21.
Tài Liệu “M”, Đối Tượng Là Ai?
Buổi sáng hôm sau, là ngày 14 tháng 6, chỉ còn một ngày nữa
là đến hẹn. Hôm nay, tôi lại phải ra bờ hồ. Trước khi đi tôi cúi xuống xem
chiếc máy. Họ chủ quan, cho là tôi không biết, nên lúc dán băng keo, lại dán
dịch đến 3 phân so với chỗ hôm qua.
Tôi ra đường, sáng hôm
nay trời Hà Nội thật đẹp, không mưa không nắng. Không khí dìu dịu làm tỉnh lòng
người. Giữa mùa Hè oi ả, có một ngày thế này ai cũng thấy dễ chịu.
Tôi lại thả bộ về bờ
hồ. Khi tới ven hồ, tâm hồn tôi cũng ngây ngất với thiên nhiên. Gió hiu hiu của
buổi ban mai mùa Hè như mơn trớn da thịt mọi người. Tôi hiểu là hiện giờ cơ
quan phản gián của Hà Nội, đang đặt ra nhiều câu hỏi về tôi. Họ chỉ thấy tôi
lang thang đây đó suốt ngày, chẳng giao thiệp với ai, chẳng vào cơ quan nào, cứ
như là đi tham quan Hà Nội vậy. Để cho chủ trương của tôi sau này thêm hữu
hiệu, mắt tôi mơ màng nhìn cảnh vật, trong khi chân bước đều đều từ nhà Thủy Tạ
dọc Lê Thái Tổ xuống Trường Thi.
Khi tới một cây phượng
vỉ bên hồ, tôi thấy hai hòn đá to ngày xưa, lúc còn nhỏ, tôi vẫn thường ngồi
đấy câu tôm, bây giờ vẫn còn đấy. Tôi đứng trước hai hòn đá nhìn chăm chăm một
lúc, như thiết tha, như quyến luyến cảnh cũ, rồi cúi xuống lấy tay nhè nhẹ vuốt
sờ. Sau đó, tôi lùi ra xa mấy bước, lại đứng nhìn, như gửi gấm, hàn huyên gặp lại
cố nhân. Tôi đưa mắt từ gốc cây lên đến những bông hoa đỏ ối. Ôi! Những cánh
phượng của tuổi học trò. Tôi nhớ mãi câu thơ chẳng biết của ai:
Đây mùa phượng vĩ xa
xôi.
Đây tình niên thiếu,
tình tôi nhớ… người.
Tôi cúi xuống nhặt một
cánh phượng rơi theo gió, đưa lên mũi ngửi, rồi mở cuốn sách trìu mến, nhẹ ép
vào. Tôi biết lúc đó, ít nhất có 10 con mắt ở xa hoặc gần đang chăm chú quan
sát từng cử chỉ hành động của tôi, để về tường thuật báo cáo. Những tên ở bàn
giấy và thường ra lệnh sẽ phải điên đầu. Chả lẽ, một tên gián điệp, một sống
hai chết xâm nhập Hà Nội để nhặt cánh phượng vĩ rơi ép vào sách? Nhưng đó là
thực tế đấy!
Tôi cứ lững thững đi
dọc ven hồ, xuống Trường Thi rồi quẹo lên phía bưu điện. Hai cô gái ở chiếc ghế
đá cười với tôi, rồi một cô vời vời. Chà, tôi hiểu ngay hai cô là gái kiếm
tiền, nhưng các cô không biết tôi đang là con “vi trùng bệnh dịch hạch” hay
sao? Các cô mà mó tới tôi bây giờ, là đời các cô sẽ vào …ấp. Để tránh cho các
cô, tôi nghiêm mặt coi như không biết, đi thẳng. Các cô còn nguýt theo, tưởng
tôi mô phạm, làm cao. Đến cầu Thê Húc, tôi lên cầu, vào chùa. Lang thang ra mãi
phía các gốc si già, tôi trèo ra những gố si là là mặt trước.
Tôi nhớ lại ngày
14-7-1953 lúc trước, Pháp và quân đội quốc gia (lúc đó thuộc Liên Hiệp Pháp) tổ
chức ngày Quốc Khánh Pháp ở Hà Nội. Trên bờ, có trưng bầy một số vũ khí và 10
chiếc xe “Molotova” còn mới tinh, ở chỗ quán Mụ Béo và nhà Thủy Tạ. Họ nói đó
là chiến lợi phẩm thu được của Việt Minh. Dưới nước, ngày hôm đó Pháp chở đến
10 chiếc ca nô loại đổ bộ, chạy xé nước rầm rầm. Trong khi trên trời máy bay
biểu diễn cho lính nhảy dù xuống hồ. Chúng tôi còn nhóc, ngây ngất say sưa,
lang thang đi xem. Điều đặc biệt: Hàng trăm con rùa lớn nhỏ ở trong hồ, xưa nay
sống cuộc đời yên tĩnh. Hôm ấy, tiếng máy ca nô chạy gầm rú ầm ầm, chắc làm các
“cụ” nhức đầu, nên cứ chúi vào chỗ mấy gốc si già mọc chằng chịt dưới nước,
phía sau đền. Thỉnh thoảng ngộp quá, rùa phải thò đầu lên để thở. Con to, con
nhỏ, có con đầu to tướng, hai mép vàng khè. Chúng tôi cứ ngồi sẵn trên những
cành si sát mặt nước, chờ “cụ” nào thò đầu lên lại sờ một cái. Có lần một “cụ”
đầu mốc meo thò lên đụng ngay vào tay tôi, làm tôi giật mình, suýt ngã xuống
hồ. Suốt ngày hôm ấy, chúng tôi gọi nhau tíu tít từ phố Hàng Bạc ra, để sờ đầu…
rùa.
Tôi trở ra, vòng lại
cầu Thê Húc. Đứng trên cầu, nhìn làn nước xanh rì, từng ngọn sóng nhấp nhô, như
cau mày giận hờn, phản đối lũ cầm quyền tàn bạo, khát máu người dân.
Ngày xưa, đã hơn một
lần tôi thắc mắc, tại sao nước hồ Hoàn Kiếm lại xanh như vậy? Và tôi được trả
lời: Một số các nhà địa chất, sau khi thăm dò nghiên cứu những mẩu đất đá nhiều
nơi tại Hà Nội, đã kết luận rằng: Chếch ngang phía dưới lòng hồ là một mỏ đồng.
Nếu bây giờ khai mỏ, cả khu trung tâm, nghĩa là một nửa thành phố Hà Nội, sẽ
không còn. Vì thế, nước hồ Gươm muôn đời vẫn xanh, xanh hơn cả nước biển khơi.
Ra tới đầu cầu, tôi
nhìn khoảnh đất nằm dài hình chữ “T” giữa cầu và đền Bà Kiệu, xưa kia những ông
đồ già, ngồi lom khom viết câu đối và mấy người bày những bàn cờ thế, để thách
thức khách thập phương. Cảnh cũ còn đây, nhưng người xưa đâu thấy! Chỉ có “đôi
vợ chồng” quen mặt, tôi đã gặp ở ngỏ Hàng Giầy khi đi ăn cháo, đang ngồi như
tâm sự yêu đương trên một chiếc ghế xi măng, cạnh gốc phượng già.
Mặc chúng mày! Tôi rẽ
xuống vườn hoa Con Cóc, để chuẩn bị một địa thế thuận tiện cho ngày hẹn ước,
trao tài liệu “M”. Sau một hồi loanh quanh, tôi đã tìm được một chỗ ưng ý. Tôi
trở ra đường Đinh Tiên Hoàng, đón tầu điện đi thẳng xuống Bạch Mai. Khi tầu
điện đi qua rạp Majestic cũ, bây giờ đổi tên là rạp Tháng Tám, đang trình chiếu
cuốn phim “Cô Gái Lọ Lem” của Rumaine. Ở
Sài Gòn tôi đã xem rồi,
nhưng do Pháp diễn đọc; giờ thử coi của Rumaine xem sao? Tôi nghĩ như vậy,
nhưng vẫn ngồi trên xe điện đi thẳng xuống chợ Hôm. Đường phố đây thực bụi bặm rác
rưởi. Ngó sang rạp xi nê Hà Nội, trông lại càng tiêu điều hơn. Một vài tấm bích
chương quảng cáo treo trên tường cũ mèm, rách tả tơi, lưa thưa dăm đứa trẻ chơi
đùa ở trước cửa rạp.
Tôi rẽ vào khu chợ
trời. Ôi, thật là hỗn độn, hổ lốn, lộn tùng phèo đủ mọi loại người chen chúc.
Đây đó, thấp thoáng trong cái xô bồ của một bãi rộng, là những anh chàng cảnh
sát đồng phục mầu vàng, và những anh những chị mặc thường phục đeo băng đỏ,
xông xáo chạy lăng xăng. Thế mà chuyện cắp trộm, lừa lọc vẫn thường xuyên xảy
ra. Chỗ này, một anh cảnh sát đang lập biên bản giữ một chiếc xe đạp, của anh
phó chủ nhiệm một hợp tác xã, mua phải xe ăn cắp. Chỗ kia, mấy anh du kích đang
giong đi đám đông, một tên ăn cắp chừng 20 tuổi bị trói tay. Trong lúc chen
lấn, lợi dụng sự đẩy xô của đám đông, tôi ôm chầm vào vai của một cái “đuôi”,
làm cho anh chàng lúng túng, lủi lẹ. Khi y phải tường thuật báo cáo, chỉ huy
của chúng sẽ càng phải đau đầu với tôi.
Rời khu chợ trời, tôi
trở ra phố Huế, về rạp Tháng Tám, tôi lấy vé vào xem. Trình độ nghệ thuật Thứ
Bẩy của Rumaine còn khá hơn của Liên Xô, nhưng phần cuối của nội dung cuốn phim
có phần đổi khác. Làm sao cô bé Lọ Lem này, ở trong chuyện cổ tích xa xưa, lại
có một số lời nói và hành động cứ như là, thích chủ nghĩa Cộng Sản ấy. Xin chịu
thầy!
Tôi về Hàng Buồm ăn cơm
tối. Thấy một nhà trọ ngay cùng phố, tôi thuê một phòng giá 1 đồng 20, không về
Ngã Tư Sở nữa. Ngày hôm sau, 15 tháng 6, tôi hơi mệt, định nằm luôn nghỉ một
ngày, nhưng nghĩ đến ngày mai là ngày ước hẹn, hôm nay nằm nhà, mai đi sẽ gây
cho các “đuôi” đặt vấn đề hơn. Ngày nào cũng đi lang thang mới là chuyện bình
thường, Nghĩ thế, tôi ra đón xe điện đi Cầu Giấy, tôi lang thang đi bộ vào chùa
Láng. Cảnh chùa thật vắng lặng đìu hiu. Nơi đây những hội hè tấp nập năm xưa,
chỗ hẹn hò lôi cuốn bao nhiêu trai gái Hà Thành, bây giờ hương khói vắng tanh
thế này? Thế mà từ góc một bức tường rêu, thập thò ở gốc cây muỗm già sát bờ
ao, lấp ló trong bụi dâm bụt phía sau chùa, vẫn những bộ mặt chó chết của lũ
cộng thù. Chẳng qua vì cái thế, ta phải tạm chịu các ngươi, chứ trong lòng ta
vẫn coi thường các ngươi!
Đến đây, tôi nhớ đến
mấy câu thơ của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cháu xin phép cụ đổi vài từ
trong bài “Khôn Dại” để phù hợp với tâm tạng của cháu lúc này:
Ở đời, biết ai là dại, biết
ai là khôn?
Khôn ấy hết thời, khôn
ấy dại.
Dại mà gặp thế, dại
mà…khôn.
Đố ai biết được, ai
khôn dại.
Mới lọ là người biết
dại…khôn!
Gần trưa, tôi thả bước
về đền Voi Phục, tìm lại dư âm của buổi ấu thời. Ngay từ cổng dẫn vào chùa, hai
chú voi đá, một chú đã sứt vòi vẫn nằm đấy, vẫn rêu phong cùng tuế nguyệt. Nhìn
vào phía trong, mái chùa long lở đen xì, cạnh những tàng cổ thụ khòng khèo vì
dãi dầu với năm tháng. Xa xa về phía trái của đền, những mầu đất đỏ au đây đó,
lẫn vào mầu xanh bạt ngàn của cây lá. Đó là công viên Thủ Lệ, bởi nhà cầm quyền
Cộng Sản đang vận động, thúc đẩy hàng chục ngàn thanh niên nam nữ nội, ngoại
Thành đến công trường lao động hằng ngày, để tạo lập công viên. Trong chùa,
cũng loáng thoáng dăm ba người, có thể là những người thích thiên nhiên, hoặc
danh lam thắng cảnh của đất nước, hay có khi chỉ là người vào trú những cơn
nóng Hè.
Bình thường khi đến
thăm một ngôi đền cổ, sau khi chiêm ngưỡng những đặc cảnh của đền, tôi thường
vào thăm hỏi các vị tu hành, hoặc người trông coi ngôi đền đó. Nhưng ở đây, tôi
không được phép, vì ý thức trách nhiệm, biết sẽ gây khốn đốn, khó khăn cho các
vị sau này. Cho nên, tôi đành ra một cháng dây đa già, đang nghiêng mình nằm
sóng xoài nơi bóng mát hữu tình, như mời gọi người lữ hành mệt mỏi cơ thể, cũng
như tinh thần vì những chuân chuyên, chìm nổi của cuộc đời.
Tôi ngồi đăm chiêu suy
nghĩ đến ngày mai. Nhiệm vụ tôi xâm nhập Thủ Đô hoạt động, nơi đầu não của chế
độ Cộng Sản Việt Nam, đã thực hiện ngót ngét nửa phần. Còn tài liệu “M” nữa.
Ngày mai, tôi cầu xin anh linh của dân tộc, khí thiêng của sông núi cho tôi
hoàn thành nhiệm vụ, rồi thân xác của tôi có theo về với gió bụi, tôi cũng cam
lòng. Gọi là để đóng góp phần nhỏ bé của một thanh niên vô tên tuổi, khi quê
hương, đồng bào rên xiết lầm than, trong bàn tay đầy máu của lũ giặc cộng. Để
khỏi thẹn mặt, cúi đầu trước mặt Cha Anh và các chiến hữu, đã nằm xuống cho tự
do của mọi người. Đất nước, dân tộc đau thương, mỗi người dân Việt mỗi trách
nhiệm!
Chiều tàn, tôi lại trở
về nhà trọ Hàng Buồm, tắm rửa, ngủ nghê cho khỏe để chờ ngày mai. Sáng hôm sau,
ngày 16 tháng 6. Tôi vẫn ăn mặc quần áo như ngày hôm trước tôi đi chơi chùa
Láng: nghĩa là quần xanh, áo sơ mi trắng, đầu đội mũ xanh công nhân, chân đi
đôi dép Thái Lan quai đỏ, vai đeo túi dết. (đó là những vật hiệu quy định khi
trao tài liệu “M”).
Hôm nay, tôi phải dùng
hết khả năng nghề nghiệp, quan sát, xác định rõ bao nhiêu cái “đuôi” của tôi.
Vì thế, ngay khi tôi ra khỏi cửa nhà trọ, giữa phố Hàng Buồm đông đúc khách bộ
hành ngược xuôi, tôi đã điểm tất cả những bộ mặt, cũng như dáng người chung
quanh tôi. Từ gần tới xa, tối đa mắt của tôi, có thể nhìn thấy. Chỉ có hai
người tôi đã biết mặt, còn vài người nữa, tôi khả nghi. Tôi dẫn chúng về ngõ
Hàng Giầy, ra Tạ Hiền, xuống Hàng Bạc, sang Hàng Bồ, rẽ Hàng Quạt đến Hàng Gai
ra nhà Thủy Tạ bờ hồ. Tôi đi loanh quanh một đoạn đường ngoắt ngoéo như vậy.
Tôi mua một ổ bánh mì,
một tờ báo Quân Đội Nhân Dân, rồi tôi lững thững đến một chiếc ghế đá sát bờ
hồ, khu trước rạp xi nê Phillamonique trông ra. Ngồi tại chiếc ghế xi măng này,
tôi có thể nhìn thấy toàn bộ cầu Thê Húc, cách đó hơn 300 mét.
Lúc đó là 8 giờ kém 15
phút. Ngồi nhai ổ bánh mì, lợi dụng những động tác vươn vai, hoặc ngúc ngắc đầu
cho khỏi mỏi, tôi đã thấy đủ hai người cũ và hai người nữa tôi đã thấy mặt ở
Hàng Buồm lúc vừa ra khỏi nhà trọ. Một người rất khôn khéo đứng nấp sau tấm
biển quảng cáo phim, ở trong khung cổng rạp xi nê. Làm sao sót được mắt tôi lúc
ấy. Tôi hơi băn khoăn, mọi hôm ít nhất 5 người, sao hôm nay chỉ có 4? Hay còn
một tên nữa rất quái quỷ, nấp ở chỗ nào đó trong cái phố xá đông đúc này mà tôi
không biết? 10 phút sau, tôi lại tốn công tìm động tác giả, để quan sát một lần
nữa. Vô ích, vẫn chỉ 4 mống. Phải chăng cơ quan phản gián Hà Nội thấy hàng tuần
lễ nay, ngày nào tôi cũng đi lang thang đây đó, chẳng thấy tỏ ý định làm một
cái gì, hay giao thiệp với ai, nên chúng đã giảm người theo? Sở dĩ chúng phải
cho nhiều người theo dõi, vì nếu tôi gặp, nói chuyên với ai, số người ấy phải
chia ra để theo dõi người đó. Nếu tôi gặp hai, hay ba người trong một ngày,
chúng phải tăng cường. Dù sao, đây cũng chỉ là sự phán đoán của tôi, chưa phải
là kết luận, cho nên tôi vẫn phải cảnh giác tối đa.
8 giờ đúng, bắt đầu tôi
căng mắt rõi về phía cầu Thê Húc. Lòng tôi cũng thấy hồi hộp, xốn xang đợi chờ.
Đối tượng là ai? Già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà? Chắc chắn không phải là một
ông cha, hay ông sư đầu trọc lốc. Nếu thế, cũng phải mặc quần áo bình thường và
đội mũ che giấu đầu trọc.
8 giờ 15 rồi, vẫn chẳng
thấy gì? Quái thật, phút đợi chờ làm cho tim tôi đập nhanh hơn lúc bình thường.
8 giờ 30 phút. Tôi đã bắt đầu sốt ruột. Theo quy định thời gian trao tài liệu
“M” là từ 8 tới 10 giờ. Tôi muốn ngồi từ xa, khi nào thấy đối tượng tôi mới
đến. Như vậy có nhiều điều lợi. Tôi chủ động được vấn đề, và quan sát sự an
ninh của đối tượng, để từ đấy tùy nghi ứng biến. Tôi lại nghĩ: Hay biết đâu,
chính đối tượng cũng có ý nghĩ như tôi thì sao? Nghĩ thế, tôi đứng dậy đi dọc
theo bờ hồ, tới ngang cầu, rồi cứ theo bờ hồ đi xuống mãi, hơn 300 mét. Không
hề có một ai mặc quần áo như quy định. Người đúng cái này, lại sai cái kia hay
ngược lại.
Đã trót xuống phía đó,
tôi lại kiếm một cái ghế xi măng ngồi. Chiếc ghế này hơi bất tiện, vì bị một
cây che mất cầu. Dù vậy, thỉnh thoảng tôi hơi nghiêng người về phía trước, vẫn
thấy toàn bộ cầu. Trong lòng tôi cũng thấy thấp thỏm như chờ người yêu. Tôi có
đọc đâu đó một đoạn thơ, không nhớ rõ là của Lưu Trọng Lư hay Hồ Dzếnh:
Em cứ hẹn, nhưng em
đừng đến nhé,
Anh sẽ trách, cố nhiên
nhưng rất nhẹ! ……
Ngó trên tay thuốc lá
cháy lụi dần,
Anh sẽ nói: Gớm làm sao
nhớ thế!
Với tôi bây giờ là: Gớm
làm sao lâu thế! Và, tôi cũng đang nhìn điếu thuốc nghi ngút khói, mặt hướng về
cầu Thê Húc.
9 giờ đúng. Một nỗi
buồn ở đâu len lén vào lòng tôi. Hay đối tượng có trở ngại gì? Trục trặc gì?
Nếu vì lý do nào đó, tôi không trao được tài liệu này, lòng tôi sẽ khắc khoải
suốt cuộc đời. Bao nhiêu gian nan, nguy hiểm, sống và chết, bao nhiêu đợi chờ
mong ngóng của tôi! Bây giờ, người ơi, sao cứ biền biệt. Tuyệt vọng rồi lại hy
vọng, hay có thể đối tượng lại đang ngồi phía tôi ngồi lúc sáng! Dù thế nào,
tôi cũng không đi lại phía ấy nữa. Vì làm như vậy, những cái “đuôi” có thể nghi
tôi đang sốt ruột chờ đợi cái gì. Nếu thế, đành để ngày 18 vậy.
Tôi đang đầy vơi với
nỗi niềm nặng chĩu, thì kia rồi! Tim tôi khẽ bóp nhẹ. Đối tượng lại là một cô
gái mới chết chứ! Đúng rồi: Áo nâu, quần ka ki xám, tay cầm vở hoặc sách, và
dép…? Tôi chưa nhìn rõ vì xa gần 300 mét. Tôi vẫn ngồi yên. Đối tượng đi qua
cầu đến gần sát cổng đền Ngọc Sơn, ngừng lại, đứng tựa vào lan can cầu và đang
cúi nhìn cái gì đó ở dưới nước.
Tôi chợt nghĩ, nếu đối
tượng cũng có “đuôi” thì sao? Trường hợp này, Cục tình báo miền Nam, và cả Mỹ,
chưa nêu ra cho tôi. Tôi đặt giả thuyết: Đối tượng hiện giờ có “đuôi” nghĩa là
cũng đang bị phản gián Hà Nội theo dõi. Nếu chúng tôi gặp nhau, địch sẽ cởi
được một mắt xích. Nếu không gặp nhau, gần nhau mà không khéo để địch phát hiện
có liên quan, thì kết quả cũng như trường hợp trên.
Cách giải quyết duy
nhất: phải hết sức tinh tế, không để một cử chỉ nào, dù là một ánh mắt, cho
những cái đuôi phán đoán được hai người có liên hệ với nhau. Tôi coi như không
chú ý đến cầu, chân bước, quay gáy lại phía cầu. Mắt lơ đãng, nhìn giòng xe đạp
xuôi ngược trên đường phố. Khi ngang qua cầu, làm như không chủ định trước,
chợt thích ghé vào chơi như mọi khi. Thấy mấy em nhỏ dưới bờ hồ, chỗ chân cầu
đang câu tôm, tôi rẽ xuống đứng xem, cầm một con tôm, hỏi chuyện các em. Tôi
liếc nhanh đối tượng. Đối tượng chưa nhìn thấy tôi, vì còn cách một cái cầu dài
50 mét. Đối tượng đứng phía cổng đền, tôi đứng phía bờ.
Bây giờ, tôi nhìn rõ.
Dép râu và 3 quyển vở rõ ràng. Rõ ràng hơn nữa, cô chừng 22 tuổi, có bộ mặt trái
soan, da trắng bóc nổi rõ màu đen huyền của đôi mắt. Vô lý! Một cô gái tuổi như
thế này, lại “giao thiệp” với Sài Gòn. Nhưng, có thể cô chỉ là một mắt lưới, mà
đường dây bí mật đã phái cô đến chỗ hẹn, theo quy ước để nhận tài liệu của Sài
Gòn. Tôi đang suy nghĩ, chợt một anh chàng có dáng dấp thành thị, tiến đến đối
tượng. Tôi mở to mắt ngạc nhiên theo dõi. Qua thái độ của cô gái và thái độ anh
chàng đó, tôi hiểu là anh chàng đi chơi, thấy một cô gái đẹp, sà đến tán. Đúng
vậy, cách bỏ đi vào chùa và bộ mặt rất nghiêm, bực tức của cô gái, đã trả lời
sự phán đoán của tôi.
Tôi quan sát 4 cái đuôi
của tôi, trông rõ vị trí đứng ngồi của chúng. Yên tâm, tôi tiến lên cầu. Trên
cầu còn hai, ba đứa trẻ và một vài cậu nhơ nhỡ có vẻ học sinh vì cặp sách, một
gái, hai trai. Tới giữa cầu, tôi đứng lại nhìn xuống hồ. Chợt nhớ ra: Tôi xắn
tay áo lên vài lượt như thể nóng quá. Tay tôi vẫn cầm tờ báo “Quân Đội Nhân
Dân” gấp đôi. Tôi hơi băn khoăn, vì đối tượng đeo một túi dết mầu xám, điều này
không hề có trong quy định trước.
Rồi tôi nghĩ, cũng như
tôi, có túi dết mà không quy định. Vì còn có mật hiệu phải trả lời nữa chứ.
Nguyên tắc quy ước là gặp trên cầu. Nhưng vừa rồi vì lý do anh chàng tán gái,
nên cô đó đã phải đi vào chùa, phải linh động. Tôi cũng đi vào chùa, vừa đúng
lúc đối tượng từ phía Trấn Ba Đình, định đi vòng lại ra phía cầu.
Đối tượng thoáng thấy
tôi. Mắt đối tượng mở to, tươi hẳn lên, vừa như ngạc nhiên. Tôi làm sao biết
đối tượng đang nghĩ gì, chỉ thấy đối tượng hơi đỏ mặt và hơi lúng túng. Tôi coi
như không biết, vờ đứng chăm chú xem cái biển gỗ sơn xanh viết chữ trắng: “Đây
là di tích lịch sử đã được liệt hạng…”
Biết đối tượng đang
nhìn, hai tay tôi gấp tư tờ báo, rồi gấp 8, theo quy ước. Một phút, hai phút,
bằng ánh mắt nhìn ngang, tôi thấy đối tượng đứng xa tôi gần 15 mét, làm như vô
tình, chuyển ba quyển vở từ tay này sang tay kia. Tôi rất phấn khởi, thái độ
ấy, chứng tỏ đối tượng rất điềm tĩnh. Vậy khi nãy đối tượng hơi không được tự
nhiên là vì lý do khác. Bây giờ đã trấn tĩnh nên tỏ ra có nghiệp vụ cao. Sự
hoan nghênh và phấn chấn dậy lên trong lòng tôi. Một chiến hữu, một đồng chí có
khả năng, như vậy mới có thể là đối thủ của kẻ thù.
Tôi lững thững đi ra.
Mắt tôi liếc nhanh. Nếu “đuôi” đứng ngoài 10 mét, dù chú ý cũng khó phát hiện
cái liếc ấy. Hai “đuôi” vẫn chỗ cũ, hai “đuôi” khác đã tiến dịch vào phía cầu.
Và, bây giờ thêm một “đuôi” nữa, mà từ sớm tôi không thấy. Anh chàng có bộ mặt
vẻ học sinh trong hiệu cháo Sinh Ký, đang đứng một phần ba cầu phía ngoài. Tôi
tự hỏi “Thế từ sáng, tên này nấp đâu? Hay vừa mới tới?” Họ tưởng tôi sẽ vào
chùa chơi lâu, như mọi khi nên đang định tiến vào, thấy tôi trở ra, họ vờ vịn
lan can cúi xuống hồ nhìn nước. Thực ra, ngay lúc ấy, trong khoảng hai phút
thôi, sau khi thấy đối tượng “chuyển vở qua tay”, tôi giơ ngay tài liệu cho đối
tượng trông thấy, rồi vất ngay xuống đất, làm như đánh rơi, để đối tượng đi sau
lấy rồi cũng xong. Nhưng, tôi hơi ngập ngừng áy náy, chẳng biết đối tượng có
phản xạ kịp không, nếu không, sợ rằng lại có thể đẻ ra những tình huống khó
khăn khác, nên lại thôi.
Tôi cứ chậm chạp tiến
về vườn hoa Con Cóc, cách đấy khoảng 700 mét, sà vào một bệ đá, chỗ vòi phun
của một con cóc, nơi tôi đã có chủ ý từ hôm qua. Chỗ này có một số đá lổn nhổn,
lẫn cỏ với lá khô. Tài liệu của tôi mầu nâu, đồng mầu với lá khô. Hơn nữa, ở
đấy có một bụi cây rậm, có rễ mọc nổi, thuận tiện chỗ để. Thò tay vào sờ thì
thấy, còn nhìn bên ngoài sẽ không thấy, mà bụi cây lại che được một góc chết.
Tôi ngồi thong thả mở
báo ra đọc, liếc nhanh các đuôi, rồi lựa thế che dưới tờ báo rộng, tôi để tài
liệu. Xong, tôi tiếp tục đọc báo. 10 phút sau tôi ngửng lên, vặn người. Tôi đã
thấy đối tượng ngồi cách xa tôi 150 mét trên một ghế đá, cùng với một bà đang
cầm cái chổi dài, có lẽ là người dọn vườn hoa. Đối tượng thỉnh thoảng lại nhìn
tôi. Tôi vẫn vờ xem báo, hết lật trang này lại giở trang kia. Vừa lúc đối tượng
nhìn, tôi gãi khuỷu tay phía để tài liệu, một ngón tay cong cong chỉ thẳng vào
chỗ tôi đã bỏ tài liệu “M”. Tôi đưa ánh mắt như chăm chú nhìn một cành cây gần
tôi, hơi chéo nơi đối tượng ngồi. Quả thực đối tượng là người điềm tĩnh, không
báo cho tôi biết ngay mà mãi ba, bốn phút sau, mặt nhìn hơi khác và giơ tay lên
gãi đầu. Lúc này, các “đuôi” có mắt cũng như mù, làm sao đoán được hai hành
động rời rạc ấy lại ăn khớp với nhau, trừ phi đã biết trước.
Lúc này, lòng tôi thật
khó diễn tả. Vừa nhẹ nhàng lâng lâng, trang trải món nợ quê hương, vừa bâng
khuâng lưu luyến một cái gì, như gần gũi mà lại thật xa xôi; vừa tái tê với
cuộc đời đã nằm trên thớt của kẻ thù, mịt mù sống chết lúc nào không hay.
Tôi đứng lên, chân
không muốn bước mà vẫn phải đi, ngập ngừng giã biệt. Chẳng biết đối tượng có
hiểu những nỗi niềm đầy vơi, trong lòng tôi lúc này không? Tôi đang ngày đêm
nằm trong nước sôi lửa bỏng. Chợt một ý nghĩ, nếu tôi không có “đuôi” lúc này
thì sao? Đời tôi đã chả từng cay ghét chữ “nếu” rồi sao?
Tôi đi mãi, ghé ra bờ
hồ, để tôi có thể nhìn chéo 40 độ về phía đối tượng cách rất xa tôi chừng hơn
nửa cây số. Tôi chỉ còn thấy bóng dáng (không thể nhìn rõ mặt) đối tượng vẫn
ngồi yên chỗ cũ. Tôi vừa thẫn thờ đi từ đó tới đây, cũng phải mất hơn 10 phút,
vậy đối tượng đến lấy tài liệu chưa? Theo phán đoán của tôi thì chưa. Chỉ qua
hai lần tiếp xúc bằng ánh mắt và cử chỉ, tôi đã thấy đối tượng tỏ ra là người
trầm tỉnh. Hơn nữa, không bao giờ đối tượng đến lấy rồi lại ngây thơ trở về chỗ
cũ ngồi. Vậy thì chưa đâu! Tôi yên tâm, đưa mắt lơ đãng đuổi theo những tảng
mây trắng nõn, như những búi bông khổng lồ, đang chầm chậm bò trên nền trời
xanh thẫm, về miền Nam xa xôi. Mãi 15 phút sau, bóng dáng của đối tượng mới từ
từ tiến đến chỗ tôi ngồi khi nãy, làm như bâng khuâng nhìn vòi nước phun tung
tóe từ miệng con cóc bằng xi măng, rồi ra vẻ như mệt, đối tượng ngồi xuống.
Tôi vẫn quay mặt ở một
góc 40 độ với đối tượng, mục đích khi đôi tượng đứng lên đi, tôi quan sát theo
dõi xem đối tượng có “đuôi” hay không? Sao mà ngồi lâu thế! Tôi vừa trách, lại
vừa không muốn đối tượng đi, thật là mâu thuẫn. Đối tượng đi là vĩnh biệt rồi.
Chẳng hiểu trong lòng
đối tượng nghĩ gì mà ngồi mãi không đi, lâu lâu lại nhìn phía tôi. Phải chăng
tâm trạng của đối tượng cũng như tôi?
Do những điều kiện khắt
khe tôi đang nằm trong lưới của kẻ thù, nên khi nhìn đối tượng, một ý nghĩ lởn
vởn trong óc tôi, ước gì tôi có thể lên tiếng cùng đối tượng một vài lời nhỉ?
Gần 20 ngày qua, tôi đã buộc kín lòng mình, đến trở thành cô độc, lẻ loi trên
mảnh đất thân yêu này Chỉ còn có người, một chiến hữu, một đồng chí, tuy ngồi
ngay trước mặt, cùng thở hít chung nhau một bầu không khí, cùng bâng khuâng đầy
vơi ngắm chung một cảnh hồ, mà người ơi, xa vời vợi! Rồi đây, tuy chúng ta cùng
chung một lý tưởng nhưng hai đường đời. Xin cầu chúc cho người gặp nhiều thuận
tiện, may mắn, đạt những thành quả vẻ vang trên đường đi của dân tộc. Thôi, tôi
xin cúi đầu biết ơn đối tượng. Thế lả đủ cho kẻ bất hạnh này ghi nhớ mãi mãi,
trong những ngày gian khổ tới đây.
Mãi gần 12 giờ trưa,
mặt trời chói chang đã đốt khô cảnh vật, tôi mới thấy đối tượng đứng lên, không
quên nhìn về phía hồ một lần nữa và chẳng hiểu sao, đối tượng quay lưng lại vừa
đi vừa gãi đầu, nghĩa là khoảng cách giữa đối tượng và tôi dần dần xa vời vợi.
Đối tượng không có
“đuôi”, tôi cũng mừng. Chỉ có số phận hẩm hiu của tôi là có “đuôi”, mà những 5,
6 cái.
Trời Hạ lúc này trong
xanh, chỉ còn một vài vẩn mây, không gian, cảnh vật bừng sáng lung linh. Tôi
nhìn thẳng ra Tháp Rùa đứng chơ vơ như hòn non bộ, chiếc bóng nghiêng nghiêng
lung linh dưới nước như nhún nhẩy reo vui mừng rỡ. Hai con rùa chẳng biết bò
lên chân tháp tự bao giờ đang nằm ấp lên nhau phơi nắng, như hai cái nồi ba
mươi đen xì. Những chùm phượng vĩ đỏ ối tràn lan chung quanh hồ, đang sói bóng
trên mặt nước, nổi bật lên giữa cái xanh ngắt của bầu trời và màu xanh của lá
cây tạo thành một bức tranh sơn mầu rực rỡ. Một trận gió Nồm Nam thổi dọc từ
phía “Gô Đa” về. Những chiếc lá me đong đưa đẩy như trăm ngàn bàn tay nhỏ tí
đang vỗ, gây lên những tiếng xào xạc lẫn vào tiếng ve kêu vang vang như hồi kèn
thắng trận. Thoang thoảng đâu đây mùi nồng nồng ngan ngát của nước hồ tù, mùi
dìu dịu ngây ngây của những chùm phượng, mùi ngòn ngọt man mát của mấy bông
hồng trong vườn hoa phía bên kia đường, tất cả quyện vào nhau thành một thứ
hương ngây ngất hồn người.
Tôi đứng dậy, lòng nhẹ
lâng lâng, tinh thần sảng khoái. Hôm nay hơi đặc biệt, tôi tự thưởng công 3
đồng, đi thẳng lên ngõ Hàng Giầy chén một bữa nem cua rán.
22.
Lẩn Tránh…
Lúc ngồi chờ bà hàng đang cắt những chiếc nem cua vàng ngậy
thơm phức, tôi dật dờ nghĩ đến linh mục A. Chắc từ bữa ấy, người đang chờ, mà
tôi mãi biệt tăm. Nếu người hiểu rằng, tôi mà không bén nhậy thì đã đưa người
vào chỗ chết rồi. Tôi suy nghĩ, cân nhắc các tình huống xem có thể có điều kiện
nào trở lại với người. Với tình trạng bao vây bám sát của địch dày như thế này,
không thể được! Không nhìn rõ vấn đề, mơ hồ lao vào, thật là sai lầm, đôi khi
lại trở thành người gây tội ác nữa.
Đêm ấy, tôi trở lại nhà
trọ Hàng Buồm. Đêm nằm suy nghĩ miên man đến cảnh giao tài liệu lúc sáng. Riêng
về điểm này, Sài Gòn đã dự trù được trước các tình huống, thật đáng ca ngợi.
Nếu không như vậy, không có cách nào tôi trao được tài liệu “M”, khi tôi bị 5,
6 cái “đuôi” bám sát.
Thật cũng may, ngay khi
tới Hà Nội, tôi đã trao được tài liệu X cho Z-5, lúc địch chưa phát hiện. Chứ
bây giờ, làm sao có thể thực hiện được. Giòng suy nghĩ của tôi cứ chảy hoài:
Làm sao bây giờ cắt được “đuôi” đây?
Tôi nhớ lại những lần
thực tập ở Sài Gòn, Biên Hòa, Mỹ Tho, bao nhiêu cái “đuôi” tôi đều phát hiện
hết, và cuối cùng tôi cũng đều cho họ vào xiếc, rồi đột nhiên tôi biến mất.
Nhiều lần Brown, Dale, và Phan đã bắt tay ca ngợi tôi. Lúc đó, sở dĩ tôi thi
thố được khả năng là do: phương tiện lưu thông của đường phố; nhiều nơi tụ họp
ăn chơi đông đúc; còn người dân thì chuyện ai nấy lo, họ không cần quan tâm đến
việc của người khác. Nhưng ở Hà Nội lúc này, tình huống hoàn toàn ngược lại với
3 yếu tố trên.
Muốn cắt “đuôi” bất ngờ
thì phải: Lợi dụng xe cộ ngược xuôi đông đúc, nhảy xe này, xuống xe kia, sang
xe khác, trong khi đó, đường phố Hà Nội lại toàn là xe đạp, nhảy đâu? Chạy đâu?
Những nơi đông đúc tụ hội ăn chơi, có nhiều ngõ trước đường sau, cửa ngang, cửa
dọc, xe cộ qua lại nhiều, có chỗ che nấp. Vừa đấy đã biến lên xe chạy chỗ khác
rồi; trong khi ở Hà Nội thời ấy làm gì có cảnh đó.
Về người dân, đa số dân
người Bắc nói chung, và Hà Nội nói riêng, hãy còn mơ hồ về “chiếc bánh vẽ thơm
ngon” mà Cộng Sản hứa hẹn, nên còn cuồng tín, quá khích, nghĩa là còn đang bị
Cộng Sản bịp, chưa sáng. Ngoài ra, mọi lứa tuổi, mọi loại người đều phải ở trong
đoàn thể. Không hội này thì cũng đoàn thể khác. Nếu ai đó, không ở trong đoàn
thể nào, là người ngoài vòng pháp luật như ăn trộm, ăn cắp lưu manh… hay như
tôi. Nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, phụ nữ, phụ lão, v.v… đều phải đi họp
đoàn thể. Thêm nữa, do chiến dịch “Phòng gian, phòng gián, bảo mật” đang được
chính quyền thúc đẩy mạnh tối đa. Bất cứ một đoàn thể nào, ngoài công việc
riêng của đoàn thể đó ra, đều được giáo dục, chỉ thị như là một ý thức tự giác.
Mỗi khi thấy một người lạ ở khu vực mình, phải có trách nhiệm trình báo kịp
thời. Thấy một người hỏi thăm đường, hỏi thăm nhà, một hiện tượng không bình
thường… Phải đến báo ngay cho nhân viên chính quyền, ở gần nhất trong khu phố.
Cho nên, phần vì để khỏi trách nhiệm sau này, phần khác, vì hãy còn mơ hồ tưởng
Cộng Sản là chính nghĩa, sẽ đem lại hạnh phúc cho mọi người. Tưởng rồi đây cuộc
đời của họ sẽ được hưởng cái “thiên đường hạ giới” do Cộng Sản hứa hẹn (lúc ấy,
họ đã đâu nhìn thấy “nó” chỉ là… cái bánh vẽ). Đa số người dân, nếu công an hỏi,
là họ chỉ ngay, đôi khi chính họ còn tự động theo dỏi mình nữa. Cụ thể như lão
già ở xã Kỳ Phương, Kỳ Anh. (Tình trạng trên là từ 1965 trở về trước, chứ từ
1965 trở về sau, diễn tiến khác đi nhiều. Xin trình bày ở một đoạn khác). Vì
thế, hoàn cảnh của tôi lúc đó, dù phát hiện được hết địch, cũng không chạy được
đâu thoát.
Phải nghiêm khắc, thành
khẩn mà nói, yếu tố cơ bản vẫn chính là tôi chưa hiểu đủ sự tàn bạo, độc hiểm
của Cộng Sản. Cộng với tính cơ hữu của người lính chiến của thế giới tự do là
ngại khó, ngại khổ (chịu khó khăn, gian khổ một thời gian nào đó thì được, chứ
trường kỳ ai cũng ngại).
Điểm trên là điểm sai
lầm trầm trọng đầu tiên tôi mắc phải. Lúc đó, tôi suy nghĩ, có thể vì ở Hà Nội
công an ngầm như rươi, chúng có bổn phận theo dõi mọi người lạ vào thành phố.
Vậy, ta thử làm một chuyến đi xa xem sao, vừa đo lường sự phản ứng của phản
gián Hà Nội. Đồng thời, nếu có thời cơ, cắt “đuôi” trốn lánh. Tính như vậy rồi,
tôi đi vào giấc ngủ và ngày mai sẽ đi Vinh.
Sáng hôm sau, tôi dậy
sớm lúc 5 giờ, ra đón xe điện, xuống bến Kim Liên. Cho tới khi đến bến xe đò,
tôi chỉ phát hiện được 4 cái “đuôi”, hai cái trên xe điện, một đi “mô bi lét”
và một đạp xích lô. Nhưng, chừng 15 phút sau, ở bến xe lại có thêm hai cái đuôi
nữa, hai người này tôi đã biết mặt.
Tôi nhìn phía quầy bán
vé đi Vinh, khách đang xếp hàng dài trên 30 người. Tôi đếm thầm, đến lượt mình
lấy vé khéo phải 10, 11 giờ. Mỗi người lấy vé rất lâu, phải ghi tên tuổi, nộp
giấy thông hành, rồi còn bị cật vấn nữa, tùy theo trường hợp.
Tôi cũng đành đứng vào
xếp hàng. Lưng chừng tôi mới hiểu, đây là xếp hàng đăng ký lấy vé cho ngày mai.
Muốn đi Vinh, phải đến xếp hàng đăng ký trước một ngày. Tôi thấy thật nản! Giữa
lúc đanh lửng lơ suy tính, một anh mặc áo bộ đội, cụt một chân chống hai cái
nạng, rao bán lại một vé. Thời gian này, đa số dân chúng miền Bắc mặc quần áo
bộ đội, Bởi vì, nếu họ không là cán bộ, thì họ cũng là công nhân ở công ty, xí
nghiệp, nhà máy v.v… hoặc là bộ đội phục viên. Chỉ khác bộ đội là không đeo
quân hiệu, quân hàm.
Anh ta đến gần chỗ tôi
nói to:
- Tôi còn thừa một vé
đi Vinh, của người em bị sốt nặng không đi được hôm nay. Ai đi tôi để lại?
Tôi vẫn đứng yên. Có
thể số người đang xếp hàng, đã dự trù công việc cho ngày mai mới đi, nên không
thấy ai đến hỏi. Riêng tôi, tôi đặt vấn đề ngay, chắc chắn phản gián Hà Nội đã
tạo điều kiện cho tôi đi kịp những ngày giờ tôi muốn, để chúng dễ dàng theo dõi
tìm manh mối. Thí dụ: chúng nghĩ hôm nay tôi cần gặp ai ở một điểm “X” nào đó,
nhưng vì nhỡ xe, tàu, tôi sai hẹn không đến được, hư công việc của tôi, mà
chúng cũng không biết tôi làm gì. Tôi hiểu thế, nhưng không sao, tao đã biết
mày rồi mà! Tôi tiến đến chỗ anh cụt chân. Cùng lúc ấy, một người cũng tách
khỏi hàng đi đến mua chiếc vé ấy. Anh cụt chân chỉ tôi, nói:
- Anh này đã đến trước,
vậy tôi để cho anh này.
Tôi biết, dù có đến
sau, tôi cũng vẫn mua được chiếc vé đó. Lúc ấy, một chiếc xe đò chạy đến, anh
“lơ” và tài xế mở cửa nói:
- Đồng bào đi Vinh lên
xe!
Hơn 30 hành khách gồng
gánh, mo, bị… lục tục kéo nhau chen chúc lên xe. Anh cụt cũng đi và vẫy tôi
cùng lên xe. Thì tôi cứ đi lên! Ngay trong số hành khách này, không kể anh cụt
chân, tôi còn nhận ra hai người nữa đã quen mặt từ trước, một ngồi sau tôi, và
một phía trước. Hành khách lên hết, xe bắt đầu chạy ra đường phố, cũng là Quốc
Lộ 1.
Ra đường, xe bị cảnh
sát ngoắc tay bắt ngừng. Cảnh sát xem giấy tờ ở chỗ tài xế, rồi điểm người xem
có đúng với số vé đã bán, v.v… Tên cảnh sát cũng hạch hỏi tài xế lôi thôi. Tôi
hiểu rằng, chẳng qua tôi đi hơi đột xuất, phản gián Hà Nội chưa chuẩn bị kịp
phương tiện, nên cố ý bắt xe ngừng chờ mà thôi. Hành khách, biết gì đâu. Một bà
ngồi cạnh tôi, sốt ruột nói:
- Hỏi cái gì mà hỏi lâu
thế, không để xe đi cho rồi…
Nhưng bà chỉ dám nói
nhỏ, cảnh sát không nghe thấy. Chừng 20 phút sau, cảnh sát mới cho xe chạy. Xe
chạy tới vườn hoa “Thống Nhất” thì ngừng lại. Một anh “lơ” xách một chiếc thùng
chạy qua đường vào vườn hoa, chắc là lấy nước để đổ vào xe.
Đúng thế, chừng 5 phút
sau, anh xách thùng nước đến đầu xe, anh tài xế đã mở “cốp” để đổ nước. Anh
“lơ” lại chạy trở lại vườn hoa. Tôi thoáng nhìn trong vườn hoa, chỗ bụi găng,
qua một khe hở lá cành, là bộ mặt anh đi “Mô bi lét”. Anh rút ra một cuốn sổ
nhỏ và hý hoáy ghi, thỉnh thoảng nhìn ra đít xe, chỗ bảng số. Anh cụt ngồi cạnh
tôi giả vờ lơ đãng nhìn đâu, nhưng tôi hiểu là anh cũng chẳng bỏ sót một cử chỉ
nào của tôi. Lại còn anh chàng ngồi băng sau nữa. Tôi muốn nhìn lại phía sau.
Để cho có vẻ tự nhiên, tôi vờ chú ý đến một chiếc xe hàng từ trước mặt đang
chạy lại, và tôi nhìn theo.
Phía sau, xa chừng 200
mét, một chiếc Commanca cùng với số xe đã theo tôi vào Hà Đông, HN5037, đang
đậu sát mé hè, sau hai chiếc xích lô.
Chẳng hiểu sao, xe đã
đổ nước rồi, mà vẫn chưa chạy. Chẳng lẽ tài xế cũng là phản gián? Chúng có máy
điện đàm hay sao mà lạ thế? Hình như tụi phản gián chưa chuẩn bị kịp. Tôi thắc
mắc nên để ý. À, tôi liếc mãi phía trong vườn hoa, tên đi “Mô bi lét” và tên
“lơ” xe đang nói gì với nhau. Như vậy, rất có thể tên “lơ” là một loại công an
mật (cả hình sự, kinh tế và chính trị) đi xe đò đường trường.
Đổ nước quái gì đến 20
phút. Nhiều hành khách la ó nhưng anh tài vẫn không trả lời. Tụi phản gián còn
chờ gì nữa chứ? Sau cùng, tên “lơ” cũng ra và xe chuyển bánh.
Khi xe gần đến Phủ Lý,
chiếc xe mang số HN5037 vượt lên trước. Khi xe đó đi ngang qua, tôi thoáng thấy
bên trong có 4 tên. Toàn những khuôn mặt lầm lỳ và lạ, có tên đến 40 tuổi. Tôi
giả vờ nhìn cánh đồng lúa đang gặt bên đường. Khi xe đò chạy qua, tôi còn cố
ngoái lại xem, nhưng thực ra là để nhìn lại phía sau xe. Xa xa chừng hơn 300
mét là một chiếc xe đen kiểu Citroen mà tôi đã nghi. Xe hàng ngừng lại ở thị xã
Phủ Lý để đón thêm mấy bà khách nữa, tôi để ý nhìn thấy “chú” HN5037 đậu mãi
tít trong phố quay đầu ra. Chiếc xe đen vượt qua. Trong xe cũng 4 người kể cả
tài xế, có cả tên đeo kính râm, đội mũ cát két. Hôm nay, y đội mũ và mang kính
giống như buổi ban đầu tôi gặp y ở nhà thờ X.
Chà, lực lượng hùng hậu
quá nhỉ! Tổng cộng 11 tên: 3 trên xe đò, 8 ở hai xe con. Còn nữa không? Chắc
hôm nay chúng nghĩ tôi tới điểm hẹn để được đón về Nam, nên chúng phải huy động
nhiều thế để mong vồ cả mẻ.
Khi xe tới Quất (Ninh
Bình), hành khách phải xuống xe đi bộ qua cầu. Một dẫy gần 20 chiếc xe chực chờ
để qua cầu. Tôi nghi ngờ một chiếc xe Commanca nữa, vì thoáng thấy một tên
trong xe Citroen nói chuyện với người của chiếc xe đó.
Qua núi Cánh Diều, Ninh
Bình rồi vào Thanh Hóa, xe đò ngừng. Trên xe, tôi cứ vờ limdim ngủ gà, ngủ gật.
Có lúc tôi nghe một hai câu trao đổi của những người ngồi bên cạnh, thì ra tên
cụt cũng đi Vinh.
Đến thị xã Thanh Hóa,
xe đò ngừng. Khách lên, khách xuống gần nửa tiếng đồng hồ mới xong. Khi xe ra
khỏi thị xã Thanh Hóa, chiếc xe đen vượt qua. Tôi tính thầm, xe đò chạy khoảng
10 cây số nữa thì tới lượt chiếc xe HN5037. Sau đó, tôi lại thấy chiếc Commanca
thứ 3 ở Quất với số HN (tôi quên số rồi) chạy sau xe tôi một lúc rồi cũng vượt
lên trước. Trên xe này có 3 người kể cả tài xế, có một người, tôi thật khó quên
được. Khoảng 50 tuổi, tóc đã điểm sương, đeo kính trắng, phong thái chỉ huy.
Có thể vì xe hàng chạy
chậm, hoặc thấy tôi từ trước không hề tỏ một ý gì, là nghi ngờ bị theo dõi. Hơn
nữa, chúng tin vào còn 3 người của chúng trên xe đò, cho nên cả 3 xe nhỏ đã
vượt lên trước.
Một kế hoạch chợt lóe
lên trong óc tôi. Xe đang chạy trên con đường dài, hai bên toàn ruộng lúa,
thỉnh thoảng có một con đường dẫn vào làng xóm xa xa hai bên đường. Bây giờ,
nếu bất chợt tôi kêu tài xế ngừng xe cho tôi xuống đây. Không thể vì lý do gì
cả 3 tên trên xe cùng xuống (như thế lộ liễu quá). Chúng phải theo xe đi cả
chục cây số nữa mới gặp mấy chiếc xe con kia để báo cáo. Hoặc chúng cũng xuống,
nhưng phải đi một đoạn nữa mới bảo tài xế ngừng, để tôi khỏi nghi. Còn tụi xe
nhỏ phải chờ xe đò chạy tới báo cáo mới biết là tôi đã xuống rồi, lúc đó chúng
mới quay xe lại.
Như vậy, tôi có ít nhất
20 phút hoặc hơn để thoát thân. Tôi chỉ việc, nếu tôi định ra phía trái là bờ
biển, thì khi xuống xe vờ đi rẽ về phía phải; vì chắc chắn 3 tên trên xe sẽ
nhìn theo. Đợi khi xe đò chạy đủ xa, để không thể nhìn lại thấy. Lúc đó, với
khả năng nhanh nhẹn tối đa, tôi phải bò qua đường, sang phía trái, rồi vắt giò
lên cổ mà lủi. Ngược lại, nếu tôi định vào phía núi để chuồn sang Lào, tôi cũng
phải làm như vậy để đánh lạc hướng tụi phản gián. Làm cho chúng hiểu lầm, là
tôi ra điểm hẹn đón ở phía biển bằng thuyền.
Tính trong đầu óc như
vậy, nhưng tôi đã không thực hiện. Như tôi đã trình bầy ở trên, vì chưa hiểu đủ
sự tàn ác, thâm hiểm của Cộng Sản. Tôi cứ nghĩ rằng, dù chúng có bắt được tôi,
nhưng tôi đã làm gì đâu, toàn lang thang đi chơi. Hơn nữa, nếu tôi nói là chán
chường cuộc sống, vì bị cái thế phải đi, lại nhớ Hà Nội, nên khi ra tới nơi,
chỉ đi chơi chứ không hoạt động gì cả… chắc chúng cũng phải tin thôi. Vả lại,
người của chúng đã hàng ngày thường xuyên theo dõi, thấy thực tế là như vậy,
thì cùng lắm chúng giam giữ 2, 3 năm rồi cũng tha!…
Thêm nữa, tính hãy còn
ngại khó, ngại khổ. Trốn như kế hoạch trên, có thể thoát, có thể bị bắt ở biên
giới Lào-Việt, hoặc ở Lào… Điều chắc chắn là rất gian khổ, chui rúc bờ bụi, đói
khát… Chính vì những ý nghĩ sai lầm đó, nên đã tính trong đầu rồi, tôi lại
không thực hiện. Đó là điều đã làm cho tôi ân hận giầy vò, cấu xé lòng tôi cho
tới bây giờ. Nếu lúc đó, hiểu đủ về Cộng Sản, dù vào tới rừng rú đói khát mà
chết, tôi vẫn cương quyết xuống xe lúc ấy, để thực hiện kế hoạch.
Đây là một lời nói rất
trung thực. Tôi sẽ minh chứng bằng thực tế sau này.
Xe vào tới thị xã Vinh,
trời đã 5 giờ chiều. Tôi xuống xe, vào hiệu cơm quốc doanh đánh một bữa. Thị xã
Vinh rất ít xe, vì thế, 3 chiếc xe theo tôi càng phải lộ mặt ra nhiều lần cho tôi
thấy. Như vậy, lực lượng của phản gián Hà Nội vào đây tất cả 14 mạng, với 3
chiếc xe: 2 Commanca và một chiếc Citroen 15 mã lực đã cũ.
Đang rẽ vào con đường
đến nhà trọ, tôi thoáng thấy anh Trí và một chị bế đứa nhỏ, tôi đoán là vợ con
anh. Tôi vờ làm mặt xa lạ và định rẽ sang một phố khác. Nhưng, không kịp nữa
rồi, anh đã trông thấy tôi. Anh chạy theo đập vào vai tôi:
- Hùng đấy à! Đi Hà Nội
đã về đấy ư. Đi đâu bây giờ đấy?
Anh cứ rối rít vồn vã,
trong khi lòng tôi bấn lên, không biết xử trí làm sao. Tôi rất lúng túng, tôi
hiểu là vì chuyện này, anh Trí sẽ gặp nguy hiểm về sau. Nhưng trong hoàn cảnh
đó, tôi đành để rồi tùy cơ thích nghi cho anh sau này. Nghĩ vậy, tôi cười và
nói to (để cho tụi phản gián cũng nghe thấy), trong khi chị bế con cũng đã đến
gần. Trí giới thiệu: “Đây là vợ tôi”, rồi Trí tiếp:
- Hôm đó, khi về đến
nhà, tôi cũng đã nói chuyện với bố mẹ và vợ tôi về Hùng. Bây giờ về nhà tôi ngủ
nhé! Tôi sẽ giới thiệu Hùng với bố mẹ tôi. Ông bà cũng muốn gặp Hùng!
Tôi cưới lớn:
- Thế hai anh chị định
đi đâu đây?
Trí giơ cái túi có hai
quả bí ngô và cái lốp xe đạp đang đeo ở vai, nói:
- Đi mua mấy thứ này
đây! Tiện thể vợ tôi cũng đi chơi.
Trí hỏi tôi ăn uống gì
chưa, tôi chỉ vào quán cơm trả lời:
- Mình vừa đánh căng
bụng ra đây!
Trên đường về nhà Trí,
tôi ghé mua mấy gió lạc và túi kẹo cho con Trí.
Sau khi sang qua phà
Bến Thủy, đến một ngôi nhà nhỏ ở bên đường Quốc lộ. Lần trước trong chuyến xe
từ Hà Tĩnh ra, tôi đã thấy Trí ngồi trong ấy. Trí mở chiếc khóa nhỏ, kéo tấm
liếp vuông che cửa, mời tôi vào. Trong nhà đã mờ tối, Trí tìm đèn đốt lên. Ngọn
đèn đầy bụi đất, thật tù mù. Tôi thấy cảnh nhà Trí thật nghèo nàn, túng quẫn:
Một chiếc phản gỗ thứt thẹo, hai, ba sợi xích xe đạp cũ rích. Một cái khung xe
gẫy, vài cái bàn đạp vất lỏng chỏng. Một cái tủ nhỏ tí, đen đũi, cóc gặm; chắc
là đựng dụng cụ sửa xe đạp của anh.
Anh lấy chổi quét cái
phản rác rưởi, rồi vào buồng lấy ra một manh chiếu đã rách ở giữa, trải lên:
- Đêm nay, anh em mình
sẽ nằm đây, hút thuốc lá, nói chuyện.
Thấy nhà thấp lè tè và
tối mù, tôi kéo tay Trí:
- Còn sáng, mình ra
ngoài nói chuyện đi, tí nữa hãy vào.
Chị Trí khi nãy đã chào
tôi để vào nhà bố mẹ, Trí dặn với theo:
- Mình về, chốc nữa anh
không vào nữa đâu!
Trí quay lại hỏi tôi:
- Trong đó là nhà bố mẹ
và vợ mình ở. Đêm nào, tôi cũng phải ngủ ngoài này. Cách đây hơn một tháng,
mình bị nó cậy cửa, vào lấy hết các đồ chữa xe đạp.
Tôi băn khoăn hỏi:
- Mất nhiều không?
- Gần một trăm đồng.
Tôi nhìn Trí ái ngại,
nhà đã nghèo, lại còn bị mất trộm. Tôi đưa giấy thông hành cho Trí trình công
an để tôi ngủ lại đêm. Trí gạt tay tôi ra, bảo:
- Chả cần, ông phó chủ
tịch xã ở cạnh nhà mình trong ấy, mình rất quen, không sao đâu!
Tôi không muốn gây
phiền cho Trí sau này, nên gằn giọng:
- Trí cứ nghe tôi, đi
trình giấy cho tôi.
Trí đồng ý và cầm giấy
đi vào xóm. Tôi trở vào trong nhà. Trời đã tối, đường không có đèn điện, nên
cảnh vật bên ngoài tối mò. Tôi hiểu là sẽ có nhiều người nhòm ngó, canh gác tôi
đêm nay. Nhưng tôi cũng chẳng cần để ý làm gì, tôi có định làm gì đâu. Điều làm
tôi suy nghĩ băn khoăn nhiều là Trí. Bây giờ đã trót thế này, chỉ còn một cách
là sau này nếu tôi bị bắt, tôi phải khai báo tỉ mỉ thực tế gặp Trí thế nào, từ
Kỳ Anh ra. Mặt khác, ngày mai, tôi cứ phải vào thăm bố mẹ Trí thì phản gián Hà
Nội mới không nghi Trí. Một lúc sau, Trí trở về:
- Ngày mai, Hùng sẽ vào
nhà bố mẹ, mình sẽ giới thiệu, bây giờ tối rồi.
Nhà rất nhiều muỗi. Trí
đem cái màn mầu đen sì, rách mướp ra mắc. Hai người chui vào màn nằm hút thuốc
nói chuyện. Chừng một lúc, buồn ngủ quá, tôi ngủ luôn.
Đêm đó, có lúc giật
mình tỉnh giấc, tôi nghe tiếng xe cộ quần đi, quần lại nhiều lần, đèn pha loang
loáng. Trí cũng lấy làm lạ:
- Không hiểu sao đêm
nay, xe cộ đi lại nhiều thế!
Tôi lên tiếng:
- Mọi khi có như vậy
không?
Trí trả lời, giọng ngái
ngủ:
- Ban đêm, ở đây thường
không có xe chạy nhiều thế.
Tôi suy đoán: Có thể
phản gián Hà Nội cho rằng đêm nay, thuyền hoặc tầu sẽ đến đón tôi (ở đây cũng
gần cửa biển), cho nên, để phòng hờ những bất ngờ, họ phải báo cáo cho cả Hải
Quân và du kích địa phương ở khu Bến Thủy. Mặc họ, tôi không có ý định gì ở đây
cả. Ngày mai, tôi sẽ trở về Hà Nội.
Sáng hôm sau, Trí dẫn
tôi vào nhà bố mẹ. Chúng tôi len lỏi qua những đường mòn trong xóm vào tới nhà.
Một căn nhà 3 gian trống tuếch toác, chỉ có một gian được che bằng những tấm
liếp để làm căn buồng, mái tranh lòa xòa, chỗ dài, chỗ ngắn xác xơ.
Tôi thấy bố mẹ Trí đã
già khoảng 50 tuổi rồi. Ông cụ đang ngồi vá lưới ở sân. Bà cụ trông rất hiền
hậu, vẻ quê mùa, đang quét sân. Qua một số câu chuyện, tôi được biết, hai ông
bà khi còn ở Thái Lan sống rất dư giả, tuy cũng làm nghề đánh cá, nhưng có
chiếc thuyền to chạy máy. Nghe Cộng Sản tuyên truyền nước nhà độc lập, nhân dân
hạnh phúc ấm no… ông bà bùi tai, hồi hương. Ông bà đã được xem những cuốn phim
chiếu cảnh sinh hoạt của người dân ở quê nhà, chỗ nào cũng thấy nụ cười và
tiếng hát. Hơn nữa trước đây, khi các đồng chí lãnh đạo đảng và nhà nước, lúc
bấy giờ còn hoạt động bí mật ở Thái Lan, chính ông bà cũng đã đóng góp nhiều
tiền giúp đỡ. Người dân Việt xa quê hương lâu ngày, ai chả nặng lòng với nơi
chôn nhau, cắt rốn. Vả lại, rất nhiều người đã bán nhà, đồ đạc về nước rồi viết
thư sang đều nói tốt đẹp, cho nên cứ người này theo người kia về với Tổ Quốc
thân yêu!
Ông bà bán nhà và các
thứ, cộng với số tiền đã dành dụm được hơn chục lạng vàng. Khi về tới Hải
Phòng, cờ quạt trống chiêng, tưng bừng đón rước. Hơn 400 kiều bào trên chuyến
tầu đó được mời đến một khu nhà đón tiếp căng đầy biểu ngữ “Hoan hô những người
con yêu, đã trở về với đất mẹ”. Sau đó, gọi là để học tập đường lối chính sách
của nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngõ hầu hội nhập ngay với cuộc sống mới, khỏi bỡ
ngỡ buổi ban đầu.
Trong việc học tập, có
cả việc phải khai báo đăng ký số vàng và tiền mang theo. Đang hồ hởi yêu nước,
yêu quê hương về với cách mạng, ai ai cũng nhiệt tình đăng ký với sự hân hoan
chân thành. Đăng ký, đều có giấy tờ biên nhận từng loại rõ ràng. Của cải đó nhà
nước sẽ giữ cho. Khi về tới địa phương muốn làm ăn khuếch trương công việc gì,
đồng bào sẽ lấy dần ra. Đó cũng chỉ là một hình thức bảo đảm an toàn, khi đồng
bào mới về chưa ổn định. Cộng sản nói như vậy!
Về tới Vinh, Nghệ An,
lúc đầu ông bà thăm họ hàng làng nước, đó đây, cho chác người nọ người kia: Hả
hê , hồ hởi, phấn khởi, nên cứ phải lấy dần tiền. Giá vàng tính theo giá chính
thức của nhà nước thì chả được bao nhiêu. Khi còn chừng một nửa, nhà nước đòi
phải có lý do chính đáng mới cho lấy ra. Ông bà chỉ lấy được một lạng nữa, mua
cái nhà tranh, sắm chiếc thuyền con đánh cá… Là vừa cạn.
Hiện nay, ông bà và hai
vợ chồng Trí rất vất vả, chật vật kiếm sống hàng ngày. Bữa cơm, bữa cháo, cơm
thường phải ăn độn. Ông bà cứ lắc đầu thiểu não than van cho cái ngu dại của
mình. Cả hai ông bà cứ vật nài mời tôi ăn bữa cơm sáng hôm ấy. Tôi tỏ ý phải về
Vĩnh Linh, vì đi chữa bệnh đã lâu ngày, ở nhà bố mẹ mong. Thực lòng vì thấy ông
bà và Trí quá nghèo khổ, tôi không muốn ăn uống làm gì sợ tốn phí cho ông bà.
Nhưng sau, tôi không thể từ chối được. Trí đã phải chạy xóm này, xóm kia mà bữa
cơm cũng chỉ có một quả trứng vịt tráng, 3, 4 con cá diếc bé síu và bát rau
muống luộc chấm mắm cáy.
Tôi rất xúc động biết
ơn ông bà, nghèo mà đầy tình nghĩa. Trí muốn đưa tôi ra bến xe, tôi giúi vào
tay Trí 20 đồng, nói:
- Tôi về Hà Nội, bà cô
cho 50 đồng, tôi chẳng tiêu gì, vậy biếu Trí chút ít mua qua cho cháu.
Trí nhất định không
nhận, tôi phải nằn nì hết sức:
- Vậy tôi gửi Trí giữ
cho tôi, kẻo về tôi tiêu hết. Tháng sau tôi sẽ lại ra…
Mãi Trí mới nhận giữ hộ
tôi. Trên đường về Hà Nội, đầu óc tôi thật căng thẳng rối mù. Tôi cứ lo Trí bị
liên quan. Tôi có định đến nhà Trí đâu! Làm sao đây! Do sự áy náy bứt rứt về
Trí, cộng với cảnh nằm trên nước sôi lửa bỏng. Không chạy đâu được nữa, đầu óc
tôi càng thêm rã rời u uẩn. Về tới Hà Nội, trời đã gần tối. Tôi lại về nhà trọ
Hàng Buôm. Rất buồn, lo và mệt, vì thế, sau khi ăn uống qua loa, tôi về đi nằm
luôn. Đi nằm mà đâu có ngủ được. Bao nhiêu suy nghĩ vơi đầy. Biết thân mình sắp
lao xuống vực thẳm của cuộc đời, mà không còn biết cách nào kìm hãm lại được,
đành đứng nhìn. Phó mặc, để nó lăn dần vào chỗ chết, bằng con mắt tuyệt vọng
não nề.
23.
Phó Mặc…
Ưu sầu tràn ắp, tôi đi dần vào giấc ngủ chập chờn năm canh.
Sáng hôm sau, khi tôi
bừng mắt dậy, mặt trời đã mọc. Những tia nắng bình minh rực rỡ xuyên qua cửa sổ
nhà trọ như truyền sinh lực vào cho tôi.
Phải rồi, người trai,
tấm thân nam nhi đâu được nằm đây mà sầu héo lo âu, phiền muộn. Sự âu sầu này,
có giải quyết được những khó khăn sinh tử trước mắt không? Chắc chắn là không!
Tôi bật dậy, tắm rửa, đi ăn sáng, rồi đi ra bờ hồ, bên đường Lý Thái Tổ, phía
bên kia nhà Thủy Tạ.
Tôi đi xuôi mãi xuống
đến những ki-ốt giải khát. Tôi mua một chai bia Trúc Bạch, loại này khá hơn bia
Hà Nội, tuy vẫn nhạt phèo so với bia 33 của Sài Gòn.
Tìm một bàn sát mé hồ,
một ly bia, một bao thuốc lá, tôi ngồi đăm chiêu nhìn ra hồ, chẳng cần để ý đến
những cái “đuôi”. Thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ từ giữa hồ thổi tới, đưa theo
cái dìu dịu của ban mai mùa Hè, làm tinh thần tôi sảng khoái. Tôi ngồi cân
nhắc, suy lý, tính toán.
Sớm hay muộn Hà Nội sẽ
bắt, vậy khai báo như thế nào? Tôi nhìn lại toàn bộ sự việc, cái gì có thể che
giấu, cái gì không thể che giấu. Điều gì phản gián Hà Nội đã biết và sẽ phải
biết về tôi. Dù sau này, chúng có người nằm trong Cục tình báo Sài Gòn. Cứ loại
điều này, bổ sung điều kia, dần dần tôi hình thành một nội dung như sau:
Tôi dẹp ngay “vỏ bọc 2
và 3”. Hai vỏ bọc này thật ấu trĩ, Cộng Sản không thể tin được. Nếu khai ra
bằng đường biển và ngày thuyền sẽ ra đón tại điểm đổ bộ, Cộng Sản sẽ bắt tôi
đến điểm hẹn, đánh tín hiệu để hải thuyền vào đón. Sẽ làm cho bao nhiêu chiến
hữu khác bị rơi vào bàn tay đầy máu của kẻ thù, sẽ bao nhiêu gia đình nữa khổ
đau mất cha, mất chồng, mất anh em. Thà chết, dứt khoát không thể làm thế được!
Vậy, nếu bị bắt, tôi sẽ khai là đi đường bộ, do đó chỉ cần moi óc tìm ra những
hình ảnh liên quan. Cũng may, tôi đã ra bờ sông Bến Hải, lại có nghiên cứu kỹ
Quốc Lộ 1 từ Vĩnh Linh tới Hà Nội. Vậy, dựa vào đó khai. Để phòng hờ những di
chứng sau này, tôi về nhà trọ, tôi phải tháo cả chiếc túi con dấu tài liệu tôi
đã khâu bên trong quần đùi.
Dùng “vỏ bọc 4” là duy
nhất. Theo dõi sư đoàn 308 phòng thủ thủ đô Hà Nội, do tướng Vương Thừa Vũ là
Sư Trưởng. Do thi cử nhiều lần không đậu, lại chán chường xã hội miền Nam, vì
thế, khi có người giới thiệu, tôi cứ đi. Dù trong lòng rất sợ, vì muốn có chút
tiền để giúp đỡ cha mẹ già yếu, nên liều. Nghĩa là ở cái thế bắt buộc phải đi.
Do đấy, khi tới Hà Nội, tôi chẳng làm gì cho chính quyền miền Nam. Nhớ cảnh cũ
thời thơ ấu, nên chỉ đi loanh quanh khắp Hà Nội chơi. Tôi sẽ kể hết sự thực: ra
tới Kỳ Anh gặp Phùng Văn Trí, v.v…về tới Hà Nội làm những gì, đi những đâu…đều
khai hết, chỉ bỏ những chi tiết liên quan đến tài liệu “M”, “X”, và thư cha
Hoàng Quỳnh. Dứt khoát là không hề biết có người theo dõi mình.
Lúc đó, tôi ngây thơ
tính toán là mình cứ khai rằng chả làm cái gì và giữ đúng lời khai như vậy, tù
bất quá 3, 4 năm. Khi được thả ra, nếu có điều kiện sẽ trốn về Nam.
Với đầu óc hãy còn ấu
trĩ về Cộng Sản của một thanh niên 24 tuổi như vậy, nên tôi yên tâm hơn, và lại
bắt đầu đi chơi, muốn bao giờ bắt thì bắt.
Ngay chiều hôm ấy, tôi
đi xe điện lên Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, thăm con đường Cổ Ngư.
Tôi xuống xe điện chỗ
đầu Quan Thánh, vào chùa Quan Thánh xem. Những viên gạch cổ lát ở sân chùa,
nhiều viên đã bể vỡ, cỏ rêu ở kẽ mọc tùm lum. Toàn bộ cái sân to, chỉ còn là
mầu xanh rì của rêu cỏ với từng đống lá khô mục nát. Nơi đây, hẳn khi xưa đã in
bao nhiêu vết chân của nhà sư Tuệ Chiếu, bây giờ đã về nơi cát bụi.
Tôi rời chùa, rẽ ra con
đường Cổ Ngư (giờ gọi là đường Thanh Niên). Ngày xưa, nơi đây là chỗ hẹn hò của
trai gái Hà Thành thanh lịch, cũng như khách nhàn du. Đông nhất là vào những
buổi cuối tuần, với những hàng bánh tôm, thịt bò khô nổi tiếng Hồ Tây. Giờ đây,
Cổ Ngư vắng tanh, trên đường, hai bên hồ gió lộng, thỉnh thoảng đôi ba chiếc xe
đạp, hoặc một chiếc xe bò chậm chạp, lê theo bước chân của một bác dân nghèo
đang gò lưng phía trước.
Tôi lững thững thả bước
đi mãi, tai nghe tiếng bì bõm của sóng nước hồ Trúc Bạch bên phải và Hồ Tây bên
trái vỗ vào bờ. Cũng vẫn hàng phượng vĩ đỏ ối lắc lư với tiếng ve sầu rả rích.
Kia là chùa Trấn Võ. Tôi lại nhớ đến bà Huyện Thanh Quan, rồi Cao Bá Quát:
Trấn Quốc hành cung cỏ
dãi dầu.
Chạnh lòng cố quốc nghĩ
mà đau…
Lên quá tí nữa là
“Petite Đồ Sơn” với bao nhiêu kỷ niệm thơ ngây của buổi thiếu thời. Xa nữa là Nghi
Tàm, Quảng Bá, với những cây ổi quen thuộc ngày nào. Bây giờ ra sao, nơi quê
hương của Thị Lộ mỹ miều? Cảnh Hồ Tây thật quyến rũ hồn du khách. Chẳng hiểu
những cái “đuôi” của tôi có cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, trên mảnh
giang sơn cẩm tú của Tổ Quốc Việt Nam này không? Mặt Hồ Tây bao la trắng xóa
một vùng, lúc này chỉ gợi lên trong tôi một nỗi lạc lõng chơ vơ:
“Mênh mông, không một
chuyến đò ngang,
Lang thang, núi bạc mây
chiều …”
Chiều đã xuống dần, mặt
trời cũng đi ngủ. Một vài con cò trắng cất cánh bay về phương trời xa.
Tôi quay lại, trở về,
lòng mang mang nặng trĩu.
Cứ như vậy, những ngày
sau, tôi đi hết về phía này, lại về phía kia của Hà Nội. Cũng nhiều cảnh, nhiều
tình huống tệ nạn xã hội xảy ra trên đường làng, đường phố. Tôi nghĩ rằng không
cần kể dài dòng nữa. Tuy vậy, có một sự việc nhỏ đến lúc này vẫn còn hằn trong
óc tôi.
Chiều ấy, tôi đi xe
điện xuống vùng Văn Điển. Tôi đang thả mắt nhìn đồng quê hai bên đường, tầu
điện đỗ lại một bến phụ, vài người khách lên xuống. Một bác nhà quê, quần áo
nâu hai, ba miếng vá, đi chân đất, gánh một gánh củi cành. Bác vội vàng hấp tấp
ôm hai bó củi lên tàu, vừa đẩy gọn vào góc, vừa hổn hển thở. Tàu chạy, anh bán
vé từ phía đầu toa đi xuống, ngoắc tay ra hiệu cho bác đưa tiền lấy vé. Vì gần
cuối đoạn đường rồi, nên chỉ phải trả 5 xu. Bác nhà quê ngước đôi mắt toét nhèm
sợ sệt nhìn anh bán vé, chừng hơn 20 tuổi, hai tay bác vuốt hai túi áo:
- Xin anh cho em qua
một đoạn đường, trời tối rồi, nặng quá, em cả người không còn một đồng xu nào!
Tên bán vé, quắc mắt
sừng sộ:
- Xuống ngay!
Khi tàu đỗ ở một bến
kế, tên bán vé dùng chân hất đẩy bó củi xuống đường. Bác nhà quê, riềm mắt đỏ
choét, cố gò người kéo bó củi lại, miệng cứ nài nỉ:
“Lạy anh, anh thông cảm
cho em!”.
Mọi người trên tàu cũng
nhìn với con mắt ái ngại, nhưng họ vẫn đứng yên. Tôi thấy 5 xu quá bé nhỏ, chả
lẽ tôi bảo, để tôi mua cho. Tôi vẫn im lặng, vì tôi đã có chủ định. Đến một bến
tiếp, tàu đỗ, hai bên đường vắng vẻ, vẫn toàn ruộng lúa, thấy bác xuống, tôi
cũng định xuống theo. Nhưng, rất nhanh, tôi đã kịp giữ lại, vì còn hai cái
“đuôi” ở trên tàu, bởi vậy, tôi vất nhẹ một tờ giấy 5 đồng, tôi đã gấp nhỏ lại
từ trước vào túi áo bác. Bác thoáng nhìn thấy, thì tàu đã chạy rồi. Tay cho vào
túi, bác nhìn theo tàu với đôi mắt mở to, ngạc nhiên và xúc động, trong bóng mờ
của buổi chiều tàn.
24.
Lọt Vào Tay Địch …
Ngày hôm sau, rồi hai ngày hôm sau nữa, bữa đó là ngày Chủ
Nhật…..Như thường lệ, tôi ra bến xe điện ở bờ hồ mua một ổ bánh mì và một tờ
báo. Ăn xong, tôi thả bước về Hàng Trống, định sẽ ghé vào Nhà Thờ Lớn để xem lễ
ngày Chủ Nhật. Khi gần đến hiệu phở ở góc đường Lý Quốc Sư, tôi đang đứng nhìn
hai người xích lô cãi nhau vì tranh khách, mắt tôi thoáng thấy từ xa, hai tên
cảnh sát đồng phục chỉnh tề đang đi lại, dáng mặt quen quen. Tim tôi chợt thót
nhẹ. Phải rồi! Hai cái “đuôi” đã từng theo tôi, hôm tôi lên chùa Láng. Hôm nay,
chúng ăn mặc đồng phục cảnh sát là có vấn đề rồi. Tôi vẫn vờ nhìn chăm chú hai
bác xích lô.
Đúng như tôi dự đoán,
khi hai tên đến gần, một tên tiến đến trước mặt tôi:
- Anh vui lòng cho tôi
xem giấy tờ!
Tôi vờ ngạc nhiên:
- Thưa các anh, hỏi
giấy gì ạ?
Vẫn với giọng nhã nhặn:
- Anh có giấy gì thì
đưa giấy đó!
Không nói một lời, tôi
rút ví túi quần sau, lấy giấy thông hành đưa ra. Y cầm xem qua rồi nói:
- Thế này không phải,
xin mời anh về đồn.
Quả là lịch sự! Tôi đã
thấy nhiều lần cảnh sát hỏi giấy người khác ở trên đường phố, nạt nộ:
”Anh cho xem giấy tờ!”,
hoặc “còn giấy gì nữa?”.
Còn ở đây, có thể y
không phải một cảnh sát chuyên nghiệp, phần khác, tôi là người của chế độ khác
mà, nhất lại là tiếp xúc buổi đầu. Hai tên chỉ đường tôi đi trước, chúng kèm
sát phía sau. Một số đồng bào đang đi trên đường phố, đứng lại ngơ ngác nhìn
theo.
Riêng mấy cái đuôi gần
đó cũng nhìn theo, nét mặt chúng lộ vẻ nửa như vui mừng hết trách nhiệm, từ nay
khỏi phải theo anh chàng lẩm cẩm này nữa, nửa như tò mò nhìn một con mồi đã vào
cạm.
Hai tên cảnh sát giải
tôi về phía Ngõ Huyện, thoáng chỗ góc là chiếc xe Citroen đen, tôi đã thấy trên
đường đi Vinh, đang đậu. Khi tới bên cạnh xe, nhìn vào trong, tôi thấy ngay
băng trên, ngồi cạnh tài xế là một lão mặc chiếc áo “vét” xám đeo kính râm,
chừng 40 tuổi. Một tên cảnh sát mở cửa sau chui vào, tên ngoài ra hiệu tay bảo
tôi lên. Như vậy là tôi ngồi giữa hai cảnh sát. Xe chạy.
Tôi hiểu rằng, phản
gián Hà Nội đã phải mất quá nhiều công lao, mà chả thấy tôi làm cái quái gì cả.
Cứ lêu bêu hết ngày này qua ngày khác, cho nên quyết định vồ. Tôi cũng chẳng có
gì ngạc nhiên lắm. Từ lâu, tôi vẫn biết sẽ có một ngày như thế này. Dù vậy,
theo đúng như những dự trù khi bị bắt, tôi vẫn phải vờ ngạc nhiên. Trên đường
xe chạy, tôi ngơ ngác hỏi:
- Các ông đưa tôi đi
đâu đây? Tôi có giấy tờ đầy đủ mà?
Tên mặc áo “vét” ngồi
trên, quay xuống giọng cộc lốc:
- Cứ đi, sẽ biết!
Bây giờ thì không lịch
sự nữa!
Xe đi vòng vèo qua
nhiều phố, rẽ vào một phố nhỏ vắng, với cái biển tên đường phố: “Phố Hỏa Lò”.
Chéo sang bên là bức tường đá cao sừng sững 7, 8 mét, bên trên cắm mảnh chai và
giâng giây điện trần chằng chịt.
Từ ngày còn bé hồi xưa
ở Hà Nội, và ngay cả lần này, từ khi ra đây, tôi chưa từng đi đến phố Hỏa Lò.
Vì vậy, tôi chưa thấy Hỏa Lò Hà Nội bao giờ.
Xe đỗ lại trước một
chiếc cổng to đồ sộ đóng kín mít, với hai cánh cửa to tuớng như cánh cửa thành
ngày xưa. Từ một trong hai cái cổng nhỏ ở hai bên, một tên bộ đội bồng súng
chạy ra. Sau khi xem miếng giấy do tên áo “vét” đưa, y đứng nghiêm chào theo
lối quân sự, rồi chạy vội vào phía trong. Cửa lớn từ từ mở ra và chiếc Citroen
chạy tuột vào. Hai tên cảnh sát giong tôi qua một cái sân rộng có trồng hoa,
bên trên là một giàn nho lá xanh rờn.
Chúng dẫn tôi vào một
cái buồng trống trơn, chỉ có một cái bàn với một cái ghế, trong đó đã có 4 tên
trông rất hung thần. Hai phút sau, tên mặc áo “vét” đi vào, đặt cặp xuống bàn
rồi lấy ra một tờ giấy, y ra hiệu tôi ngồi xuống ghế. Y đọc: “Lệnh giam giữ, Bộ
Công An ra lệnh giam và xét hỏi tên Lê Viết Hùng, tuổi…quê quán…theo giấy thông
hành giả…”. Một trong 4 tên hung thần giọng cộc lốc:
- Bỏ hết đồ và cởi quần
áo ra!
Tôi vờ phản đối:
- Các ông bắt tôi về
tội gì?
Tên mặc áo “vét” cau
mặt quát:
- Đừng vờ vịt, hãy chấp
hành lệnh!
Bốn tên hung thần như
được lệnh, chúng xông đến, thằng thì lục túi dết, thằng thì cởi quần áo tôi,
Tên mặc áo “vét” chỉ mặt tôi:
- Biết điều thì sống,
không biết điều thì càng chết sớm!
Vì đã có chủ định, nên
tôi chả nói gì nữa. Thằng áo “vét” ngồi bàn ghi biên bản. Trong một căn phòng
nhỏ mà chúng bật đến 4 ngọn đèn sáng chói. Chúng đánh giá tôi quá cao, như là
một điệp viên có hạng không bằng. Chúng dùng kính “lúp” soi hết vải quần áo của
tôi từng chiếc khuy áo, khuy quần, đường chỉ…Một tên quát:
- Có máy ảnh không?
Tôi lơ ngơ:
- Máy ảnh gì?
Chúng nó tưởng tôi có
máy ảnh nhỏ xíu dấu trong khuy áo, khuy quần, chúng khám hết, tên áo “vét” ghi
từng thứ một. Còn cái quần đùi, chúng cũng bắt tôi lột. Tôi thấy ngượng, không
muốn cho chúng cởi. Một thằng chỉ vào mặt tôi, quát:
- Cởi ra ngay, muốn ăn
đòn hả?
Chúng nó xúm lại tôi,
soi lỗ tai, bới tóc, lỗ mũi, lộn mi mắt, bắt há miệng, xem từng cái răng. Thật
may, tôi đã phòng hờ “chì mật”. Từ khi ở Vinh ra lần thứ nhì, tôi đã mua một bó
tăm tre. Tôi bỏ “chì mật” vào giữa, chỉ buộc bằng một sợi chỉ con, rất hớ hênh,
nhưng vô tình rất khó thấy, mà có thấy thì chỉ thấy đó là một sợi ny lông.
Chúng chỉ có thể nghĩ là người buộc tăm để vương vào, và chúng sẽ bỏ qua. Bó
tăm chỉ chừng 20 cái, bé bằng hai ngón tay, nên chúng chẳng tháo ra làm gì.
Mặt tên nào cũng có vẻ
tức tối. Chúng khám xét kỹ lưỡng, cả đôi dép Thái Lan, đồng hồ, bút máy,
v.v…Nghĩa là người tôi không còn một cái gì là chúng bỏ qua, mà cũng không thấy
gì cả. Cuối cùng, chúng bắt tôi đứng thẳng chân, cúi chống hai tay xuống nền
nhà, một thằng vạch lỗ đít tôi, một thằng khác đưa một que sắt thọc vào. Đến
đây, tôi phải trình bày một chi tiết hơi…thô tục một chút. Từ khi tôi bị chúng
phát hiện, tôi ăn không ngon, ngủ không yên, tinh thần ngày đêm căng thẳng, như
một con cá nằm trên thớt chờ ngày làm thịt. Vỉ thế, phân của tôi thường táo bón
từng cục như phân dê, ba bốn bữa tôi mới đi ngoài một lần.
Do đó, khi thọc que vào
thấy lục cục, mặt thằng thọc que tươi hẳn lên, làm cho mắt những tên kia cũng
sáng lên long lanh. Chắc chúng nghĩ, đã khám hết mọi chỗ không có gì, mày giấu
đây, làm sao qua mắt được chúng ông. Khi chúng kéo que sắt ra, những cục phân
rơi lủng củng xuống nền nhà. Tôi rất tiếc, vì đang phải chống tay cúi đầu, nên
không nhìn thấy nét mặt của chúng lúc này ra sao? Tôi chỉ thấy tên cầm que sắt
vất mạnh vào góc nhà đầy vẻ bực tức, rồi hình như giận lây sang cả tôi, y phát
mạnh một cái vào mông tôi rát ràn rạt, quát:
- Đứng dậy!
Hơn hai tiếng đồng hồ
khám xét lục lọi, chả có cóc khô gì. Chúng vất lại cho tôi một cái lược sừng
nhỏ, chiếc quần lót và chiếc khăn mặt. Tôi chỉ cái đồng hồ của tôi để trên bàn:
- Trả lại tôi cái đồng
hồ!
Tên áo “vét” đập tay
xuống bàn, đứng vọt dậy:
- Đồng hồ nào của anh!
Đó là tang vật hoạt động của một tên gián điệp!
Tôi vờ giật mình:
- Sao? Tôi là gián
điệp?
Y quát:
- Câm miệng lại!
Chúng vất cho tôi một
bộ quần áo sọc xanh trắng:
- Mặc vào!
“Phải làm sao để lấy
lại được gói tăm?” Tôi thầm nghĩ: Để đánh lạc hướng của chúng, tôi vờ xuống
nước năn nỉ:
- Tôi có răng sâu, đau
lắm, các ông cho bàn chải và hộp thuốc đánh răng!
Chúng ném cho tôi cái
bàn chải, còn hộp thuốc đánh răng, chúng bóp hết rồi xé ra khám, dù bàn chải và
thuốc tôi mua ở bờ hồ. Nhưng, đó chỉ là phụ, tôi vờ cho ngón tay vào hàm răng
phía trong:
- Tôi có răng sâu, ăn
uống xong, phải đánh răng hoặc xỉa răng. Các ông không cho tôi thuốc đánh răng,
đành phải xỉa bằng tăm vậy. Các ông cho tôi xin gói tăm?
Một thằng cầm gói tăm
lên, rồi ném cho tôi. Thế là ổn rồi!
Khoảng 11 giờ trưa, một
tên mặc quần áo cảnh sát có đeo hàm trung sĩ, nhưng không đội mũ, khoảng 35
tuổi, y vào buồng ra hiệu cho tôi đi theo y. Tôi đi trước, y đi sau ngoắc ngón
tay chỉ đường cho tôi.
Qua bốn, năm lần cửa
sắt. Khi đi qua một cái sân nhỏ, dưới gốc cây bàng, tôi thấy một anh cởi trần
trùng trục, đang cúi gầm mặt xuống như mang nặng một nỗi niềm suy tư. Khi tên
cảnh sát giong tôi đi qua, anh ngửng lên nhìn, anh bị chột mắt bên trái. Tôi
chợt nhớ ra những ngày lang thang trên đường phố Hà Nội, trong một hiệu sách,
tôi có mở xem cuốn C-47, trong đó có hình anh, chột một mắt trái, Trung Úy Phi
Công Phan Thanh Vân.
Anh nhìn tôi, tôi nhìn
anh. Tôi biết anh, nhưng anh không biết tôi. Anh sẽ tưởng tôi cũng như trăm
ngàn người tù khác ở miền Bắc mới bị bắt vào.
Tên cảnh sát dẫn tôi
mãi vào một hành lang nhỏ tối, sâu hun hút. Qua một cửa sắt nữa, tôi nhìn thấy
một dẫy buồng, mỗi cửa buồng mang một số. Tên cảnh sát giao tôi cho cũng một
tên mặc đồ vàng, cũng đeo lon trung sĩ. Tên này nét mặt rất ác ôn, cái mũi đỏ
như quả cà chua con ở giữa mặt. Chúng nói nhỏ gì với nhau tôi không nghe rõ.
Tên mũi cà chua mặt lầm lì, vẫy tay bảo tôi theo. Y rút chùm chìa khóa to tướng
kêu xeng xẻng ở dây lưng, lấy một chìa “mở buồng số 6”.
Từ nhỏ đến giờ, tôi
chưa hề trông thấy nhà tù lần nào cả, vì thế, từ khi bước vào cổng Hỏa Lò, tôi
nhìn cái gì cũng lạ, từ những cánh cửa sắt to, những chiếc khóa lớn, vắng lặng,
tịch mịch, âm u…
Khi tên mũi cà chua mở
cửa buồng, tôi nhìn vào thấy tối lờ mờ. Căn buồng rất hẹp, mỗi bề chỉ chừng 2
mét. Hai bên sát tường, mỗi bên có một sàn xi măng, không có chiếu, mỗi sân
rộng từ 65 đến 70 phân, cao hơn mặt nền chừng 60 phân, dưới gầm trống trơn, đen
xì. Giữa là một lối đi khoảng 60, 70 phân. Trên mỗi sàn có một cái cùm sắt to
tổ bố, gắn liền xuống sàn.
Tôi đang mở to mắt lạ
lùng nhìn, chưa bước vào, đột nhiên, tên mũi cà chua đập mạnh vào gáy tôi, rồi
y hẩy tôi vào:
- Đi vào! Lững lờ cái
gì?
Là một thanh niên sống
dưới chế độ Cộng Hòa, Dân Chủ, tôi đã được hấp thụ nhiều khuynh hướng tư tưởng
tự do, mà giai đoạn ấy ở miền Nam, chủ nghĩa Nhân Vị của tổng thống Ngô Đình
Diệm đang được đề cao, phát triển. Mang một ý niệm, có tội thì xử tù hay bắn,
chứ nhân phẩm, tự do cá nhân không được xâm phạm. Vì vậy, mắt tôi nóng lên. Tôi
lùi lại như để lấy thế, mắt nẩy lửa nhìn y như muốn ăn tươi nuốt sống, tôi chỉ
vào mặt tên mũi cà chua:
- Tôi biết hiến pháp
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là không đánh người. Do đó, nếu ông đánh tôi, là
tôi đánh lại!
Nhìn thái độ quyết tử
của tôi lúc đó, y cũng chờn, vì thế, y xuống nước:
- Thì tôi bảo anh vào
chứ làm sao!
Rồi y ra phía ngoài,
rút cái chốt cùm. Trở vào, y nhấc nửa phần trên cái cùm cho há ra:
- Anh bỏ chân vào!
Tôi ngồi ghệ mông vào
chiếc sàn xi măng, từ từ tôi nhấc một chân đặt vào một lỗ cùm… Y lừ lừ nói
tiếp:
- Bỏ cả chân kia nữa!
Tôi phải xoay người
lại, rồi cũng từ từ chậm chạp bỏ một chân nữa. Y lấy tay xập mạnh cái cùm xuống
đánh “sầm” một cái. Sắt trên và sắt dưới dập mạng vào nhau, bật ra tiếng chát
chúa. Y quay ra ngoài, đút chốt cùm, đóng sầm cửa lại.
Chừng 10 phút sau bỗng
cửa lại mở. Lần này y vào cầm trong tay một chiếc gậy gỗ, dài độ 50 phân, to
bằng cán xẻng. Y trợn to cặp mắt trắng dã, quả cà chua trước mặt y càng đỏ
loét. Phía sau y, bên ngoài cửa, thấp thoáng còn thấy một tên nữa. Y vào là
quật tôi ngay, miệng luôn luôn chửi:
- Đ. M. mày! Ngang
bướng này!
- Mày biệt kích, gián
điệp này!
- Đ. M. chúng mày, ra
phá hoại miền Bắc này!…
Nó quật tôi túi bụi,
tôi phải giơ tay đỡ. Người tôi sôi lên sùng sục, tôi gầm lên:
- Đ. M. chúng mày hèn
hạ! Cùm tao vào rồi mới đánh!
- Chúng mày là lũ dã
man!…
Máu ở tay và chân tôi
đã chảy. Tôi không còn biết đau nữa. Nó quật tôi hàng chục cái lia lịa, rồi ra.
Trước khi ra, nó chỉ cái gậy vào mặt tôi:
- Cho con chết, con ạ!
Rồi đóng cửa, cài then.
Tay tôi sưng tím, nhiều chỗ nổi lên một cục, vai và lưng đau ê ẩm. Máu tay
nhiều chỗ chảy đỏ cả bộ quần áo sọc trắng. Chân tôi, lúc vặn vẹo đỡ gậy nó vụt,
bị cạnh của chiếc cùm sắc cứa làm máu chảy nhiều chỗ.
Lúc này, tôi uất hận quá,
không thiết sống nữa. Như thế này rồi cũng chết thôi. Phải chịu bao nhiêu đau
đớn nữa rồi cũng chết. Vậy thì chết trước, khỏi khổ.
Qua sách báo của Cộng
Sản, qua các cuộc phỏng vấn những người vượt tuyến ở Gia Định trước đây, tôi
biết là: Lãnh tụ của Cộng Sản thì chúng coi như thần thánh, ai xúc phạm, chúng
sẽ giết ngay. Nghĩ như vậy, nhất là nhìn máu chảy tứ tung, chỗ nào cũng máu,
uất hận ngập trời, tôi gầm lên:
- Đ. M. thằng Hồ Chí
Minh!
- Đả đảo thằng Hồ Chí
Minh! Chúng mày làm cả dân tộc lầm than, đau thuơng, cùng khổ!
Tôi cứ thế gào lên, mục
đích mong chúng mang súng vào cho mấy phát. Tôi chẳng thiết sống nữa! Một đứa
mở chiếc cửa sổ nhỏ tí ở giữa cửa lớn:
- Im ngay cái mồm,
không thì chết đấy con!
Tôi chẳng trông rõ ai
cả, tôi hét lên:
- Đả đảo thằng Hồ Chí
Minh!
Một lúc sau, cửa lớn
mở, ba thằng bước vào, có cả thằng mũi cà chua đã đánh tôi khi nãy. Chúng mang
vào một cái khung sắt, loại sắt tròn, đường kính độ 1 phân rưỡi. Chẳng nói năng
gì, một thằng bẻ quặt hai tay tôi ra sau, khóa lại bằng chiếc khóa số 8. Hai
thằng lắp cái khung sắt vào đầu và cằm tôi, rồi chúng vặn ốc “vít” ở dưới cằm.
Hai hàm răng của tôi bị
cái “cùm mồm” xiết chặt lại, một miếng sắt mỏng 3×6 phân, 2 bên có lò xo ép
chặt mồm tôi lại. Nói và chửi bây giờ không thành tiếng nữa, chỉ là những âm
thanh ú ớ, xìn xịt. Trước khi ra, chúng còn đe:
- Con sẽ chết, con ơi!
Sau khi cửa đóng, chỗ
máu ở chân tôi vẩn chảy. Bây giờ tôi không nằm được, cũng không xoay trở gì
được nữa. Hai tay bị khóa đàng sau, hai chân trong cùm sát xuống sàn, mấy chỗ
sưng ở tay bắt đầu thấy ngứa. Bây giờ, tôi cảm thấy ngứa khắp cả người. Thái
dương giật giật liên hồi, người tôi nóng ran, mắt hoa lên quay cuồng.
Chừng 4 tiếng đồng hồ
sau, tự nhiên người tôi cứ đảo lộn, quay cuồng như chong chóng. Chỉ còn một thế
duy nhất là gục dựa đầu vào tường, mắt nhắm nghiền. Một luồng hơi nóng như lửa
chạy từ bụng lên ngực, rồi lên đầu, rồi tôi không biết gì nữa.
Khi tôi tỉnh lại, trời
đã sáng. Như vậy, tôi đã ngất xỉu qua đêm. Tôi thấy tay chân tê dại và nặng như
chì, cả người tôi đau đớn, nhức mỏi rã rời. Tôi chỉ còn hai cái vai ngút ngắc,
rung lên vì ngứa. Mãi lâu lắm, thấy chiếc cửa sổ nhỏ mở ra, rồi một giọng hỏi:
- Mày còn già mồm nữa
không?
Tôi mở mắt nhìn, nhưng
vẫn ngồi dựa tường bất động. Bây giờ còn chưởi làm sao được nữa! Thấy tôi vẫn
ngồi yên, cửa sổ đóng lại. Người tôi lúc đó thật là kinh khủng. Cả chân tay tôi
cứ giật giật như bị kinh phong. Chết không chết được. Nếu ai giết tôi lúc này
là họ gia ân cho tôi. Bây giờ ngồi viết lại, nghĩ đến tình cảnh lúc ấy, cón thấy
kinh hoàng và nỗi hận thù vẫn còn dâng cao như núi.
Rồi, tôi xỉu đi lần
nữa. Lúc xỉu đi là lúc hạnh phúc. Nhưng tỉnh lại, thì lại kinh khủng quá! Tôi
không ngờ chúng nó lại có cái trò ác độc thế này. Tôi chửi chúng để cầu mong
chúng cho vài phát đạn. Nếu chúng bắn tôi chết, hòa cả làng. Tôi chết rồi, biết
quái gì nữa.
Không biết lúc này là
mấy giờ rồi? Ôi, loài người thật dã man! Bây giờ, có muốn cắn lưỡi cũng không
làm sao cắn được.
Mãi một lúc lâu lắm,
cửa nhỏ lại xịch mở. Vẫn cái giọng lúc sáng:
- Mày còn chửi nữa
không?
Tôi thấy rằng thôi, hãy
chịu chúng nó lúc này, sau sẽ tính, chúng nó không giết mà cứ cùm kiểu này,
chịu sao nổi. Vì vậy, tôi nhìn ra cửa sổ ngút ngắc cái đầu. Chúng nó lại đóng
cửa sổ lại. Tôi tưởng mình chịu thua, chịu xuống xề, chúng nó sẽ tha cùm tay,
cùm mồm ngay. Nhưng bặt đi, mãi tới gần chiều mới thấy cửa lớn mở và hai tên đi
vào. Tôi không thấy tên mũi cà chua. Chúng nó đến bên cạnh tôi, một thằng đập
tay vào vai tôi giọng giễu cợt:
- Thế nào, mày còn
cương nữa hay biết hãi rồi?
Tôi vẫn ngúc ngắc cái
đầu. Chúng vừa tháo cùm mồm, cùm tay tôi, vừa nói:
- Mày đã vào đây mà
không biết điều thì chỉ có một con đường là chết khổ. Bao nhiêu thằng ba đầu,
sáu tai, mọc bao nhiêu cái sừng chúng tao cũng vặn hết. Từ nay phải biết điều,
nghe không?
Tôi chẳng nói năng gì
cả, hai tay như xuội ra, không nhấc lên được nữa. Tôi mệt rã rượi như người
không xương. Người tôi lại thấy ngây ngất sốt, tôi nằm phịch xuống sàn. Chúng
nó ra ngoài, tôi thoáng thấy chúng đưa vào một cái gì, có lẽ là cơm, để lên
phía đầu tôi:
- Cơm đấy, ăn đi! Chốc
nữa tao lại lấy bát.
Đêm hôm đó, một cơn sốt
lên dữ dội. Tôi mê man rên rỉ suốt đêm. Cả người tôi đau như giần. Cứ thiếp đi
một lúc, rồi lại tỉnh. Miệng lảm nhảm chỉ kêu “mẹ ơi!”.
Tôi cầu xin Chúa, xin
Trời cho tôi chết đi. Tôi vừa sốt, vừa đau. Hai chân tôi trong cùm tê dại, đau
buốt. Bát cơm gạo hẩm và đôi đũa vào từ lúc chúng tháo cùm mồm tôi ra vẫn để
lỏng chỏng trên sàn, phía trên đầu tôi. Tôi không muốn ăn uống gì cả, dù đã hai
ngày, trừ lúc sáng sớm hôm qua, tôi ăn một ổ bánh mì nhỏ ở bờ hồ khi chưa bị
bắt. Miệng tôi đắng và khô, không nhổ ra nước bọt.
Sáng hôm sau là thứ Ba.
Tôi nằm nghe loáng thoáng có nhiều tiếng phụ nữ cười nói và tiếng nước chảy,
như đang có người tắm giặt ở đàng sau tường phía đầu tôi. Nghe những lời qua
tiếng lại, tôi biết họ cũng là tù, và ngay sau buồng tôi là bể nước họ giặt
giũ, tắm rửa.
Cửa sổ nhỏ bỗng mở, tôi
nhìn ra chẳng rõ ai. Rồi nghe lẻng xẻng tiếng chìa khóa mở cửa buồng. Một ông
chừng 60 tuổi, đầu đã bạc, mặc thường phục, đeo kính trắng bước vào buồng, theo
sau có mấy người nữa. Ông hỏi, giọng miền Nam:
- Anh không ăn cơm à?
Tôi lắc đầu:
- Tôi sốt.
Y quay lại nói gì với
mấy tên phía sau. Tôi thấy chốt cùm kéo ra, một tên nhìn tôi:
- Anh bỏ chân ra!
Tôi ngồi dậy, mỏi mệt
nhấc cái nửa cùm phía trên, rồi chậm chạp nhấc hai chân ra. Máu chảy ra mặt
dưới cùm và ống quần tôi đã đen lại. Ông già đeo kính trắng có vẻ khuyên răn:
- Anh đã vào đây, đừng
bướng bĩnh. Phải ngoan ngoãn biết điều, lợi cho anh. Nếu không, chỉ thiệt thân.
Một lúc sau, một người
ném vào chỗ tôi một bộ quần áo nữa, cũng sọc, nhưng đã cũ:
- Cho anh thêm bộ này.
Thay bộ quần áo đó ra, giặt đi.
Chúng nhìn thấy quần và
áo tôi đầy máu đen. Ông già và mấy người đi ra. Tôi chẳng biết ông già làm gì,
có vẻ tử tế. Một lúc sau, cửa lại mở, một tên áo vàng chừng độ 40 tuổi, đeo lon
hạ sĩ, vào hỏi tôi:
- Tên anh là gì?
Tôi nhìn lão:
- Lê Viết Hùng.
- Tôi hỏi tên thật của
anh ở Sài Gòn cơ?
Tôi đáp:
- Đặng Chí Bình.
Lão nghiêm giọng:
- Tôi là cán bộ coi xà
lim này. Vậy từ nay anh phải nghiêm chỉnh chấp hành mọi nội quy ở đây. Không
được la ó, ca hát. Không được quan hệ, nói chuyện với buồng bên cạnh. Không
được mang bất cứ loại kim khí nào vào trong buồng. Mỗi buổi sáng mang bô phân,
nước giải của mình vào nhà tắm, đổ vào lổ xí, tráng nước trong 5 phút. Nếu bị
cùm kỷ luật, một tuần chỉ mở cùm cho đổ bô một lần vào sáng thứ sáu. Một tuần,
tắm giặt hai lần vào thứ Hai và thứ Sáu, mỗi lần không quá 15 phút. Nếu anh vi
phạm, tùy theo mức độ, sẽ bị kỷ luật cùm một chân, hoặc cùm hai chân, hoặc đưa
đi “cát xô”.
Tôi ngồi mệt quá như
xỉu đi. Tôi dựa lưng vào tường; mặc cho y nói. Một lúc, y vừa nói vừa đi ra:
- Tôi sẽ gọi y tá vào
cho thuốc.
Rồi y đóng cửa lại. Tôi
nghe tiếng y mở cửa buồng bên cạnh, một người ra, chắc để đổ phân, 5 phút sau
vào, tiếng đóng cửa. Lại mở buồng khác, thấy tiếng chạy lịch kịch, rồi nghe máy
nước chảy rào rào, rồi tiếng chân chạy trở về buồng. Sáu, bẩy lần như vậy. Lại
thấy mở cửa buồng tôi. Tiếng tên cán bộ xà lim:
- Ra đổ phân!
Tôi tụt xuống sàn, cúi
nhìn vào gầm sàn, thấy cái bô tôn có nắp gỗ đậy. Từ tối qua đến giờ, tôi có ỉa
đái gì đâu, nên cứ đứng ngơ ngác. Y thò cổ vào:
- Sao không ra đổ
thùng?
Tôi trả lời:
- Tôi chưa…!
Y đóng cửa xầm một cái,
cài then sắt bên ngoài. Một lúc sau, cửa lại mở. Một bà y tá, mặc áo “bờ lu”
trắng ôm cái khay thuốc đi vào. Bà ta chừng 28, 30 tuổi, sau này, tôi được biết
tên là Dậu.
Bà ta xem các vết
thuơng ở chân, tay, vai lưng tôi cho tôi nửa hộp dầu cao “Sao Vàng”, bảo xoa
chỗ sưng. Chấm thuốc đỏ vào mấy chỗ chảy máu. Tôi đang sốt, nên tôi nói:
- Đêm qua tôi bị sốt và
bây giờ cũng bị.
Bà cho tôi hai viên
thuốc trắng, bảo uống. Khi bà y tá ra, tên cán bộ xà lim lại vào:
- Anh mang bát cơm kia
ra. Cầm cả cái gáo ra lấy cơm, lấy nước.
Khi tôi cầm bát cơm ra,
chân tôi đau quá đi khập khiễng. Y bảo tôi để bát cơm cũ xuống đất, lấy gáo lại
thùng múc một gáo nước, rồi cầm bát cơm mới đi vào. Tôi nhìn trên bệ tường có
8, 9 bát cơm, tôi cầm một bát và đi vào. Y đóng cửa lại và nói:
- Ăn nhanh, 15 phút sẽ
trả bát.
Tôi đói, từ hôm qua tôi
không hề ăn uống gì, nhưng và miếng cơm vào mồm nhai, tôi không nuốt nổi. Mồm
đắng hay cơm đắng? Nhưng nếu không ăn, chỉ có chết, nghĩ lại cố gắng nhai và
nuốt. Tôi vừa nhai vừa nhìn bát cơm. Cơm thuộc loại gạo hẩm, nhưng không có
độn, còn tốt hơn ở hàng cơm ngoài phố.
Cơm được đựng trong một
chiếc bát to, đường kính miệng bát chừng 17 phân, cao chừng 7 phân, bằng chất
gì như nhôm, màu xam xám, rất cứng (có thể là nhôm pha antimoan), hình đít
bằng. Lượng cơm bằng chừng hai bát cơm nhỏ gia đình thường dùng. Một bát nhỏ
như vậy nữa, cùng loại hợp kim và hình thể như chiếc bát to, đường kính khoảng
10 phân, cao 5 phân, thường thường đựng rau muống già nấu muối, đen xì. Bát canh
nhỏ để chồng lên bát cơm.
Vì thế khi mở cửa ra,
tù tay cầm một gáo dừa, đến thùng nước, múc một gáo nước mầu đen đen (sau này
tôi hiểu là gạo rang cho cháy đen; một nắm nấu cho cả mấy trăm người uống), rồi
đến cầm một bát một bát cơm đi vào. Cán bộ ở đây gọi là quản giáo, sau khi đóng
cửa cài then phía ngoài, lại tiếp tục mở buồng khác. Chừng 10 hay 15 phút sau,
quản giáo lại đi mở từng buồng, để tù đưa bát ra chỗ cũ. Múc thêm gáo nước nữa.
Cơm nước nấu ở khu nhà bếp, cũng do tù được tuyển chọn đảm trách, hầu hết là tù
hình sự, hoặc là cán bộ can tội tham ô hủ hóa. Tôi cố ăn cũng chỉ được khoảng
nửa bát cơm, và húp tí nước rau nấu.
Khi quản giáo mở cửa,
tôi đưa bát ra, y chỉ:
- Để chỗ cũ!
Tôi không biết nên để
cả đũa ở đấy. Y bảo tôi phải đưa lại chỗ “suốt cùm” để. Tôi liếc nhìn buồng bên
cạnh, trước mỗi cửa buồng tôi thấy một đôi đũa treo lủng lẳng ở chỗ tay suốt
cùm. Tôi không có dây, nên gác đại đũa lên trên cái suốt.
Khi vào buồng, dù người
còn đau êm ẩm, chân vẫn còn đi tập tễnh, nhưng tôi vẫn thấy thoải mái hơn
nhiều. Bây giờ tôi mới để ý kỹ cái cùm:
Cùm là hai miếng sắt,
mỗi miếng dầy 2 phân rưỡi, bản rộng 8 phân. Nửa dưới, nằm gắn liền với một bờ
xi măng sát xuống sàn. Nửa trên, nối với dưới bằng một khâu bản lề, làm bằng
chính hai miếng sắt ấy. Phía ngoài cùng, trông như cái hình mỏ vịt, được đục
một lỗ dài để xập vào một cái khuy, làm bằng loại sắt vuông khoảng 1 phân rưỡi.
Một thanh suốt chốt cùm bằng miếng sắt rộng 5 phân, dầy 1 phân. Từ phía ngoài
tường thọc vào cái khuy sắt hình vuông kia là cứng ngắc, bất khả nhúc nhắc, trừ
phi bên ngoài cò người rút chốt cùm. Đuôi chốt cùm lại có có chốt, rồi lại một
cái khóa nữa.
Buồng xà lim thường có
hai sàn xi măng, cửa ở giữa. Trần xà lim cao 4 mét. Mãi tít gần sát trần, có
một cái cửa sổ nhỏ, kích thước khoảng 60×25 phân. Có 5 chấn song sắt, đường
kính 2 phân rưỡi, có lưới sắt che. Vì thế, ngay ban ngày, trong buồng chỉ lờ
mờ, nếu không mở cửa lớn.
Cửa xà lim bằng gỗ lim,
dầy 4 phân có nẹp đai sắt dầy. Giữa cánh cửa, chỗ ngang tầm mắt người đứng, có
một cửa sổ nhỏ rộng 20 phân, cao 15 phân, có 6 song sắt con loại 1 phân rưỡi.
Như thế, chỉ đút lọt một ngón tay. Bên ngoài có một miếng sắt mỏng mở ra, đóng
vào che kín, có chốt. Tường dầy 50 phân.
Đây là công trình của
thực dân Pháp xây. Bây giờ Cộng Sản dùng để cùm kẹp, giam giữ những người chống
lại chúng.
25.
Chấp Pháp Tại Hoả Lò…
Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, tiếng chìa khóa lẻng xẻng đi
vào, cửa sổ con bật mở, lộ mặt tên cán bộ xà lim, y nói vọng vào:
- Mặc quần áo đi cung!
Đêm qua tôi không sốt,
nhưng người còn đau ê ẩm, phần khác trời nóng và buồng rất nhiều muỗi, nên suốt
đêm người tôi lúc nào cũng đầy mồ hôi và không ngủ yên. Tôi đang mặc quần áo
thì cửa mở.
Lúc tôi ra, một tên cán
bộ áo vàng đang chờ ở cổng xà lim. Thấy tôi y lấy ngón tay ra hiệu cho tôi đi
trước. Y đi phía sau, cất tiếng hỏi:
- Anh tên Đặng Chí Bình
tức Lê Viết Hùng?
Tôi gật đầu:
- Dạ
Lão cán bộ này có đôi
mắt lồi và cái môi vẫu hẳn ra. Y đeo lon trung sĩ.
Hôm tôi bị bắt là ngày
Chủ Nhật, vì thế trên đường vào xà lim, tôi không nhìn thấy tù, họ ở trong
buồng cả. Hôm nay, trên đường đi qua một cái sân nhỏ, tôi thấy ở góc sân 6, 7
người tù nữ đang lúi húi rửa soong, nồi trong một bể nước. Phía nhà bên cạnh 8,
9 người tù nữa với mấy cái máy may, may quần áo sòng sọc. Thấy cán bộ giong tôi
đi qua, họ đều ngửng lên nhìn theo.
Đi qua mấy ngách nữa
thì ra tới chỗ sân có giàn nho hôm trước. Dẫn đến trước một cửa phòng, y mở cửa
bảo tôi vào.
Trong buồng, tôi thấy
hai người đã ngồi chờ sẵn ở một cái bàn, trên đặt một cặp hồ sơ dầy. Một người
tuổi chừng 30 mặc áo 4 túi bộ đội, người kia chừng 35 tuổi, mặc sơ mi trắng
ngắn tay.
Thấy tay và chân tôi
băng bó, chân đi tập tễnh, tên mặc áo sơ mi trắng có vẻ ngạc nhiên:
- Chân và tay anh làm
sao thế?
Tôi thấy y có vẻ vờ, tôi
nghĩ y phải biết, dù vậy tôi vẫn nói:
- Hôm kia, mấy ông bà
cán bộ đánh tôi ở xà lim.
Cả hai đều như ngạc
nhiên:
- Anh làm sao mà bị
đánh? Có đau không?
Tôi thấy rõ thủ đoạn vờ
vịt, nên trả lời thủng thẳng:
- Hôm nay đỡ rồi!
Tên mặc áo bộ đội chỉ
một chiếc ghế đẩu trước bàn, bảo tôi ngồi, xong hắn tự giới thiệu:
- Tôi là Thành và ông
cán bộ đây là Đức. Chúng tôi là Chấp Pháp Bộ Công An. Chúng tôi có trách nhiệm
giúp đỡ và thẩm vấn anh, về những việc anh đã làm. Chúng tôi biết anh còn quá
trẻ nên nhất thời ngây thơ, bị lũ tay sai Mỹ Diệm dụ dỗ, thúc đẩy đi ra Bắc làm
hại cách mạng. Nhưng, với màng lưới nhân dân của cách mạng. Không một kẻ nào,
không một mưu mô nào của Mỹ Diệm mà không bị đập tan.
Anh hiểu rằng, về tình
báo, trong hàng ngũ của ngụy quyền tay sai của Mỹ Diệm, đầy rẫy những người của
cách mạng. Cho nên, việc của anh chúng tôi biết rất rõ. Chúng tôi có đầy đủ hồ
sơ tài liệu về anh.
Y hất hàm về chiếc cặp
hồ sơ, rồi nói tiếp:
- Nhưng, với đường lối
khoan hồng và giáo dục của đảng và nhân dân, chúng tôi muốn chính anh có trách
nhiệm tố cáo, vạch ra hết những tội ác mà bọn tay sai Mỹ Diệm đã đẩy đưa anh ra
ngoài này, để đắm mình vào tội phản nhân dân, phản Tổ Quốc.
Đảng và nhà nước sẽ
đánh giá sự ăn năn thành khẩn của anh. Chỉ có anh mới cứu được anh, không một
thế lực nào, một kẻ nào có thể cứu được anh. Tuy vậy gặp anh buổi đầu hôm nay,
thấy anh là một thanh niên có học, hiểu biết, cởi mở. Chúng tôi tin rằng sự
quan tâm giúp đỡ của chúng tôi, sẽ rất tốt cho anh sau này.
Riêng về việc anh bị
hành hung trong xà lim, chúng tôi chưa biết rõ sự thể như thế nào. Nhưng, dù
sao đó cũng là một việc làm sai trái đối với chính sách giáo dục của đảng và
nhà nước. Chúng tôi sẽ phản ánh lên cấp trên, để có biện pháp xử lý. Bây giờ
trước hết, anh hãy trả lời về những câu hỏi lý lịch…
Từ nãy, tôi vẫn cúi đầu
nghe chúng nói. Tôi có chủ định từ trước, nên khi chúng hỏi về lý lịch, thân
thế, tôi cứ khai thực. Sau khi chúng ghi xong phần lý lịch, tên Đức nghiêm
trang:
- Bây giờ, chúng tôi
cho phép anh được tự nói lần lượt: Ai tuyển mộ anh? Ai huấn luyện? Huấn luyện
những gì, ở đâu, nhiệm vụ gì? Ra Bắc làm sao? v.v…Anh cứ nói!
Tôi cứ cúi gầm ngheo
chúng thuyết. Tôi tỏ vẻ thành khẩn ngoan ngoãn lắng nghe. Sau khi chúng giục
hai, ba lần, tôi mới ngửng đầu lên nói:
- Thưa các ông, tôi tin
rằng cách mạng đã hiểu hết những việc làm của tôi ở trong Nam, cũng như khi tôi
ra Bắc. Tôi vì hoàn cảnh và cuộc sống, nhà nghèo, học hành thi cử mãi không
đậu, cho nên phải vào lính tráng. Rồi có người giới thiệu, tôi cứ đi đại để
kiếm ít tiền giúp đỡ bố mẹ già.
Tôi đã là nhi đồng ở
quê tôi, tôi đã đỗ bằng Tiểu Học với hạng ưu dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa. Từ nhỏ, tôi vẫn ngưỡng mộ hình ảnh các anh bộ đội, cho nên sau này, khi
lớn lên, dù vì hoàn cảnh tôi phải nhận trách nhiệm của họ. Tôi vẫn nhủ thầm
trong lòng rằng, nếu tôi không làm gì được có lợi cho xã hội chủ nghĩa, thì dứt
khoát cũng không bao giờ làm hại cả.
Cũng vì vậy, khi tôi ra
miền Bắc, tôi chẳng hề làm cái gì. Tôi nhớ Hà Nội, tôi chỉ đi thăm các thắng
cảnh, cái di tích lịch sử mà buổi thiếu thời tôi đã thường đi chơi. Nhiều lúc,
tôi thật chán nản, định gặp anh cảnh sát nào đó, sẽ nói cho anh rõ là tôi ở
trong Nam ra. Nhưng, những năm tháng tôi sống ở miền Nam, họ nói Cộng Sản rất
ác độc, hay giết người, tôi lại cứ đắn đo, e dè, sợ sệt. Đầu óc tôi cứ rối bung
lên, chả biết phải làm sao.
Bây giờ, gặp các ông
xin thành thật nói hết những gì tôi biết mà nhà nước yêu cầu.
Mặt chúng nó rất tươi
khi nghe tôi nói, chúng gật gù:
- Được, Như thế là tốt
cho anh, bây giờ bắt đầu làm việc.
Tôi có vẻ ngơ ngác:
- Khai từ đâu? Từ lúc
đi học, hay từ lúc ra miền Bắc?
Chúng lừ mắt nhìn tôi:
- Từ lúc cơ quan tình
báo Sài Gòn tuyển mộ anh, huấn luyện gì, ở đâu và ai huấn luyện? Khai sơ lược và
nhanh.
Tôi chậm chạp, vừa suy
nghĩ vừa nói:
- Tôi ở đại đội thám
báo của Sư Đoàn 7 bộ binh. Quen Trung úy Xương bên Nha An Ninh Quân Đội. Ông
này đã giới thiệu cho một người tên Hòa, mặc thường phục, đến tuyển mộ tôi, đầu
năm 1962. Huấn luyện suốt 3 tháng liền về hoạt động bí mật, về một số tính năng
của các loại vũ khí, mìn của miền Bắc thường dùng, về địa đồ, chấm tọa độ v.v…
Rồi sau đó chuẩn bị công tác ra Bắc, với nhiệm vụ theo dõi Sư Đoàn 308 phòng
thủ, Thủ Đô Hà Nội do tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy. Ngày 20 tháng 5, tên Hòa đưa
tôi ra trường bay Tân Sơn Nhất để ra Huế. Rồi từ Huế đưa ra khu phi quân sự.
Lợi dụng một đêm mưa to, tôi lội qua sông Bến Hải, sáng hôm sau thuê xe đò đi
từ thị trấn Vĩnh Linh.
Tôi cứ khai, chúng cứ
ghi, chúng thường giục tôi nói lướt, nói nhanh, trong khi tôi định khai chi
tiết. Vì thề, tôi cũng nói lướt đi. Thấy tôi ngừng, tên Thành nhắc:
- Tiếp tục!
Tôi nói tiếp:
- Tôi ra tới Rỏn, rồi
không có xe, tôi phải đi bộ từ Rỏn ra tới Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Trên đường đi tôi
gặp một anh tên là Trí (tôi phải nói rõ chỗ này, vì chúng nó đã biết tôi trở
vào Vinh đến ngủ nhà Trí), từ Hà Tĩnh đi Vinh, rồi đi Hà Nội. Ngày 31 ra tới Hà
Nội, ngủ nhà trọ số 5 Hàng Dầu, rồi Hàng Quạt v.v…
Tôi nhất nhất thuật
lại. Tôi chỉ nói rõ có vào nhà thương Việt Đức có một lần (mà chúng đã biết),
còn lại, đi chỗ nào, nơi nào, tôi kể hết cho tới khi bị bắt.
Dù chúng giục tôi nói
nhanh những điểm chính thôi, thế mà lúc chúng bảo tôi về nghỉ cũng đã 12 giờ
rưỡi trưa rồi.
Tên Đức ra ngoài, lát
sau, một mụ cảnh sát đeo quân hàm Trung sĩ đến, ra hiệu tay bảo theo mụ. Đi qua
khu nữ, tôi thấy mấy người tù nữ chạy ra đon đả với mụ:
- Báo cáo bà Hoa, cái
túi của bà chúng cháu đã khâu xong rồi ạ.
Mụ gật đầu:
- Được rồi!
Mụ Hoa nói tiếng miền
Nam, chắc là loại cán bộ tập kết. Mụ dẫn tôi vào cổng xà lim, tay mụ xách chùm
chìa khóa, đến buồng tôi mụ mở cửa. Lúc đó đã gần 1 giờ, nên cán bộ trực xà lim
đã về. Khi mụ đóng cửa, tôi nhìn thấy bát cơm ai đã để sẵn trên sàn.
Hôm nay, tôi ăn được
2/3 bát cơm và hết bát canh rau lá cải già. Trong gáo còn tí nước hôm qua, đành
uống đỡ. Xong, mệt quá, tôi nằm ngả lưng một tí.
Từ lúc về, ăn cơm cho
tới bây giờ, tôi cứ băn khoăn. Tại sao chúng bắt tôi khai nhanh như thế để làm
gì? Chúng không cần chi tiết ư? Tôi suy đoán lung tung, rối cả óc. Nhưng, có
một điều là tôi phải nhớ hết những gì đã khai.
Vừa nằm được phút, đã
lại thấy mở cửa. Tên mắt ốc nhồi bảo tôi đi cung. Khi tới phòng hỏi cung lúc
sáng, tôi đã thấy tên Thành và tên Đức ngồi đấy, cũng với cái cặp hồ sơ dầy cộm
trên bàn.
Tên Thành chỉ chiếc ghế
đẩu trước bàn bảo tôi ngồi. Tên Đức giở hồ sơ:
- Bây giờ, anh khai lại
chi tiết từ nhỏ theo chúng tôi hỏi.
Hết tên này hỏi lại đến
tên kia, nhất là chỗ nào chúng chưa rõ, chỗ nào chúng cho là không hợp lý. Lần
này thì chúng hỏi quá chi tiết, cả những việc tôi nghĩ không cần thiết như chơi
đùa, bạn với ai, tính bố, tính mẹ, tính thầy giáo v.v…; từ lúc tôi còn 6,7 tuổi
trở đi… Ngược lại, lần này, nhiều chỗ tôi lướt đi thì chúng lại hỏi kỹ.
Tới 5 giờ chiều, tên
Đức đọc lại cho tôi nghe và bắt tôi ký. Chúng cho tôi về, 6 giờ lại gọi lên,
tiếp tục cho tới 9 giờ tối. Ngày nào cũng 3 buổi, tôi mệt rã rời. Chỗ chân tôi
vết thuơng lại làm mủ rất đau nhức, chả có thuốc gì ngoài thuốc đỏ.
Cứ liên tục đi cung
ngày ba buổi, cả thứ Bảy, Chủ Nhật, 16 ngày liền, tôi mới chỉ khai được tới chỗ
tôi bị bắt. Lúc đó đã sang giữa tháng 7/1962, tôi bị bắt vào ngày 24 tháng 6,
như thế tôi đã ở trong xà lim hơn 20 ngày rồi. Người tôi đã gầy hẳn đi, dù rằng
bây giờ, tôi đã ăn hết cơm, và còn vẫn đói. Điều chính là vì xà lim thật nóng
và nhiều muỗi. Suốt đêm, tôi phải cởi trần trùng trục, mồ hôi nhễ nhại. Cái sàn
nhớp nháp trắng cả ra vì mồ hôi của tôi. Mồ hôi tôi đêm nào cũng chảy ướt hết
cạp quần, thế mà vẫn phải lấy áo đắp vì muỗi. Suốt đêm, giấc ngủ không yên, chỉ
có cái áo vừa khua muỗi vừa đắp; lại còn đầu óc căng thẳng vì cung kẹo hàng
ngày.
Một hôm, tôi đi cung
về, tên Nhiễm Hạ sĩ coi xà lim mở cửa buồng rồi nói:
- Anh có gì trong này
mang hết đi!
Tôi có quái gỉ ngoài
một bộ quần áo sọc cũ, chiếc khăn mặt và cái lược sừng con. Tôi ôm đồ ra. Dẫn
tôi đến buồng số 5, y mở cửa, vào phòng tôi thấy trong đó đã có một ngưòi,
chừng 45 tuổi, trần trùng trục, mặc mỗi cái quần đùi đen. Khi lão Nhiễm đóng
cửa, tôi quay lại nhìn người đàn ông, ông ta cũng chột một mắt như Phan Thanh
Vân. Ông hỏi tôi thân mật:
- Anh bị bắt vào lâu
chưa?
Tôi cũng tình cảm:
- Hơn 20 ngày rồi, còn
Bác?
Ông chậm rãi:
- Gần 2 tháng.
Tôi tiếp tục:
- Bác bị bắt vì tội gì?
- Vượt tuyến vào Nam.
Còn anh?
- Vượt tuyến ra Bắc…
Cả hai cùng cười, tôi hỏi
nhạt:
- Thế mà gặp nhau ở một
điểm!
Nhìn cái túi vải to ở
đầu sàn ông ta, tôi nhẹ nhàng hỏi:
- Bác ở đâu?
Ông ta có vẻ thận
trọng:
- Chợ Mơ!…
Giữa lúc đó cửa buồng
mở. Giờ lấy cơm. Cái gáo dừa của tôi lần này bé quá, chỉ bằng 2/3 cái trước.
Tôi không có đũa, phải xin lão Nhiễm cho tôi lấy đôi đũa ở đầu cùm buống số 6
cũ của tôi.
Tôi được biết tên ông
chột mắt là Hoàn, Lê Văn Hoàn. Sau khi cửa buồng đóng, mỗi người một sàn, đều
để bát cơm lên cái cùm ngồi ăn.
Tôi thấy ông ta giở túi
lấy ra một gói bánh mì khô đã cắt thành từng miếng nhỏ. Ông ta lấy hai miếng để
ăn thêm với cơm. Chỉ có 2 người một xà lim, cho nên đương nhiên phải nói
chuyện. Phần tôi, do phản xạ nghiệp vụ nên luôn luôn cảnh giác. Nếu là khổ nhục
kế hay các thủ đoạn moi tin thì đừng hòng!
Tôi tự đặt cho mình một
nguyên tắc là dù tù giả hay tù thật, tôi cũng không bao giờ nói những gì tôi
không khai với chấp pháp. Tôi cũng phải xác minh xem ông Hoàn này là tù thực
hay tù giả.
Qua những câu chuyện
trao đổi, tôi được biết. Ông Hoàn là cán bộ lưu dụng, y sĩ thú y, quen biết
nhiều người trong chế độ cũ đã đi di cư vào Nam. Ông có bằng trung học trước
đây, nên Pháp văn cũng khá. Ông có vợ con và nhà ở vùng chợ Mơ, ngoại thành Hà
Nội. Vì cách đối xử phân biệt kỳ thị cán bộ trong ngành nên ông buồn, công tác
tiêu cực, nên cuối cùng bị cho về vườn. Ông cố gắng chịu đựng cảnh túng nghèo,
nhưng cuộc sống càng ngày càng bế tắc. Ông nghĩ tới những bạn bè đã đi vào Nam,
rồi từ đó đưa đến ý tưởng vượt tuyến. Tư tưởng ra đi cứ nhen nhúm âm ỉ cho tới
một ngày, ông gặp lại một người bạn học cũ, cũng đang sống lất lây ở Hải Phòng
lên chơi. Hai người đã tâm sự luận bàn suốt cả đêm, rồi sau đó đã hoạch định
một cuộc vượt tuyến vào Nam. Đến ngày đi, vì tình cảm bịn rịn vợ con, ông đã ăn
một bữa cơm từ biệt và dặn dò vợ con. Đứa con trai út 10 tuổi của ông đã vô
tình nói với bạn nó. Từ đấy, công an biết và theo dõi. Hai ông đi đến Thanh Hóa
thì bị bắt.
Nghe ông kể lại chuyện
của ông, tôi chả đặt vấn đề là tin hay không tin gì cả. Cứ như là nghe cho biết
vậy thôi. Phần tôi, tôi cứ thực hiện nguyên tắc đã tự đặt cho mình. Nghĩa là,
tôi cũng kể sơ cho ông nghe (những điều tôi đã khai với chấp pháp) là tôi ra
Bắc có nhiệm vụ về quân sự. Vì có thiện cảm với xã hội chủ nghĩa, nên tôi chẳng
muốn làm gì, chỉ thích đi chơi, đi lang thang khắp Hà Nội…
Rồi tương kế, tựu kế,
giả như ông ta là người của Cộng Sản làm khổ nhục kế để moi tin, thì qua ông,
tôi đã “vờ” thổ lộ được những tâm sự “rất thành khẩn”. Nào là: Xã hội chủ nghĩa
thật công bằng, ai cũng như ai, không có kẻ giàu người nghèo như trong Nam. Bác
Hồ sống thật giản dị, uy tín của bác thật lớn. Trong tự điển Anh và Pháp cũng
thấy nói đến tên bác. Các nhà văn, nhà thơ ít vào miền Nam, hầu hết đều ở miền
Bắc, theo kháng chiến. Như vậy, chế độ miền Bắc là chính nghĩa, v.v…
Để biết rõ ông Hoàn này
là thực hay giả, nên trong những ngày chung đụng chuyện trò, một lần tôi giả vờ
“vô tình” tiết lộ một điều mà tôi chưa hề khai với chấp pháp: Đó là chuyện hồi
1954, tôi được đón vào Bình Xuyên theo Trung úy Nghĩa.
Còn đối với chấp pháp,
qua cách hỏi cung của họ, tôi nắm được một cách chắc chắn là họ không biết gì
về tôi cả. Vì thế, họ lần mò từ những sự kiện nhỏ nhặt, những mâu thuẫn, câu
nói, những sơ hở… của tôi, để từ đấy hòng phanh phui để biết cái thực về tôi.
Điều quan trọng đối với
tôi là phải nhớ những điều gì mình đã khai ra, và những điều gì mình chưa hề
khai, sao cho hợp lý. Nhiều khi phải vờ quên một sự việc này để che lấp một sự
việc kia; hoặc làm ra vẻ ngây thơ non dại để dùng một sự kiện kia làm sáng tỏ
sự việc này v.v… Nói chung, đây chính là một cuộc đấu tranh bằng mưu mô, thủ
đoạn, giữa một bên là một mình tôi và bên kia là cả một tập thể phòng 44, phòng
chấp pháp chính trị của Hà Nội. Cho nên, đầu óc tôi luôn luôn căng thẳng. Những
lần đi cung, tôi cũng mắc phải nhiều sai lầm. Có những sai lầm trầm trọng.
Trong cuộc đấu trí này,
tôi bị yếu thế về nhiều mặt như: Tôi hoàn toàn bị động, họ chủ động mọi mặt. Tôi
chỉ như một con chim ở trong lồng, họ có đủ mọi ưu thế của một người cho ăn,
hay để cho chết đói hoặc khát. Họ có đủ kiểu cách để biết chỗ yếu của con chim
ở trong lồng kia để từ đó, chỉ huy con chim theo ý người. Vả lại, tuổi đời tôi
vẫn còn trẻ, vẫn còn bồng bột ngây thơ, chưa hiểu biết mọi mặt của cuộc đời;
Tuổi “nghiệp vụ” cũng chưa được bao nhiêu, vẫn còn ấu trĩ và chưa hiểu đủ về
Cộng Sản.
Tôi cố suy nghĩ, tìm ra
những cái ưu của mình và tăng cường phát huy tối đa để phần nào xóa bớt những
cái nhược trên. Tôi phải tỉnh táo sáng suốt, nhìn rõ mọi sự việc để đối ứng;
kiên trì chịu đựng đau thương gian khổ; nâng cao ý chí căm thù giặc cộng. Lấy ý
thức Thiên Chúa Giáo và lý tưởng tự do làm cứu cánh.
Sau những ngày tôi phải
khai báo chi tiết toàn bộ, một hôm, gần cuối tháng 7 (1962), chúng gọi tôi lên.
Lần này, chỉ có tên Đức và một tên cảnh sát lạ mặt đội mũ cối cùng ngồi trong
phòng với hắn. Tên Đức chỉ tôi ngồi, rồi nói:
- Bây giờ, chúng tôi
yêu cầu anh, mỗi ngày hai buổi lên đây. Anh sẽ ngồi viết bản tự khai chi tiết
về toàn bộ cuộc đời anh: Ở nhà quê đi học thế nào? Ra Hà Nội, làm gì, với ai và
ở đâu? Vì sao vào Nam, làm gì? v.v…Tất cả mọi vấn đề cho tới lúc đi lính, vào
tình báo, rồi ra Hà Nội. Ra Hà Nội làm những cái gì? Đi những đâu? Tiếp xúc với
những ai? Cho tới khi bị bắt…
Hắn cao giọng:
- Anh sống hay chết,
buồn hay vui của đời anh bây giờ là bản viết này đây. Vậy, phải cố gắng để
hưởng lượng khoan hồng, của đảng và nhà nước. Đảng và nhà nước đang mở cửa chờ
anh. Anh có toàn quyền viết khác hẳn những lời, những việc đã khai báo trước
đây, hoặc những chỗ khi khai báo đã lú lẫn quên đi. Hàng ngày sẽ có một đồng
chí cảnh sát ngồi đây với anh. Có yêu cầu gì về giấy bút, hoặc xin đi vệ sinh,
phải báo cáo với đồng chí cảnh sát, đồng chí đó sẽ giải quyết. Thái độ viết
phải khẩn trương, nhưng không hạn chế thời gian.
Tôi luôn miệng vâng dạ,
tỏ ra rất ngoan ngoãn dễ bảo. Từ đó, cứ ngày hai buổi: Sáng từ 8 giờ, mụ Hoa
hoặc tên mắt ốc nhồi (sau tôi biết tên hắn là Bằng), đôi khi một mụ khác tên là
Thơ, Trung sĩ coi khu nữ vào dẫn tôi đi, cũng như dẫn về. 12 giờ trưa về, 1 giờ
lại đi và chiều 5 giờ về. Ngày 8 tiếng, Chủ Nhật nghỉ.
Thời gian viết này, tuy
tôi có vẻ thoải mái hơn trước, nhưng đầu óc cũng không kém suy nghĩ, tính toán.
Tôi phải vừa cân nhắc viết gì cho hợp với những điều đã nói, để choáng những sự
việc và những thời gian tôi cần giấu, vừa phải ghi nhớ những điều mình đã viết
ra và những điều mình đã nói trước đó. Hàng đêm, tôi cứ phải nhẩm lại những
điều mình đã viết lúc ban ngày.
Chân tôi gần một tháng
mới khỏi. Cũng chính tôi đã lợi dụng tên Hoàn ở cùng phòng, giúp về việc chữa
chạy cái chân đau này. Qua một số những thử thách, tôi chắc đến 80% y là loại
khổ nhục kế vào nằm với tôi để móc tin, vì thế, khi chân tôi mưng mủ làm đau
nhức, đêm đêm, tôi cứ than van tâm sự với lão:
Bác ạ, nhiều lúc cháu
đang suy nghĩ để viết ra hết những điều họ huấn luyện cháu, hoặc những thủ đoạn
mưu mô họ giảng dậy cho cháu, nhưng cái chân lại đau nhức không thể chịu được,
làm ảnh hưởng đến cái đầu, khiến cháu quên tiệt.
Mấy ngày sau đó, y bảo
tôi đứng ở cửa sổ nhỏ cứ báo cáo ầm lên là cần y tá. Tôi làm theo và được lão
cán bộ Nhiễm, đưa bà Dậu y tá vào tiêm cho một phát và cho thuốc rắc vào vết
thuơng. Dăm ngày sau, chân tôi khỏi.
Lão Hoàn, cứ mươi ngày
hoặc một tuần lễ lại có chuối ăn. Y ra vẻ tâm sự:
- Con bé cháu là giáo
viên, quen một anh công an ở đây, nên được đặc biệt tiếp tế một tháng hai lần.
Tuy chưa kết luận hoàn
toàn, nhưng tôi đoán là sớm muộn lão Hoàn cũng đi chỗ khác. Bởi vì, những điều
hắn biết chẳng thể hơn được, những điều chấp pháp biết về tôi; nhiều chỗ còn
không biết bằng. Một hôm, đầu tháng 8, một việc làm không hợp lý của lão càng
lộ rõ hơn. Lúc đó, khoảng 6 giờ chiều, tôi đi cung về chừng hơn một tiếng, lão
ra đứng chỗ cửa sổ nhỏ, chõ mồm ra ngoài gọi:
- Số 6! Số 6! Có khỏe
không? (tức buồng số 6 bên cạnh).
Lão mới gọi được 2
tiếng, cửa nhỏ xoạch mở. Lão Hoàn lùi lại, lão Nhiễm chỉ tay vào buồng:
- Ai vừa gọi? Hai anh,
anh nào?
Tất nhiên, phải có
người nhận. Lão Hoàn có vẻ rụt rè:
- Thưa ông… tôi…
Cửa lớn mở, cùm rút ra
và Nhiễm quát:
- Bỏ chân vào! Anh dám
liên lạc với buồng bên cạnh à!?
Hoàn cố nằn nì:
- Xin cán bộ tha cho!
Lão Nhiễm nghiêm mặt:
- Bỏ ngay chân vào!
Hoàn từ từ bỏ một chân
vào cùm. Khi xập cái cùm xuống, lão Hoàn cố ý đẩy cái chân lên quá sâu, để cái
cùm lên tới ngang bắp chân, nên lỗ cùm không vừa. Mồm lão kêu tía lia:
- Thưa cán bộ, không
vừa, đè xuống gẫy chân tôi mất!
Thời Pháp làm cùm này
là cùm đúc, họ đã tính hết các cỡ chân, thế mà lão Nhiễm loay mãi không cùm
được (?), lão quát:
- Ôm quần áo theo tôi!
Lão Hoàn luýnh quýnh vơ
cái túi, khăn mặt, v.v… Lại vờ ôm theo cả cái gáo, khi Nhiễm hất tay lão, bảo
bỏ lại, y mới nghe theo.
Cửa đóng, tôi chỉ còn
một mình. Tốt quá, được cái gáo to một chút, đỡ khổ!
Thật là buồn cười và
nhạt nhẽo. Gần một tháng ở chung buồng với tôi, lão Hoàn tỏ ra là một người
trầm tĩnh, với tuổi đời đã 46. Tại sao, bữa nay lại có cái hành động trẻ con
nhố nhăng như vậy? Đến tôi còn chưa làm thế huống chi lão. Gọi buồng bên cạnh
bâng quơ để giải quyết cái gì, trong khi nội quy nghiêm ngặt rõ ràng. Từ đấy,
tôi chẳng bao giờ thấy Hoàn nữa.
Có thể trước đó, bọn
Cộng Sản tính rằng, tên Hoàn và tôi gặp nhau là hợp. Một người trí thức, hiểu
biết, không thích Cộng Sản trốn vào Nam; một người hoạt động cho miền Nam, lại
ở miền Nam ra, gặp nhau, hợp quá rồi còn gì nữa!
Lão tìm hiểu về miền
Nam là hợp lý. Tôi trả lời rất nhiều chuyện, nhưng chuyện nào cũng tỏ ra chê
bai, nghĩa là tìm những mặt xấu để phê phán về chế độ miền Nam. Chúng định, qua
lão Hoàn này, sẽ khai thác được cả về mặt tư tưởng lẫn sự việc của tôi. Đừng
hòng! Nếu lão cứ theo những lời tâm sự của tôi để báo cáo, thì tôi là người yêu
xã hội chủ nghĩa quá xa rồi còn gì!
26.
Vẫn Trò Cân Não Trong Sự Sống Chết Tù Đày…
Dạo này, trời chuyển sang Thu, không khí trở lên dễ chịu.
Tôi đỡ khổ với cái nóng, cái hôi hám của cơ thể, nhưng muỗi thì vẫn hành tôi.
Dù đêm nào tôi cũng phải chập chờn đập, đuổi muỗi, nhưng tay, chân và những chỗ
hở quần áo không che được trên người tôi, luôn luôn có vết muỗi đốt mới. Vết cũ
mờ dần, còn mặt vì không có gương, tôi chả làm sao nhìn ra được.
Tôi viết khoảng 26, 27
ngày thì xong. Được gần 90 trang giấy. Hai ngày sau khi viết xong, tôi lại bị
gọi lên cung.
Hôm nay có Đức và một
người lạ, sau này tôi được biết tên y là Nhuận, da đen đen chừng hơn 30 tuổi.
Ngay sau khi vừa bước chân vào phòng, thái độ của họ nhìn tôi như kẻ thù. Tôi
chỉ biết ngồi xuống chiếc ghế đẩu trước bàn chúng như mọi khi, cúi đầu, chờ
đợi. Tên Đức đập mạnh tập giấy tôi viết xuống bàn.
- Anh viết thế này à!?
Anh coi công an là trò đùa với anh đấy à?
Tên Nhuận đập bàn đánh
cái rầm một tiếng, quát:
- Anh muốn sống hay
muốn chết? Với cái trò trẻ con này, anh muốn qua mặt công an ư? Chúng tôi tỏ
lượng khoan hồng cho phép anh ngồi viết, anh viết láo thế này à?
Chúng nó đập bàn xô
ghế, quát tháo, nạt nộ, xỉ vả ầm ầm. Tôi cứ lặng lẽ ngồi yên cúi đầu, mặc cho
chúng nổi trận lôi đình. Mãi tới khi chúng quát:
- Anh câm à? Trả lời
đi!
Tôi ngửng đầu lên nhìn
chúng với ánh mắt sợ sệt buồn khổ:
- Thưa các ông, tôi chỉ
biết thành thật viết hết những điều chính về cuộc đời tôi, và tất cả những cái
gì Mỹ Diệm đã huấn luyện tôi, cũng như những việc tôi đã làm khi ra ngoài Bắc…
Tên Đức đập tập giấy
tôi viết xuống bàn, trước mặt tôi:
- Anh tuởng anh ở trong
Nam, chúng tôi không biết được anh à? Anh ra ngoài Bắc làm gì, đi những đâu,
chúng tôi biết từ lúc anh chuẩn bị ra đây cơ. Nhiệm vụ anh ra ngoài Bắc, anh
khai hoàn toàn láo toét hết.
Tôi tỏ thái độ thành
khẩn:
- Thưa các ông, tôi hiểu
cách mạng lắm. Ngay ở trong Nam, các ông không thiếu gì người nằm trong chính
quyền. Tôi tin rằng, ngay trong cơ quan tình báo của miền Nam cũng có người của
các ông, vì thế tôi đã rất thành thực khai báo sự thật. Hơn nữa, tôi cũng chẳng
thích chế độ Mỹ Diệm, nên khi ra tới Hà Nội, tôi đã chẳng làm gì cho chúng cả,
tôi chỉ đi chơi thôi…
Tên Nhuận chỉ vào mặt
tôi:
- Anh câm cái miệng anh
lại, đừng bịp chúng tôi. Ngay từ khi anh di cư vào miền Nam, cách mạng đã biết
anh rồi! Anh làm cái gì, ở đâu, giao thiệp với những ai. Anh tưởng, anh che
giấu được à? Tôi hỏi anh có biết tên Nghĩa không?
Tôi vờ mở to mắt ngạc
nhiên:
- Có phải Nghĩa ở trại
sinh di cư Phú Thọ, học đệ tứ Chu Văn An phải không ạ?
Nó đập bàn gắt:
- Đừng vờ vịt. Thằng
Nghĩa Trung Úy Bình Xuyên, anh có biết không?
Tôi vờ tái mặt, giật
mình sợ sệt:
- Dạ có!…
Trong lòng tôi thầm
nghĩ, thì ra là thằng già Lê Văn Hoàn chó chết đây mà. Tao đã biết trước, và
bây giờ thì kết luận về mày được rồi đây! Tên Đức hý hửng ra mặt:
- Đấy, anh giấu chúng
tôi sao được! Còn bao nhiêu việc khác nữa. Tôi cho phép anh khai báo lại. Không
thì anh sẽ biết, anh sẽ chết một cách khốn nạn, đau đớn!
Tôi tỏ ra rất hoang
mang, sợ sệt, nét mặt ủ rũ như cố nhớ lại một điều gì, rồi như chợt nhớ ra,
tươi lên:
- Thưa các ông, tôi không
ngờ các ông lại biết rõ thế. Thực sự trước đây, tôi thấy không cần nói đến tên
Nghĩa ở Bình Xuyên. Bởi vì trước đây tôi vào Bình Xuyên chỉ có mươi ngày, mà
lại là do tính trẻ con tò mò của mình, không liên quan gì đến chính quyền Ngô
Đình Diệm, nên tôi đã không nói. Vừa qua, tôi đã rất thành khẩn khai báo, tôi
cứ lo âu không biết cách mạng có hiểu rõ cho sự thành khẩn của tôi không.
Nhưng, thế này, tôi rất mừng, cách mạng đã hiểu hết tôi không lo gì nữa.
Chúng nó nhìn đăm đăm,
nét mặt cau cau lại, miệng nhếch mép cười:
- Anh đừng già họng
nữa, nghe tôi hỏi đây…
Chúng giở tập tôi viết
và tập hồ sơ của chúng. Thằng thì hỏi:
- Thời gian ở trại định
cư Hà Nội Hố Nai, anh quan hệ với linh mục Loan, trưởng trại thế nào???
Thằng thì hỏi:
- Tên Hòa là người Bắc
hay Nam? Anh hãy tả lại người nó tôi xem? Nó hay mặc quần áo gì?…
Trả lời câu này, tôi cứ
hình dung ra bóng dáng của ông cậu tôi hiện đang sống ở Pháp để tả.
Lúc thì tên này hỏi:
- Anh ở đoàn võ Đinh Bộ
Lĩnh thường đi với ai?
Lúc thì tên kia cật
vấn:
- Năm anh học Đệ Nhị,
trường Hưng Đạo, Cống Quỳnh, những giáo viên nào dậy anh?
Chúng nó hỏi lung tung.
Đầu óc tôi quá mệt mỏi. 12 giờ trở về xà lim, người tôi đờ đẫn. 1 giờ chiều lại
tiếp tục, 5 giờ về, 6 giờ lại đi đến 9 giờ tối. Cứ như vậy kéo dài hơn một tháng
trời. Có hôm 3 thằng hỏi, quát nạt, đe dọa; thậm chí có một vài ngày đến 4
thằng thay phiên hỏi, truy. Ban ngày, tụi công an hành hạ. Ban đêm, muỗi đua
nhau hút máu.
Chỉ có một thời gian
ngắn, chân tay tôi đã khẳng khiu, xanh tái. Hơn nữa, tôi càng ngày càng thấy
đói nhiều, dần dần mỗi ngày mỗi thiếu. Cơ thể tôi còn chút nào dự trữ, chắc đã
bóc ra hết. Tôi nhớ lại, từ lúc mới vào, tuần đầu ăn không hết suất cơm. Hai
tuần sau, chén ngon lành. Bây giờ, tôi ước gì được 2 suất ăn cho no một bữa,
nhưng không có.
Ngày nào cũng vậy, dù
đầu óc căng thẳng vì cung kẹo, nhưng khi về buồng, thấy bát cơm là vồ vập ăn
ngay, vừa mới ăn đã hết rồi. Bát cơm không còn một mẩu hạt cơm dính, canh húp
đến khô cả bát, thế mà mồm vẫn còn thòm thèm, mắt còn nhớn nhác tiếc rẻ nhìn hai
cái bát đã sạch trơn.
Mỗi lần ngồi xuống đứng
lên, tôi đã mắt hoa đầu váng. Thế mà những con muỗi ác ôn, đêm đêm vẫn cứ rủ
nhau hút máu của tôi mãi. Hình như chúng toa rập với lũ cộng dã man, để hành hạ
tấm thân chỉ còn xương với da của tôi tới chết. Móng tay, móng chân của tôi dài
ra, tôi cũng chưa biết làm sao cắt được. Trong những lần đi cung, trên đường
đi, một hôm tôi bất chợt thoáng thấy một cái đinh dài chừng 4 phân. Hai ba lần
tôi định nhặt, nhưng chưa có thời cơ nào thuận tiện. Rồi một bữa, mụ Hoa dẫn
tôi về ngang qua đấy, may quá có một cô tù chạy ra báo cáo gì với mụ. Tôi ngồi
xuống, lẹ tay vớt một cái. Thế là được rồi. Những buổi sau đó, tôi ngồi mài mãi
đinh xuống sàn xi măng. Mài vài buổi, giờ tôi đã có một con dao nhỏ xíu, nhưng
đủ để giải quyết những cái móng tay móng chân, đôi khi còn… ngoáy tai nữa.
Bất ngờ một hôm, cửa sổ
nhỏ xịch mở, tôi đang ngồi cắt móng tay, không giấu kịp. Thế là tên Nhiễm quát,
bắt đưa cho y. Sau đó, y mới mở cửa lớn. Tên này thật tinh quái, y sợ rằng
trong lúc loay hoay mở cửa lớn, tôi có thể ném cái đinh vào một góc buồng rồi
chối biến đi, nên y đã bắt tôi đưa cái đinh rồi mới mở cửa. Y vào lục lọi khám
xét hết cả người tôi. Mọi xó xỉnh, kể cả kẽ cùm, không có gì nữa, y ra và đóng
cửa lại. Chừng 30 phút sau, tôi nghe tiếng dép trở lại, rồi động ở đầu cùm, và
chốt cùm rút ra kêu cái xoạch. Tôi hết hồn. Cửa lớn mở, y vào cầm theo tờ giấy,
đọc:
- Lệnh của ban giám thị
kỷ luật: Tên Đặng Chí Bình phạt 7 ngày cùm hai chân. Kể từ ngày… đến ngày… vì
đã đưa kim khí vào buồng xà lim.
Tên Nhiễm nhìn tôi, ra
lệnh:
- Anh hãy chấp hành
lệnh kỷ luật.
Tôi thật buồn khổ, biết
có xin cũng chả được, đành phải nhắc hai cẳng cho vào cùm. Trong lòng rất hận
tên Nhiễm chó chết này. Thế là lại hai chân trong cùm. Đêm hôm đó thật là cay
đắng cuộc đời. Hai đầu gối mỏi dừ, muốn co người lại, phải lựa thế từ từ tụt
người xuống chỗ cùm một lúc, rồi lại từ từ lựa để lết người lên. Bởi vì cạnh
cái cùm rất sắc. Cũng may, kỳ này tôi gầy đét nên hai chân trong lỗ cùm cũng
lỏng. Thế nhưng ban đêm, lúc mệt quá thiếp đi, trong khi mê ngủ, quen như mọi
bữa mỏi chân thì co mạnh lên, lại bị trầy da chảy máu. Ngồi nhìn máu chân chảy
ra trong đêm khuya vắng lặng dưới ánh đèn điện một mình, lại chẳng có gì để
rịt, tôi chỉ biết lấy ngón tay quệt; lại chảy, lại quệt…Ôi, thân phận lao tù!
Sao giữa loài người với nhau mà tàn ác với nhau như thế này!
Có tiếng rên văng vẳng
đâu đây, ở một buồng nào đó? Thỉnh thoảng một tiếng rúc dài chặc… chặc… chặc…
của một con mối, ngoáy vào trong đêm trường nghe như lời than vãn xót thương,
cho những kiếp người cùng khổ! Tôi cứ ngồi như thế mãi trong đêm thâu, một tay
đuổi muỗi, và một tay thỉnh thoảng lại quệt giòng máu vẫn rỉ ra. Máu tôi bây
giờ, quá loãng không đông lại được. Bụng róc rách cồn cào, chẳng hiểu trong
bụng tôi có giun nào không? Nếu có, chú mày phen này cũng phải nằm liệt! Một sự
an ủi tương đồng chợt nhú lên trong óc tôi. Tôi đói, một sinh vật nữa (biết đâu
lại vài con thì sao) cũng đang không nằm yên được, cũng dẫy dụa… thèm ăn như
tôi. Chẳng đâu xa, ở ngay trong tôi. Tôi đang miên man trong rừng sầu, chợt cửa
nhỏ mở, tối mò không trông rõ là bộ mặt ai:
- Sao không ngủ, ngồi
làm gì?
Cũng tiếng hỏi như mọi
khi, nhưng hôm nay như ẩn tàng một niềm xót xa giữa người với người. Tôi dịu
giọng chỉ vào chân:
- Chân tôi bị cạnh cùm
làm chảy máu, nó không cầm!
Một lúc, tôi nghe
tiếng:
- Rịt chỗ thuốc này
vào.
Một ngón tay thò vào,
trên đầu ngón có ít thuốc lào. Tôi xố xoay người tìm thế với tay ra. Một bàn
tay run rẩy chơi vơi, vì cạnh cùm nghiến vào chân, đang cố dướn tới. Một ngón
tay ráng sức thò vào, chỉ cách nhau có 2 phân. Hai bên cùng cố, tôi gắng liều,
dù chân có bị cứa ở chỗ khác nữa. Rồi cuối cùng cũng được. Tôi xoay thế để ngồi
lại, rịt chỗ thuốc lào đó vào chỗ đang rỉ máu. Cửa nhỏ đóng lại. Tiếng dép
trong đêm dài xa dần.
Một người nào đó có
trách nhiệm đi tuần đêm? Như vậy, dưới đáy con tim của người này vẫn còn một
chút chất người! Một niềm tin tưởng dậy lên trong tôi:
Cộng sản không thể
nhuộm đỏ hết được tâm hồn mọi người.
Sáng hôm sau vẫn đi
cung. Phải nói là lúc này tôi sợ đi cung quá rồi. Tôi chỉ muốn được nằm yên,
nhưng bây giờ, đi cung thì tuy bị chưởi bới, nhiếc móc, nhưng cái cái chân lại
được nghỉ. Cho nên, giữa hai cái cùng khổ cả, tôi phải thích cái khổ ít hơn
vậy.
Vào buồng hỏi cung,
cũng tên Nhuận da chì và tên Đức. Tôi không thể ngờ chúng lại truy kỹ như vậy.
Nhiều lúc tôi cũng không biết trả lời sao, dù việc đó là sự thật. Thí dụ, một
lần nó hỏi:
- Anh nói anh vào nhà
thờ “X”, vậy anh gặp những ai?
- Tôi chỉ thấy mấy ông
bà già…
- Vào để làm gì?
- Tôi là người Công
giáo. Vì hoàn cảnh bắt buộc phải ra Bắc. Tôi sống chơ vơ, heo hút lang thang
một mình, chả biết ngày mai ra sao nên tôi tìm vào bất cứ một nhà thờ nào có
linh mục để xưng tội. Lỡ có sao, thì mình chết vô tội…
Tên Đức đập tay vào bàn
nghe cái “thình”, rồi y đứng giỗ dậy sừng sộ:
- Anh nói láo thế à!
Anh định bịp chúng tôi à! Anh đã lợi dụng xưng tội để nói gì với linh mục đó,
chúng tôi đã biết hết, biết hết! Anh hãy khai ra đi để chúng tôi thấy được tư
tưởng của anh với linh mục đó! Chúng tôi đã ghi âm cả…
Tôi thót tim, lo lắng,
chúng nó đã biết hết rồi chăng? Nhưng, tôi chợt nhớ và suy lý, nếu chúng biết
sao chúng không hỏi một tí gì về việc tôi trao thư tay cho linh mục? Để thăm
dò, tôi vờ ngờ ngác trả lời:
- Tôi chẳng hề biết
linh mục đó là ai. Tôi cũng chả để ý nhìn người, thế thì tôi nói chuyện cái gì?
Chúng cứ khẳng quyết là
tôi đã nói gì với linh mục đó. Rồi không sao được, chúng bắt tôi tường thuật tỉ
mỉ chi tiết đã xưng tội những gì… Phần vì, tôi sợ là chúng sẽ lấy lời khai của
tôi rồi vào bịp Cha A, khó cho cha trả lời; phần khác, tôi đã nắm được chuyện
ghi âm của chúng là chuyện không thực, cho nên tôi mạnh bạo:
- Chuyện xưng tội chỉ
là lấy lệ của người Công giáo. Vì thế, tôi không quan tâm nhiều, nên tôi chả
nhớ những tội vặt của tôi.
Đến đây, tôi biết là
vừa rồi chúng chỉ trộ tôi. Tôi ý thức sẽ lợi về sau, nên tôi cũng không hề nhắc
hay đòi nghe cuốn băng ghi âm. Cuối cùng, mãi không được, tên Đức xẵng giọng:
- Lúc trở ra anh gặp
ai?
- Tôi chỉ thấy xe cộ và
người đi lại…
- Người đi lại đó, ăn
mặc thế nào?
- Tôi chẳng để ý nên
không biết.
Nó lại đập bàn:
- Mắt anh nhắm hay mở
mà nói không biết!?
- Tôi không biết thực,
ông cứ bảo tôi biết thì làm sao tôi nói?…
Hoặc nó hỏi:
- Cơ quan tình báo của
and ở đâu?
- Tôi không biết, hàng
ngày tên Hòa đến dạy tôi, chứ tôi không biết.
- Anh nói láo! Anh nói
thế mà tai anh nghe được à! Đi làm mà không biết cơ quan ở đâu, không biết cơ
quan gì!?
- Thưa các ông, thực sự
tôi không hề biết. Tôi nhiều khi muốn biết, nhưng trong bài học, ông đã biết
đấy, tôi không được hỏi hoặc tìm hiểu những gì không có liên quan.
- Nhà thằng Hòa ở đâu?
Nó thường đi với ai? Thường đi xe gì? Ngoài lúc dậy, thường thấy nó đi đâu?
Suốt cuộc đời tôi, chỗ
nào chúng cũng truy. Huấn luyện môn gì, từng môn, thời gian đi học, ở nhà quê,
Hà Nội, đi lính ở sư đoàn 7… Cứ miên man, chúng dẫn tôi vào mê hồn trận. Hơn
nữa bây giờ, đêm lại bị cùm kẹp, chân tôi tê dại, nhiều lúc chúng đang hỏi cung
tôi xỉu, chúng phải cho tôi về.
Tôi đã bị cùm chân nửa
tháng, mà không thấy chúng tha. Một hôm, tôi hỏi quản giáo xà lim:
- Báo cáo ông, hôm
trước ông đọc biên bản kỷ luật 7 ngày. Bây giờ đã 15 ngày đề nghị ông xét!
Nó cười:
- Anh cứ suy nghĩ đi!
Tôi chẳng hiểu:
- Thưa ông, tôi suy
nghĩ gì ạ?
- Suy nghĩ gì thì anh
biết, đừng hỏi tôi!
Rồi nó đóng xầm cửa
khóa lại. Tôi hiểu rằng đây là tại chấp pháp cho lệnh cùm tôi. Chứ đã có lần
tôi thoáng nghe, ở buồng bên cạnh có tù bị cùm, một chân, nghe tiếng đọc biên
bản một tuần, thì đúng một tuần là tha, người tù đó cũng vi phạm nội quy. Tôi
cũng vậy, mà chỉ là cái đinh con, cắt móng tay, nặng lắm là một tuần cùm một
chân. Bây giờ lại bị cùm những hai chân, mà 15 ngày rồi. Tôi giận lắm, nhất
định phải làm sao cho rõ vụ này. Tính như vậy, nên hôm sau lên cung tôi hỏi:
- Thưa, có phải các ông
cho lệnh cùm tôi, vì tôi khai báo không tốt, phải không ạ?
Chúng nó nói:
- Anh hỏi để làm gì?
- Để tôi xác định rõ
vấn đề!
- Chúng tôi không biết
anh bị cùm. Đây là do bên trại giam. Anh nói để xác định rõ vấn đề gì?
Tôi nhìn thẳng chúng
nó:
- Tôi theo và tôi thích
xã hội chủ nghĩa nên tôi mới thành khẩn khai báo. Vậy, tôi khai báo đây là do
tự nguyện lòng tôi. Nếu như vì tôi sợ cùm kẹp mới khai báo sự thật, sự khai báo
đó cũng chẳng tốt gì. Hơn nữa, đối với tôi, như vậy thà chết còn hơn là sự đau
khổ làm một thằng hèn.
Chúng nó quắc mắt:
- Chúng tôi nói là
chúng tôi không cùm anh. Để chúng tôi hỏi lại bên trại giam xem thế nào.
Cứ thế ngày tháng trôi
qua. Cơ thể tôi cũng dần dần tàn lụi. Tôi nghe trong thân thể mình có nhiều
triệu chứng lạ. Hai chân tôi gần như mỗi khi đứng lên không vững nữa. Hai mu
bàn chân hình như sưng to lên. Những lúc ỉa đái thật là vất vả đau đớn. Cũng
may, hai ba ngày tôi mới đi ngoài một lần, do ăn ít, do không có sức vận động
nên thành kiết, táo. Mỗi lần đi ngoài, tôi phải cúi xuống gầm sàn kéo bô ra, mở
nắp, đặt sao cho đúng chỗ, rồi tôi lựa nằm nghiêng, đưa mông ra ngoài sàn. Cứ
nằm thế mà rặn. Đang đi mà mót giải thì ôi thôi, đành để cho nó chảy qua đùi
rồi xuống sàn. Ướt cả quần cũng kệ nó. Chân tê dại, đau nhức, người tôi không
còn sức để xê dịch, mỏi dừ, rã rượi. Nằm như vậy, vừa đau, vừa mỏi, vì rất khó
khăn, mắt nhiều khi hoa lên, quay cuồng. Lắm lần, đi hai ba tiếng đồng hồ nên
tôi thường phải đi vào lúc đêm.
Lúc này, cái sống và
cái chết gần kề, tôi chẳng còn biết ngượng ngùng bẩn thỉu là gì nữa. Đang nằm
ỉa, có ai mở cửa nhỏ cũng mặc. Đi ra được một hòn phân, có khi cũng chẳng rơi
đúng bô, nó văng ra ngoài nền xi măng, cũng để đến mai khi gọi cung, hoặc khi
cho đổ, lấy tay nhặt vào. Có cái gì khác nữa đâu, khi đi ngoài xong, cố lựa tay
đổ gáo nước, rửa từ từ. Một tay dưới vai lại bị thân mình đè chặt, nên chỉ có
mấy ngón tay với lên ngó ngoáy cử động. Nhiều khi nước đổ một chỗ, mà tay lại
móc một chỗ khác. Hết cả nước rồi, tay vẫn còn đầy phân, đành cố với tay xuống
sàn gầm sàn mà quệt. Đỡ bẩn chút nào hay chút nấy, để còn lựa xoay người lại
cho đỡ mỏi tê.
Một đêm, tôi đang mơ
màng, bỗng nghe tiếng khè khè ư ử ở buồng bên cạnh, không rõ số 6 hay số 7. Đêm
khuya vắng lặng, tôi lắng nghe. Tiếng ư ử tiếp tục, nhiều khi như tắc nghẹn.
Tôi đã xác định được tiếng đó từ phòng số 7. Phòng đó cũng bị cùm, mà cùm một
chân. Cùm sau tôi chừng 10 ngày, chả biết vì sao.
Tôi suy đoán qua tiếng
khò khè: Đó là một người sắp chết vì thắt cổ tự tử. Nhưng, thắt cổ phải có dây,
và phải có chỗ treo. Riêng tôi trong nghề biết một cách, chì cần chỗ đuôi cùm
trên sàn, nghĩa là chỉ cần cao hơn mặt đất 60 phân, là có thể tự tử được rồi,
nhưng với điều kiện không bị cùm chân.
Tôi tò mò nghe ngóng.
Nỗi niềm của thân mình cũng đang không muốn sống nữa và một người có thể đang
đi dần đến chỗ tắt thở làm tôi cứ thức mãi.
Đêm thâu vắng lặng,
thậm chí nghe rõ tiếng muỗi vo ve, tiếng khò khè càng ngày càng yếu dần. Các
chú mối lâu lâu lại rống lên một hồi dài (hình như không thích ngủ ban đêm).
Mải miên man theo giòng lệ tưởng, tiếng khè khè im bặt tự bao giờ không biết.
Mãi sau, tôi nghe tiếng xẹp xẹp rất nhẹ đi vào xà lim, rồi tiếng mở một vài cửa
nhỏ. Khi mở tới cửa sổ của tôi, tôi vờ nhắm mắt ngủ. Rồi tới buồng số 7. Nghe
tiếng chân chạy ra mạnh hơn. Khoảng 15 phút sau, ba bốn người đi vào.
Tiếng chìa khóa, rồi
cửa lớn số 7 mở, tiếng mở cùm. Tôi cố lắng nghe:
- Còn sống không?
- Lâu rồi, máu khô rồi!
Rồi nghe thấy như
khiêng một người đi qua buồng tôi. Bất chợt, cửa sổ tôi lại mở, tôi nhắm mắt lẹ
nằm im, nghe tiếng cửa nhỏ đóng. Một lúc sau, nghe thấy tiếng nước máy chảy
mạnh vào bô. Tiếng nước dội và tiếng chổi quét dưới nền bên buồng số 7.
Sáng hôm sau, lúc đi
cung, tôi liếc mắt vẫn còn một ít nước màu đỏ sậm, sót ở vỉa hè trước buồng số
7. Như vậy là một người đã may mắn thoát được cảnh khốn cùng này. Xin chúc mừng
và ca ngợi sự dũng cảm của bạn. Có thể rồi đây tôi sẽ xin theo vết chân người.
27.
Cố Gắng Để Sống…
Hôm nay ở phòng cung, chúng nó truy hỏi:
- Năm 1953, khi ở Hà
Nội về quê, anh phao lên để người ta đồn anh bị điên, tại sao? Có phải tụi đế
quốc đã phao tin cho anh như vậy không? Năm 1954, vào Sài Gòn, lại phao tin anh
bị chẹt xe chết, như vậy phải chăng do Mỹ Diệm?
Tôi thật là bỡ ngỡ.
Nghĩ lại, kỳ hè 1953, tôi về quê chơi, khi đó tôi mới 15 tuổi. Tôi rất yêu cảnh
thiên nhiên đồng quê, thích nghe tiếng sáo diều ngân vang, tiếng chày giã gạo,
tiếng gà gáy, tiếng chó cắn, tiếng cọt kẹt của tre làng, trong những chiều Hè
gió lộng. Tôi thích thở hít mùi hoa bưởi, hoa cau, hoa soan, mùi nồng nồng của
phân trâu với rạ ẩm, xen lẫn với mùi thơm ngây ngất của lúa chín vàng, từ ngoài
đồng về. Vì thế, cứ mỗi chiều tàn, tôi thường hay lang thang ra cánh đồng rộng
một mình. Tụi trẻ con ở nông thôn và cả người lớn làm sao hiểu được tâm tư ấy
của tôi. Cụ thể, mỗi khi tôi ở ngoài đồng trở về, chúng vây đến hò hét , có đưa
nói là tôi điên. Tôi bực mình đuổi chúng, chúng chạy và nhiều đứa la hò:
“Điên chúng mày ơi!”
Rồi, họ đồn ầm cả huyện
là con ông bà ấy, ra tỉnh vì học nhiều, hoặc thất tình nên điên rồ.
Còn vụ chẹt xe: Khi tôi
vào Nam, bà Bảo Thịnh là bà cô của tôi có tiệm bán vàng ở mặt phố, trước cửa
chợ Bến Thành. Như đã trình bày ở trên, tôi không ưa những người giầu có nên
tôi không đến bà. Rồi một lần tình cờ, bà đọc một tờ báo nào đó, có một người trùng
tên, họ với tôi bị chẹt xe, đưa vào đến bệnh viện thì chết. Bà viết thư về Bắc,
báo cho bố mẹ tôi, khi đó chưa hết hạn 300 ngày của Hải Phòng. Làm bố mẹ tôi đã
điên rồ khóc thương bao ngày. Tôi cũng trả lời y như vậy với chấp pháp.
Chúng không tin và vẫn
cứ khẳng quyết là do đế quốc đã chuẩn bị dư luận cho tôi từ khi ấy. Tôi cũng
chịu cho cái óc đa nghi của chúng thật là phong phú! Tuy vậy, nhờ đó mà tôi
hiểu được một điều là chúng đã về tận quê tôi, để nghiên cứu điều tra kỹ càng
về tôi và gia đình bố mẹ tôi. Còn những việc trong Nam, chúng chưa cho tôi thấy
là chúng có thể tìm hiểu điều tra được. Dù thế, tôi vẫn thấy chờn sợ, cho sự
truy hỏi đào sâu đến tận cùng chi tiết, của từng sự việc của chúng.
Truy đi hỏi lại một sự
việc có khi đến 7, 8 lần. Hỏi bây giờ rồi bất chợt 8, 9 tháng hay một năm sau
lại hỏi lại.
Tôi đã bị cùm hai chân
hơn một tháng. Điều lạ lùng là không ai nhận cùm tôi cả, mà chân tôi vẫn cứ ở
trong cùm. Hỏi chấp pháp thì họ bảo do bên trại giam. Hỏi trại giam, thì trại
giam lại bảo bên chấp pháp. Một hôm trên đường đi cung về, thấy lão Trì, Trung
úy Phó Giám Thị, tôi xông bừa đến:
- Báo cáo ban (tôi gọi
theo những người tù), tôi bị cùm hai chân đã lâu mà không biết tội gì, xin ban
xét!
Y nhìn tôi một lúc rồi
hỏi tên, sau khi tôi nói lên, y bảo: Trại không cùm anh. Do ở trên cùm! Nói rồi
lão đi luôn. Tôi chẳng hiểu trên là trên nào.
Trời đã vào cuối Thu,
mấy hôm nay thỉnh thoảng đã có những đợt gió mùa Đông Bắc mò về sớm. Trời lạnh
thì muỗi ít, nhưng cái cùm và cái sàn xi măng đã bắt đầu hành chân và lưng tôi.
Cả đêm, hình như tôi chỉ thiếp đi từng lúc. Một buổi sáng hôm đó khi tên Nhiễm
vào mở cửa sổ con, bảo tôi mặc quần áo đi cung. Khi y mở cùm, tôi không nhắc
nổi chân ra. Tôi phải đưa tay xuống nhấc từng chân ra khỏi cái cùm. Khi đứng
lên, chân tôi rã rượi như mất cảm giác, nên tôi phải ngồi ngay xuống. Mụ Hoa
gọi cung đứng đấy, giục tôi đi nhưng tôi không đứng dậy nổi. Tôi đau đớn nhăn
nhó, cố gắng chống tay xuống đất để đứng lên, nhưng vẫn không thể đứng được.
Tên Nhiễm cau mày, tiến lại lôi tôi ra, tôi ngã nằm xoài, đầu đập vào cánh cửa,
choáng váng. Y đỡ tôi ngồi lên sàn rồi đóng cửa lại.
Mụ Hoa đi ra, chừng nửa
giờ sau, tên Nhiễm lại mở cửa đi vào, nói:
- Lệnh của Ban giám thị
cho anh nghỉ một ngày hôm nay. Ngày mai sẽ cùm một chân!
Tôi cảm ơn rối rít. Tôi
nhìn lão, hôm nay trông lão “không có vẻ” ác lắm! Mấy tuần đầu tôi ghét lảo cay
đắng. Bây giờ, tôi đã hiểu là không phải lão cố ý cùm tôi. Chính do lệnh từ
trên xuống, cố tìm cách để có lý do cùm, rồi cùm mãi. Khi mình đã là tù, họ
muốn tìm cớ để trị, họ có muôn ngàn cớ.
Cửa đóng lại, tôi nhìn
cái chân mình mà lòng thấy sầu khổ. Sống mà cái chân bị hỏng, đời sống thật là
khổ nhục. Tôi vẫn nhớ ngày xưa, ở Đại Hội “khỏe” của trường Nguyễn Bá Tòng, tôi
đã từng nổi tiếng về điền kinh: Bơi lội, leo dây, nhẩy… Vậy mà giờ đây chân tôi
thế này ư? “Hãy nổ lực! Tự mình, chính mình phải cứu lấy mình!”, tôi tự nhủ
thầm như vậy. Rồi thực hiện ngay ý định. Đầu tiên, tôi ngồi ngay trên sàn buông
thõng hai chân xuống. Mới đầu, tôi phải dùng tay nắm hai chân lắc lắc, sau dần
dần chính chân tôi tự lắc. Rồi từ từ hàng giờ sau, tôi đứng được xuống sàn nhà.
Tôi chậm chậm đi lại trong cái khung 2 thước vuông ấy. Cứ đi, mệt nghỉ, một lúc
lại đi. Bỗng cửa nhỏ mở, lão Nhiễm nhìn tôi tập đi, y mở luôn cửa to, nói:
- Ra lấy cơm!
Tôi với cái gáo, đi ra,
không thể đi nhanh, nhưng đi được. Tôi múc gáo nước, cầm bát cơm đi vào. Nhìn
mặt y, thấy như thoáng ánh lên một sự cảm thông vì tôi đã nỗ lực để sống. Chắc
y đã nghĩ rằng, với cảnh lúc sáng, tôi chưa thể ra lấy cơm được; chứng cớ là y
đã phải mở cửa coi trước để nhìn tôi xem thế nào.
Những thực tế tôi đã
trải qua trong cuộc sống, đã hình thành trong tôi một quan điểm:
“Hãy tin vào chính
mình! Hãy nổ lực hết mình với những cái bản thân mình có! Không ỷ lại! Không
trông chờ! Dù cho không đạt được kết quả theo ý muốn, ít ra về mặt tinh thần,
cũng không phải đến nỗi thẹn thùng nhìn xuống”.
Qua thực tiễn nhiều
thời đại của con người. Ở đâu cũng thế! Phương Tây có câu:
“Aide toi, et le ciel
t’aidera”
Mỹ, Anh cũng có câu:
“Heaven helps those who
help themselves!”
và Việt Nam chúng ta
cũng có câu chuyện về một người nằm há miệng chờ sung rụng.
Hãy trèo lên cây. Nếu
vì lý do nào đó, không trèo được, phải tìm cách chọc cho quả sung mình muốn,
rơi xuống
Nghĩa là, phải ăn những
trái sung trên cây theo ý mình; nếu yếu đuối quá, ít ra cũng phải bò dậy mò mẫm
nhặt, những quả sung rơi, như thế vẫn còn một chút chủ động, chọn được quả ngon
hơn.
Ăn cơm xong, lúc đi ra
trả bát, tôi vẫn còn thấy chân mình bì bì, căn cắn, đi lại còn ngượng ngập. Tôi
lại vào ngồi sàn kiên trì tập nữa. Tôi phải tranh thủ ngày hôm nay, kẻo ngày
mai lại bị cùm rồi. Lúc này, tôi mới thấy buồng khai và thối. Thảo nào, tên
Nhiễm lúc buổi sáng, vừa vào buồng đã nhăn mặt lùi ra ngay.
Buổi chiều, sau khi ăn
cơm xong, trả bát, tên Nhiễm rút chốt cùm ra, tôi hiểu đã hết giờ tự do. Tuy
trong lòng thắc mắc là y đã nói cho tôi nghỉ một ngày, tôi vẫn tưởng đêm nay
còn được tự do nữa chứ. Tuy thế, tôi không muốn hỏi. Nhưng tôi muốn xin đề nghị
một chuyện khác. Khi y nhìn tôi, ý bảo tôi cho chân vào, tôi tỏ thái độ lễ
phép:
- Thưa ông, buồng của
tôi thối quá, xin ông cho tôi tranh thủ 2 phút. Xin ông cho tôi một bô nước,
dội cái buồng một cái thôi cho đỡ hôi hám!
Y nhìn tôi với con mắt
lừ lừ một lúc, rồi quát: “Mau lên!”
Tôi cố chạy lẹ, dù chân
còn tập tễnh, tới chỗ bể nước, mở vội vòi, tráng qua nước giải, rồi lấy đầy bô
nước vào đổ trên sàn. Hai tay vội vàng xoa xoa, vét nước xuống nền, lấy chổi
thanh hao khua mấy cái, để cho nước chảy ra cái lỗ con ở chỗ chân tường phía
đầu nằm. Xong xuôi, tôi ngoan ngoãn vội vàng tự mình nhắc cùm và cho một chân
vào trước con mắt gườm gườm của y, trong khi y đang đứng lắc lắc chùm chìa khóa
ở tay. Y đóng chốt cùm, rồi đóng cửa, khóa lại. Thế là hết một ngày.
Cùm một chân thật dễ
chịu so với hai chân. Không phải chỉ bớt một nửa khó khăn, đau khổ, mà bớt được
hai phần ba. Thực thế, với kiểu cùm này, nếu bị cùm hai chân, tôi nghĩ rằng
không ai chịu nổi hai tháng. Con người tôi luôn luôn nỗ lực, từ bé nếu không
tập võ, tôi cũng tập thể thao, thể dục; vì vậy, trong thời gian bị cùm hai
chân, hàng ngày tôi vẫn cố nhúc nhích, cử động với những động tác có thể được,
để hai chân và cơ thể lưu thông mạch máu. Thế mà, mới gần 40 ngày, hai chân tôi
đã không đứng được nữa. Bây giờ, cùm một chân, tôi có thể xoay người, từ từ
ngồi lên cái cùm để gập chân lại, hoặc có thể bước một chân xuống nền buồng để
tập thể dục, vận động cơ thể.
Sau khi quản giáo đóng
cửa, tôi lấy chiếc quần cũ hơn hì hục lau sàn, vừa khô được cái sàn, vừa đỡ hôi
hám. Tôi có thể cúi xuống gầm sàn kéo cái bô ra, đàng hoàng mở nắp thùng đứng
tồ, thoải mái. Mọi khi cùm hai chân, dù tôi cố gắng đến mấy cũng đành phải tè
ra nhà, vì không dịch được ra mép sàn, đành từ giữa sàn nghiêng nghiêng nằm tè
ra. May mắn thì vào bô được một ít, còn thường ra ngoài. Mà ra ngoài thì chính
mũi mình ngửi, và khi được mở cùm thì cũng chính mình phải quét dọn. Bây giờ
đêm ngủ, khi quá mỏi, tôi vẫn từ từ lựa thế giở mình được, nên thật dễ chịu.
Sáng hôm sau, chưa tới
giờ Nhiễm đến, thế mà cửa sổ đã chợt mở. Mặt mụ Hoa, mụ chỉ một ngón tay:
- Mặc quần áo đi cung!
Rồi có tiếng chìa khóa,
tiếng rút chốt cùm và cửa lớn mở. Ra tới phòng cung hôm nay, ngoài Nhuận và
Đức, tôi thấy lại có thêm một người lạ nữa. Tên này người Huế, chừng 40 tuổi.
Tôi lặng lẽ đi vào. Vẫn chiếc ghế đẩu để chơ vơ trước bàn của chúng.
Ngay khi mới tới cửa
phòng, mắt tôi đã thoáng thấy một hộp điện lớn đen xì, với nhiều dây điện lổn
nhổn, để trên cái bàn nhỏ ở góc phòng. Tôi hiểu ngay là hôm nay tôi sẽ phải đi
tầu ngầm, hoặc máy bay mà lúc còn nhỏ, tôi thường nghe người ta nói đó là cách
thực dân Pháp thường dùng để tra tấn, những người chống lại chúng. Tôi vờ như
chưa nhìn thấy, vẫn ngồi cúi đầu như mọi khi.
Hôm nay, chúng tiếp tục
nạt nộ, truy hỏi. Chúng đập bàn, đập ghế ầm ầm, nào là “Anh là một tên phản
động từ trong máu, đã ăn nhiều bơ thừa sữa cặn của Mỹ Diệm”, nào là: “…lấy vải
thưa che mắt thánh, dám lòe bịp cả bộ công an” v.v… Tôi chỉ biết lẳng lặng cúi
đầu trước những lời sỉ vả, quát tháo của chúng. Trong thâm tâm, tôi vẫn lắng
nghe, xét và nhận định từng lời, từng thái độ của chúng. Tôi thấy chúng chưa
nắm được gì về tôi cả. Chúng đang tìm mọi cách để thọc cho ra những đầu mối, mà
tôi không chịu khai. Lòng kiên trì che giấu của tôi như một cái đập ngăn giòng
nước. Chúng đang loay hoay nghiên cứu, tìm tòi những lỗ rò. Nếu chúng thọc trúng,
nhiều khi đập sẽ bục từng mảng, đôi khi cả đập.
Có những lúc tôi khai
thật như: Luơng tháng của tôi 5000 ngàn mỗi tháng và đã viết giấy ủy quyền cho
bố nếu tôi bị mất tích; hoặc thời hạn công tác của tôi ở ngoài Bắc là 25 ngày…
Chúng vẫn không tin, truy đi hỏi lại nhiều lần, nào là vô lý, nói láo, đừng
hòng lấy vải thưa che mắt thánh… Chính những điều này, cái thực mà chúng cũng
không tin, đã cho tôi nắm chắc chúng chẳng biết điều gì rõ về tôi, ở trong Nam.
Trước đây, do những
điều kiện tự do rởm, và tinh thần cán bộ thiếu ý thức ở Sài Gòn, nên tụi Cộng
Sản nằm vùng có thể cài người vào, hầu hết mọi lãnh vực trong những cơ quan từ
trung ương tới cơ sở địa phương. Vì thế, tôi cũng phòng hờ nghe ngóng và rất
lo. Nhưng qua những sự việc trên, tôi cảm thấy yên tâm. Chúng nó chẳng nắm được
gì quan trọng cả. Tuy vậy, cũng có thể vì vấn đề trở ngại thông tin Bắc Nam,
chúng chưa đủ thời gian để thẩm tra về tôi chăng? Cho nên, tôi vẫn luôn đề cao
cảnh giác, không dám quá chủ quan coi thường đối thủ.
Đến giờ, tôi hiểu thêm
được một điều nữa là chúng làm việc có nghiên cứu tập thể. Mỗi một nghi vấn dù
nhỏ, trong những sự việc của tôi, chúng đều về đào sâu, nghiên cứu mọi tình
huống có thể. Điểm nào chưa sáng tỏ thỏa đáng, chúng đều ghi nhận, rồi gọi tôi
lên truy hỏi lại những điều ấy cho tới cùng. Tôi thừa nhận bộ óc tập thể có ưu
thế hơn hẳn một cá nhân. Dù vậy, trong trường hợp này, tôi cũng có cái ưu thế
của tôi. Tôi chỉ cần có một bộ óc tỉnh táo, và một sự hiểu biết tuơng đối, kết
hợp với lòng kiên trì, chấp nhận gian khổ, tôi mong là có thể đối ứng được.
Quát tháo, giận khùng
chán chê, thấy tôi vẫn ngồi cúi đầu im lặng, bấy giờ tên người Huế chỉ vào mặt
tôi, gọi đích danh:
- Bình! Anh muốn sống
hay muốn chết?
Tôi ngửng đầu lên, tỏ
vẻ lo sợ lẫn thành khẩn:
- Thưa các ông, giờ đây
tôi không biết phải làm như thế nào để các ông tin. Tôi đã khai báo mọi điều
tôi biết. Tha thiết mong cách mạng xét cho, tôi được nhờ.
Hơn một tiếng đồng hồ
từ khi tôi bước chân vào phòng, chúng cố ý chờ xem thái độ của tôi như thế nào,
khi nhìn thấy dụng cụ tra tấn. Nhưng tôi cũng cố ý coi như chưa nhìn thấy. Có
lẽ quá lâu, nên chúng sốt ruột, tên Nhuận chỉ về phía cái bàn nhỏ trong góc
phòng:
- Anh có biết cái gì
kia không?
Tôi vờ như lần đầu tiên
nhìn thấy, tôi hiểu rằng dù có sợ hãi xin chúng, chúng cũng không tha. Vả lại,
vì chưa có kinh nghiệm và hiểu biết về chúng, tôi vẫn nghĩ một cách đơn giản là
mình đã đi làm nghề nghiệp này, chỉ còn gồng mình chấp nhận. Trời đâu có thương
nữa mà kêu, mà trách oán! Từ ý nghĩ đó, tôi đã trả lời rất thản nhiên:
- Thưa các ông, tôi
hiểu về loại dụng cụ đó. Trước đây tôi đã ngu dốt đi làm nghề nghiệp này. Nay
bị bắt, sớm muộn tôi vẫn bị nhiều hành hạ tra tấn. Vậy đây là toàn quyền của
các ông. Các ông không tin tôi, tôi không biết làm gì hơn được nữa. Nhưng, có
một điều là tôi đã nghĩ không đúng về các ông!
Tên người Huế quắc mắt:
- Anh nghĩ điều gì
không đúng về chúng tôi?
Tôi có vẻ đăm chiêu:
- Tôi là một thanh niên
sống dưới chế độ miền Nam mà các ông gọi là ngụy quân, ngụy quyền, tay sai của
đế quốc Mỹ. Ở miền Nam, tôi thường biết có một số hình thức tra tấn để khai
thác phạm nhân. Và tôi đã nghĩ rằng các ông thì khác…
Tên Đức ra vẻ sừng sộ,
đứng bật dậy:
- Anh bảo khác, khác
thế nào?
- Trước đây, tôi cứ
nghĩ các ông là cách mạng. Một chế độ nhân dân, một nền dân chủ thực sự, thường
lấy chính nghĩa chứ không dùng bạo lực để lôi kéo lòng người. Tôi vẫn đinh ninh
trong lòng như vậy, nên ngay từ khi ra Bắc, tôi đã chẳng muốn hoạt động gì như
lời chúng chỉ dậy tôi. Rồi sau khi bị bắt, tôi đã vội vàng thành khẩn khai báo
hết với cách mạng. Thêm nữa, quan điểm sống của tôi là: Một là tôi sẽ được mọi
người yêu tôi. Hai là tôi sẽ bị cay ghét, căm thù; chứ nhất định tôi sẽ không
để ai khinh rẻ. Đặt giả thuyết, bây giờ vì tôi sợ tra tấn, nên mới phải khai
báo với các ông, tôi sẽ đau khổ suốt đời vì tôi là một thằng hèn. Thà để thân
mình bị tàn tật vì tra tấn, nhưng tinh thần được thảnh thơi hiên ngang nhìn mọi
người, không bị tủi thẹn cấu xé. Hơn nữa, khai vì tra tấn, tôi cũng chả tốt gì
với các ông…
Tên Nhuận và tên người
Huế đều quát:
- Anh đừng già họng
nữa!
- Câm ngay cái mồm lại,
chúng tôi không phải trẻ con!
Tôi lại im lặng cúi
đầu. Một lúc, tên người Huế đứng dậy:
- Bây giờ, chúng tôi
cho anh về. Chiều nay lên, chúng tôi sẽ giải quyết.
Tôi chẳng hiểu chiều
nay chúng sẽ giải quyết gì. Tôi đứng dậy, lúc đó cũng đã 12 giờ rồi.
Khi lão Bằng giong tôi
về tới xà lim, tôi không thấy tên Nhiễm trực ở đấy. Tên Bằng mở cửa, tôi vào
rồi y khóa lại. Vì y không trực xà lim nên y quên (hoặc giả y không biết) không
bảo tôi bỏ chân vào cùm. Cảm thấy hơi mừng trong dạ, tôi ngồi ăn cơm. Mới chén
được nửa bát, cửa sổ đã xoạch mở. Mặt tên Nhiễm. Y rút chốt, đứng ngoài cửa sổ
bảo tôi bỏ chân vào cùm. Buồn thật! Thằng chó chết không cho nghỉ một tí để ăn
cơm. Mười phút sau, tôi lại thấy rút chốt cùm. Đã quen lệ, tôi vội vàng nhấc
cùm lên và rút chân ra. Cửa mở, tôi cầm bát và gáo ra lấy nước. Tôi để dành gáo
nước cho việc đi ngoài và súc miệng, rửa mặt. Thường, tôi đã phải cố gắng uống
no nước ngay tại chỗ. Điều này làm mãi, nên thành thói quen. Suốt hàng mấy chục
năm trời, cho tới bây giờ, tôi cũng chỉ uống nước sau khi hai bữa cơm, còn hầu
hết như không thấy khi nào khát nước. Tôi không cần phải uống nước những lúc
không ăn.
Lại đóng cùm, lại khóa
cửa. Tôi nằm vẩn vơ nhẩm tính sự việc đi cung ban sáng. Chiều nay, chẳng biết
có sự gì xẩy đến với tôi. Chưa được mươi phút, cửa nhỏ lại mở. Tên Nhiễm gọi đi
cung. Lúc này đã bị bắt gần 4 tháng, râu tóc tôi mọc lung tung beng. Nhiều lúc
ngồi không buồn tay cứ rờ rẫm từng sợi râu rồi giật. Cũng thấy đau. Thực ra,
ngồi không chả làm gì, hay chả có cái gì để làm, cái tay cứ tự nhiên đưa lên
cằm rồi giật, trong khi óc tôi thì cứ trôi theo đường riêng của nó. Bây giờ,
gần kề cái chết, đâu cần biết mặt mũi mình ra sao?
Tới phòng cung, tôi vẫn
thấy 3 tên lúc sáng. Chiếc hộp điện đen xì vẫn nằm im trên cái bàn nhỏ ở góc
phòng. Sau khi tôi ngồi ghế, chúng truy tôi rất nhiều về đoạn đường khi qua
sông Bến Hải. Chúng bắt tôi thường thuật tỉ mỉ: Lội sang làm sao, nấp thế nào,
đi đường nào, cảnh vật ra sao v.v… Vì tôi đã có hai lần ra tận bờ sông Bến Hải
và nghiên cứu kỹ khu phi quân sự Bắc (Vĩnh Linh) và toàn khu vực huyệnVĩnh
Linh, từ những con đường mòn, đến những bờ suối… Nhất là lại dùng loại ống nhòm
nhìn xa 10 cây số, nên chỗ này, tôi nói không khó khăn lắm. (nghĩa là chưa nhìn
thấy trước cảnh đó, khó có thể che giấu chúng được).
Đến đây, tôi đã cảm
thấy thâm ý của chúng khi chúng bắt tôi tả chi tiết tỉ mỉ, từ Vĩnh Linh ra tới
Hà Tĩnh. Như vậy, phải ngửi thấy ngay là có vấn đề rồi! Đây là một cái dốt, cái
sai của tôi! Vì thực tế, tôi chỉ đi từ Kỳ Anh ra Hà Nội. Còn từ Vĩnh Linh ra Kỳ
Anh thì tôi có đi đâu, cho nên khi khai báo nhiều lần trước đây, tôi thường
khai lướt đi. Hơn nữa, tôi tập trung nhiều vào những khóa học tập ở Sài Gòn,
nhiệm vụ ra Bắc và khi ở Hà Nội. Còn con đường từ Vĩnh Linh tới Hà Tĩnh, tôi đã
coi nhẹ, vì thế, chúng đã phát hiện ra chỗ đê rò của tôi.
Tên người Huế, sau khi
nghe tôi kể lại đi từ Vĩnh Linh ra Hà Nội thế nào, liền hỏi tôi:
- Từ Vĩnh Linh ra Hà
Tĩnh anh ngồi trên xe hàng, vậy có khi nào anh xuống xe không?
Tôi phỏng đoán, chắc xe
phải ghé thị xã Quảng Bình, nên tôi trả lời:
“Có, khi đến Quảng
Bình, tôi mót giải nên xuống tìm chỗ đi giải”.
Y hỏi tiếp:
- Từ Vĩnh Linh ra Quảng
Bình, có khi nào anh xuống xe không?
Tôi vờ như cố nhớ lại
một chuyện không đáng nhớ, nhưng thực tế thì lúc đó trong lòng tôi đang bấn
lên. Nó hỏi vậy, tất nhiên phải có vấn đề. Trước đây, tôi đã nghiên cứu bản đồ
lớn, đường từ Vĩnh Linh ra Hà Tĩnh với Brown và Dale. Vì là bản đồ quân sự thời
trước 1954, nên sau này có một số chi tiết thay đổi, mà tôi không biết. Hơn nữa,
với tinh thần tắc trách, tuy Dale và Brown có chỉ từng điểm, từng con sông, cái
cầu, v.v… nhưng thực tế, tôi đã chỉ ừ ào cho qua, chứ tôi không hề thực sự chú
tâm, vì tôi cho là không quan trọng! Do đó, bây giờ tôi lúng túng. Sau một lúc
ngẫm nghĩ, tôi mới quyết định nói:
- Thưa ông lúc đó, vì
mới sang bờ Bắc, tôi rất lo sợ hoang mang, nên bây giờ tôi cũng không còn nhớ
là có xuống hay không!
Y đập bàn:
- Anh nói láo. Ngồi
trên xe, xuống hay không mà không nhớ! Anh muốn ngoan cố gan lì với chúng tôi
hả?
Tôi nghĩ mình đành phải
liều, vì vậy tôi trả lời:
- Tôi nhớ…hình như
không…
Tên người Huế đứng giật
dậy, quát ầm lên:
- Như vậy là anh nói
láo hoàn toàn! Chúng tôi muốn thấy sự thành thật của anh, nhưng bây giờ, chúng
tôi mới thấy là anh gan lì ngoan cố. Tôi nói cho anh biết, dù anh có ngủ gật,
người ta cũng gọi anh dậy, để bắt anh xuống xe!
Thôi chết rồi! Như vậy
là sông Gianh không có cầu, mà là qua phà, tất cả hành khách phải xuống xe. Tôi
nghĩ thật nhanh. Nếu vì ngoan cố mà không biết phục thiện ở khâu nhỏ này, tôi
sẽ chết ở những chỗ quan trọng khác. Vậy hãy thành khẩn:
- Thưa các ông, tôi đã
suy nghĩ luẩn quẩn. Đã nhiều lần tôi muốn nói hết với các ông về việc này,
nhưng tôi cứ loanh quanh lo sợ là các ông sẽ bắt tôi về điểm hẹn, để gọi người
đến đón. Rồi các ông sẽ tìm mọi cách, để bắt hết những người đó. Như vậy, Sài
Gòn họ sẽ biết ngay là tôi phản. Điều tất yếu là gia đình bố mẹ, các em tôi sẽ
bị chúng trả thù. Bản thân tôi đã không làm gì được cho bố mẹ và các em nhờ cả,
bây giờ nếu để liên lụy khổ đau cho gia đình, thì thà thân tôi bị đau khổ tan
nát còn hơn. Chính vì điểm lo sợ ấy, nên tôi đã lúng túng không dám khai thật
đường đi ra Bắc.
- Như vậy, anh ra Bắc
bằng cách nào?
Ngay từ mấy hôm trước
đó, căn cứ vào chiều hướng chúng truy hỏi, tôi đã linh cảm khâu từ Vinh Linh ra
Kỳ Anh khó ổn, nên đã nhẩm tính: Nếu cùng quá, tôi đành phải nhận ra Bắc bằng
đường biển. Tôi không hiểu, bật ra điều này, là kéo thêm một mảng. Xuất phát từ
đâu? Thuyền nào đưa đi? Những thủy thủ thế nào, bao nhiêu người? Ngày giờ hẹn
đón nhau? v.v… Bao nhiêu là chi tiết phải lắp vào, sao cho hợp lý về cả không
gian, thời gian, sự việc và con người.
Tôi cũng đã tính, với
tình huống những người thủy thủ đưa tôi đi như vậy, có thể họ còn đưa những
người khác sau này. Biết đâu, một ngày nào đó, nếu họ không may bị bắt, họ sẽ
nói đến thời gian đó đưa một người như vậy, như vậy dù một hai năm sau, tôi
đang ở một trại giam nào, Cộng Sản cũng có đủ bằng chứng cớ để thấy là tôi nói
láo. Lúc đó, chỉ có chết với chúng. Trước mắt, từ nay trở đi, tôi luôn luôn
mang trong mình một mối lo âu bất ngờ bị chúng phát hiệu. Sau này, nếu chúng
tìm ra được một điểm sai nào, tất cả các khâu khác sẽ vô phương cứu chữa. Thân
tôi chắc chắn sẽ bị chúng hành đến tan nát.
Tôi sẽ phải khai báo sự
việc đi hải thuyền ở Đà Nẵng, theo phương châm: “Càng đon giản, sẽ càng đỡ rắc
rối cho sau này”. Tôi sẽ chỉ nói đến những việc phải nói, loại bỏ tất cả những
điều gì có thể loại bỏ được. Trước sau, chỉ có một nhân vật Hòa, mọi vấn đề đều
do ông ta lo liệu. Chỉ đi một lần. Không nói chuyến đi trước gặp bão phải quay
về. Không nói thuyền rời bến ở Biệt Khu Hải Quân, mà từ một nơi vắng vẻ gần mé
sông Bến Hải một lần, mới hợp lý việc gì sao lại biết rõ được chi tiết, cảnh
vật hai bên bờ sông Bến Hải trong khu phi quân sự Bắc Nam. Như vậy, vẫn giữ kín
được nơi xuất phát có lợi cho Sài Gòn sau này.
Để bảo vệ cho tên chủ
tịch Phong, ở Kỳ Anh, tôi sẽ không nói gì đến y, chỉ tường thuật lúc đêm đổ bộ
lên bờ, chôn giấu các vật dụng, sáng hôm sau tìm đường mò ra quốc lộ 1 rồi gặp
Phùng Văn Trí, từ đấy về Hà Nội. Điều này, chúng phải tin, bằng chứng là các
vật dụng tôi chôn tại chỗ. Những vật dụng này, cũng có lợi cho tôi ở một khía
cạnh: Tôi có hai “vỏ bọc”: “buôn lậu thuốc Tây” và “Sư bà Đàm Hướng”. Nếu sau
này phải khai ra, thì một trong hai “vỏ bọc” này, có bằng chứng là các loại
thuốc Tây tôi đã chôn giấu đó, chúng phải tin lời tôi.
Tóm lại, dù có tính
toán khai báo thế nào, đây cung là sự ngu dốt sai lầm của tôi. Từ điểm này, tôi
có thể bị dẫn đến nhiều khó khăn về sau vì “Một sự bất tín, vạn sự không tin”.
Nhưng tôi đành phải chấp nhận và chỉ có biết cố gắng với khả năng hiểu biết và
tính toán giới hạn của mình. Đã có chủ đích rồi, tôi ngẩng đầu lên, trả lời:
- Tôi ra miền Bắc bằng
hải thuyền.
Mặt chúng tuơi hẳn lên,
mắt mở to, đồng thời chúng khích lệ mềm mỏng hỏi các chi tiết, khi chúng bắt
tôi khai nhanh để chúng ghi. Đến bây giờ, tôi đã hiểu đó là một phương pháp của
chúng. Bắt đối phương khai nhanh (nếu có mâu thuẫn thật rõ), sau đó lại bắt
khai chi tiết, rồi bắt viết; cuối cùng mới truy hỏi, không những ở những điểm
chúng nghi ngờ, mà ngay cả điểm thật cũng bị cật vấn ráo riết mọi mặt.
Như tôi đã trình bày ở
trên, sự việc này bục ra một mảng. Tôi phải cố lắp ghép, ngăn chận sao cho hợp
lý, những gì dính dáng về hải thuyền cho tới điểm đổ bộ. Còn từ khi ra Quốc Lộ
1 ở xã Kỳ Phương, cho tới khi bị bắt, dứt khoát phải không có gì thay đổi, trước
sau dù bão tố cũng chỉ như một.
Thời gian này, tôi lại
bị gọi cung liên tục ngày 3 buổi, hơn một tuần lễ. Sau đó, đến giai đoạn căng
thẳng tột cùng. Chúng truy lại hết mọi vấn đề trong Nam ngoài Bắc, thậm chí,
nhiều lần chúng sừng sộ định bạt tai tôi nữa.
Bây giờ, phần vì cùm
kẹp, đói khát; phần khác tinh thần căng thẳng ngày đêm, người tôi rã rượi, run
rẩy; ngay đi từ xà lim ra phòng cung, nhiều lần tôi muốn ngã, phải ngồi xuống.
Có lẽ cũng thấy thân xác tôi có thể lúc nào đó sẽ chết vì kiệt sức, nên dạo này
thỉnh thoảng chúng cho tôi một cái bánh bao, hoặc một cái bánh mì. Bánh bao
cũng chỉ có nhân hành, còn bánh mì cũng lẫn bột ngô, nhưng ăn, thật tuyệt vời.
Tôi nghĩ rằng bánh bao nhân lạp xưởng trứng, bánh mì “Pa gô đa” của Sài Gòn còn
thua xa. Những lần ăn được như vậy, đêm ấy, tôi cảm thấy như cơ thể được truyền
vào một sức mạnh; thậm chí, ngày hôm sau đi đại tiện cũng thấy trơn tru sảng
khoái. Cứ ba, bốn ngày chúng mới cho một lần, và cũng chỉ được 5 lần là chấm
dứt.
28. Những Vấn Đề … Mới
Cung kẹo bây giờ hàng ngày liên miên. Nhiều lúc chúng truy
tôi rát quá, người tôi như không còn hồn. Tôi ì ra. Có lúc tôi chả biết đường
nào tôi trả lời. Lâu lâu, tôi chỉ biết nói:
- Tôi thành khẩn khai
báo mọi sự việc từ lúc bé tới bây giờ mà các ông vẫn không tin tôi. Nhiều đêm
về nằm, giá ước gì có cách nào đó, để các ông nhìn rõ được trong lòng tôi, cuộc
đời tôi không đến nỗi khổ đau như thế này.
Chúng đập bàn quát ầm
lên:
- Anh đừng già mồm,
không cần phải có cách gì, chúng tôi cũng đã thấy rõ anh là một tên phản động
vô cùng ngoan cố, bao che đến cùng những âm mưu phản dân, phản nước của bè lũ
Mỹ Diệm. Ngày đêm, anh tính toán mưu mô, hòng che mắt Bộ Công An của nhân dân.
Tôi nói cho anh biết, anh sẽ chết dần, chết mòn trong đau thương khổ cực. Chỉ
có một con đường duy nhất là anh tự cứu lấy anh. Đừng mơ hồ trông chờ bất cứ
một thế lực, hay một kẻ thần thế nào có thể cứu được anh.
Tôi tỏ ra rất thành
khẩn:
- Thưa các ông, được sự
chỉ dạy của các ông, lòng tôi càng thêm phấn khởi. Tôi thấy rằng, khi nhận nhiệm
vụ ra ngoài Bắc, tôi đã có những hành động và những ý nghĩ đúng, là tôi đã
chẳng làm gì cho địch, và khi bị bắt, tôi đã khai báo ngay hết mọi sự thật. Tôi
tha thiết đề nghị với các ông, tôi nghe nói rằng trên thế giới hiện nay, người
ta đã chế ra máy để biết rõ sự thật, hoặc có loại thuốc người ta uống vào sẽ
nói ra hết sự thật, vậy nếu chính phủ ta có các thứ đó, xin hãy cho tôi được
thực nghiệm. Tôi xin đội ơn cách mạng suốt đời.
Tên Nhuận cười rộ lên:
- Chúng tôi không cần
những thứ đó cũng vẫn hiểu rõ được anh. Anh còn vì một điểm nào đó, nên đã
không nói thật hết với chúng tôi. Nhưng, tôi tin rằng sớm muộn, rồi đây anh sẽ
tự giác nói thực hết, mọi âm mưu thủ đoạn của địch với chúng tôi.
Tôi biết tỏng là làm gì
chúng có loại máy nghe sự thật, hoặc loại thuốc uống vào rối loạn thần kinh,
không chủ động được nữa để chúng hỏi gì nói thực cái ấy, v.v… Và dù có các loại
máy đó, tôi vẫn tin là không giải quyết được vấn đề. Nhân tiện, tôi đánh một
đòn sâu hơn nữa:
- Thưa các ông, tôi dám
cam đoan trước các ông là, nếu sau đây, bất cứ thời gian nào. Các ông chỉ cho
tôi bằng cụ thể, một sự việc gì chính yếu, tôi đã khai không đúng, tôi xin chịu
mọi hình phạt của nhà nước cách mạng.Tôi vẫn phòng hờ gài vào hai chữ “chính
yếu”. Sự việc chính yếu cao nhất thì tôi cho là chúng nó có người nằm trong Cục
tình báo của Sài Gòn, hoặc Z-5 hay linh mục A bị bắt. Hay, chúng bắt được tài
liệu “M”. Tôi tin là Z-5 hay linh mục A nếu họ bị bắt, cũng không khai. Và dù
họ có khai, thiếu chứng cớ, tôi vẫn không nhận. Còn người của chúng dù có nằm
trong Cục, trên nguyên tắc, nếu không cùng một công tác, không biết ai với ai.
Nói chung, với sự hiểu biết của mình, tôi nói, tôi không sợ di họa sau này. Hơn
nữa, đây là lúc liều rồi, chỉ có chết và sống thôi mà.
Tên Nhuận cau mặt lại,
nhìn tôi:
- Anh đừng nói nhiều
nữa. Hãy nghe tôi hỏi đây. Anh tả kỹ lại chỗ anh chôn những vật dụng mang theo
từ miền Nam ra!
Tôi lần lượt trình bày
lại chỗ chôn giấu tài liệu. Tên Đặng chêm vào:
- Anh hãy nhớ kỹ, ngoài
những thứ anh kể, anh có quên thứ nào mà anh đã cùng chôn không?
Tên Đức đưa một tờ
giấy, bắt tôi phải vẽ sơ đồ địa điểm chôn giấu, ghi lại các thứ đã vùi lấp.
Từ lúc đó tới giờ, đã
gần 5 tháng rồi, tôi phải cố moi óc vẽ sơ đồ các điểm, khoảng cách với Quốc Lộ
1, bụi cây, cây lớn và đường mòn… Chúng hỏi rất chi tiết. Tôi tưởng chúng sẽ
cho người vào đào chỗ tôi chôn. Tên Đặng hỏi tiếp:
- Nếu anh chỉ cho một
người, người đó có thể đào đúng chỗ chôn giấu được không?
Tôi nhanh nhẩu:
- Được! Tôi nghĩ rằng,
tôi vẽ rõ ràng thế này, có đầy đủ các điểm chuẩn, thì ai vào đào cũng lấy được.
Bỗng dưng tôi thấy hoa
mày, chóng mặt, tôi phải vịn vào bàn. Một nguồn lạnh run từ trong xương sống
truyền ra, làm tay chân tôi nổi gai ốc. Chúng hỏi:
- Làm sao?
Tôi nói không ra hơi:
- Có lẽ tôi bị sốt…
Chúng cho tôi về. Lúc
đó cũng đã gần hết giờ.
Khi về tới xà lim, tên
Nhiễm qua bảo tôi cho chân vào cùm. Tôi cố cho chân vào, rồi người tôi run quá,
từng đợt lạnh chuyển từ xương sống ra khắp người. Mọi khi, muốn gì thì muốn, đi
cung về là tôi sà vào ngay bát cơm đã, nhưng hôm nay, tay chân run lẩy bẩy, gai
ốc nổi đầy mình. Bát cơm vẫn để đấy. Lạnh quá, lại không có cái gì đắp ngoài bộ
quần áo sọc đã cũ vẫn để gối đầu, tôi giở ra, chỉ đủ để quấn cổ và quấn bụng.
Bây giờ cả người tôi run lên. Từ bé tới lớn, tôi chưa thấy cơ thể mình lạ lùng
thế này. Tôi chẳng biết làm sao, chỉ biết gọi “Mẹ ơi!” Tiếng gọi thầm thì như
tiếng rên nài nỉ thiêng liêng, tình Mẹ cứu con!
Tôi đang ngồi run lẩy
bẩy thì cửa nhỏ xoạch mở. Mặt tên Nhiễm. Y rút chốt cùm và mở cửa lớn. Như
thường lệ mọi khi, y phải thấy tôi nhấc chân ra khỏi cùm, đem bát ra trả và múc
nước. Y đứng một tí, không thấy tôi ra, y nhòm vào, quắc mắt:
- Sao không đưa bát
ra!?
Tôi nói với giọng giật
giật vì run:
- Thưa ông… tôi sốt…
Y đi vào, đứng nhìn một
lúc. Tôi nói:
- Thưa ông… tôi rét
quá, ông… cho tôi cái chăn…
Y quát lên:
- Chăn, chiếu nào cho
anh!? Ba ngày nữa, đến ngày 16 tháng 11 là đầu Đông mới cho mượn chăn, bây giờ
đâu có!
Trời đất hỡi! Tôi lạnh
quá! Cái mông, ngồi xuống sàn xi măng đã lạnh buốt. Hai vai dựa vào tường cũng
lạnh buốt. Còn cái chân ở trong cùm nữa! Lạnh trong ra, lạnh ngoài vào. Bụng
không có cơm, cũng không có thuốc. Chiếc chân chỉ còn da bọc xương, hai đầu gối
của tôi chỉ là hai cục xương.
Tên Nhiễm đứng nhìn một
lúc, rồi đi ra, đóng cửa lại. Y còn ghé trở lại đút chốt cùm khi nãy đã rút ra.
Chân tôi vẫn để nguyên trong cùm.
Chừng 10 phút sau, cửa
mở, mụ Dậu y tá vào, mang theo một cái khay. Mụ để cái khay ở sàn trống bên
cạnh, rồi quay sang:
- Anh làm sao?
Tôi vẫn run rẩy cả
người, hai tay khoanh chặt ép vào ngực, trả lời ngắt quãng:
- Tôi… bị… sốt…
Mụ đưa cho tôi một cái
ống thủy, bảo cặp vào nách,. Trong khi tôi cặp ống thủy, mụ ngoái nhìn toàn
buồng của tôi, rồi lại nhìn tôi. Ngoài bát cơm chơ vơ nguội lạnh ở đầu sàn,
trong buồng trống trơn, chẳng có một cái gì.
Những người tù ở miền
Bắc, thường có chăn màn, quần áo, có khi còn được tiếp tế nữa. Nên trong xà
lim, thường vẫn có một số đồ tối thiểu. Phần tôi, chăn mùng không, thậm chí
quần áo cũng bị tịch thu, chỉ có một bộ quần áo sọc tù duy nhất. Tên Nhiễm vẫn
đứng ở ngoài, một tay vịn cánh cửa nhìn vào. Hình như hắn cũng không tin cả
người y tá. Mụ Dậu ra hiệu tôi đưa ống thủy cho mụ. Mụ soi ra ánh sáng. Tôi chả
biết bao nhiêu độ.
Mụ lục đục lấy ống
tiêm, chích cho tôi một mũi. Tôi chả hiểu thuốc gì. Lúc mụ sắp sửa ra, tôi cố
nói:
- Tôi rét lắm, đề nghị…
cho tôi mượn cái chăn…
Mụ quay lại nhìn tôi,
rồi hất hàm về phía tên Nhiễm:
- Hãy đề nghị với ông
cán bộ đây.
Cánh cửa đóng xầm,
tiếng xọc xạch của then cửa như đập vào nỗi tuyệt vọng của tôi. Tôi mệt mỏi
quá, nằm xuống, lại phải cố gắng bò dậy ngay, vì cái sàn xi măng lạnh buốt.
Chẳng hiểu ngày xưa trong chuyện võ hiệp của Tầu, tập luyện nằm giường đá, thế
nào tôi không biết, chứ tôi thấy cơ thể của một con người không có cách nào chịu
đựng được. Nó buốt lên tới gáy, tới đầu. Tôi cũng đã bắt buộc… phải tập nằm từ
mùa Hè qua mùa Thu cho đến bây giờ, vậy mà chả quen được.
Tôi cứ phải ngồi như
vậy suốt đêm. Lúc mỏi quá, mệt quá, ngả xuống, lại phải bò dậy ngay, mấy lần.
Tôi chỉ dựa vào tường thiếp đi từng chập. Cơn sốt đã giảm, mồm đắng nhổ không
ra nước miếng.
Tôi cứ ngồi co ro, đầu
ngục xuống. Hồn lãng đãng dật dờ tỉnh mê. Dòng suy nghĩ chập chờn về… lòng nhân
ái, tình nhân loại, nghĩa đồng bào… Giữa đêm trường vắng lặng, thỉnh thoảng một
tiếng mối kêu lanh lảnh: Chặc, chặc, chặc… kéo dài, vang vào đêm thâu như ngạc
nhiên, băn khoăn, tại sao loài người lại hành hạ tàn nhẫn với nhau như vậy!?…
Tôi thiếp dần đi, cho mãi tới khi tai nghe loáng thoáng những tiếng cãi cọ
nhau, giành nước của những người tù nữ nơi tắm giặt phía sau xà lim, tôi mới
giật mình mở mắt.
Vẫn cái dáng ngồi hai
tay ôm trước ngực, dựa tường. Cả người đau như giần, mệt nhọc; nhưng, khi tôi
nhìn thấy bát cơm, từ hôm qua vẫn còn nguyên như cũ, đang mời gọi. Vì sợ chốc
nữa quản giáo đến mở cửa các buồng cho đổ bô, sẽ bắt đem bát cơm ra, nên tôi kéo
bát cơm đến, ăn vội.
Đúng như vậy, tôi đã
nghe tiếng lẻng xẻng chìa khóa mở buồng số 1, tiếng ào ào mở vòi nước, tiếng
chổi cùn khua khoắng bô, vì bô bằng tôn. Không hiểu sao, bô nào cũng vậy, nước
giải đóng thành cao vào chung quanh. Nếu chỉ đổ và tráng nước không, vẫn còn
mùi khai thối, vì thế, thường ai cũng phải vội vàng dùng những cuống chổi thanh
hao cùn, bó chừng một nắm tay, dài độ 20 phân, thường dựa ở góc bể nước con,
khua và tráng cho sạch bô. Vì chính mình, khi đi ngoài phải ngồi vào đó. Nhiều miệng
bô, do lâu ngày nước giải ăn mòn, lởm chởm sắc như răng cưa. Ngồi để mông vào
một lúc đau không chịu được, phải xoay chỗ khác. Cho nên, khi còn lão Hoàn giam
chung với tôi, khi hắn đi xong đứng lên, mông có rất nhiều khoanh tròn răng cưa
hằn sâu vào thịt.
Đến lượt buồng tôi. Tôi
trả bát, đổ bô xong, vừa tra chân vào cùm, lại thấy mở cửa. Mụ Hoa vào gọi tôi
đi cung.
Hôm nay, ra phòng cung,
tôi chỉ thấy Thành và Đức. Lâu lắm mới thấy tên Thành. Tôi nhớ y nhiều vì trong
số 6, 7 tên chấp pháp hỏi cung tôi, chỉ có tên Thành này từ ánh mắt, cho đến
lời nói, thái độ hỏi cung, tỏ vẻ rất có thiện cảm với tôi. Y tỏ ra một con
người rất tình cảm. Có lúc, tôi thấy y cầm cuốn tiểu thuyết “Đoạn Tuyệt” của
Nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Tôi hiểu, y được quyền xem, nghiên cứu vì y là chấp pháp
chính trị. Hơn nữa, y đang theo hàm thụ năm thứ tư về Kinh Tế. Dù sao, tôi vẫn
thấy y còn chất tiểu tư sản. Tên Thành chỉ chiếc ghế, tình cảm:
- Anh ngồi đi. Sao, dạo
này anh có được khỏe không? Tôi bận chút công việc, lâu lắm mới gặp lại anh.
Tôi cũng mềm mỏng:
- Cảm ơn ông, lúc này
tôi không được khỏe lắm.
Y vờ ngạc nhiên săn
đón:
- Anh bị yếu đau sao?
Anh có ăn được không? Có ăn hết suất cơm không? Sao trông anh gầy thế?
Theo cái hiểu của
chúng, nếu cứ ăn hết suất cơm là không sao cả. Chúng không thể biết được, do
cái đói cào cấu, thèm ăn triền miên hàng ngày, hàng tháng, nên dù sắp chết, tù
vẫn thèm ăn. Vì vậy, tôi trả lời thủng thẳng:
- Hôm qua tôi bị sốt,
nhưng vẫn ăn hết suất cơm.
Tên Đức hôm nay cũng có
vẻ tươi tỉnh:
- Hôm nay chúng tôi gọi
anh lên, không phải để hỏi cung anh. Gọi anh lên để nói chuyện… Này, anh Bình,
tôi hỏi thực anh nhé! Khi còn ở Sài Gòn, anh có hay đi nhảy, đi chơi gái không?
Nhìn y, tôi hơi ngạc
nhiên. Y vừa cười vừa hỏi, lại còn nhay nháy con mắt nữa chứ. Tôi nghiêm trang
trả lời:
- Thưa ông, tôi không
biết nhảy. Còn chuyện chơi gái, phần tôi chỉ chú ý đến học hành, phần khác, tôi
không thích. Theo quan điểm của tôi, chuyện đó là một thứ cao đẹp của con
người. Bỏ đồng tiền ra mua bán làm trò giải trí, thà đi xem xi nê, đọc sách,
hoặc ngồi ngắm cảnh thiên nhiên còn thú hơn. Điều đó, vừa vô nghĩa lại vừa tỏ
ra sự hèn kém, của người con trai.
Cả hai tên đều nhìn tôi
cười rộ. Tên Thành tình cảm:
- Khi anh ra đi, bố mẹ
và các em anh có khỏe không? Bố mẹ anh có biết không?
Nhắc đến gia đình, tự
nhiên một mối xúc động len lén vào lòng tôi. Vì thế, khi tôi trả lời, niềm xúc
động cũng tràn ra theo:
- Bố mẹ tôi khỏe. Bố mẹ
tôi không biết gì về chuyến đi của tôi.
Thành tiếp tục gợi
chuyện:
- Anh có nhớ bố mẹ và
các em anh không? Anh thử nghĩ xem, bố mẹ anh đã phải tần tảo vất vả cả cuộc
đời, để nuôi anh đi học, anh đã làm cái gì để đền đáp công lao trời bể ấy?
Niềm xúc động càng tràn
vào đầy ắp trong lòng. Tôi miên man nhớ tới một hình ảnh không quên: Buổi chiều
ấy, khi tôi còn ở trại học sinh di cư Phú Thọ, Chợ Lớn, thằng em trai đến bảo
tôi:
- Tối nay, 7 giờ về chỗ
sân nhà Tân Định, tan chầu ra, mẹ sẽ gặp anh để làm gì ấy!
Đã hai tuần liền, tôi
không về nhà, vì ông bố mắng chửi là mải chơi không chịu học hành, nên thi phần
1 trượt. Tối hôm đó, trời mưa giăng ẩm ướt, tôi núp dưới một mái hiên trong sân
nhà thờ chờ mẹ. Những hạt mưa nhỏ lấp lánh như những sợi chỉ bạc trong ánh đèn
điện, hắt ra từ những cửa sổ nhà thờ, càng làm cho buổi tối thêm lê thê da
diết. Người mẹ, hai tay thủ trong vạt áo dài vì lạnh, chiếc khăn trùm kín đầu,
lò dò từ cửa hông nhà thờ ra sân, dưới mưa rơi, gặp con chỉ để nói:
- Hãy nghe lời mẹ. Chủ
Nhật này về, bố mày hết giận rồi!
Và mẹ giúi vào tay tôi
100 đồng. Giờ đây, tôi trong cảnh tù đầy, hình ảnh ấy của người mẹ kính yêu, đã
làm nước mắt tôi trào ra lúc nào không biết. Tôi thổn thức, nức nở như một cậu
bé con.
Chính những tên chấp
pháp cũng không ngờ được tôi khóc, và chúng phải im lặng tôn trọng cái phút
thiêng liêng ấy.
Phải, con người tôi,
tha hồ cùm kẹp hành hạ đừng hòng nước mắt tôi chảy ra, trừ mẹ tôi, tình cảm gia
đình tôi.
Cũng từ đấy, chúng phát
hiện được nhược điểm tình cảm của tôi. Và, với Cộng Sản, kinh nghiệm thực tiễn
cho tôi thấy, anh càng yếu, càng sợ cái gì, chúng càng lấy cái đó để hành anh.
Sau này, đầy dẫy những minh chứng.
Chúng để cho tôi hết
cơn xúc động, rồi mới đẩy đưa:
- Đấy, anh xem, vì sao
hiện nay anh lại bị như thế này. Nguyên nhân chính yếu là do bè lũ Mỹ Diệm, đã
lợi dụng bầu nhiệt huyết của thanh niên và lòng bồng bột của anh, để đẩy anh
vào chỗ chết. Trong khi hiện nay ở nhà, chúng vẫn phè phỡn xe hơi nhà lầu, tiệc
tùng cười vui thoải mái hả hê, không cần biết hoặc không còn nhớ bây giờ anh
sống hay chết. Anh phải biết căm thù chúng nó. Hãy tố giác mọi âm mưu thủ đoạn
lợi dụng anh của chúng với cách mạng. Đây là con đường duy nhất, để tự anh cứu
sống anh. Chính anh là người quyết định sẽ được hưởng lượng bao dung khoan
hồng, của đảng và nhà nước hay không!
Tôi vẫn cúi đầu ngồi
nghe chúng nói. Tôi thấy chúng lợi dụng sự yếu mềm của tôi với gia đình, để đẩy
đưa sang vấn đề chính trị. Tôi suy nghĩ, tương kế tựu kế là sách lược hay nhất
và hiệu quả cũng thường cao nhất. Vì thế, tôi tỏ nét mặt vui tươi và tin tưởng:
- Thưa các ông, các ông
nói rất đúng. Càng suy nghĩ, tôi càng căm thù chúng. Nếu trước đây tôi không di
cư vào Nam, thì bây giờ biết đâu tôi chẳng là một anh bộ đội, hiên ngang trong
hàng ngũ cách mạng, cầm súng chống lại Mỹ Diệm.
Cả hai cùng cười rộ
lên, tôi nghe đầy những mưu mô thủ đoạn ở trong. Hai tên cùng đứng dậy, tên
Thành nhìn tôi:
- Bây giờ cho anh về
nghỉ. Sáng mai, chúng tôi sẽ đưa anh vào Hà Tĩnh đào chỗ anh chôn những đồ vật
dụng.
Về xà lim, đêm hôm ấy,
tôi cố moi óc nhớ lại tất cả những gì tôi chôn theo hôm đổ bộ, nghĩ xem có điểm
gì quan trọng tôi chưa khai thông. Vì đến nước này, trước hay sau tôi cũng phải
vào chỗ chôn giấu. Trước đây, chúng bắt tôi vẽ sơ đồ, hỏi tỉ mỉ từng chi tiết
đường đi, nước bước, tôi tưởng chúng đã cho người vào địa điểm tôi chỉ mà không
tìm ra, nên bất đắc dĩ chúng bắt tôi đi. Hồi chiều, tên Nhiễm mở cửa bảo tôi ra
cắt tóc. Khi ra tới chỗ bể nước nơi vẫn đổ phân, một anh đi chân đất, mặc quần
nâu, tuy có vẻ mập nhưng nước da vẫn tai tái, tay cầm cái “tông đơ”, chỉ hè
gạch, bảo tôi ngồi. Tên Nhiễm đứng ngay đấy.
Chỉ 3 phút, anh húi hết
tóc, rồi râu của tôi, anh ta nói với tên Nhiễm:
- Báo cáo ông, tôi về.
Tên Nhiễm chỉ gật đầu.
Hôm nay, đặc biệt, tên Nhiễm gọi thợ cắt tóc cho tôi, và lại đặc biệt cho vào
gội đầu. Cũng chỉ vài phút cúi đầu vào vòi nước, vặn xòe xòe, vò một lúc xong!
Tôi hiểu, chẳng qua vì
ngày mai tôi phải vào Hà Tĩnh, nên hôm nay mới được cắt tóc, chứ gần 4 tháng có
cắt đâu. Chẳng biết tóc tôi y cắt thế nào, sờ thấy ngắn ngủn. Kệ nó, cần gì!
29.
Trở Lại Địa Điểm Đổ Bộ…
Sáng hôm sau, trời hãy còn tối đất, chưa đến giờ làm việc,
đã thấy cửa buồng tôi mở.
Khi ra tới phòng cung,
nhìn ra sân, dưới giàn nho, tôi thấy ở lối đi giữa, một chiếc xe Commanca đang
đậu quay đầu hướng ra phía cổng Hỏa Lò. Tôi nhớ hôm nay là ngày 15 tháng 10.
Như vậy, tôi đã bị bắt gần 4 tháng.
Trong phòng cung có 3
tên Thành, Đức và Nhuận. Tên Đức chỉ tôi ngồi ghế, rồi nghiêm giọng:
- Hôm nay, chúng tôi
được lệnh dẫn anh vào chỗ anh đã đổ bộ, để lấy một số vật liệu tang chứng anh
đã khai báo. Trên đường đi, hay về, anh phải tuyệt đối chấp hành lệnh của chúng
tôi. Nếu anh tỏ ra một vài ý không tuân theo, anh sẽ hoàn toàn chịu trách
nhiệm. Chúng tôi sẽ cương quyết xử lý. Nếu anh tỏ ra thành khẩn chấp hành, điều
đó sẽ rất tốt cho anh sau này.
Tên Thành mở một gói
giấy báo trên bàn: Một nắm xôi với một quả chuối. Hắn đưa cho tôi:
- Anh hãy ăn chỗ xôi
này, rồi chuẩn bị đi.
Chừng 5 phút sau, ăn
xong, tôi xin uống nước. Y nhìn quanh không thấy nước, đành sang phòng bên. Y
lấy cái tích còn ít nước trà, chắc từ hôm qua, nước hơi thiu, nhưng tôi rót
uống hết. Sau đó, tên Nhuận ra ngoài, một lát sau y vào cùng hai tên cảnh sát
đồng phục và mang vũ khí. Y quay lại phía tôi tuyên bố:
- Theo nội quy đi
đường, để đảm bảo an ninh, anh để các đồng chí đây làm thủ tục.
Hai tên cảnh sát bắt
tôi đứng lên, đưa hai tay ra phía sau. Chúng khóa một cái còng số 8 ở cổ tay,
rồi hai miếng khóa ngàm nối với nhau bằng một xích sắt lớn, mỗi miếng bóp khóa
ở trên cánh tay tôi phía dưới vai. Trong khi đó, cả 3 tên Nhuận, Thành và Đức
đều đeo súng ngắn.
Chẳng biết chúng sợ gì
tôi, có thể chúng nghĩ tôi biết chút võ vẽ ngày xưa nên chúng đề phòng chăng.
Phải khóa hai lần, và 5 tên có vũ trang áp tải.
Khi chúng dẫn tôi ra
gần tới xe, tên lái xe mặc quần áo xám bộ đội quay lại, nói với chúng:
- Hãy khóa tay ra đàng
trước cho người ta. Nếu không, khi đi đường xe xóc, ngã gẫy tay.
Đúng vậy, khóa phía
sau, nếu ngã tôi chẳng làm sao đỡ được, sẽ như quả bí lăn long lóc. Tuy thế,
không ai trả lời, và cứ như vậy lên xe. Chúng phải đỡ tôi lên xe, vì tôi không
có tay để vịn. Tên Đức ngồi băng trên với tài xế, còn 4 tên ở phía dưới kém tôi
vào giữa.
Xe bắt đầu chạy ra cổng
Hỏa Lò, rồi qua thành phố, trở ra Quốc Lộ 1.
Mới hơn 4 tháng nằm
trong Hỏa Lò mà tôi đã cảm thấy như lâu lắm, với bao nhiêu đau thuơng nặng nề
âm u trong cùm kẹp, cũng như bao nhiêu bão tố vùi dập về cung kẹo. Từ tâm tư,
nếp suy nghĩ đến cả con người của tôi cũng đã thay đổi hẳn. Thực vậy, cũng vẫn
cảnh sinh hoạt ngược xuôi của phố phường. Cũng vẫn khung trời Hà Nội mây bay,
gió thổi; nhưng, tôi nhìn nơi nào, cảnh nào, đâu đâu cũng chỉ một màu héo úa
đau thương.. Những xe cộ, tôi thấy tất cả như xa lạ, thuộc về một thế giới
khác, cái thế giới không có phần của tôi nữa. Tôi không còn một chút gì dính
dáng đến cái vui, cái êm đềm của hạnh phúc, “nếu có”, của thế giới ấy. Một mình
tôi tách rời ra, lầm lũi mò mẫm trên con đường chập chùng dẫn xuống địa ngục
tối, lầm than.
Trên đường đi thật là
gian khổ. Đường nhiều ổ gà, xe xóc, tôi như quả bí ngả nghiêng, lăn lộn. Tôi có
gì để đỡ đâu, hai tay bị khóa chặt sau lưng, ngay ngồi yên cũng còn khó dựa
lưng. Thân thể đau nhừ, tâm tư nặng trĩu ưu sầu. Suốt đường đi, tôi như người
câm, âm thầm mím môi, đè nén đau thuơng uất hận vào tim.
Những lần xe phải qua
phà. Chúng có lệnh đặc biệt nên chỉ tài xế và tên Đức phải xuống đi bộ. Tất cả
mọi xe khác, dù bộ đội hay công an, ai ai cũng phải xuống xe. Riêng tôi và 4
tên áp tải vẫn ngồi trên xe. Vì thế, có nhiều con mắt tò mò rõi vào trong xe
chúng tôi. Khi thấy một người bị hai lần khóa ngồi giữa 4 công an, con mắt họ
thường mở to nhìn tôi. Tôi để ý, mỗi lần xe qua phà, hoặc cầu, một tên cảnh sát
có một cái xích nữa mắc vào cái khóa xích phía trên của tôi. Hình như chúng sợ
bất ngờ tôi lao xuống sông, để trốn hay tự tử.
Khi xe vào thị xã Thanh
Hóa, những tên công an và cả tên lái xe cùng xuống hết cả. Lúc đó khoảng 12
giờ, chắc chúng đi ăn. Chỉ còn hai tên cảnh sát ngồi lại trên xe. Chừng nửa giờ
sau, tụi công an trở về, tên Thành mang về cho tôi hai gói xôi, có lẽ mỗi gói
hai hào. Điều phiền cho chúng là tôi không ăn được, vì tay khóa sau. Chúng hội
ý với nhau một lúc, rồi tên Thành quay lại nói:
- Bây giờ chúng tôi mở
khóa, và sẽ khóa ra phía trước cho anh ăn. Nhưng cần phải tuyệt đối chấp hành
nghiêm chỉnh. Anh tỏ ý lộn xộn thì đừng trách chúng tôi.
Hắn mở một cái túi
xách, chỉ vào trong và nói:
- Đáng lẽ chúng tôi
phải xích cả chân anh nữa, nhưng để cho anh thoải mái. Vậy, anh phải biết điều!
Chúng khóa tay tôi ra
phía trước. Tôi ăn xong, tên Thành hỏi:
- Anh có hút thuốc
không?
Trời đất hỡi! Từ sáng,
nhìn chúng hút, tôi thèm điên người. Đời tôi bây giờ đau thuơng tràn lối, còn
quái gì nữa đâu, cho nên ước mong đuợc hút một điếu thuốc cho say sưa, thế là
mãn nguyện rồi. Vì vậy, khi tên Thành hỏi, mắt tôi sáng lên và tỏ ý biết ơn.
Tôi thèm nhưng nhất định không mở miệng xin chúng.
Chà, thật là ngây ngất
đê mê. Mấy tháng trời, hôm nay tôi mới cảm thấy cái thú tuyệt vời. Dù hai tay
còn đang bị khóa. Phải ai đó ở trong hoàn cảnh như tôi mới cảm nhận hết được
cái thú ngất ngây đê mê đó.
Chờ tôi hút xong, chúng
lại khóa tay tôi ra phía sau như cũ, rồi hai tên cảnh sát mới đi ăn.
Xe vào tới Hà Tĩnh thì
đã chiều. Chúng đưa tôi vào trại giam của thị xã. Lúc đó đã 6, 7 giờ tối, tù đã
vào hết trong buồng, nên sân trại giam không có một bóng tù.
Hai tên cảnh sát giong
tôi xuống dưới bếp, mở khóa, rồi chúng nói với mấy tên cán bộ ở đấy. Hai tên nữ
cán bộ ăn mặc kiểu nông dân (có thể hết giờ làm việc họ đã thay đồ) dẫn tôi vào
bếp. Cơm nước của tù đã hết, hai tên nữ cán bộ bàn nhau một lúc, rồi chúng đi
vào một phòng con, lấy nồi cơm nguội của chúng, và nồi thịt heo kho Tàu, chỉ
còn nước và hai, ba miếng thịt nhỏ. Chúng đưa ra, đặt xuống đất, bảo tôi ăn đi.
Ôi chao, sao mà cuộc
đời hẩm hiu của tôi lại có những phút sung suớng như thế này. Ăn miếng cơm
nguội, chan với nước thịt kho Tàu, tôi nghĩ rằng trong đời tôi từ trước chưa có
bữa cơm nào ngon như thế. Trong nồi còn đến 4,5 bát cơm thế mà tôi chén sạch
trơn. Cảm ơn cuộc đời! Cảm ơn con người!
Sau đó, một tên cán bộ
nam, có lẽ là trực trại, dẫn tôi vào một buồng, có thể cũng là xà lim, nhưng là
một xà lim vùng quê nên bẩn thỉu và tối om. Ngọn đèn điện vàng khè đầy mạng
nhện và bụi đất chỉ làm cho căn xà lim mờ mờ, chỗ sáng, chỗ tối. Ở giữa buồng,
một chiếc sàn gỗ đầy như chiếc giường con, sứt sẹo nằm chơ vơ. Bên trên có cái cùm
suốt với hai khoen bằng sắt tròn, loại đường kính 2 phân rưỡi.
Tên cán bộ rút suốt
cùm, bảo tôi lắp hai khoen vào hai chân, y chốt lại rồi khóa. Không nói thêm
một lời, y ra ngoài đóng cửa, khóa lại.
Chà, cùm kiểu này thật
dễ chịu, cùm hai chân mà tôi thấy thoải mái hơn, cùm một chân ở Hỏa Lò. Tôi có
thể đứng dậy, dịch chân sang chỗ nọ, chỗ kia, tha hồ đứng trên sàn vặn vẹo
người tập thể dục, hít thở không khí. Cả ngày ngồi xe gò bó nên mệt, tôi ngả
lưng cho cơ thể thoải mái, đồng thời thưởng thức cái dư vị của một bữa ăn ngon,
mà giờ đây, nước miếng còn thấy ngọt. Hai chân tôi dạng ra chụm vào dễ dàng.
Đêm khuya vắng lặng, thỉnh thoảng vang lên những tiếng xọc xạch cọ sát của hai
khoen cùm khi tôi cử động đôi chân.
Bụng căng no tròn, chân
tay thoải mái, có lẽ đêm nay tôi sẽ được một giấc ngủ ngon lành. Nhưng đột
nhiên, lưng tôi ngứa ran, cái gì thế? Càng gãi, càng ngứa. Ngứa quá tôi phải bò
dậy. Lưng tôi rộp sần hết lên. Duới ánh sáng mờ mờ, tôi chả nhìn thấy cái gì
hết, nhưng trong lúc xoa gãi, tôi thấy mùi rệp hăng hăng. Tôi vội bò giật dậy,
đứng lên, cởi áo soi dưới ánh đèn. Trời, một cái áo của tôi mà gần 20 con rệp,
nhiều con bụng no tròn căng đỏ những máu. Cả mông, cả đùi cũng ngứa. Tôi tụt cả
quần ra, vì vướng cùm, nên phải cho tay vào ống quần mà khua, giũ đuổi con rệp.
Chả lẽ cứ đứng thế này suốt đêm? Mỏi chân và mệt, tôi lại đành mặc áo ngồi
xuống, rồi ngả lưng nằm xuống. Lại ngứa quá, tôi nhổm dậy, căng mắt nhìn xuống
sàn. Trong bóng mờ, lổn nhổn những chấm đen di chuyển. Kinh quá, sao nhiều rệp
thế! Hình như chúng đói lâu ngày, hôm nay mới có món ăn, nên chúng rủ rê con
cháu lũ lượt dũng cảm, xông vào con thịt. Tôi đành ngồi xổm, mỏi rồi lại đứng
lên. Người mệt rã rượi, tôi chẳng còn tâm hồn đâu để thuởng thức lại bữa ăn lúc
chiều. Bàn chân cũng ngứa. Chỉ còn hai bàn chân phải đứng trên sàn, thế mà
chúng cũng rúc vào từng kẽ ngón chân để hút máu. Nếu không có hai cái khoen
cùm, tôi đã lao xuống đất nằm, tôi mệt quá rồi.
Lũ rệp chó chết này,
hình như cũng là đồng chí của lũ Cộng Sản khát máu. Cũng hút máu con người,
nhưng chỉ hút và hành hạ những người cùng khổ. Đột nhiên, một tiếng nói của một
người con gái vang lên, trong cái âm u vắng lặng của nhà tù; giọng thánh thót
Hà Tĩnh từ một buồng bên:
- Anh Thời à!
Tiếng một người đàn
ông, cũng Hà Tĩnh, từ một buồng phía khác:
- Nguyệt đấy hỉ! Có
người mới vào à! Nhiều tuổi không?
Tiếng cô Nguyệt:
- Chừng 23, 23, có lẽ
là cán bộ bị bắt!
Chà! Như vậy khi nãy,
cô ả đã nhìn tôi qua một khe hở nào đó, mà tôi không biết. Im lặng một lúc, rồi
giọng người đàn ông:
- Anh bạn!…Mới bị bắt
hỉ? Bắt vì tội chi rứa?
Tiếng hỏi rơi vào vắng
lặng của đêm thâu. Tôi đang bơ phờ mệt mỏi vì phải ngồi xổm và đứng mấy giờ
rồi. Lòng lại nặng trĩu những suy tư tính toán, về ngày mai khi vào tới địa
điểm chôn đồ, nên tôi im lặng, để họ tưởng tôi đã ngủ rồi.
Đứng và ngồi, vẫn còn
phải đuổi muỗi nữa chứ. Hà Tĩnh cũng thực nhiều muỗi, có khi còn hơn ở Hỏa Lò.
Quá nửa đêm vừa rã rời vừa nhím mắt lại, không còn cưỡng lại được nữa. Thôi,
cũng đành xin hiến dâng những giọt máu loãng, của tôi cho các đồng chí của lũ
cộng vậy. Tôi nằm vật ra và thiếp dần.
Sáng hôm sau, trại giam
chưa tới giờ làm việc, chúng đã mở cửa, mở cùm gọi tôi ra. Tôi để ý, cũng là
công an, nhưng những tên công an ở Hà Nội chỉ gặp tôi ở trên văn phòng. Còn
giam ra sao, cùm ra sao, đều do những cán bộ của trại giam Hà Tĩnh đảm trách.
Hà Nội chỉ giao người và hôm sau lấy lại người.
Khi ra tới một phòng làm
việc, tôi đã thấy Thành, Đức, Nhuận và hai tên cảnh sát ở đấy. Họ đang nói
chuyện với một tên đeo lon Trung Úy ở trong phòng. Khi tôi vào, tên Thành quay
lại tôi:
- Anh để cho các đồng
chí đây làm việc, rồi đi.
Làm việc quái gì đâu.
Chúng nó lại lủng củng xích với khóa. Vẫn khóa tay tôi ra phía sau như hôm qua.
Chúng giong tôi ra chiếc xe hôm trước đã đậu phía trong cổng trại giam. Chúng
đỡ tôi lên, cũng cái thế ngồi như ngày hôm qua.
Càng đường trong này,
càng xóc dữ dội. Người tôi lăn lộn, hai tên cảnh sát, mỗi tên một bên, phải giữ
đỡ hai cánh tay của tôi. Trên người tôi, tay tôi, những nốt rệp cắn đêm còn lốm
đốm đỏ. Một điều gây cấn cho tôi, những nốt đó bây giờ thật ngứa. Tôi muốn gãi
cào thật mạnh cho đã, nhưng tay tôi bị xích thế này, làm sao mà gãi được. Như
con trâu, tôi cứ xoay sở, vặn vẹo người cọ lung tung vào thành xe. Càng cọ, lại
càng ngứa thêm. Chẳng lẽ lại nhờ những tên công an gãi cho? Chúng nó chẳng thèm
làm, và tôi cũng chẳng thèm nhờ. Hơn nữa, chúng biết tôi ngứa chỗ nào mà gãi.
Ôi, cuộc đời độc địa: ôi, loài người thương yêu.
Xe đi vào tới Kỳ Anh,
rồi Kỳ Phương. Đến đây, chúng đưa tôi vào một căn nhà trong xóm. Cũng nhà tranh
vách đất, nhưng có vẻ khang trang hơn những nhà chung quanh. Có thể là nhà của
một công an xã. Chúng đỡ tôi xuống xe, dẫn đến một gốc cây soan ở mé sân, bảo
tôi ngồi xuống. Hai tên cảnh sát đứng kèm hai bên. Ba tên Nhuận, Đức và Thành,
có lẽ đi trao đổi vấn đề.
Chừng một lúc, có một
số trẻ con, rồi một số dân trong xóm tò mò chạy đến thập thò nhìn tôi. Đột
nhiên, mấy em nhỏ chừng 12, 14 tuổi nhặt những hòn đất, đá ném vào người tôi,
rồi tiếp theo là mấy mụ đàn bà nhà quê, trong đó có một bà già, rống lên xỉa
xói, chửi, nào là:
- Mày là biệt kích, ăn
gan uống máu, làm tay sai cho Mỹ Diệm.
- Mày là tên Việt gian
bán nước, phản nhân dân, phản cách mạng.
………
Một bà khác cầm chiếc
đòn gánh cứ xông vào định đánh tôi, mồm réo lên:
- Mày giết chồng tao,
ngày nay cuộc đời tao góa bụa, con tao mồ côi. Tao đập vỡ đầu mày ra, cho mày
chết!
Tôi đã nhìn thấy nhiều
cảnh nhân dân miền Nam, sống ở thành phố cũng như ở nông thôn. Tôi cũng đã nhìn
thấy nhiều cảnh nhân dân miền Bắc, sống ở nông thôn cũng như ở thành thị. Tôi
so sánh, tôi tự thấy con đường mình đi là chính nghĩa, con đường mang ấm no, tự
do, nhân bản cho mọi người. Vì thế, trước cảnh này, dù đôi tay bị khóa, tôi vẫn
ngẩng cao đầu nhìn họ. Mắt tôi bình thản nhìn những thái độ thù nghịch, hằn học
của họ, mà lòng tôi vẫn tự hào. Cũng khá khen cho tụi lãnh đạo miền Bắc, dùng
chính sách ngu dân, bần cùng hóa con người, rồi từ đấy bịp bợm, khích lệ, ca
ngợi, phỉnh phờ; khêu gợi lòng căm thù của những kiếp người cùng khổ, hướng về
đối tượng kẻ thù của chúng. Nhìn thái độ, ánh mắt và lời nói của họ, tôi tự mỉm
cười trong lòng.
Tôi, đã hy sinh cả tuổi
trẻ, cả mạng sống, vào nơi hang hùm nọc rắn, để góp phần nhỏ bé của mình, hòng
cứu họ thoát cảnh đời trâu ngựa lầm than, lê thê trong kìm kẹp của Cộng Sản, họ
lại chửi bới, sỉ vả, hất hủi. Ngược lại, họ lại hoan hô, ca ngợi, kính yêu
những người sẽ giết dần đời họ bằng những lời dụ dỗ phỉnh gạt tinh vi. Tôi nghĩ
đến thời đại ngày nay, của con người mà rùng mình ngao ngán. Trắng, đen lẫn
lộn!
Tôi tha thiết kêu gọi
những nhà nước giầu có, các nhân vật tài ba lỗi lạc, hãy đem cái giầu của mình,
cái tài của mình, làm cách nào đó, làm cho mọi người dân phân biệt được trắng,
đen thực sự. Tôi nói “thực sự”. Vấn đề này, nghe nói đến, ai cũng thấy cũ xưa
như trái đất. Tôi nói nó không cũ xưa ở hai chữ “thực sự”. Cộng sản đã, đang và
sẽ còn gây cho nhân dân một số nước, một số chính phủ khốn đốn, chỉ vì người
dân chưa phân biệt rõ trắng đen, giữa người làm hại và ngưòi làm lợi cho họ.
Có người sẽ nói: Điều
này đã nói nhiều lần rồi, nhưng dân không tin.
Điều quan trọng ở đây
là vì sao dân không tin? Vì sao dân không tin gồm nhiều mặt, nhiều vấn đề, đòi
hỏi mất nhiều tiền của, nhiều tâm trí ngày đêm đào sâu xét kỹ, nhiều tâm, sức
để lăn xả vào những việc làm quên mình. Sẽ không có hiệu quả, nếu thiếu một
trong ba yếu tố trên. (Ở đây không phải là một tác phẩm lý luận, tư tưởng, vậy
tôi chỉ trình bày một số khái niệm có tính cách phiến diện).
Chừng nửa giờ sau, tên
Thành, Nhuận và Đức ra bảo tôi đi.
Ruộng đồng lúc này hãy
còn khô, nên chúng cứ đi tắt, qua cánh đồng chiêm, thẳng hướng tiến bước. Khi
gần tới nơi, xa xa tôi đã nhìn thấy chiếc cây to, tôi đã ngồi nghỉ lúc mới đổ
bộ lên bờ; phía bên phải là làng xóm nơi có nhà của tên chủ tịch Phong. Tôi cố
ý dẫn theo hướng khác, không đi vào làng, tôi bảo chúng đó là con đường tôi đã
đi ra Quốc Lộ 1. Thử để xem trước đây đã có tên nào vào tìm chỗ tôi chôn đồ chưa,
nên tôi cứ vờ lang thang ngơ ngác ở xa gốc cây. Lúc đầu, chúng cũng theo tôi,
sau thấy tôi cứ lơ ngơ nhìn đây đó, như chưa tìm lại được những địa hình quen
thuộc, tên Nhuận và Thành giơ tay làm hiệu:
- Theo như anh vẽ, thì
đến phía này cơ mà!
Qua thái độ chỉ dẫn của
chúng, trúng phóc, chỉ không thể xác định vị trí chôn chỗ nào gần gốc cây. Đây
đó, đã có một vài lỗ nhỏ, đất cát còn lổn nhổn, chứng tỏ đã có người đào bới
hàng nửa tháng, mươi ngày trước. Như thế, chúng đã cho người vào tìm, nhưng bới
đào lung tung, vẫn không tìm ra. Điều đó,cũng đã nói lên một phần là trước đây,
tôi đã chôn giấu tốt.
Đã hơn 5 tháng rồi, mưa
gió đã làm cho mặt đất, chung quanh gốc cây, chỗ nào cũng tưởng như chưa hề có
dấu chân người bước đến.
Cả 5 tên cùng đang chờ
thái độ của tôi. Thực ra, ngay khi tới gốc cây, tôi đã nhận ra chỗ nào rồi,
nhưng tôi chưa vội vàng. Thứ nhất, để chúng đỡ đánh giá cái óc còn tốt của tôi.
Thứ hai, tôi đang liếc về chỗ bụi rậm, nơi có tổ kiến vàng và nhiều sâu róm, nơi
đã che dấu tôi buổi đầu. Nhưng rồi, tôi đã chả làm nên trò trống gì, để bây giờ
lọt vào tay kẻ thù. Tôi cũng thấy lòng thèn thẹn với cả bụi dây, mà giờ đây đã
qua mùa Thu, mưa nhiều nên xanh um hơn trước. Liếc sâu vào trong bụi, nhìn ra
con đường mòn và thửa ruộng đoàn người xuống gặt ngày ấy, lòng tôi xót xa đầy
vơi cho kiếp đời gió mưa của mình. Nhìn ra xa xa, biển khơi một màu xanh ngắt.
Nhớ đêm nào các anh đã bế tôi vào bờ. Bây giờ các anh, các bác đang làm gì, có
bao giờ các anh, các bác ngồi nhớ lại cái đêm định mệnh đã làm tàn lụi, một đời
người thanh niên không? Tự nhiên tôi thở dài nhè nhẹ, như trút dần những nỗi
niềm đang buộc chặt trong lòng.
Trong lúc tôi đưa mắt
nhìn đây đó như cố moi óc để xác định chỗ chôn dấu, tôi thoáng thấy từ xa, nơi
một bụi cây cách tôi hơn 200 mét, mọc ở một chỗ hõm đồi cát, mấy cái đầu lố nhố
thập thò. Tôi lại nhìn thấy một họng súng đen xì khuất chéo bụi cây. Lòng thầm
ca ngợi sự cảnh giác đúng cỡ của Cộng Sản. Chúng đã chủ động ngày giờ đi, và
tôi đang ở trong tay chúng, không có một tấc sắt mà còn bị khóa hai lần. Tất cả
chỉ vì cái đa nghi phòng hờ của chúng. Tôi đã tả kỹ, vẽ rõ ràng sơ đồ, chỉ cho
chúng vào lấy, chúng không tìm ra. Bây giờ phải dẫn tôi đi, có lẻ chúng đã
nghĩ, biết đâu, đây lại chả là một kế hoạch có chủ trương của tôi; hoặc biết
đâu, những mạng lưới hoạt động của tôi theo dõi, bám sát, đến nay, thấy tôi
được dẫn về địa điểm hẹn, đã báo cho Sài Gòn để bất ngờ vài chiếc “máy bay lên
thẳng” vũ trang xuất hiện bắn phá, rồi nhào xuống cướp tôi đi. Vì thế, chúng đã
huy động du kích xã bố trí, chung quanh khu vực tôi chôn đồ. Phải công nhận
Cộng Sản làm việc gì đều tính toán tỉ mỉ, phòng hờ những tình huống có thể xẩy
ra. Nhưng, một điều chắc chắn là chúng không thể biết được, tôi đã thấy du kích
bố trí, vì từ ánh mắt đến thái độ của tôi đều không có gì khác thường cả.
Sau một lúc nhìn khắp
nơi cảnh vật, mắt cau cau như thể phải vận dụng óc để nhớ lại, tôi chỉ:
- Đào chỗ này!
Chúng có một cái xẻng
nhỏ của bộ đội, chúng chỉ đào sâu chừng 20 phân đã thấy cả một cái ba lô mầu
vàng, to tướng của Nhật và chiếc xẻng con của tôi đã chôn theo. Vải ba lô bây
giờ đã trở thành mầu xám đen và đã mục vài chỗ. Rất nhiều rễ cây con mọc chằng
chịt chui vào chiếc ba lô. Máy móc, tiền, thuốc Tây, bi đông, v.v… Và cả khẩu súng
ngắn phòng thân, đem đi phòng hờ bị kẹt ở điểm đổ bộ chưa ra được đường. Vì
được tôi bọc trong một miếng ny lông nên hãy còn nguyên.
Sau mươi phút, chúng
lấy hết lên. Tất cả đều đúng như tôi đã kê khai trước đây. Một vài thứ đã mủn
rách, chúng cũng cho tất cả vào một chiếc bao tải. Tên Thành vác lên vai. Khi
lấy các thứ này, chúng vui vẻ ra mặt. Thái độ của chúng đối với tôi cũng bớt
phần gay gắt. Tôi nhìn 200 đồng bạc, bây giờ mới thấy thèm, vì vậy, khi về tới
xe, tôi lựa lời:
- Thưa các ông, số tiền
ấy…tôi có được dùng không?
Chúng đều quắc mắt, tên
Đức cao giọng, dõng dạc:
- Đó là tiền của Mỹ
Diệm trang bị cho anh để đi hoạt động gián điệp, đâu phải tiền của anh. Hơn
nữa, tiền đó còn để làm tài liệu, chứng cớ.
Tôi cũng hơi tiếc biết
thế hôm đó mang tuốt cả đi, tiêu cho đã. Tôi đã phải dè sẻn tiêu pha. Bị bắt,
trong túi còn 20 đồng, vẫn bị tịch thu khi chúng khám xét.
Tôi nhớ, trên đường trở
ra Quốc Lộ 1, bây giờ đã đào được rồi, không có chuyện gì xẩy ra, chúng cũng
hơi chủ quan. Cả 3 tên Thành, Nhuận và Đức đi đường nào tôi không biết, chỉ còn
hai tên cảnh sát giong tôi. Ngay khi đào được đồ, tôi kêu tay tôi mỏi và ngứa
quá không gãi được. Chúng thấy đã có kết quả, nên cũng dễ dãi đồng ý khóa tay
tôi ra phía trước và chỉ một khóa số 8 thôi.
Khi di với hai tên cảnh
sát ra tới giữa cánh đồng. Tôi nhìn suốt một giải chung quanh, cánh đồng rộng
bao la, lại thỉnh thoảng có một ruộng đang có lúa. Vì ở giữa cánh đồng, không
có nhà cửa cây cối, hai tên cảnh sát cũng chủ quan. Có lúc cả hai tên cùng đi
trước tôi đến 7, 8 thước. Chắc chúng nhìn thấy tấm thân tôi xanh xao gầy gò,
bước đi còn không nổi, tay lại còn bị khóa nên chúng cũng chả cần đề phòng gì.
Tuy hai tay bị khóa, khi thấy một vũng nước nhỏ có con cua, hay con cá, tôi vẫn
đứng lại nhìn, hoặc sà xuống lấy tay hất con cua lên chỗ khô.
Giữa cánh đồng, không
khí trong lành, tôi đi lại được thoải mái nên người khỏe hẳn lên. Tôi chợt có ý
nghĩ, nếu tay không bị khóa, đây là cơ hội đẹp biết bao. Không có cách gì để mở
được chiếc khóa này! Tay tôi hơi nhỏ, bây giờ lại gầy nữa, nếu có xà bông, nhất
định ra.
Tôi nói một cách có suy
nghĩ tính toán là nếu tay tôi không bị khóa, hai tên cảnh sát ở giữa cánh đồng,
dù có hai khẩu súng ngắn dắt trong bao đeo ở cạnh sườn, tôi sẽ vẫn giải quyết
được trong 5 đến 10 phút. Với tình huống này, tôi có khả năng gây cho chúng chủ
quan rất dễ. Mà đã chủ quan coi khinh tôi, chỉ vài thế đánh chớp nhoáng là
chúng gục, nhất là lúc này lại là lúc tôi phải quyết tử, khác hẳn với lúc tôi
chưa bị bắt. Âu cũng là nghiệp chướng của đời tôi!
Xe về tới Hà Tĩnh đã 5
giờ chiều. Tôi lại được xuống bếp, lại gặp hai nữ cán bộ hôm qua. Vẫn có nồi
cơm nguội của các bà. Hôm nay, lại có hai con cá rô nhỏ kho và một bát con rau
muống luộc. Rau muống luộc mà chấm với nước cá kho, thật là hồn bay tận mây xanh.
Tôi cắm cúi ăn, lòng thầm biết ơn hai người. Suốt bữa ăn, cả hai đều ngồi đấy,
một đọc sách, một khâu. Chả ai nói với ai một lời. Im lặng, chỉ thỉnh thoảng
nghe tiếng loong coong của đôi đũa chạm vào bát khi tôi và cơm. Ăn xong, tôi
đứng dậy nhìn hai bà với ánh mắt dạt dào tình người. Một người ra ngoài một
lúc, một tên công an vào, ra hiệu tôi đi theo y.
Trên đường dẫn đến xà
lim, bấy giờ tôi mới chợt nhớ đến rệp. Tôi thấy rùng mình. Cứ nghĩ đến đàn rệp
lổm ngổm ở chiếc sàn gỗ. Vẫn là căn buồng xà lim hôm qua. Khi y chuẩn bị đóng
suốt cùm, tôi nói như than vãn:
- Thưa ông, chiếc sàn
này nhiều rệp quá!
Y nhìn tôi lừ lừ, chẳng
nói một lời, bỏ ra, đóng của, khóa lại.
Đã có kinh nghiệm, cùm
xong, tôi ngồi xổm ngay dậy. Tôi ngồi sầu, suy nghĩ miên man. Vô kế khả thi.
Chẳng có cách gì để chống lại lũ rệp. Không lẽ, tôi cứ phải ngồi như vậy suốt
đêm? Một ý niệm tràn vào óc tôi. Trong cuộc đời, nhiều khi vì cái thế, phải
thua, phải hàng cả con …rệp. Cũng một con người ấy, nhiều khi hiển hách, hét ra
lửa, bao kẻ phải cúi đầu lo sợ; nhưng, cũng có lúc vì cái thế. Óc tôi cứ chảy
dài theo dòng suy ngẫm, bỗng giọng một người con gái nghe như thì thầm gần đâu
đây:
- Sao anh không nằm
nghỉ?
Tôi ngỡ ngàng, vểnh tai
về phía tiếng nói, chẳng hiểu nói với tôi hay nói với ai! Im lặng, mấy phút
trôi qua. Lúc này, rõ ràng là người con gái ấy nói với tôi, nghe khe khẽ như
tiếng thì thào từ một khe nứt ỏ một tấm vách tường:
- Sao anh không trả
lời?
Như vậy, hẳn cô nàng
khi nãy có nghe loáng thoáng tôi nói chuyện với lão cán bộ rồi. Cũng với giọng
khe khẽ tôi thì thầm:
- Xin lỗi, có phải cô
Nguyệt?
Giọng hơi ngạc nhiên:
- Sao anh biết tên tui?
Tôi hơi cười:
- Tôi còn biết anh Thời
nữa!
Rồi để đánh tan sự ngần
ngại, ngạc nhiên, tôi tiếp:
- Có gì đâu, hôm qua
tôi nghe anh chị gọi nhau.
Và để chủ động, tôi
tiếp tục:
- Chị bị bắt lâu chưa,
về tội gì?
- Hơn tháng rồi. Tôi là
đoàn trưởng Đoàn Thanh Niên Lao Công của xứ đạo. Họ bắt tôi phải từ bỏ việc làm
của tôi, để gia nhập Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Tôi không đồng ý, nên họ ghép
tội tôi là phần tử phản cách mạng, họ bắt.
Tôi thấy chị tỏ ra cởi
mở, không giữ gìn, dễ tin người. Nhưng, cũng có thể chị đã có cái nhìn tinh tế
về tôi, nên mới vậy chăng? Tôi tiếp tục:
- Còn anh Thời?
Chị nói nhỏ:
- Tôi không biết rõ
lắm!
Tôi hơi cao giọng:
- Tôi có lời chào và
thăm hỏi anh Thời!
Tiếng nói từ một buồng
phía xa:
- Chào anh bạn, anh mới
bị bắt vào hỉ?
Thấy xa xôi quá, phải
nói to không tiện. Nói to trong đêm khuya là một điều bất lợi. Lại tiếng chị
Nguyệt nho nhỏ:
- Anh bị bắt vì tội gì?
Trông anh ốm lắm!
Tôi cũng hạ giọng:
- Xin cảm ơn sự quan
tâm…Chị nhìn tôi có rõ lắm không? Thế mà tôi chả biết chị như thế nào?
Một tiếng cười khẽ:
- Người ta hỏi lại cứ
tảng lờ!
Cô này có vẻ đáo để và
khôn ngoan. Để khỏi phiền toái những hậu họa vô ích, tôi thủng thẳng:
- Tôi là giáo viên cấp
II ở Hà Nội, tội vượt tuyến.
Một lúc im lặng, rồi
với một giọng thắc mắc:
- Vượt tuyến gì mà lại
cùm hai chân?
Ghê nhỉ! Phụ nữ cũng
không vừa. Nghĩ vậy, tôi thản nhiên:
- Có gì đâu, trong lúc
bị vây bắt, tôi đã đánh cán bộ.
Lại một tiếng cười khẽ:
- Dữ nhỉ! Anh hay đánh
người lắm hỉ?
Để khỏa lấp chuyện đó,
tôi hỏi:
- Ở đây có mấy buồng xà
lim? Nói chuyện thế này, có khi nào bị cán bộ rình bắt cùm không?
- Ở đây có 8 buồng. Nói
chuyện nhỏ thế này từ 10 giờ đêm trở đi, không sợ. Thỉnh thoảng nghe tiếng chân
cán bộ đi kiểm tra, mình im luôn.
Tôi nghĩ bụng, nói
chuyện thế này, những lúc hứng câu chuyện, làm sao nghe được tiếng chân. Hơn
nữa, gặp phải một tên cán bộ quái, nghe tiếng chân sao nổi. Tuy vậy, tôi cũng
không nói ra, tôi nói như than thở:
- Sao ở đây nhiều rệp
thế, tôi không thể nằm được!
Lại tiếng cười xìn xịt.
Sao hay cười thế! Hết cười, cô mới như an ủi:
- Ngày mai, anh báo cáo
cán bộ trực xà lim, xin ít dầu lửa đổ vào các khe gỗ.
Tôi nghĩ thầm, ngày mai
tôi có còn ở đây nữa đâu. Tuy vậy, tôi im lặng.
Cũng quá nửa đêm rồi,
tôi đứng lên ngồi xuống nhiều lần đã mỏi quá. Thôi, cũng đành như đêm qua, đành
mời mọc hiến dâng cho những con rệp, con muỗi một bữa no nê nữa.
Máu của tao, khổ cực
đói khát quá, nên vừa hôi tanh, vừa loãng lắm. Lũ chúng mày chỉ có thể hút máu
những người nghèo khổ cùng cực, chứ những loại máu thơm ngon bổ béo của những
người giầu, chúng mày đừng hòng. Người ta có mùng mền sạch sẽ, và có nhiều loại
thuốc để trị chúng mày! Giống như đồng chí của chúng mày vậy, chúng chỉ có thể
hút máu mủ, những đám dân nghèo nàn lạc hậu, nhứ những nước giầu có văn minh,
người ta có hở cơ ra, chúng mày cũng chỉ “khạp” được một miếng mà thôi.
Mới mờ sáng hôm sau,
tên công an trực trại đã vào mở cửa, mở cùm bảo tôi ra. Có lẽ lúc này cô Nguyệt
còn ngủ, hoặc có thức, tôi cũng không làm sao lên tiếng chào một người “chiến
hữu hai đêm”. Lợi dụng lúc tên công an quay lưng đi ra, tôi gõ nhè nhẹ tay vào
tường hai cái, gọi là để giã từ người bạn mới có lòng.
Cái buổi từ Hỏa Lò ra
đi, đã ruột gan đòi đoạn từng cơn. Bây giờ trở về, dù được chúng thông cảm khóa
tay ra phía trước, nhưng trong lòng tôi như không còn một chút nhựa sống. Xe
long lóc, người tôi ngả nghiêng; vật vờ, rũ rượi, như những chiếc lá úa trước
những trận Thu phong cuối mùa.
Xe càng chạy trở về,
tôi thấy lòng càng quặn thắt, xa dần miền Nam thương yêu. Lần lượt, những hình
ảnh bạn bè, họ hàng ruột thịt chan chứa, đầm ấm hiền hòa hiện ra trong óc tôi.
Qua khe hở của chiếc mui xe, tôi rõi mắt nhìn một mảnh trời hình tam giác lệch,
về hướng Nam. Một mảnh trời xanh xanh mơ hồ, vời vợi, rõ ràng nét mặt của mẹ
tôi, với đôi mắt sầu ngấn lệ, nhìn tôi đăm đăm. Một âm vang rền rĩ trong óc:
Mẹ ơi! Cách trở ngàn
trùng.
Hướng về nơi mẹ, ngập
ngừng…lệ rơi!
Tôi nhắm mắt lại để
ngăn giòng lệ khỏi trào ra, uất nghẹn dồn về trái tim đen thẫm.
Xe chạy qua Vinh, trên
đường đi Thanh Hóa. Hai bên đường ngập lúa chín vàng. Những sóng lúa dập dờn
theo chiều gió, những làn hương đồng nội ngất ngây phả ắp không gian, cũng
không làm giảm được nỗi buồn héo hắt trong lòng tôi.
Xe từ từ ngừng lại ở mé
đường. Tôi liếc nhìn ra khi hai tên Thành và Nhuận xuống xe. Nhìn theo con
đường đất chạy dài mãi vào nơi làng xóm xa xôi. Mãi trong phía xa, khoảng 200
mét cách đường nhựa nơi xe đậu, tôi thấy có 3, 4 thanh niên và mấy em nho nhỏ,
hầu hết là quần đùi, chân đất đang chạy ra phía chiếc xe. Khi các em chạy đến,
qua một vài câu trao hỏi, tôi mới hiểu đây là quê hương của tên Thành. Chắc
Thành đã viết thư từ trước. Lâu ngày đi làm việc ở Hà Nội xa, may có dịp công
tác qua quê nhà, nên y hẹn các em, các cháu ra hỏi han tin nhà, và cũng là để
vẻ vang với xóm làng.
Mấy thanh niên và các
em nhỏ tò mò nhìn vào trong xe. Chẳng biết chúng sẽ suy nghĩ gì với những cái
đầu óc bị bao vây trong lũy tre làng! Lũ thanh niên và Thành hỏi han nhau tíu
tít, nào là:
- Anh Thành ơi! Anh A
đã vào chiến trường B rồi (theo miền Bắc lúc ấy: Chiến trường “A” là miền Bắc,
“B” là miền Nam và “C” là Lào).
- Chị B lên huyện làm y
tá.
- Anh C đã làm tiểu đội
trưởng du kích, v.v…
Đột nhiên, một thanh
niên giọng háo hức:
- Anh Thành ạ, anh
Luơng làng mình đã mua được một chiếc xe đạp rồi đấy. “Bình bầu” mãi! 280 đồng
giá cung cấp. Hai cái tay “phanh” sáng loáng. Hôm nọ, nói mãi anh ấy mới cho em
đi thử một vòng ở sân hợp tác xã, êm như ru, sướng lắm!
Tôi nghĩ thầm. Một
chiếc xe đạp! Bao nhiêu lâu anh em mới gặp nhau có mươi, mười lăm phút, mà khoe
“một chiếc xe đạp”, lại là của người khác cho mượn. Tôi cảm thấy, ở miền Nam,
chuyện mua một chiếc ô tô cũng không đến nỗi chiếm vào cái thời giờ ngắn ngủi,
mà bao nhiêu chuyện gia đình cần nói.
Sự việc này, cho phép
tôi hiểu hơn một chút về cảnh sống của người dân miền Bắc. Đám thanh niên, trẻ
con còn rờ, còn mó chiếc xe ô tô như một thứ kỳ vĩ lạ lùng. Với đầu óc ngây thơ
hạn hẹp của họ, đúng là Liên Xô, Trung Quốc vĩ đại thực, vô địch thực! Nghĩ cho
cùng, nếu tôi phải sống như họ, thì tôi cũng chẳng khác gì họ. Vậy, lỗi này đâu
có phải tại họ!
Mười lăm phút sau, xe
lại chạy, những đứa trẻ con còn cố chạy theo để rờ, mó chiếc xe như thể tiếc rẻ
chưa rờ đã!
30.
Nguời Mong Không Gặp Người Gặp Không Mong
Về tới Hà Nội đã 5, 6 giờ chiều. Trời đã lành lạnh buổi đầu
Đông. Khi xe vào cổng Hỏa Lò, trời đã chập choạng. Vào phòng, sau khi mở khóa,
tên Thành mở cặp lấy ra hai gói thuốc lá “Trường Sơn” và một bao diêm:
- Đây là tiêu chuẩn
tiền ăn đi đường 2 ngày của anh, còn thừa 5 hào, tôi bỏ thêm hai hào để mua cho
anh.
Tôi sáng mắt cám ơn.
Tên Thành thật tâm lý. 7 hào bạc, bất cứ nó mua cho tôi thứ gì cũng không quý
bằng thuốc lá. Tôi thấy trong lòng hân hoan hẳn lên. Một số ngày sắp tới như
được hứa hẹn có một người bạn hiền, thật chung thủy, gắn bó, chia sẻ, an ủi
thông cảm với tôi trong những lúc đắng cay cùng khổ của một kiếp …tù.
Tên Bằng dẫn tôi về xà
lim, vẫn trở về buồng cũ, buồng số 5 xà lim III. Giờ này, tên Nhiễm trực đã
nghỉ, vì thế tên Bằng mở cửa buồng. Trong buồng, ngoài bộ quần áo sọc cũ của
tôi, bây giờ đã có chăn chiếu. Thật là mừng! Đã cuối tháng 11, trời lạnh nhiều,
các cán bộ ở Hỏa Lò đã thay đổi quần áo mùa Đông. Sau khi cùm xong, tên Bằng ra
khóa cửa lại.
Trong lòng còn đang mải
mê niềm hân hoan với thuốc lá, với chăn chiếu, tôi quên bẵng không báo cáo với
tên Bằng là chiều nay, tôi chưa ăn cơm. Thật là lú lẫn đáng trách. Từ 11 giờ
sáng, ăn hai nắm xôi, mỗi nắm 2 hào ở Vinh, tới bây giờ chả có gì trong bụng
cả. Tôi lục đục trải chiếu, cái cùm hôm nay thật lạnh buốt. Đói, lạnh thế này
không thể ngủ được. Hơn nữa, mất suất cơm lúc này là cả một vấn đề. Tôi phải
dũng cảm! Khi đó, chắc khoảng 7 giờ. Tôi lựa thế đứng một chân xuống nền, cố
với miệng ra gần cửa nhỏ, tôi hô to:
- Buồng số 5 báo cáo cán
bộ!
Một lần, im lặng. Hai
lần, rồi lần thứ ba, vẫn im lặng. Tôi thấy ngần ngừ, nhưng cái bụng bắt buộc
tôi phải dũng cảm tiến lên. Tôi cố hô thật to một lần nữa. Vừa hô được nửa câu
thì cửa sổ nhỏ xịch mở, làm tôi giật mình. Chắc rằng, tôi hô từ nãy, y đã từ
đâu mò đến, khe khẽ nghe ngóng, tôi đâu có biết, y quát:
- Báo cáo cái gì?
Tiếng la của một người
lạ, tôi không nghe giọng quen. Tôi dõng dạc:
- Báo cáo ông, chiều
nay tôi chưa được ăn cơm.
Y gằn giọng:
- Sao không được ăn
cơm?
- Tôi đi từ Hà Tĩnh mới
về, từ sáng tới giờ chưa ăn.
Cửa sổ nhỏ đóng lại.
Chừng 15 phút sau, cửa sổ lại mở. Lần này là tên Bằng. Y còn hỏi:
- Anh chưa ăn cơm à?
Tù bây giờ vào hết
trong buồng rồi. Y đi mươi phút, có lẽ xuống bếp. Một lúc sau, y mở cửa, đưa
vào cho tôi một bát đầy cơm, với một bát con có ít muối trắng. Y nói có vẻ dìu
dịu:
- Canh không còn, anh
ăn với muối vậy.
Tên này mắt lồi, trông
dữ tướng, vậy mà tử tế tệ. Tôi mừng hết chỗ nói. Bát cơm gấp rưỡi mọi khi.
Chẳng cần đũa, dùng 10 chiếc đũa trời cho mà tuyệt vời. Vừa ăn, vừa ngẫm nghĩ,
nếu mình không dũng cảm lên tiếng, cứ do dự ngại ngần, làm gì có cơm ăn. Vậy
trong cuộc đời, nhiều khi phải liều mới đạt kết quả. Hôm nay, tôi thấy lòng vui
hẳn lên. Nhiều cái may, thuốc lá này, chăn chiếu này, bây giờ lại bát cơm đầy.
Thế mới biết, hạnh phúc của con người chẳng có tiêu chuẩn quái nào cả. Vì thế,
Cộng Sản đã triệt để lợi dụng khía cạnh này, để du hoặc lòng người.
Khoảng 15 phút sau, tên
Bằng trở lại mở cùm, tôi đem bát ra trả và múc gáo nước. Theo quy định ở xà
lim, không được để bát trong buồng. Cùm xong, tôi loay hoay tính toán.Cái chân
trong cùm lạnh quá, mình sẽ chiếu cố đặc biệt cho nó. Tôi lồng hai ống một
chiếc quần cũ lại, lựa luồn lách vào lỗ cùm, vừa lót, vừa cuốn cho cái chân
ngăn cách với sắt. Trải chiếu ra, nằm vẫn buốt lưng, tôi phải gấp lại làm tư,
chỉ lót từ mông đến vai. Tôi mặc hai áo, lấy chăn cuộn để hai chăn giáp chéo
sang nhau ở dưới lưng (như vậy cũng như nằm lên hai lượt chăn). Nằm xuống, thấy
tương đối dễ chịu, tuy sờ hai vai và từ đùi trở xuống vẫn lạnh, nhưng với mức
độ lạnh thế này vẫn chịu được. Chỉ còn cái đầu, không có cái gì để gối lên một
tí. Khó khăn đẻ ra sáng kiến! Lục lọi, tìm tòi trong óc, cuối cùng tôi nhớ tới
mấy bó cuống chổi thanh hao, vẫn thường cọ rửa thùng phân, dựng ở mé tường chỗ
vòi nước. Để ngày mai, tôi tính cả một kế hoạch, cho làm sao để có “một chiếc
gối đầu”.
Mỗi sáng, tôi được 5
phút làm vệ sinh với những động tác sau: chạy lẹ đem bô đổ vào một cái lỗ chỗ
đi ỉa; chạy về mở nước đổ tráng lần một, lần hai cho chổi vào cọ sơ, đổ; tranh
thủ rửa hai cái tay, vuốt lên mặt mấy cái, rồi ôm bô vào. Ngày mai, tôi sẽ bỏ
rửa tay, rửa mặt, để rửa hai đoạn cuống bó chổi thanh hao, vì các buồng họ làm
vội, nhiều khi còn vướng những cục phân nhỏ vào những chạc cành phía trong.
Tháo một cái lạt, tất cả đút vào bô, đậy nắp, vào buồng là ổn.
Đêm ấy, tôi nằm ngủ
tương đối dễ chịu, những chú muỗi đành đứng ngoài khóc. Mùa Đông, càng lạnh
càng ít muỗi. Thật là kỳ cục. Giá đổi lại mùa Hè ít muỗi, mùa Đông nhiều muỗi,
tôi hạnh phúc biết bao!
Sáng hôm sau, kế hoạch
đã tính kỹ, tôi cứ thế thực hiện. Khi vào buồng, tôi gỡ ra, tỉ mẩn bó lại thành
một bó tròn đường kính độ 5 phân, dài chừng 20 phân. Tuy là chổi cọ thùng phân,
nhưng tôi rửa kỹ nên chỉ hôi mà không thối. Còn ướt quá, tôi cố với người dựng
vào phía trong của gầm sàn, tối nay sẽ ráo.
Một lúc, mụ Hoa vào gọi
đi cung. Hôm nay lên, tôi gặp tên Nhuận và một tên lạ mặt. Sau một vài câu hỏi
xã giao thường lệ, tên Nhuận mở cặp:
- Hôm nay, để thấy được
sự thành khẩn của anh với cách mạng, chúng tôi sẽ hỏi anh một số vấn đề.
Y có chừng 20 cái ảnh
đen trắng, loại hình 4×6 mà ai mới bị bắt cũng phải chụp để làm hồ sơ. Y đưa
từng cái một, hỏi tôi có biết ai không. Trong khi đưa ảnh cho tôi xem, cả hai
đứa đều theo dõi nét mặt và ánh mắt của tôi.
Kể cả 20 tấm ảnh gầy
ốm, chứng tỏ là ảnh người tù. Tôi không biết một ai. Những dù cho có biết, tôi
cũng tảng lờ ngơ ngác không biết. Qua một số thái độ, cách hỏi, cách đưa ảnh,
tôi đã ngửi thấy vấn đề. Tôi hiểu trong số 20 tấm hình này, sẽ có từ một đến
vài cái là ảnh của những người từ miền Nam ra, nằm trong một màng lưới tình báo
nào đó của Sài Gòn đã bị bắt ở miền Bắc. Số còn lại, hầu hết là ảnh của tù hình
sự, hoặc của tù nhân không liên quan đến tình báo. Những người trong tình báo
của Sài Gòn bị bắt, hoặc còn ở một trại giam tỉnh nào đó, hay ở ngay trong Hỏa
Lò, nhưng giam riêng biệt nên không biết nhau. Có rất nhiều điều chúng không
biết, chúng cần thẩm tra. Vậy, đây cũng chỉ là một trong những phương pháp
chúng thăm dò.
Tùy theo sự hiểu biết,
cũng như quan điểm của những người đã bị bắt, biết đâu, do vô tình, hoặc do
thành khẩn, thấy ảnh người quen, nói quen. Chúng sẽ tìm hiểu, điều tra quen ở
đâu? Trường hợp nào? Bao nhiêu lần? Đã thấy làm những gì? Hay đi với ai? Thường
đến chỗ nào? Thường đi xe gì? Mặc quần áo gì? v.v… Từ đấy, chúng có thể phanh
phui ra những điểm mà đối tượng kia còn dấu, hoặc xác nhận chiều hướng chúng có
thể tin. Chúng sẽ lấy người này thọc người kia, lấy người kia lại thọc người
này. Vì những sự kiện tù nhân khai xảy ra ở trong miền Nam, chúng không thể nắm
được trong việc thẩm tra, nên chúng chỉ còn dùng những cách như vậy. Với tôi,
những trò đó, đừng hòng. Nhiều khi tôi lại tương kế tựu kế, làm cho chúng rối
mù thêm, đưa chúng vào cái mối tơ vò cho chúng tha hồ gỡ. Thời gian ở Hỏa Lò,
cũng như sau này đi trại trung ương, tôi thấy chúng thường đột xuất diễn cái
trò ấy. Tôi biết, chúng đã đưa ảnh của tôi đi những nơi nào đó mà quá trình
khai báo có trùng hợp một không gian, một thời gian, v.v… để chúng nghi người
đó có thể biết tôi.
Kỳ này, có khi 2, 3
ngày mới gọi cung. Lúc chúng truy tôi điểm này, lúc điểm khác, lúc sự việc này
chưa rõ, lúc việc kia là vô lý, nói láo, v.v…
Trời bước sang tháng 12
càng lạnh dữ, lúc đó cũng là tháng 11 Âm lịch. Một chăn, một chiếu nhưng nằm
trên đá và sắt, về mùa Đông bụng càng đói ghê gớm. Không có “ca lô ri” để chống
lạnh, suốt đêm hầu như tôi không ngủ được, cứ ngồi co ro. Bốn lượt chiếu, hai
lượt chăn mà cái lạnh của sàn xi măng vẫn thấu lên lưng không nằm được. Lúc này
tôi, ngày đêm, lúc nào cũng chỉ nghĩ tới ăn thôi. Nghĩ đến bất cứ cái gì cũng
thèm chảy nước dãi ra. Mà quái làm sao, bất cứ nghĩ gì, rồi dần dần cuối cùng
lại ra chuyện ăn. Nhiều lần tôi đã giận khùng ngay chính với tôi, tại sao lại
chỉ nghĩ đến ăn cho nó thèm. Tôi cương quyết dứt khoát bắt óc tôi không được
nghĩ đến ăn nữa. Tôi nghĩ đến một anh bạn thân là Nguyễn Văn Nhượng, anh học
khóa 10 Thủ Đức. Cuối tuần, tôi lên trường đón anh xuống Sài Gòn, đi chơi khắp
thành phố, để rồi xuống chợ Ông Tạ ăn bún chả, thế là cứ nuốt nước miếng ừng
ực. Thậm chí, tôi nghĩ đến những ngày còn nhỏ ở Hà Nội, tôi và một người bạn
đạp xe vào Hà Đông, rồi chùa Trầm chơi, ghé vào một quán quê bên đường ăn hai
gói xôi đậu đen, nước miếng lại chảy ra đầy mồm. Đôi khi từ một cuộc duyệt
binh, một đám đánh nhau, một buổi tập võ…nhưng thế nào rồi cũng đến chỗ ăn.
Ôi! Thằng Marx đã phát
hiện ra cái huyệt của thời đại, cái huyệt của con người, nên nó đã nghiên cứu
viết tập “Tư Bản Luận”. Học trò của tên Marx chỉ cần nghiên cứu thực nghiệm,
lại nghiên cứu bổ sung, cuối cùng sao cho thật tinh vi hết cỡ, làm thế nào đó
để khi nó thọc vào huyệt là con người dúm lại, dù người đó là ai, chỉ trừ không
phải là… người.
Những ai chưa từng bị
đói, dứt khoát không thể cảm nhận hết được cái đói đã đành, nhưng kể cả những
người đã đói hàng tháng, hàng năm mà còn có một cứu cánh tinh thần như ta sắp
hết án, trở về sẽ no; vợ sắp ra tiếp tế cho ta, sẽ có bữa no; tội của ta không
có gì, sắp được tha, sẽ no. Ngoài biển khơi, cố gắng chịu đựng vào bờ, sẽ no,
v.v… Những người đó vẫn chưa cảm nhận hết cái ghê gớm của đói nên hãy còn có
tính cương cường, danh dự, tư cách… Chỉ có những ai đã đói triền miên, năm này
qua năm khác, ngửng nhìn khắp 4 phương trời, không còn một hy vọng gì có một
ngày sẽ no, lúc đó mới thấy được cái ghê gớm của cái đói ở mức độ nào. Sau này,
những thiên tới sẽ có nhiều sự việc, nhân chứng sinh động về vấn đề trên.
Mùa Đông, thường suốt
ngày âm u, không có mặt trời. Trong buồng ngồi nhìn chiếc cùm còn không rõ, ở
bên ngoài chắc trời âm u xám xịt, như lòng tôi lúc này. Từng đợt, từng đợt gió
mùa Đông Bắc theo nhau tràn về, gây lên cái lạnh tái tê. Gió ào ào luồn qua
khung cửa sổ bé tít mãi trên trần, gió lách qua những khe hở của những viên
ngói trên mái tạo nên những âm thanh vi vu, rên rỉ, nghe càng thê lương ảm đạm
trong chốn ngục tù. Những đầu ngón chân, ngón tay của tôi không hiểu sao sưng
lên ngứa buốt không chịu nổi. Tôi không hiểu, tôi mắc bịnh gì? Quái lạ! Từ nhỏ
tôi không thấy bệnh này, nó sưng đỏ mọng lên, nhức buốt suốt đêm ngày. Nhất là
về đêm, nó nhức tôi không thể ngủ được. Tôi cứ ngồi gục đầu xoa nắn ngón chân,
ngón tay, lòng hoang mang lo sợ không biết là bệnh gì. Đêm thâu vắng lặng, chỉ
nghe có tiếng gió gầm gừ lồng lộn ngoài trời. Lâu lâu, chiếc cửa sổ con lại
xịch mở. Tôi ngửng lên, cửa đóng lại. Tôi hiểu đây là cán bộ tuần tra ban đêm,
cứ một hoặc hai tiếng lại mở cửa sổ kiểm soát. Sao mà trời già cũng cay độc,
toa rập với lũ người khát máu, hành hạ trăm chiều những kiếp người cùng khổ lầm
than! Nỗi niềm chảy dài mãi vào đêm thâu tịch mịch. Lúc này, chắc hẳn cũng 2, 3
giờ đêm. Đột nhiên, cửa nhỏ lại xịch mở. Tôi ngửng lên, qua ánh sáng mờ mờ của
ngọn đèn điện trên trần, tôi chỉ thấy một cái mũi và hai đốm mắt long lanh. Lần
này, cửa không đóng lại ngay. Một giọng nói phụ nữ chưa bao giờ nghe: “Sao anh
không nằm xuống ngủ?”
Giữa cảnh âm u, vắng
lặng, giọng hỏi han như chứa đựng tình người cảm thông. Tôi trả lời trong một
chút xúc động:
- Không hiểu sao ngón
chân và tay tôi sưng đỏ lên và buốt lắm, tôi không ngủ được.
Tôi giơ cả mười ngón
tay ra chỗ sáng gần cửa sổ. Giọng nói nho nhỏ như tiếng thì thào:
- Anh bị cước đấy!
Tôi chợt nhớ ra ngày
xưa khi còn bé, nghe người ta nói trâu bị cước chân, khi đã long móng thì chết.
Thế mà các móng chân của tôi, tôi cảm thấy nếu mình kéo mạnh, cũng sẽ bong ra,
bởi quanh rìa móng chân mọng đỏ lên như có nước, chỉ vì cơ thể thiếu chất dinh
dưỡng, không có sức đề kháng, vì thiếu quần áo và chăn ấm, vì phải nằm trên cái
lạnh của sắt và đá, vì thiếu một ngọn lửa… Nghĩa là, nếu tôi chỉ cần có một
trong những thứ trên, chân tay của tôi sẽ không bị như vậy.
Cửa sổ vẫn mở. Vẫn hai
đốm mắt long lanh và chiếc mũi lúc rõ, lúc mờ. Im vắng nặng nề. Hai thái cực,
hai trận tuyến nhưng có cái chung cùng là … con người.
Giọng nói êm êm lại cất
lên:
- Mai anh báo cáo y tá,
xin một tí nước muối rồi ngâm chân tay anh vào.
Ôi, người này không
phải thường xuyên ở Hỏa Lò rồi. Nếu như vì lý do nào đó, anh chết thì thôi, chứ
làm gì có chuyện cho nước muối để ngâm chân! Hơn nữa, muối lại là điều tối kỵ
trong xà lim. Hoặc, có thể người đó cũng hiểu như vậy, nhưng trước cảnh này
phải nói thế cho qua chuyện. Dù sao, giọng nói ấy, hai đốm mắt ấy như ẩn tàng
một tình người chân chính, cũng vuốt ve phần nào cõi lòng lẻ loi, cô đơn heo hút
đang tràn ngập lòng tôi.
Cửa đã đóng rồi. Người
đã đi rồi. Chỉ còn tiếng gió gào trên mái. Tôi chợt nhớ đến một bài ca: “Mùa
Đông gió, lạnh lùng, gió lạnh lùng. Chim thôi bay, ngoài mưa gió… hãi hùng. Gió
hú chi cho thêm đau lòng người chiến sĩ… Trong đêm trường…”
Gió vẫn lồng lộn thét
gào, xà lim vẫn âm u, vắng lặng. Tôi thiếp dần vào đêm kinh hoàng.
Bẵng đi 5, 6 ngày không
gọi cung. Hôm nay tên Bằng mắt lồi lại gọi. Khi mở cùm, cả bàn chân tôi cũng
mọng đỏ lên, vô cùng nhức buốt. Tôi cho chân xuống, xỏ vào đôi dép Thái Lan
cũng thấy đau. Tôi đứng dậy, cố gắng khập khiễng đi như người què. Tên Bằng hỏi
giọng thờ ơ:
- Chân anh sao thế?
Tôi trả lời nhát gừng:
- Chẳng hiểu sao ngón
chân, ngón tay của tôi sưng buốt.
Mỗi bước chân tôi đi
như dẫm vào đống mảnh sành. Tôi cố gắng khật khưỡng. Có thể vì máu nóng dồn
xuống chân, mặt khác, các mạch máu và những tế bào chân, trước nằm im, bây giờ
chuyển động, vì vậy tôi thấy đỡ đau buốt dần.
Hôm nay, tên Bằng lại
chỉ đường sang phía dẫy nhà bên kia sân của giàn nho. Dẫy này, tôi chưa hề bao
giờ tới. Tên Bằng dẫn tôi đến một căn buồng lớn ở đầu dẫy. Vào buồng, tôi thấy
6, 7 người ngồi. À, đây là phòng giám thị trại, vì tôi thấy Thượng úy Trì, Phó
giám thị, người miền Trung, ngồi ở một ghế cạnh “buya rô” lớn, trên có rất
nhiều hồ sơ và một là cờ đỏ sao vàng nhỏ.
Ngồi ghế chính giữa là
một tên chừng 45 tuổi, mặc một cái áo “vét tông” gần cạnh đấy, là tên Đức và
một số người lạ nữa mặc đồ dân sự.
Trong phòng treo một
ảnh Hồ Chí Minh lớn ở chính giữa tường, cùng với nhiều khẩu hiệu: đảng, tổ
quốc, cách mạng, v.v… đỏ loẹt cả văn phòng. Trước buya rô, vẫn chiếc ghế đẩu
chơ vơ của tội nhân. Tên Đức chỉ tay bảo tôi ngồi. Xong, hắn nói tiếp, vẻ trang
trọng, đưa mắt về phía người mặc áo “vét”…
- Đây là Đồng Chí Hồng,
Trưởng phòng “44”, Phòng chấp pháp Chính trị. Đồng chí có nhã ý gặp anh. Vậy,
anh có điều gì cần, cứ đề bạt.
Tên Hồng cười xã giao:
- Anh có khỏe không?
Anh có cần gì, tôi cho phép anh phát biểu.
Tôi nghĩ bụng: Tôi cần
gì ư? Một điều mà tôi cần, nếu anh mà thực hiện, anh không còn chỗ ngồi này
đâu! Tôi liếc nhìn tấm ảnh Hồ Chí Minh lớn treo trên tường, phía sau lưng y.
Tôi chăm chú nhìn vào đôi mắt chó sói của tấm ảnh. Con ngươi vàng ửng như đang
đong đưa đổi màu nhìn tôi. Tự nhiên hai mắt tôi nóng rát lên như có lửa, làm
cho hai con ngươi của tấm hình như thu nhỏ lại, cụp xuống. Một ý nghĩ ngắn gọn:
“Tôi cần cái đầu của người trong tấm hình kia!”. Cuối cùng, tôi nói:
- Xin cảm ơn ông, tôi
không cần gì cả. Chỉ đề nghị ông giải quyết sớm sự việc của tôi.
Y cười nửa miệng:
- Anh không chịu khai
báo sự thật. Anh không khai báo tốt thì giải quyết sớm thế nào?
Tôi hiểu, điều chính là
nó muốn xuống nhìn trực tiếp con người của tôi mà thôi. Còn, chỉ là những câu
nói phất phơ.
Giữa lúc ấy, tôi thoáng
thấy một bóng người đi vào cửa, phía ngang chéo sau lưng tôi. Tôi quay lại nhìn
ra, một người mặc quần áo nâu cũ và một tên công an áo vàng đi phía sau. Tên
công an lùi ra. Tên Đức đứng dậy chỉ cho người áo nâu đến một chiếc ghế dài
cạnh tường ngồi, quay mặt về phía tôi và buya rô. Người áo nâu dáng to khỏe,
nhưng nước da xám tái, đi chân đất, gấu quần nâu lua tua rách mướp.
Khi tôi vừa thoáng quay
ra cửa nhìn, tim tôi hơi bóp lại. Người áo nâu cũng nhìn thoáng tôi. Phản xạ
cấp thời, tôi chỉ thấy bộ mặt quen quen. Khi người áo nâu vào ngồi ghế nhìn
tôi, và nhìn các người ngồi ở bàn giấy, tôi đã nhận ra.
Chắc rằng lúc đó mắt
tôi phải đờ đẫn vì ngạc nhiên. Tôi không thể tưởng tượng nổi con người tiều
tụy, khúm núm, rụt rè, lấm lét ngồi gần tôi kia là
…Trung Úy Nghĩa. Con
người mà hình ảnh đó đã in sâu trong óc tôi, đẹp trai, khỏe mạnh ngang tàng,
hiển hách một thời của Bình Xuyên 1954-1955 bây giờ là đây.
Không khí im lặng,
không ai nói một lời. Tôi biết chúng đang bám sát thái độ của Nghĩa và tôi.
Chừng 3 phút sau, tên Đức ra hiệu, tên công an bên ngoài vào dẫn Nghĩa ra. Sau
đó, chúng nhìn tôi như hỏi bằng ánh mắt. Tôi cúi đầu xuống, im lặng và suy nghĩ
với bao nhiêu hỗn loạn trong đầu.
Nghĩa là một người
trước đây 8 năm tôi thù hận. Suốt 8 năm trường, sau khi Bình Xuyên tan hàng rã
đám, tôi đã nhờ bạn bè và chính tôi cố ý đi tìm Nghĩa để trả mối hận thù mà
Nghĩa vẫn biệt vô âm tín. Ai ngờ đâu, chỉ vì một sự thử thách vô tình của tôi
với tên Lê Văn Hoàn, bây giờ tôi mới được gặp Nghĩa trong cảnh ngộ này. Phải
nói, tôi không ngờ được, mà cả ngay Nghĩa cũng không thể biết trước được, có
một ngày chúng tôi lại gặp nhau, trong cái giây phút chết lòng. Lòng tôi dâng
lên một chút ân hận giầy vò. Dù muốn hay không, giờ đây Nghĩa cũng là một chiến
hữu của tôi. Người chiến hữu cùng trong một cảnh ngộ sa cơ, rơi vào tủi cực của
cả một kiếp người. Càng hình dung đến hình ảnh tiều tụy của Nghĩa lúc nãy, lòng
tôi càng xáo trộn vừa tình thuơng yêu chiến hữu, vừa lòng ân hận lay lắt, đã
xóa tan hoang mối hận thù lâu dài, vẫn nằm trong một ngách nhỏ của con tim.
Thấy tôi cứ cúi đầu,
tên Đức lên tiếng:
- Thế nào, anh có nhận
ra ai không?
Tôi chậm chạp:
- Dạ… Nghĩa Bình Xuyên…
Tên Đức vừa cười nhạt,
vừa hỏi tiếp:
- Anh thấy thế nào?
Tôi có vẻ hí hửng:
- Tôi không ngờ!…
Y bóng gió đe dọa:
- Anh sẽ còn gặp nhiều
chuyện không ngờ nữa!
Rồi y đứng dậy:
- Thôi, bây giờ cho anh
về!
Một người ngồi ghế phía
sát cửa đi ra một lúc, mụ Hoa rảo bước vào. Tôi theo mụ về xà lim.
Trên đường về, đầu tôi
đầy những suy nghĩ, tính toán nên quên cả đôi bàn chân sưng buốt. Cứ tập tễnh
bước đi mà lòng nặng trĩu tơ vò.
Tôi nghĩ, Nghĩa ở trong
một toán biệt kích, hoặc đi cá nhân như tôi. Nghĩa đã ra Bắc từ lâu, và cũng bị
bắt từ lâu, hiện đang ở trong một trại giam Trung Ương nào đó để lao động cải
tạo. Có thể trước đây, Nghĩa không khai báo đến thời gian ở Bình Xuyên. Bây
giờ, mãi 1962, tôi mới ra, do một sự vô tình tôi đã nói đến Nghĩa ở đó. Như
vậy, chúng cho rằng Nghĩa còn che giấu nhiều vấn đề. Vì thế, Nghĩa bị lấy về
Hỏa Lò để điều tra lại và cho tôi trông thấy, nhưng không cho hai bên nói
chuyện với nhau. Vậy là chúng đã gián tiếp đe dọa cả Nghĩa và tôi: “Các anh còn
những điều gì nữa mà chưa khai, thì các anh tự liệu”. Bất cứ một ai, khi đã ở
trong tay chúng rồi, điều chúng đã biết mà anh không khai, chỉ còn một cách là
anh tự tử ngay đi mới thoát. Tôi nghĩ, Nghĩa đang lo sốt vó, và có thể đang oán
hận tôi nữa, nếu Nghĩa không hiểu quán triệt sự việc. Ngược lại, tôi chả có cái
cóc khô gì phải lo cả. Nghĩa có biết gì về tôi đâu. Còn giai đoạn ở Bình Xuyên,
tôi đã khai thật. Câu chuyện đó không tiền, khoáng hậu đối với cuộc đời hoạt
động của tôi mà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét