẹo, tấm mía, quả chuối; uống ly nước chanh, v.v… trong đó có mỡ và đường đấy. Cơm ông lại ăn tí cá, tí thịt, tí đậu, cà chua, v.v… trong đó có mỡ và đạm đấy. Do đấy, chất bột chỉ cần hai lưng bát cơm là đủ rồi, đâu có đói nữa. Huống chi, đôi khi lại có những bữa tiệc tùng, ăn nhiều thì cơ thể đã có chất dự trữ, nên có ngày bỏ một bữa ăn cũng không thấy đói. Ở đây chỉ có suất cơm đơn thuần thế này; có khi ăn với tí muối rang, có khi chỉ vài cọng rau muống già nấu muối, như hôm nay. Ngoài ra, suốt ngày, ngày này qua ngày khác, không có một cái gì khác vào miệng cả. Như thế, suất cơm bây nhiêu phải lọc, chia, điều chế ra thành 3 phần trên, mỗi thứ chỉ được một tí. Sao không đói được, thưa ông…!?
Nghe tôi nói, mắt y sáng dần ra, trán y dãn thẳng không còn vết cau nữa; đến nỗi y quên là đang nói chuyện với một tên tù; y đập tay vào vai tôi cười rộ, thân mật:
- Phải, anh nói thật có lý. Thế mà trước đây, tôi cứ băn khoăn mãi không hiểu vì sao.
Thấy y cởi mở, chân thật, tôi chêm nhẹ một câu:
- Tôi nghĩ, “ở trên” nghiên cứu, đặt ra tiêu chuẩn này, không phải họ không biết như vậy. Họ còn biết hơn tôi nhiều nữa cơ!
Y mở to mắt nhìn tôi, vì chưa hiểu ý tôi định nói cái gì… Câu chuyện chấm dứt ở đấy, vì tôi còn phải làm cho xong phận sự…chia cơm của mình.
Buồng đã ăn cơm nước xong, vào, khóa cửa. Tối nay, hình như có vấn đề gì đó xẩy ra giữa một số thanh niên lớn ở trong buồng, mà tôi vô tình nên không biết. Mãi tới lúc thấy chúng đã xếp dọn trống hẳn một góc nền. Hơn nữa, lại, thấy Phúc “Thổ” cùng Thạch “Sẹo” đang cởi áo ra, tôi mới chợt hiểu.
Thằng Thạch “Sẹo” là “lính xô bè” của Hải Phòng. Tôi hiểu, trong giới anh chị bụi đời này, khi gặp những mâu thuẫn hay bất đồng trong việc “làm ăn”, thường phải giải quyết “vấn đề” với nhau bằng… võ lực. Tôi cũng biết uy tín và khả năng của tôi lúc này, đủ để dẹp vụ “thượng đài”. Nhưng, ngay trong thâm ý, tôi cũng muốn xem “tay nghề” của giới anh chị miền Bắc có gì đặc biệt không? Nghĩ như vậy, tôi liền xông đến không cần biết lý do vì sao phải thượng đài, tôi chỉ hỏi ai là trọng tài. Phúc “Thổ” chỉ Thọ “Lột”. Tôi biết Thọ “Lột” cũng là dân Hà Nội, vì vậy, tôi quay sang Thạch “Sẹo” hỏi:
- Cậu có đồng ý Thọ “Lột” là trọng tài không?
Thấy tôi hỏi, Thạch “Sẹo” như dàn nỗi băn khoăn ra:
- Em thú thực với anh, đây là đất Hà Nội, em kỵ nhất là “hội đồng”. Em cũng không muốn Thọ “Lột” là trọng tài. Em hiểu chúng nó đầy đàn em ở đây, nhưng vì cái thế danh dự, em phải “sô lô” với chúng.
Thấy ý kiến của Thạch “Sẹo” như vậy, tôi quay lại, cao giọng nói với toàn thể:
- Chuyện này, nếu tôi không biết thì thôi. Nhưng vì tình nghĩa giữa các cậu với tôi; mặt khác, vì tinh thần thượng võ, nên việc này phải được minh định rõ ràng. Trước hết, tôi xin hỏi các cậu: đây có phải là một trận thử sức, để phân rõ tài cao thấp của nhau không?
Đám đông các cậu chung quanh ồn ào, nhao nhao lên:
- Đúng thế đấy, anh ạ!
- Đúng đấy!
Tôi lại hỏi tiếp:
- Ở đây, chúng to không có đồng hồ; vậy, các cậu định đánh theo nguyên tắc nào, và như thế nào là thắng hay bại?
Mấy người đều định nói, nhưng Thọ “lột” nói hết ý của vấn đề:
- Đánh theo lối tự do, cho đến khi nào một bên giơ tay chịu thua.
Tôi nói rành rẽ:
- Như vậy, ba điều kiện sau đây phải được tôn trọng: thứ nhất, trọng tài là người phải cả hai đấu thủ Phúc “Thổ” và Thạch “Sẹo” thỏa thuận đồng ý. Thứ hai, dù thế nào khi dứt điểm cũng không trả thù. Thứ ba, tuyệt đối không bè phái, hội đồng.
Nhiều tiếng vỗ tay và nhao nhao hô đồng ý; rồi tiếng Minh “Trố” nói to:
- Đề nghị anh Bình làm trọng tài!
Lại có nhiều tiếng vỗ tay. Thấy vậy, tôi quay sang hỏi cả Phúc “Thổ” lẫn Thạch “Sẹo”:
- Cả hai cậu hãy thẳng thắn nói ý kiến của mình?
Cả hai đều gật đầu đồng ý. Nhiều tiếng vỗ tay! Tôi giơ cả hai tay, dõng dạc tuyên bố:
- Là trọng tài, tôi cương quyết bảo vệ những điều đã được nêu ra. Tôi sẽ xử lý ngay, nếu ai vi phạm. Và bây giờ, có thể bắt đầu.
Tôi vừa nói, vừa cởi chiếc ruột áo bông dầy mà Minh “Trố” mới lột của một thằng bạn mới vào, đưa cho tôi 3 hôm trước. Thằng Tiến “Ga” đã xông đến giữ chiếc áo bông cho tôi. Tôi đi một vòng, làm hiệu tay dẹp một chỗ khá rộng. Trời mùa Đông, gió lạnh căm căm, hai đối thủ vẫn cởi hết quần áo, chỉ mặc có hai chiếc quần xà lỏn. Thằng Phúc “Thổ”, trông dáng cao lênh khênh đến 1m70, da trắng trẻo nhưng đầy vẻ nhanh nhẹn. Ngược lại, thằng Thạch “Sẹo” chỉ cao khoảng 1m62, da ngăm ngăm, chân tay chắc nịch. Vết sẹo của dao chém trên mặt nó, rạch chéo một vết dài, chia chiếc mũi của nó làm hai phần. Phần dưới, phía cánh mũi phải xùi ra một cục thịt, làm cái mặt của nó càng thêm lầm lì. Tôi cầm, hai tay của hai cậu, chuẩn bị cho bắt tay. Quay sang Phúc “Thổ” tôi hất hàm hỏi:
- Nặng bao nhiêu ký!
- 57 ký!
Tôi quay lại Thạch “Sẹo”, nó trả lời:
- 60 ký!
Thằng Phúc thật láu cá! Vừa bắt tay, bỏ ra một cái, tay trái của nó đã quạt một cú lẹ như gió vào hàm phải của Thạch “Sẹo”, đồng thời xoay người đưa chân phải ghim vào ngực Thạch “Sẹo” một cái “hự”. Với hai đòn chớp nhoáng phủ đầu của Phúc “Thổ”, Thạch “Sẹo” chỉ tránh được cú đấm, đành chịu nhận cái gót chân như vồ đập vậy.
Cú đòn của Phúc “Thồ” thật đẹp. Nhưng, Thạch “Sẹo” cũng không vừa, bị ăn một cú gót chân đầu tiên, mặt nó xám lại thêm. Nhanh như một con vượn, nó tiến lên hai bước, quạt dứ cánh tay phải vào mặt Phúc “Thổ”. Phúc vội hụp đầu xuống tránh, thì vừa lúc đó, chân trái của Thạch “Sẹo” lên gối, trúng ngực Phúc “Thổ”. Một tiếng “ọc” ngọt lịm như tiếng chày đâm vào cối gạo. Phúc “Thổ” phải ôm ngực lui ra.
Hai đấu thủ đều đã ăn đòn, nên khí thế trận đấu bắt đầu bốc. Mắt của hai đấu thủ đỏ lên như mắt cá rói, chúng xông bừa vào nhau, đấm đá túi bụi.
Các cậu chỉ là người có đòn phép lúc đầu; nhưng càng về sau, càng đi vào “hổ lốn” quyền. Một điều tôi nhận thấy, thứ đòn của các cậu đánh nhau, hoàn toàn là do cuộc sống thực tiễn của anh chị bụi đời, chứ chẳng phải trong một lò quyền thuật nào. Vì có kinh qua một số đánh nhau, nên các cậu rút ra được một số đòn hữu hiệu.
Nhìn chúng quần thảo, tôi liên tưởng đến một số lò võ tôi đã được chiêm ngưỡng, hoặc tham dự. Tôi thấy, trừ những trường đặc biệt không kể, đa số những lò này chỉ giỏi về lý thuyết; tuy cũng có thực tập bằng những trận đấu với nhau. Nhưng, dù sao cũng không phải là đánh thật. Đánh thật ở đây nghĩa là đánh ở mọi tình huống, mọi hoàn cảnh, bất kỳ đông người hay ít người; bất kỳ, dao, gậy, súng, gặp cái gì phang cái ấy…tử chiến, hạ nhau ngay.
Giới anh chị bụi đời thì ngược lại, trải nhiều thực tế, phải dự nhiều trận chém giết, nhưng lại không có lý thuyết. Như vậy, nếu ai có cả hai thứ lý thuyết và thực tế, chắc rằng đó mới là người đáng nể.
Trong thực tế, không ai có thể phủ nhận được rằng, ngay các võ sư đã từng nổi tiếng với bao lần thượng đài hạ địch thủ; nhưng khi đấu “võ đời”, nhiều người đã bị thua, bị chết. Các lò võ đối với “võ đời”, cũng như trường đại học với trường đời vậy.
Trong khi tôi đang để óc liên tưởng chạy dông dài, trận đấu vẫn nghiêng ngửa. Bất chợt, vì tránh một cú đá hậu của Phúc “Thổ”, Thạch “Sẹo” đã vướng vào góc bệ gạch giữa phòng, ngã đổ ngửa ra. Nhanh như một con sóc, Phúc nằm đè lên bụng Thạch, rồi xoay lật ngược người, đánh một cú khuỷu tay vào cái mũi sẹo của Thạch nghe cái “ịch”. Một giòng máu tóe ra, nhưng Thạch vẫn
còn khỏe, đã co chân lại, đạp bật Phúc “Thổ” ra như một cái lò xo. Phúc “Thổ” ngã đập mặt vào cạnh bệ gạch, mắt tím bầm, sưng lồi lên một cục như quả táo (táo Việt Nam). Hai đứa ôm chầm vào nhau vật lộn, như hai con gấu đói bị thuơng. Máu ở lỗ mũi của Thạch “Sẹo” vẩy văng tung tóe, đỏ cả nền nhà.
Tôi thấy đã tới lúc phải chận cuộc đấu này lại. Tôi xoài chân xuống xà tấn, lách thọc vào hông giữa hai đứa; hai tay tôi xiết chặt hai tay chúng, rồi dùng vai hích bật hai đứa ra hai bên; mồm tôi quát:
- Thôi! Ngừng lại! Như thế đã đủ hiểu tài nhau rồi!
Chúng nó còn hăng máu, lồng lộn định xông vào nhau nữa. Nhưng tôi đã quắc mắt lên, với thái độ là nếu tên nào còn muốn nữa, tôi tiếp ngay.
Máu từ hai lỗ mũi của Thach “Sẹo” vẫn còn chảy. Tôi gọi thằng Tiến “Ga” xé cho tôi miếng giẻ; và kéo tay, bắt Thạch “Sẹo” ngồi dựa vào đống chăn, ngửa mặt lên. Trong buồng chẳng ai có một thứ thuốc men gì. Chỉ có mấy miếng giẻ rách, lau và bịt lỗ mũi của Thạch “Sẹo”, nên mãi một lúc sau mới cầm được máu.
Lúc này đã 9 giờ tối, Thạch “Sẹo” ngồi dậy, mặc quần áo, đi đi lại lại. Tôi sai mấy thằng quét dọn, lau chỗ máu dưới nền, trải chiếu; xong, gọi các cậu lại, ngồi nói chuyện.
Với tư cách trọng tài, tôi nhận định chung về trận đấu là hai bên đều có cái khá, cũng như cái kém. Thạch “Sẹo” không may bị ra nhiều máu. Người hiểu biết, không nhìn máu chảy để luận tài cao thấp. Tôi cũng ca ngợi các cậu đánh hay, nhưng chưa có nghệ thuật. Đấu võ cũng như đánh cờ. Loại cờ thấp, chỉ ham ăn nhiều quân của đối phương, và như vậy, tưởng mình thắng rồi. Loại cao cờ biết bầy trận, nhử mồi, rồi chờ, hoặc khích, dẫn dắt đối thủ xập bẫy. Xem những trận cờ như vậy mới hay!
Rồi, để làm nhạt phần nào những hận thù của chúng; tôi kể, hay nói khác đi, tường thuật lại mấy trận võ đài quốc tế từ 1954 đến 1961 tại Sài Gòn cho các cậu nghe. Tôi không quên kể lại một võ sĩ, tự nhận là giáo sư Đệ Tứ Đẳng huyền đai Nhu đạo. Để lật mặt ông này, quân đội đã phải tổ chức một đêm nhu đạo quốc tế năm 1960, tại sân vận động của Trung tâm huấn luyện Quang Trung, do giáo sư Nhật, đệ lục đẳng huyền đai Takata, từ Nhật sang làm chủ trì. Takata đã thách thức toàn bộ các giáo sư Mỹ, Anh, Pháp, Việt từ đệ tứ đẳng có mặt tham dự đêm Nhu đạo quốc tế đêm ấy, v.v… Cả buồng say mê theo dõi những diễn tiến của từn trận đánh. Tôi cũng nói đến cái hận, của hội quyền thuật Việt Nam với vụ thách thức của võ sĩ Samsaray, vộ địch quyền tự do của
Căm-pu-chia. Trong đó, võ sĩ Vĩnh Tiên, vô địch Quyền Anh Đông Dương, phải chịu trận.
Nói chung, gần một tháng ở buồng này, do những điều kiện cụ thể, tôi được tiếp xúc với nhiều anh chị trong giới lưu manh, đủ mọi thành phần. Mỗi đứa là một cuộc đời trôi nổi, sóng gió. Cả một thế hệ trẻ lầm than rên xiết, không có lối thoát dưới chế độ Việt Cộng.
Phải nói là, tôi đã gặp cả một kho tàng, đầy những câu chuyện sống động, người thực, việc thực. Tôi tiếc mình không là một nhà văn, nhà báo để ghi nhận hết được những kho tài liệu sống này. Tuy vậy, những thực tế này đã là điều làm tôi phải suy nghĩ, tìm hiểu, và đã làm tôi ngạc nhiên không ít, so với sự hiểu biết của tôi về xã hội chủ nghĩa trước đây.
Với suy lý đơn thuần của tôi; trong xã hội chủ nghĩa, do những yêu cầu quản lý con người và an ninh xã hội, dân sẽ phải thiếu đói, và suốt ngày, suốt tháng, suốt năm chỉ cặm cụi lo toan cho miếng ăn để sống. Điều đó, tất yếu sẽ đẻ ra một số những tệ trạng xã hội như lưu manh, trộm cắp… lại là trẻ con, thiếu niên và thanh niên. Những loại người này, đã được sinh ra và lớn lên dưới dự giáo dục uốn nắn “trồng người” của chế độ xã hội chủ nghĩa!
Chính những điều tôi nhìn thấy này, càng cho phép tôi về sau, nhìn rõ Cộng Sản hơn, và là những dẫn chứng sinh động để lý giải sáng tỏ một vấn đề về phương pháp thống trị quản lý con người của Cộng Sản nói chung, và của bọn Việt Cộng nói riêng…

80. Phim “Thần Thoại”: Một Thủ Đoạn của Cộng Sản!…

Sáng hôm nay, trời không mưa nhưng rét thật ngọt. Cứ vào giờ bắt đầu làm việc (8 giờ), sân trại lại nhộn nhịp tấp nập đầy người. Quen lệ, khi ra tới chỗ bể rửa mặt, tôi vừa rửa vừa đưa mắt về phía cửa buồng số 8, buồng giam những tội phạm chính trị “nặng ký”.
Sự để ý chờ đợi của tôi, chẳng phải vì buồng ấy có nhiều người tội nặng (tôi có biết tội lỗi của họ ra làm sao đâu). Sự chú ý của tôi chính là, bao giờ cũng vậy, khi buồng ấy xếp hàng đợi đi ra cho cán bộ điểm, ở hàng cuối cùng, một hình ảnh quen thuộc luôn luôn lôi cuốn tâm trí tôi: một anh, chừng 30, 35 tuổi với chân phải cụt đến sát háng và tay phải, từ vai, chỉ nhô ra một đoạn chừng mười phân, nghĩa là cũng cụt từ phía trên khuỷu tay. Vì chân và tay đều cụt về một phía, cho nên đầu nạng chống vào nách của anh, phía bên tay cụt, phải có một cái quai bằng dây vải, đeo và buộc vào vai anh. Chỗ ngang bụng lại có một sợi dây nữa, quàng ra buộc chiếc nạng để giữ cho ép sát vào người. Cổ anh đeo một cái túi vải lủng lẳng trước ngực, trong có hai cái bát bằng hai nửa chiếc gáo dừa to và một ống “ghi-gô” nhôm. Thành ra, trông người anh quấn đầy dây nhợ. Chỉ có tay trái anh, trông thật rắn chắc, chống và điều khiển chiếc nạng một cách lẹ làng, nhuần nhuyễn. Dù vậy, dáng bước đi của anh cứ phải lệch về một bên. Mỗi một bước đi, gân cổ và gân trên bàn tay trái của anh nổi phồng lên như những con giun đất. Đặc biệt, da mặt và da tay của anh trắng trẻo, hồng hào. Có lẽ, cũng một suất cơm như vậy, chỉ phải nuôi có một nửa cơ thể. Anh có đôi mắt thật sắc, long lanh khác thường. Nét mặt lạnh lùng, tôi chưa bao giờ thấy anh cười. Tôi chẳng hiểu vì sao anh tàn tật như vậy, và anh đã gây lên tội gì để bây giờ phải vào tù?
Nếu chỉ có vậy, sự việc tôi bị lôi cuốn cũng chỉ ở chừng mực nào đó thôi. Ở đây, ngoài những dây nhợ buộc khắp người anh, còn một cái dây thừng nữa buộc vào vai trái anh, thòng ra phía sau buộc vào cổ tay trái của một anh khác, khoảng 40 tuổi, rất cao mà lại gầy, nên trông càng lênh khênh. Đôi mắt anh phía sau này, chắc đã lòa từ lâu, vì chúng thụt sâu vào thành hai lỗ đen ngòm, lờ mờ mấy đùm dĩ trắng đục. Tay phải của anh lòa cầm một chiếc gáo dừa, tay trái anh chống một chiếc gậy nhỏ, hai chân anh lần bước theo chiếc gậy, chiếc gậy lại theo hướng của sợi dây do anh cụt phía trước dẫn. Điều làm tôi thắc mắc là anh mù hầu như lúc nào cũng ngửa mặt “nhìn” lên trời. Nhiều lúc; tôi cứ tưởng anh nhìn cái gì cây bàng, hay đang theo dõi những tảng mây lững lờ trôi trên nền trời xanh xám, của mùa Đông.
Một điều nữa làm tôi thắc mắc không ít là, ngay chung quanh, kể cả trẻ con, người lớn trong buồng tôi, chả một ai quan tâm, để ý nhìn anh mù và anh què đó cả. Đã từ hàng nửa tháng nay rồi, tôi không chịu được nữa. Đến bên Phúc “Thồ”, tôi hướng về chỗ hai anh đang giúp nhau lúi húi rửa ráy ở mé bể nước phía bên kia, hỏi:
- Này, hai anh kia mù với què, còn làm gì nên tội mà bị bắt, cậu có biết không?
Phúc “Thổ” quay lại, nhìn tôi đăm đăm, với một chút rung rung ở đuôi mắt, như ngạc nhiên cho câu hỏi ngây thơ của tôi:
- Họ vẫn gây tội tốt ấy chứ anh! Lên trại trung ương, anh sẽ còn gặp khối người mù, người què.
Tôi nói, giọng đầy thắc mắc:
- Mù với què còn nhìn thấy gì, còn đi đâu được, mà gây nên tội?
- Anh mù, cũng như anh què, anh quên họ còn cái…mồm nữa là chi! Tội ở cái mồm ra đấy, anh ạ. Sau này, đi trại, tìm hiểu kỹ, anh sẽ thấy hầu hết bao nhiêu tội, bao nhiêu người bị bắt đều do cái miệng cả. Tụi Cộng Sản ghép chung cho cái tội là “phản tuyên truyền” đó mà.
- Sao không đưa họ đi trại, còn để họ ở đây?
- Em cũng không biết nữa. Anh mù kia kìa, trước đây ở buồng 11, nhưng chẳng có ai chịu dẫn cũng như lấy cơm cho. Sau, không hiểu sao, lại đưa sang số 8 với anh què này.
Cả buồng tôi đã trở vào rồi, một mình tôi ngồi ở cửa buồng, mắt vẫn nhìn về phía buồng số 8, anh mù và anh què đang dắt díu nhau lò dò, chậm chạp vào buồng. Chẳng biết các anh đang nghĩ gì, các anh cảm thấy cuộc đời ra sao, có bao giờ các anh buồn không? Các anh đã vào trong buồng rồi, mà hồn tôi vẫn còn bồng bềnh thương cảm, cho những kiếp người đầu thai nhầm…không gian.
Tôi vẫn ngồi đấy, vẫn mở to mắt nhìn ra sân; nhưng, hồn tôi đã cuốn chặt vào nỗi đầy vơi của kiếp người, nên chỉ nhìn loáng thoáng, lố nhố những hình người di động, chẳng còn trông rõ được ai. Tôi lơ mơ thấy như từ phía cổng phòng trực, có mấy người mang những cái gì trông giống như những cái sào tre thật dài. Ngạc nhiên, tôi lấy lại thị giác, định thần nhìn kỹ, thì ra thật dài. Ngạc nhiên, tôi lấy lại thị giác, định thần nhìn kỹ, thì ra thật vậy. Ba anh tù “trại thợ”, kẻ ôm những cái sào tre, người ôm những dây nhợ và một miếng vải trắng to?…
- Tối nay lại có chiếu bóng rồi!
Tiếng Thọ “Lột” ồm ồm phía sau lưng đã trả lời cho câu hỏi còn đang băn khoăn trong đầu tôi. Rồi, trong buồng ồn ào, nhao nhao lên như buổi “mít tinh” đến giờ giải tán. Thọ “Lột” chạy sang bàn một tên cán bộ ở trước cửa buồng 10 một lúc, trở về; thế là cả buồng đã biết tin, tối nay chiếu phim: “Nàng Công Chúa Tóc Vàng” của Tiệp Khắc. Tôi quay sang hỏi Thọ “Lột”:
- Thường thường bao lâu mới chiếu phim một lần, hở cậu?
- Cũng tùy, anh ạ. Nhưng thông thường thì hai tháng một lần.
- Thế lần trước, chiếu phim gì?
- “Lút Mi Na với tên Phù Thủy Râu Xanh”.
Tôi nhớ lại khoảng thời gian gần một tháng trời lang thang trên hè phố Hà Nội trước khi bị bắt, chợt thoáng thấy hiện lên trong đầu một vấn đề khác thường. Tôi hỏi Thọ “Lột”:
- Này, tại sao miền Bắc xã hội chủ nghĩa hay chiếu phim thần thoại thế? Cậu có biết nguyên nhân vì sao không?
Mắt cậu ta mở to như lần đầu, mới được nghe ý tưởng lạ lùng này:
- Anh hỏi, em mới chợt thấy. Hầu như các phim nhập cảng từ các nước xã hội chủ nghĩa đa số đều là phim thần thoại! Em cũng chưa hiểu vì sao cả.
- Cậu có thấy chủ nghĩa Cộng Sản chủ trương “duy vật” nghĩa là, không những họ không tin chuyện thần thoại, mê tín; mà còn chống đối, bài trừ nữa không? Thế mà, ngược lại, phim ảnh lại đầy dẫy những phim hoang đường loại đó! Cậu biết vì sao lại có sự mâu thuẫn đó không?
Cả ông Khánh và Phúc “Thổ” cũng chạy ra ngồi nghe, thành ra cả ba người đều đờ đẫn cả mặt. Có lẽ đây là lần đầu tiên họ gặp một người đặt ra câu hỏi này; mặc dù, sự việc từ lâu vẫn bầy ra trước mắt, nhưng mọi người vô tình, không để ý. Ông Khánh nói vẻ sốt sắng:
- Chính điều này, ngay khi còn ở ngoài, đã có lần tôi thấy hơi lạ; nhưng tôi chỉ cho là dân chúng thích xem phim thần thoại, nên họ hay quay, thế thôi!
- Như vậy, bác lại quên một điều: dưới chế độ Cộng Sản, văn nghệ phải được chỉ đạo! Văn nghệ “Cộng Sản” phải hướng con người chỉ nhìn và đi về một phía nhất định, do bọn đầu não đưa ra; và; không bao giờ văn chương, kịch nghệ, phim ảnh, v.v…được dùng để chiều theo thị hiếu, hay ý thích của quần chúng cả. Cứ đặt vấn đề như vậy, rồi xóa bỏ những mâu thuẫn đối lập; cuối cùng sẽ thấy được rõ câu trả lời. Tôi tin là, khi chưa đặt vấn đề thì không nói, chứ đã đặt ra, rồi bác và hai cậu sẽ trả lời được thỏa đáng thôi!…
Chiều nay, tụi trẻ trong buồng xốn xang, vui vẻ hẳn lên với những háo hức, chuẩn bị chốc nữa sẽ được xem chớp bóng. Chính ngay những người lớn, trong đó có tôi, khi thấy trời chuyển gió mạnh, cũng phập phồng sợ trời mưa, khiến buổi chiếu phim sẽ bị ngưng lại. Riêng với tôi, đã 6 năm, ngày đêm chỉ trông thấy 4 bức tường xà lim, nên bây giờ cũng muốn “cải thiện” con mắt một tí.
Gió thổi nhanh một hồi, rồi dịu lại, tuôn dài chất ngọt vào cái lạnh đêm Đông hanh. Chờ mãi rồi cũng đến giờ ra sân trại. Bảy giờ 30 phút. Buồng nào, do cán bộ buồng ấy chịu trách nhiệm điểm số, dẫn ra đến chỗ quy định của mỗi buồng.
Tối nay, sân trại được “tăng cường” thêm mấy bóng điện 60 watts nữa mỗi góc; nhưng cũng không đủ sáng cả sân. Bóng tối vẫn chiếm nhiều hơn ánh sáng. Quá mười mét là chả con nhìn rõ mặt người.
“Xem hát ngồi xa. Xi nê ma ngồi gần”, đó là hai nơi dành cho khách ít tiền, hoặc thấp cổ, bé vai, ở đâu cũng vậy. Cho nên, trật tự, buồng trưởng…được ngồi gần phía các hàng ghế cán bộ, nghĩa là mãi phía cuối, xa màn ảnh. (Tất nhiên, tù cũng có ghế là…nền sân trại).
Một đoàn cán bộ lục tục kéo vào. Ngoài mấy mụ Thơ, Hoa, cũng có vài người đàn bà nữa, chắc là vợ con của cán bộ. Tiếng the thé, ỏn ẻn của mấy mụ cũng lôi cuốn biết bao cái đầu, chìm sâu trong bóng tôi, đều nghiêng dần theo vài mái tóc dài, mãi cho đến khi họ tới chỗ những hàng ghế phía sau mới thôi.
Trong cái mờ tỏ, sáng tối ấy, bỗng thoáng một bóng hình làm trái tim tôi nhảy nhịp không đều. Cô Vân đang đi sau tên Lê, Thượng Úy. Hôm nay, cô Vân mặc chiếc áo bông màu hoa cà điểm những chiếc hoa trắng to tướng, lấp loáng từng mảnh trong ánh sáng đèn. Tôi biết rằng, sân trại với hàng ngàn người và ánh sáng lại mờ tối như thế này, chả bao giờ cô nhìn thấy tôi đâu. Phần tôi, cũng đã từ hàng tuần lễ nay chẳng còn gặp cô nữa. Từ buổi tối tôi đột ngột bỏ vào buồng cho tới hôm nay, cô cũng không vào cho thuốc nữa. Thôi, cái gì đã qua rồi, cho qua luôn. Tôi chẳng cần biết cô ngồi chỗ nào phía sau lưng. Tôi vẫn để mắt lên vuông vải trắng dùng làm màn ảnh, treo chơ vơ giữa cây bàng, đang lắc lư, đung đưa với gió.
Tám giờ, một số ngọn đèn được tắt đi cho đỡ sáng và phim bắt đầu chiếu. Phim thời sự, chiếu một cảnh trên đường phố Mỹ với dân chúng biểu tình, phản đối quân Mỹ vào chiến đấu ở miền Nam Việt Nam. Dần dần, cảnh phim đưa về Sài Gòn. Cảnh lính Mỹ, lính Triều Tiên ngồi trên xe “cam nhông”, mỗi anh một chai rượu ngất ngưỡng, đang buộc dây kéo lê hai em bé Việt Nam ở dưới đường, với những giọng cười hô hố, khi thấy máu chảy khắp người và tay chân các em.
Cảnh đường phố Sài Gòn làm cho tình thương, nỗi nhớ chất chồng từ bao lâu nay trong lòng tôi sôi sục, dâng lên như thác lũ. Ôi cảnh cũ thân thương của Thành Đô. Tôi chưa cần biết nội dung của cảnh phim, tâm hồn tôi đang tràn ngập với dáng cũ hình xưa, với bao nỗi niềm thương nhớ, nhớ thương tràn đầy. Từng cảnh đời xa xưa ấy thoáng ẩn, thoáng hiện trong óc tôi. Một cuốn phim đang quay trước mắt, và một cuốn phim nữa cũng đang chiếu trong lòng tôi. Lúc này, cuốn phim trong lòng đã lấn át cuốn phim trước mặt. Mãi tới khi những tiếng hò, gầm thét:”…dậy mà đi, hỡi đồng bào ơi!…” Cứ lặp đi lặp lại của cảnh phim trước mắt, đã làm cảnh phim trong lòng tôi tắt phụt lúc nào không hay. À, thì ra đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. Từng đoàn, từng đoàn xe Honda 5, 6 chiếc một, dàn hàng ngang đang chạy chầm chậm từ phía đường Đồng Khánh, Chợ Lớn, tiến về Sài Gòn, trong một cuộc biểu tình của sinh viên học sinh, với những biểu ngữ phản đối chính phủ Thiệu vi phạm nhân quyền, dân chủ…Những người ngồi trên xe Honda, toàn là thanh niên trẻ tuổi, nam có, nữ có. Các cậu thanh niên đeo kính trắng, dáng dấp thư sinh hào hoa này; các cô thiếu nữ vẻ đài các trâm anh kia, tất cả, với những bầu máu nóng hổi của tuổi trẻ đang… hò hét tưởng đến vỡ đường phố:”dậy mà đi, hỡi đồng bào ơi!?…
Nhìn cảnh phim, trong thâm tâm tôi hiểu rằng, nếu sau này Việt Cộng chiếm được miền Nam, khẩu hiệu các cậu, các cô sinh viên học sinh đang hô hào kia mới có túc từ, nghĩa là mới đủ nghĩa. Hiện nay, mới chỉ là gọi, giục đồng bào dậy mà đi; nhưng chưa biết… đi đâu, và đi đến đó để…làm gì? Vì là chuyện của ngày mai nên tôi chỉ giả thiết, không dám khẳng định; nhưng với cảnh sống của người dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc hiện nay, tôi có thể nghĩ tương tự như thế này:
- Dậy mà đi…về miền quê làm ruộng.
- Dậy mà đi…vào nhà tù Cộng Sản nằm dài.
- Dậy mà đi…về những nông trường, nhà máy lao động đến kiệt tàn sức khỏe.
- Dậy mà đi…làm thủy lợi, dân công.
- Dậy mà đi…còn cái gì đem đi bán, để mua tí gạo mà ăn, chứ nằm đấy thì sẽ chết đói đấy…
- …Hỡi đồng bào ơi!…
Đó, chỉ khi nào Việt Cộng chiếm được miền Nam, khẩu hiệu đó mới có túc từ, chủ từ với cả những câu tương tự vừa nêu trên.
Tôi dám chắc mấy trăm người hào hoa phong nhã, mắt biếc môi hồng đang hò hét biểu tình kia không hề biết một ký gạo giá bao nhiêu tiền. Vì sao vậy? Chỉ vì thường ngày họ không phải nghĩ, làm sao kiếm được gạo để nấu cơm ăn đây. Trong khi những người cùng tuổi với họ đang ở miền Bắc này, suốt ngày đêm chỉ tính toán làm sao kiếm được gạo, cho đầy cái dạ dầy luôn luôn lép kẹp. Cả mấy trăm người đang phởn phơ biểu tình này, cũng đều không bao giờ biết được rằng: nếu không có những chiến sĩ đang đổ máu nơi chiến trường; và những người như chúng tôi đã bỏ phí cả tuổi thanh xuân, (mà lẽ ra cũng đang phây phây như các bạn bây giờ), hoặc đã về với đất mẹ, để chỉ còn lại những bộ xương khô. Hay còn biết bao người đang lầm than rên xiết với bao tủi nhục, uất hận trong tay kẻ thù; thì làm sao các bạn còn cảnh đài các trâm anh đó, để cắp sách đến trường, để tốt nghiệp thành ông này, bà nọ?…Không, 1000 người thì cả 1000 người, không có một ai nghĩ đến điều đó đâu.
Xét cho cùng, lỗi này không phải hoàn toàn do họ, mà do lũ sâu dân mọt nước lãnh đạo chế độ miền Nam. Ngay chỗ ngồi đang bình yên, chễm chệ trên đầu cổ mọi người của lũ này, cũng do bao nhiêu người đã phải đổ xương máu nơi chiến địa mới có, thế mà chúng còn chả bao giờ nghĩ tới vì đâu và vì sao chúng được ngồi như vậy, nữa là những người thanh niên trẻ tuổi kia.
Chúng tôi đang chết dần, chết mòn cho hạnh phúc của những thanh niên tuổi trẻ này đấy; thế mà giờ đây, họ đang đạp lên chúng tôi để hoan hô, ủng hộ, mời gọi, đón rước kẻ thù. Càng nhìn cảnh phim, trái tim tôi càng rỉ máu nhiều hơn. Tôi gục đầu xuống, đang lịm đi dần vào niềm tủi hận, chợt một bàn tay đặt nhẹ lên vai tôi:
- Anh ơi! Sao họ sướng thế, họ lại ngốc như vậy, hở anh! Họ đang đòi sống cảnh sống của chúng em như thế này, họ mời bằng lòng chăng?
Tiếng nói của Phúc “Thồ” như những cái kim châm thêm vào trái tim đang chảy máu của tôi. Tôi trả lời trong sượng sùng, héo hắt:
- Họ ngốc và có lỗi ư? Nhưng, những người ngốc và có lỗi nhất chính là những người lãnh đạo của chế độ miền Nam, cậu ạ!
Rồi óc tôi cứ chảy dài mãi vào cánh đồng tư tưởng mênh mông, đến nỗi đã vào phim lúc nào, tôi cũng không hay…
Cảnh phim đến đoạn nàng công chúa ngồi một mình trong đêm, bên cửa sổ và đang gửi hồn về nơi phương trời xa thẳm, nơi có người trai tuấn kiệt đã hơn
một lần làm tâm hồn nàng xao xuyến; thì ngay phía sau nàng, một con yêu cao lêu nghêu, với đôi mắt lồi như hai con ốc bưu, đỏ lòm, lấp ló trong mớ tóc bùm xum xõa phủ gần kín mặt, đang giơ đôi tay khẳng khiu với những chiếc móng nhọn hoắt, chậm chạp tiến đến gần nàng. Nhưng, nàng đâu có hay, đôi mắt mơ màng vẫn đắm chìm vào giấc mộng ngày hoa.
Bỗng, một tiếng rú ùng ục, nấc nghẹn, rồi mãi mới rống lên một hồi dài ngoáy sâu vào màn đêm, như tiếng con trâu đực bị chọc tiết rống lên chết dần vì hết máu.
Điện tắt phụt. Tối như đêm ba mươi. Xòe bàn tay trước mặt không nhìn thấy. Những tiếng ồn ào, những tiếng quát tháo, những tiếng còi lẫn với tiếng súng rền vang khắp mọi nơi. Người ta không sợ bom rơi, súng bắn từ máy bay Mỹ vào Hỏa Lò, bằng sợ mảnh đạn, do đạn ở dưới đất bắn lên nổ ở trên không, rơi như mưa rào ở trên trời cao lao xuống. Chẳng ai bảo được ai lúc này. Mạnh ai ấy chạy giạt vào các hàng hiên của các mái buồng chung quanh. Trong sân trại, có một số lỗ hầm trú ẩn dành cho cán bộ; nhưng bây giờ, giữa cái chết và cái sống, ai bảo đảm chỗ nào là của riêng cán bộ nữa?
Nếu tôi muốn chạy vào chỗ nấp, tôi phải là một trong những người đầu đến đích. Nhưng, chẳng hiểu sao, tôi vẫn rề rà chậm chạp. Có lẽ, tôi đã nhớ lại những đêm còn ở xà lim I, phải đứng mãi thấy được một góc, hay một mảnh con bầu trời Hà Nội. Lúc này, ở giữa sân trại, dù còn vướng vít mấy cây bàng và những nóc nhà; nhưng, cả một bầu trời đêm rộng mở trước mắt, tôi cứ lưỡng lự trước chạy đi nấp, hay ngồi lại đây.
Đột nhiên, một bàn tay ai đó nắm chặt lấy tay tôi. Tôi đang ngạc nhiên, mở to mắt để cố phân định, thì tôi đã ngửi thấy mùi ngầy ngậy ngọt lịm quen rồi ngày xưa ấy; và đồng thời, cũng là lúc tay tôi phản xạ tự nhiên nắm lấy bàn tay kia, Bàn tay lạ thật, mềm như có lót tơ. Tim tôi bóp nhẹ lại vì bất ngờ! Trong bóng đêm mịt mờ, tự động đôi tay tìm đến đôi tay. Tôi thoáng nghĩ, sao nàng bạo vậy? Làm sao biết tôi ngồi chỗ này? Giữa tiếng bom rơi, đạn nổ và những tiếng máy bay gầm rít như xé bầu trời. Tự nhiên bàn tay cô Vân nóng, rồi run lên! Chẳng hiểu vì cô sợ bom đạn, hay vì niềm xúc động trong lòng?
Lòng tôi xốn xang, đầy vơi hỗn tạp. Một luồng run rẩy nóng lên ở phía hông, rồi vai tôi nằng nặng. Cô Vân đã gục vào tay tôi, vẫn chẳng một lời. Tôi chẳng hiểu cô đang suy nghĩ gì? Tôi cảm thấy trời đất, không gian đều tan biến. Tôi cũng chẳng còn ý niệm về cảnh bom rơi, đạn nổ. Tôi chỉ thấy thích thú ngồi như thế này mãi mãi.
Giữa những tiếng lộp độp, một tiếng “choeng!” vang lên ngay cạnh đâu đây, làm cả hai tấm thân đều giật mình, vội ôm chặt lấy nhau. Vân co rút người lại
như cần sự che chở. Tôi thấy bừng lên niềm hãnh diện, như thể tấm thân tôi đang gồng lên, chống lại những mảnh đạn rơi loảng xoảng ấy. Tôi sung sướng cảm thấy mình vẫn còn khả năng để chở che, để làm chỗ ẩn núp cho…một người.
Bỗng, một tiếng thét như có lưỡi dao cứa họng ai ở một góc sân, kèm theo là một tiếng gọi hớt hãi, giật đùng đùng của tên Lê:
- Vân, Vân đâu?
Tiếng gọi như chọc vào tai mọi người nhiều lần. Như choàng tỉnh một giấc mơ, cô Vân run rẩy, bàng hoàng gở nhẹ tay tôi ra, rồi cô đứng dậy, lủi nhanh về phía tiếng gọi.
Cho đến khi tôi đã đứng nép vào đám đông dưới một mái hiên, tôi vẫn chưa hiểu tại sao, bằng cách nào tôi đã từ giữa sân vào đây nhanh như vậy. Phải chăng, đó là phản xạ tự nhiên của con người để bảo vệ sự sống, sau khi bừng tỉnh một giấc mơ ngày?
Những tiếng lộp độp, choeng choeng vẫn rải rác trên mái nhà, dưới sân, càng lúc càng mau. Bất chợt, một làn chớp xanh lè như làm cho bầu trời đêm rạn nứt ra, rồi một tiếng nổ inh tai, làm rung chuyển cả Hỏa Lò. Một làn hơi mạnh làm bay tốc áo quần, một tiếng gào thê thảm gần phía phải của tôi. Chẳng biết ai bị mảnh bom hay mảnh đạn?
Tôi vẫn say sưa ngửa mặt lên ngắm nhìn bầu trời. Một tiếng rít vèo vèo, roàn roạt như điện giật vụt sát qua Hỏa Lò, làm những cành bàng khẳng khiu trơ trụi lá, rung lên động đất. Chẳng biết tiếng rít của máy bay hay tên lửa? Cả một bầu trời tím thẫm đầy những hoa khói và những làn tuyết rơi ngược đủ màu. Bỗng, từ phía Đông Hà Nội, hai chấm lửa mầu da cam đang chúc đầu bay thẳng xuống Hỏa Lò, càng lúc, càng to dần, cho đến khi trông rõ như hai cái thúng đỏ lừ, chói lòa làm tôi phải nhắm mắt lại. Nhiều bàn tay quờ mạnh vào tay tôi cùng giật sấp xuống, một làn chớp lóa mắt mọi người. Hai tiếng ùng ục làm đất dưới chân rung giật lên như vỡ ra; những viên ngói trên mái rơi rào rào xuống. Vài tiếng thét giật giọng. Một đám cháy ngay sát Hỏa Lò. Trời đang mùa Đông mà tôi cảm thấy nồng nực. Mùi lửa cháy, mùi bom đạn làm không khí dẻo queo lại, thở hít rít rìn rịt.
Hơn một tiếng đồng hồ, còi mới báo yên. Tiếng loa đang ra rả hoan nghênh tinh thần anh dũng chiến đấu của bộ đội, máy bay, tên lửa, phòng không và toàn dân, đã hạ thêm 6 máy bay Mỹ nữa, nâng tổng số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên Bắc lên… “X” cái; bắt thêm 3 “giặc lái” (cái này không nói tổng số bao nhiêu). Trong khi đó, Hỏa Lò vẫn chưa có điện. Chẳng hiểu máy bay Mỹ đã đánh trúng
vào nhà máy điện, hay biến điện nào. Thật là ồn ào, hỗn tạp: tiếng gọi nhau í ới; tiếng quát tháo của cán bộ; tiếng rên rỉ của mấy người bị thuơng. Trong bóng tối đen, chỉ có những ánh đèn “pin” quệt ngang, chạy dọc của cán bộ điểm số tù đi vào từng buồng. Tuy rằng lộn xộn, nhưng rồi sớm muộn cũng sẽ ổn, cũng chẳng có chuyện gì xảy ra. Vì, muốn ra cổng Hỏa Lò, còn phải qua 3 lần cửa sắt nữa, và cửa nào cũng có bộ đội canh gác cẩn mật.
Sáng hôm sau, chỉ mới mở cửa ra sân được một lúc, đã có nguồn tin thật sớm. Hôm qua, ở Hỏa Lò, ba người tù bị mảnh đạn phòng không. Một xuống bệnh xá chết ngay từ đêm qua, vì mảnh đạn rơi gẫy xương vai, thọt xuống phổi; một anh bị sượt vào đùi; còn một anh mất hai ngón chân. Chỉ có anh mất hai ngón chân là tội chính trị; còn hai anh kia là hình sự.

81. “Bản Án” Việt Cộng Dành Cho Đặng Chí Bình!

Hôm nay đã 29 tháng 12 rồi. Ngày mai là ngày tôi sẽ phải ra trước vành móng ngựa.
Dù trong thâm tâm, tôi đã hiểu là dưới chế độ Việt Cộng, vấn đề xử, hay không xử, cũng chỉ có tính cách ý niệm thôi; và tuy rằng lúc này tôi nhìn về Cộng Sản còn nhiều mặt chưa hiểu, hoặc cũng chỉ hiểu một cách phiến diện, mức độ; tôi cũng thấy rằng có án, hay không có án, án nặng hay án nhẹ, chưa phải là khâu quyết định. Nhất là với loại tội của tôi và trong hoàn cảnh đất nước hai miền như thế này. Chính vì lý do đó, ngày ra tòa đến nơi, tôi cũng không thấy nhiều băn khoăn, bận tâm.
Về chiều, lúc gần hết giờ, bác Khánh ở ngoài sân vào, bảo tôi ra gặp cán bộ Kế. Khi tôi đã ngồi vào chiếc ghế trước bàn y, mặt y trang nghiêm nhìn tôi một lúc, rồi nói:
- Bây giờ, cho anh rửa ráy, tắm gội sạch sẽ. Sáng mai dậy sớm, quần áo gọn gàng. Ngay từ 7 giờ rưỡi, sẽ có cán bộ vào dẫn anh ra tòa ngày mai.
Thực ra, từ ngày tôi chuyển từ xà lim ra buồng này, do tên Kế phụ trách, tôi cũng không ưa hắn lắm. Rất ít khi tôi ra bàn ngồi nói chuyện với hắn. Trong khi đó, thỉnh thoảng hắn vẫn gọi bác Khánh, hay Thọ “Lột” là trật tự ra nói chuyện. Vì vậy, thấy hắn nói như thế, tôi đứng lên ngay và nói xin đi ra rửa mặt.
Đúng như tên Kế nói, sáng hôm sau, mới 7 giờ rưỡi, chưa tới giờ làm việc, tên Bằng đã vào mở khóa gọi tôi ra. Sau khi đã khóa buồng lại, y hỏi tôi ra vẻ quen thuộc nhưng vẫn lạnh lùng:
- Từ ngày ra trại chung, anh có khỏe không?
Tôi cũng khô khan:
- Cảm ơn ông, khỏe!
Ra tới phòng trực, tôi thấy có hai tên cảnh sát mặc đồng phục lạ hoắc. Chắc hai tên này ở bên tòa cử sang nhận lãnh tôi. Sau khi đã ký vào sổ, một tên quay lại tôi, vừa móc trong túi rết ra chiếc còng số 8, vừa gằn giọng:
- Theo thủ tục, anh đưa tay, tôi khóa lại!
Thấy thái độ của chúng khô khan, tôi cũng chả buồn nói năng chi. Tôi giơ cả hai tay cho chúng hì hục khóa.
Một tên đưa tay ra hiệu tôi đi trước. Hai tên đi theo phía sau, đeo súng ngắn. Ra khỏi cổng, nhìn thấy phố “Hỏa Lò”, tôi đăm chiêu nhìn chỗ tôi đã tuột xích xe đạp, cả chỗ tôi đã ném chiếc xe và những chỗ tôi đã chạy, cách đây đã hơn 3 năm rồi. Cả một đoạn phim buổi trốn tù ngày ấy như hiện ra trước mắt tôi. Thế mà đã ba năm rưỡi rồi. Bao nhiêu là đổi thay!
Ra hết đường “Hỏa Lò”, chúng bắt tôi rẽ tay trái, đi về phía tòa án Hà Nội cũ. Từ ngày trở vào Hà Tĩnh lấy những vật dụng chôn dấu đến bây giờ, đã gần năm năm rồi, tôi mới lại nhìn thấy một góc phố phường của Hà Nội.
Một số người qua lại đưa mắt tò mò nhìn tôi, một tên tù bị khóa hai tay, đàng sau có hai tên áo vàng áp tải. Họ nghĩ gì, khi trên mảnh đất này chuyện tù đầy, gia đình nào chả có! Về phần tôi, trong tâm tư mình, tôi nhìn những người qua lại thấy thật xa lạ, như của một thế giới khác; tôi chẳng còn dính dáng gì đến những cảnh đời sống của họ; mặc dù nguyên nhân tôi phải ở trong cảnh này, có phần liên quan đến họ. Sao bây giờ xa lạ thế! Tôi nhè nhẹ buông một tiếng thở dài như để vơi đi nỗi niềm nặng chĩu trong lòng.
Khi tới cổng tòa án, chúng dẫn tôi đi tít mãi vào sâu phía trong, qua một số hành lang, tới một căn buồng nhỏ. Chúng ra hiệu cho tôi vào đó ngồi chờ. Hai tên cảnh sát đứng gác phía ngoài cửa.
Tôi ngồi, hồi tưởng lại mười mấy năm về trước. Lúc đó, vào khoảng 1953, tôi còn là một cậu bé, cùng mấy người bạn, một hôm, rủ nhau xuống tòa án xem đầu lâu người chết. Chúng tôi đã vào những căn hầm phía sau của tòa án Hà Nội, nhìn từng đống đầu lâu trắng hếu, với hàm răng nhe ra như cười, và hai hố mắt sâu hoắm, lẫn với những ống xương tay, chân xếp đầy những căn hầm. Người lớn nói rằng, đó là đầu lâu giặc Thanh cướp nước bị quân ta tiêu diệt, trong trận vua Quang Trung đại phá quân Thanh năm 1789.
Cảnh tòa án ngày ấy, so với bây giờ, chẳng hề thay đổi. Có chăng, chỉ khác tấm biển đỏ loẹt to tướng ngay phía cổng ra vào:” Tòa Án Nhân Dân Thành Phố Hà Nội”; và nhà cửa, tường vách rêu phong thẫm màu hơn. Tôi còn đang đầy vơi với bao nỗi niềm mới, cũ, hai tên cảnh sát đã ra hiệu cho tôi đi theo vào một căn buồng khác nhỏ hơn.
Hàng tiếng đồng hồ sau, chúng mới mở khóa tay cho tôi, rồi dẫn qua một cửa nhỏ ra một căn phòng rộng thênh thang. Trong phòng, đã có một số người ngồi sẵn từ bao giờ. Ở một góc, một tên đeo kính trắng, mặc áo “vét tông”, ngồi trong một cái khung đánh “vẹc ni” mầu cánh kiến, bóng loáng. Đối diện phía góc bên kia, cũng có một tên ngồi trong một cái khung như vậy. Như thế, tất cả có 5 tên.
Hai tên cảnh sát giong tôi vào một cái khung, cũng bằng gỗ hình cong cong; bây giờ tôi mới hiểu đó là… vành móng ngựa. Hai tên cảnh sát lùi ra phía sau, ngồi vào hai chiếc ghế đầu, cách tôi khoảng 2 mét.
Không một tiếng động, vắng lặng, nặng nề; trừ những tiếng lật trang giấy loạt soạt, tiếng cục kịch của những chân tay đụng vào bàn, tiếng tích tắc của quả lắc chiếc đồng hồ to đang chậm chạp đu đưa ở trên tường. Mấy hàng ghế dành cho khách ngồi dự trống trơn. Toàn bộ trong phiên tòa, kể cả hai tên cảnh sát và tôi, vỏn vẹn chỉ có 8 người. Chỉ riêng tôi, duy nhất, không có ghế ngồi, cứ phải đứng chơ vơ trong cái vòm khum khum hình móng ngựa.
Đột nhiên, một tiếng “cộc” khô khan của chiếc vồ nhỏ bằng gỗ, do một tên ngồi phía trái đập xuống bàn, làm rung rinh tấm hình lão râu dài treo ở trên tường, phía chính giữa. Tên đập vồ, đứng dậy dõng dạc:
- Kính thưa các đồng chí, phiên tòa đã bắt đầu. Kính mời đồng chí đại diện Công Tố Viện phát biểu.
Tên đeo kính trắng ngồi ở trong một khung gỗ đứng dậy, tay cầm một tập giấy, y hắng dặng một cái để lấy giọng trước khi đọc:
“Kính thưa đồng chí Chánh Án, đồng chí đại diện Viện Kiểm Sát, đồng chí đại biểu Nhân Dân Thành Phố Hà Nội.
“Đứng trong vành móng ngựa là tên Đặng Chí Bình, tức v.v… và v.v… Y là tay sai của Mỹ Diệm. Y đã được Trung Ương Tình Báo của Mỹ và Ngụy quyền miền Nam đào tạo, huấn luyện công phu, rồi bí mật đột nhập vào thủ đô Hà Nội, để thực hiện những âm mưu cực kỳ phản động, chống phá cách mạng. Nhưng, trước sự lãnh đạo tài tình của đảng, và màng lưới trăm tai nghìn mắt của nhân dân, y đã bị phát hiện và bị tóm cổ. Trông mặt y ra vẻ thư sinh,ngơ ngơ ngác ngác, nhưng y lại là một tên vô cùng nguy hiểm, suốt ngày đêm lang thang khắp mọi nơi. Ăn cơm từ mỗi bữa hai hào, đến những bữa 20 đồng. Ngủ trọ mỗi đêm từ hai hào không có màn, đến 6 đồng một đêm. Y luồn lọt chui rúc khắp hang cùng ngõ hẻm, tiếp xúc với đủ hạng người. Bị bắt rồi, y còn ngoan cố bao che đến cùng, những tội ác của Mỹ Diệm. Một lần, y đã lợi dụng sự vô tình của đồng chí chấp pháp, định đánh chết đồng chí ấy để đào thoát về Nam, v.v… và v.v…
Y đọc bài, đọc mãi, nào là phản động từ trong máu, trong xương tủy, đã ăn nhiều bơ thừa sữa cặn của đế quốc Mỹ; nào là đề nghị tòa xử đích đáng, để làm gương cho kẻ khác, v.v…
Tôi chả nhớ hết được. Y đọc hàng tiếng đồng hồ. Hai chân tôi đứng đã mỏi nhừ. Mắt tôi cứ lơ đãng, hết nhìn chiếc quả lắc đồng hồ đong đưa, lại nhìn hình tên Hồ Chí Minh. Tên cáo già này cũng đang đăm đăm nhìn tôi. Tâm trạng của tôi lúc này là, giá chúng cho tôi nằm ngủ, còn chúng muốn xử tôi bao nhiêu, xử thế nào cũng được, mặc! Bởi điều quan trọng là, nếu chúng xử tôi công khai, có quần chúng nhân dân dự, có phóng viên báo chí quốc tế….., tôi nghĩ, ai cũng sẽ như tôi, đằng nào cũng chết tàn lụi trong tay chúng; vậy, với điều kiện có thể làm được, chả ai dại gì không nói lên một số sự thật cho nhân dân và thế giới biết. Như vậy còn có một chút ý nghĩa. Tôi đã chuẩn bị một số ý từ những ngày hôm trước. Nhưng cho đến hôm nay, tôi mới hiểu là chúng xử tôi, chẳng có một người dân nào dự cả. Vậy, tôi còn quan tâm, để ý nhiều làm gì, nên mặc cho chúng sỉ vả, nhiếc mắng. Điều quan tâm là chúng đã xử sắp xong chưa, để tôi còn về chén tí cơm đã, đói và mệt rồi.
Hết tên Công Tố Viện, lại đến tên Viện Kiểm Sát Nhân Dân đứng lên để kết tội. Hắn lại như con vẹt nhắc lại:
”…Kính thưa đồng chí Chánh Án, đồng chí đại diện Công tố viện, đồng chí đại biểu Nhân Dân…”.
Nào là
“…không những ta đang xử tội tên Đặng Chí Bình mà ta còn xử cả hai tên hung đồ, đứng sau phía sau y (tôi giật mình quay lại, tưởng chúng lại xử cả hai tên cảnh sát), là tên đầu sỏ đế quốc Mỹ và tên Ngô Đình Diệm (ông ấy chết rồi, còn đâu)…”.
Giọng y lè nhè như thèm thuốc lào. Y nhắc lại những ý của tên Công Tố Viện lúc nãy, rồi “khai triển” thêm để kết tội và sỉ vả. Mới chỉ có hai tên nói, đã hết buổi sáng. Tòa nghỉ, để 1 giờ chiều tiếp tục. Hai tên cảnh sát lại khóa tay, giong tôi về Hỏa Lò.
Vào trong buồng, nhiều anh em đến thăm hỏi, tôi đều nói chưa xử xong. Tôi chỉ kịp ăn vội lưng bát cơm trong 5, 7 phút đồng hồ, tên Bằng đã lại vào gọi tôi tiếp tục đi rồi. Khi tới phòng trực, tôi thấy vẫn là hai tên cảnh sát lúc sáng.
Sau khi tôi vào phòng xử, tên đại biểu Nhân Dân Thành Phố (sao mà lắm nhân dân thế) đến lượt đứng lên. Lại cũng nạt nộ, sỉ vả. Tay y run rẩy cầm tờ giấy, mắt y lơ láo sau chiếc kính lão. Môi dưới y thưỡn ra như môi con cá ngão. Mỗi khi y nhấn mạnh hay kéo dài, chiếc môi đó lại dề ra như mồm con chão chuộc xám xì, đầy bọt. Nào là “…dưới sự lãnh đạo tài tình của Hồ Chủ Tịch, dưới ánh sáng của đảng tiền phong của giai cấp công nhân…”; nào là “…nâng cao vũ khí chuyên chính vô sản, đập tan mọi kẻ thù phản động trong cũng như ngoài nước, để chóng hoàn thành sứ mạng lịch sử của đảng Mác xít, Lê nin nít là nhuộm hồng trái địa cầu này”, v.v… và v.v… Y ca ngợi, y bốc thơm chế độ của y như múi mít. Rồi, y chỉ tay vào tôi, nước bọt văng vãi tứ tung, y gào lên:
- Tên Đặng Chí Bình này thật là nguy hiểm, y vờ vịt nói thích bác Hồ, muốn theo cách mạng, mục đích chỉ để che đậy những tư tưởng, những ý đồ cực kỳ phản động của y. Cụ thể, y đã định đánh chết cán bộ của ta để đào thoát. Vì thế, là đại diện của nhân dân, tôi đề nghị các đồng chí hãy xử phạt đích đáng, như một cái tát vả vào mặt tên đầu sỏ đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam!…
Tôi thấy, y cứ nhai đi, nhai lại một vài ý luẩn quẩn. Chẳng qua, y cũng chỉ là một trong những cái máy, hay cái băng đĩa ghi và phát âm mà thôi. Vậy mà cũng ra vẻ sừng sộ để đến nỗi tên Chánh Án ngồi bên cạnh phải nhăn mặt lau má mấy lần, vì nước bọt ở mép y văng ra một cách vô tổ chức.
Tóm lại, 3 tên nói thì cả 3 tên cũng chỉ kết tội và sỉ vả. Cuối cùng, tên Chánh Án chỉ vào mặt tôi, tuyên bố:
- Cho phép bị can phát biểu ý kiến một lần!
Hai chân tôi như tê đi vì phải đứng quá lâu. Với quan điểm của tôi, như đã trình bầy ở trên, tôi thong thả trả lời:
- Kính thưa tòa, tôi tin rằng những việc tôi làm và những tình tiết nội vụ đã được các ông xác định. Qua phiên tòa này, tôi càng nhìn rõ chế độ ưu việt của nhà nước ta hơn. Xin hết ý kiến.
Một tiếng vồ đập nữa, tòa vào trong phòng nghị án. Mười phút sau, vồ lại nện, chúng lục tục kéo ra.
Tên Chánh Án đã ngoài 50 tuổi, tôi nhớ nhất là y có cái mũi hếch, làm nhiều khi tôi cứ tưởng như y đang ngửa mặt nhìn lên trần nhà. Y ra cái vẻ trịnh trọng tuyên bố:
“Xét rằng:
- Vì tính chất nghiêm trọng của tội trạng,
- Vì sự an ninh của nhân dân và Nhà nước,
- Để nâng cao tinh thần cảnh giác, đối với những âm mưu nham hiểm của Mỹ Ngụy trong thời chiến.
- Để thể hiện sự khoan hồng nhân đạo của chế độ, lấy giáo dục cải tạo là chính.
Tòa quyết định:
Xử phạt tên Đặng Chí Bình, tức v.v… 18 năm tù giam và 5 năm mất quyền công dân.”
Hai tên cảnh sát dẫn tôi vào một căn phòng khác, trong đó đã có một người, trạc 40 tuổi, ngồi với một chồng hồ sơ trên bàn. Y chỉ tôi ngồi xuống một chiếc ghế đối diện, giọng Bùi Chu như tiếng gà Tây ỏn ẻn:
- Theo quy chế của tóa án Nhân Dân, tòa cho phép phạm nhân được quyền ký giấy chống án trong vòng 15 ngày, kể từ ngày tòa tuyên án. Vậy, anh có ký giấy chống án hay hông?
Dù lúc này, tôi chưa hiểu Việt Cộng lắm, tôi cũng hiểu là dưới chế độ Cộng Sản, khi chúng đã định xử mình bao nhiêu năm, nếu mình chống án, như vậy lại sang tội tư tưởng ngoan cố, không thừa nhận mức độ của tội trạng, còn chống lại sự phán xét của…đảng. Từ xưa tới nay, đảng đã bảo, đã xét, đã phê phán điều gì, có sai bao giờ đâu!.
Tóm lại, chống án, không những không giải quyết được gì mà chỉ có hại. Nghĩ như vậy, tôi lắc đầu gạt ngay là không có chống chung gì cả. Tuy vậy, tôi vẫn phải ký vào một bản… không chống án. Ừ thì ký, có sao đâu. Đầu óc tôi đang ngây thơ nhẩm tính một con toán cộng: 18 năm. Mình đã có 6 năm ở xà lim Hỏa Lò rồi, chỉ cón 12 năm nữa. Năm nay, 29 tuổi. Hai mươi chín với 12 là 41 tuổi. Còn trẻ chán! Dứt khoát là còn trẻ hơn ông già 50 mà.
Hai tên cảnh sát lại khóa tay tôi, giong về Hỏa Lò. Lúc tôi vào buồng, anh em đến thăm hỏi, sau khi biết được tôi bị 18 năm, nhiều cậu lắc đầu, lè lưỡi. Như vậy là hết cuộc đời rồi!
Cho tới mấy ngày hôm sau, nhiều cậu cũng phải băn khoăn một điều là, tại sao không thấy tôi buồn mấy. Thậm chí nhiều cậu hỏi:
- Chúng em lấy làm lạ! Thái độ của anh sau khi nhận một bản án 18 năm, vẫn không khác gì những ngày trước?
Thực ra, tôi cũng suy nghĩ để thấy được nguyên nhân. Ở đây, có hai khía cạnh của vấn đề, tuy không rõ nét, nhưng nằm ẩn tàng trong sự việc, để thành một cái khung bên trong của thái độ bên ngoài của tôi.
Thứ nhất, nếu nói về sự việc, tình tiết diễn tiến công khai trên giấy trắng mực đen, 18 năm là quá nặng. Bởi vì, tuy tôi có nhận nhiệm vụ của Chính quyền Sài Gòn bí mật xâm nhập Hà Nội; nhưng tôi không hề hoạt động, hay làm bất kể việc gì cho Sài Gòn. Gần một tháng trời, tôi chỉ đi chơi lang thang, tìm xem cảnh cũ, thành xưa. Rồi tới khi bị bắt, tôi đã vội vàng khai báo ngay sự thật, và chỉ giốc một lòng yêu xã hội chủ nghĩa, với khẩu hiệu như kim chỉ Nam: nếu không làm gì lợi được cho cách mạng, thì cũng dứt khoát không làm gì hại cho cách mạng.
Thứ hai, với những tư tưởng và những sự việc tôi đã làm, 18 năm là quá nhẹ. Nếu cứ như thực tế sẽ còn nhiều người nữa đồng vụ cùng ra phiên tòa, để rồi
dứt khoát phải có một vài người không còn chỗ đội mũ, trong đó cũng dứt khoát phải có.. kẻ đang ngồi viết mấy dòng này!
Chính vì những niềm sâu kín như vậy, cho nên thái độ của tôi đều lặn sâu vào bên trong, để bên ngoài vẫn bình thản như những ngày trước đấy.

82. Trời Mùa Đông Hà Nội… Suốt Đời Làm…Chia Ly!…

Tôi cứ tưởng, lại sẽ được đón nhận một cái Tết nữa ở Hỏa Lò, một cái Tết đầu tiên ở trại chung. Thế nhưng, mới chừng mươi ngày sau ngày xử án, vào một buổi sáng sớm, mới khoảng 4 giờ, trời còn tối đât, rét căm căm, mưa bay nhì nhẹt, đã có một lũ cán bộ vào mở cửa buồng, rồi đọc tên 50, 60 người gọi ra sân, hầu hết là trẻ con và thiếu niên, trong đó có tôi là người lớn duy nhất.
Khi chúng tôi ra tới sân, tên Lê mới tuyên bố là đi trại. Một số đi Mai Lĩnh, một số đi Kỳ Sơn.
Vì đột suất, vội vàng, nên tôi chỉ bắt tay từ giã được một số cậu thanh niên, với những cái ôm chặt hẹn hò, ngày mai của cuộc đời. Chính các cậu ở lại, và ngay cả một số cậu đi, thậm chí ngay cả tôi đều băn khoăn. Chả lẽ chúng lại cho tôi đi trại Kỳ Sơn là trại toàn loại thiếu niên hư từ 13 đến 17 tuổi, chỉ có một mình tôi là người lớn, và lại là tội chính trị nặng cân nhất?
Tay tôi xách một ba lô quần áo (bây giờ, lại có quần áo, chăn màn do các cậu ấy trang bị cho), lẽo đẽo theo một lũ thiếu nhi rách rưới, ghẻ lở ra phía cổng Hỏa Lò.
Khi đoàn tù ra tới cổng, một tên cảnh sát lạ, tay cầm một cái còng số 8, tiến đến yêu cầu khóa tay tôi. Thân tù từ 6 năm rồi, đã mặc nhiên quen thuộc, chấp nhận mình không còn là của mình nữa, mà là của người khác, nên tôi mặc chúng muốn làm gì thì làm.
Mới 5 giờ sáng đã phải ra cổng! Trời chưa sáng hẳn, trong cái nhếch nhác ướt át của mưa Đông, thế mà, vẫn có một người chạy từ trong dẫy nhà cán bộ ra, dưới mưa rơi, mớ tóc bồng bềnh chưa kịp chải; đến nỗi những đôi mắt của tên Lê và lũ cán bộ mở to, quay cả về hướng người vừa chạy tới.
Tôi đã thấy rồi, từ lúc nãy, còn ở xa kia. Hai tay tôi đã bị chúng khóa chặt; nhưng, chúng không thể khóa được trái tim đang nhảy nhịp rộn rã của tôi, khi thoáng thấy bóng hình ai. Từ buổi xem xi nê bữa ấy cho tới nay, phải nói, tôi đã lẩn tránh nhiều lần, rồi vắng hẳn. Tôi tưởng rằng, chắc cô cũng nhận ra là tình cô đã trao không nhằm chỗ. Tôi cũng yên lòng nhẹ gánh ra đi về miền núi rừng heo hút, làm bạn với mây ngàn, gió núi trong cảnh đời ngục tù, tủi nhục lầm than…..
Hôm nay cô còn ra đây làm gì? Điều này cũng nói lên, chuyện ra đi của tôi bất ngờ đối với cô; và cả lệnh này nữa, phải từ Bộ, từ Sở xuống, nên cô mới không biết. Tên Lê hướng về phía cô hỏi giật giọng:
-Chạy đi đâu? Ra đây làm gì, sớm thế?
Tay cô đang cầm hai chiếc lọ con con, cứ giơ ra phía trước. Mặt cô tái mét, thở hổn hển, đứt quảng, chưa thể nói lên lời. Mãi một lúc sau, cô mới chỉ hai đứa nhỏ là thằng Phúc “Lủi” và thằng Hỷ “Con” (hai đứa đang run lập cập, khoác nửa mảnh chăn rách tả tơi):
-Cháu hẹn hôm nay cho hai đứa này thuốc ghẻ, thế mà chúng lại phải đi trường, sợ trên đó hiếm. Vả lại, đã hứa cháu phải cho chúng.
Ghẻ thì nhiều đứa ghẻ kềnh, ghẻ càng, thế mà chỉ có hai đứa được cho. Cũng chẳng hiểu hai đứa có xin không, mà lúc này cô phải chạy như ma đuổi để đưa thuốc. Tôi nhìn thấy, cô tiến đến đưa thuốc cho hai đứa, mắt cô lại đăm đăm nhìn tôi.
Ôi, màu hoa thiên lý đã đong đầy mắt ai, giờ chỉ còn là màu héo úa, tan tác. Những hạt mưa phùn lấm tấm đẫm ướt bờ mi. Đôi môi mọng ướt căng đầy, của những buổi trưa yên tĩnh trong xà lim ngày nào, giờ tái nhợt như run run thổn thức…Sợ tên Lê và một số tên cán bộ để ý thấy, tôi phải quay nhìn những cây sấu phía bên kia đường, cũng đang ướt át. Dưới mưa, chúng cũng run rẩy như thông cảm với nỗi niềm bàng hoàng xót xa, trong lòng người con gái đang phải nhìn mối tình đầu tan vỡ. Tôi nén một tiếng thở dài.
Đoàn tù trẻ con theo nhau lần lượt ra hai chiếc xe vận tải (kiểu GMC) đã cũ mèm. Gần 40 đứa nhỏ lên xe để đi về trại Kỳ Sơn, Hòa Bình. Chúng nó phải đỡ tôi mới trèo được lên xe. Trên xe, đã có hai tên công an vũ trang mang hai khẩu CKC, ngồi hai bên phía cuối. Băng trên “ca bin”, một tên cảnh sát Hỏa Lò ngồi cạnh tài xế.
Qua màn mưa giăng mong mỏng, từ một góc khuất phía cổng Hỏa Lò, cô Vân cầm chiếc khăn trắng thỉnh thoảng đưa lên mặt. Chẳng hiểu cô lau nước mắt hay thấm nước mắt? Những giọt lệ xót xa! Có phải cô khóc thương những em nhỏ tuổi còn non, đã sớm phải cảnh tù đầy? Hay cô nhỏ lệ cho một mối tình dang dở?…..
Tôi lờ đờ nhìn đường phố Hỏa Lò hoang vắng, không một bóng khách bộ hành; nhìn những hạt mưa nhảy múa quấn quít theo từng cơn gió lạnh; nhìn đôi tay mình ép chặt trong khoen cùm số 8, tôi chợt nhớ đến lời một bản nhạc buồn của nhạc sĩ Phạm Duy, lời của Cung Trầm Tưởng:
“…Trời mùa Đông Paris, suốt đời làm… chia ly…”.
Mùa Đông Hà Nội! Đẹp và buồn hơn nữa, mùa Đông “Hilton”! Vĩnh từ Người Hưng Yên!…..
Xe chuyển bánh. Những hạt mưa phùn cũng làm ướt cả mắt tôi. Hỏa Lò mờ dần…..Chiếc xe chậm chạp, chui dần vào mưa Đông…..
1     2     3         5     6     7     8     9     10     11     12     13     14     15     16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét