51.
Cát-xô, chiếc…. “quan tài” đá của Hỏa Lò Hà Nội…!
Theo ông Huệ nói, từ đây ra tới cổng Hỏa Lò, ngoài bao
nhiêu lần cửa, với bao lần canh gác, ngay chính ông cũng chịu trách nhiệm giữ
tôi. Nếu tôi trốn, ông cũng phải chịu trách nhiệm. Tôi cười thầm, hiện giờ ngay
việc ngồi dậy tôi còn thấy khó khăn, nói gì tới trốn. Dù thế, cảnh giác cao
luôn luôn là một nguyên tắc của Cộng Sản, cho nên ra vào buồng tôi, ông vẫn
phải khóa.
Trưa nay, vết thuơng ở
tam tinh bỗng nhức quá, đau đến độ mồ hôi của tôi chảy ra đầm đìa, cuối cùng
tôi lại lịm đi. Thấy có người lay gọi, mở mắt ra, tôi ngạc nhiên: tên Thành
chấp pháp! Thấy tôi tỉnh dậy, y mỉm cười:
- Anh thấy trong người
đã đỡ chưa?
Tôi nhìn y, hơi ngượng!
Trước đây, tôi luôn nói là thích xã hội chủ nghĩa, vậy mà tôi lại đánh cán bộ
rồi trốn. Tôi thều thào cảm ơn sự quan tâm của y. Sau khi tôi trốn rồi bị đổ
bể, tôi nghĩ rằng từ nay bọn cán bộ, chấp pháp sẽ ghét thù tôi lắm. Nhưng, điều
làm tôi ngạc nhiên là tôi không thấy tên Thành có thái độ gì khác trước đây. Từ
ánh mắt cho đến cử chỉ, vẫn như những tháng trước tôi gặp y. Y mở một cuốn sổ
tay lớn, cầm bút và nhìn tôi:
- Nguyên nhân nào đã
đưa đến, để anh trốn tù?
- Từ trước tôi vẫn
thích xã hội chủ nghĩa, và vì thế tôi đã khai báo thật ngay từ đầu. Nhưng rồi,
cách mạng không tin, cứ giam cầm, cùm kẹp mãi, nên tôi tìm cái chết. Chết không
được, tôi tìm cách trốn!
Chỉ nói có bấy nhiêu
câu, mà tôi phải nói rất lâu. Nhiều chỗ y nghe không rõ, phải hỏi lại. Y ghi
hết.
- Anh định trốn từ bao
giờ?
Tôi nghĩ bụng, tôi có ý
định trốn ngay từ khi tôi phát hiện bị theo dõi ngoài phố, nhưng chỉ vì không
có điều kiện thời cơ thôi. Tuy nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn khào khào trả lời:
- Sau khi tôi tự tử
không được!
- Ngay khi anh gặp ông
cán bộ lạ, một mình hỏi cung anh, là anh có ý định đánh ông ta để trốn?
Những việc nay tôi cứ
trả lời thật:
- Phải nói, mãi tới lúc
gần xong buổi cung, tôi thấy ông ta có vẻ lơ ngơ, đờ đẫn tiếc cái chum không
tìm thấy, tôi mới lóe lên ý định trốn.
- Anh định đánh chết
rồi chuồn ra ngay?
Tôi biết đây là một câu
hỏi bẫy. Nếu có chủ ý mà vô tình, sẽ bị mắc. Tôi trả lời:
- Thưa ông, tôi không
có ý định đánh chết ông ấy, mặc dù tôi thừa khả năng. Tôi cố ý làm ông ấy vừa
đủ ngất đi thôi.
Tên Thành tiếp tục hỏi
chi tiết nhiều vấn đề: Nào, anh trốn ra đi về đâu? Sẽ làm sao để che mắt công
an? Chủ trương trốn về Nam theo đường nào? Hay, ra giao thiệp liên lạc với cơ
sở, v.v…? Gần hai tiếng dồng hồ, y vừa hỏi, vừa ghi.
Y đã đi rồi, hồn tôi
còn chơi vơi khắc khoải. Tôi dĩ nhiên hiểu là “gieo gió, gặt bão”. Vừa qua, tôi
đã gieo cái nhân, bây giờ phải chuẩn bị tình thần để lãnh cái quả. Hãy gồng
mình lên mà chịu đựng, có thế lý trí mới còn sáng suốt. Buồn rầu, kêu van, đều
không phải là của một người tỉnh táo, có lý trí mạnh. Tôi cũng hiểu là, những
ngày tới sẽ chồng chất cam go. Vậy, sẽ đừng lạ lùng, ngạc nhiên, để rồi oán hận
đất, trời lung tung.
Tôi tự nhẩm, nhắc lại ý
tưởng sau khi tự tử không chết hơn 4 tháng trước:
Trên đường đi, nhiều
cay đắng âm thầm.
Hãy nhận lấy, để dồn
vào sâu kín.
Ý tưởng này phải trở
thành phương châm trên con đường đi tới của đời tôi. Thực vậy, nếu không tránh
được những điều khổ đau, tai ương: không gì bằng hiên ngang ngửng mặt, giơ tay
đón nhận.
Những khó khăn trong
cuộc đời, ai chả từng gặp. Điều khác biệt là thái độ của người gặp khó khăn:
nếu gặp khó khăn lại chùn bước, nản lòng, bi quan, yếm thế; đôi khi, chính khó
khăn ấy sẽ đè mình gục xuống, không thể trỗi dậy được nữa. Nhưng, nếu nhìn
những khó khăn, chỉ là điều tất yếu của cuộc đời phải có, hãy tỉnh táo xông vào
giải quyết, tin chắc rằng khó khăn sẽ bớt, đôi khi không nói là hết khó khăn.
Nhưng, lại phải hiểu rằng, hãy yên trí đi, lại sẽ sắp sửa có khó khăn khác đang
đi tới, vì đó là lẽ sống ở đời mà!
Tôi cứ quẩn quanh nằm
suy nghĩ như thế. Điều đó cũng giúp tôi nhiều, trên đường đi đầy chông gai, hầm
hố này.
Tôi ở bệnh xá được 6
ngày. Mồm tôi đã đỡ, chỉ mất 3 chiếc răng. Cánh tay phải được ông Huệ lấy lại
khớp xương, bây giờ đã giảm sưng, cử động nhẹ được. Trong ngực bị mấy cú đòn
ngầm, bây giờ cũng đỡ đau sau mấy ngày khạc ra một đống máu. Riêng vết thương
chỗ tam tinh, vẫn còn thấy đau nhức nhiều. Vì không có gương, tôi chỉ lấy tay
sờ, thấy vết thuơng hơi lệch về phía mắt trái. Chính ông Huệ một lần nói nhỏ
với tôi:
- Anh hãy còn may mắn,
nếu mũi súng chỉ lệch đi chừng một phân về phía trái, bảo đảm bây giờ anh trở
thành “độc nhỡn nhân” rồi!
Tôi chỉ hỏi:
- Liệu vết sẹo có to
lắm không?
Ông nói:
- Thủ thuật khâu của
tôi cũng có hạng lắm đấy, tôi lại cố gắng làm cho anh, cho nên sẹo không to lắm
đâu!
Hỏi và nói chuyện với
ông như vậy thôi, chứ sẹo to hay nhỏ bây giờ còn giá trị gì nữa mà quan tâm.
Tôi vẫn phải còn ăn cháo, vậy mà buổi chiều, tên Bằng đã vào nói là có lệnh Ban
Giám Thị đưa tôi vào “cát xô”. Tôi cũng hiểu là phen này chưa chắc đã sống
được. Tôi chợt nhớ đến xà lim I, còn một số đồ lặt vặt, nhưng rất có giá trị
đối với tôi: bộ đồ chống muỗi, cái điếu bằng bao diêm, cái vỏ ba lô trong có
chì mật và chiếc kim khâu. Chỉ có con dao là mất, trong bộ đồ quần áo để lại
đắp cho tên Hạ. Vì vậy, tôi phều phào (cái môi tôi vẫn còn vều ra) nói với tên
Bằng, xin lại mấy thứ đó. Y trừng mắt nhìn tôi, rồi buông thõng một câu:
- Anh đã định trốn đi,
thì còn cần gì những thứ đó!
Nghe giọng y nói và
cách y nhìn tôi, tôi hiểu là y không căm ghét gì tôi lắm, vì thế tôi nằn nì:
- Thưa ông giúp tôi! Ai
cũng vậy, đã trốn còn tiếc gì! Nhưng bây giờ tôi không trốn được!
Cả tên Bằng và ông Huệ
cùng cười. Không ai nói gì! Khi tôi ra khỏi buồng, rồi ra tời cổng bệnh xá, ông
Huệ còn ra theo đưa cho tôi một gói bột trụ sinh:
- Anh nhớ hàng ngày rắc
vào chỗ tam tinh, đừng để nó làm mủ. Nếu làm mủ ở đấy, đôi khi có nhiều biến chứng
nguy hiểm.
Tôi vừa tập tễnh đi
theo tên Bằng, vừa nghĩ ngợi mông lung. Tình cảm của ông Huệ y tá, tôi chấp
nhận. Còn của chấp pháp, tuyệt đối không! Ông Huệ chỉ là y tá, suốt những ngày
ở bệnh xá, chẳng bao giờ ông ta hỏi tôi bất cứ một khía cạnh nào, về việc tôi
làm.
Sân trại chung lúc này
đã vắng tanh! Nhưng, tất cả những nhà chung quanh sân trại, nhà nào cũng có
tiếng rì rầm, ồn ào như tiếng thác đổ trong rừng sâu. Mãi xa tít phía đàng kia
là bức tường và chiếc cổng mầu xanh xanh của xà lim I. Không khí của chiều đầu
Thu vẫn còn hanh khô. Những chiếc lá bàng đã đổi mầu, úa dần. Đây đó đã dăm,
mười chiếc lá rời cành như báo hiệu mùa Thu tới. Và đây, tôi cũng sắp tới “cát
xô”!
Đã hơn 2 năm, tôi nằm
trong xà lim Hỏa Lò rồi, nhưng chưa biết “cát xô”. Một lần, tôi nghe tên Tân
nói, “cát xô” là chỗ kỷ luật những tù nhân án tử hình, chung thân. Ai vào đó,
nếu không chết ngay ở đấy, sau đó cũng chết với bao nhiêu chứng bệnh, mang theo
trong người. Bây giờ tôi vào, tôi sẽ biết.
Đến một chỗ góc của dẫy
nhà, một hành lang sâu hun hút dẫn tới một cái cửa sắt dầy. Qua cửa này, có
những bậc đi sâu xuống đất. Rồi tới một cửa sắt nữa, rất bé và hẹp. Tên Bằng
chọn một chìa, trong chùm chìa khóa đang cầm ở tay mở ra: Một lối đi rất hẹp!
Đến đây, từ lối đi đến những bức tường đều toàn bằng đá, đá hộc và đá thuớc;
tưởng như một thạch thất trong truyện võ hiệp của Tàu. Một mùi khăm khẳm lợm
giọng xông lên. Tên Bằng khạc, rồi nhổ đánh “bẹt” một bãi nước bọt vào một góc
tường. Thoáng nhìn, tôi thấy ba, bốn cái chuồng đá hay hòm đá.
Bỗng nhiên có tiếng
lịch kịch, rồi tiếng chân người, tôi và lão Bằng đều liếc lên nhìn, thấp thoáng
có mấy áo vàng bên trên, chắc là những tên cán bộ trực ca tối. Tên Bằng mở cửa
hòm đá, chiếc cửa sắt quá nhỏ, tôi phải cúi, lách vào. Hòm đá cũng có cái cùm
như trên xà lim. Đặc biệt hơn là có hai sợi dây xích sắt to, bằng loại sắt tròn
đường kính hai phân, mỗi sợi dài độ 80 phân, gắn liền vào trong tường đá; ở mỗi
đầu sợi xích là một cái khóa bóp.
Ở ngoài, tên Bằng rút
chốt cùm, lách người vào nhấc nửa trên cái cùm há lên, và bảo tôi bỏ chân vào.
Y đóng cùm xuống, trong khi mũi y cứ thở phì phì. Y mở hai khóa ngàm ở đầu hai
sợi xích, bóp khóa vào cổ tay tôi. Xong, y ra ngoài chốt cùm. Trước khi đóng
cửa, y gằn giọng:
- Kỷ luật ở “cát xô”:
mỗi tuần mở cùm một lần, 12 phút vào trưa mỗi thứ Hai. Ngày chỉ được ăn một
lần!
Y chỉ tay vào cái nắp
sắt tròn, mở một mé góc trong chuồng đá:
- Đái, ỉa, nhấc cái nắp
lên. Một tuần đổ một lần, sạch hay bẩn thì tùy.
Tuy tôi đã nâng cao
tinh thần chịu đựng. Đã tự trang bị cho mình một số tư tưởng lạc quan, thế mà
trước cảnh này, tôi cũng đầy băn khoăn lo lắng. Thấy không có chiếu chăn gì,
chỉ có đá và sắt, tôi đề nghị:
- Thưa ông, ông giúp
tôi, về buồng tôi cho tôi xin chiếc chiếu và những thứ lặt vặt của tôi.
Y đóng xầm cửa lại, cộc
lốc:
- Bao giờ ra hãy hay. Ở
đây không cần!
Cửa đóng lại, ánh sáng
chỉ lờ mờ. Tôi có cảm tưởng như mình đang ở trong một cái “quan tài” đá, chỉ có
khác là cái “quan tài” này hình hộp vuông, mỗi bề 1m50. Ai cao hơn 1m50 thì
phải khòm. Nằm cũng không được. Phải lựa thế xoay chân, nằm nghiêng và co chân
lại. Nghĩa là, không thể nằm duỗi thẳng chân được.
Ông bà ta nói thật
đúng:”Ở gần nhà xí mãi không còn thấy thối”. Đúng thế, khi mới vào đây, tôi
ngửi ngay thấy cái mùi lợm giọng buồn nôn, vừa khăm khẳm, nồng nồng, lại vừa
ngai ngái như mùi thịt chết để lâu ngày. Vậy mà, mới qua 3, 4 tiếng đồng hồ
sau, tôi đã không còn ngửi thấy mùi ấy nữa, tuy thỉnh thoảng cũng thấy khó
chịu, nhưng không đến nỗi buồn nôn.
Tôi hiểu đây là giai
đoạn cam go nhất của đời mình. Nếu không nổ lực để sống; tôi sẽ tàn lụi từ đây.
Cảnh thế này, chỉ cần mươi ngày là rất nhiều loại bệnh kéo ra: tê xuội, lao
phổi, điên rồ vì thần kinh, ghẻ lở, kiệt sức, v.v…Chết!
Một điều khó khăn nhất
đối với tôi bây giờ là… không khí! Từ trước, sở dĩ chưa bị bệnh tật là nhờ tập
luyện, mà không khí trong lành là chính. Đã đói cơm, đói gạo, nhưng còn không
khí bù lại. Ở đây, chúng không ngăn không khí, nhưng không khí lại bị ô nhiễm.
Mùi xú uế lại còn nguy hiểm hơn. Cho nên, càng căng lồng ngực hít không khí này
vào, càng chóng giã từ cõi đời. Đó là điểm đã mấy ngày nay tôi suy nghĩ nát
đầu, mà chưa tìm ra một lối giải quyết.
Mỗi ngày, cứ khoảng 12
giờ 30, lúc đó trại chung cũng đã vào hết, bấy giờ tên cán bộ trực mới dẫn một
anh hình sự vào đưa cơm nước. Anh hình sự chừng 22, 23 tuổi, xách một hộp gỗ,
trong có hai nắm cơm. Mỗi nắm chừng 3 lạng, ở giữa nắm cơm, có ít muối gói
trong một miếng lá chuối khô. Nắm cơm được gói trong 2 chiếc lá bàng còn tươi.
Trong hộp gỗ, còn có một cái tích to, đựng khoảng 4 gáo nước.
Tên cán bộ này thay đổi
từng ngày, tùy theo ca trực trưa. Không có cán bộ trực chuyên môn “cát xô”, bởi
vì “cát xô” chỉ có mấy hộp đá. Y vào mở cửa, rồi đứng trông cho anh hình sự đưa
cơm.
Hiện nay, ở mãi phía
trong cùng “cát xô”, còn có một người nữa. Đêm qua, tôi đã gọi mấy lần, nhưng
không có tiếng trả lời. Cơm vẫn 2 nắm, một cho tôi và một cho người phía bên
trong. Thỉnh thoảng, tôi nghe tiếng ho, nhưng tôi gọi vẫn yên ắng.
Trưa hôm nay, cũng như
trưa hôm qua, tôi vừa rắc ít bột trụ sinh vào chỗ tam tinh, vừa ngồi nhắm mắt
vận công, chợt có tiếng lẻng xẻng của chìa khóa và tiếng mở cửa. Tiếng bước
chân sột soạt nghe rõ dần, rồi tiếng loạch xoạch mở khóa. Tấm cửa sắt con được
kéo lên, một bàn tay đen đen, đầy cáu ghét đẩy nắm cơm vào. Tiếng loảng xoảng
xô đông cửa xích sắt, rộ lên khi tôi cầm chiếc gáo giơ ra, cho y rót nước vào.
Y chỉ ngồi một lúc, mà
mũi cứ thỉnh thoảng phải xì xì thở ra, vì mùi phân và nước giải lâu ngày ở cái
bô nhỏ dưới lỗ xông lên, và vì mùi hôi hám của cơ thể tôi, lâu không được tắm
rửa. Những mùi đó cuộn vào nhau đầy ắp dưới căn hầm.
Tôi liếc ra ngoài, chỉ
nhìn thấy đôi ống quần vàng, đứng ở mãi gần cửa ra vào “cát xô”. Khi tên tù
hình sự rót nước vào gáo cho tôi, vừa để chống đói, và vừa để có nước kha khá
một chút để dự trữ để rửa đít. Tôi trợn mắt, uống gần hết gáo nước, trong khi
tay tôi rối rít khua ra hiệu chờ, cho xin thêm đầy gáo. Im vắng, không một
tiếng người, chỉ có tiếng rọt rẹt của xích sắt, khi hai tay tôi di chuyển cử
động, và tiếng nước rót vào gáo kêu long tong. Sau đó, chính tên tù hình sự
tháo chốt cho tấm cửa sập xuống, tên công an chỉ việc đến khóa.
Tiếng bước chân nhỏ dần
vào phía trong. Rồi những âm điệu của bản nhạc “cho tù ăn” lại trỗi lên một lần
nữa.
Mỗi ngày, chỉ trong
vòng mươi, mười lăm phút, bản nhạc không lời đó được tấu lên, như một điệp
khúc. Rồi nhà hầm lại trở về yên lặng như nhà mồ, cách biệt với thế giới loài
người bên trên. Thỉnh thoảng tiếng rọt rẹt khua động của xích sắt, tiếng ho
khục khặc lẫn với tiếng rên rỉ ai oán kéo dài lê thê, càng làm rợn người trong
đêm trường.
Một điều thật may là ở
dưới này, lâu lâu mới có một con muỗi vo ve. Có lẽ vì kín, phần khác, ngay
không khí cũng thiếu “oxy”. Cho nên các chú muỗi chẳng thích, hoặc chẳng dám
vào.
Bị cùm ở “cát xô”, đi
ỉa, đi đái thật vất vả! Phải xê dịch làm sao cho đúng lỗ, mà muốn đúng lỗ, thì
hai tay phải giơ lên phía đầu. Vì hai sợi xích kéo ngược lên, ngắn, chỉ có hạn,
nên cứ phải nằm nghiêng, hai tay giơ lên đầu hàng giờ, có khi 2 giờ vì phân táo
bón. Rã rời, đau đớn, nhức mỏi! Đi xong, chẳng lẽ không rửa, mà rửa thì cực
nhọc vô vàn. Xoay được thế chân cho nghiêng cái mông, cái tay lại bị dây xích
giữ, không với tới. Vì vậy, nhiều khi nước rửa đổ chan hòa ra chỗ nằm, ngồi
càng hôi thối, tanh tưởi.
Dù đã quen mũi, nhưng
khi mở nắp lỗ phân, với nước giải 5, 6 ngày rồi, tôi thấy nhiều lúc như nghẹt
thở. Những lỗ phân ở nông thôn không hôi mấy, vì trống trải, mùi hôi khuếch tán
trong không khí. Ở đây trong hầm kín, mỗi lần mở nắp ra, ôi thôi, giá con người
không có mũi thì tuyệt biết bao! Mùi hôi thối làm nhức đầu, đờ đẫn người, làm
mờ cả mắt, tê liệt cả thần kinh.
Tôi hiểu, tụi công an
Hỏa Lò không phải không biết cái mùi hôi chết người này, nhưng chúng cố ý coi
đó là một trong những phương pháp, để hành tội người tù. Trước đây, tôi đọc
sách báo, cũng như tôi đã vào cái nghề “hang một lỗ” này, tôi cứ đinh ninh, khi
một điệp viên đã bị đối phương bắt, thì sẽ bị tra tấn bằng mọi cách để khai
thác, rồi bắn bỏ. Cho nên, lúc tôi bị bắt, phần thì trước mắt, chúng cũng thấy
tôi không, hoặc chưa hoạt động gì, như vậy dứt khoát chúng không thể bắn tôi.
Còn vấn đề tra tấn, đối với một người, nếu can trường, dũng lược, cũng chỉ như
một trận đòn “hội chợ”. Bởi vì, nếu làm quá đã ngất rồi, mà ngất, thì còn biết
đau đớn là gì. Như vậy, chừng dăm mươi trận rồi cũng phải kết cung. Nhưng, với
Cộng Sản, phương pháp của chúng hoàn toàn mới lạ. Cũng chính vì trước đây,
chúng đã bị tra tấn dưới thời thực dân Pháp, cũng như Sài Gòn ngày nay rồi.
Nghĩa là, chỉ tra, đánh tới tấp năm, mười trận, trong 5, 6 tháng là kết cung.
Cho nên, nếu có sự kiên trì, gan lì chịu đựng, thường là bảo vệ được bí mật của
mình. Ở đây, chúng dùng thời gian và dạ dầy để khai thác.
Như trên tôi đã trình
bầy, hầu hết những người lính (người lính tôi dùng theo ý nghĩa là người có
tinh thần chống Cộng, không hẳn phải cầm súng) của phía Quốc Gia, tự do của
chúng ta, tinh thần của họ rất cao, rất dũng cảm, có thể chịu đựng qua những
phút cùng khổ, đắng cay cao nhất. Nhưng, với điều kiện ngắn thôi, một tuần, một
tháng, một năm, 2 năm là nhiều, chứ xem chừng mãi mãi, không biết ngày nào, hầu
như đa số phải bỏ cuộc. Chịu đựng được lâu dài, đòi hỏi kinh qua nhiều trận bão
tinh thần; vật lộn giằng co hàng ngày với đói khát, cùm, xích trong những điều
kiện ngặt nghèo nhất. Tinh thần bị ức chế cao độ, dồn ép lại thành một xác tín:
cứ chịu đựng gian khổ, khắc nghiệt triền miên, cho tới khi cơ thể không chịu
đựng được nữa, những nan bệnh sẽ đè gục xuống đẩy mình về với cát bụi mây ngàn.
Bản thân tôi cũng nằm
trong nhược điểm đó, nhiều lúc tôi cũng quá nản lòng. Sức người chịu đựng cũng
có hạn nào đó! Tôi muốn buông xuôi, mặc cho cơ thể lụi tàn dần. Tôi cũng xác
quyết là dù có nỗ lực phấn đấu bao nhiêu, rồi sớm hay muộn cũng phải lìa đời
trong cảnh ngục tù này. Những ý tưởng này chỉ nổi lên từng phút, từng giờ, rồi
lại phải nhường chỗ cho những tư tưởng lạc quan, tích cực, nỗ lực đến phút cuối
cuộc đời.
Tóm lại, cuối cùng để
tư tưởng lạ quan tích cực với lẽ sống làm chủ tình hình, cũng phải trải qua
biết bao trận chiến đấu cam go, giằng co nghiêng ngửa với những tư tưởng tiêu
cực, bi quan. Những tư tưởng xấu, tồi bại này cũng như lũ phản động Cộng Sản.
Mỗi khi chúng bị nguy khốn, chúng rút vào trú khu để chờ dịp, lại chui ra quấy
phá cuộc đời, làm tê liệt, làm lệch hướng đi của cuộc sống. Vậy, chỉ còn một
cách duy nhất, là ta phải luôn luôn trang bị cho mình một nghị lực mạnh. Đó là
loại vũ khí hơn hẳn để chế ngự, đè bẹp chúng.
Hôm nay là thứ Hai, như
vậy, tôi mới vào “cát xô” được 6 ngày. Ba vết thương đều đã giảm đau nhiều. Chỉ
còn vết thương ở tam tinh, hình như có mủ, vì gói thuốc bột trụ sinh ông y tá
cho, tôi bôi dè sẻn hàng ngày, cũng đã hết. Vết rách ở môi dưới đã ngứa, ăn da
non, cánh tay phải, do tôi tích cực tập luyện, vết thương trật khấp xương nay
đã hết sưng tím. Ngược lại, hai cái chân, mặc dù ngày nào tôi cũng xoay sở, tập
dịch lên, lùi xuống nhiều lần bây giờ cứ cắn nhức trong xương. Dưới gan bàn
chân, cứ râm ran như có nhiều con kiến cắn.
Bây giờ ở “cát xô”, tôi
không còn ý niệm được về thời gian ngày hay đêm, trừ chừng 15, 10 phút ăn cơm.
Thường cứ nằm độ 2 tiếng, lại ngồi chừng 2 tiếng. Nằm nhiều, đau lưng, đau
người; lại ngồi, ngồi nhiều đau đít lại phải nằm. Chẳng bao giờ tôi nghe thấy
một tiếng động gì ở bên trên. Nhiều lúc, tôi cảm giác là mình ở một thế giới
khác, một thế giới mà con người khi sinh ra đã phải đeo xiềng xích, thứ xiềng
xích gắn liền vào thân người cho tới chết. Một thế giới riêng biệt, không liên
quan, dính dáng gì đến loài người nữa.
Nhất là về đêm (tôi chỉ
theo sự suy luận và tính toán của mình để biết là đêm), nhiều lúc thấy hoang
vắng, không có một sinh vật nào khác nữa cùng với mình, tôi lại gào lên gọi
người phía bên trong. Tôi thèm, tôi háo hức được nghe tiếng một đồng loại.
Nhưng, dù tôi gào, kêu như năn nỉ người bạn đồng cảnh lên tiếng cho đỡ cô liêu,
tịch mịch trong nhà hầm, vẫn không có một tiếng trả lời. Có lúc, tôi nghĩ hay
là người đó điếc, hoặc câm? Nhưng, rõ ràng nhiều lần tôi nghe tiếng rầm rầm, rì
rì như tiếng đọc kinh cầu nguyện, sám hối.
So với bên tôi, thì bên
đó rất ít khi nghe tiếng rung reng của xích sắt, có lẽ người đó rất ít cử động.
Trong khi tôi, dù kiệt sức, rã rời vì đói, vẫn phải nổ lực, cố gắng tập cử động
tay chân. Nếu nằm ngửa, phải nghệch đầu vào tường đá,
vì không bao giờ co
chân lại được. Nằm nghiêng hai phía, lại phải nằm co, hai tay phải luôn luôn
giơ lên phía đầu, vì dây xích có hạn.
Tôi đang nằm đầu óc vẩn
vơ nghĩ ngợi với những nỗi niềm trăm hướng, bỗng có tiếng động xọc xoạch mở
khóa, rồi cửa “cát xô” mở. Một lúc, tôi nghe tiếng mở khóa cái “quan tài” đá
của tôi. Miếng cửa sắt được kéo lên. Thì ra tên cán bộ Kế và một tên hình sự
vẫn đưa cơm.
Tên Kế là người miền
Nam, đeo lon thượng sĩ, phải 45, 50 tuổi rồi. Y vẫn thường coi buống số 9 trại
chung. Hôm nay vào “cát xô”, y phải đeo khẩu trang. Việc mở cùm mở xích cho tù,
bắt buộc phải do cán bộ mở, nếu không, chắc y đã sai anh hình sự làm thay. Bởi
vì, tôi thấy y mở khóa xích cho tôi mà phải nín thở, nhăn mặt, vội vàng làm cho
xong, rồi chạy mãi ra phía gần cửa “cát xô”, mới quay lại quát:
- Cho ra đổ bô và lấy
nước dội, làm vệ sinh chỗ nằm! Đồng thời cho tắm rửa 15 phút!
Khi tôi chui ra khỏi
chuồng, đứng dậy, hai đầu gối của tôi rủn ra, tôi ngã ngồi bệt xuống nền đá.
Tôi lại chỗi dậy, cứ như vậy mấy lần. Người tù hình sự nhìn tôi với ánh mắt đầy
thương cảm của tình người. Anh ta chừng 23, 23 tuổi, trông mập mạp, nhưng nước
da vẫn xám xịt. Mập mạp là vì làm nhà bếp. Dưới chế độ chủ nghĩa, câu:”Giầu nhà
kho, no nhà bếp”, dù ở đâu, hay lúc nào, cũng đúng!
Sau khi cái chân tôi đã
tạm nhuần, bấy giờ tôi mới chui vào mở nắp lỗ phân, lôi cái bô phân và nước
giải đã 6, 7 ngày của tôi lên. Tên Kế càng lùi xa lên phía trên cửa “cát xô”.
Ngược lại, anh hình sự lại tìm cớ vờ đặt cái khay gỗ xuống gần chỗ tôi, tay lúi
húi xếp một nắm cơm, và một bát rau muống già nấu, đen xì. Nhìn bát rau muống,
tôi thật là mừng. Hàng tuần nay, ruột xót như cào. Không có một tí rau nào, chỉ
ăn cơm với muối. Nhưng muối cũng không đủ. Vậy mà mỗi bữa cơm, tôi vẫn gắng ăn
dè ra, thường để giành được…..mươi hạt muối! Từ đó cho đến bữa cơm kế, 24
tiếng, cứ khoảng hai tiếng tôi lại lấy một hạt muối cho vào mồm. Những lúc đó,
một mâu thuẫn đã xảy ra, trong nội tại sự việc: một đằng muốn hạt muối ngấm tỏa
ra nhiều mùi thơm ngon; đàng khác lại muốn đừng tan nhanh quá. Mâu thuẫn này
luôn luôn không thể giải quyết được. Được phía này thì mất phía kia.
Anh hình sự quả là cũng
quái. Đúng lúc một tên cán bộ nào đó ở phía trên đi qua, hỏi tên Kế cái gì đó,
Kế vừa ngửng lên chỉ trỏ nói chuyện, ở dưới này, anh hình sự tươi mặt nhìn tôi
khẽ nói:
- Anh có biết anh em tù
ở trên ca ngợi hành động can trường của anh lắm. Họ còn biết anh từ miền Nam ra
hoạt động ở Hà Nội nữa. Chúng em có người được đi dọn rửa phân buồng ấy về nói
là anh đánh nó phọt cứt ra.
Vừa lúc ấy tên Kế hết
nói chuyện, và lại cúi đưa mắt nhìn xuống dưới, tôi không thể nói được lời cám
ơn anh em có nhã ý với mình. Tuy vậy, tự trong lòng, tôi cũng thấy dâng lên nhè
nhẹ một niềm an ủi; thêm nguồn sống phấn khởi; nhưng lại cũng xen lẫn một chút
bâng khuâng man mác buồn. Sự việc thất bại. Bây giờ, tôi đang sống dở, chết dở
ở nhà mồ này; và sau này, chắc chắn trong hồ sơ có vết “trốn tù”, “đánh cán
bộ”. Như thế, chẳng bao giờ tôi được “hưởng” sự rộng rãi cả. Nếu hôm ấy, tôi
thành công! Chúng chỉ còn biết một tù nhân đã bí mật biến mất, trước bao nhiêu
hàng rào canh phòng. Nhưng thôi, nghĩ làm gì những chuyện “nồi canh đã bể” ấy,
chỉ càng thêm buồn, thêm tiếc !…
52. Cái Chết Của Một Người Tù… Linh Mục!
Lúc này, trời đã lành lạnh, một vài hơi heo may đã lò dò về
sớm. Không có quần áo thay, dù vậy, tôi vẫn cởi bộ quần áo ra vò mạnh cho đỡ
tanh, thối. Cúi vào vòi nước, tôi xoa, cào mấy cái cho bong ít vảy ghét. Cả cái
bắp đùi của tôi bây giờ chỉ vừa một chít tay với 3 đốt ngón tay. Hai cái xương
phía ngoài đấu gối, trông như hai cái đầu con bọ ngựa ngọ nguậy, ngút ngắc, lúc
tôi đứng lên ngồi xuống. Tôi gãi hai mông đít, chả thấy những đầu xương nhọn
hoắt. Bao nhiêu công việc, tôi phải làm vội vàng, vì chỉ có 15 phút. Nhưng, có
lẽ tên Kế thấy tôi nỗ lực với cuộc sống, cho nên đã để cho tôi hơn 20 phút.
Sau khi tôi dùng tay,
ăn và húp hết bát canh, còn nắm cơm, tôi mang vào. Cho họ cùm xong mới ăn, vì
hết giờ rồi. Cùm, xích xong, và khi cửa buồng sập xuống, những bước chân đi dần
vào phía trong.
Tôi cũng cố gắng lắng
nghe qua những âm thanh để có thể phán đoán chút gì, về người phía bên trong
được không. Có tiếng mở khóa và kéo cửa lên, nhưng đợi mãi, không nghe tiếng
chân ra ngoài đổ bô và rửa ráy. Im lìm một lúc, rồi nghe tiếng sập cửa và khóa,
những tiếng bước chân sền sệt nhỏ dần lên phía cửa “cát xô”. Đã quá nhiều lần
tôi gọi buống phía trong rồi, nhưng không hiểu tại sao người trong ấy, không
lên tiếng trả lời. Hôm nay, tôi cũng chả muốn gọi nữa!
Tôi thấy lạnh run lên,
dù tôi đã cố sức vắt khô quần áo, nhưng tôi vẫn run. Thật chẳng có cái dại nào
giống cái dại nào. Lần sau, thà chịu bẩn, chịu cứt đái, chứ chả dám giặt nữa.
Phải ăn cơm ngay, để có chút “ca lô ri” chống lạnh, tôi run lắm rồi!
Trong ánh sáng mờ mờ
của căn hầm, khi tôi bẻ nắm cơm ra, mũi tôi thoáng ngửi một mùi đặc biệt, làm
nước miếng của tôi rào rào chảy ra đầy mồm. Tôi nhìn ở giữa nắm cơm: một mầu
nâu nâu, đen đen, trăng trắng. Thì ra một miếng thịt heo vuông mỗi bề độ 3
phân, dầy độ 5 ly. Ôi chao! Sao tôi lại có cái diễm phúc thần tiên như thế này?
Tôi đã biết, ở trong
Hỏa Lò, thịt là cả một vấn đề. Một năm, cũng chỉ 3, 4 bữa là cùng, mỗi bữa chỉ
được 2 miếng con con bằng hai đốt ngón tay. Hỏa Lò là trại giam của Thủ Đô Hà
Nội, bộ mặt của cả nước, có nhiều khách quốc tế, và các “vị” lãnh đạo tối cao
của xã hội chủ nghĩa tới lui, mới được hưởng cái “đặc ân” đó.
Hôm nay là ngày gì đâu
mà Hỏa Lò có thịt!? Vậy, đây chỉ là của cán bộ, và do tài ba nhập nhằng thế nào
đấy của anh bếp tù hình sự, để gọi là một chút giúp đỡ cho người, họ có thiện
cảm.
Tôi hơi lặng người đi
vì xúc động, trước một việc làm cao cả của một người có tâm hồn, lấy nghĩa khí
để xử thế, đôi khi tiền không mua được. Thực vậy, nếu vì lý do nào đó bị phát
giác, không những mất “nồi cơm”, nghĩa là mất chân béo bở ở nhà bếp, phải trở
về buồng giam, để tiếp tục những ngày đói triền miên ở trong tù. Hồ sơ còn bị
ghi vết xấu, sau này đi trại nào, cũng khó lòng có cơ hội nhận lãnh những
“chân” béo bở nữa. Ngoài ra, có khi còn bị kỷ luật, bị cùm ở trại chung. Phải
nói, đây là một việc làm tôi suốt đời, không quên.
Chỉ vì miếng thịt, dù
tôi chưa ăn, chỉ mới ăn cơm, tôi đã quên bẵng đi mọi việc chung quanh. Người
hết lạnh lúc nào, ngừng run lúc nào, tôi cũng không hay. Ngay bộ quần áo, cũng
đã khô ráo rồi!
Bây giờ tôi nằm xuống,
cầm miếng thịt hà hít cho nó sướng cái đã, rồi tôi bắt đầu nhẹ cắn một miếng.
Tôi bảo đảm, tất cả các tế bào trong cơ thể của tôi đều như đứng bật dậy, cùng
nhún nhẩy, đong đưa để đón nhận hương vị của miếng thịt. Tôi vừa nhai, vừa nghe
tiếng róc rách, của những giòng nước thơm thơm, ngầy ngậy từ từ chảy ngấm vào
con tì, con vị của mình. Đầu óc tôi cứ lâng lâng, miên man bâng khuâng! Xin cảm
tạ đấng Tạo Hóa! Tại sao lại có lòng ưu ái đối với thế nhân đến như vậy? Ngài
đã ban cho con người một thứ vưu vật tuyệt vời, mà không phải ai cũng được
hưởng hết cái giá trị của nó…..
Những ngày hôm sau, tôi
nhìn nắm cơm, tuy trông bề ngoài cũng như mọi khi, nhưng khi bẻ ăn, thấy rắn
chắc khác thường. Phải nói, lượng cơm gần như gấp rưỡi, nhưng được nắm lại thật
chặt để trông vẫn như thường. Cũng vì vậy, cơ thể tôi có thêm sức để chịu đựng.
Trước dây, tôi chỉ mừng là có được một người tù thông cảm với hoàn cảnh của
mình, nên đã tận tình giúp đỡ. Nhưng một đêm, tôi chợt nhận thấy, ý nghĩa của
vấn đề còn to lớn hơn. Ở đây, người giúp đỡ tôi, anh ấy nói có nhiều người khác
biết. Vậy, đây là quần chúng! Không bị tuyên truyền, không bị lừa lọc, bịp bợm.
Bằng thực tiễn và thời gian, quần chúng đã tự hiểu, và tự nguyện giúp đỡ một
người bị bọn cường quyền hành hạ. Như thế, việc tôi làm, đường tôi đi, càng
ngày càng được sự thương yêu, đùm bọc của quần chúng. Điều đó là một cứu cánh
quyết định, giúp tôi vượt qua nhiều gian khổ, trên đường đi tới sau này.
Dần dần, tôi càng ít
nghe thấy những tiếng rọt rẹt của xích sắt, phía bên trong hơn. Cả những tiếng
rên và tiềng rầm rì như tiếng tụng kinh, đã quen thuộc lâu ngày.
Đến ngày thứ Bảy tuần
đó, sau khi nhận cơm và nước, tôi quen lệ như mọi lần, chờ nghe điệp khúc của
điệu nhạc “cho tù ăn” trỗi lên. Tôi chỉ nghe đến “khúc” kéo cửa sắt lên,
rồi…..ngừng bặt, ngắt quãng, thay vào đó là tiếng bước chân hấp tấp của anh tù
hình sự đi trở ra. Qua khỏi chuồng của tôi, một giọng nói to lẫn trong tiếng
thở hổn hển:
- Báo cáo cán bộ, buồng
phía trong đã chết tự bao giờ rồi!
Tiếng bước chân dồn dập
đi vào phía trong. Một lúc, rồi tiếng sền sệt chạy trở ra và nhỏ dần về phía
cửa “cát xô”.
Qua sự phán đoán của
tôi, anh hình sự vẫn còn đang đứng đợi chờ trên bực hầm. Đây là trường hợp hi
hữu, bất ngờ. Tôi đã có chủ định từ mấy hôm nay, vì vậy gặp dịp không thể bỏ
lỡ, tôi vờ ho lên một tiếng, rồi kêu bâng quơ:
- Đau bụng quá trời ơi!
Tiếng bước chân đi
nhanh xuống, giọng nhỏ nhẹ hỏi:
- Anh làm sao đấy?!…
Chủ động, ý của tôi là
cố tìm cách để biết tên anh tù hình sự, và về người ở buồng phía trong. Vì vậy,
tôi hỏi ngay, giọng như thì thào:
- Tôi mong muốn được
biết tên bạn?
- Em tên Minh. Còn anh?
- Đặng Chí Bình…..Người
vừa chết ở phía trong, Minh có biết là ai không?
- Ông ấy là Linh Mục.
Tôi thoáng giật mình,
hỏi gấp:
- Tên gì?
- Em không biết!
- Linh Mục có điếc, hay
câm không?
- Không câm, không
điếc,nhưng không nói với ai từ ngày bị bắt, nên họ mới cho vào “cát xô”.
- Lâu chưa?…..
Giữa lúc đó, có tiếng
người xa xa, anh Minh lẹ chân chạy ngay lên phía trên bậc hầm.
Bốn, năm người đi qua
chuồng của tôi. Tiếng rút chốt cùm. Tiếng mở khóa xích sắt rủng rẻng. Lịch kịch
một lúc, rồi những tiếng bước chân nặng chịch vì phải khênh, kéo một thân người
ngang qua chuồng tôi.
Một mùi thịt người chết
lâu ngày nồng nặc. Mùi đó quạt vào mũi làm tôi bỗng chợt nhớ lại một hình ảnh
của quá khứ, ở nghĩa địa Đô Thành, Sài Gòn, ngày 13-14 tháng 11 năm 1960 – Ngày
binh biến 11/11/1960 của miền Nam. Hôm đó, tôi theo giòng người vào nhà xác
trong nghĩa địa Đô Thành, vừa để thỏa tính tò mò, vừa để xem, biết đâu, lại chả
có người quen, mình biết để về báo cho gia đình họ hay. Bao nhiêu dẫy xác chết.
Có những xác phình to tướng như xác người ngoại quốc. Có cái lòi ruột, cái mất
đầu, có cái chỉ còn….chiếc cẳng chân dính toòng teng một cục thịt lầy nhầy mấy
đoạn ruột…..Đặc biệt, một mùi khăm khẳm, tanh tanh, ngai ngái từ những chỗ thịt
đã thối nồng nặc bao trùm cả một vùng chung quanh.
Người nào vào, cũng có
chiếc khăn bịt mũi, vậy mà vẫn vang lên đây đó tiếng nôn ọe, lẫn với tiếng gào,
khóc của thân nhân, khi đã nhìn thấy xác của người nhà. Thậm chí, tôi đã rời xa
nghĩa địa hàng nửa cây số, thế mà vẫn còn ngữi thấy cái mùi đặc biệt đó. Rồi
hôm nay, mũi tôi lại ngửi thấy mùi thịt người chết lâu ngày này, khiến tôi nhớ
đến những cảnh đời trong một thời gian khác, ở một không gian khác của Tổ Quốc
Việt Nam nhiều nghiệt ngã cay đắng, đó là miền Nam thân yêu, mãi tít xa vời
vợi.
Nghe qua âm thanh, tôi
hiểu chúng đã khiêng người chết lên trên đồi; cửa “cát xô” đã đóng, mà sao mùi
xú uế của tử khí còn nồng nặc căn hầm.
Chừng nửa giờ sau, cửa
“cát xô” lại mở. Nghe tiếng bước chân, tôi biết có hai người đi xuống. Rồi một
người đi trở lên. Một lúc, tôi nghe tiếng quét dọn, rồi tiếng phì phì nôn ọe.
Tôi hiểu đó là tiếng của anh nhà bếp hình sự. Tiếng mở vòi nước chảy ồ ồ, tiếng
xối nước ào ào. Đột nhiên, giọng anh Minh nói như thầm thì:
- Mọi khi, họ để vào
nhà xác, đêm mới mang đi chôn. Hôm nay, phải đem đi ngay rồi, vì thối quá!
- Chết từ bao giờ mà
mùi kinh thế!
- Mới đêm qua. Nhưng,
vì cái chân ông ta bị lở loét thối và có bọ nửa tháng nay rồi. Hàng ngày giòi
bọ, bò lổm nhổm ra cả ngoài nền này.
Thảo nào, cái mũi tôi
đã không lầm khi ngửi thấy mùi thịt chết nhiều ngày. Thấy anh nói có vẻ tự
nhiên như không có cán bộ, dù vậy, tôi vẫn chưa yên tâm nên hỏi:
- Cán bộ đâu?
- Không chịu nổi hôi
thối, ông ta trèo lên cửa “cát xô” rồi.
- Minh họ gì?
- Lê, Lê Hoàng Minh!
- Ông Linh Mục bị bắt
từ bao giờ?
- Em không rõ, chỉ biết
vào “cát xô” hai tháng nay.
- Ông ta chừng bao
nhiêu tuổi?
- Khoảng 40, 45. Ông ấy
bị chết vì cái chân gần đứt rơi ra ở trong cùm, trông thấy cả ống xương chân
trắng hếu, rất nhiều giòi bọ.
Đột nhiên, một giọng
miền Nam quát vang lên từ phía cửa “cát xô”:
- Xong chưa? Làm gì lâu
thế!?…
Tiếng anh Minh vội
vàng:
- Báo cáo, xong ngay
đây ạ!
Vừa báo cáo, anh vừa
hấp tấp đi lên.
Cửa “cát xô” đóng rồi,
lòng tôi vẫn vơi đầy với vị Linh Mục nào đó. Tại sao người không nói chuyện với
tôi? Nếu tôi biết từ trước người là Linh Mục, tôi đã có cách để nói chuyện với
người. Biết đâu, vừa biết rỏ về người, may ra cổ vũ tinh thần cho người, người
lại….chưa chết. Tôi hiểu, có những nhân vật lỗi lạc về nhiều khía cạnh trong
cuộc đời, nhưng khi gặp thế cùng, lại quên đi những điều sơ đẳng nhất.
Đêm hôm đó, tôi tự dưng
thấy rợn người mấy lần, vì dưới nhà…..mồ, bây giờ còn mỗi mình tôi. Thỉnh
thoảng, nghe những tiếng lịch kịch phía bên trong, tôi cũng thấy nổi gai ốc
lên. Nhất là, mùi khăm khẳm vẫn chưa tan hết dưới hầm. Nhưng, chợt một ý nghĩ
dấy lên trong đầu làm tôi yên lòng, bớt thấp thỏm khi nghe những âm thanh lạ trong
đêm trường:”Dứt khoát chẳng làm quái gì có ma! Bởi vì rất dễ hiểu, nếu có ma
thực, những lũ Cộng Sản đã bị bóp cổ chết hết rồi, còn đâu!”.
Biết bao nhiêu chiến sĩ
Quốc Gia, biết bao nhiêu những đồng bào vô tội trong cải cách ruộng đất, trong
các nhà tù hiện nay…..bị lũ Cộng Sản tàn sát, giết hại;
lòng căm hờn dâng cao
như núi. Nếu chết đi thành ma, lũ Cộng làm sao còn! Cũng như, bao nhiêu kẻ ác
trên cõi đời này làm sao yên hưởng xa hoa trên đống xương, và máu của người
khác…..?
Do những suy nghĩ như vậy,
tôi không cón cảm thấy rờn rợn, nổi da gà khi nghe thấy những tiếng xọc xạch ở
phía trong, lúc đêm khuya nữa. Chắc đấy chỉ là một con chuột nào đó, đi kiếm ăn
đêm?…..
53. Những Tấm Lòng….Tù!
Vì hàng ngày đôi chân thường không cử động được, cứ phải
nằm yên một chỗ, ba tuần lễ nay, không lần nào tôi đứng lên được ngay, mỗi lần
khi được mở cùm để ra đổ bô và tắm rửa. Tôi thường phải vịn tay vào tường đá,
đứng lên ngồi xuống vài lần, rồi mới đứng lên và đi được. Cho nên, nếu không
muốn trở thành một phế nhân, để càng phải chịu thêm nhiều cay đắng nữa của cuộc
đời, tôi không còn cách nào khác là phải phấn đấu đến phút cuối cùng, dù ngày
mai có phải chết.
Mỗi ngày ba lần, tôi
dùng tay xoa nắn, chà sát, đấm bóp hai chân. Chân không tự cử động được thì
phải dùng tay giúp vậy; nhưng cũng rất khó khăn, hạn chế, vì cố gắng lắm, hai
tay cũng chỉ với tới quá đầu gối một chút mà thôi. Vì thế, ngày cũng như đêm,
từ đầu gối trở xuống, nếu ngứa, tôi đã kiếm được một cuống chổi thanh hao, dài
chừng 40 phân, để giải quyết. Tôi dùng que chổi này chọc, lách vào trong cùm,
gãi chỗ nào ngứa. Có tay, mà nhiều khi như không có vậy!
Tôi nằm, miên man nghĩ
ngợi, thật là may, hồng phúc cơ duyên thế nào tôi lại gặp được anh Minh đã hết
lòng giúp đỡ. Mỗi ngày được thêm gần nửa suất cơm như vậy, chẳng khác nào như
được tiếp máu. Tuy về vật chất nó chỉ đáp ứng nhỏ mọn; nhưng về tinh thần, lại
là cả một sự tiếp cứu lớn lao. Nó đã móc, nâng tinh thần của tôi lên cao, để
khỏi bị chìm nghỉm trong “lò nấu xác” của lũ quỷ đỏ thèm khát thịt người.
Trong “cát xô”, tôi
không thể nằm thẳng chân thực hiện phương pháp vận công “A”, tôi vẫn thường làm
ở xà lim, tôi đổi lại thành ngồi. Mỗi ngày, tôi làm ba lần: sáng, trưa và tối.
Nhiều lúc, ngồi tham thiền nhập định xong, tôi nhìn hai cái chân trong cùm, hai
cái tay trong xích mà buồn cười. Chẳng biết những vị cao nhân trong võ lâm lúc
ngồi điều khí vận công, mà chân tay bị xích, có tập luyện được không? Tôi chưa
được đọc thấy một tác phẩm nào có nhân vật bị cùm xích, mà tập được võ công cả.
Vì bị cùm và xích, làm sao tập theo được những thế võ trong bí kíp!?…..
Hôm nay là ngày thứ 34
ở “cát xô”. Dù tôi đã nỗ lực phấn đấu hết sức mình để tồn tại; dù được sự hà
hơi tiếp sức của anh Minh; đến nay, hai cái chân tôi đã phù to lên. Phù này
khác với cước vì lạnh trước đây. Phù bây giờ một phần là do thiếu chất dinh
dưỡng lâu ngày; nhưng, phần chính là do hai cái chân không cử động được, hầu
như ngày nào cũng như ngày nào, cứ đặt yên một chỗ. Nhìn đôi bàn chân sưng phù,
tôi thật nản lòng. Bao nhiêu công tập luyện từ hôm vào nhà hầm, đều trôi cuốn
theo giòng nước lũ. Một điều khác làm tôi nản hơn là, người đưa cơm hôm nay lạ,
không phải là anh Minh nữa; mà là một anh hình sự khác, có đôi mắt ngờ nghệch chậm
chạp.
Tôi băn khoăn nóng
ruột, muốn hỏi người đưa cơm này về anh Minh. Nhưng, phần vì thái độ của anh
như vô tình, lơ đãng và lạnh lùng như một cái máy cử động vậy. Phần khác, những
tên công an thường theo sát, đứng ngay bên cạnh, nhìn và sai anh hình sự làm,
nên tôi không làm sao thực hiện được ý định đó. Có thể vì anh hình sự này mới,
công an phải chỉ bảo và thử thách. Cũng có thể vì “cát xô” bây giờ chỉ có mình
tôi. Tôi lại cố gắng giữ gìn vệ sinh, cho nên cái “cát xô” đã bớt hôi thối,
(những lúc tắm rửa, tôi miệt mài năn nỉ, xin thêm từng xô nước để dội chỗ nằm).
Tên cán bộ nào cũng vào đứng sát chuồng của tôi, khi cho ăn cơm. Không còn cảnh
bịt mồm, chỗ nước bọt như mọi khi.
Ngẫm chuyện đời, tôi
thấy là bất kể chuyện gì, việc gì cũng đều có hai mặt mâu thuẫn, đối kháng
nhau: lợi và hại. Chỉ có tỷ lệ, mức độ chênh lệch nhiều hay ít. Sự việc lợi
nhất, cũng có cái hại của nó. Ngược lại, điều xấu tệ hại nhất, cũng có cái lợi
của nó. Tôi cố giữ gìn vệ sinh cho nhà hầm đỡ hôi thối, như vậy là lợi cho sức khỏe,
rất đáng làm; nhưng, bị điều bất lợi như đã trình bầy ở trên. Vì thế, nếu xét
một việc mà chưa thấy những mặt mâu thuẫn, là vì ta chưa mổ xẻ, phân tích kỹ mà
thôi.
Bây giờ, nắm cơm hàng
ngày lại nhỏ như trước, khi chưa có sự giúp đỡ của anh Minh. Nghĩa là chỉ còn
được khoảng 2 bát cơm con.
Tôi đợi mãi, rồi cũng
tới ngày thứ Hai, ngày tắm rửa. Hôm nay lại là ngày lão Kim già trực. Từ sau
ngày tôi đánh lừa y để tự tử, hễ nhìn thấy tôi đâu, là lão lại quắc mắt lên
giận dữ. Câu chuyện đã 5, 6 tháng rồi, và cũng đã 3, 4 tháng nay tôi không gặp
lão. Vì vậy, khi lão cúi đầu vào quát bảo, tôi đưa tay cho lão mở khóa xích.
Nhìn thấy tôi, mắt lão chớp chớp sau gọng kính trắng, vẻ hơi ngỡ ngàng. Tôi
hiểu là lão còn căm ghét tôi nhiều, cho nên tôi cố tránh không nhìn lão. Tôi
phải bò ra, vì hai chân không thể đứng lên nổi nữa. Tôi cố tập đứng lên, ngồi
xuống vài lần như mọi khi, nhưng vừa buốt vừa run rẩy, lại phải ngồi bệt xuống.
Trong khi tên hình sự đưa cơm đang ngồi ghệ ở một bậc đá, gần cửa “cát xô” chờ
tôi đổ bô và tắm rửa, đột nhiên, lão già Kim hỏi tôi:
- Anh ở “cát xô” bao
nhiêu ngày rồi?
- Báo cáo “cụ” (ai cũng
gọi lão như vậy, vì lão đã trên 60 tuổi rồi), hôm nay là ngày thứ 42 ạ!
Tôi trả lời trong hơi
thở hổn hển vì mệt. Qua thái độ và cách lão hỏi tôi, tôi cảm nhận hình như lão
không ghét tôi nhiều lắm! Nhìn tôi bò ra phía vòi nước một cách vất vả, vì phải
mang theo cái bô phân và nước tiểu. Tự nhiên, lão mắng tôi một câu:
- Anh như con thú ấy,
có chịu nằm yên đâu!
Tôi chẳng buồn nói năng
chi, vì đang phải nghiến răng chịu đựng cái rát, buốt khi bàn chân nết trên nền
đá. Tôi cứ phải nhắc cái bô đặt một chỗ với sức vươn tối đa, rồi lại bò, cứ như
vậy cho đến chỗ cống đổ phân. Tôi chỉ rửa ráy qua loa, rồi lại hì hục bò về
chuồng như mọi khi. Tôi ngồi húp và ăn bát canh rau muống trước, còn nắm cơm sẽ
mang vào trong buồng mới ăn. Nguyên tắc, một tuần chỉ được mở cùm, để đổ bô và
tắm rửa trong 15 phút, thế mà hôm nay, lão Kim để cho đến 30 phút.
Từ đấy, tôi càng thấy
bản chất của một con người, hầu như không thể thay đổi được. Có chăng, chỉ là
sự che đậy bên ngoài, vì một lý do nào đó của cuộc sống mà thôi.
Lúc khóa, xích tay tôi
lão lại hỏi nữa:
- Lúc đưa anh vào “cát
xô”, cán bộ có tuyên bố bao nhiêu ngày không?
- Báo cáo cụ, không!
Vì không có dịp thuận
tiện nào, nên điều cứ thắc mắc trong lòng tôi là, tôi muốn hỏi anh bếp mới về
anh Minh giờ ra sao, đã không thực hiện được.
Bốn ngày sau, vào một
buổi sáng thứ Sáu, tôi đang nằm băn khoăn về hai cái chân mình (tôi không còn
cách nào để phấn đấu luyện tập nữa), đành chịu cho đôi chân mình đi đến chỗ có
thể bị liệt. Nắm cơm quá ít, chỉ đủ để ăn không chết, chứ không còn sức để cử
động tay chân, Tôi thấy, nếu trước đây không được anh Minh giúp đỡ, tôi đã nằm
liệt lâu rồi, và chưa biết những chuyện đau buồn gì đã xảy ra. Bỗng, tôi nghe
tiếng lẻng xẻng của chìa khóa, tiếng lịch kịch của cánh cửa hầm “cát xô” mở.
Tôi ngạc nhiên, mở mắt ra nghe ngóng. Bây giờ mới khoảng 8 rưỡi, 9 giờ, đâu đã
phải giờ cho ăn cơm? Hay lại có một đồng cảnh nữa mới vào? Tôi muốn bò dậy để xem
chuyện gì? Nhưng, không ngờ là sức tôi bây giờ không đủ để ngồi dậy nữa!
Tiếng chìa khóa mở
chuồng của tôi. Rồi cửa được kéo lên. Tên Đại, cán bộ văn thư (làm ở văn phòng)
nhìn tôi, rồi quát:
- Bò dậy! Đưa tay ra
đây để mở xích!
Tôi cố chống tay, mấy
lần vẫn không bò dậy được. Chỉ vì hai sợi dây xích không đủ dài để chống hai
tay xuống nền. Mọi khi, tôi thường phải dùng thêm sức kéo của tay, rồi lấy thế
ngồi lên. Bây giờ, người tôi rã rượi, như không còn một tí hơi sức nào.
Thấy tôi xoay sở, cố
gắng nhưng không thể ngồi dậy được, tên Đại đành phải cúi đầu vào để mở hai cái
khóa ở đầu dây xích. Rồi, y ra ngoài rút chốt cùm.
Hai tay được tự do,
không phải mang sức nặng của sợi dây xích, tôi chống tay bò dậy, thế mà cũng
phải mấy lần mới ngồi lên được. Hai mắt hoa lên, quay cuồng, tôi phải cố như
lấy gân cả hai tay, mới nâng cho cái cùm há mồm lên, để lấy đôi chân ra. Đôi
chân tôi bây giờ sưng húp lên cả mắt cá. Hai bàn chân to tướng với mấy khúc
xương tong teo nhăn nhúm, xám xịt, như hai chiếc đũa cắm vào hai củ khoai lang
luộc vậy.
Tôi cố bò ra khỏi
buồng. Y nhìn thân hình của tôi một lúc, rồi dịu giọng:
- Cho anh ra rửa ráy,
rồi vào viết kiểm điểm.
Vừa nói, y vừa chỉ mấy
tờ giấy, cái bút và lọ mực đang để trên bậc đá, lối lên cửa hầm “cát xô”.
Thật là lạ lùng, mắt
của tôi nhìn ngay y, cũng không rõ nữa. Hình ảnh một tên mặc quần áo màu vàng,
mồm đang quàng một cái khẩu trang màu trắng trông cũng rất lờ mờ. Tôi lại càng
lo sợ, không hiểu vì sao mắt mình lại như vậy. Phải chăng, vì ở trong chỗ mờ
tối quá lâu (gần hai tháng trời), mắt luôn luôn phải điều tiết căng thẳng, hay
vì mấy năm nay ăn uống đói khát và thiếu chất dinh dưỡng? Có lẽ vì hai lý do.
Tôi nghiến răng, kéo “hai củ khoai lang luộc” về chỗ vòi nước rửa hai con mắt
xem thế nào.
Trời đã vào Thu nên
nước bắt đầu lạnh. Tôi vuốt, dụi, rửa hai con mắt, nhưng vẫn không thấy sáng
hơn. Tôi bò lại chỗ để mấy tờ giấy và lọ mực.
Đầu tiên, tôi viết chữ
“Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”. Do cái tay quen viết theo tay; mắt tôi chỉ thấy
những nét ngoằn ngoèo, đen đen mờ mờ trên giấy trắng, không đọc rõ được nét
chữ. Tôi quay lại y:
- Thưa ông, tôi chả
nhìn thấy chữ tôi viết!
Y ngạc nhiên, lại gần
tôi nhìn. Có thể y thấy thái độ khổ tâm của tôi vì đôi mắt như vậy, nên y bật
cả hai cái đèn trong hầm “cát xô”, y lại trèo lên những bậc đá tới của hầm “cát
xô”, mở phanh to cho ánh sáng ở trên chiếu vào. Căn hầm đã sáng hẳn ra, nhưng
mắt tôi nhìn chữ viết vẫn chưa rõ hẳn, vì vậy tôi bỏ bút xuống, nói với y:
- Thưa ông, hiện giờ
mắt tôi không nhìn rõ chữ viết. Vậy, để mai kia xem mắt tôi có nhìn thấy, tôi
mới viết được. Hơn nữa, lúc này tôi mệt lắm, tôi không biết viết gì!?…..
- Được! Sau này anh sẽ
viết chi tiết. Còn bây giờ, theo nguyên tắc, anh phải viết mấy giòng ngắn gọn:
“Xin nhận hoàn toàn khuyết điểm, sai lầm. Xin cam đoan không bao giờ tái phạm”.
Thấy y nói như vậy, tôi
cũng cố gắng viết đại theo lời y nói, dù tôi chả nhìn thấy rõ. Tôi cũng viết 3,
4 giòng, ký tên, rồi đưa cho y. Lúc đó mới khoảng 10 giờ, y cầm tờ giấy tôi
viết, xem qua, rồi hất tay ra hiệu bảo tôi chui vào chuồng:
- Hãy đi vào buồng, tạm
cho anh nghỉ cùm và xích!
Được lời như cởi tấm
lòng, tôi bò vào chuồng có vẻ nhanh hơn lúc tôi bò ra. Cửa chuồng đã đóng, và
cửa “cát xô” cũng đã khóa. Tôi loay hoay tìm thế nằm ngửa, gối đầu lên cùm sắt,
giơ hai chân thẳng lên, rồi co lại. Dần dần, làm được! Mệt, tôi nghỉ, hết mệt,
tôi lại tiếp tục làm.
Theo suy lý của tôi,
hai cái chân bị phù toàn là nước ở bên trong, bây giờ giơ ngược lên nhiều lần,
nước dần dần sẽ phải rút xuống cơ thể.
Trưa hôm đó, một cán bộ
lạ coi trại chung dẫn anh hình sự vào cho tôi ăn cơm. Ăn xong, tôi lại tiếp tục
tập. Thực ra cơ thể tôi lúc này, chỗ nào cũng cần tập, nhưng trong điều kiện
tối ưu tiên, phải dành cho hai chân đã. Nghĩa là dồn hết sức của cơ thể để tập
cho hai chân. Chẳng hiểu sự suy lý của tôi có đúng hay không, hay vì lý do gì
khác mà tôi không biết. Điều trông thấy, cũng như sờ thấy là hai bàn chân tôi,
mà tôi gọi là “hai củ khoai lang luộc”, chỉ có một đêm với nửa ngày tập, đã rút
được đến hai phần mười.
Tôi càng cảm thấy được
khích lệ, sáng hôm sau, tôi lại tiếp tục nỗ lực tập nữa. Nhất là đêm vừa rồi
lại không bị cùm, xích, tôi cảm thấy tay chân tự do, thoải mái nhẹ tênh tênh,
muốn để tay đâu, muốn để chân đâu, tùy theo ý mình. Hỡi tự do! Mi là thiên thần
của loài người! Nhưng không phải ai cũng đưọc mi tới thăm.
Tuy được tha cùm và
xích tay, nhưng tâm tư tôi vẫn thấp thỏm không yên. Thoáng nghe tiếng động cửa
lại giật mình lo sợ cán bộ vào cùm, xích lại. Lúc cán bộ vào cho ăn cơm, tôi
ngồi nhai miếng cơm, nhưng mắt vẫn theo dõi thái độ của y, sợ bất chợt y bảo bỏ
chân vào cùm, bỏ tay vào xích. Thật, nhiều lúc tủi hận cho một kiếp người,
chẳng khác gì một con chó! Nhưng, tôi nghĩ rằng con chó không thể ý thức sự cùm
xích bằng tôi. Nó làm sao cảm thấy tủi hận, uất hờn, dày vò, cấu xé trái tim đã
rướm máu bầm đen như tôi.
Tạo hóa sinh ra loài
người là sinh vật cao quý nhất, nhưng, cũng là sinh vật đểu giả, nham hiểm, tàn
ác nhất!…..
54. Tìm Được Cố Vật… Không Gặp Cố Nhân!
Chiều hôm đó, vào
khoảng sau giờ tan tầm được một lúc, cửa “cát xô” lại mở. Tên Đại vào mở cửa
chuồng tôi, ra hiệu bảo tôi chui ra ngoài. Khi thấy tôi chui ra khỏi chuồng, y
đứng chụm hai chân lại, người thẳng dưỡn lên, nét mặt ra vẻ hết sức nghiêm
trang:
- Thừa lệnh Ban Giám
Thị, tôi tuyên bố anh được tha ở “cát xô”, trở về xà lim, cùm một chân!
Nhìn y đứng cứng ngắc,
hai mắt nhìn thẳng lên cửa hầm “cát xô”, hai môi mím chặt, trông cả đẫn một cục
to tướng, nhưng tôi cũng không cười được. Bởi vì, tiếng sáo “Cầu Sông Kwai”
đang trỗi dậy trong lòng tôi như chào mừng dứt điểm “cát xô”, trở về hay trở
lên trần thế với xã hội loài người.
Sau khi tuyên bố xong,
y ra hiệu tay cho tôi bò lên cửa “cát xô”. Dù trong lòng, điệu sáo mê hồn vẫn
lả lơi, nhảy múa; nhưng tôi vẫn chưa đi được. Hai bàn chân vẫn nặng chịch, nhức
buốt. Chắc rằng Ban Giám Thị cũng hiểu như vậy, nên chúng đợi cho tới khi trại
chung vào hết rồi, mới mở “cát xô” cho tôi bò ra. Hai đầu gối chỉ là hai cục
xương, nghiến xuống đá và xi măng đau quá! Tôi cố bò lên khỏi lỗ hầm, rồi nằm
vật ra, không bò được nữa. Hai đầu gối đã rướm máu.
Tên Đại cũng nhìn thấy
vậy, y lúng túng không biết phải giải quyết thế nào. Giữa lúc đó, tên Trì, Phó
Giám Thị, cùng một tên cán bộ nữa đang từ cổng trại chung đi vào. Y đến bên
cạnh tôi, nhìn tôi đang nằm ngửa thở, y liếc đôi chân tôi một lúc, rồi quay
sang nói với tên Đại như ra lệnh:
- Đồng chí xuống trại
thợ, gọi một tên thằng lên cõng nó về xà lim!
Tên Đại hấp tấp đi
ngay! Tên Trì cứ nhìn đôi bàn chân của tôi, đầu y gật gật. Rồi nhìn tôi, môi
trên y nhếch cong lên, để lộ mấy cái răng hô đầy cáu ghét ra ngoài:
- Anh chịu đựng tốt hỉ?
Tôi im lặng như không
nghe y nói gì. Trong khi ấy, tên Đại và một anh tù từ phía nhà bếp đi lên. Khi
tới cạnh tôi, tên Đại nói với anh tù như quát, tay chỉ về phía cuối sân:
- Cõng tên này về phía
kia!
Anh tù, chắc là hình
sự, chừng 30 tuổi, mập, lùn, da bánh mật, mặc chiếc quần đùi nâu đã vá hai
miếng ở mông, với chiếc áo trại nhiều vết dầu mỡ đen xì. Anh cố ý nương nhẹ, đỡ
hai tay cho tôi ngồi dậy, rồi nâng tôi đứng lên, nghiêng vai nói nhẹ, giọng
miền Nam đã pha Bắc:
- Anh ôm cổ tôi!
Anh cõng tôi đi trước,
tên Đại cầm chùm chìa khóa lẻng kẻng theo sau.
Kể từ ngày tôi vào “cát
xô” tới hôm nay, là 47 ngày; nhưng nếu kể cả những ngày nằm ở bệnh xá, thì gần
hai tháng. Mới chỉ hai tháng, không khí cũng như quang cảnh sân trại chung đã
thay đổi, khác lạ hẳn xưa. Rải rác chung quanh cái sân trại rộng lớn là những
lỗ “tăng xê” cá nhân, màu đất mới vàng au, từng đống đây đó. Bốn chiếc loa to ở
cái chòi giữa sân Hỏa Lò, đang lải nhải chửi Mỹ khiêu chiến, tạo nên vụ Vịnh
Bắc Bộ với chiếc tàu Maddox. Những bài nói chuyện, cũng như những thông cáo của
những tên lãnh đạo miền Bắc khích lệ, cổ vũ, hô hào quân cũng như dân miền Bắc
chuẩn bị chiến tranh. Nào là…..các quân binh chủng tăng cường luyện tập, bố trí
công sự, hầm hố, chuẩn bị nhiều phương án tác chiến. Đề cao cảnh giác, sẵn sàng
chiến đấu trong mọi tình huống, v.v…Nào là, động viên người và của, chuẩn bị
cho chiến tranh lớn… Nào là, ra lệnh và hô hào quần chúng, nhân dân Hà Nội, các
trường học, bệnh viện, mọi cơ sở sản xuất không cần thiết cho chiến đấu đều
phải di tản, sơ tán khỏi Hà Nội, v.v…
Lúc này máy bay Mỹ đã
bắn phá thị xã Đồng Hới và Hòn Gay. Không khí sôi nổi và căng thẳng của chiến
tranh, tràn ứ khung trời Hà Nội. Khi anh tù hình sự cõng tôi đến cổng xà lim I,
tên Đại đẩy cánh cổng, ra hiệu cho anh tù cõng tôi vào.
Trời! Sân xà lim đầy
những lá bàng, và bao nhiêu là quả! Tôi ngước nhìn lên cành bàng, cả cây bàng
trĩu trái xanh, vàng, hồng lẫn trong màu lá xanh. Từng chiếc lá úa vàng, lốm
đốm những chấm hồng, đỏ lả lơi rời cành đang dẫy dọn quay cuồng trong gió để trở
về cội. Thỉnh thoảng, những tiếng lộp độp đây đó của những quả bàng, đã chín
vàng cũng rùng mình lìa cành lao về với đất. Tất cả tạo thành một bức tranh đầy
mầu sắc của trời Thu.
Ngay trên chạng ba của
cây bàng, một chiếc loa mới gắn chỉa thẳng vào xà lim. Từ nay, tôi lại điếc tai
với “con mụ lắm mồm”, loại chửi thuê ở bến xe, xó chợ.
Khi qua sân, trong lúc
chờ tên Đại loay hoay mở ngăn kéo, lấy chùm chìa khóa của các buồng xà lim, anh
tù hình sự lựa, khẽ để tôi ngồi ghệ trên hè, dựa vào tường. Tôi đưa mắt quan
sát những quả bàng gần sát chân mình. Có
những quả vàng ươm,
chín rẽ chân chim. Một mùi thơm ngây ngất, ngon ngọt, theo từng cơn gió đẩy đầy
ắp vào mũi tôi, mở toang bao nhiêu cửa tuyến, để cho nước miếng tàn đầy mồm.
Mũi tôi đang cong lên để đón nhận những làn hương trong gió, đột nhiên, anh
hình sự ghé vào tai tôi thì thào:
- Chúng tôi ở trại thợ,
hoan nghênh anh lắm!
Tôi chỉ kịp quay lại
mỉm cười và tươi ánh mắt nhìn anh nói với anh lòng thiện cảm của tôi, vì tên
Đại đã đứng lên, ra hiệu cho anh tù hình sự cõng tôi vào buồng.
Thật là lạ lùng, thấy
nó đưa vào gần tới buồng 6, tôi tưởng nó phải cho tôi về buồng cũ, trong đó vẫn
còn một số đồ lặt vặt của tôi; nhưng lại là buồng 5, ngay buồng bên cạnh.
Khi anh hình sự cõng
tôi lách vào cửa, đặt tôi lên sàn xi măng ở một bên, tên Đại cũng vào buồng ra
hiệu cho anh hình sự ra ngoài. Tôi liền báo cáo ngay:
- Thưa ông, trước khi
phải vào “cát sô”, tôi có chiếc chiếu và một bộ quần áo trại cũ, vỏ ba lô, cùng
một số thứ lặt vặt còn để ở buồng số 6. Đề nghị ông, cho tôi xin lại, lấy cái
dùng!
Y nhìn tôi, ngần ngừ
một lúc, rồi sang bên buồng số 6 mở cửa. Y sai anh hình sự ôm hết các thứ của
tôi sang.
Trông thấy những món đồ
cũ, thật tôi thấy nở từng khúc ruột, vừa là những đồ kỷ niệm với bao nhiêu công
trình, lại vừa còn cái chì mật nữa. Trong khi tôi mừng rỡ, lúi húi vơ gọn những
đồ anh hình sự mang sang, tên Đại ra rút chốt cùm. Tôi tự hiểu, nên lê dần
xuống phía cái cùm, nâng miếng sắt nửa trên của cái cùm cho há ra, rồi tôi phải
dùng tay nâng chân để vào. Vì chân bị phù, nên lỗ cùm vừa khít, thật là chặt.
Tôi rất lo lắng! Bề ngang của cái cùm rộng 8 phân là sắt, áp sát vào ống chân.
Ở xà lim đã có nhiều người bị thối chân, chỉ vì chân to, cùm chặt. Thối chân ở
trong này, làm gì có thuốc chữa, tất nhiên chân ấy phải hỏng, vì sẽ trở thành
sâu Quảng.
Sau khi tên Đại đã khóa
cửa đi rồi, tôi cố gắng vặn, xê dịch cái cổ chân. Quá chặt! Không còn cách nào
khác. Chỉ còn mong sao tập tành thế nào cho chân rút phù, mới lỏng ra được. Tôi
dõi mắt nhìn sang cái cùm phía sàn bên kia, với ước lượng của mắt, tôi thấy hai
lổ cùm bên ấy hình như có nhỉnh hơn. Ngày mai, tôi sẽ lựa lời báo cáo với tên
Chiến trực xà lim, xin cùm bên ấy.
Lại còn tên Chiến nữa.
Không biết sự việc xảy ra do tôi, bây giờ nó có căm hận, ghét tôi không? Điều
này, phải đợi sáng mai mới biết.
Tôi chợt nhớ anh Căn
buồng 12, đối diện với buồng 5 của tôi hiện giờ; rồi hai cô gái buồng số 9 nữa.
Chắc rằng họ chẳng biết gì về tôi. Họ chỉ biết tự nhiên tôi đi mất. Có thể, họ
cho là tôi đã được ra trại chung, hoặc đi trại trung ương rồi, chứ làm sao họ
hiểu được là, vừa qua tôi đã làm một cú động trời, và đến nay, gần chết lại trở
về đây?
Tôi nằm chờ 2, 3 tiếng
đồng hồ, xà lim vẫn yên ắng khác thường. Tôi cảm thấy như đổi thay hết, sau gần
hai tháng tôi rời xa.
Tôi cứ nằm miên man suy
nghĩ, trong khi tiếng loa, bây giờ, nghe rõ mồn một. Chợt, tôi nghe chúng đề
cập tới “câu chuyện cảnh giác”:…..chúng nhắc đến việc Biệt Hải miền Nam đã bí
mật đột kích hòn Mê….. rồi, chúng nói đến “kế hoạch 34A” của miền Nam, cho
Người Nhái lợi dụng những đêm tối trời, hoặc mưa gió bất ngờ đổ bộ lên những
vùng ven biển. Bắt dân, hoặc cán bộ mang ra xuồng cao su rồi chạy ra tàu ở
ngoài khơi, chở về Nam để khai thác tin tức tình báo.
Điều tôi muốn nói ở
đây, “kế hoạch 34A” phải là một kế hoạch bí mật. Vậy sao trên đài, trên báo của
Cộng Sản, chúng đã nói một cách công khai? Như vậy, ta thấy tình báo của Cộng
Sản, đã phải biết kế hoạch này, ngay từ lúc chưa được thi hành.
9 giờ tối, tiếng loa đã
tắt, xà lim yên ắng. Thỉnh thoảng một vài tiếng lộp bộp của những quả bàng rơi
xuống sân, nghe như tiếng đập nia, xảy thóc ngày mùa. Tôi ho mấy tiếng như gọi,
như chào, nhưng vắng lặng vẫn hoàn toàn vắng lặng. Quái thật! Mới 2 tháng, cảnh
cũ còn đây mà người xưa đâu ta? Thấp thỏm, băn khoăn mãi, rồi cũng phải chìm
dần vào giấc ngủ muộn…
55. Tin tức, hay tuyên truyền bịp bợm!…
Sáng hôm sau, chưa mở mắt, tiếng đài đã léo nhéo! Dù không
muốn nghe, tiếng loa vẫn cứ như chọc vào tai mình, nó độc lập với ý chí của
mình. Phải nói, nhiều lúc tôi coi tiếng loa như một cái nạn phải chịu đựng vậy.
Sáng hôm nay, trong một bài bình luận, tôi chợt nghe đến một ý chúng lý luận cứ
như thật ấy! Rằng:
“…..Trong chế độ tư bản
mà chúng gọi là thế giới tự do, nguyên tắc sống của xã hội đó là mạnh được, yếu
thua, cá lớn nuốt cá bé; cho nên, xã hội ấy tôn thờ và đề cao: Lẽ phải thuộc về
sức mạnh. Nhưng, dưới chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã tỏ cho thế
giới thấy tính hơn hẳn của chủ nghĩa Cộng Sản. Một cuộc cách mạng đổi đời từ
tận gốc, đã biến đổi hẳn nguyên tắc sống của xã hội tư bản xấu xa cũ, trở
thành: Sức mạnh thuộc về lẽ phải. Nghĩa là, nếu có lẽ phải, là có sức mạnh…..”
Một người dân bình
thường, sống dưới chế độ chuyên chính này cũng thấy ngay, đó chỉ là lý luận bịp
bợm, trái ngược hoàn toàn với thực tế của xã hội Cộng Sản. Dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa, hãy nhìn bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, chuyện ở trong nước, cũng
như chuyện ở ngoài nước, ta thấy chúng luôn luôn, và còn nhiều lần gấp bội xã
hội tư bản, lấy sức mạnh để đè bẹp lẽ phải. Như vậy mà chúng cứ bắt người phải
nghe! Phải nói rằng: Nó có lý do của nó. Nó buồn cười như trên đài, trên báo
thường xuyên ca ngợi, đề cao tự do. Nhưng có tìm đỏ mắt cũng không thấy có tự
do thực sự trong chế độ Cộng Sản. Sau này, chúng ta sẽ bàn tới.
Giờ hành chính đã đến,
cán bộ trực xà lim đã bắt đầu mở buồng cho ra rửa ráy.
Qua cách mở cửa, và
tiếng bước chân đi, tôi biết không phải tên Chiến, nhưng cũng không đoán ra là
ai? Tiếng buồng 1 báo cáo xong. Rồi tiếng cán bộ quát:
- Ra đi!
À, tên Dư! Tên này là
trung sĩ, tôi có gặp hắn vài lần trực xà lim vào ngày Chủ Nhật. Nhưng, hôm nay
là ngày thường, có lẽ hắn đã trực xà lim thay tên Chiến cũng nên. Dư có tuổi,
khoảng 50, 55 người thấp bé, cũng là loại tương đối dễ tính, không quá ác ôn
như nhiều tên công an khác.
Đến lượt buồng tôi, vì
đã có chủ ý, tôi vội vàng cố gắng nâng cái cùm, rồi rút chân ra. Mãi không thấy
tôi ra, y thò cổ vào, đang định quát hỏi, tôi nói ngay:
- Báo cáo ông, tôi ở
“cát xô” mới được cõng về đây chiều tối hôm qua, tôi chưa đi được.
Chỉ vết cùm hằn ép vào
chân mình, tôi nói:
- Thưa cán bộ, chân tôi
bị phù to quá, lỗ cùm lại nhỏ. Xin cán bộ cho tôi đổi qua cùm bên kia.
Vừa nói, tôi vừa chỉ
cái cùm ở sàn bên cạnh. Y không nói năng gì cả, đóng sầm cửa lại, cũng chả thấy
rút chốt cùm sàn bên. Thôi, mặc, tôi tranh thủ vịn vào sàn chậm chạp tập đi.
Hai chân nặng như hai hòn đá, lại còn đau buốt như kim châm, tôi vẫn cố gắng
tập đi. Nhìn hai mu bàn chân, tôi thấy điều lạ là chúng sưng to đã đành, nhưng còn
tím lại như bên trong có máu bầm đen vậy. Hình như chân sưng lên vì vết thương
chứ không phải phù.
Các buồng khác đã đổ bô
vào đều bị cùm ngay, thế mà buồng tôi không đi rửa, lại chưa bị cùm? Tôi thấy
thái độ của y như vậy, tôi càng hy vọng sẽ được đổi cùm.
Nghe loáng thoáng buồng
14 bị kiết lỵ ra máu, báo cáo xin thuốc từ mấy hôm trước, bữa nay y tá mới vào,
tôi liền báo cáo ầm lên:
- Báo cáo ông Dư, chân
tôi buốt lắm, xin ông báo y tá cho xin thuốc!…
Tiếng chân đi vào rõ
dần, rồi cửa con xoạch mở:
- Anh báo cáo cái gì,
làm ầm lên thế!
- Thưa ông, chân tôi
tím lại buốt quá, xin y tá cho thuốc!
- Chờ đấy!
Cửa sổ nhỏ đóng rồi.
Bây giờ tôi mới để ý thoáng thấy chiếc lon 3 sao nằm trên một vạch trắng, trên
một miếng dạ đỏ nhỏ hình bình hành, gắn ở ve cổ áo, còn mới nguyên. Tôi lại nhớ
đến, tên Đại cũng chiếc lon mới toanh. Như vậy, dịp mồng 2 tháng 9 vừa rồi,
ngành công an lại cho lên lon. Thời chiến, có nhiều tình huống mới, tụi lãnh
đạo bộ chính trị phải mua chuộc phỉnh phờ tụi cán bộ cấp thấp, hạ tầng. Có thể
vì mới được lên thượng sĩ, nên tên Dư lại càng dễ tính hơn. Mỗi tháng cũng thêm
được mươi đồng.
Một lúc sau, cửa lớn
mở: Bà Dậu y tá. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy bà ta dạo này gầy hẳn đi, da xạm
lại, trong tay chân bà ta như con chão chàng, trắng nhờn nhợt. Trong khi đó,
ngược lại, bà ta cũng mở to mắt nhìn bộ xương của
tôi. Chắc hẳn bà ta
cũng chẳng lạ gì chuyện trốn tù của tôi hơn hai tháng trước. Bà sờ tay vào hai
mu bàn chân của tôi, dịu dàng hỏi:
- Chân anh làm sao tím
lại thế?
Tôi chỉ lắc đầu, tỏ vẻ
cũng không biết tại sao. Bà ta nói thong thả, chậm rãi:
- Cái này chỉ chích B1,
khỏi ngay. Nhưng, B1 bây giờ rất hiếm. Tôi sẽ đề nghị cho anh ăn cơm cám một
tuần.
Cuối cùng, tôi chả có
thuốc gì cả, nhưng được những lời thăm hỏi, an ủi về tinh thần. Điều làm tôi
hưng phấn nhất là thái độ của tên Dư, cũng như của bà Dậu, họ không có vẻ căm
ghét tôi đã đánh cán bộ. Chính điều này, lúc đó, tôi chưa nhận thức được đầy
đủ, nhưng đã là những yếu tố góp vào sự phân tích của tôi sau này, có phần thực
tế hơn.
Khi lấy cơm vào, cũng
như lúc trả bát, tôi phải bò. Tên Dư đã đóng chốt cùm phía này, và rút chốt cùm
phía sàn bên kia, đổi chỗ cùm cho tôi.
Hai ngày hôm sau, tôi
bắt đầu được ăn cơm….trộn cám. Về xà lim được 5 ngày, tôi đã có thể chậm chạp
đi lần theo tường ra lấy cơm, cũng như đổ bô.
Sau một tuần ăn cơm
cám, và phần khác, do sự nổ lực tập luyện hàng ngày, chân tôi đã bớt trông
thấy. Mỗi ngày mỗi rút nhỏ lại, đến bây giờ, tôi đã đi lại được. Cuộc sống lại
trở về phong thái của hơn 3 tháng trước đây. Như vậy, có thể nói rằng việc
quyết định trốn tù của tôi, đã đúng như tôi nhận định: Nếu không được, tôi cũng
không mất cái gì cả! Chợt cái lưỡi đẩy đưa vào khoảng trống ở hàm dưới, tôi
thầm nghĩ: Cũng có mất, 3 cái răng và một vết sẹo kỷ niệm ở tam tinh.
Đến hôm nay, tôi đã
nhận biết là 2 cô gái ở trong buồng số 9, không còn ở đó nữa. Thay vào đấy, bây
giờ, là một tù nhân nam. Tiếng cười điên rồ của buồng 10 cũng đã hết. Không
biết anh ta chuyển đi đâu, tình trạng của anh ta, sau khi tôi đi, diễn tiến thế
nào?
Anh Nguyễn Văn Căn, bị
kết án tử hình, đã ký đơn xin ân xá với tên cáo Hồ (?), tôi biết đây chỉ là một
hình thức chính trị, bịp bợm. Một cái khung sơn phết lòe loẹt đủ hình thức dân
chủ, nhân dân, chấp pháp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, quốc hội,
Công tố viện, luật sư, xin ân xá Chủ Tịch nhà nước, v.v… Tất cả chỉ để che đậy
cái “lò nấu xác”, một cái “lò sát sinh” không hơn không kém ở bên trong. Tuy
tôi chưa dám kết luận, nhưng nếu tôi đoán không lầm thì anh Căn đã bị xử rồi,
nhất là khi tình hình đang biến đổi sang thời chiến.
Nhân sự trong xà lim đã
thay đổi hết, ngay cả cán bộ trực xà lim cũng là những tên cán bộ khác rồi. Chỉ
hai tháng đi “cát xô” mà đổi thay nhiều thế.
Tôi cứ nằm vẩn vơ nghĩ
ngợi. Thỉnh thoảng một cơn gió nhè hẹ vương rải một mùi hương vừa ngọt, vừa
ngây ngất, nhắc nhở tôi mùa bàng chín của Hỏa Lò. Đột nhiên, cửa sổ nhỏ xoạch mở.
Tôi giật mình, nhìn ra, thoáng thấy cái môi vẩu nhọn ra như cái môi con cá
ngão, tôi đã biết ngay là tên Bằng. Bây giờ, cán bộ Hỏa Lò đối với tôi, cũng
như tôi đối với chúng, đã quen nhau, nhẵn mặt nhau quá rồi. Y chỉ nói cộc lốc
hai tiếng:”Đi cung!”, rồi cúi xuống rút chốt cùm, mở khóa mở cửa. Tôi vừa nhấc
chân ra khỏi cùm, vừa chuẩn bị tư tưởng lên phòng cung. Vì từ ngày tôi trốn đến
nay, đã hai tháng hơn mới gọi.
Ra tới hè. Trời! Sân xà
lim, bàng chín rơi từng đống. Tôi tập tễnh đi qua, mắt nhìn những quả bàng chín
vàng ngây, rẽ chân chim lăn lóc khắp sân. Tôi như ngụp lặn vào một trời ngất
hương nồng. Dứt khoát, lúc đi cung trở về, tôi phải tìm mọi cách, kiếm một hai
quả vào buồng để ngửi, hít cho đã đầy sự khát khao rồi…chén nữa.
Ra tới cổng trại chung,
cũng là phòng trực, ở hàng ghế lố nhố một số cán bộ và chấp pháp cả hình sự lẫn
chính trị, tôi đã thoáng thấy tên Thành. Y đừng dậy, ký vào sổ, rồi quay lại ra
hiệu tay cho tôi đi trước.
Nhìn sân ngoài của Hỏa
Lò, cái sân có giàn nho và rải rác một số luống hoa; đây góc này, góc kia cũng
từng đống đất mới vàng ệch, với những lổ tròn của miệng hầm cá nhân hoắm sâu
xuống lòng đất. Tôi có cảm tưởng, nhịp độ tù cũng như cán bộ Hỏa Lò thưa ra,
chắc cũng nằm trong chủ trương chung của thành phố là sơ tán. Số tù cho chuyển
gấp đi các trại trung ương đã đành, ngay số cán bộ ở các khâu, hình như cũng
tinh giảm, để trở thành những nhân lực chiến đấu, hoặc phục vụ chiến đấu.
Khi tên Thành dẫn tôi
vào buồng cung, trong buồng đã có tên Đặng ngồi sẵn; trên bàn vẫn có chiếc cặp
hồ sơ cố hữu. Điều tôi thấy hơi khác mọi khi là chiếc ghế đẩu dành cho bị can
để cách xa bàn của chúng hơn. Thông thường, trước đây chỉ cách bàn 50, 60 phân.
Bây giờ, phải xa hơn 1 m. Không những thế, từ lúc tôi vào buồng, hai tên cứ
chăm chú nhìn chân tôi, như soi mói với những ánh mắt vừa băn khoăn, vừa cảnh
giác.
Tên Thành cố tươi nét
mặt, vẻ xã giao:
- Lâu ngày, anh không
lên đây, anh thấy gì lạ không?
Câu hỏi không rõ ràng.
Ở buồng này có gì lạ? Hay ngoài sân? Bởi vì, cả hai nơi đều có lạ. Nhưng, để dễ
nói chuyện, và cho không khí đỡ căng thẳng, tôi chọn ngoài sân để trả lời:
- Thưa ông, tôi thấy
một không khí chiến tranh, vì tôi nhìn thấy những hầm trú ẩn cá nhân mới đào.
Hai tên đều gật gật cái
đầu như câu trả lời của tôi hợp lý theo ý chúng. Vì vậy, tên Đặng nghiêm nét
mặt dõng dạc:
- Đế quốc Mỹ đã bắn phá
tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chúng đe dọa cho nhân dân ta trở về thời kỳ đồ đá. Để
rồi xem, chúng có làm được điều chúng nói không? Rồi đây, nhân dân ta sẽ dạy
cho Mỹ một bài học.
“Tuy Mỹ giàu có, vũ khí
tối tân, nhiều phương tiện chiến tranh khoa học, nhìn bên ngoài, nhìn phiến
diện, ai cũng thấy mạnh lắm, và ngay bản thân Mỹ cũng lầm như vậy, khi nghĩ về
mình. Nhưng, nếu nhìn sâu, phân tích kỹ, không nhìn thấy những nhược điểm nội
tại to lớn ngay trong lòng xã hội Mỹ. Nghĩa là nó nằm ngay trong đầu của những
người Mỹ. Cho nên, đảng ta đã nhận định: Mỹ chỉ là một tên khổng lồ, chân bằng
đất sét”.
Ngồi nghe y nói, tuy
tôi không đồng ý hoàn toàn, nhưng về cơ bản, tôi cũng có nhiều điểm đồng ý với
nhận định của y. Mỹ, nói riêng, và thế giới tự do nói chung, to mà không mạnh,
vì đầy dẫy những mâu thuẫn. Vũ khí tối tân nào cũng phải được chỉ huy, sử dụng
bằng con người. Vậy, nếu con người đó không có lý tưởng, mà chỉ vì cuộc sống và
đồng tiền, thì còn nguy hại hơn. Vì, có thể sẽ bán, sẽ đưa vũ khí tối tấn đó,
cho kẻ thù bắn ngược lại mình.
Mỹ quên mất một điều.
Hễ người làm việc nước như lính tráng; cán bộ các loại, các cấp, v.v… mà có
nhiều tiền là không có lý tưởng. (Hễ thanh liêm là nghèo). Điều này rất biện
chứng như một nguyên tắc vậy. Sau này, càng về cuối thiên hồi ký này sẽ càng có
minh chứng, vì lúc ấy mới có nhiều sự việc thực tế để bổ sung cho lý luận thêm
sáng tỏ. Bởi vì, lý luận mà không có thực tế cũng như người có mắt mà không có
chân. Ngược lại, có thực tế mà không có lý luận, cũng chẳng khác gì người có
chân mà không có mắt. Cuối cùng, chẳng cái nào đạt được mục đích cả. Cả hai yếu
tố đều cần thiết, phải gắn liền với nhau một cách hữu cơ. Nhưng, cũng kinh qua
từ thực tế rút ra: Yếu tố “có chân” có tầm vóc lớn hơn “có mắt”.
- Chỉ có lý thuyết mà
không có thực hành, không những không đi được, mà rất nhiều khi rơi vào không
tưởng, hão huyền chỉ nói chuyện trên trời.
- Có thực hành mà không
có lý luận: Mắt mù nhưng có đôi chân, ít ra cũng còn mò mẫm đi được, nhưng chỉ
đi đến đâu thì biết đến đấy, tùy tiện may rủi.
Lý thuyết và thực hành
sinh động như sự sống của con người phải có hai yếu tố: Không khí và thực phẩm.
Yếu tố “không khí” cũng có tầm vóc lớn hơn yếu tố “thực phẩm”, vì có thể nhịn
thực phẩm hàng tuần, không chết; nhưng không có không khí trong mươi mười lăm
phút là….chết!
Tôi hiểu, tên Đặng nói
qua về Mỹ, cũng chỉ là một câu chuyện xã giao mào đề, chứ chúng gọi tôi lên
đây, dĩ nhiên, phải có một mục đích khác. Quả nhiên, mặt y trở nên lạnh lùng,
vừa mở mấy trang giấy hồ sơ, y vừa gằn giọng:
- Anh phải khai chi
tiết từ động cơ nguyên nhân đã dẫn đưa anh đến sự việc trốn tù. Anh kể lại từ
đầu, từng chi tiết, như anh tường thuật lại sự việc vậy.
Đã có nhiều kinh nghiệm
về kiểu cung kẹo này rồi, vì thế, tôi suy nghĩ và hệ thống hóa lại toàn bộ,
lược bỏ những chỗ nào thấy không có lợi, hoặc sẽ phức tạp lôi thôi, rắc rối sau
này. Tôi lần lượt trình bày lại sự việc. Đến đoạn đi tìm mũ, tên Đặng vẫy tay
ra hiệu cho tôi ngừng nói. Rồi, y mềm dẻo kích tôi về tâm lý:
- Anh hãy kể lại thực
chỗ này. Chuyện trốn tù của anh cũng đã xong rồi, nhưng anh phải nói cho hợp
lý. Anh nói, tai anh nghe có thông, người khác mới nghe được chứ! Anh vào khu
công an là để kiếm súng, kiếm vũ khí, người ta mới nghe được. Chứ chỉ vì cái mũ
mà phải mò vào chỗ hiểm nguy như vậy, thật thậm chí vô lý!
Nghe y lý luận đẩy đưa,
tôi cười thầm trong bụng. Ngay từ những ngày đầu, khi mới bị bắt vào Hỏa Lò,
tôi cũng không ấu trĩ sa vào cái bẫy tầm thường như thế. Dù tôi thực có ý định
vào khu công an vũ trang để tìm vũ khí, tôi cũng không khai, không mắc bẫy;
huống chi, bây giờ đã trải qua biết bao trận thử lửa, đấu trí với chúng hai năm
rưỡi trời. Bao nhiêu lỡ lầm mới có những bài học ngày nay. Trước đây, nếu khai
một chi tiết gì không thật, chúng nó đập bàn, đập ghế nạt nộ, quát tháo như
nước sôi lửa bỏng rằng “nói láo”, “bịp bợm”, “không hợp lý, hợp tình chút nào”,
v.v…tôi sinh ra lo lắng. Đôi lúc hớ hênh, lúng túng lại lòi đuôi ra cho chúng
nắm được và từ đó chúng phanh phui ra sự thật. Nhưng giờ đây, tôi hiểu rằng,
chuyện chúng nạt nộ thế nào cũng mặc chúng; khi đã cân nhắc, tính toán phải
khai thế nào, thì cứ thế mà khai. Bởi vì, trong thực tế, có nhiều sự việc mới
nghe qua, thật vô lý, không hợp tình, nhưng lại thực 100%. Ngược lại, có những
sự việc nghe ra rất hợp tình, hữu lý, nhưng lại hoàn toàn là giả dối. Do đấy,
bảo thế nào là vô lý, thế nào là có lý, nhiều khi thật cũng khó xác định.
Trên đây, cũng chỉ là
lý luận, phân tích một vài góc cạnh của những việc chung ở đời. Chứ với công
an, nhất là công an Cộng Sản, khi mình đã lọt vào tay chúng, chớ có nói chơi,
không dễ gì qua mặt chúng được. Trong quyền hạn ngập mình của chúng, nhiều sự
việc chúng điều tra tận nơi, từng ngóc ngách chi tiết, chúng mới tin. Vì vậy,
muốn qua mặt chúng, phải đòi hỏi có điều kiện, chứ không hẳn đơn giản như lý
luận.
Tóm lại, sự việc trốn
tù, tôi cứ thực tế tuần tự khai báo sự thật. Chỉ có đoạn sau khi ra khỏi Hỏa
Lò, tôi khai là sẽ tìm đường về Nam với gia đình bố mẹ, chứ không nói ý định
thay vì về miền Nam, lại ngược về phía Bắc, v.v… để đánh lạc hướng truy lùng của
công an… Và, tôi vẫn khăng khăng là tôi thích xã hội chủ nghĩa. Nhưng, cách
mạng không tin, nên tôi đã buồn chán tự tử. Tự tử không được, tôi mới tìm cách
trốn…..Thế mà, phải cả buổi sáng và suốt buổi chiều hôm ấy, mới khai báo xong
vì chúng không tin và truy hỏi nhiều.
Hai hôm sau, chúng lại
gọi lên, bắt tôi ngồi viết tường thuật lại chi tiết sự việc. Tôi cũng phải viết
ròng rã hai ngày trời mới xong.
56. Những sai lầm của thế giới tự do…
Hôm nay là Chủ Nhật. Ngồi trong xà lim không nhìn thấy
trời, ánh sáng hắt vào từ khung cửa sổ mờ mờ, âm u như không có mặt trời. Không
khí ẩm ướt, lành lạnh của những ngày cuối Thu. Tôi nằm nghĩ suy, tính toán tìm
cách gì để chống cái lạnh của mùa Đông sắp tới. Tôi vẫn băn khoăn lo lắng nhất
là đôi chân. Ở trong cùm, năm nào chân cũng bị cước, ngứa buốt suốt cả mùa
Đông. Cuối cùng, tôi thấy chỉ có một cách duy nhất là khâu một đôi vớ thật dầy
bằng những mảnh giẻ chùi, ở nhà tiêu trong buồng tắm. Vậy, ngay từ hôm nay, tôi
lại bắt đầu tìm nhặt giẻ để chuẩn bị cho đôi “bít tất” mùa Đông. Mặt khác, tôi
lại phải kiếm một cái gì để làm “con dao” nhỏ. Con dao nhỏ trước, đút trong ve
áo đã mất khi trốn tù rồi.
Tôi đang ngồi nhìn hai
bàn chân của mình, bây giờ đã bé lại, lồi rõ 4 cục xương mắt cá chân. Từng
miếng vảy đen xám bong ra, trông như con chó ghẻ rụng hết lông, vừa sần sùi,
vừa loang lổ, sờ cờn cợn thấy ghê cả tay. Chợt, tai tôi thoáng nghe tiếng bước
chân xèn xẹt, và cửa sổ nhỏ buồng tôi xịch mở. Giọng Quảng Nam của mụ Hoa, nghe
như tiếng cua bò trên mâm đồng:
- Anh này chuẩn bị đi
cung!
Rồi mụ ta cúi xuống rút
chốt cùm. Cửa mở, tôi theo mụ ra sân, vừa đi vừa nghĩ ngợi băn khoăn: Hôm nay
là Chủ Nhật, phải có chuyện gì đặc biệt nên chúng mới gọi tôi. Tôi tự hiểu là
tâm trạng mình cứ hay thấp thỏm lo sợ, nhất là trong những khi chúng gọi bất
ngờ như thế này. Như, biết đâu, đường dây “M” bị lộ? Biết đâu “Z5” sa lưới?
Biết đâu, chúng đã điều tra xác minh, đã rõ ràng sự việc của tôi ở trong Nam,
v.v… Hàng chục cái “biết đâu” kéo dài từ hơn hai năm nay rồi, và có lẽ sẽ đeo
đuổi tôi suốt những ngày, còn ở trong tay chúng. Mải suy nghĩ trên đường đi,
đầu tôi đã ướt hết vì mưa bụi, tôi cũng không hay. Nhìn những hạt mưa phùn li
ti dẫy dọn, lúc xọc sang phía bên này. Lúc xiên sang phía kia hàng loạt, theo
từng cơn heo may nhè nhẹ, như những giọt nước mắt mùa Thu mến cảnh, mến người,
luyến lưu từ giã, nhường lại đất trời cảnh vật cho Đông về.
Ra tới phòng trực, tôi
thấy chỉ có tên Thành ngồi đấy. Như mọi khi, theo hiệu tay của y, tôi đi về
phía sân giàn nho, theo con đường nhò, giữa những luống hoa hồng, cúc, v.v…
Trời mưa bay bay, không
khí lành lạnh! Những bông hồng nhung tươi thắm đang lắc lư với gió. Những hạt
mưa nho nhỏ, đọng lại trên những cánh hoa như những hạt xoàn trắng to, nhỏ đính
trên nền nhung đỏ càng long lanh, dưới ánh nắng nhạt trong mưa bay. Một làn
hương thoang thoảng, nhè nhẹ, vương vương gợi cho tôi một ý tưởng: tại sao Hỏa
Lò là một trại giam, nơi cùm kẹp,
xiềng xích tội nhân đêm
cũng như ngày, chỉ toàn những tiếng rên la thảm khốc, đắng cay tràn lối của
kiếp tù đầy…..lại có những luống hoa đủ loại tuyệt vời như thế? Phải chăng,
chúng dùng hoa để làm vơi dịu nỗi thương đau của những người cùng khổ? Hay là,
như thông thường của người đời, những cái gì xấu xa thì lại được bọc bằng những
vải vóc cao sang đắt tiền? Vật càng xấu, cái bọc càng cần phải đẹp!
Vì là ngày Chủ Nhật nên
quang cảnh ngoài sân của Hỏa Lò thật vắng vẻ. Nhưng khi bước chân vào phòng
cung, tôi thấy lố nhố 6, 7 người. Tôi ngạc nhiên, vì thấy mấy người lạ hoắc,
lại có cả máy ảnh; chỉ có tên Thành và Đặng là chấp pháp tôi đã biết. Còn 4, 5,
người kia, chắc là ở nơi khác đến, tôi chưa hề thấy mặt bao giờ. Đã ở mấy năm
trường, bất cứ ai dù tôi không gặp trực tiếp, nhưng ra vào, đi lại nhiều lần,
tôi cũng phải thấy dáng quen quen, nếu là người đã làm việc ở Hỏa Lò.
Những người lạ mặt ngồi
ở một ghế dài, mặt thật lạnh lùng, với những cặp mắt gườm gườm soi mói. Tên
Thành chỉ ghế cho tôi ngồi, rồi y mở một gói giấy báo trên bàn, vừa nói:
- Hôm nay, anh phải
diễn lại tất cả những thái độ, cử chỉ, động tác hôm anh trốn tù.
Y đưa cho tôi 2 củ
khoai lang và nói:
- Anh ăn tạm 2 củ
khoai, rồi bắt đầu!
À ra thế! Bây giờ tôi
mới hiểu. Nhưng, tôi cũng không ngờ chúng đặt vấn đề quan trọng như thế. Có lẽ
chúng bắt tôi diễn lại cảnh trốn, để vừa dùng làm chứng từ buộc tội sau này,
vừa làm tài liệu rút kinh nghiệm cho chúng.
Sau đó, tất cả các chi
tiết trong vụ đào thoát “bất thành”, tôi phải lần lượt diễn lại. Có một sự việc
tôi buồn cười và nhớ nhất là: Khi đến chỗ tôi phải lấy thế, dùng cú đòn chặt
gáy, tên lạ mặt ngồi đóng vai Đỗ Đình Hạ chấp pháp, cứ nhấp nhổm sợ sệt không
yên, mắt lấm lét sợ tôi làm thật. Tôi buồn cười là vì, nhìn lại thân hình mình,
một người ốm tong teo, khẳng khiu, so với y, một tên khỏe mạnh đường đường “một
đấng nam nhi”. Thế cho nên, người ta chỉ sợ bóng, sợ vía là nhiều. Nghe người
ta đồn, nghe người ta nói lại, cứ tưởng như ghê gớm lắm; sự thực, nhiều sự việc
không đến nỗi như họ tưởng đâu.
Chúng nó chụp tôi rất
nhiều kiểu ảnh, từ lúc đầu, cho tới lúc tôi dẫn xe đạp ra khỏi cổng Hỏa Lò. Với
cách đứng đợi, cách vào lấy thẻ, cách dẫn xe ra cổng, cách cười với tên công an
vũ trang đứng gác, cho tới khi gặp tên Lê Phó Giám
Thị và tên Điền,
v.v…Chúng chỉ “không bắt” tôi diễn cái cảnh khi tôi bị bắt lại, bị đánh tơi bời
hoa lá.
Vậy mà, cũng đến 12 giờ
trưa mới xong, chúng cho tôi về xà lim. Tôi vừa đi vừa nghĩ việc trình diễn như
đóng kịch vừa rồi. Tuy là ngày Chủ Nhật, tụi công an vũ trang, đa số là tuổi 20
hay ngoài, cũng ra theo dõi tôi diễn lại. Lợi dụng lúc diễn lại vai trò, mắt
tôi vẫn không ngừng nhìn khắp đây đó, để xem có cái gì đem về mài thành con dao
nhỏ, mà tôi đang cần không. Mãi đến lúc chúng nghỉ giải lao, tôi xin vào đi
giải trong nhà xí của bọn công an vũ trang, tôi mới bẻ được đầu một miếng sắt
rỉ, một chiều khoảng hai phân và chiều kia gần một phân. Thế là tôi đã có lại
con dao tôi đã mất, cũng thấy vui vui trong dạ.
Về tới cổng xà lim,
chợt tôi nghe tiếng loa léo nhéo nói về miền Nam: Nào là, Nguyễn Văn Thiệu đang
củng cố uy quyền, đưa phe cánh vào những khâu chủ chốt,…..Nào là, sau khi lập
nền đệ nhị Cộng Hòa…kêu gào Mỹ tăng cường viện trợ để chống đỡ với tình hình
càng ngày càng nghiêm trọng, v.v…Tôi nghe, lòng vẫn lửng lơ, man mác bâng
khuâng như chiếc cửa của một căn nhà trên lưng đồi vắng. Một cánh cửa đóng hững
hờ, còn một cánh mở. Cánh mở để nhìn thấy, suy lý, dựa trên những cơ sở thực tế
của miền Nam, của miền Bắc, của phe Cộng Sản và thế giới tự do: Ông Thiệu đâu
phải là đối thủ của Cộng Sản miền Bắc. Còn cánh đóng: Dù hiểu như vậy, nhưng
hãy đè chặt trong lòng, miễn bình luận; vì ở trong một cái thế là nói ra càng
tan rữa lòng người, chỉ có cái lợi cho kẻ thù mà thôi.
Tôi đã vào buồng, đóng
cùm, đóng cửa rồi, lòng tôi vẫn nặng chĩu những suy tư về đất nước, về cuộc
đời.
Tôi cứ nhắm mắt, mặc
cho đầu óc mình bềnh bồng trôi nổi đó đây, suốt về miền Nam, lại ra miền Bắc,
lại chạy về Nam…..Tôi nhìn toàn bộ khung cảnh xã hội miền Nam. Tôi nhìn toàn bộ
khung cảnh xã hội miền Bắc.
Xã hội và con người có
nhiều sự việc, về một phía, thật bao la phức tạp muôn màu, nghìn sắc; nhưng về
phía khác, cũng rất giản đơn. Nếu ai đó, không bị mờ mắt vì địa vị, vì tiền
bạc, nghĩa là không bị cái bả quyền lợi cá nhân che lấp mắt, đều nhìn thấy rõ
rành rành.
Muốn hiểu vấn đề xã
hội, nhiều khi xét từ một tập thể, có khi từ một cá nhân; bởi vì, có nhiều điều
liên quan, tương tự, đôi khi giống nhau như một khuôn đúc. Điều chính, cá nhân
là một đơn vị. Một đơn vị không thể tách, chẻ nhỏ hơn, để xây dựng nên xã hội.
Nhìn về xã hội miền
Nam, nhìn về thế giới tự do, điều nổi bật nhất, cái gốc cổ thụ để sinh đẻ ra
trăm nghìn cái khác, là đã để chủ nghĩa cá nhân lấn áp tập thể,
lấn át xã hội, lấn át
Dân Tộc, Tổ Quốc. Đấy là đầu nguồn để sinh sôi, nảy nở ra ngàn đường, trăm
nhánh; đến nỗi nhiều người khi nhìn một sự việc nào đó, tưởng như hoàn toàn
không có liên quan gì đến cái gốc, là chủ nghĩa cá nhân lên cao. Nhưng, nếu
người ta chịu khó mày mò truy nguyên, từ cái này sang cái kia, rồi cuối cùng về
đến cái gốc của nó, chính là chủ nghĩa cá nhân; nhiều người sẽ phải ngơ ngác,
giật mình.
Vì vậy, nếu thấy một
người lính không có tinh thần chiến đấu; một người công chức tham nhũng, thái
độ cựa quyền; người dân lạnh lùng bàng quan (nhất là người dân đó nhìn người
thương binh lủi thủi, lặc lè trên đường); đến cả người thanh niên trốn quân
dịch, v.v…; đừng ngạc nhiên lắm. Chính đó là những cái quả, của cái nhân là chủ
nghĩa cá nhân mà thôi.
Từ cái gốc căn bản sai
lầm đó, sai lầm này đẻ ra sai lầm khác, cứ như thế chất chồng. Xã hội đầy rẫy
những hiện tượng tắc trách, thiếu trách nhiệm trong công tác; hời hợt, cưỡi
ngựa xem hoa đối với công việc mình phải làm. Trong hàng ngũ cán bộ của chính
quyền ở mọi lãnh vực, từ hành chính, chính trị cho đến quân sự, v.v…loại cán bộ
này chiếm đại đa số. Những hiện tượng này chỉ biến mất khi người đứng đầu quốc
gia thực lòng vì dân vì nước lấy bản thân mình làm gương sáng, mang tâm hồn và
khí lực ngày đêm xả thân lo lắng, để có một đội ngũ cán bộ trung ương được đào
tạo, thử thách nhiều công phu.
“Vạn sự khởi đầu nan!”,
cần sao gây được những hạt giống tốt lúc đầu. Tuy nhiên, phải mang tâm huyết
chịu đựng vất vả, gian khổ để tìm được chỗ khơi nguồn. Khi nguồn đã được khơi,
sau đấy tự nó sẽ chảy thành sông. Tất nhiên còn đòi hỏi nhiều vấn đề khác để hộ
trợ, cũng như khích lệ và thúc đẩy, để chủ trương của mình được hiện thực. Chỉ
mới sơ khởi như thế, và nhìn về miền Nam lúc này, bộ mặt nào làm được như vậy?
Ngay đến cụ Ngô cũng còn một số sai lầm. Nếu cụ còn sống, dù cũng chả làm gì
được miền Bắc, nhưng chắc miền Nam đã không mất. Huống chi, trong khi Mỹ là
người anh cả, là nước chịu trách nhiệm vì mình và vì người, giúp đỡ các nước
anh em trong thế giới tự do, cũng đã mắc 3 sai lầm trầm trọng:
- Thứ nhất: Bắt những
nước được giúp đỡ phải theo những quy chế, những khuôn thước dân chủ tự do nhất
của thế giới hiện nay là nước Mỹ.
- Thứ hai: Giúp người,
nhưng lại vì quyền lợi của mình nhiều hơn.
- Thứ ba: Quá nghiêng
nặng nề về đồng tiền và vũ khí.
Từ ba điểm trên, đã đẻ
ra rất nhiều những sai lầm nhỏ khác, để cuối cùng hầu như đa số các nước mà Mỹ
giúp, đã không đạt được kết quả, không đạt được mục đích. Và, ngay nước Mỹ,
không những không được người ta biết ơn, còn bị chửi là thực dân mới, chỉ vì tư
lợi thương mại, tìm thị trường tiêu thụ, v.v…
Sau đây, ta khái niệm
mổ xẻ, phân tích từng điểm:
Điểm thứ nhất: Nói về
nền tự do dân chủ thực sự trong thế giới loài người hiện nay, không ai có thể
phủ nhận được nước Mỹ là một trong những nước có nền dân chủ thực sự tiên tiến.
Từ đấy, ta thấy chế độ Cộng Hòa Dân Chủ của Mỹ là chế độ tiến bộ của loài người
hiện nay. Nhìn nền dân chủ ưu việt của những nước Anh, Pháp, Mỹ, v.v… những ai
thực lòng vì dân vì nước mà chẳng mong muốn nhân dân và đất nước họ cũng được
hưởng một nền dân chủ, tự do như thế.
Muốn được như vậy, phải
cần có một điều kiện, đó là đất nước ấy phải có một số hoàn cảnh giống như nước
Mỹ, nước Pháp, nước Anh. Bởi vì, thời đại ngày nay, thế giới đang đảo điên,
nghiêng ngửa với cái nạn Cộng Sản. Cộng Sản tàn bạo, khát máu nhưng lại che mắt
thế giới bằng cách khoác lên những bộ mặt của Chúa Jesus, của Phật Thích Ca,
của Mohamed, v.v… với những đôi mắt giả nhân giả nghĩa từ bi ngấn lệ thương
đồng bào, đồng loại; mồm méo xệch cứ lẩm bẩm những lời tha thiết cứu nhân độ
thế; làm cho biết bao nhiêu người ngộ nhận, để rồi tán gia, bại sản, tàn lụi cả
cuộc đời…
Hơn nữa, như một công
lý, mỗi người một khác nhau, mỗi nước một khác biệt. Cơm, gạo, bột là những món
ăn tốt để nuôi sống con người. Món ăn bổ và ngon như thế đấy, nhưng người ăn
mức độ cũng khác nhau. Một người khỏe, ăn 1kg, cơ thể không sao; một người đang
có bệnh, ăn 1kg, “ngủm”!.
Vậy mà Mỹ, như cơ thể
của một người khỏe, lại muốn bắt một nước, đang như một người bệnh, ăn những
món ăn giống mình và nhiều như mình; rồi cứ bảo phải ăn đi, nó bổ lắm. Nó dân
chủ lắm, nó dân quyền lắm, v.v…Thử hỏi, nước đó sẽ ăn làm sao được. Ăn thì
chết! Không ăn, Mỹ bảo là phản dân chủ, là độc tài, là… bướng; nay đe cắt giúp
đỡ, mai đe cắt viện trợ, v.v…
Còn nói về tự do, dân
quyền: Để làm sáng tỏ vấn đề này một cách đơn giản, Khổng Phu Tử, hơn hai ngàn
năm xưa, đã nói: “Nói mà không thí dụ, và thí dụ mà không đơn giản, thì không
sáng tỏ”.
Thí dụ hỏi một người:
- Anh có biết trái cam
không?
Người đó trả lời:
- Chưa hề trông thấy
trái cam bao giờ!
Vậy ta hỏi tiếp:
- Thế anh có biết trái
bưởi không?
Người kia vui vẻ trả
lời là anh ta không lạ gì trái bưởi.
Lúc đó, ta chỉ cần nói
đơn giản:
- Trái cam giống hệt
trái bưởi, nhưng bé hơn và ngọt hơn!
Chỉ cần đơn giản như
thế, người kia hiểu ngay về trái cam. Chứ ta tuyệt đối không nên cầu kỳ, dùng
danh từ hoa mỹ, triết học giải thích nào là: quả cam màu vàng, hình cầu, được
bọc một lớp vỏ mỏng, có những túi dầu để duy trì bảo vệ nước cam ở trong được
tươi lâu, bên trong có những cái bọc hình bán nguyệt, trong cái bọc này, v.v…và
v.v…
Nói nhiều, dùng những
triết này, thuyết kia đẻ ra vẻ giai cấp trí thức; cuối cùng người kia chả hiểu,
chả biết anh nói cái quái gì cả.
Vậy, lý luận về tự do
và dân chủ, cụ thể là ở miền Nam Việt Nam lúc này, tôi cũng xin lấy một thí dụ
đơn giản để làm sáng tỏ.
Ở cùng chung một căn
nhà có 4 người là A, B, C, và D. Lúc hòa bình, không có chuyện gì cả, tình
người và tình đồng bào thắm thiết, nào chào hỏi, nào hàn thuyên, tay bắt mặt
mừng rối rít mỗi khi gặp nhau. Mọi người tha hồ tự do. Anh này muốn đi chơi đâu
mặc anh; anh kia nấu nướng ăn gì cũng kệ; anh khác ngủ đến 11, 12 giờ trưa đó
là quyền của anh; v.v… Mỗi người đều tự do làm theo ý mình. Nhưng sau đó, vì
một lý do nào đó, do những điều kiện và hoàn cảnh tạo nên, 4 người này trở
thành kẻ thù không đội trời chung của nhau, và vẫn phải cùng ở một căn nhà. Lúc
này, mỗi anh thủ một con dao, rình cơ hội để hạ đối phương để chiếm toàn bộ
ngôi nhà, và vì sự sống còn của mình.
Vậy, lúc này, tình
trạng sẽ ra sao? Mọi người có còn được tự do, ăn lúc nào thì ăn, ngủ lúc nào
thì ngủ, thích chỗ nào thì nằm chỗ đó nữa hay không?
Lúc này, ai cũng thấy
sáng tỏ là tự do trong cảnh đó, là tự do chết!
Căn nhà Việt Nam lúc
này ra sao? Một nửa nhà là miền Bắc, Cộng Sản đã chiếm đóng; nửa còn lại là
miền Nam, Cộng Sản đã đặt được một bàn chân vững chắc là:”Mặt Trận Giải Phóng”.
Ngay trong chính quyền Sài Gòn, cũng đầy dẫy những người của Cộng Sản.
Tóm lại, căn nhà Việt
Nam giống hệt như căn nhà tôi đã trình bày thí dụ ở trên.
Bây giờ, ta tự do cho
biểu tình, hội họp, đảng đối lập, v.v… và v.v…như khuôn thước của xã hội Mỹ,
miền Nam sẽ ra sao? Một cậu bé ngây thơ 15, 16 tuổi cũng thấy ngay là miền Nam
mất đi, không có gì là lạ nữa. Nếu có lạ là lạ tại sao miền Nam lại chưa mất!
Đó, nếu báo chí và
tuyên truyền chỉ can đơn giản trình bày như vậy với quần chúng, riêng về góc
cạnh tự do, như trên, lúc đó, nhân dân sẽ ý thức được ngay. Rồi, hàng trăm góc
cạnh khác của xã hội cũng trình bày đơn giản như vậy để hỗ trợ, tác động qua
lại, nhiều việc sẽ tốt đẹp hơn nhiều.
Thế mà, các cơ quan to
lớn chuyên nghiên cứu vể xã hội và về riêng Việt Nam với những quý vị học giả
uyên thâm của Mỹ, v.v… lại chưa đánh giá đúng mức, để rồi bắt con bệnh Việt Nam
“ngốn” cho bằng người khỏe như “vâm” là Mỹ. Không ăn, các ngài bực mình, la ó
là độc tài, là phản dân chủ, v.v…
Điểm thứ hai: Ngay cá
nhân với cá nhân, nếu giúp đỡ người khác, tất nhiên tôi chấp nhận là ở đời,
phải hai bên đều có lợi. Nhưng, nếu cái lợi của phía người giúp đỡ lớn hơn, lấn
át cái lợi của người mà mình giúp, lúc đó sẽ ra sao? Tình cảm và lòng biết ơn
của người nhận sẽ giảm; đôi khi còn không biết ơn nữa. Thậm chí, cá biệt, người
làm ơn không biết xử thế khéo, còn bị người được giúp đỡ căm thù. Nghĩa là, họ
thấy họ bị lợi dụng. Như thế, còn làm sao gắn bó, tin cậy nhau nữa. Người được
giúp, lúc đó, nếu không thủ đoạn, tính toán, giữ thế với người giúp, thì cũng
quay ra buồn chán, tiêu cực, không thể đạt được ý nguyện lúc đầu của người muốn
giúp đõ, nghĩa là không đạt mục đích.
Vậy, một quốc gia, với
một quốc gia khác, trông bề thế hơn, tưởng như phức tạp hơn, nhưng cái nhân,
cái gốc cũng như vậy thôi. Do đó, Mỹ đừng lạ, và đừng buồn, tức khi thấy những
nước mà mình giúp lại vô ơn, đôi khi còn chửi lại mình, hoặc trở thành kẻ thù
của mình.
Điểm thứ ba: Tôi thừa
nhận trên cõi đời này, đồng tiền mua tiên cũng được, nhưng với điều kiện là
phải biết cách. Nếu không, nhiều khi đồng tiền không những không giải quyết
được vấn đề, mà còn bị người lấy tiền, nhận tiền, cười chê người cho tiền nữa.
Mỹ là “người” có nhiều
tiền, chỉ thấy giá trị tuyệt đối của đồng tiền, chứ không thấy những khía cạnh
phức tạp khác. Thí dụ: Một người đang hì hục xây một căn nhà. Vì nghèo nên
thiếu thốn vật liệu; anh ta cứ đầu tắt mặt tối, ngày cũng như đêm, mưa cũng như
nắng, đem sức cần lao để xây dựng căn nhà; nhưng thấy khó thành, hoặc không
biết đến bao giờ mới hoàn thành nổi. Mỹ thấy vậy, mang tiền, mang vật liệu đến
giúp. Vì không khéo, lại không nghiên cứu từ thực tế, cần những gì về nhiên
liệu. Căn nhà kiểu ấy, chỉ cần vật liệu là cây, Mỹ lại đem sắt đến, cứ chở đến
ùn ùn. Anh chủ nhà lúc đó sẽ ra sao? Làm, thì không được, để thì phí, hỏng!
Trong lúc đó, Mỹ cứ đưa đến, nói tốt lắm, phải tiếp tục xây mạnh đi. Anh chủ
nhà hoang mang. Nếu cứ để từ từ, anh ta còn có thể tốt theo kiểu suy nghĩ, sáng
tạo của anh ta. Đằng này, lại cứ thúc giục, khiến anh ta thấy cứ để đống nguyên
liệu đấy thì không ổn; vì như vậy là từ chối sự giúp đỡ, nên anh ta phải tìm
cách chuyển đi chỗ khác, rồi nói dối là đang nỗ lực làm, xây dựng. Anh ta lúc
này không còn tập trung hết tinh thần vào việc xây ngôi nhà, vì quá mệt mỏi
tính toán trả lời sao về những vật liệu mà Mỹ giúp, đâu còn những giây phút cần
cù, miệt mài trước dây. Vả lại, bây giờ, lại sẵn đồng tiền, anh ta phải tìm
cách giải trí. Lúc đầu, lâu lâu mới giải trí một lần; sau quen đi. Như thế,
cuối cùng căn nhà vẫn chưa xây được, mà tinh thần anh ta trở nên tiêu cực,
biếng nhác. Như vậy, nhìn về phía, Mỹ đã gián tiếp làm hại những người mà Mỹ
giúp.
Tóm lại, phải biết cách
dùng đồng tiền thì, uy thế của nó mới phát huy một cách huyền diệu. Không biết
dùng, kết quả sẽ không những ngược lại, mà còn làm hư hỏng con người.
Còn về vũ khí: Tôi nhớ
lại những năm còn ở miền Nam. Tôi xem những buổi duyệt binh, với những cỗ pháo
to, những xe tăng lớn và những máy bay phản lực, Phi đội “Lôi Hổ” của Đài Loan
gầm rít biểu diễn trên bầu trời Sài Gòn năm 1960. Rồi báo chí, đài phát thanh
nói Mỹ có nhiều loại vũ khí nguyên tử. Nào là, chỉ một phần mười kho vũ khí
nguyên tử của Mỹ nổ cũng đủ làm tan trái đất. Nào là, Mỹ đang nghiên cứu chế
những loại bom ánh sáng, tia “laser”, v.v…
Lòng tôi khi ấy dậy lên
một niềm tin tưởng to lớn, vững chắc vào thế giới tự do. Tôi tin tưởng gần như
chắc chắn là sức mạnh của các loại vũ khí như thế, thừa sức đè bẹp lũ Cộng Sản
khát máu.
Nhưng bây giờ, khi đã
đi vào thực tế, tôi có điều kiện để nhìn, không những cả 4 mặt của một sự vật,
mà còn nhìn được cả phía bên trong của sự vật đó. Sự cọ sát giữa suy lý, nhận
thức của mình khi ấy thật là ấu trĩ, ngây thơ. Xét đoán một sự vật, một vấn đề
chỉ đứng từ một góc độ, rồi cứ vỗ ngực khẳng quyết với cái hiểu non nớt của
mình; không thấy được rằng: Bất cứ loại vũ khí tối tân nào cũng phải do con
người chỉ huy và sử dụng. Vì vậy, trừ khi lực lượng quá chênh lệch: một bên 10,
một bên 5; hoặc bên này 100, bên kia chỉ có 10 thì không kể. Còn thông thường,
chỉ xấp xỉ hơn nhau ít chút một 8, một 10; bên nào có yếu tố tinh thần hầu như
bên ấy thắng. Do đấy, yếu tố tinh thần mới quyết định thắng bại. Ngoài ra, nhìn
tổng quát cái thế và điều kiện của thế giới ngày nay, tôi dám khẳng quyết là
bất kể một nước nào có vũ khí nguyên tử để gây thành Thế Chiến Thứ Ba, thì kẻ
đó tự sát.
Từ đấy suy ra, các chiến
lược gia nào chỉ nặng về vũ khí (làm sao để chế ra loại tối tân hơn, nhiều hơn
đối phương…) là có mặt sai lầm. Thực tế, chỉ cần đòi hỏi vừa đủ để làm thế kiềm
chế nhau thôi; và hãy chú ý về loại vũ khí chiến thuật thông thường có kỹ thuật
cao, để sử dụng trong chiến tranh cục bộ, hoặc khu vực là cần thiết. Điều quan
trọng và chính yếu nhất vẫn là phải chú ý về mặt nhân sinh và xã hội.
Như tôi đã trình bày ở
trên, đây không phải là một tác phẩm tư tưởng, lý luận, nên không được phép dài
dòng; nhưng dựa trên những cơ sở biện chứng, tôi thấy Liên Xô dù có mạnh hơn
Mỹ, cũng không bao giờ dám đem quân sang đánh Mỹ, hay Anh, Pháp cả. Đó là một
điều chắc chắn, trừ phi Liên Xô không phải là nước Cộng Sản nữa. Kim chỉ nam
của họ là dùng áp lực tối đa bên ngoài, xúi dục kích động người dân của nước ấy
đứng lên lật đổ chính quyền. Đôi khi cao nhất cũng chỉ dùng một nước Cộng Sản
đàn em tiến hành chiến tranh cục bộ, đem quân sang một nước khác, để giúp một
bộ phận nhỏ người bản xứ đứng lên lật đổ chế độ đang cai trị mà chúng bảo là
thối nát, và chúng làm cách mạng, v.v…Cứ như vậy, chúng tiến hành nhiều nơi
trên thế giới, cho tới khi màu đỏ loang lỗ khắp địa cầu, lúc dó có trời cũng
không cứu nổi nước Mỹ khỏi tự nhiên thành Cộng Sản.
Vậy, Mỹ hãy lo ngay cho
xã hội Mỹ, hãy làm sao cho người dân Mỹ hiểu đầy đủ về cái cảnh nếu phải sống
dưới chế độ Cộng Sản sẽ bị o ép toàn diện. Mọi người lam lũ lầm than, không có
một chút tự do, con người như con vật là chính. Chứ cứ tập trung tâm tư, khí
lực để thi đua với Liên Xô, để rồi bị con dao đâm từ phía sau, tự trong lòng,
lúc đó, đã muộn rồi!…
57. Những giọt nước mắt… kịch!
Miên man chìm đắm trong mối tơ vò tư tưởng, bỗng nghe chốt
cùm rút đánh xoạch một tiếng, tôi giật mình như choàng tỉnh một cơn mộng ngày.
Thì ra, đã đến giờ lấy cơm chiều. Mải say sưa trong suy tư đến quên cả cái đói
chờ cơm! Như vậy, quả thực tôi cũng thấy mình đam mê quá. Vấn đề tôi vừa trình
bày, cũng đã lôi cuốn chính tôi nhiều, chứ hầu như khó có một cái gì làm tôi
suy nghĩ đến độ quên được, sắp tới giờ cơm; nhất là lúc sau này tôi cứ thấy đói
luôn. Có lẽ, thời gian ở “cát xô”, vì bệnh tật đau đớn, người hình như nằm một
chỗ không xê dịch, nên tuy ăn uống có thiếu thốn hơn, chỉ vừa đủ sống, nhưng
tôi cũng không thấy đói lắm. Bây giờ, trở về xà lim đã gần một tháng, cơ thể
dần dần bình phục lại, kể cả tinh thần sau vụ trốn không thành cũng dần được ổn
định; vì thế, cơ thể tôi càng đòi hỏi ăn quá chừng. Đến cái độ, chuyện cung
kẹo, tin tức tình hình trên đài mỗi ngày mỗi diễn tiến gay cấn như: “…Mỹ sắp
đem quân chiến đấu vào miền Nam, các phái đoàn quân sự cao cấp của Liên Xô đến
Hà Nội…”, nói chung tình hình đang ngày càng trở nên căng thẳng, hầu như tôi
mặc kệ!
Tôi cũng hiểu rằng tình
hình chính trị bên ngoài có tác dụng trực tiếp đến sinh mệnh đời mình, nhưng
điều đó vẫn còn xa. Trước mắt, hàng ngày hàng giờ, là cái đói hành hạ dày vò cơ
thể tôi. Hầu như, hàng năm, tôi khao khát thèm một bữa no, nghĩa là giá bất cứ
có cái gì cho vào dạ dày cho căng căng một chút, để xem “cái no”…nó ra làm sao?
Nhưng, ngày nào cũng như ngày nào, bữa cơm đến, chưa ăn, vừa quay đi quay lại
một cái, đã hết rồi; chưa thấy tí gì trong bụng cả. Bụng muốn ăn đến ba, bốn;
mà chỉ có một. Lại ở xà lim chỉ có một mình, xoay đằng trước, xoay đằng sau,
cũng chỉ bốn bức tường, lấy cái gì nhét vào dạ dày bây giờ. Nếu giẻ mà ăn được,
tôi cũng nhai. Lúc đó có lẽ tôi cứ phải ở truồng, bởi vì cứ vặt xé dần quần áo
đút vào miệng. Cứ ngày này, qua ngày khác; tuần này, qua tuần khác; tháng này,
qua tháng khác; rồi năm này qua, năm khác tới,…đêm ngày, lúc nào cũng đói.
Một đêm, không ngủ được
vì đói, trằn trọc suy nghĩ rồi khó khăn đẻ ra sáng kiến; tôi tìm ra được một
biện pháp để thuởng thức “cái no”, cho nó sướng đời một cái! Thế là cả một dự
tính, và tôi quyết tâm thực hiện. Tự nhiên, trong dạ cũng thấy hưng phấn, đầy
hy vọng chờ cho tới bữa cơm sáng hôm sau.
Vì có mục đích, nên tôi
thấy cái đói hình như cũng đỡ cào cấu trong ruột. Khi lấy cơm vào, tôi đổ bát
ra một cái khăn, chiếc khăn này làm bằng hai miếng giẻ to trong…nhà cầu, tôi đã
vò kỹ nước và khâu lại. Tôi nhúng tay vào gáo nước rồi hì hục, thận trọng, nắm
khăn chặt lại. Chỉ thỉnh thoảng có hạt cơm nào vô tình rơi ra, tôi mới cho phép
mình…ăn. Tôi túm lại, lấy một sợi chỉ buộc, rồi treo lên cái que nhỏ cắm ở lỗ
đinh trên tường. Xong, tôi quay lại húp hết bát canh, rồi chờ đem trả bát. Trả
bát xong, lúc đó cũng phải 10 rưỡi, 11 giờ. Khi quản
giáo cùm xong, tôi nằm
xuống. Trước khi nằm, tôi ngồi nhìn nắm cơm treo lủng lẳng ở bờ tường trước
mặt, như gửi gắm với nhiều hứa hẹn là chiều nay sẽ có một bữa căng bụng. Sẽ
được thấy cái cảm giác “no”…ra làm sao, mà lâu ngày tôi đã quên rồi.
Tuy nằm, nhắm mắt,
nhưng làm sao tôi ngủ được, chả có cái cóc khô gì trong bụng cả (có chứ, có một
tí nước canh, và mấy ngọn rau muống già, đểnh đoảng nấu muối). Chắc có vài chú
giun cũng đang lồng lộn dãy dọn trong ruột tôi, vì phát ra những tiếng kêu “ò
ọ” kéo dài như tiếng của thân những cây tre làng xiết vào nhau vì gió trong
những trưa Hè oi nắng. Kế nữa là, bao nhiêu hy vọng đợi chờ, bây giờ sắp được
thưởng thức, bảo sao tôi ngủ được. Tôi nghe từng tiếng thời gian đi, cho tới
giờ cơm chiều để mà đã đầy thưởng thức, sau những giờ phút vặn ruột, co gan.
Chờ mãi, rồi giờ hạnh
phúc ấy cũng phải đến. Phải nói, lúc ôm cái bô ra đổ, trên đường đi nhiều lúc
mắt hoa, chân lảo đảo như uống rượu say; nhưng trong dạ dày đầy tin tưởng là
hạnh phúc sắp và sẽ đến. Rồi, cho tới khi ra cầm bát cơm chiều vào, bấy giờ,
với một cử chỉ hết sức trang trọng, như chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn để đón
một người mà mình quý trọng nhất đời. Tôi vừa ăn, vừa nghe tiếng reo vui của
quần chúng tế bào dạ dày, đón chào những hạt cơm no lành theo nhau vào nằm dưới
đáy bao tử. Ăn hết nắm cơm buổi sáng, lại ăn bát cơm buổi chiều, phải nói rằng
có căng bụng. Tôi cứ tưởng tượng dạ dày của mình lúc trước co dúm, nhăn nheo
chỉ một tí. Vì lâu ngày có bao giờ được chứa theo khả năng của nó đâu, cho nên
các tế bào đã co lại để hàng ngày đón nhận có một phần ba, hay một phần tư số
lượng nó muốn. Hôm nay đột nhiên lại đón nhận một số lượng gấp đôi, nó cũng
căng rồi. Nó phải làm việc khác ngày thường, nên nó thấy mệt. Vì thế, sau khi
trả bát, cùm xong, tôi cũng phải nằm vật ra. Lần này, không phải vì đói, mà vì
căng bụng. Hơi mệt, thở hổn hển, nhưng mà chao ôi, sao con người sinh ra trên
cõi đời này lại có lúc được no sướng thế, lại được ăn những hạt cơm kỳ diệu làm
sao!
Sau buổi ấy, tôi thấy
sáng kiến đó quả là tuyệt vời; tuy nhiên cũng rất mệt người. Vậy, để thích ứng
nhất, mỗi tuần tôi chỉ làm hai lần vào thứ Ba và thứ Sáu.
Tuần nào tôi cũng áp
dụng, như thế, mỗi tuần tôi được hai lần đã đầy; có khi đê mê suốt đêm cho tới
sáng hôm sau. Cũng có hôm bất chợt, tên cán bộ trực trước khi đóng chốt cùm,
còn vào buồng ngó nghiêng một lượt; khi thấy một gói treo trên tường, y hỏi và
bắt tôi lấy xuống cho y xem. Tôi lấy xuống và trả lời:
- Báo cáo, tôi đang ăn
bị đau bụng, gói lại để chốc nữa khỏi đau sẽ ăn.
Tất nhiên, y làm sao
hiểu được nỗi niềm và ý định của tôi.
Sáng hôm sau, lại là
ngày Chủ Nhật, một Chủ Nhật đầu Đông. Xà lim lạnh ngóm, lại càng thấy vắng lặng
hơn. Những trận gió Đông Bắc mò về sớm, từng đợt chui qua cửa sổ, lách qua mái
ngói, gây ra những tiếng vi vu rền rĩ, càng gợi nỗi nhớ nhà đối với người tù.
Tiếng “con mẹ chửi thuê” trên chạng ba của cây bàng ngoài sân trại đã bị tắt
họng, không nói được nữa. Như thế là đã đến giờ hành chính (giờ làm việc) mà
vẫn chả thấy tên cán bộ trực vào mở cửa cho tù ra đổ bô? Hàng tiếng đồng hồ
trôi qua, xà lim vẫn yên ắng. Chắc các buồng khác cũng như tôi, cũng đang băn
khoăn thấp thỏm vì sự bất thường này, nhưng đều chưa có lời giải đáp. Bỗng nghe
nhiều những tiếng ồn ào, chuyện trò của một đám đông người gồm cả đàn ông, đàn
bà đang đi vào, từ phía cổng xà lim.
Tôi hơi cau mày, vểnh
tai nghe, và phán đoán. Khi nghe thấy tiếng mở cửa buồng số 2, rồi số 13, tôi
đã hiểu. Đây lại là một phái đoàn tham quan nào đó, chúng đang bịp bợm đưa đến
Hỏa Lò, nơi xà lim án chém.
Tôi đang nghĩ ngợi mông
lung, đột nhiên một giọng miền Trung rành rọt từng lời:
- Kính thưa các đồng
chí, nơi đây thực dân Pháp vô cùng dã man, tàn bạo đã dùng những loại cùm thế
này để cùm các đồng chí Hoàng Văn Thụ và Trần Đăng Ninh. Hai đồng chí ấy đã
kiên trì chịu đựng gian khổ, lấy máu xương để nhuộm thắm tình giai cấp. Hai
đồng chí đã quyết tử, để cho đảng ta quyết sinh. Chúng ta ngày nay được thừa
hưởng những thành quả của cách mạng vinh quang do máu xương của các đồng chí đã
nằm xuống.
Một vài tiếng phụ nữ
xụt xịt, rồi nức nở. Trong cảnh vắng lặng, tiếng nức nở làm xao xuyến xà lim.
Nghe những tiếng xụt xịt run rẩy của mấy người phụ nữ, óc tôi miên man liên
tưởng đến những phương pháp dắt, lái tư tưởng quần chúng của Cộng Sản thật đáng
nể. Chúng áp dụng một phương pháp tinh vi và tuyệt vời, tạo những điều không có
trở thành có theo ý muốn của các tên lãnh đạo.
Muốn có những người
chảy nước mắt khóc lóc trong các cuộc biểu tình phản đối Mỹ, hoặc chính quyền
miền Nam đã tàn sát (?) dân làng, đàn bà và trẻ em ở đâu đó, chúng chỉ cần
phóng đại sự việc thành ghê tởm, thảm khốc.
Cụ thể như vụ Phú Lợi ở
Biên Hòa chẳng hạn, trước đây, ở trên đài, trên báo, thậm chí ở các cơ quan nhà
máy, chúng bắt quần chúng phải học tập, mổ xẻ phân tích nữa. Rằng thì là, trong
một cuộc biểu tình của một huyện nào đó ở Nghệ An, để phản đối sự tàn bạo dã
man của chính quyền Sài Gòn, chính quyền đã cho thuốc độc vào thức ăn để giết
hại hàng nghìn tù nhân ở Phú Lợi. Chúng sẽ diễn tả quần chúng trong cuộc biểu
tình đó đã phẫn uất vô cùng với
nhiều tiếng gầm thét,
la ó, kêu gào, đau xót,…thậm chí đã có nhiều đồng chí đảng viên trung kiên,
nhiều đồng chí đoàn viên ưu tú, và một số cảm tình đảng, cảm tình đoàn đã dạt
dào tình thương giai cấp, đã nức nở thương các đồng chí ở nhà tù Phú Lợi như
người nhà ruột thịt của mình, v.v… Chúng ca ngợi, đề cao những người khóc đó
mới thực là gắn liền thịt da vào giai cấp, v.v…Để rồi, bây giờ chúng tổ chức
cuộc biểu tình đó ở Hà Nội, chúng cũng reo hò, gầm thét, đả đảo chính quyền
miền Nam.
Trong số hàng ngàn,
hàng vạn quần chúng này, sẽ có nhiều đảng viên, đoàn viên, cảm tình đảng, đoàn,
đang cuồng tín say sưa phấn đấu trong công tác, cũng như mong được vào đảng,
vào đoàn. Vì trong lòng đang cuồng nhiệt, từ sự suy nghĩ, đến những xúc cảm
tình giai cấp, tự ý niệm có thấy lòng xúc động và căm thù kẻ thống trị, mới là
người của giai cấp vô sản thực sự; mặt khác, cũng để cho mọi cấp lãnh đạo thấy
mình chính là người của giai cấp, cho nên tự nhiên thành xúc động “thật”, và
nước mắt chảy ra. Rồi cũng nức nở như một số người khác vậy.
Như vậy, bây giờ sự
“khóc” đã thành sự thật. Chúng đến gặp từng người, hỏi tên, phỏng vấn đưa lên
đài, lên báo.
Chưa có sự thật, chúng
còn làm ra thành có. Bây giờ, đã có sự thật rồi, chúng sẽ biết cách phát huy
tối đa. Từ điểm đó, ta không lạ gì lắm khi xem những cuốn phim có nhiều người
khóc nức nở để tỏ tình thương yêu những người bị tàn sát hàng loạt. Thậm chí,
ta còn thấy những người đàn bà Ý, Pháp, Thụy Điển,…..khóc lóc, nước mắt chảy
long tong, phản đối Mỹ đã ném bom tàn sát trẻ con, và đàn bà, v.v… Nhất là vụ
Mỹ Lai sau này. Về mặt chính trị, điều này, chúng đã thu hoạch được những thành
quả vô cùng to lớn. Những hình ảnh ấy có sức thu hút, lôi cuốn lòng người ghê
gớm, và nhất là còn có…tác dụng dây chuyền.
Tôi phải thừa nhận, đấy
là một nghệ thuật của chúng. Vậy, việc mấy con mẹ đang xụt xịt chảy nước mắt ở
xà lim này, cũng không ngoài những tâm lý và điều kiện trên.
Mãi gần một tiếng đồng
hồ, khi chúng đã đi ra rồi, cán bộ mới mở cửa buồng cho xà lim ra đổ bô. Nghe
tiếng mở những chốt cùm, và đóng cùm ở các buồng, tôi chợt nghĩ, không biết các
người tham quan lúc nãy có biết được xà lim này có 14 buồng. Vậy còn 12 buồng
nữa, bên trong hiện giờ có bao nhiêu người đang bị những cái cùm của thực dân
Pháp dã man ấy, khóa đôi chân không? Cho nên ở trên đời này, nhất là thời đại
ngày nay, người ta lầm nhiều lắm, mà vẫn cứ đinh ninh là mình sáng suốt, đã
biết rõ mới chết chứ!
Càng gần về trưa, trời
càng sáng dần, có lẽ bên ngoài đã có mặt trời. Ban ngày về mùa Đông, ở miền
Bắc, mặt trời hay nguợng ngập che màn, cho nên cảnh vật càng lạnh lẽo, đìu hiu.
Tiếng loa trưa đang ra
rả nói về tên Nguyễn Đức Thuận nào đó, vì vậy, tôi lắng nghe. À! Chúng nó đang
ca ngợi tinh thần kiên trì chịu đựng của Thuận trước sự đàn áp dã man vô nhân
đạo, tàn ác nhất loài người, hơn cả phát xít Hitler, của chế độ Ngô Đình Diệm.
Theo chúng, Nguyễn Đức Thuận đã bị giam hãm gần 3 năm trong xà lim buồng tối,
thiếu thốn hết mọi thứ, đến nay mới được thả và chỉ còn da bọc xương. Nhân dân
miền Bắc đang săn sóc, bồi dưỡng sức lực lại cho Thuận, để đồng chí Thuận sẽ
viết lại những ngày gian khổ cùng cực trong bàn tay đầy máu của Ngô Đình Diệm,
để tố cáo với thế giới loài người. Đó là một tấm gương bất khuất trong nanh
vuốt của kẻ thù…
Hàng tháng trời, chúng
cứ ra rả về Nguyễn Đức Thuận, y đang viết tác phẩm hồi ký “Bất Khuất”. Y là cán
bộ trung ương, bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt. Sau gần 3 năm ở xà lim, chẳng
hiểu vì sao bây giờ y được tha. Và được đưa về miền Bắc. Rồi cuối cùng, y làm
Phó chủ tịch Tổng Công Đoàn, mà Hoàng Quốc Việt là chủ tịch.
Tôi không muốn nghe, mà
cứ phải nghe, đầu tôi muốn nóng lên. Ít ngày sau, tôi đi cung, trên đài vẫn còn
nói nhiều về tên Nguyễn Đức Thuận, với cuốn hồi ký “Bất Khuất” của y. Khi vào
gặp chấp pháp, tôi chẳng sợ quái gì, tôi hỏi thẳng:
- Ở trên đài, dạo này,
các ông đang nói về Nguyễn Đức Thuận bị chế độ vô nhân Ngô Đình Diệm bắt giam
trong buồng kín xà lim gần 3 năm. Các ông bảo là Ngô Đình Diệm dã man tàn ác.
Vậy trường hợp của tôi cũng đã gần 3 năm rồi, và còn chưa biết đến bao giờ thì
sao?
Mắt tên Thành quắc lên.
Từ trước, y vẫn là người có vẻ có cảm tình với tôi, chưa bao giờ nổi nóng như
vậy. Y đập mạnh tay xuống bàn:
- Anh không được nói
láo? Anh dám ví anh với người cách mạng à?
Thấy y nổi sùng, tôi im
lặng, rồi nhỏ nhẽ nói:
- Thưa ông, tôi không
bao giờ dám ví tôi với ông Nguyễn Đức Thuận. Nhưng, tôi thấy ông Nguyễn Đức
Thuận ở cấp Trung Ương Đảng, mà Ngô Đình Diệm bắt được lại còn thả ra, cũng như
Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Đào Sĩ Chu, v.v…đều đã bị bắt, nhưng rồi cũng
đã được Ngô Đình Diệm thả hết. Có lẽ, vì ông Diệm thấy họ là cán bộ Trung Ương
của đảng, nên không dám giam lâu. Tôi thắc mắc, không biết, nên hỏi ông vậy
thôi. Chứ tôi là loại “tép riu”, đời nào tôi dám ví với ông ấy.
58. Một người tù… Mỹ!
Kỳ này đã cuối Đông rồi, thế mà trời càng lạnh dữ. Có khi
cả tuần lễ không thấy ánh mặt trời. Gió lạnh như cắt da, cắt thịt. Bên ngoài,
mưa phùn rả rích, nhì nhẹt suốt ngày đêm.
Vì vậy, trong xà lim
lại càng tối tăm, vả lại đôi bàn tay cũng sưng buốt, không cầm được kim khâu,
cho nên hầu như suốt ngày tôi nằm đắp chăn là nhiều. Chỉ khi nào nằm nhiều quá
đau lưng, tôi mới ngồi lên một lúc, rồi lại nằm xuống. Không còn cách gì khác,
trong cảnh này, tôi lại nằm suy nghĩ mông lung hết chuyện nọ, tới chuyện kia.
Tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại nhiều lần câu chuyện chiếc khăn choàng tàng hình trong
phim “Tên Trộm Thành Bát Đa”… Tôi thấy, để diệt chủ nghĩa Cộng Sản trên trái
đất này, phải mất ít nhất sáu tháng. Trong sáu tháng ấy, tôi phải nỗ lực đi
theo máy bay nhiều lần, hết nước Cộng Sản này sang nước Cộng Sản kia. Tôi phải
cắt tai và giết nhiều lãnh tụ Cộng Sản. Nghĩa là…tôi phải vất vả nhiều lắm.
Vậy, đã mơ ước, thì mơ
ước cho…đã. Sự ước mơ có giới hạn nào đâu? Cho nên, tôi lục lọi, tìm tòi một
thần thông khác, sao cho nhẹ nhàng, đỡ vất vả và hữu hiệu, thần kỳ hơn… Tôi
nghĩ đến “Cây Đèn Thần của Aladin”! Hiện giờ, với cảnh trong cùm, dạ dày luôn
luôn “giặt sạch phơi khô” 23 giờ 40 phút trên 24 giờ, nghĩa là chỉ 10 phút vào
buổi sáng và 10 phút vào buổi chiều, dạ dày bị ướt vì có tí cơm; chân tay lại
sưng mọng đỏ, ngứa buốt ngày đêm;…và với những cảnh huống như vậy, trong mùa
Đông lạnh giá này, nếu…tôi có đèn thần của A La Đanh, tôi sẽ làm gì?
Cái gì cần làm trước,
làm trước. Tôi lấy cây đèn ra, gãi gãi mấy cái vào thân đèn cho ông thần hiện
ra. Sau khi ông thần hiện ra, khoanh tay cúi đầu, lễ phép thưa:
- Kẻ thân là tôi tớ của
chủ nhân, tuyệt đối phụng mệnh của chủ nhân!
Tôi phải ra lệnh ngay
là hãy bẻ cái cùm nay ra, và chữa cho tôi khỏi đau và sưng ngón tay, ngón chân
đã; bởi vì tay chân còn đau, ăn gì cũng không ngon.
Khi thần đã chữa xong,
bấy giờ mới làm như A La Đanh, sai thần dọn một bữa ăn thịnh soạn, “chén” ngay tại
sàn xà lim này. Nhưng, thần còn phải làm sao cho tôi khỏi rét, run quá! Sau đó,
mang ngay tôi về một khách sạn nào đó, ở miền Nam, để tôi tắm rửa, thay quần áo
tàm tạm, bình thường. Nghỉ ngơi cho khỏe. Ngày hôm sau, sai thần đưa về nhà
thăm cha mẹ và các em; nếu thấy nhà túng thiếu, tặng ít tiền để tiêu xài tàm
tạm. Nói chung, phải căn dặn thần không được để một dấu vết gì cho bất cứ một
ai nghi ngờ có chuyện lạ lùng của Thần Đèn.
Việc cá nhân coi như
tạm ổn, cũng phải mất hai ngày đấy chứ, bây giờ phải bắt tay vào nói chuyện đến
Cộng Sản và thế giới loài người. Trước hết, tôi sai Thần Đèn đưa tôi xuống vùng
rừng U Minh, chỗ không người, làm ngay một căn nhà rộng, chứa được độ từ 100
đến 150 người. Căn nhà để trống trơn, chỉ duy nhất có một cái bàn và hai cái
ghế. Căn nhà rộng thênh thang sơn ba phần màu trắng, một phần màu đen. Chỉ
trong chốc lát, giữa vùng U Minh vắng vẻ, hoang dã, đã có một căn nhà theo ý
tôi muốn. Khi đã sắp xếp xong mọi việc, tôi ra lệnh rõ ràng cho Thần Đèn:
- Trước khi đưa ai về
đây, đều làm họ bất tỉnh!…Hãy lần lượt bắt những tên Chủ tịch đảng Cộng Sản,
hoặc Bí thư thứ nhất, hay Tổng bí thư của tất cả những nước Cộng Sản về đây đặt
ở chỗ màu đen. Tên nào cũng khóa chân và tay. Không để bất cứ một loại vũ khí
gì trong người chúng.
Tiếp theo, cũng vậy,
tôi sẽ ra lệnh cho Thần Đèn làm phép cho họ tỉnh lại hết. Chắc ông nào, bà nấy
cũng mở to đôi mắt ngạc nhiên, kể cả Tổng Thống Johnson, và Brejnev cũng thế.
Bước thứ hai, mở hết
các khóa chân, tay, bắt ngồi tại chỗ. Trước khi bắt đầu nói chuyện, tôi ra lệnh
cho thần là nếu trong quá trình tôi nói chuyện, tên nào có tư tưởng chống đối
hay bướng bĩnh, thần cho hiện lên trán hắn một điểm tròn màu đen mà chỉ tôi mới
trông thấy. Cuối cùng, một điều quan trọng tôi phải nhờ Thần Đèn, đó là vấn đề
ngôn ngữ. Tôi vẫn nói tiếng Việt Nam, nhưng Thần Đèn phải hiển phép thế nào để
tất cả mọi người trong nhà này, bất kể là nước nào, cũng đều hiểu toàn bộ những
lời nói và ý của tôi…bằng tiếng của họ!
Xong xuôi, tôi đứng lên
(vì từ sớm tôi vẫn ngồi ghế). Hàng mấy trăm con mắt đang mở to hướng về phía
tôi. Đầu óc họ đang căng lên hàng trăm câu hỏi mà chưa được trả lời. Bằng một
giọng rõ ràng, thong thả và trịnh trọng, tôi nói:
- Thưa quý vị, trước
khi thưa cùng quý vị về nhiều vấn đề, tôi báo ngay cho quý vị rõ, chỗ quý vị
đang ngồi là trên đất nước Việt Nam. Ngay việc quý vị hiện diện đầy đủ ở đây,
không thiếu một bộ mặt lãnh tụ nào trên thế giới, hẳn quý vị đã thấy được quyền
lực vô giới hạn của tôi rồi. Do đó, tuyệt đối quý vị đừng có bao giờ có ý tưởng
cưỡng lại, hay chống lại, nếu không sẽ mang hậu quả tùy theo mức độ.
Hôm nay, tôi đưa tất cả
quý vị về đây, để phổ biến một số việc cấp thiết trong thời đại chúng ta, trên
quả địa cầu này.
Thực ra, vì tôi muốn sự
việc diễn tiến một cách nhẹ nhàng, đẹp đẽ, nếu không với quyền lực vô song của
tôi, tôi không cần đưa quý vị về đây làm gì. Tôi cứ bắt buộc quý vị phải làm
theo ý tôi muốn, ngay tại nước quý vị, điều đó hoàn
toàn vẫn được như
thường. Cho nên, xin quý vị hãy hiểu và tin như thế. Riêng ông Johnson được mời
lên ngồi ghế, bời vì nước ông là mẫu mực về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Ông
lại có trách nhiệm phổ biến và chỉ dẫn các nước khác.
Bây giờ, xin quý vị hãy
lắng nghe và ghi nhớ bốn điều bắt buộc sau đây:
Điều một: Hủy bỏ toàn
bộ chủ nghĩa Cộng Sản. Hủy bỏ mọi cơ cấu nhà nước Cộng Sản.
Điều hai: Hủy bỏ toàn
bộ chế độ nhà nước quân chủ.
Điều ba: Hủy bỏ toàn bộ
vũ khí quy ước, kể cả những công thức đã được chế tạo cũng như sắp chế tạo.
Riêng điều này, ngay khi quý vị còn ngồi đây, tôi đã ra lệnh triệt phá hoàn
toàn, bất cứ che dấu bí mật như thế nào. Quý vị hãy tin như vậy. (Tôi lẩm nhẩm
ra lệnh cho Thần Đèn đi thi hành).
Điều bốn: Đất nước của
quý vị là chung của mọi người dân trong nước quý vị, không hề của riêng một ai.
Mỗi một thế hệ, có biết bao nhiêu người tài ba, đạo đức, có khả năng lãnh đạo
quốc gia ở mỗi nước.
Do đó, chế độ Cộng Hòa
Dân Chủ của Mỹ hiện nay là tiến bộ nhất. Dù cho ai lãnh đạo chế độ ấy, có hiền
và đạo đức như thánh thì tối đa cũng chỉ được hai nhiệm kỳ. Sau đó, xin mời
xuống, cho người khác lên. Không những đất nước là của chung, còn một điều hiển
nhiên nữa là, hễ ở lâu trên ghế lãnh đạo, sẽ trở thành độc tài và lừa bịp. Cho
nên, bắt buộc toàn bộ các nước trên thế giới phải tổ chức nhà nước theo cơ cấu
nhà nước Hoa Kỳ. Điều này Tổng Thống Johnson chịu trách nhiệm phổ biến và chỉ
dẫn cho các nước khác.
Quý vị đừng bịp bợm
rằng “tôi chỉ là Tổng Bí Thư”, “tôi chỉ là Chủ Tịch Đảng”, v.v… hoặc “đấy là do
nhân dân muốn!” Không có “nhân dân” nào cả, chỉ có một nhúm người thích chủ
nghĩa Cộng Sản, lấy nhân dân làm cái bình phong để được làm vua không ngai mà
thôi.
Nói đến đây, tôi nhìn
thấy trán của một số người ngồi trong đó đều có điểm đen, nhất là phía Cộng
Sản, và những nước quân chủ. Vì vậy, trước khi tiếp tục nói chuyện, tôi đi
xuống phía Cộng Sản. Với một con dao sắc như nước, hễ tên nào trên trán có chấm
đen, tôi xẻo một bên tai. Mới xẻo được gần chục tai, nhìn lại trán của mọi
người, tôi thấy điểm đen bay đi sạch trơn. Lúc đó, tôi bèn trở lại chỗ cũ, tiếp
tục nói:
- Từ nay, xã hội loài
người sẽ không có bất cứ một nước nào chơi kiểu đàn anh lấn át nước kia. Chỉ
mới có hiện tượng ấy, người nguyên thủ của nước đó sẽ bị xẻo một cái tai để
cảnh cáo. Do đó, tất cả chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ đem toàn bộ quỹ về quân sự
và vũ khí nguyên tử vào quỹ An Sinh và Phúc Lợi Xã hội. Tăng cường các cuộc
tham quan hữu nghị giữa các nước. Xóa bỏ dần các bất công nghèo đói. Các chính
phủ mỗi nước phải chăm lo mọi mặt cho người dân, phải có trách nhiệm dẹp bỏ
những mầm mống cướp, trộm, cùng các tệ nạn xã hội. Riêng những nước nào có ý đồ
bá quyền, muốn chơi kiểu đàn anh với nước khác, tôi sẽ chịu trách nhiệm trừng
trị.
Tôi hiểu, tất nhiên
cũng sẽ có một số lộn xộn, một số sai lầm. Nhưng, do quyết tâm tạo lập một thế
giới tốt đẹp, nhất là tôi lại có cây đèn thần, tôi sẽ làm được. Chỉ trong vòng
một tháng là tối đa.
o O o
Tôi cứ nằm nhắm mắt mặc
cho tư tưởng tung hoành. Những lúc như vậy, tôi không cảm thấy cái đói, rét,
cùm kẹp, chân tay nhức buốt, cái cô đơn heo hút giữa ngày Đông giá lạnh với gió
Bấc, mua phùn…hành hạ nhiều như lúc bình thường. Thậm chí đến nỗi, có khi cán
bộ rút chốt cùm, mở cửa cho tôi ra đổ bô, chờ mãi không thấy tôi ra, y thò cổ
vào buồng, thấy tôi vẫn nằm yên đắp chăn, chân đang rung lên như những dây đàn
muôn điệu đang được dạo nốt nhạc ngày Xuân, bèn quát ầm lên:
- Anh này có ra rửa
không?
Bất đắc dĩ, tôi chỉ trả
lời hai tiếng: “Không ạ!”, rồi mặc cho y bực tức đút chốt cùm và đóng sầm cửa
lại. Tôi vẫn cứ để hồn lang thang theo những hình ảnh của cuốn phim “siêu
thoát”. Chỉ lúc lấy cơm, giấc mộng thần thông của tôi mới phải ngưng lại mà
thôi.
Thấm thoát, rồi mùa
Đông khắc nghiệt cũng phải qua đi, để nhường chỗ cho nàng Xuân về với thế nhân.
Bên ngoài, tuy trời đã
vào Xuân; nhưng, trong xà lim có cái gì thay đổi đâu. Vẫn là những tiếng cùm,
tiếng khóa, với những tiếng rên la của các buồng. Còn tôi, đôi chân và đôi tay
vẫn ngứa buốt, vẫn ngồi trùm chăn ủ rũ, với cái dạ dày không dính nước. Nhưng,
nghĩ tới mùa Xuân đến, trong lòng tự nhiên cũng ngẫu hứng, buột miệng ngâm nga
vang cả xà lim một đoạn thơ Xuân của Nguyễn Bình thì phải, tôi cứ thay đổi đại
theo hoàn cảnh của mình:
Xuân đã sang rồi, ai có
hay
Tình Xuân chan chứa, ý
Xuân đầy
Xà lim buồn lắm…Xuân
không đến
Sao chẳng về đi, lại
ở…đây?
Cửa sổ nhỏ xoạch mở,
giọng tên Dư, vẻ sừng sộ:
- Ngâm nga, hát cái gì
đấy? Anh muốn phá trật tự phỏng?
Tôi nhìn y, rồi nhỏ nhẹ
trả lời:
- Thưa ông, thật là
buồn! Nhớ nhà quá!
- Tôi cấm anh không
được làm ồn trong xà lim!
Nói xong, y đóng mạnh
xánh cửa sổ nhỏ vào như vẻ rất nghiêm khắc. Nhưng, tôi đã thoáng thấy trong ánh
mắt của y khi nhìn tôi, một góc có màu xanh nhạt, như một sự dễ dãi và cảm
thông: “Tên này ở xà lim mãi, ngày Xuân nó cũng phải nhớ nhà một tí!”, mặc dù cái
mồm của y quát tôi. Chính tôi, tôi cũng không hiểu tại sao mình lại có ý nghĩ
như vậy khi tôi nhìn mắt y. Phải chăng, đã từ nhiều ngày, có nhiều hiện tượng
nho nhỏ tổng hợp lại tôi nhìn ra được tự nơi y, tôi cảm thấy ở tận cùng của
trái tim, y vẫn còn một số chất người?
Tối hôm nay, tiếng loa
làm tôi phải chú ý lắng nghe với những bài bình luận, hoặc thông báo, cùng
những lời cảnh cáo của chính phủ miền Bắc đối với Mỹ. Nào là, Chủ Tịch Hội Đồng
Bộ Trưởng Liên Xô, Kosygin, đích thân đi Hà Nội; Mỹ quyết định dội bom bắn phá
toàn Bắc Việt; nào là hai Tiểu Đoàn đầu tiên của Quân Lực Mỹ đã rời Okinawa đi
tới Nam Việt Nam, v.v…
Như vậy, sau bao nhiêu
ngày đêm đe dọa, rồi chuẩn bị, rồi lại cảnh cáo lẫn nhau, bây giờ lửa cháy, đạn
bay, bom rơi bắt đầu. Lúc này, tôi chỉ nhớ vào đầu 1965, có lẽ khoảng tháng 2,
tháng 3 gì đó.
Tình hình miền Nam,
tình hình miền Bắc đang như nước sôi lửa bỏng. Đất nước đang trong cảnh đầy vơi
chìm nổi như thế, mà chân tôi vẫn đút trong cái cùm oan nghiệt. Ngày đêm, lòng
tôi như lửa đốt. Tôi như con thú bị nhốt trong chuồng. Nhưng còn thú, dù là
cọp, sư tử, hay voi đã ở trong chuồng, đâu có bị cùm nữa, và đâu có bị cho ăn
đói.
Có những đêm, lòng ngổn
ngang bao nhiêu nỗi niềm trăm hướng của đất nước, của gia đình, của cuộc đời,
tôi không làm sao ngủ được. Cũng có khi, mệt quá thiếp đi trong đêm dài; rồi
giật mình thức dậy, nằm nghe tiếng đêm thâu chầm chậm trôi qua, trong lúc hồn
cứ dật dờ bay về phương Nam thân yêu với gia đình.
Hình ảnh người mẹ hiền
lúc này đã sáng chói, che mờ nhiều bóng khác phía sau. Nhiều đêm, tôi nhớ mẹ
tôi đến cái độ quắt quay, nỗi nhớ, niềm thương cứ
cuồn cuộn trong lòng,
ngút cao như núi. Niềm ước mong to lớn luôn luôn tràn ứ trong lòng là, được cầm
tay người mẹ yêu quý mà vuốt ve, mà gục mặt vào cho những giòng nước mắt nhớ
thương, nóng hổi tuôn tràn. Cho vơi đi phần nào cái se sắt của tình mẫu tử
thiêng liêng. Nhưng, nào có được! Vẫn chỉ là ngút ngàn phương trời mờ mịt. Vẫn
ngày đêm chỉ là những tiếng gọi thầm nỉ non, thiết tha từ trái tim rỉ máu. Mẹ
ơi! Mẹ ơi!
Khi đang ngụp lặn trong
một trời thương nhớ đó, đầu óc tôi chợt lóe lên một ý nghĩ. Phải rồi! Thịt chỗ
đầu rốn của tôi, đúng là thịt của mẹ. Người ta cắt cái ruột truyền sự sống của
mẹ tôi với tôi, khi tôi được sinh ra. Vậy rõ ràng cho tay xuống rờ mó, vuốt ve
cái rốn của mình, mắt lim dim tưởng như được gần mẹ, như ngửi thấy hơi hướng
ngọt ngào của mẹ. Một nguồn nóng ấm đang tỏa dần ra trong cõi lòng lạnh giá của
tôi. Và từ đó, nhiều đêm, dõi theo mãi những ngày xa mẹ, nơi núi rừng biên
cương đầy lam sơn, chướng khí sau này, mỗi khi nhớ đến mẹ, tôi lại sờ rốn …của
mình.
Dạo này, tiếng loa la ó
suốt ngày đêm. Mỹ đã đem quân chiến đấu vào miền Nam.
Tôi nhìn và suy lý lại
toàn bộ những mấu chốt, dữ kiện tản mạn từ sau Thế Chiến Thứ II; sau Chiến
Tranh Cao Ly; vụ nói chuyện sức mạnh của Tổng Thống Kennedy với Krouchev, bắt
Liên Xô phải nhường bước, mang những đầu đạn hạt nhân từ Cuba về, và rồi vụ
Vịnh Con Heo. Rồi, với thực tiễn tình hình miền Nam, miền Bắc Việt Nam lúc
này…Tôi thấy ngay hai yếu tố nổi bật quyết định:
Thứ nhất: Bất kể tình
huống ra sao, Mỹ mang quân vào miền Nam Việt Nam là sai lầm. Trong điều kiện
giữa 2 miền hiện nay, nếu Mỹ mang quân vào miền Nam. Vô hình chung đã tạo cho
miền Bắc, cũng như cho cái Mặt Trận Giải Phóng của chúng, trở thành có chính
nghĩa. Và tất yếu, vế kia là chính quyền miền Nam lại trở thành mất chính
nghĩa.
Thứ hai: Bây giờ, đã
mang quân đội vào rồi, rút ra phải có điều kiện, không phải tự nhiên, bình
thường mà rút ra được.
Vậy, để giải quyết vấn
đề “đã trót” này, chỉ có một biện pháp duy nhất. Nếu Mỹ không làm như vậy, chỉ
trừ trường hợp là sau đấy, có những diễn tiến đặc biệt gì khác của thế giới,
còn cứ bình thường Mỹ sẽ không giải quyết được vấn đề. Đôi khi còn nghiêng
ngửa, khó khăn, dù sau đấy Mỹ có mang bao nhiêu quân vào miền Nam cũng vậy
thôi.
Đó là: Một mặt, tương
kế tựu kế, ngay trong lòng nước Mỹ, lợi dụng báo chí, Quốc Hội, (những cơ quan
từ trước toàn vạch áo cho Cộng Sản xem lưng),
bằng mọi cách làm sao
để thế giới, và ngay báo chí của phe ta không hề biết. Tạo nên những tin tức để
phe Cộng Sản, tin là Mỹ không bao giờ dám đem quân ra miền Bắc, sợ đụng Trung
Quốc, có khi đụng cả Liên Xô nữa. Một mặt, bất ngờ, bằng nhiều đường hướng quân
Mỹ và một số quân đồng minh, nhưng chủ chốt là của Việt Nam Cộng Hòa, chớp nhoáng,
bất ngờ, thần tốc đổ bộ đánh ra miền Bắc, chấp nhận nếu có phải gặp Trung Cộng.
Tôi đã có hơn một tháng
ngược xuôi khắp thủ đô Hà Nội, một số vùng nông thôn ở miền Bắc, hiểu được một
cách cơ bản điều điện xã hội, lòng quân, lòng dân v.v…Tôi nói một cách có cơ sở
là sẽ giải quyết miền Bắc về căn bản trong vòng nửa tháng. Từ đấy, giải quyết
toàn bộ vấn đề Việt Nam, và cả lẫn miền Bắc. Có thế ngoại giao kìm chân nhờ
Nhật và Tây Đức, những phô trương ở lục địa khác. Chưa hẳn Trung Cộng và Liên
Xô đã dám vào Việt Nam khi chuyện đã rồi.
Bởi vì, như trên tôi đã
trình bầy, hãy nắm vững yếu tố “huyệt” thời nay “Hễ Mỹ làm quá, Liên Xô phải
lùi; ngược lại cũng thế. Cả hai phe đều tự hiểu, nếu không như vậy là tự hủy
diệt cả hai. Vậy, ai cao tay nắm được “huyệt” thì giải quyết lần được nhiều vấn
đề. Nhưng, dù trong lãnh vực chính trị, hay quân sự cũng vậy: Yếu tố bất ngờ là
nồng cốt trong mọi hành sử. Phải làm sao bịt được mắt đối phương lại mà đánh.
Không có một kế hoạch nào thần kỳ cho bằng yếu tố “bất ngờ”.
Những thiên tài quân
sự, cũng không thể trở thành xuất chúng, nếu trong quá trình xử lý sự việc,
thiếu yếu tố bất ngờ! Bởi vì, muốn xử dụng yếu tố bất ngờ, cái trước hết (điều
này không đơn giản, biết bao người, thực tế chưa hiểu rõ kẻ thù của mình, nhưng
lại cứ tưởng là mình đã biết quá rõ) là, phải hiểu địch đã. Phải hiểu họ rõ,
mới làm cho họ bất ngờ được…
Sáng hôm nay, cũng như
mọi buổi sáng, tôi vừa ra đổ bô vào, tên Dư đã chốt cùm. Cửa đóng, được một lúc
cửa sổ nhỏ lại mở. Tên Bằng “môi cá ngão” chỉ mặt tôi, cộc lốc:
- Đi cung!
Tôi đã biết tên này,
tuy y ăn nói nhấm nhẵn như thế, nhưng y không đến nỗi ác ôn lắm.
Khi ra tới gần phòng
cung, trên con đường hành lang nhỏ hẹp, tôi đang dõi mắt nhìn hai chiếc hầm trú
ẩn tập thể to lồ lộ ở góc mé sân trước Hỏa Lò (sân có giàn nho), bỗng mắt tôi
chợt nhìn thấy một người rất cao nhưng gầy, cũng mặc bộ quần áo sọc đỏ sậm
giống tôi, đang đi từ phía đầu hành lang kia ngược lại hướng tôi, và cũng có
một tên công an áo vàng đi kèm phía sau. Tự nhiên tôi
thót tim khi nhìn thấy
dáng đi lểu khều và đôi mắt…xanh. À, người Mỹ! Phi công Mỹ! Sở dĩ tôi chưa nhìn
thấy ngay, vì tôi không ngờ được. Trong tâm, tôi cứ đinh ninh người đó cũng như
nhiều người tù đồng bào mình mà tôi vẫn gặp, vì vậy mắt tôi cứ nhìn qua cái
lăng kính của óc mình, tức là định kiến, cho nên khi bất chợt nhìn ra, tôi mới
giật mình.
Anh phi công còn rất
trẻ, chỉ khoảng 24, 25 tuổi như tuổi của tôi thôi. Nhưng đặc biệt, đôi mắt anh
thật lơ láo, ngờ nghệch. Có lẽ anh đang có rất nhiều ngạc nhiên. Nhìn chung quanh
anh, cái gì cũng lạ, không hề giống bất cứ cái gì trước đây, anh đã nhìn thấy ở
nước anh; từ cảnh vật cho đến con người, nhất là dáng dấp, phong thái làm việc,
cũng như sự đối xử. Chính vì thế đôi mắt anh trở nên ngờ nghệch chăng? Hay vì
những phút bão tố tơi bời vừa qua, khi anh bị bắn rơi trên bầu trời, hãy còn
ngập tràn nỗi bàng hoàng chưa phai nhạt trong anh?
Khi đi ngang qua nhau,
anh nhìn tôi, tôi nhìn anh. Anh nghĩ gì, làm sao tôi biết được. Nhưng, có điều
chắc chắn mà anh không thể ngờ được rằng, người anh vừa gặp cũng từ miền Nam,
miền của tự do dân chủ đã vào mảnh đất này. Chỉ có khác, là anh đã xuống dù,
công khai; còn tôi đã đổ bộ, bí mật; anh xuống đất vì bị bắt buộc; còn tôi mò
vào là do tự nguyện. Dù hai trường hợp khác nhau, nhưng vẫn gặp nhau ở một
điểm; đó là Hỏa Lò Hà Nội, mà các anh vẫn gọi là “Khách Sạn Hilton”.
Còn tôi khi nhìn anh,
lòng tôi dâng lên một nỗi niềm vừa xót thương, vừa ngưỡng mộ biết ơn. Xót
thương, ái ngại, vì các anh ở Mỹ, từ khi lọt lòng mẹ đã quen sướng. Bây giờ,
trong cảnh này, dù rằng tôi hiểu các anh sẽ được hưởng một quy chế tốt hơn
chúng tôi, nhưng tôi tin rằng các anh sẽ thấy khổ cực hơn chúng tôi. Ngưỡng mộ
và biết ơn vì các anh thật hiên ngang, dũng cảm. Dù Hà Nội nói riêng, và miền
Bắc nói chung với lưới lửa dày đặc, mà các nhà báo gọi là “những tọa độ lửa còn
hơn cả Stalingrad trong Thế Chiến Thứ II”, thế mà vì sự tự do của một dân tộc
khác, vì sự bần hàn khổ cực đắng cay của những người dân của một nước xa xôi,
các anh đã dũng cảm nhận nhiệm vụ vinh quang, không nề hiểm nguy đến tính mạng,
đi bắn những kẻ đàn áp tự do.
Tôi đi chiến đấu cho
dân tộc, cho Tổ Quốc tôi; còn anh lại vì sự tự do của dân tộc tôi, cho nên tôi
nhìn anh với sự ngưỡng mộ và biết ơn là thế.
Anh đã đi qua rồi, hình
ảnh của anh và những suy nghĩ về anh vẫn quấn quít người tôi, mãi tới lúc tôi
vào phòng cung.
Lại gặp Thành, và một
người nữa, dù chưa hỏi cung tôi bao giờ nhưng tôi đã quen mặt. Đi lại cung kẹo
mấy năm nay, tôi đã gặp và trông thấy y nhiều lần. Thậm chí, nghe họ gọi nhau,
tôi còn biết y tên là Quý. Y có cái sẹo ở trên mí mắt, nên có người còn gọi y
là “Quý lẹo”.
Qua nhiều lần thấy thái
độ của y lúc đùa vui, cũng như trò chuyện với những tên cán bộ khác, tôi biết y
không đủ kiến thức, cũng như mánh lới để hỏi cung những loại tội về tình báo;
vậy sao hôm nay lại có y ở đây? Chỉ một lúc sau, tôi tìm ra được câu trả lời,
dù rằng tôi không dám khẳng quyết, nhưng cũng tàm tạm thỏa mãn điều thắc mắc
của tôi. Thời chiến, rất hiếm cán bộ. Đáng lẽ, bây giờ, cung kẹo tôi chẳng còn
gì đặc biệt nữa, một mình tên Thành cũng được rồi. Nhưng, có lẽ tên Thành, cũng
như Phòng 44 Chấp Pháp cảnh giác cao, sau vụ tôi đánh cán bộ trốn tù, nên gặp
tôi bây giờ thường từ hai người trở lên. Sự suy luận này của tôi càng được chắc
chắn hơn sau mấy ngày gọi cung tôi lia lịa, cũng chỉ có tên Thành hỏi, chứ tên
“Quý lẹo”, tuy dáng cao lênh khênh, cũng chỉ ngồi làm vì thôi, thỉnh thoảng mới
đóng góp một vài nụ cười, hoặc vài câu hỏi không đâu, không quan trọng.
Suốt buổi hỏi cung hôm
ấy, và liền bốn, năm ngày hôm sau, tên Thành hỏi lại toàn bộ từ đầu chí cuối sự
việc của tôi. Cũng truy đi, truy lại một số việc có thể y quên, hoặc bây giờ y
mới nghi ngờ. Y ghi tóm tắt, thế mà cũng phải một tuần lễ mới xong. Cứ mỗi buổi,
tôi phải ký vào bản y ghi, sau khi đã đọc lại. Như vậy, đây là một hiện tượng
kết cung của tôi? Phần vì, đã truy hỏi tôi gần 3 năm trời với biết bao nhiêu
tình huống gay cấn. Phần khác, thời chiến tranh, Mỹ bắn phá càng ngày càng ác
liệt, chưa biết diễn tiến của cuộc chiến sẽ ra sao, cho nên hãy tạm đóng cung
của tôi.
Sau đó, lại hàng ngày,
hai buổi tôi ra phải ngồi viết bản tự khai ở một phòng nhỏ, có một cảnh sát mặc
đồng phục, đeo súng ngắn gác. Giai đoạn viết này là lần thứ hai sau hơn ba năm
ở Hỏa Lò. Tôi hiểu đó cũng là một phương pháp gạn lọc, so sánh của chúng. Vì
hiểu như vậy, cho nên, hầu như những việc chính yếu (trong những điều tôi đã
khai, điều gì còn cất kỹ trong đáy lòng) tôi đều ghi nhớ. Nhưng, khi viết lại,
tôi bỏ bớt dần đi những sự việc râu ria. Như vậy mới “lô gích”, nghĩa là hợp
tình, hợp lý. Óc con người ta thì quên dần đi là việc tất yếu. Lần viết sau,
nếu lại có những việc lần trước chưa ghi, ấy mới là rắc rối.
Cũng phải gần một tháng
mới xong. Điều chính là tôi chỉ viết với nhịp độ bình thường, và lại vừa phải
suy xét cân nhắc khi viết.
Khi tôi viết được mươi
ngày, một hôm, từ một phía cửa sổ phòng bên cạnh, tôi thoáng thấy anh phi công
Mỹ, tôi đã gặp lần đầu tiên. Tôi nói lần đầu tiên, để phân biệt với những lần
sau đấy trên đường tôi đi và về hàng ngày tôi cũng đã gặp 2, 3 anh phi công Mỹ
khác nữa. Có một anh phải đến 40 tuổi, trông rất dữ tướng. Cũng như anh đầu,
tay còn quấn băng. Anh nào cũng xanh xao và gầy. Những đôi mắt xanh, hoặc nâu
đều ngả thành màu trắng.
Khi gặp lại anh phi
công buổi ban đầu ở phòng bên, cũng là lúc anh nghiêng người, liếc nhìn thấy
tôi. Ánh mắt anh hình như cũng đã nhận ra hình ảnh một người mà anh gặp. Mặt
anh tươi hẳn lên, không còn nét đăm đăm nửa như dò xét, nửa như xa lạ lúc buổi
đầu gặp anh nữa. Anh cũng đang lúi húi ngồi viết. Thỉnh thoảng đầu anh động
đậy, rồi quay lại nhìn tôi. Tôi cũng ngẩng lên nhìn anh bằng một ánh mắt đồng
cảnh và gởi đi tình cảm chào hỏi. Vài lần, không hẹn mà chúng tôi đã cười với
nhau, dù chỉ là một nụ cười ngập ngừng không rõ nét.
Tôi để ý, bên anh không
có tên cảnh sát ngồi canh như bên tôi. Có thể chúng nghĩ, anh mắt xanh, mũi lõ
lồ lộ, đi đến đâu ai chả thấy ngay. Cho nên, chúng chỉ giao giấy bút, rồi ngồi
ở một phòng xa, chờ. Tên cảnh sát phòng tôi cũng thấy tôi và anh phi công Mỹ
thỉnh thoảng nhìn nhau. Nhưng, chắc y cũng nghĩ anh kia là người ngoại quốc,
ngôn ngữ bất đồng; hai nữa, mỗi người một phòng nên kệ cho nhìn nhau, vì vậy y
nhìn thấy cũng quay đi.
Hình ảnh anh phi công
đó làm tôi nhớ nhất. Cho mãi đến sau này, dáng dấp, khuôn mặt của anh vẫn khắc
ghi trong lòng tôi. Chứ ngay những ngày sau đấy, hàng trăm phi công ở Hỏa Lò
tôi gặp, nhưng rồi tôi quên mặt ngay. Cũng có thể anh là một trong những phi
công bị bắn rơi ngay từ những ngày đầu của vụ trả đũa 5/8/1964 mà theo đài Cộng
Sản, hôm đó chúng hạ được 8 phi cơ, bắt được 3 phi công (thật hay chăng)?
Khi đã viết xong, tên
Thành còn gọi tôi lên một buổi nữa, thái độ của y hôm đó có vẻ tươi vui, tình
cảm. Y nói thẳng có thể y đi công tác xa một số ngày, với bộ điệu úp úp, mở mở
như đi vào “B” ấy. Vừa như báo tin mừng được vào “B”, vừa như gián tiếp đe dọa
“chuyến này tao vào Nam sẽ biết rõ về mày”.
Cuối buổi, hai tay y
cuộn vo, xoay xoay hơn 100 trang giấy viết tay của tôi, vừa như thực vừa như
đùa, y nói:
- Câu chuyện của đời
anh, sau này đất nước thống nhất, viết lại cũng hấp dẫn đấy chứ!
Tôi hiểu là y sắp chia
tay, y nói một câu chuyện cho vui, vì thế, tôi cũng cười, trả lời:
- Thưa ông, nếu phải có
kiếp sau, tôi xin để kiếp sau. Chứ kiếp này. Đó là chuyện không tưởng.
Y và tên Quý đều cười.
Sau đó, tên “Quý lẹo” dẫn tôi xuống phòng trực, trả tôi về xà lim. Trên đường
về, tiếng loa cứ lải nhải khẩu hiệu:”Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Đó
là khẩu hiệu bịp bợm, dùng để bốc thơm mọi người, một hình thức xúi người khác
ăn cứt gà: “Hãy nổ lực làm việc và công tác đi. Ngành ngành thi đua! Người
người thi đua!”…Khẩu hiệu đó cứ ra rả, không ngày nào là không nói đến. Suốt
những năm ở miền Bắc, tôi nghe đã nhàm tai. Thế mà bây giờ bỗng đỗi khác:
“Ta vì mọi người, mọi người
vì chủ nghĩa xã hội”.
Vế dưới đã đổi khác
hoàn toàn. Cách mạng mà! Phải luôn luôn thay đổi, luôn luôn đổi mới; nhưng thay
đổi theo chiều hướng từ đường rộng rãi thênh thang đi vào con đường trước mắt
cứ nhỏ hẹp dần. Đó cũng là một sách lược, một phương châm của những tên lãnh
đạo Cộng Sản, không ngoài mục đích để thống trị người, và giữ cho chắc chắn chỗ
ngồi của chúng!…
59. Hà Nội ăn bom.. Xã Hội Chủ Nghĩa sẽ ra sao?
Mùa Hè đã chập chững bước tới. Đã có những chú ve sầu dậy
sớm, sau một giấc ngủ dài Đông Xuân, đang nỉ non khóc tiếc thương giấc ngủ chưa
được đã đầy. Hàng năm, tôi chẳng muốn cho những con ve sầu ngủ. Chúng ngủ, tức
là mùa Đông đến. Mà mùa Đông, tôi ghét cay ghét đắng, chỉ vì những ngón chân,
ngón tay của tôi, mùa Đông nào cũng sưng, nhức, buốt, và tôi cứ phải đêm ngày
nằm trên sàn xi măng lạnh như giường nước…đá; bụng lại không đủ nhiệt, với quần
áo hai mảnh bằng vải mỏng và một chiếc chăn đơn. Tôi nghĩ rằng chỉ cần một chút
mỡ hay một chút đường hàng ngày, chân tôi đã không bị sưng. Hai thứ đó thật có
nhiệt nhiều. Hoặc được ăn no chất bột, tôi cũng có nhiệt để chống lạnh rồi. Cho
nên, tôi sợ mùa Đông lắm. Dù sợ như vậy, nhưng năm nào cũng phải đón nhận một
lần, đến nỗi tôi coi mùa Đông là biểu tượng của sự lầm than, bất hạnh trên cõi
đời này. Tôi nhớ đển một ý tưởng, không nhớ đã đọc được ở đâu, về mùa Đông,
nhiều khi tôi buột miệng ngâm vang thành lời trong xà lim.
“Bạn đường ơi! Sắp hết
lạnh rồi gió Bắc với mưa Đông. Để không bao giờ còn thấy bóng mây sầu vương vất
nữa. Bạn ơi, nào có được!”.
Phải rồi, đó chỉ là một
ước mơ, nào có được trong thực tế chữ cuối cùng thành “Rồi phải được!”, để tin
tưởng, để hy vọng chứ!
Sáng hôm nay, cũng như
buổi sáng khác, tôi đang ngồi đợi tới lượt mình ra đổ bô, bất chợt tiếng còi hụ
báo động của thành phố rú lên dai lê thê, ư hử từng hồi rùng rợn, làm nghẹt tim
mọi người.
Tên Dư quát ầm lên giục
buồng số 7 vừa ôm bô ra, phải vào ngay. Y khóa cửa lại. Chắc y chạy ra hầm trú
ẩn cá nhân đào ở một góc sân xà lim. Chỉ có một lỗ duy nhất cho y.
Một không khí khẩn
trương, hồi hộp tràn khắp mọi nơi. Tiếng loa oang oang, rành rọt:
“Quân và dân toàn thành
phố chú ý! Một tốp máy bay địch từ hướng Tây Bắc, khoảng cách X, độ cao M. Một
tốp hướng Đông Nam, khoảng cách Y, độ cao R. Các khẩu đội chuẩn bị sẵn sàng
chiến đấu theo phương án K. Binh chủng “Tên Lửa” theo phương án G. Binh chủng
Không Quân theo phương án H…”
Bắt đầu đạn nổ, bom rơi
như pháo ran khắp cả bầu trời. Thỉnh thoảng những làn chớp nháy xanh lè với
những tiếng ùng ục làm run rẩy không gian. Cánh cửa buồng tôi rung lên những
tiếng bần bật, như động đất. Những tiếng lộp độp, choeng choeng rơi trên mái
ngói, rơi ngoài sân xà lim. Mùi khét lẹt nồng nặc của thuốc súng. Mùi hăng hừng
hực của lửa cháy. Thỉnh thoảng nghe râm ran tiếng khóc ở phía bên ngoài, xa xa.
Xen vào đấy, đôi lúc, tiếng loa như gào lên:”…Một máy bay “Con Ma” bị tan xác
phía Bắc Hà Nội. Hai “Thần Sấm” bị đứt đôi ở phía Nam, v.v… và v.v….”.
Lẫn vào những âm thanh
náo động là những tiếng bồm bộp, như người cầm que đập vào cái thúng úp vậy.
Tôi không thể suy đoán được, đó là tiếng gì. Mãi sau này, khi nghe trên loa nói
nhiều về “bom bi”, tôi mới hiểu đấy là tiếng nổ của “bom bi”.
Tâm trạng của tôi lúc
này thật lửng lửng, lơ lơ vì nhiều ý nghĩ đối nghịch: Trong xà lim, những người
không bị cùm có thể sẽ chui vào dưới gầm sàn xi măng để núp. Còn tôi, chân
trong cùm, chỉ cần một quả bom nổ gần làm gạch ngói rơi đè cũng đủ chết rồi, vì
nằm phơi ra đấy. Nhưng, tôi cũng chẳng lo lắng gì. Nếu có phải vậy, cũng được,
chẳng có gì để tiếc, hận. Trong khi ấy, tôi hiểu, các cán bộ ở Hỏa Lò đều đã
chui xuống hầm, tùy theo nơi quy định gần chỗ làm việc của chúng. Tuy vậy,
thỉnh thoảng, ngay trong Hỏa Lò, tôi cũng nghe thấy mấy tràng trung liên và đại
liên, như thế cũng có người chiến đấu. Qua loa phóng thanh, hàng ngày chúng vẫn
nói là khi máy bay địch vào bắn phá, mọi người quân cũng như dân, tùy theo điều
kiện, trên mái nhà, trên ngọn cây, có súng gì dùng súng ấy, hãy nhắm thẳng vào
máy bay địch mà bóp cò.
Tôi hiểu, đây là một
phương pháp tâm lý rất tinh vi để động viên tinh thần chiến đấu của toàn dân,
chứ chúng biết thừa, súng cá nhân mà bắn máy bay phản lực, thì…rất ư là ít kết
quả; nhưng chúng được một cái khác to lớn để lòe bịp nhân dân thế giới: Đó là
tinh thần chiến đấu dũng cảm và thần kỳ của…toàn dân.
Tôi lửng lơ, man mác
nghĩ suy và khi thấy máy bay vào phá thủ đô Hà Nội, tôi không thấy mừng, không
thấy lòng dâng lên một chút niềm tin hay hy vọng gì. Bởi vì, tôi hiểu, dù sau
đấy máy bay Mỹ bắn phá như thế nào chăng nữa, cũng không giải quyết được vấn
đề. Mỹ và thế giới bên ngoài chưa hiểu rõ thực tế xã hội Cộng Sản, nhất là Cộng
Sản Bắc Việt Nam!
Tôi hiểu từ trước tới
nay, các nhà chiến lược, các tư tưởng gia về quân sự của Mỹ đã đánh giá một xã
hội, một thành phố theo cách nhìn từ ống kính của những nước tư bản. Mỹ nhìn
như vậy về một nước tư bản như Anh, Pháp, Nhật, hay Hòa Lan, Bỉ, v.v…Mỹ đánh
giá rất đúng, rất chính xác, nhưng với Cộng Sản, nhất là Cộng Sản Bắc Việt Nam,
thì hoàn toàn sai! Sai ở những điều kiện và yếu tố sau đây:
- Vì Hà Nội là một xã
hội Cộng Sản, cho nên chúng đã điều hành được một cách hữu hiệu vì di tản và sơ
tán, nhất là Mỹ lại đã báo trước sẽ đánh đến đâu, đánh đến mức độ nào. Cho dù
không báo trước sẽ đánh đến đâu, đánh đến mức độ nào. Cho dù không báo trước,
với cái xã hội tự do “không đúng lúc” của Mỹ, phía Cộng Sản đã biết nhiều vấn
đề này ngay từ trước. Tôi nói “tự do không đúng lúc” có nghĩa là lúc hòa bình,
tự do như thế là nhất; nhưng khi có chiến tranh, lại vẫn như thế, thì không
biết còn gì để gọi nữa. Luôn luôn có những cơ quan, hoặc báo chí vạch áo
cho…Cộng Sản xem lưng rồi! Tóm lại, tất cả mọi thứ gì cần thiết, chúng đã đem
về vùng quê, vào núi, vào rừng, kể cả những cơ quan trung ương, kể cả dân
chúng. Còn ở lại, chỉ toàn là những người trực tiếp bắn máy bay Mỹ, hoặc những
người phục vụ chiến đấu mà thôi.
- Nhà cửa, và những
công trình trên miền Bắc: Ngay thủ đô Hà Nội, cũng chỉ toàn những ngôi nhà nhỏ,
đã cũ, mục từ mấy chục năm rồi; có bị tàn phá đổ xuống, cũng là khỏi phải mất
công phá đi để làm lại mới. Còn ở ngoại ô, hầu như toàn nhà lá, cũng nho nhỏ
như những chiếc lều. Ở các tỉnh, ngay ở thị xã, cũng chỉ nửa cây, nửa lá, nghĩa
là nhà tranh vách đất. Nói chung, tất cả mọi phương diện sinh hoạt xã hội thật
nghèo nàn, không có gì đáng kể cả. Chỉ duy nhất có một cái lại vô cùng giàu có,
vô cùng to lớn, vô cùng hiện đại, đó là vũ khí.
Đây là một vấn đề lớn
của chế độ Cộng Sản mà hiện nay nhiều nước, nhiều người nghiên cứu vẫn chưa
hiểu rõ được. Hoặc lại hiểu sai, theo cách suy nghĩ, theo cách nhìn của những
nước tư bản. Chính vì thế, Mỹ cứ ném bom bắn phá một đợt, một giai đoạn, rồi
lại ngừng để nghe ngóng xem Cộng Sản Bắc Việt đã sắp chết chưa; đã sắp phải van
vái Mỹ xin tha cho chưa. Mãi không thấy gì, Mỹ lại ném bom, bắn phá ác liệt hơn
nữa; rồi lại ngừng để … nghe. Bởi vì, theo cách suy lý của Mỹ, Cộng Sản làm sao
chịu nổi nữa. Rồi, mãi Mỹ cũng chả thấy thái độ hoang mang khiếp nhược của Cộng
Sản. Chúng vẫn trơ trơ, thậm chí, các mặt trận ở miền Nam của chúng lại càng có
sức đánh mạnh hơn. Người hoang mang bây giờ không phải là Cộng Sản, mà lại
chính là Mỹ. Chính vì Mỹ đã không hiểu được kẻ đang phản đối đầu với Mỹ.
Nếu những phi vụ, những
quả bom, những hỏa tiễn ấy đến bắn phá một thành phố, hoặc một cơ xưởng, nhà
máy của Pháp, Ba Tây, hay Na Uy, v.v… chẳng hạn, thì đáng giá đồng tiền bát
gạo. Nhưng, mang đánh phá ở miền Bắc thì thật là phí. Tôi dám quả quyết rằng,
trừ sự cá biệt nào đó không kể, còn thường thường, một quả bom, một chiếc hỏa
tiễn sau khi nổ, nếu nói về kinh tế, chỉ phá được một, hai, ba..phần trăm.
Nghĩa là, tiền để chế tạo ra quả bom ấy, chiếc hỏa tiễn ấy còn đắt hơn nhiều
lần cái mà nó phá được. Thế mà, Mỹ càng ném bom nhiều, càng bắn phá nhiều, đối
với thế giới, Mỹ lại càng mất thế về mặt chính trị nhiều. Những túp lều tranh,
hoặc nhà cửa bằng gỗ, bằng cây, bom bỏ cháy vùng, mấy hôm sau lại làm lại cái
khác; trong khi máy bay Mỹ các loại, bị lưới lửa phòng không dày đặc, đến nỗi
Mỹ phải kêu lên là, trong Thế Chiến Thứ II cũng không có nơi nào dày và ác liệt
như vậy. Cho nên, dù người phi công Mỹ rất dũng cảm, dù nghệ thuật lái máy bay
điêu luyện, dù nhiều kế hoạch kỹ thuật đánh phá tân kỳ, nhưng máy bay Mỹ rơi
rụng cũng nhiều vì phòng không hiện đại của Cộng Sản.
Phần khác, hầu như các
loại tính năng ưu cũng như khuyết của các loại máy bay Mỹ vào đánh phá miền
Bắc, thậm chí có những loại mãi sau này, gần cuối, mới vào đánh như F-111A,
hàng ngày trên loa, chúng đã ra rả, đọc vanh vách, khiến dân chúng bình thường
cũng biết rồi. Cho nên, hễ Mỹ sắp sửa có một loại máy bay tối tân mới ra lò nào,
chuẩn bị dùng ở miền Bắc, chúng đã biết đầy đủ tính năng, chúng đã yêu cầu Liên
Xô cung cấp ngay loại vũ khí để hóa giải. Mặt khác, chúng chỉ dẫn cho bộ đội
chiến đấu cố tránh, hoặc hạn chế những cái ưu của loại máy bay đó; ngược lại,
hãy nhắm vào chỗ nhược và biết cách khoét thêm vào cái nhược này mà nện vào.
Tôi chưa nói những
thiệt hại về mặt vật chất, khi đối phương đã biết rõ những loại vũ khí của đối
thủ, riêng về mặt tinh thần, Cộng Sản đã có được một cái lợi to lớn. Khi thấy
trên đài, trên báo đọc đi đọc lại vanh vách tính năng chi tiết từng loại vũ
khí, cũng như máy bay tối tân của Mỹ, quân cũng như dân tự nhiên thấy một niềm
tin vững mạnh vào sự lãnh đạo sáng suốt, của nhà cầm quyền Cộng Sản, và đồng
thời tự hiểu dù vũ khí của Mỹ nguy hiểm tới đâu, một khi đã biết rồi, còn gì
đáng sợ nữa; mà chỉ càng kính phục sự tài ba hiểu biết của giới lãnh đạo. Một
khi quân và dân tin như vậy, điều đó trở thành sức mạnh thần kỳ đấy!
Tóm lại, dù Mỹ bắn phá
như thế nào chăng nữa, cũng không giải quyết được vấn đề; nghĩa là bắt nhà cầm
quyền Cộng Sản miền Bắc xuống thang đánh giá miền Nam chỉ là một sự hão huyền,
ảo tưởng. Cộng Sản lại biết lợi dụng sự bắn phá ác liệt của Mỹ. Chúng giả vờ la
làng để kêu gọi con tim chất phác, đầy lòng nhân ái của loài người để lấy chính
nghĩa, để lấy sự ủng hộ.
Cộng Sản miền Bắc la
làng vì lý do chính trị đó; chứ Mỹ đừng lầm là chúng sợ Mỹ. Sau này, với 12
ngày đêm oanh tạc, cho dù năm, mười lần như thế đi, cũng đừng hòng Cộng Sản
xuống thang đánh phá miền Nam, chứ đừng mơ Cộng Sản đầu hàng như nhiều người
suy nghĩ. Trái lại, Mỹ chỉ càng chuốc lấy những lời chửi bới của ngay bạn bè
Mỹ.
Về sau này, một phần do
thời gian cho phép, phần khác, tôi có điều kiện gặp bao nhiêu nhân chứng sống,
bao nhiêu sự việc, người thực việc thực ở các trại giam trung uơng của Cộng
Sản. Có những cơ sở thực tế để chứng minh, lý luận từng vấn đề.
Gần hai tiếng đồng hồ
sau, còi lại hụ báo an, máy bay Mỹ lại đã rút lui sau khi bị hạ hơn 10 chiếc
(theo đài Cộng Sản), với nhiều loại máy bay “Con Ma”, F-105, “Lưỡi Kiếm”, B-52,
v.v… và bắt thêm được nhiều phi công.
Mãi tên Dư mới mở cửa
buồng, tôi ra đổ bô rồi lấy cơm luôn. Khi máy bay Mỹ bắn phá, có nhiều tiếng
lộp độp rơi trên mái ngói và dưới sân xà lim mà tôi thắc mắc không hiểu là cái
gì; cho nên bây giờ lúc tôi ra chỗ mé sân múc nước, vì sẵn có tình tò mò, tôi
liếc nhanh. Tôi nhìn thấy một mảnh kim loại đen xì, khòng khèo, cạnh rất sắc,
tôi liền nhặt xem. Lão Dư đã coi tôi lâu ngày; lão biết tôi vẫn còn tính nghịch
ngợm của thanh niên; tôi cũng biết vậy, nên ra nhặt đại vào đưa cho y, vẻ mặt
tôi rất háo hức:
- Thưa ông, không biết
mảnh gì đây, khi nãy tôi thấy rơi nhiều lắm. Cái này, ai đang đi, bị rơi trúng
đầu, chỉ có chết!
Y cầm lấy ngó ngó, xem
xem rồi chỉ vào trong bàn:
- Mảnh kia mới to kìa.
Vì vậy, người ta phải đội mũ sắt, hay mũ rơm để đi lại, hay bắn trả máy bay Mỹ.
Thấy y có vẻ dễ dãi,
tôi làm tới. Tay cầm gáo nước, tôi tiến lại bàn, thấy một mảnh kim loại to bằng
3 ngón tay mà y đã nhặt ngoài sân trại chung đem vào. Tôi cũng ngó xem, và với
vẻ trầm trồ, hỏi lại:
- Không biết mảnh gì,
rơi nhiều thế?
Tôi hỏi y để lấy cảm
tình thôi, chứ tôi thừa hiểu đây là mảnh đạn của trung pháo, đại pháo phòng
không. Nhìn qua hai mảnh, đã thấy ngay là hai loại đạn khác nhau. Tôi hiểu,
chúng có nhiều loại đạn nổ theo từng độ cao. Y cũng muốn tỏ ra hiểu biết, nên
nói chậm rãi:
- Đây là mảnh đạn súng
phòng không của ta đấy!
Câu trả lời cũng nói
lên sự chất phác, nông thôn của y. Nhưng, điều tôi chú ý hơn cả là y lại nói
chuyện bình thường với tôi. Đây cũng là một hiện tượng hiếm thấy giữa cán bộ
trực xà lim và tù.
Tôi nhớ lại năm, sáu
tháng về trước; những ngày đầu tiên mới về trực xà lim I, y thường nhìn tôi
bằng con mắt dò xét, không thiện cảm. Nhưng dần dần, thời gian cứ trôi đi, ánh
mắt y cũng bớt dần sự soi mói, và thay vào đấy, là sự tò mò; cho tới bây giờ, lại
có phần thiện cảm. Chứng cớ là thỉnh thoảng, y hay nói chuyện với tôi.
Phần tôi, nhìn lão, tôi
thấy lão cũng phải trên 50 tuổi, người nhỏ bé, không có những cách ăn nói thô
lỗ, cộc cằn như nhiều tên cán bộ khác, nên tôi thường tươi nét mặt mỗi khi nhìn
thấy lão. Ngược lại, với những tên cán bộ ác ôn, lỗ mãng, cộc cằn, tôi thường
lạnh lùng, lầm lì; có hỏi, tôi cũng chỉ trả lời nhát gừng.
Trưa hôm nay, tôi nằm
hoài mà không ngủ được. Bên ngoài, trời nắng chang chang. Tôi nhìn làn da xanh
tái, nhăn nhúm của chân tay mình. Đã mấy năm rồi, tôi thèm khát ánh nắng như
thèm bát phở ngon lành, sực nức mùi hành, mùi tỏi, mùi thịt bò bốc khói mà
không được ăn, chỉ được phép nhìn. Con người thật cũng lạ lùng, cái gì mất đi
rồi, không còn cách nào lấy được nữa thì lại quý. Nhìn ánh nắng vàng thế kia,
tôi ước gì được tắm mình trong đó một lúc. Da tôi tái, bủng ra là vì thiếu ăn,
nhưng cũng vì thiếu ánh nắng mặt trời.
Mọi khi cũng giờ này,
tôi thường nghe tiếng ồn ào của các em học trò trường mẫu giáo “Tân Trào” phía
ngoài phố. Đôi khi, giọng đồng ca véo von của các cháu nhỏ, hòa lẫn với tiếng
ve sầu râm ran, tạo thành một điệu nhạc trưa Hè quen thuộc. Nhưng, trưa hôm nay
chỉ còn tiếng ve sầu đơn điệu nhặt khoan: có lúc dồn dập, réo rắt như trận mưa
rào trên mái tôn; có lúc đột nhiên đều im bặt như phút mặc niệm của một binh
đoàn trong lúc chào cờ. Thiếu, vắng hẳn tiếng ca hát của những con chim non
trường Tân Trào. Có lẽ các em cũng đã đi sơ tán vùng xa Hà Nội?
Tôi đang vẩn vơ ngơ
ngác với không khí của buổi trưa Hè, còi hụ lại hú vang. Như tiếng rống của con
khủng long đang vật vã giãy chết vì vết tử thương, nấc lên hừng hực từng hồi.
Tiếng hú làm những chú ve sầu cũng vội vàng bảo nhau nín bặt. Lại bom rơi, đạn
nổ tơi bời; lại những tiếng gào thét giật giọng của chiếc loa to mồm. Ngay Hà
Nội, một ngày máy bay Mỹ cũng vào mấy lần.
Trong lúc lửa cháy, đạn
bay, với những tiếng gầm rít như xé vải của máy bay phản lực, chân ở trong cùm,
tôi nằm ngửa tênh hênh nghe tiếng đạn bom. Có điều nào khẳng định sẽ không có
một quả bom, không có một hỏa tiễn bắn vào nơi này? Trong cái hỗn loạn của tên
bay đạn lạc, nơi nào là an toàn? Có chăng, may ra, chỉ ở dưới hầm trú ẩn. Bất
ngờ, một tiếng rắc, sột, như tiếng ly vỡ trên nền gạch, vang lên ở trên mái nhà
làm tôi giật mình. Chả nhìn thấy gì cả vì vướng trần nhà, nhưng qua âm thanh,
tôi hiểu đã có vài viên ngói bể.
Khi máy bay Mỹ đã đi
rồi, tôi đang băn khoăn là bên ngoài, Hà Nội, những gì đã xảy ra sau một trận
không tập của hàng trăm máy bay Mỹ đủ các loại? Chợt, tiếng tên Dư, cán bộ trực
xà lim, ong ỏng vang lên:
- Chiều nay, các buồng
không đổ bô và rửa ráy. Ồng nước Hỏa Lò bị hư!
Như vậy, ống nước dẫn
vào Hỏa Lò đã bị bom làm hư hại. Phía bên ngoài có tiếng gọi nhau ý ới, lẫn với
những tiếng kêu la, xa dần rồi mất hút. Một mùi nồng nặc của khói xăng cháy làm
nhức cả đầu.
Sáng hôm sau, tên Dư
vào tuyên bố là từ nay các xà lim, các buồng chỉ được ra đổ bô một lần vào buổi
sáng mỗi ngày. Buổi chiều cho ra lấy cơm mà không được đổ bô nữa.
Từ ngày Mỹ bắn phá Hà
Nội, xà lim càng ngày càng vắng vẻ hơn. Ngay ngoài trại chung, tù cũng lưa thưa
hẳn ra, có lẽ chúng đã chuyển đi trại trung ương hết, chỉ để lại những phạm
nhân còn đang trong thời gian khai thác, hoặc liên quan đến những việc còn cần
thiết.
Trưa hôm nay, tôi đang
nằm mơ màng, chợt thấy buồng sáng hẳn lên, tôi ngạc nhiên bò nhổm dậy. Ôi, thật
là đẹp! Một chùm sáng như một cái ống bằng giấy bạc thẳng băng, chọc từ trên
mái nhà, xuyên chéo qua cửa sổ, đâm vào tường, ngay gần phía châm cùm của tôi.
Tôi vừa nhìn những hạt bụi dẫy dọn bay trong chùm ánh sáng, vừa ngỡ ngàng, băn
khoăn. Á, thì ra tiếng động như ly vỡ hôm qua đã làm bể một góc viên ngói, phía
bên ngoài cửa sổ.
Mặt trời đầu Hạ, khoảng
1 giờ trưa, chiếu ánh sáng chói chang chọc thẳng vào buồng tôi một điểm tròn
lung linh bằng quả cam, đường kính chừng 4, 5 phân đang le lói, nhấp nháy gần
chân cùm. Thật là “buồn ngủ gặp chiếu manh”. Tôi xin cám ơn các anh phi công
Mỹ. Của vưu vật trời cho, tôi phải đón nhận. Tôi vội vàng cởi ngay áo ra, xoay
chân ngồi hẳn lên cùm. Rồi tôi giơ mặt ra cho chiếc gậy sáng chọc thẳng vào mặt
tôi. Tôi rê dần xuống cổ, xuống đến ngực, hai cánh tay. Tôi vặn vẹo, xoay cánh
tay sao cho chùm ánh sáng, như chiếc bàn chải hạnh phúc, quét xoa hết cả người.
Từ bữa đó, trừ những ngày mưa, hoặc có mây nhiều, còn thì ngày nào tôi cũng
được hơn một tiếng đồng hồ hưởng các tia tử ngoại, hồng ngoại của ánh sáng mặt
trời. Cứ mỗi ngày, thời gian ánh sáng lọt vào buồng tôi lệch dần về chiều mươi
phút, nhưng cũng chỉ trong một tiếng đồng hồ.
Một lần, tôi đang ngọ
nguậy đưa cánh tay từ từ cho “chiếc gậy thần ánh sáng” chà xát, chợt cửa sổ nhỏ
xịch mở: Chiếc mũi nhòn nhọn của tên Dư thấp thoáng ngoài cửa sổ. Y không hỏi,
nhưng cứ đứng nhìn xem tôi làm gì. Một lúc, y hiểu, và từ từ đóng lại. Chắc y
không thể ngờ người ta lại có thể quý ánh mặt trời đến như vậy. Nếu không vướng
khuất mất cái khung gỗ phía sau cửa sổ, ánh sáng chiếu vào buồng tôi lâu hơn
nữa. Vì vị thế của lỗ hổng, và cũng vì sự xoay chuyển dần của trái đất đối với
mặt trời, cho nên thời gian luồng ánh sáng chiếu vào buồng tôi mỗi ngày mỗi
ngắn lại.
Cũng thật là buồn cười!
Có hôm, máy bay Mỹ đang ầm ầm bắn phá, tiếng đạn, tiếng bom, tiếng máy bay gầm
rít quay cuồng, đảo điên giữa sống và chết ở bên ngoài; trong này, tôi vẫn cởi
trần, đưa tấm thân gầy vặn vẹo, uốn éo, để cho luồng ánh sáng chà xát, coi như
thế giới này chỉ còn có mội một …..mình tôi. Bởi vì, trong 24 giờ, chỉ có một
tiếng đồng hồ cố định nắng chiếu vào buồng tôi thôi.
Hơn nữa, trong cảnh
này, đối với tôi, sự sống và cái chết đâu có còn là vấn đề quan trọng nữa…
60. Của “chuột”, và… “người”!
Vào một buổi trưa, tôi đang nằm chờ nguồn ánh sáng chiếu
vào buồng như mọi khi, mắt tôi đang lim dim, lả lướt trong niềm suy tưởng về
những nỗi chìm nổi của cuộc đời; bỗng tai tôi thoáng nghe một tiếng động khẽ,
mơ hồ phía dưới nền căn buồng. Tôi hé mắt, liếc xuống: Chà, một chú chuột nhắt,
bé tí tẹo, đang ngồi “xổm” dưới gầm sàn phía bên kia, hai… “bàn tay” bé tí tẹo,
đang chụm lại đưa lên miệng, như đang gậm nhấm cái gì. Thấy tôi mở mắt ra nhìn,
“y” định chuồn. Tôi phải hết sức im lặng, không dám cả thở mạnh, trong khi óc
tôi suy đoán thật nhanh: phía cửa, cánh cửa sát xuống nền, “y” không thể ra vào
được, chỉ một lối duy nhất, cái lỗ để nước chảy ra ở phía chân tường, chỗ đầu
giường. Lỗ này chỉ lớn bằng mặt chiếc đồng hồ đeo tay, nghĩa là đường kính
khoảng 2 phân rưỡi đến 3 phân là cùng, cái lỗ chỉ lọt một quả bàng ăn thông ra
một cái rãnh phía ngoài tường.
Chắc rằng những “cơ sở”
làm ăn cũ của tên chuột này bị động vì …cuộc băn phá của máy bay Mỹ, “y” chưa
tìm được đất sống, cho nên tạm thời “y” phải lang thang thăm dò…vùng đất hứa.
Thấy lỗ, “y” chui vào buồng tôi. Thật đáng buồn cho “y”. Đất “hứa” này chỉ có
gạch, xi măng, đá với sắt, không có đến cả mùi thực phẩm nữa, nói chi đến hạt
cơm rơi mà bò vào. Á! Thôi chết rồi! Vừa nghĩ đến cơm, tức khắc như một phản xạ
lóe lên trong đầu, tôi bò nhổm dậy nhìn nắm cơm tôi để ở cuối sàn phía chân
cùm. Dạ dày của tôi đã giặt sạch phơi khô từ 4 giờ chiều hôm qua cho tới giờ đã
20, 21 tiếng rồi. Tôi đang chờ đến 4 giờ chiều để được ăn một lúc cả hai suất.
Với bao nhiêu hy vọng của lúc đợi chờ giờ hạnh phúc, mặc dù dạ dày đang dán
chặt vào nhau, thế mà giờ đây, khăn bọc nắm cơm đã bị cắn thủng ra, cơm vãi tứ
tung. Nhìn những hạt cơm vương vãi, ruột tôi như…đứt ra từng khúc! Chắc cũng
phải mất đến ba, bốn chục…hạt cơm rồi, chứ không ít đâu!
Tôi cũng hơi ân hận vì
thiếu điềm đạm. Thực ra khi nhìn thấy con chuột, một sinh vật, tôi cảm thấy
trong lòng dâng lên một chút ấm cúng, bớt lẻ loi. Chính vì vậy, tôi đã không
dám trở mình, không dám cả thở mạnh, sợ con chuột chạy đi mất. Tới lúc, bất
chợt phát hiện nắm cơm, tôi không còn kịp bình tĩnh nữa, vội bò nhỏm dậy, khiến
cho chú chuột đã phải cong đuôi chuồn vào lỗ mất tiêu; để rồi bây giờ, vừa
tiếc…cơm, vừa tiếc phút gặp gỡ…”người bạn” mới quá ngắn ngủi.
Tôi chợt thoáng có ý
nghĩ, có thể con chuột ấy sẽ trở lại nữa?…Nếu vậy, làm sao bắt được nó, thì
thật là tuyệt vời! Dù rằng đối với tôi lúc này, cơm gạo là xương, là máu, tôi
cũng quyết định hy sinh mỗi ngày hai mươi hạt cơm cho “người bạn”, để đổi lấy
sự sống chung bạn bè, để cuộc sống đỡ cô đơn, heo hút, lủi thủi một mình.
Con chuột nhắt này xem
ra cũng quái lắm! Chân tôi lại bị cùm, tay không thể với tới cái lỗ dưới nền
phía đầu giường. Làm sao đây để bắt con được con chuột này? Người và vật, ai
khôn hơn ai? Nhưng, tôi cũng biết rằng khôn hay dại, còn phụ thuộc vào cái thế
nữa. Tôi nằm hoạch định một kế hoạch thật tỉ mỉ để khắc phục những nhược điểm
về cái thế của mình. Làm sao phải thật nhịp nhàng ăn khớp với nhau.
Trưa mai tôi sẽ cố ý để
lại mươi hạt cơm ngay dưới nền, ở mãi phía trong, xa cái lỗ, mãi chỗ sát cửa ra
vào. Trên sàn, tôi vờ nằm ngủ, tay thủ sẵn cái chổi thanh hao,cầm ngược phía
đuôi chổi. Chờ cho chú chuột mò vào, tôi chỉ cần rất nhanh vươn người, đút chặn
phía cuống chổi bít cái lỗ, con chuột sẽ không còn lối ra nữa. Dù vậy, tôi cũng
khó bắt được nó. Chân ở trong cùm, nếu nó chạy về phía gầm sàn bên kia là ngoài
tầm tay của tôi rồi. Như vậy, làm sao giải quyết? Khi cán bộ mở cửa, cán bộ
thường hay rút chốt cùm trước. Vậy, tôi chỉ rút chân ra rất nhanh, nhảy ngay
xuống trấn phía cửa, để cho con chuột phải vào phía đầu giường. Khi cán bộ mở
cửa, mình kéo dập vào, rồi với một cái vồ lẹ, nhưng chính xác là sẽ bắt được.
Kinh nghiệm vồ chuột, dù anh nhanh tới đâu, nhưng nếu cứ nhằm con chuột mà vồ,
thường là trượt, hầu như không bao giờ được. Phải phán đoán con chuột sẽ chạy,
chồm về phía nào, rồi vồ cách con chuột chừng 20 tới 25 phân. Nếu đoán trúng
hướng chạy của chuột là vồ trúng (với điều kiện không sợ chuột cắn). Chỉ trong một
phút này, cán bộ sẽ lại mở cửa và quát hỏi. Vậy, phải làm sẵn một sợi dây chỉ
dài, se 6 lần thật bền, buộc sẵn thòng lọng một đầu; đầu kia cũng buộc sẵn vào
cái cột chống sàn bằng xi măng, để khi bắt được chuột, xích nó lại ngay.
Cả buổi sáng hôm sau,
tôi tính toán mọi việc với con chuột tinh ma này! Cho tới giờ trưa như mọi khi,
tôi lại nằm lim dim, thỉnh thoảng he hé đôi mắt liếc nhìn cái lỗ. Tay tôi đã
thủ sẵn cái chổi. Thế mà lúc đợi chờ cũng thấy hồi hộp lạ lùng. Tai tôi cũng vểnh
lên nghe ngóng, đôi mắt thì hấp háy, lúc mở, lúc nhắm. Mười phút, hai mươi
phút, rồi bốn mươi phút trôi qua, không thấy động tĩnh gì cả. Phải chăng con
chuột đã biết tôi đang giương bẫy chờ nó? Hay hôm nay, nó kiếm được món ăn
khác, nhiều và ngon hơn? Tôi đang phân vân, đã hơi nản lòng đợi chờ, bỗng
thoáng nghe một tiếng động rất nhẹ. Ánh sáng chỗ cửa lỗ hơi tối đi, rồi mấy sợi
râu thò ra thụt vào. Tôi như nín thở. Một chiếc mũi đỏ hỏn bé tí, rồi cả cái
đầu thò ra. Đúng chú chuột hôm qua rồi. Xin mời bạn vào đây. Tôi xin lấy tình
bạn bè đối xử. Tôi không làm hại bạn đâu!…Thái độ của con chuột hôm nay thật
rụt rè. Nó cứ bước đi vài bước, lại dừng, nghểnh đầu, vểnh tai, nghiêng ngó về
phía tôi. Hình như nó cảm thấy, hay ngửi thấy một không khí bất an. Có lẽ mắt,
nhưng phải nói là mũi của nó đã ngửi thấy mùi thơm ngon ngất ngây của những hạt
cơm đang mời gọi phía cửa ra vào. Biết là nguy hiểm, mất an ninh, nhưng vì dạ
dày lép, miếng mồi lại mời gọi, làm cho nó mờ mắt, chân cứ tiến dần vào. Tôi
bật dậy như một cái máy, chít ngay đầu cuống chổi vào cái lỗ, lối ra duy nhất
của con chuột. Con chuột quả có khôn. Dù chưa thử,
nhưng nó cũng biết ngay
là không còn chỗ nào thoát ra, ngoài con đường duy nhất đó; vì vậy, nó chồm ra,
cứ định chui đầu vào cái lỗ đã bị đầu cuống chổi của tôi bịt kín. Dĩ nhiên là
không chui vào được.
Mãi một lúc, nó hiểu
rằng không còn cách nào nữa, nó sắp bị bắt rồi. Nó rút vào gầm sàn phía bên
kia, quay lại nhìn tôi bằng con mắt, tôi đoán là vừa khiếp sợ, lại vừa tức
giận. Ngược lại, tôi nhìn nó bằng con mắt…hữu nghị, bạn bè; nhưng chẳng biết nó
có hiểu như vậy không? Giữa lúc ấy, chốt cùm tôi xoạch mở. Đã chuẩn bị từ
trước, lẹ như chớp, tôi chồm xuống đất chận ngay phía cửa, vì tôi nghe tiếng
then cửa đã rút để mở cửa. Trong hoàn cảnh cấp bách từng giây, con chuột tuy bé
tí, nhưng vì thấy thế nguy, nhảy những cú nhảy bật lên như lò xo, rất cao. Thậm
chí, nó quýnh quá, nhảy cả lên sàn cao đến 60 phân. Tôi vồ cú đầu, trượt! Lợi
dụng ngay cái đà đang xiêu đi của cú vồ trượt, tôi lẹ tay vơ một cái như bắt
ruồi. Thế mà lại trúng ngay chú chuột. Nó nằm gọn trong tay tôi, đầu ngút ngắc
tìm thế cắn.
Đang lúc đó cửa mở, tên
Dư thò đầu vào quát:
- Anh làm cái gì đấy?!…
Mắt y mở to vừa ngạc
nhiên, vừa bực tức. Tôi vội vàng vừa cho chân con chuột vào sợi chỉ tôi đã buộc
thòng lọng sẵn, cột chân nó lại, vừa thở hổn hển trả lời rời rạc:
- Thưa ông, tôi…vồ con
chuột!
Y nhìn con chuột rồi
nhìn tôi; lúc đầu, y có vẻ khó chịu, mắt quắc lên; nhưng sau, ánh mắt của y dịu
dần xuống như thông cảm với cái tính còn trẻ con của tôi, y chỉ dấm dẳn:
- Đập chết, rồi vứt vào
nhà xí kia!
Tôi ôm bô ra, vừa khẩn
khoản:
- Thưa ông, tôi buồn
quá! Ông cho phép tôi nuôi nó mấy ngày thôi, chứ tôi có cơm đâu mà nuôi nó lâu?
Chắc y thấy rằng con
chuột bé tí teo, chẳng hại gì. Hơn nữa, như tôi đã nói qua, y cũng thông cảm
với tôi chút ít; vì vậy y chẳng nói có đồng ý hay không, chỉ giục tôi đổ bô mau
lên.
Tôi tỏ vẻ rất ngoan
ngoãn, chạy vội vào đổ bô, tráng xong, báo cáo ra liền. Tôi mang bô vào buồng,
lại trở ra lấy cơm ngay, vì đã có cơm rồi.
Sau khi cùm đã chốt,
cửa đóng, tôi cảm thấy căn buồng như ấm cúng hẳn lên. Sau nhiều ngày đêm heo
hút một mình, hôm nay, tôi có “người bạn” mới, người bạn đầy tin tưởng. Dù tôi
có ăn nói linh tinh điều gì về tư tưởng, tôi cũng chẳng lo gì về hậu họa, cho
nên tôi sẵn sàng hy sinh mỗi bữa mươi hạt cơm, không hề ân hận.
Trước khi ăn, tôi lấy
một hạt cơm ném cạnh nó như một cử chỉ mời mọc. Nó nghiêng cái đầu bé tí, ngó
bằng con mắt lấm lét. Hai cái tai và hai mắt nó cứ giương lên, cụp xuống tỏ vẻ
sợ sệt, chưa yên tâm. Vì vậy, hạt cơm vẫn để đấy, con chuột không ăn. Tôi vừa
ăn, vừa thỉnh thoảng lại nhìn con chuột. Nó cũng nhìn tôi, rồi lại nhìn hạt
cơm, nhưng nhất định không ăn. Dành cho nó dăm hạt cơm, còn tôi chén hết.
Sau khi trả bát rồi,
giờ đây thật yên lặng, chỉ còn con chuột với tôi. Tôi chẳng tìm được cách nào
để nói cho nó biết, hiểu được lòng tôi đối với nó là hòa bình, hữu nghị, chỉ là
tình bạn bè, hai bên cùng có lợi… Hàng mấy tiếng đồng hồ, cứ ngồi nhìn con
chuột lại đăm chiêu suy nghĩ, mong tìm ra một lối giải quyết, để có một cuộc
sống chung hòa bình giữa người và…chuột. Vô kế khả thi, nản lòng, tôi đành nằm
xuống đi ngủ, sau khi bỏ nốt mấy hạt cơm xuống nền nhà, gần bên nó.
Chợp mắt được một lát,
tôi giật mình thức dậy. Nhìn xuống chỗ con chuột, thấy nó vẫn ngồi chồm hỗm,
ngước đôi mắt tí hin lên nhìn tôi, những hạt cơm vẫn còn nguyên trên sàn. Có lẽ
nó không ngủ? Tôi mặc kệ, lại nhắm mắt ngủ tiếp. Tôi nghĩ, rồi trước sau gì nó
cũng phải ăn cơm. Nó cũng là một sinh vật như tôi; nếu mai không ăn, thì ngày
kia sẽ phải ăn. Tôi thoải mái đi vào những suy tư của riêng mình.
Sáng hôm sau, khi tôi
mở mắt ra, nhìn xuống nền nhà, con chuột đã …biến mất rồi, cả những hạt cơm
cũng bay hết; chỉ còn một đoạn chỉ ngòng ngoèo, chơ vơ nằm đó. Chà, tôi thật là
ngố, và đánh giá quá thấp “người bạn” mới này. Chuột mà cắn, chỉ gì lại không
đút; trừ có giây kim loại thôi. Thế mà sao tôi không nghĩ ra. Thật là tiếc
công, lại tiếc cả người bạn chưa thân đã bỏ nhau rồi. Anh bạn ra đi, vẫn không
quên chén sạch mấy hạt cơm của tôi… mời.
Bây giờ, chắc gì nó trở
lại nữa. Dù vậy, trưa hôm sau, tôi vẫn để lại mấy hạt cơm, cho nó thấy mồi,
biết đâu nó lại vào nữa thì sao? Mãi gần mười ngày sau, tôi đã tưởng không bao
giờ trông thấy nó nữa, thì cũng vào một buổi trưa, không khí cuối Hạ vẫn còn oi
nồng, tôi đang nằm mơ màng chờ giờ cơm chiều, mắt lơ đãng nhìn đây đó chẳng có
một chủ định gì, từ chiếc cửa sổ nhỏ, đến chiếc cùm; rồi chợt nhìn đến chỗ mấy
hạt cơm dưới nền nhà, tôi thấy đã biến mất. Ngồi bật dậy, tôi đưa mắt nhìn
quanh kỹ hơn, không một âm thanh, dù nhỏ bé. Xà lim vẫn yên ắng như tờ. Vậy là
chú chuột đã trở lại? Hay một chú chuột khác? Thế là, tôi quyết định ngày hôm
sau lại chủ ý rình.
Trưa hôm sau, cũng mấy
hạt cơm làm mồi, và như lần trước…tôi lại tóm được chú chuột ngày xưa ấy.
Có thể thời buổi khó
khăn, nó đã tha phương cầu thực nhiều nơi, nhưng vẫn không tìm được nguồn sống,
trừ căn buồng của tôi. Tuy đã bị bắt một lần và đã …đào thoát được, (chắc lúc
nó thoát, đã tự hứa sẽ “cạch” đến già, không bao giờ trở lại cái buồng của tôi
nữa…)
Nhưng, khốn thay, mò
mẫm đến đâu cũng chẳng có gì đút bụng; cho nên, vì sự sống còn, biết là đầy dẫy
hiểm nguy, nó cũng đành phải xông vào chỗ chết để tìm cái sống vậy. Và, lại rơi
vào tay tôi. Âu là, dù khôn, dù biết, nhưng vẫn không tách rời khỏi điều kiện,
Lần này, tóm được nó,
tôi không thể nhân nhượng, tôi không thể để nó có một điều kiện nào thoát khỏi
tay tôi một lần nữa. Vì thế nên khi ra trả bát xong, và sau khi đã bị cùm, khóa
đâu vào đấy rồi, tôi cúi xuống cầm sợi dây, kéo vào, lựa thế chộp nó. Nó lồng
lộn, tìm cách vuột ra, nhưng làm sao được, chân đã bị buộc rồi. Nắm chặt nó
trong lòng bàn tay, nhìn đôi mắt thất thần của nó, tôi lịch sự:
- Chỉ vì tôi muốn sống
chung với “bạn”, vậy bạn vui long cho tôi mượn bạn…hai cái răng cửa!
Tôi hiểu rằng, nếu nói
được tiếng người, chắc chắn nó sẽ phản đối kịch liệt. Đời nào nó lại đồng ý với
cái lý do kỳ khôi ấy. Khốn, đây cũng là cái lý của kẻ khỏe trên cõi đời này mà.
Thế là tôi vặn nghiến hai cái răng của nó. Từ nay đừng hòng cắn dây buộc để
thoát cũi, xổ lồng nữa nhé…!
Người và vật ở với
nhau, mãi rồi cũng thành quen. Nó không còn sợ tôi như buổi ban đầu nữa. Thậm
chí, đã có lần tôi cho nó rúc cả vào bụng tôi. Cuộc sống của tôi, kể từ ngày có
nó, thấy ấm cúng hẳn lên…
Tối nay, cũng như mọi
tối, tôi đang ngồi đùa bỡn, chuyện trò với…con chuột, đột nhiên súng nổ như bắp
rang, xen lẫn những tiếng ùng ục rung trời chuyển đất. Hôm nay đặc biệt không
có còi hụ, như vậy, Mỹ đã có một phương pháp nào đó để đánh lừa màng lưới “ra
đa” của Cộng Sản. Chiếc cánh cửa xà lim rung lên bần bật như trái đất rùng
mình. Con chuột hôm nay hình như cũng sợ quá, chui mãi vào chỗ rốn của tôi, Cái
tay nó cứ ngọ nguậy, nhất là những cái lông mõm của nó cứ chà đi xát lại, da
bụng của tôi làm tôi nhiều lúc nổi da gà, nhưng cũng thật…đê mê.
Đèn bỗng phụt tắt.
Không biết đường dây điện bị đứt, hay nhà máy điện bị đành? Cả tiếng loa vẫn
hồng hộc quát tháo om xòm bây giờ cũng câm bặt. Trời tối đen như mực. Những ánh
chớp nhấp nháy xanh lè liên tục với những tiếng đạn nổ, bom rơi. Tôi rất tiếc
là cái chân bị cùm, và tôi phải ở xà lim, chứ lúc này mà được nhìn ra ngoài
trời, hẳn là như được dự một đêm hoa đăng muôn hồng, nghìn tía của ánh hào
quang.
Hơn một tiếng đồng hồ
sau, còi hụ mới báo an, nghe ư ử như con bò cái gọi đực kéo dài.Vừa ngắt giọng
như hết hơi thì súng và bom lại nổ tơi bời; những làn chớp lại nhấp nháy liên
hồi như trong quán rượu nhảy đầm vậy.
Tôi không thể tưởng
tượng được đạn của Cộng Sản ở đâu mà nhiều thế. Không biết bao nhiêu khẩu pháo
bắn “liên chi hồ điệp”, không lúc nào ngừng, tưởng như vỡ cả bầu trời Hà Nội
ra! Mà dạo này, mật độ của máy bay Mỹ bắn phá Hà Nội càng nhiều hơn. Có đêm 3,
4 trận; có ngày liên tục không biết bao nhiêu trận. Có khi lại bẵng đi cả nửa
tháng yên lành; rồi lại sùng sục đạn réo, hỏa tiễn bay và máy bay rơi, cũng như
tơi bời người chết. Tôi hiểu, Mỹ đã dùng nhiều chiến thuật, nhiều thủ đoạn để
đánh Hà Nội nói riêng, và miền Bắc nói chung. Nhưng, như tôi đã trình bày ở
trên, Cộng Sản đã nghiên cứu được hết. Tình trạng này, cũng giống như kẻ đi
buôn lậu, với lính “đoan” bắt hàng lậu. Người buôn lậu mỗi khi tìm cách giấu
hàng mới, chỉ thoát được chuyến đầu. Sau, làm nữa, thế nào cũng bị lộ tẩy.
Hôm nay, là Chủ Nhật.
Mãi gần 9 giờ, mới có cán bộ vào mở các buồng cho ra rửa. Đến lượt tôi, qua
cách mở cửa, mở cùm, tôi đã biết là cán bộ lạ. Khi bưng bô ra khỏi cửa, tôi mới
biết đó là tên Ba. Tay này rất lầm lì, ít nói. Y là trung sĩ, người Nghệ An,
trước đây đã có thời gian trực ở xà lim III.
Lúc tôi mang bô vào, y
đang ở trong buồng tôi. Y trừng mắt nhìn tôi, tay chỉ con chuột:
- Chuột nào đây?
- Thưa ông, nó chui vào
buồng, nên tôi bắt nó!
- Ở trong này, ai cho
anh nuôi chuột?
- Tôi thấy nó bé ti,
nên buộc nó chơi cho đỡ buồn…
Y gằn giọng quát:
- Đập chết, vất ra
ngoài!
Thấy y nổi nóng, tôi
mềm dẻo trình bày:
- Thưa ông, tôi đã
buộc, nuôi nó hơn nửa tháng nay rồi. Nó không làm ảnh hưởng gì đến xà lim cả ạ.
- Không được! Anh có
nghe lệnh của tôi không?
Thấy tình hình căng, vì
tiếc con chuột, dạo này đã quen tôi, nên tôi cố nằn nì:
- Xin ông thông cảm,
ngày mai tôi sẽ giết nó, ném vào nhà xí!
Y quay lại tôi, xửng
cổ:
- Bỏ chân vào!
Tôi ngồi ghệ vào sàn,
rồi bỏ chân vào cùm. Y trở ra bên ngoài cửa, chốt cùm. Rồi y xồng xộc đi vào,
lấy chân đạp mạnh vào con chuột. Tim tôi như thót lại. Con chuột rất lanh, nhảy
tránh được. Y càng tức, co chân lên rồi đạp xuống lung tung nhiều lần. Vì bị
vuớng sợi dây “oan nghiệp” mà tôi đã buộc vào chân nó, cuối cùng nó không tránh
được. Nghe đánh ‗bẹt” một tiếng. Tôi nhìn con chuột ruột bị phòi ra; hai con
mắt tí hon như hai hạt cườm đen trắng long lanh phọt hẳn ra ngoài, long thòng
hai chân, hai tay nó run lên bần bật, rồi uể oải dần, cho tới khi ngừng hẳn.
Một luồng hơi nóng chạy
ngược từ dưới cổ tôi lên trên mắt. Tôi nhìn tên cán bộ! Tôi muốn y phải giống
như con chuột. Nhưng, chợt nhìn thấy cái chân mình trong cùm, rồi lại nghĩ đến
cái thế của mình lúc này, tôi thấy như có một gáo nước lạnh dội vào đầu. Tôi
đành cụp mắt xuống! Trước khi quay ra, đóng, khóa cửa, y còn ngoái lại nhìn tôi
bằng đôi mắt lừ đừ khiêu khích.
Thân tôi thật hèn!
Không bảo vệ được cho ngay… một con chuột. Cửa đã đóng lại, tôi nhìn xác con
chuột bẹp dí, ruột gan lòi cả ra ngoài mà thấy như ruột gan mình cũng tìm dần
lại.
Cái chết của con chuột,
làm tôi suy nghĩ và buồn đến mấy ngày; liên tưởng đến cuộc đời, gia đình, xã
hội. Bao nhiêu vấn đề đang diễn tiến, đổi thay, thế mà thân mình vẫn cứ nằm dài
một chỗ nhìn ngày tháng dần qua… Đã ba năm bốn tháng rồi, nhìn về ngày mai,
chưa biết đến bao giờ! Cái khổ cực kinh khủng nhất là cái chân cứ lằng nhằng ở
trong cùm. Ngay đến nằm, hay ngồi, cũng còn không được tự do nữa, nói chi được
ra ngoài, đi lại. Ở miền Nam, bao nhiêu cuộc đảo chính, bao nhiêu biến thiên,
vũng lên… đồi, đồi thành… vũng! Bạn bè, thân thuộc ai còn, ai mất, ai lên đồi,
ai xuống vũng? Trong khi quân đội Mỹ kéo vào ùn ùn. Một nỗi ngổn ngang trăm mối
trong đầu.
Con chuột, “người bạn”
mới, chết đi làm tôi rầu rĩ, nặng nề; rôi quên bẵng đi những nguyên tắc sống mà
chình mình đã tự đề ra. Mấy ngày qua, lòng tôi cứ héo hắt, âu sầu. Tôi chợt nhớ
đến một câu hát “Que sera sera! What ever will be …will be!”, phải rồi. Lúc này
hãy buông trôi nó, có suy nghĩ mãi, cũng đâu giải quyết được gì! Tôi lại nhớ
đến một ý thơ của Thâm Tâm, nhưng lộn xộn trong đầu:
“Mẹ thà coi như giấc
ngủ ngày, “Tình thà coi như…khói thuốc say, “Em thà coi như chiếc là bay, “Nước
thà coi như…bát cơm đầy…”.
Nhưng, tôi hiện giờ,
cũng chỉ được hưởng giấc ngủ ngày: còn khói thuốc say và nhìn lá bay thì đâu
có! Chứ bát cơm đầy, thì bao giờ mới được hưởng?…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét