31. Nghĩa “Bình Xuyên”…
Để làm sáng tỏ phần nào cuộc đời của Nghĩa. Tôi xin tường
thuật lại sự việc cũng dính dáng đến một đoạn đời của tôi và một góc bối cảnh
ngang ngửa của quê hương…
Sự việc xẩy ra vào
khoảng tháng 8 năm 1954 tại Bệnh Viện Bình Dân, khi ấy là đường Général Lizé
(đường Phan Thanh Giản Sài Gòn sau này). Giai đoạn đó, bệnh viện vừa mới xây
xong nên chính quyền, tạm thời dùng làm trại tiếp đón đồng bào di cư từ Bắc vào
Nam theo hội nghị Genève.
Như tôi đã nói đến phần
đầu. Tôi, một thanh niên 16 tuổi mới vào thành đô. Ngay ngày đầu, sống giữa cái
ồn ào, hỗn tạp, xô bồ của giòng người đủ mọi thành phần tại bệnh viện này,
chẳng biết cuộc đời mình sẽ trôi dạt về đâu.
Lúc đó, tuy mới 16
tuổi, nhưng nhờ thích thể dục thể thao, nên người tôi trông cũng nẩy nở cứng
rắn. Tôi cũng đã đấm đá nhiều, vì bị ảnh hưởng của phong trào “càn” của học
sinh Hà Nội thời 53-54. Khi vào Sài Gòn, tôi mang theo một lạng vàng, đúc thành
một cục. Tôi luôn luôn để trong một cái túi nhỏ, khâu kín ở bên trong quần lót.
Giữa lúc đó, tôi gặp một “băng” 3 cậu cũng là học sinh “càn” ở Ngõ Huyện Hà
Nội: Tuyển, Luân, An, độ 16, 17 tuổi, trốn nhà vào Sài Gòn, và cũng chẳng quen
biết ai như tôi. Trông cậu nào cũng ngổ ngáo, dữ tướng, tay to, ngực nở. Thôi
thì cùng hội, cùng thuyền, 4 đứa thường nằm chung với nhau một chỗ. 3 cậu kia
thuộc loại không cần ngày mai, có đồng nào tiêu hết đồng ấy, lần lượt đồng hồ,
rồi quần áo cũng bán dần.
Giai đoạn này, theo
nguyên tắc từ Tổng Ủy Di Cư. Mỗi đồng bào, mỗi ngày được cấp phát 4 đồng rưỡi,
nhưng tên trưởng trại Nhuận, cũng giống như nhiều người khác, mang sẵn trong
mình dòng máu tham nhũng, thối nát của một bối cảnh lịch sử đất nước lúc bấy
giờ, nên y đớp hết. Gia đình đồng bào nào không có thân nhân ở ngoài, không có
tiền riêng mang theo, đều lâm vào cảnh thiếu đói. Cũng vì thế, khi Tuyển, Luân
và An gặp tôi, các cậu đang ngang ngửa từng ngày, nằm queo từ sáng đến chiều,
không có gì trong bụng. Tôi thông cảm, nên lúc thì tôi nói có 200 đồng, lúc thì
bảo mới gặp người quen xin được 100 đồng… để các cậu có cái ăn. Khốn một điều
là các cậu thuộc loại tiêu tiền không cần tính. Hai trăm đồng nếu mua cơm bữa
ăn, 4 người dè xẻn cũng được cả tuần lễ, hoặc mươi ngày. Đây lại vào hiệu gọi
phở xào, uống bia, nên chỉ một ngày là nhẵn. Tôi thấy cứ như thế này thì làm
sao mà kham cho nổi, nên cũng đành nhiều khi phải nhịn đói cùng nhau, dù tôi có
tiền. Họ biết thế, nên tôi đi đâu họ cũng không bỏ rời. Nhiều lúc, chính tôi
cũng đói quá không chịu được, tôi lại phải vờ gặp được người quen cho tiền.
Giữa cảnh sống dở chết
dở đó. Mà đồng bào lại cứ kéo vào ùn ùn. Nằm la liệt đầy cả lối đi, lẫn trong
nhà xí, bẩn thỉu, hôi thối, nhưng không còn chỗ. Vì là bệnh viện mới xây, chưa
có giường, phản nên tất cả đều nằm xuống nền nhà. Có chiếu, có vải trải ra thì
tốt, nếu không, phủi sạch nền mà ngả lưng, chật như nêm cối.
Buổi sáng ra, 4 tên,
trông ngoài thì có vẻ „cậu”, nhưng trong bụng cậu nào cũng có cuộc biểu tình
kịch liệt. Chưa biết lấy cái gì cho vào, để dẹp các cuộc biểu tình này. Giữa
phòng người đầy ắp chen ra, chen vào. Bất chợt tôi nhìn thấy một anh Trung Úy,
quần áo là thẳng tắp, đội mũ sĩ quan, huy hiệu vàng chóe hình nước Việt Nam.
Trông anh đầy phong độ, hồng hào đẹp trai, cao khỏe. Mắt tôi chạm mắt anh sĩ
quan đó, cùng sáng lên ngỡ ngàng. Tôi ngỡ ngàng vì đây là Nghĩa. Tôi nhớ không
lầm, chỉ mới cách đó 6 tháng trước, Nghĩa còn đứng gác soát vé cho rạp hát Kim
Chung ở Hàng Bạc Hà Nội. Thường vẫn nể “pha vơ” cho tôi vào xem “cọp”; thế mà
giờ đây lại đeo lon Trung Úy, loại Trung Úy rất hách.
Nghĩa lúc đó khoảng 28,
29 tuổi. Trước thế và cảnh này, thôi mình tạm thời làm đàn em vậy! Tôi và Nghĩa
cùng chạy lại bắt tay nhau rối rít. Tôi mừng khác, và Nghĩa mừng khác, nhưng
cuối cùng hai cái mừng đều gặp nhau ở một điểm: “Giải quyết cái mình muốn”.
Nghĩa vồn vã:
- Bình vào bao giờ đấy?
Bố mẹ có vào không?
Tôi hân hoan:
- Em vào một mình, ông
bà “bô” sẽ vào sau.
Nghĩa chỉ về phía
Tuyển, Luân, An:
- Bạn của Bình đấy à!
Cũng như Bình chứ?
Tôi gật và nhìn lên
lon, lên mũ của Nghĩa. Hiểu ý, Nghĩa hạ giọng:
- Nói thực với Bình,
tôi có ông chú làm Đại Tá trong Bình Xuyên, vì thế, tôi vào, được đề bạt đặc
biệt. Tôi đã biết Bình, ngang tàng như Bình ở đấy rất hợp. Bình Xuyên là một
đảng lớn. Sài Gòn, Chợ Lớn hầu như do toàn quyền kiểm soát của Bình Xuyên. Cảnh
sát, công an đều do Bình Xuyên nắm giữ. Quân Đội Quốc Gia, không có một cá nhân
nào, từ Tướng trở xuống dám ho he nói động đến Bình Xuyên. Nói động đến là “củ”
liền. Riêng với Bình, tôi sẽ về nói với chú tôi trả cho Bình Thiếu Úy. Chúng ta
là người Bắc, phải có “băng” với nhau. Khi Bình đã vào Bình Xuyên mang lon
Thiếu Úy rồi, sẽ được phát cho một cái đầu hổ, dấu hiệu của đảng.
Nghĩa vạch luôn trong
ve áo cho tôi nhìn. Một cái đầu hổ bé tí, đường kính độ 2 phân, bằng đồng, sơn
màu xanh xám, đúc rất sắc sảo; cái mồm há ngoác đỏ lòm, giơ mấy cái răng nanh
trắng hếu. Nghĩa nói tiếp:
- Bất cứ Bình căm tức,
thù ghét thằng nào bên quân đội Quốc Gia, từ Đại Úy trở xuống, Bình cứ “nốc ao”
nó tự do. Nếu thua Bình chỉ lật ve áo giơ dấu hiệu của đảng, sẽ có nhiều người
chung quanh (người của đảng) xông vào đánh thằng đó chết tươi ngay. Còn nếu
Bình cảm thấy không đủ sức đánh nó, hãy vờ rủ nó về gần cầu chữ “Y”, Bình rút
súng ra cho nó một phát, rồi chạy sang bên kia cầu, sẽ bảo đảm an toàn.
Nghe Nghĩa nói, và với
cái nhìn thực tế của tôi lúc đó ở Sài Gòn, tôi thừa nhận lời Nghĩa nói có giá
trị. Ngay trong bảng đá khắc tên những ân nhân tặng tiền xây bệnh viện Bình
Dân, cũng thấy tên Lê Văn Viễn đứng đầu. Đâu đâu, người Sài Gòn, Chợ Lớn cũng
nể sợ Bình Xuyên. Tướng, Tá của quân đội Quốc Gia cũng nể, bởi vì Bình Xuyên có
đoàn ám sát cảm tử khát máu.
Lúc đó, tôi chỉ là một
thanh niên mới lớn, nhìn cuộc đời còn đầy ấu trĩ; hơn nữa, vì cái tính ngang
tàng thích đấm đá, phải nói Bình Xuyên là đất dụng võ. Do đấy, tôi đồng ý ngay.
Nghĩa rất hớn hở:
- Thế còn mấy người bạn
của Bình thì sao?
Muốn có thời gian bàn
thảo, trước khi quyết định, tôi nói:
- Để em hỏi, chắc các
bạn cũng thích như em.
Nghĩa nói có việc bận
một chút và bảo tôi nửa giờ nữa, ra gặp Nghĩa ở trước bệnh viện.
Tuyển, Luân, và An khi
biết sự việc đã mừng quýnh, trước hết giải quyết cái dạ dầy đã. Thế là cả 4 tên
đều đồng ý lát nữa ra gặp Nghĩa.
Khi gặp Nghĩa, 3 cậu
cũng cứ rối rít anh anh, em em coi như đây là một cơ hội ngàn năm đổi hướng
cuộc đời. Theo hẹn ước, 8 giờ sáng hôm sau, Nghĩa sẽ đem xe tới đón. Ngày và
đêm hôm đó, chúng tôi bàn tán ồn ào. Lòng tôi cũng hân hoan phấn chấn, cho nên,
tôi vờ vào nhà cầu. Khi ra, tôi đưa ra một tờ 200 đồng, mặt dầu dầu tình cảm:
- Tao chỉ còn duy nhất
200 đồng này, tao định cất kỹ phòng hờ. Vậy, chúng ta phải ăn dè, tối nay 50
đồng, sáng mai 50 đồng, còn 100 đồng thì đưa cho thằng Luân, ở lại trên này,
giữ 2 cái va-li: một của tao, và một của 3 chúng mày.
Quay lại phía thằng
Luân, tôi căn dặn:
- Chúng ta chưa biết rõ
Bình Xuyên thế nào, vậy cứ xuống người không đã. Nếu có gì không thích, chuồn
ra dễ dàng hơn; còn nếu thấy “hẩu”, ba bốn ngày sau, chúng tao sẽ ra đón mày
vào.
Tôi bàn như vậy, chúng
nó thấy hợp lý nên đồng ý ngay, Vả lại, từ ít lâu nay chúng nó vẫn thường nghe
theo ý kiến của tôi.
Sáng hôm sau, mãi 8 giờ
Nghĩa mới lái xe “díp” đến, theo sau là một xe Dodge 4, do một Trung sĩ lái.
Khi chỉ thấy có 3 chúng tôi, Nghĩa nhìn tôi hỏi ngay:
- Còn anh kia nữa đâu?
Đã dự trù trước nên tôi
tình cảm:
- Anh Nghĩa à, lẽ ra 4
chúng em cùng đi một lượt, nhưng vì còn 3 người bạn nữa ở Hà Nội sắp tới, chúng
em để Luân ở lại chờ, đón rồi cùng vào luôn.
Nhìn thấy tôi vẻ hoan
hỉ, Nghĩa cũng tin tưởng, nên y gật đầu:
- Được!
Từ hôm qua tới nay, tôi
đã hiểu Nghĩa lên các trại đón tiếp đồng bào di cư, để dụ dỗ người vào Bình
Xuyên. Tùy theo tầng lớp và loại người, Nghĩa hứa hẹn nào phát ruộng, cho đi
học, vào hãng xưởng làm việc, làm văn phòng, vào Bình Xuyên có nhiều quyền lợi
v.v… Mục đích càng đón được nhiều người, càng tốt. Nhất là những gia đình, có
vợ chồng con cái. Dân có đông, thế mới mạnh, lực mới lớn.
Cùng lên xe Dodge 4 với
chúng tôi, có hai gia đình của mấy anh Địa Phương Quân, bồng bế cả vợ con.
Nghĩa đặt tay lên vai tôi:
- Bình và các anh em về
trước, tôi bận chút việc, sẽ về sau.
Xe Dodge chuyển bánh,
chúng tôi chưa hề biết gì về chung quanh Sài Gòn. Nhất là vùng Bình Xuyên, và
ngay cả hai tiếng “Bình Xuyên” cũng đầu tiên trong cuộc đời nghe thấy. Chúng
tôi thấy xe chạy vòng vèo mãi. Khi xe qua một chiếc cầu, mà sau này tôi biết là
cầu chữ “Y”. Tôi thấy ngay giữa cầu, một chòi gác rất xinh xắn, một Quân Cảnh
cũng giầy, ghệt, găng tay, mũ sắt trắng, nhấc cây chặn đường xe qua. Xe đi qua
một khu phà lớn gồm nhiều phố xá với cái cổng to mang 3 chữ lớn: “TỔNG HÀNH
DINH”. Nhìn thoáng bên trong, cũng cột cờ, lính tráng đi lại. Hai khẩu đại bác
105 ly còn mới toanh, với hàng dẫy xe GMC. Tôi có cảm nghĩ, như thế này có khác
gì quân đội Quốc Gia! Xe đi qua khu Tổng
Hành Dinh, rồi đi mãi
qua một số phố xá, đến khu ruộng đồng. Tới chỗ có mấy căn nhà to, có hàng rào
giây thép gai, có lính gác, xe đi tuột vào trong.
Chúng tôi xuống xe. Mấy
gia đình, hòm xiểng chăn màn, bồng bế nhau vào ngồi một chỗ, còn chúng tôi đi
lang thang trong sân chờ Nghĩa về. Điều đầu tiên làm cho tôi suy nghĩ mãi, là ở
giữa sân có hai cột cờ cao, sơn trắng với hai lá cờ đang tung bay phất phới:
Một lá cờ ba sọc Quốc Gia, còn lá cờ kia là cờ đỏ sao vàng. Chỉ khác với cờ
Việt cộng là có một nền vuông mầu xanh bọc chung quanh ngôi sao. Tại sao cờ
Bình Xuyên lại như vậy?
Tôi băn khoăn và muốn
tìm hiểu. Tôi lân la làm quen với một anh lính nhỏ. Được biết anh là liên lạc
của Trung úy Tư, Trưởng đồn, người miền Nam, và Trung úy Nghĩa là phó. Anh có
tên là “Ba Nhỏ”. Qua một số chuyện trò, Ba Nhỏ rất thích chúng tôi. Anh tỏ vẻ
hiểu biết, chỉ ra phía cột cờ:
- Mới cách đây mươi
bữa, ở chỗ đó xử tử hai tên do thám của Hòa Hảo!
Tôi mở to mắt ngạc
nhiên. Anh nói tiếp như chứng minh:
- Ở đây, bắn chết người
là thường!
Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng
những điều Ba Nhỏ nói chuyện đã làm cho tôi suy nghĩ không ít. Gần trưa cũng
không thấy Nghĩa về. Một người lính ra gọi chúng tôi vào một ngôi nhà lớn.
Trong nhà rộng thênh thang, những tranh ảnh treo chung quanh tường, chứng tỏ là
một nơi huấn luyện quân đội. Mãi trong cùng, nơi một số bàn làm việc, có một
Trung úy, một Chuẩn úy và một Trung sĩ. Tên Trung úy hỏi tên chúng tôi. Sau khi
biết chúng tôi là người của Nghĩa, chờ Nghĩa về giải quyết, y chỉ ghi tên chúng
tôi để làm sổ ăn. Cuối cùng, một tên Trung sĩ ra hiệu:
- Bây giờ các anh ra
ngoài chờ. Trung úy Nghĩa có thể chiều mới về. 12 giờ trưa các anh ra Câu Lạc
Bộ Sĩ Quan ăn cơm.
Chúng tôi ra sân, mắt
nhìn nhau đều sáng lên, nhất là Tuyển và An. Hai cậu được giải quyết ngay cái
khâu dạ dầy, mà lại ở Câu Lạc Bộ Sĩ Quan cơ. Đúng trưa, theo Ba Nhỏ chỉ, chúng
tôi đến Câu Lạc Bộ ở gần mé sông. Câu Lạc Bộ gì mà làm tôi ngạc nhiên. Một cái
nhà lá dài, trống trơn, không vách, dọc theo ở giữa nhà là những tấm gỗ ghép lại
thành một cái bàn dài. Một thúng cơm nhỏ để chỏn vỏn trên bàn, bên cạnh là một
bát canh to đầy nước, trong có ba con cá mòi nhỏ, nấu muối. Tôi thử một tí nước
tanh đến buồn nôn. Cơm vàng lợt, nguội tanh, có mấy vừng cơm nhão như cháo đặc.
Tôi không thể ăn nổi. An và Tuyển vì đói nên cố gắng ăn. Phần tôi, vì trong
người vẫn còn tiền, hơn nữa, lúc lang thanh trong trại, tôi đã nhìn thấy nơi
gia đình binh sĩ có một hàng cơm nhỏ, nấu ngon lành. Nên, tôi bảo An, Tuyển hãy
thông cảm, tôi ra ăn mấy đồng cơm hàng. Buổi chiều cũng không gì hơn, Tuyển và
An vẫn phải cố gắng nuốt, vì cơm còn khê nữa.
Chúng tôi cứ lang thanh
trong khu vực trại. Để xem thế nào, một lần, chúng tôi coi như không để ý, thả
bước về phía cổng trại để ra đường. Một anh Trung sĩ chạy ra, lịch sự:
- Các anh thông cảm,
hãy đi vào trong. Khi làm giấy tờ xong tha hồ muốn đi đâu cũng được.
Như vậy là chúng tôi
coi như bị giam lỏng rồi. Mãi gần tối, Nghĩa mới về, chúng tôi tíu tít chạy lại
đón ngay khi xe díp vào sân, còn chưa tắt máy. Nghĩa cũng tỏ ra rất hưng phấn,
tươi tỉnh. Nghĩa cũng hiểu rằng, tuy chúng tôi nhỏ tuổi, nhưng là người đang đi
học, có ít nhiều hiểu biết, và cũng ngang tàng bạt mạng. Vậy, nếu thu phục được
chúng tôi, cũng có nhiều điều lợi. Nghĩa nói là bận lắm, dù vậy tối nay Nghĩa
sẽ xuống ngủ với chúng tôi, để gọi là anh em hàn huyên tình nghĩa.
Chúng tôi được dẫn vào
một căn nhà lớn khác. Trong trại, có hai căn nhà to. Theo Ba Nhỏ, đây là hai
cái kho của tụi Nhật ngày trước. Căn nhà chúng tôi ở có 4 dẫy sàn rộng thênh
thang. Ở mỗi góc, lèo tèo dăm gia đình, hoặc là Địa phương quân hay nông dân
miền Bắc. Vì biết có Trung úy Nghĩa xuống ngủ, nên mấy tên lính chuẩn bị quét
dọn phía đàng góc này, rồi trải chiếu v.v…
Trời đã tối, mãi 8 giờ
Nghĩa mới xuống. Tên Ba Nhỏ vì thấy vui cũng xuống nằm. Nghĩa huênh hoang
chuyện trò có vẻ rất tự mãn về mình, chúng tôi cũng đẩy đưa câu chuyện cho qua.
Tôi hiểu, hiện nay đồng bào di cư đang vào nhiều, Nghĩa có trách nhiệm mời đón,
càng được nhiều, uy tín càng lớn.Trong lúc Nghĩa nói chuyện, thỉnh thoảng trên
mái ngói cao tít, tiếng một con cắc kè rống vang lên trong căn nhà rộng, làm
cho câu chuyện cũng ngập ngừng. Một ngọn đèn 60 watts treo lủng lẳng ở giữa,
toàn căn nhà vẫn tối om, chỉ có một đốm sáng lửng lơ là ngọn đèn. Vì thế, nghe
tiếng cắc kè kêu, chúng tôi đều cảm thấy hoang vắng gợi sầu. Tỏ vẻ bực bội,
Nghĩa sai tên Ba Nhỏ lên phòng cầm cho y cái đèn “pin”. Một lúc sau Ba Nhỏ cầm
đèn pin về. Chờ lúc cắc kè kêu, Nghĩa chiếu lên mái, nó nằm chếch ở một cái xà
gỗ. Nghĩa đưa đèn cho tôi rọi, rồi rút khẩu súng ngắn ở bên hông, lên đạn. Mọi
người đều đứng hết cả dậy hồi hộp theo dõi. Một tiếng nổ chát chúa vang ngân
lên trong đêm khuya, làm giật mình mọi người. Đạn chả trúng cắc kè, nhưng làm
tung ra mấy viên ngói, rơi xuống sàn gỗ rào rào.
Từ đấy, chú cắc kè cũng
im bặt; nhưng Nghĩa thì tỏ ra nghênh ngang, truớc sự thán phục của Tuyển, An và
Ba Nhỏ. Đối với tôi, nhìn việc này, tôi thấy đây là một việc làm hỗn độn, chỉ
có trong một cái đảng lộn xà ngầu.
Sáng hôm sau, 8 giờ,
một tiểu đội bồng súng, một Thiếu úy người Bắc hô chào cờ. Có cả Nghĩa và chúng
tôi. Hai người lính đều trang nghiêm kéo hai lá cờ lên. Tên Thiếu úy vừa hô
nghỉ xong, chưa kịp hô giải tán, Nghĩa đã tiến đến người Thiếu úy:
- Yêu cầu Thiếu úy đưa
trả cái “permission” cho tôi!
Người Thiếu úy trẻ,
nhưng thấp hơn Nghĩa, quay lại:
- Tôi đã nói với anh là
“permission” do Đại tá cấp cho tôi. Chỉ Đại tá mới có quyền thu lại.
Nghĩa chỉ tay vào mặt
người Thiếu úy, sừng sộ:
- Anh có đưa
“permission” cho tôi không?
Người Thiếu úy, mặt tím
bầm lại, hai hàm bạnh ra gằn giọng:
- Nghĩa à, mày đừng lên
chân, vì trên vai mày có hai vạch…
Mắt long lên sòng sọc.
Nghĩa cởi phăng ngay áo ra, phô bộ ngực và cánh tay nở nang, quay lại quẳng
chiếc áo về phía tôi, lẹ tay tôi bắt lấy. Nghĩa đi đến gần người Thiếu úy, chỉ
tay:
- Khánh! Một, mày có
đưa không? Hai, mày có đưa không?
Khánh liếc nhìn chung quanh,
12 người lính và chúng tôi, rồi nhìn Nghĩa, nghiến răng lắc đầu:
- Không thể…
Y mới nói được hai
tiếng “không thể” thì “bốp”, một cái “crochet” ghim ngay vào quai hàm. Tôi chỉ
thấy Khánh đưa một tay lên bịt miệng, rồi đổ nằm dài xuống sân cát.
Nghĩa rút khẩu súng
ngắn đeo bên hông ra, lên đạn, chĩa vào Khánh đang nằm im lìm giữa sân. Y đi
chung quanh, môi bậm lại. Trước những con mắt mở to của 12 người lính và 3
chúng tôi, chừng 3 phút sau, Khánh từ từ bò dậy, mở tay ra, máu đầy tay, chảy
dài đỏ thắm chiếc áo lính. Y quay lại Nghĩa, nói trong tiếng gầm gừ:
- Nghĩa à, đời còn
dài!…
Rồi cứ để máu chảy như
vậy, chậm chạp y đi ra khỏi cổng.
Nghĩa đến tôi lấy áo,
rồi quay lại phía 12 người lính hô: “Giải tán!”. Nghĩa đi về phía văn phòng
trước cái mồm còn há hốc của An.
Sau đó, qua Ba Nhỏ tôi
được biết: Khi hội nghị Genève ký kết, Khánh đang học dở lớp sĩ quan Trừ Bị Thủ
Đức. Khánh cùng một số sinh viên sĩ quan khác đã trốn ra khỏi trường khi đất
nước chia đôi. Rồi thì, tình hình biến đổi, Khánh muốn trở lại trường sợ sẽ bị
ghép vào tội đào ngũ. Giữa lúc lông bông trên các ngả đời, thì Khánh gặp Nghĩa,
quen cũ từ Hà Nội. Trước đây Khánh vẫn khinh Nghĩa là thằng vô học, nhưng bây
giờ, cờ đến tay Nghĩa, Khánh đành theo lời hứa hẹn của Nghĩa về Bình Xuyên làm
Thiếu úy. Được Đại tá cấp cho một giấy phép đi về giữa Sài Gòn và Bình Xuyên.
Khánh từ đó, đi về thả cửa không cần có ý kiến của Nghĩa nữa. Nghĩa tức, muốn
thu lại giấy phép nhiều lần, nhưng Khánh nhất định không đưa.
Cái điều chính yếu là
Khánh, ngưòi có học, cứ nhìn Nghĩa bằng con mắt coi thường người kém học. Nghĩa
thì đã mặc cảm từ trước, nên thường hậm hực nhau. Với tôi, đó cũng là một sự
việc nữa đã nói rõ về Bình Xuyên. Giai đoạn này, trong khu vực BX, thì tất cả
mọi người từ lính tới quan, tới dân chúng, mỗi khi nói tới Lê Văn Viễn, đều kêu
là “Ngài”: “Ngài đã đi Pháp rồi!”, “Ngài đã ký lệnh rồi!”, v.v…
Được biết. Ở đây thanh
toán nhau là chuyện cơm bữa. Mạng người ở BX chẳng có giá trị gì. Chính ngay
buổi chiều ấy, Nghĩa đã nói thẳng với tôi, khi thấy tôi lửng lơ không chịu đưa
giấy tờ để làm thủ tục:
- Các anh có tài, chúng
tôi rất hoan nghênh và rất cần sự góp sức góp tài của các anh. Ngược lại, các
anh lừng khừng ương ngạnh, bắn bỏ ngay, chúng tôi ở đây không thiếu đạn.
Khi ấy, phần còn ít
tuổi, phần khác tôi đã hiểu gì rõ ràng về đất nước đâu, cho nên tôi có ý niệm:
Một thanh niên, nếu có lý tưởng với quê hương, dân tộc, vào bưng biền theo Việt
Minh; nếu chỉ vì tiền tài và danh vọng, hãy vào lính Quốc Gia. Còn dứt khoát,
không thể ở với Bình Xuyên, tôn thờ cá nhân của Lê Văn Viễn, của một đạo quân
hổ lốn, coi mạng người rẻ như bèo. Tôi quyết tâm, dù Tuyển và An vừa dỗ dành
vừa đe dọa tôi:
- Thôi, anh em mình đã
vào đây, chúng tao cũng vì theo mày. Bây giờ chúng tao đã đưa giấy tờ rồi, mày
hãy ở lại cho có anh có em.
- Đó, mày thấy anh
Nghĩa đấy, mày mà để anh ấy ghét thì thật là nguy hiểm. Chúng tao cũng chẳng
vui gì…..
Chúng nó đã đưa hết
giấy tờ cho Nghĩa rồi. Phần tôi, tôi nói giấy tờ để trong va-li, vài ngày nữa,
tôi sang Sài Gòn đón Luân sẽ đưa sau.
Ba, bốn ngày sau, một
buổi chiều, bỗng một chiếc GMC đi vào sân trại, chở theo đầy xe người lố nhố
người lớn trẻ con. Chúng tôi chạy ra nhìn lên, thấy thằng chó chết Luân với cả
hai chiếc va-li.
Tên Nghĩa đi xe díp
theo sau, chỉ tay bảo Luân đưa va-li của tôi xuống, rồi y ra hiệu cho tôi mở ra
lấy giấy tờ. Quá bất ngờ, lúng túng, tôi đành phải mở va-li. Tơi cứ vờ lục lọi
tìm kiếm trước con mắt lừ đừ của Nghĩa. Một lúc, tôi quay lại hỏi to Luân:
- Trên đó, mày có mở
va-li của tao không? Sao không thấy giấy tờ của tao?
Thấy thái độ của tôi
như vậy, Nghĩa nghiêm giọng:
- Tôi rất quý Bình,
nhưng với điều kiện là Bình phải nghe lời tôi. Tôi cho Bình đến sáng mai 8 giờ,
nếu không có giấy tờ cho tôi, lúc đó đừng trách gì tôi cả!
Tôi xách va-li vào
trong nhà về chỗ nghỉ, lòng ngập đầy giận uất thằng Luân. Hỏi nó, nó bảo:
- Nghĩa nói là chúng
mày bảo đưa va-li vào. Tao biết gì!
Chính tôi đã dặn nó,
khi nào tôi lên đón nó mới đi. Nhưng thôi, trách nó làm gì. Tối hôm đó, tôi
thật lo lắng. Cả 3 đứa đều khuyên tôi, đã trót thế này thì cứ đưa giấy tờ, rồi
tính sau. Tôi nghĩ, không đơn giản như vậy. Đưa giấy tờ, nghĩa là tôi đã đồng ý
gia nhập đảng Bình Xuyên. Hôm trước, Nghĩa đã nói thẳng là đã vào đây rồi, chỉ
có cách duy nhất là phục tùng gia nhập, sẽ có mọi quyền lợi. Muốn ra bây giờ,
không được nữa, vì đã biết nhiều chuyện của họ. Nó cũng đã nói thẳng, đã bao
nhiêu thằng vào đây rồi trốn, đều không thoát. Rồi nó trừng mắt, khoa tay trước
chúng tôi:
- Nếu muốn trốn, hãy
nhớ kỹ, đừng ở Việt Nam, dù ở đâu Bình Xuyên cũng tìm ra. Có trốn ra ngoại
quốc, thì đừng đến nước Pháp, ở Pháp BX cũng tìm ra thanh toán.
Mấy ngày trước, tôi đã
lân la nói chuyện với 4 người lính gác bốn góc trại. Có người nói bên kia con
sông này là Chợ Lớn; nửa tháng trước đây có bắn chết một người, đang đêm bơi
qua sông để trốn sang Chợ Lớn. Dù bao nhiêu đe dọa, tôi vẫn nâng cao quyết tâm.
Trong mấy ngày lang thang trong trại, tôi đã mò mẫm và tìm hiểu được về đảng BX
này như sau:
Xuất thân là một đảng
cướp, chuyên môn bắt cóc tống tiền những ngưòi có máu mặt, và cũng biết ve vãn
chính quyền cai trị. Nhờ thời thế và khả năng khôn ngoan, dưới thời Pháp thuộc,
Viễn đã có hàng trung đoàn quân sĩ tay chân trong địa thế sâu hiểm Rừng Sát.
Pháp không thể tiêu diệt được, đành chiêu hồi và chịu điều kiện là Viễn vẫn cứ
ở cứ khu BX và Rừng Sát. Nhật đảo chính Pháp, cũng chưa hoặc không đủ thời gian
để tiêu diệt BX, nên vẫn chấp nhận để BX ở cứ khu cũ.
Nhưng tới Việt Minh,
con hổ mang bành Hồ Chí Minh núp sau chiêu bài: Độc Lập, Hạnh Phúc, Tự Đo, Cách
Mạng, Nhân Dân, Tổ Quốc, v.v…những danh từ mới lạ đó có sức hấp dẫn cuốn hút
mọi người, nên đã lôi cuốn được Viễn. Viễn lúc đó trong tay có gần 2 trung đoàn
với vũ khí đầy đủ, đã đi theo tiếng gọi cứu nước của cái gọi là “chính quyền
cách mạng” để chống Pháp. Với Cộng Sản thì trước sau tất cả mọi đảng phái, tổ
chức cũng như cá nhân phi Cộng Sản, dần dần chúng đều tiêu diệt; nhưng, với âm
mưu thủ đoạn tinh vi, lúc nào trước tiên Cộng Sản cũng ve vãn mồi chài liên
kết, hoặc cô lập kẻ thù “phụ” để diệt kẻ thù “chính”, sau đó, dần dần lần lượt
mới hỏi đến các chú ngu xuẩn là kẻ thù…”phụ”.
Trong giai đoạn liên
kết, Cộng Sản ca tụng hết lời, hứa hẹn cam kết mọi vấn đề.
Nếu Viễn tỉnh táo, tự
hỏi mình có thể trở thành một tên Cộng Sản được hay không? Dù cho Viễn lúc đó
có quyết tâm bằng mọi giá để nhập hàng ngũ Cộng Sản, theo nguyên tắc của Cộng
Sản, chúng cũng không bao giờ tin. Chúng không bao giờ tin dùng một ai, nếu
người đó không do chính chúng đào tạo khi cón tay trắng, chưa có một việc làm
nào ngược lại với chúng, chưa được hưởng những thú ăn chơi nhàn hạ của xã hội
tư bản, v.v… Nói cho cùng, trách Viễn cũng là trách oan, vì cho tới ngày nay,
sau gần 40 năm, vẫn còn đầy rẫy những đảng phái, tổ chức, cá nhân, những học
giả uyên thâm, những nhà tu lỗi lạc,…Thậm chí, ngay những quân nhân Tướng, Tá
đã từng vào sinh ra tử, hàng chục năm cầm súng chống cộng, mà vẫn còn mơ hồ với
Cộng Sản nữa là Viễn thời đó.
Cộng sản khi ấy thổi
Bình Xuyên lên tận mây xanh. Chú bé con bị người lớn xui ăn cứt gà đã đem hết
khả năng, xông pha nơi hòn đạn mũi tên đánh Pháp để lập công. Khoảng 1946-47,
Cộng Sản có bài hát thổi Bình Xuyên: “Bình Xuyên, … Bình Xuyên oai hùng muôn
năm!…”
Nhưng, có thể lúc đó
kinh nghiệm lãnh đạo của Cộng Sản chưa được tinh vi lắm, nên đã để tình huống
gây ra một vấn đề. Vào thời đó, trong Nam và Trung có hai đơn vị nổi tiếng với
những chiến công đánh Pháp là đơn vị của tướng Nguyễn Bình và của tướng Viễn.
Lúc đó, Cộng Sản chỉ có Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà chưa có Trung tướng. Để
khích lệ và dụ dỗ, tuy không tuyên bố, nhưng Cộng Sản vẫn ngầm để cho Bình và
Viễn hiểu mình sẽ là Trung tướng với điều kiện, phải có những chiến công diệt
Pháp ai hơn ai. Với đầu óc và bản chất là một tên tướng cướp, lại luôn có một
ám sát đoàn rành nghề. Có thể theo suy lý của Viễn, Viễn cho rằng, sở dĩ Bình
lập được nhiều chiến công chống Pháp là vì dưới tay có nhiều người tài. Vậy,
không gì bằng, một mặt vẫn công đồn, hoặc phục kích để đánh Pháp, mặt khác hoàn
toàn bí mật, cứ tìm những ngưòi tài ba dưới quyền của Bình để thủ tiêu. Giai
đoạn này, bên phía Bình, hết ông tiểu đoàn Trưởng này mất tích, lại đến ông
Tham Mưu phó kia biến mất; tình báo lắm mới phát hiện xác đã rữa thối trong
rừng. Những chiến sĩ thủ túc của những người bị mất tích dần dần đã hiểu chính
Bình Xuyên là thủ phạm. Họ căm phẫn tột độ. Đã có một số chứng cớ cụ thể, Bình
cũng vô cùng căm phẫn, đã bí mật báo cáo với trung ương.
Chúng ta đã biết, Bình
là con ruột của Cộng Sản, trong khi Viễn chỉ là loại kẻ thù “phụ”, nhưng giai
đoạn đó, Hồ già và trung ương cũng đang điên đầu với Pháp và nhiều vấn đề nội
bộ cũng như ngoại giao khác; nếu giải quyết vấn đề này, vừa mất đi một lực
lượng chống Pháp, lại còn mất thêm một lực lượng đi đánh Bình Xuyên, cho nên Hồ
già rất lúng túng, cứ khất lần hòng tìm ra phương kế tốt hơn. Trong khi đó,
tình trạng những cán bộ tài năng dưới quyền Bình bị mất tích cứ tiếp diễn.
Những chiến sĩ dưới quyền Bình bị mất tích cứ tiếp diễn. Những chiến sĩ dưới
quyền Bình không thể chịu đựng được sự chờ đợi mãi trung ương giải quyết nữa.
Họ đòi phải trả thù, nếu không, họ không chịu đi chiến đấu. Trước lòng sục sôi
hận thù của các chiến sĩ, Bình dù là người nghiêm túc chấp hành trung ương,
trong lòng cũng bầm gan tím ruột. Nên, một đêm âm u tịch mịch, trời không trăng
sao, chính Viễn và hầu hết quân lính duới quyền Viễn cũng không thể ngờ, đơn vị
của Bình đã bất ngờ công kích một trận với ngọn lửa sục sôi, đã diệt sạch đơn
vị của Viễn. Viễn chỉ còn hơn 100 tàn quân, vượt bao nhiêu cửa thần sầu chạy
thoát thân. Không còn đường thứ hai, Viễn chỉ còn con đường duy nhất là trở về
đầu Pháp. Pháp đã hiểu, và cũng cần, vì thế lại cho Viễn về cứ điểm Rừng Sát và
Bình Xuyên. Sau đó, Bình trở thành Trung tướng.
Chuyến này, kẻ tử thù
của Viễn là Bình. Nhưng, trước hết Viễn phải gây dựng lại cơ đồ, sau mới tính
giải quyết mối thù bất cộng đái thiên. Nhưng may thay, Nguyễn Bình đã bị giết
bí mật trên đường trở về Hà Nội theo lệnh của Hồ Chí Minh. Cũng từ đó, ngọn lửa
hận thù của Viễn mới nhỏ dần, và Viễn quay ra “cũng” làm chính trị, nhưng là
chính trị kinh tế xôi thịt, mà chúng ta đã thấy…
Một vài ngưòi lính có
lần nói với tôi:
- Trong Rừng Sát hiện
nay (1954), đôi khi chúng tôi đi hành quân, gặp Cộng Sản là thường. Nhưng, hai
bên mặc kệ nhau, không xâm phạm đến nhau.
Như đã trình bầy về lá
cờ ở trên, cái hình vuông mầu xanh là để chỉ sự việc rời trong rừng ra. Cũng
qua lá cờ, ta thấy tên Viễn từ trong đáy lòng y hãy còn mơ tưởng già Hồ là
chính nghĩa.
Xin trở lại vấn đề của
tôi và Nghĩa. Đêm hôm đó, lòng tôi đầy lo lắng, nên giấc ngủ cũng không yên. 8
giờ sáng ngày hôm sau, sẽ là giờ hẹn cuối cùng của Nghĩa ra cho tôi. Cả đêm suy
nghĩ mà vô kế khả thi, đành để sáng mai, ra sao thì ra, trong khi các bạn chỉ
muốn tôi ở lại.
Mãi 7 giờ sáng hôm sau,
tôi mới dậy, lấy khăn mặt và thuốc đánh răng ra mé sông rửa mặt như mọi sáng.
Vì rửa mặt nên tôi cởi đồng hồ tay bỏ lại va-li. Tôi đang rửa mặt, lúc đó
khoảng 7 giờ 30, một chiếc GMC từ ngoài cổng vào đỗ ở sân. Một người ra hô gọi
tất cả mọi người mới vào đi lên Tổng Hành Dinh để trình diện và khám sức khỏe.
Tôi không còn kịp cất khăn mặt và bàn chải, bèn đút luôn vào túi quần, rồi trèo
lên xe vì Tuyển, Luân và An đang ở trên xe gọi, vời rối rít.
Xe đến Tổng Hành Dinh.
Mọi người ngồi chờ đông chật một cái phòng rộng, lần lượt đợi khám. Tôi lửng lơ
ra chỗ chuồng hổ, xem con hổ đang ăn. Cùng đứng xem với tôi có một anh tên là
Hiệu, nghe anh nói chuyện. Anh cũng ở trường sĩ quan Thủ Đức trốn ra, nghe theo
Nghĩa vào BX, nhưng bây giờ, anh không muốn nữa. Thấy thời cơ có thể, tôi nháy
anh Hiệu theo tôi, lững lờ lân la ra phía cổng. Ở cổng có một người lính gác,
nhưng đứng trong chòi, phía sau không nhìn thấy y. Tôi nhìn trước sau, chưa
biết tính kế gì đi ra, sợ nó hỏi giấy. Còn đứng lớ ngớ ngoài này, bất ngờ mà
Nghĩa ở trong phòng ra nhìn thấy, Nghĩa sẽ biết ngay là chúng tôi định chuồn.
Lúc ấy, chưa biết chuyện gì sẽ xẩy ra. Giữa lúc tiến thoái lưỡng nan, tôi chợt
thấy ngoài cổng, phía bên kia đường có một hàng bán mía và mấy lọ kẹo, tôi rút
túi lấy ra 5 đồng đưa cho Hiệu (Hiệu chả có đồng bạc nào), nói to cốt để người
lính gác nghe thấy:
- Này, từ sáng chưa ăn,
đói quá, cậu chạy ra hàng mua hai tấm mía đi!
Hiệu cầm tiền chạy ra
(có ý với tên lính gác là còn một người nữa trong này, nếu nó nghi ngờ, hỏi
giấy), chọn một tấm. Khi Hiệu cầm tấm thứ hai, tôi nói to, vọng sang bên kia
đường:
- Lấy tấm kia cơ mà!…
Tôi cứ bảo “tấm kia,
tấm kia!”, hai bên nói ra, nói vào, tên lính gác ở giữa. Cuối cùng, tôi vừa
chạy ra vừa nói:
- Cóc khô, lấy tấm
này!…
Khi tôi ra đến hàng
mía, hai thằng mắt la mày lém, liếc ngang, liếc dọc, vừa lúc đó may sao một
chiếc xích lô máy chạy tới đổ một người khách ở chéo một góc. Liếc nhìn về phía
chòi gác, người lính thờ ơ, đang nhìn đi đâu, chúng tôi chạy ngay đến chỗ bác
xích lô máy:
- Chạy sang Chợ Lớn!
Bác quay lại:
- Mười đồng!
Tôi nói trả bác 15
đồng, với điều kiện bác chạy thật nhanh và chạy về phía dưới, nghĩa là trở lại
phía trại của tôi, bởi vì phía cầu chữ “Y” xe nào ra cũng bị hỏi giấy tờ, đó là
Tổng Hành Dinh.
Xe chạy bụi mù, lại
không có mui, tôi cứ phải vờ lấy khăn mặt lau mắt để che mặt, sợ bất ngờ gặp
tên lính quen, nhất là lúc xe qua trại cũ, anh lính gác thế nào cũng biết mặt.
Tôi cứ kêu bụi quá, cúi gầm xuống, lấy khăn mặt ngoáy lỗ tai để che phía bên.
Xe chạy qua, thoát nạn! Qua sông là ổn rồi, mới thấy tiếc cái va-li, cái đồng
hồ, nhất là bao nhiêu tấm ảnh kỷ niệm, cả phim từ hồi bé ở Hà Nội. Nhưng chọn
giữa cuộc đời ở lại u tối và các thứ đó, đành phải xa lìa chúng.
Xe sang tới Chợ Lớn,
Hiệu cảm ơn và chia tay với tôi. Tôi vào ngay tiệm phở chén một bát. Bây giờ
tay không, chả biết đi đâu, chẳng một ai quen biết. Lang thangmãi gần tối, Sài
Gòn rộng bao la, nhưng tôi chả có chỗ nào dung thân. Tôi lại nghĩ đến bệnh viện
Bình Dân, nơi đó đông đúc đầy người, tối cứ vể đấy ngủ, ban ngày sẽ chuốn nơi
khác.
Tối hôm đó tôi về bệnh
viện Bình Dân thực, vì chẳng còn chỗ nào để đi. Tôi vào mãi phía trong, lại gặp
một số thanh niên và đồng bào đang bàn tán, ngày mai họ vào Bình Xuyên. Từ
chuyện mình vừa trải qua, tôi nghĩ đến các thanh niên khác, không thể để họ
chôn vùi vào một nơi đen xấu như vậy, cho nên tôi nói thẳng cho họ biết là tôi
vừa ở Bình Xuyên trốn ra, mất hết cả va-li quần áo, v.v… Ai nghe cũng sợ hết
hồn, anh nào cũng lắc đầu lè lưỡi, cảm ơn tôi.
Được hai ngày không có
gì xảy ra, tôi bắt đầu chủ quan. Mọi khi dậy là đi sớm, tối 9 giờ mới mò về.
Tôi cũng tin vào mắt mình, nếu thoáng thấy Nghĩa là tôi lủi vội. Sáng hôm nay,
tôi dậy muộn, cũng nằm gần mấy anh bạn mới. Mải chuyện vui với mấy anh, đột
nhiên, tôi nhìn thấy trước mắt mình (lúc đó, tôi đang ngồi dựa tường, nhìn
xuống nền, giữa hành lang đầy người) một đôi giầy đen bóng loáng, đôi ống quần
vàng ka ki Mỹ là thẳng tắp. Tôi từ từ nhìn lên, tim tôi bóp lại; Nghĩa! Nghĩa
đang đứng chống hai tay cạnh sườn nhìn tôi bằng đôi mắt lạnh băng. Tôi liếc
sang mấy anh bạn mới, họ đều lủi mất, chắc họ cũng biết ngay đấy là Nghĩa. Tôi
đứng bật dậy, tỏ vẻ mừng rỡ, một tay cho vào túi quần sau như lấy ví:
- À, anh Nghĩa! May
quá, em cứ sợ không có giấy tờ đưa cho anh, anh sẽ giận, em nhớ là đã gửi một
người bạn, nên phải lên đây lấy. Em đã lấy được rồi. Bây giờ, anh cho em về
dưới đấy với.
Nghĩa cứ lừ lừ nhìn
tôi, không nói một lời. Một lúc, Nghĩa nhìn ra phía ngưòi cảnh sát đang gác như
định gọi vào để bắt tôi (cảnh sát cũng của Bình Xuyên). Tôi vội nói:
- Không cần thiết anh
Nghĩa à! Chính em thích Bình Xuyên lắm. Nhất là gần anh, bây giờ em đi theo anh
về ngay mà.
Y nhìn tôi một lúc, rồi
ra ý bảo tôi đi trước, y theo sát ngay sau. Đành vậy! Khi gần ra tới cửa bệnh
viện, tôi thấy từ trong một căn buồng chéo phía trước mặt tôi đang đi tới, trên
một chiếc ghế bố xanh, một cô gái chừng 20, 21 tuổi, có sắc đẹp căng đầy, đang
ngồi chải, hong mái tóc đen huyền nhìn ra. Vô tình gặp mắt Nghĩa, cũng đang
nhìn về phía cô, cô nàng cười. Nghĩa cũng toét miệng ra. Thôi thì trai anh
hùng, gặp gái thuyền quyên! Bốn mắt nhìn nhau, hai lòng mở cửa. Thế là Nghĩa
bảo tôi đứng đó chờ y một tí. Tôi cũng nháy mắt ra vẻ tán đồng. Nghĩa rẽ vào,
tôi đứng cạnh đấy. Cô ả thấy Nghĩa vào, lại e thẹn cúi đầu, Nghĩa lại càng ngất
ngây. Tôi thấy vẻ mặt Nghĩa đờ đẫn. Dịp may một thuở ngàn năm, thôi thì 36
chước, chước nào tối ưu? Tôi lủi lẹ!
Như vậy, giai nhân ấy,
vô tình đã cứu tôi một hướng đời!
Từ đấy cho tới khi tôi
phải lên tít trại định cư Hà Nội, Hố Nai Biên Hòa, chẳng bao giờ tôi dám bén
mảng đến bệnh viện Bình Dân nữa. Mãi khi Bình Xuyên bị đập tan tành, tôi cũng
không hiểu số phận Nghĩa ra sao, và các bạn tôi: Tuyển, Luân và An thế nào?
Cho tới 1960, tình cờ
tôi gặp lại An, bây giờ là cán bộ thẩm cung ở Bình Dương. An có nói, Nghĩa lên
Đại úy, và sau vụ Bình Xuyên, Nghĩa bị mất tích, không biết sống chết thế nào.
Còn Tuyển, hiện nay đang làm ở tòa báo VNTP. Tôi định đến thăm Tuyển nhưng chưa
có dịp nào.
………….
Riêng sau ngày tôi gặp
Nghĩa ở Hỏa Lò, đến khi tôi phải đi các trại trung ương, tôi vẫn có ý thăm hỏi
về Nghĩa. Mãi về sau, đến năm 1976, khi đó tôi ở trại trung ương số II Phong
Quang, Yên Bái, tôi gặp hai thanh niên tội hình sự đã từng sống với Nghĩa gần 3
năm ở trại giam Vĩnh Quang. Theo họ nói, Đại Úy Nghĩa là một người lao động nổi
tiếng khỏe nhất trại. Nghĩa thường gánh mỗi bên quang 40 viên gạch thô (gạch
chưa nung), như vậy sức nặng thường từ 90 ký đến một tạ. (Chắc Nghĩa cũng bị
cuốn hút vào sự thúc đẩy, khích lệ thi đua cải tạo là mê hồn trận của Cộng
Sản). Vào năm 1972, Nghĩa bị ho lao, thỉnh thoảng cứ nôn ra máu, kiệt sức dần
mà không có thuốc, không có gì bồi bổ, nên Nghĩa đã chết vào một đêm Đông mưa
dầm gió Bấc, chấm dứt một kiếp đời xuôi ngược nổi trôi.
32. Phùng Văn Trí, đòn phép “phản gián”?…
Kể từ ngày tôi lên gặp Nghĩa về, trời ngày càng lạnh hơn.
Với một chiếc chiếu con, một chăn đơn, hai bộ quần áo vải sọc cũ, không một đêm
nào tôi ngủ được. Cái sàn xi măng lạnh buốt như nước đá. Ngón chân ngón tay
càng sưng buốt, nhức suốt đêm ngày. Chỉ ban ngày, mệt quá tôi mới thiếp đi được
một lúc. Ngay hàng ngày đi ra đổ thùng, rửa mặt, tôi cũng không ra được nữa.
Chân tôi không bước đi được. Mỗi lần bước xuống như có hàng chục cái kim cắm
ngược vào chân. Lúc này, tôi nghĩ là mình sắp chết. Một đêm nào đó hay bất cứ
lúc nào đó, tôi sẽ nằm luôn, và không còn biết một chuyện gì về cuộc đời này
nữa.
Tôi vẫn không sợ chết,
trong cảnh đau đớn như thế này tôi cũng mong tử thần đến với tôi càng sớm càng
hay, vì chết là hết mọi đớn đau, chết là giải thoát mọi cực hình của một kiếp
tù cùng khổ. Suốt ngày đêm, lúc nào tôi cũng nghĩ đến những người đã chết. Từ
những ngưòi thân thuộc như ông tôi, bà tôi, bác Hạnh anh ruột của bố tôi chết
năm 1948; đến một thằng bạn thân lúc còn nhỏ chết vì lạc đạn của thực dân
Pháp…Tôi nghĩ đến các ngôi mộ ở nghĩa trang, những nấm mồ hoang ở ven đường mà
tôi đã nhìn thấy…
Nhưng, bây giờ mà tôi
chết đi, chắc chẳng có những ngôi mồ như thế, sẽ chỉ là một cái bao tải hay một
chiếc chiếu rách vùi nông ở một chỗ nào đó, rồi mưa gió và năm tháng sẽ xóa đi,
không có ai và chẳng còn ai nghĩ đến tôi nữa, tôi sẽ biến tan vào cõi mờ mịt hư
vô.
Có lẽ tên Nhiễm trực xà
lim cũng nhìn thấy tôi có thể chết, nên y báo cáo lên trên thế nào đó, và ở
trên, chúng thấy còn cần ở tôi một số sự việc, chưa thể để cho chết. Nên một
hôm, tên Nhiễm mở cửa đưa vào cho tôi một cái chăn nữa và một cái trấn thủ cũng
may vải sọc của tù.
Ngay từ hàng tháng
trước, trên đường đi cung cũng như khi về, đôi khi tôi thấy một vài người tù nữ
cũng như nam có mặc áo trấn thủ. Tôi nghĩ là áo tư, hoặc họ có tiêu chuẩn đặc
biệt nào đó. Thế mới biết chúng ác thật! Chứng tỏ, chúng chủ trương lấy cả cái
lạnh rét, của trời đất để hành con người. Cho tới lúc tôi gần chết, chúng chưa
muốn tôi chết ngay, mới phát cho áo lạnh của tù. Ngoài ra, y tá còn xách lên
cho tôi một xô nước nóng pha muối, bảo tôi ngồi trên sàn, cúi xuống ngâm tay
chân vào. Tên Nhiễm vào tuyên bố, cho tôi nghỉ cùm hai ngày để y tá chữa chân.
Tôi tưởng nó tha cùm tôi, nhưng thôi, hai ngày cũng được. Mỗi ngày hai lần, y
tá xách xô nước muối cho tôi ngâm chân tay.
Vừa có áo ấm lại thêm
chăn, chân tay được ngâm nước muối, đêm hôm ấy tôi ngủ một giấc ngon lành. Ngay
ngày hôm sau, chân tay đỡ nhức hẳn. Tôi đã có thể ra đổ bô, mặc dầu đi chưa
vững. Thật là lạ, mấy hôm đầu có thêm chăn, thêm áo trấn thủ, thấy dễ chịu, ấm
hẳn lên. Thế mà, mấy ngày sau lại vẫn thấy lạnh dữ. Đêm nằm, một chiếc chăn gấp
đôi, như vậy là 3 lượt chăn, vậy mà nằm trong chăn vẫn run. Sờ tay chân, đùi,
vai vẫn lạnh giá, lưng vẫn buốt như áp vào cây nước đá.
Tuy chân tay được ngâm
muối hai ngày đã đỡ, nhưng bây giờ, vẫn còn sưng, và vẫn ngứa vẫn nhức. Tại sao
lạ vậy? Hay vì trời càng lạnh thêm? Nằm ở đây, thực âm u tịch mịch, nếu không
gọi cung, chẳng biết ngày tháng thế nào, bên ngoài ra sao, mù tịt. Hôm nay, có
lẽ đã gần cuối tháng 12, không biết là 24, hay 25. Tôi nhớ đến Noel năm ngoái,
tôi với anh bạn thân Nguyễn Hữu Lợi, 2 đứa đóng bộ đèo nhau Vespa chạy tung
trời Sài Gòn. Thế mà năm nay, hẳn các bạn bè ở phía bên trời ấy, đang nhởn nhơ
bay lượn khắp phố phường, để khoe hương sắc của một thời hoa mộng. Riêng mình
tôi tách ra, đi một con đường gian khổ, lầm than trong ngục tối âm u.
Sáng hôm sau, mụ Thơ
vào gọi tôi đi cung sớm. Hàng tuần lễ không đi cung, không hiểu bữa nay có vấn
đề gì? Khi còn nằm trong tay chúng, và vẫn trong giai đoạn điều tra khai thác,
trong lòng tôi vẫn luôn luôn lo lắng. Biết đâu, một ngày nào đó, chúng có những
đường dây của cô gái nhận tài liệu “M” hoạt động bị chúng vồ được. Rồi họ tả
lại người đã trao tài liệu cho họ, thời gian họ gặp gỡ… Như vậy thì thật là
không còn gì để nói nữa về đời tôi.
Ở phòng cung hôm nay là
tên Thành và Nhuận. Sau khi chỉ ghế cho tôi ngồi, dăm ba câu hỏi xã giao về sức
khỏe, tên Nhuận vừa giở cặp hồ sơ, vừa gườm gườm nhìn tôi:
- Hôm nay, anh khai lại
cho rõ ràng giai đoạn chúng huấn luyện anh về các loại mực bí mật, loại thông
thường và loại đặc!
Tôi lại phải ngồi trình
bày chi tiết, cách sử dụng các loại thông thường như: Chanh, hành, phèn chua,
muối, nước tiểu, v.v… phát hiện bằng sức nóng. Loại đặc biệt, gồm hai ba loại
như thuốc viên, máu, v.v…
Gần 2 tiếng đồng hồ,
thằng thì ghi chép, thằng thì hỏi. Bổng nhiên, chiếc cửa thông sang buồng bên
cạnh mở ra. Tôi nhìn sang, tim tôi bóp lại như rỏ máu: Trí! Phùng Văn Trí!
Trời ơi! Sao Trí lại bị
bắt ở đây? Trông anh xanh xao, nhìn tôi bằng đôi mắt đại tang, trắng dã. Lòng
tôi bấn loạn, nhìn theo. Mãi cho tới khi một tên công an dẫn Trí ra lối cửa
sau, Trí còn ngoái lại nhìn tôi. Bao nhiêu nỗi niềm thắc mắc, băn khoăn cuồn
cuộn dâng đầy trong óc, trong tim tiếp tục rỏ máu của tôi. Chúng có hỏi gì đó
tôi cũng không biết nữa. Lòng tôi như bị vặn xé, dứt rời. Trí vì tôi mà bị bắt
ư! Hình ảnh bố mẹ Trí già lão, hiền lành! Hình ảnh vợ con Trí nhỏ dại, lam lũ
quê mùa! Một cơn đau ập vào lòng tôi, giầy vò cấu xé trái tim đầy ắp khổ đau,
ân hận.
Đời tôi thà tan tành,
thân tôi thà bị cắt, chặr từng mảnh, tôi cũng không đau khổ quặn thắt bằng “Trí
vì tôi mà bị bắt”. Cái đau này là cái đau trong tim, trong óc, chết đi, kiếp
khác vẫn còn đau. Tôi quay lại Nhuận và Thành, gào lên:
- Tôi xin lấy danh dự
thiêng liêng của cả đời tôi cam đoan rằng: Anh Trí không hề dính dáng gì với
tôi cả! Anh và bố mẹ anh rất quê mùa hiền lành. Tôi chỉ gặp anh hoàn toàn trên
đường đi, như tôi đã khai báo và viết nhiều lần trước đây!
Tên Nhuận cười khẩy:
- Anh điên à! Trí bị
bắt vì tội khác chứ có phải vì anh đâu!
Tôi không tin được. Tôi
hiểu, chúng thấy tôi đau đớn, điên rồ nên chúng nói vậy để trấn an tôi. Chúng
tiếp tục truy hỏi tôi nữa. Tôi không còn sợ nữa, tôi nói thẳng:
- Xin các ông giết tôi
đi. Tôi sống mà đau về luơng tâm, cũng héo đi mà chết. Bây giờ các ông đừng hỏi
tôi nữa. Tôi không còn nhớ cái gì, biết cái gì nữa, vì hình ảnh Trí như vậy đã
tràn ắp lòng tôi rồi.
Thấy tôi như vậy, chúng
rất buồn cười, chúng cứ nhìn nhau cười mãi. Cuối cùng tên Nhuận nghiêm mặt, đập
bàn:
- Anh bị bắt vì tội của
anh! Còn Trí bị bắt vì tội khác! Tôi cấm anh không được nói đến Trí nữa!
Sự đời nhiều lúc buồn
cười thật. Mục đích của chúng là cho tôi và Trí thấy mặt nhau, để hai bên bị áp
lực nhau. Chúng cần mỗi người phải nói với chúng về nhau. Thế mà bây giờ chúng
lại cấm tôi không được nói về Trí. Ngược lại, lẽ ra (ý gian) tôi càng cố tránh
không nói tới Trí mới hợp lý. Nhưng ở đây, mặc chúng cấm, mặc chúng đập bàn la
hét, tôi vẫn lải nhải nói về Trí, với nỗi sầu héo không thiết gì đến đời sống
của mình nữa. Cuối cùng, chúng cho tôi về với lời đe dọa:
- Ngày mai anh lên đây
tiếp tục khai báo!
Hôm ấy tôi về xà lim,
ngồi ăn cơm mà nuốt không nổi. Hình ảnh Trí lúc sáng cứ lởn vởn trong đầu tôi.
Đêm hôm đó, tôi cũng không ngủ được, cứ ngồi suy nghĩ về Trí. Làm thế nào để
cứu Trí đây? Nói gì chúng cũng không tin. Đời mình bây giờ trước sau cũng chết,
dù có phải vì cứu Trí mà chết sớm hơn, tôi cũng vẫn sẵn sàng. Vì vấn đề lương
tâm, tôi không còn tính toán thiệt hại hay lợi cho đời tôi nữa. Nếu tôi bị
thiệt hại, mà minh oan được cho Trí, tôi làm liền.
Tôi suy nghĩ, một vài
ngày tới, tùy theo tình hình, tôi sẽ nói thẳng với chúng là tôi đã biết có
người theo dõi rồi, nên tôi không dại gì đến chỗ Trí, nếu Trí thực sự là người
có liên quan đến màng lưới hoạt động của tôi. Nhưng, nếu như thế, cả một vấn đề
lớn sẽ đổ bể hết. Tất cả những khai báo, tất cả những công trình khôn khéo đánh
lừa chúng trong suốt 6 tháng nay, chúng sẽ không tin nữa. Thật là một vấn đề
sinh tử cam go. Tôi nát đầu! Tôi vẫn hiểu, người làm việc lớn đôi khi phải hy
sinh những cái nhỏ một cách phũ phàng. Nhưng, lúc này tôi đâu đã có kinh
nghiệm, hơn nữa, bản chất con người tôi, thà chịu thiệt thòi, bỏ lỡ thời cơ
tiến thủ còn hơn tình cảm, danh dự bị xâm phạm.
(Kính thưa quý vị độc
giả: Sự việc xẩy ra đã 40 năm rồi! Vì phải tái bản, tôi đang ngồi đánh máy lại
tập hồi ký Thép Đen này. Đến đoạn anh Phùng Văn Trí đây, lòng tôi càng lúc càng
dâng lên tran ắp nổi niềm đầy vơi, ngang dọc, ngược xuôi. Ngoại lệ của hồi ký!
Là tác giả, xin phép quý vị, tôi được nói lên một tâm ý: “Một người có những hành
xử như đoạn này, thất bại là đúng! Và, suốt đời người đó cũng chẳng làm cái gì
nên”. Boston Dec. 2002).
Hôm sau, chúng lại gọi
tôi ra. Lần này là Đức và Nhuận. Tôi vừa mới bước chân vào phòng, chúng đã ầm
ầm nổi trận lôi đình:
- Anh là một thằng hoàn
toàn nói láo. Nhiệm vụ anh ra miền Bắc 25 ngày là để anh theo dõi sư đoàn 308
như anh đã khai báo. Vậy, chúng nó dậy anh về các loại mực bí mật để làm gì?
Chúng tôi biết, anh ra đây với nhiệm vụ khác! Anh không chịu khai báo sự thật,
đợi chúng tôi phải đưa nhân chứng cụ thể ra, chắc chắn anh không sống được.
Tha hồ cho chúng dọa
nạt, chửi bới, tôi cứ khăng khăng nói là tôi đã hoàn toàn khai báo sự thật hết
cả rồi. Mặt khác, tôi vẫn nói về Trí. Tôi nói thẳng là trong lúc này, ngày cũng
như đêm, lúc nào tôi cũng nghĩ đến anh Trí, nghĩ đến bố mẹ, vợ con anh. Lương
tâm tôi bị dày vò, xin các ông hãy minh xét cho anh Trí, v.v…
Buổi chiều, chúng lại
tiếp tục truy hỏi tôi về điểm mực bí mật ấy mãi. Tôi trả lời chúng:
- Tôi không biết vì sao
tên Hòa lại dạy tôi như vậy. Tôi nghĩ đây là bài học cơ bản, vỡ lòng cho tất cả
mọi người mới vào ngành, để hoạt động tình báo mà thôi. Rồi sau đó, tùy theo
công tác gì, sẽ huấn luyện thêm riêng về công tác đó.
Nghĩ lại, tôi cũng dại
thật. Biết thế, trước đấy tôi không nên khai gì về loại mực bí mật và viết thư
mật cả. Chúng đã suy ra khá hợp lý rằng: Để gây mạng lưới hoạt động thì mới cần
học những món ấy!
Nhưng trong thực tế,
tháng đầu. Cẩn đã huấn luyện tôi về môn đó, cũng nói đó là bài học cơ bản của
một người hoạt động tình báo, như đi học thì mới đầu phải học vần ABC vậy.
Gần về chiều, tên Nhuận
mở cặp rút ra một tờ giấy viết tay, cùng một loại giấy tô vẫn khai cung, đưa
cho tôi. Tôi nhìn thoáng cũng biết là nét chữ của anh Trí. Tôi đọc, chắc chúng
đang theo dõi nét mặt của tôi. Đây là tờ giấy một đoạn, anh Trí đã khai. Trong
đó, anh Trí bị bắt về tội vượt biên giới theo lối Lào để định trốn về Thái Lan.
Lương tâm tôi như được
vuốt ve, xoa nắn sau những ngày quặn thắt, dày vò. Tuy vậy, một ý khác đã nổi
lên trong óc tôi là dù sao, chúng vẫn nghi anh Trí có vấn đề với tôi, chứng cớ
là chúng cố tình để anh Trí và tôi nhìn thấy nhau, để trộ anh Trí, anh không
thể che dấu được nữa, vì đã bắt được tôi rồi! Cũng có thể chúng nghi tôi đã
giao nhiệm vụ gì đó cho anh Trí, anh Trí trốn sang Thái Lan, rồi về miền Nam
báo cho Sài Gòn chẳng hạn. Nghĩa là sự việc anh Trí trốn đi Thái Lan, có liên
quan đến việc anh Trí và tôi quen nhau. Vì nghĩ như thế, khi trả lại tờ giấy
cho Nhuận, tôi liền làm ra vẻ hân hoan:
- Cảm ơn ông, nếu tôi
không được đọc tờ khai này của anh Trí, cho đến chết lương tâm tôi vẫn bị cắn
rứt, dày vò.
Tên Nhuận cười rổn
rang:
- Tôi đã nói, anh không
tin.
Rồi hắn nghiêm mặt:
- Anh đã giao nhiệm vụ
gì cho Trí, và Trí đã nói gì với anh. Trí đã khai báo hết rồi. Anh không tin,
tôi sẽ đưa tờ khai của Trí cho anh xem.
Chà, biết ngay mà. Y
còn định lấy chuyện này lòe chuyện kia. Dù có, tôi cũng không mắc, huống chi ở
đây tôi thực không có gì. Tôi chỉ cười trả lời:
- Thưa ông, làm gì có
chuyện ấy. Tôi đã thưa với các ông là anh Trí không hề biết gì về tôi, anh chỉ
biết tôi là một học sinh lớp 10 ở Vĩnh Linh, ra Hà Nội chữa bệnh tim.
Chúng nó dứt khoát
không tin. Dứt khoát chuyện Trí vượt biên với chuyện của tôi có liên quan.
Phần tôi, tôi không sợ.
Chúng nghi hay chúng không tin, tôi tù, vẫn tù. Điều làm tôi băn khoăn là anh
Trí. Chúng không tin anh, chúng còn giam hãm anh lâu dài, khổ anh và khổ vợ con
anh. Như vậy lương tâm tôi vẫn không yên ổn được. Nghĩ như vậy, tôi đã mạnh bạo
nói:
- Thưa các ông, tôi nói
thật, ngày tôi trở vào Vinh; khi xe ra bến xe Kim Liên, có một anh cụt chân đưa
vé đến cho tôi, tôi đã nghi anh ấy là công an theo dõi tôi (chỗ này, tôi không
nói đến người ngồi trước và sau tôi). Rồi dưới đường, tôi cũng nghi một chiếc
Commanca theo tôi, vì thế, không đời nào tôi lại vào nhà anh Trí, nếu anh là
một cơ sở hoạt động của tôi. Hơn nữa, ông đã biết anh Trí, tôi không dám có ý
coi thường anh, nhưng anh Trí như thế thì hoạt động tình báo làm sao được. Anh
quá hiền lành, và trình độ lại chỉ biết đọc biết viết.
Chỉ vì cái ngu xuẩn
tình cảm của tôi, cứ muốn thanh minh cho anh Trí, vì thế lý trí tôi không còn
đủ sáng suốt, đã quên đi cái nguyên tắc mà chính tôi đã tự khẳng quyết “không
bao giờ nói đến, biết bị theo dõi” trước đây. Bởi vậy, vừa nghe tôi nói là nghi
ngờ bị theo dõi, mắt chúng sáng ngay lên, chúng vồ vập hỏi:
- Anh thấy thế nào? Tại
sao anh nghi? Hãy tả kỹ những người anh nghi, những xe anh nghi, và nghi từ bao
giờ? v.v…
Tôi trình bày như vừa
khai, nghĩa là tôi chỉ nghi một mình anh cụt chân và một chiếc Commanca, và
nghi từ bến xe Kim Liên đi vào Vinh. Hết gjờ, chúng cho tôi về.
Sáng hôm sau, chúng gọi
đi cung sớm. Hôm nay, có 3 tên là Đức, Nhuận, và tên Đặng người Huế. Thật tôi
không ngờ. Như sấm sét, bão bùng. Thái độ của chúng hôm nay khác hẳn, mặt tên
nào cũng lạnh như tiền. Chúng truy lại tôi hết mọi sự việc. Những điều trước
đây chúng không hề nhắc lại, bây giờ chúng lại sừng sộ hỏi ra, xắn tay, xắn
chân, chúng làm tôi rối mù lên. Chúng dứt khoát gán ghép tôi đã biết bị theo
dõi từ lâu, và đã gây hỏa mù cho công an, v.v…
Tôi không ngờ sự việc
diễn tiến đến chỗ căng thẳng như vậy. Dù tôi có tính trước, nhưng ngoài sự dự
đoán của tôi. Cung kẹo lại lia lịa ngày đêm. Tôi cảm thấy quá mệt mỏi, đầu óc
như không chịu nổi nữa. Tôi như người mất hồn. Ngày nào, chúng cũng đối xử với
tôi như một tên tử thù. Thậm chí, có lần chúng giận quá, tên Đặng đã đứng dậy
đạp tôi ngã ngửa về đằng sau. Y quát:
- Mày sẽ chết, mày biết
không!? Số phận mày là một tên gián điệp, mày đã biết, từ trước đến nay một tên
điệp viên nào bị bắt, khai thác được hay không, sớm muộn đều bắn bỏ. riêng chế
độ xã hội chủ nghĩa đã mở ra cho mày một sinh lộ, nhưng mày ngoan cố không muốn
được khoan hồng, mày sẽ đi con đường của mày.
Nói rồi, y bỏ về.
Tôi ân hận vì việc làm
thiếu suy tính, để tình cảm lấn át lý trí của tôi. Chỉ lẩn quẩn vì vấn đề tình
cảm mà bây giờ tôi sống dở chết dở. Hai tên Đức và Nhuận còn ở lại, tiếp tục
vặn lý, truy hỏi lại nhiều sự việc. Tai tôi ù đi, người tôi xây xẩm nhiều lần
suýt ngã xuống nền gạch. Mặc, chúng vẫn bắt tôi phải trả lời từng điểm chúng
hỏi. Tôi nói trong hơi đứt đoạn:
- Thưa…tôi hoa
mày…chóng mặt…xin cho về…..
Chúng nó đứng lên đe
dọa:
- Được, cho về! Ngày
mai khôn hồn thì khai lại hết. Không, đi ngủ với giun sớm!
Tôi về. Đói, mà cơm
không muốn nuốt. Phen này chắc không thể sống được. Thái độ chúng ghê gớm quá!
Gần một tuần lễ sau,
sáng trưa, chiều, tối, chúng làm như nước sôi, lửa bỏng. Chỉ có tên Thành, ánh
mắt của y từ lâu tôi nhìn vẫn thấy như có một chút tình người. Nhiều lần, y
thường có thái độ dịu dàng tình cảm đối với tôi. Dạo này, y có vẻ buồn, ít nói.
Thỉnh thoảng y cũng ngồi hỏi cung, tôi vẫn bất chợt bắt gặp ánh mắt thăm thẳm
của y khi thấy tôi bị mê tơi rũ rượi, như chiếc giẻ rách vì bị 3 tên quần thảo liên
tục từ sáng tới tối.
Một hôm, tên Đức hỏi
tôi:
- Năm nay anh bao nhiêu
tuổi?
Tôi dè dặt nhìn y:
- Thưa ông, 24.
Y nghiêm trang, lạnh
lùng:
- Anh có người yêu
chưa? Và có hứa hẹn với ai không?
Tôi không hiểu tại sao
y lạo hỏi đến chuyện riêng tư của tôi làm gì, vì thế, tôi nhìn y như dò hỏi:
- Trong thời gian còn
đi học, chỉ có yêu thầm, yêu vụng, chứ không hẹn hò với ai…
- Bố mẹ chỉ có mình anh
là con trai?
- Thưa ông, tôi còn một
người em trai, năm nay học Đệ Tam.
Y gật đầu, vẫn lạnh
lùng:
- Anh cương quyết không
khai báo gì thêm nữa phải không?
Trong khi tên Đức hỏi,
tên Nhuận vẫn ghi. Tôi trả lời:
- Thưa các ông, tôi đã
khai báo hết cả rồi. Điều nào chưa rõ, xin ông cứ hỏi. Tôi nguyện xin cố gắng,
điều gì tôi iết, tôi sẽ nói hết.
Nó hỏi ngay:
- Vậy, nhiệm vụ anh ra
ngoài Bắc này làm gì?
- Thưa ông, tôi đã khai
báo rõ ràng nhiều lần rồi.
Y đập bàn, quát:
- Thôi! Cho về, tôi hết
trách nhiệm với anh!
Trên đường về xà lim,
tôi rất lo lắng sầu héo. Thái độ của các chấp pháp dạo này khác thường. Tôi
chưa hiểu chuyện gì nữa sẽ đến với tôi.
Sáng hôm sau, khi tôi
ra phòng cung, chỉ có mình Nhuận. Nhuận chỉ ghế tôi ngồi, rồi nói:
- Hôm nay, có lẽ buổi
cuối tôi gặp anh, vì vậy, tôi muốn anh nói thật với tôi một số vấn đề. Trước
đây, và từ ngày anh ra Bắc tới bây giờ, với cái nhìn của anh. Anh thấy xã hội
chủ nghĩa còn điểm nào chưa tốt, và điểm nào anh không đồng ý?
Y ngừng lại một tí, rồi
nói tiếp, như tâm tình:
- Tất nhiên, chúng tôi
cũng còn nhiều điều chưa tốt. Nhưng tôi muốn nghe chính anh, một người ở xã hội
khác, cái nhìn có giá trị khách quan hơn. Vậy, anh được toàn quyền nói sự thật,
dù sự thật ấy như thế nào. Tôi bảo đảm với anh, anh không bị ảnh hưởng gì cả.
Tôi nghe y nói, tôi
nhìn y, rồi dè dặt:
- Thưa ông, tôi ra miền
Bắc, tuy là đi hoạt động, nhưng thực tế tôi không thích chế độ miền Nam, cho
nên, tôi đã chẳng làm gì cho họ cả. Tôi chỉ chủ trương thăm lại cảnh cũ thời
thơ ấu, nên không để ý nhiều về xã hội. Do đó, tôi có nói cũng khó chính xác…
Y có vẻ săn đón, khích
lệ:
- Không sao, dù không
chính xác. Anh cứ nói đi! Như vậy mới thể hiện anh thật lòng.
- Thưa ông, nói thực
với ông, tôi mới lớn lên, hơn nữa tôi là người ít học, nên chẳng hiểu vấn đề
chính trị ra sao. Làm thế nào biết đúng hay sai. Đi ngoài phố, tôi thấy dân
chúng đâu đâu cũng nổ lực lao động. Họ làm việc có ý thức trách nhiệm, chứ
không như miền Nam. Chỉ có điều là dân ta còn nghèo, còn có người phải kéo xe
ba gác. Nhưng, tôi tin rằng vài năm nữa sẽ khá hơn…
Y hỏi tôi:
- Còn gì nữa?
- Tôi chỉ thấy như vậy
thôi!
- Còn điểm gì anh không
đồng ý với xã hội chủ nghĩa?
- Tôi thấy cái gì cũng
tốt cả…Hay có thể vì sự hiểu biết của tôi kém, nên tôi thấy như vậy chăng!
Y cười nhạt, lặng lẽ
ghi hết ý của tôi. Rồi tiếp:
- Vậy, cụ thể anh đồng ý
với xã hội chủ nghĩa ở những điểm nào?
Tôi suy nghĩ, nói phải
có sách, mách phải có chứng. Tôi phải tìm ra một điểm gì để nó có thể tin được.
Tôi ngẩng đầu lên tỏ vẻ tin tưởng:
- Trước đây, tôi rất
không ưa người giầu, người giầu thì giầu quá, người nghèo thì quá nghèo. Vì
vậy, tôi rất vui khi về phố Hàng Bạc, tôi nhìn thấy anh Kỳ chồng cô Thuận đi
đôi guốc lộc cộc ngoài phố. Ngày xưa họ giầu lắm, họ hách dịch lắm, không bao
giờ đi đôi dép ra đứng trước của hiệu cả.
Y ra vẻ dìu dịu:
- Tôi hỏi thực anh, sao
anh quyết tâm không khai sự thật? Hay anh cho rằng chúng tôi không có biện pháp
nào bắt anh phải nói sự thật hay sao?
- Thưa ông, không bao
giờ tôi dám nghĩ như vậy. Tôi tin tưởng tuyệt đối là với cách mạng, không cái
gì cách mạng không biết cả. Còn sự thật, tôi đã khai ngay từ đầu. Tôi rất đau
khổ, không hiểu vì sao cách mạng vẫn không tin tôi. Tôi cũng không biết cách
nào để cách mạng tin tôi cả.
Nó đứng dậy cười gằn:
- Thôi, cho anh về! Anh
cứ ôm cái quyết tâm, cái ngoan cố ấy của anh sang thế giới khác, rồi Mỹ Diệm
chúng sẽ trả công cho anh!
33. Thủ Tiêu Trong Đêm…
Mụ Hoa đưa tôi về xà lim. Ngoài trời âm u xám xịt, chắc
đang mưa, nhưng lòng tôi còn đen tối om. Nhớ lại, trên đường về, nhìn hình ảnh
một con chim sẻ ủ rũ một mình, đang đứng nép tránh mưa rét trong mái hiên nhà
bếp, tôi liên tưởng tới những vụ thủ tiêu của Cộng Sản trước đây: Hình ảnh hai
chiếc thây, một của ông trùm và một của thanh niên Công Giáo một họ đạo. Bị
trói giặt cánh khuỷu bập bềnh, rữa nát trôi trên sông Đáy ngày nào năm 1952 vẫn
còn rõ nét trong trí ôi. Hình ảnh Đại Tá Hoàng Thụy Năm, Trưởng đoàn quân sự
Việt Nam Cộng Hòa, giao thiệp với Hà Nội theo hội nghị Genève. Cũng bị trói
giặt cánh khuỷu, lưỡi bị cắt, đầu và đầu gối bị những chiếc đanh 10 phân đóng
ngập, bồng bềnh trôi trên sông Đồng Nai, gần cầu Bình Lợi năm xưa cũng chưa
phai mờ… Đó là những hình ảnh tôi đã trông thấy. Còn biết bao nhiêu những vụ
thủ tiêu dã man tán khốc của lũ Cộng Sản khát máu đồng bào mà tôi đã nghe.
Bây giờ, tôi trong tình
thế này, không còn cách nào khác, cũng vui lòng theo các bậc Cha Anh. Trong
giấc ngủ chập chờn đêm khuya vắng lặng, tôi thấy tụi nó hai người, mặc quần áo
đen, bịt mặt, trói tay và chân tôi đem ra cạnh sông Hồng, chỗ gần Phà Đen.
Chúng đâm tôi hơn 10 nhát dao, rồi đẩy tôi xuống sông. Tôi cố vủng vẫy vì ngạt
thở, tìm cách hất đầu mình lên khỏi mặt nước. Tôi giật mình tỉnh dậy. Đó chỉ là
một cơn ác mộng! Trời lạnh mà tôi cũng toát mồ hôi ra.
Hai ngày trôi qua trong
đợi chờ lo lắng, thấp thỏm, vẫn không có gì xảy ra. Sáng ngày thứ 3, lão Bằng
mắt lồi lại vào gọi tôi đi cung. Khi ra tới phòng cung, tôi thấy chỉ có một
mình Thành, bộ mắt buồn xo, đỏ rừ, như mới uống rượu. Nét mặt của Thành hôm nay
làm tôi liên tưởng đến Cao Đình Tiệu, cũng một tuổi, báo cho tôi biết sẽ bị An
Ninh Quân Đội bắt và tra tấn khai thác ở 365 Phú Lâm.
Thành nói, giọng rười
rượi buồn:
- Bình ngồi đi!
Tôi ngồi, Thành vẫn im
lặng. Những phút im lặng, nặng nề trôi. Thành vẫn nhìn ra phía cửa sổ, rồi như
đắn đo, ngập ngừng:
- Lẽ ra tôi không thể
gặp Bình, nhưng tôi cố gắng để gặp Bình. Một lần nữa. Từ ngày tôi và một số
đồng chí trong cơ quan có trách nhiệm hỏi cung Bình, không hiểu sao dần dà tôi
thấy lòng mến Bình. Nhiều lúc, tôi coi Bình như em trai tôi, một người thanh niên
bị bắt còn quá trẻ, chưa được biết gì về cuộc đời. Hôm nay, tự đáy lòng tôi,
tôi nói với Bình thế này: Bình hãy nghe tôi, dù Bình muốn làm gì, Bình muốn như
thế nào đó theo quan điểm của Bình, tôi không có ý kiến. Nhưng, tôi muốn nói
với Bình là, tất cả, hãy cần giữ lấy cái đầu đã. Đó mới là người khôn! Chết
rồi, vô nghĩa hết, cái gì cũng không làm được. Chết, thiệt thân thôi! Bất cứ
muốn làm cái gì, Bình phải tồn tại đã. Bình còn quá trẻ, nên chỉ nhìn cuộc đời
từ một góc cạnh nào đó, trong khi cuộc đời muôn mặt. Tôi thuơng Bình, Bình giúp
tôi, tôi giúp Bình, tôi sẽ bảo đảm rất tốt cho Bình.
Một niềm xúc động len
lén vào lòng tôi. Dù ở một khía cạnh nào đó, những lời nói của Thành cũng có
những nét thực tế. Tôi xúc động ra mặt:
- Thưa ông, tôi rất
biết ơn ông. Phải nói rằng trong quá trình, tôi cũng cảm nhận thấy tình ông đối
với tôi. Nhưng, bây giờ…Tôi giúp ông được gì?…..
Y xua tay, gạt ngang:
- Không! Không, Bình
đừng nói gì với tôi bây giờ cả. Tôi muốn Bình về đêm nay, suy nghĩ kỹ, cân nhắc
mọi mặt cho thấu đáo. Trong ngày mai, nếu Bình muốn gặp tôi, hãy báo cáo với
quản giáo trực xà lim là “Muốn xin gặp ông Thành”. Tôi sẽ chờ Bình, nếu không
thấy, có nghĩa là Bình không muốn giúp tôi, và lúc đó, tôi cũng đành mặc cho
cuộc đời, vì khả năng và quyền hạn của tôi chỉ có một góc nhỏ.
Y đứng dậy, ra ý bảo
tôi về. Trên đường về xà lim, lòng tôi đầy vơi bao nỗi niềm. Tôi hiểu đây là
những vấn đề sống và chết. Chết thì danh dự, mà sống thì cúi đầu. Tôi miên man
nghĩ đến bao tấm gương cương cường, bất khuất của các bậc cha ông trong lịch
sử. Những nhân vật hèn hạ, hại bạn, hại thầy trong “Tam Quốc Chí”, trong sách
báo, trong phim ảnh…Người con trai sống ở đời, phải có tam cương, ngũ thường,
phải có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… Tôi nghĩ đến Công Giáo, đến Chúa, đến các
linh mục. Cha Quỳnh và bao nhiêu người trong Cục đã đặt niềm tin nơi tôi.
Qua thái độ hỏi cung,
từ lời nói, từ cử chỉ, từ hiện tượng, chúng mới chỉ nghi tôi, chứ chưa nắm được
gì về tôi cả. Nếu chúng đã biết rõ về tôi, và trong hoàn cảnh này, tôi phải khai
ra?
Tôi nghĩ tới hai trường
hợp khác hẳn nhau mà lại rất liên quan đến nhau: Chúng biết rồi mà mình khai,
đã còn có chỗ hèn, chỗ kém. Huống chi, chúng chưa biết gì, mình đã khai, vừa
hèn hạ, lại còn là một tên phản thầy lừa bạn nữa, chưa nói gì về lý tưởng. Ôi,
là một tên lừa thầy phản bạn, thì làm sao tôi sống? Hơn nữa, dù chưa có nhiều
kinh nghiệm về Cộng Sản lắm, tôi cũng hiểu là nếu chúng đã định giết, có khai
ra, lại bị chúng hành hạ khai thác một thời gian, rồi cũng sẽ bị giết. Bao
nhiêu điều tai nghe mắt thấy, kết hợp với nguyên tắc tổ chức của Cộng Sản.Tôi
biết, chúng không bao giờ tin dùng một người nào, nếu người đó không phải tự
tay chúng đào tạo. Có chăng, vì lợi ích nhất thời nào đó, chúng chũng chỉ dùng
có tính cách giai đoạn, rồi không tiêu diệt, cũng tìm cách phế thải sau này.
Còn với tên Thành! Nó
là ai? Là một tên Cộng Sản. Nó có nhiệm vụ gì? Khai thác tôi.
Điều này rõ ràng như
ban ngày. Với một tên Cộng Sản, bằng mọi cách, mọi giá, dù có phải kết nghĩa
anh em, dù có phải viết giấy cam kết sẽ không bỏ tù anh, nó cũng chỉ quanh một
mục đích hoàn thành nhiệm vụ khai thác; rồi sau đó, có hàng trăm ngàn lý do để
xé lời cam kết, bỏ nghĩa anh em.
Bao nhiêu suy nghĩ, cân
nhắc, đắn đo, cuối cùng chỉ làm cho tôi nâng cao quyết tâm “Cứ đi theo con đường
mình đã đi!”. Vì vậy, ngày hôm sau, tôi đắp chăn nằm ngủ để bù vào một đêm thao
thức.
Mấy ngày im vắng trôi
qua, nhưng trong lòng tôi lại là cả một trận cuồng phong. Thấp thỏm, lo lắng,
đợi chờ, không biết cái gì rồi sẽ đến với mình. Trời đã vào Xuân, nhưng trong
ngục tối này, nàng Xuân cũng sợ, nên chẳng thấy dáng nàng đâu. Ba ngày, rồi năm
ngày vẫn lặng lẽ trôi đi. Nỗi ưu tư trong lòng tôi cũng xẹp xuống dần.
Đêm nay, không hiểu sao
mà tôi cứ bồn chồn trong lòng, không ngủ được. Như có linh lính về một điều
chẳng lành sắp xẩy đến cho mình, tôi cứ xốn xang quằn quại mãi không yên, lịch
kịch dậy đi giải mấy lần. Có lẽ phải khoảng quá nửa đêm, tôi mới cố đi vào được
giấc ngủ…
Tôi đang mê mệt với
giấc ngủ muộn, bỗng nghe thấy tiếng ầm ầm. Tôi vội vàng hất chăn che đầu xuống,
nhìn ra. Cửa buồng đã mở, lố nhố ba, bốn người. Toàn người lạ mặt, lại còn
thoáng thấy bóng người phía bên ngoài cửa nữa. Thái độ của họ rất lạnh lùng, ai
cũng súng ngắn cạnh sườn. Một người cầm chăn tôi kéo mạnh ra, vất sang sàn bên cạnh,
quát:
- Bò dậy!
Tôi hoang mang chưa kịp
phản xạ để hiểu chuyện gì, thì một giọng miền Trung nặng, rắn đanh:
- Chúng tôi có lệnh đưa
anh đi! Hãy chấp hành!
Chưa mở cùm, một tên đã
khóa hai tay tôi ra phía sau. Một tên khác, khóa lại xích phía trên cánh tay
tôi. Rồi chúng lấy một miếng vải đen dài bịt kín mắt tôi. Tiếng mở chốt cùm,
tiếng nhấc cùm. Hai tên xốc hai bên cánh tay tôi, quát:
- Đứng dậy!
Tôi hoang mang tột
cùng. Tôi đã đoán trước số phận mình cũng phải tới lúc, nhưng tôi không hình
dung nổi cảnh này. Vì nghĩ là không sớm như vậy, nghĩa là chúng còn phải khảo
tra tôi một thời gian nữa đã. Vì vậy, tôi vẫn bị bất ngờ. Hơn nữa, trước đây
suy nghĩ thì chuyện còn là tưởng tượng, bây giờ là thực tế. Người tôi rủn ra,
lòng tôi tái tê, hình như chúng xách người tôi đi, chứ chân tôi như vật vờ trên
mặt đất. Mãi tới lúc này tôi mới thấy là dưới chân mình không có đôi dép. Như
vậy, chúng không cho tôi đi dép nữa.
Chân tôi lệt xệt bước
cao, bước thấp. Có lẽ ra cổng Hỏa Lò. Đang đi chúng dừng lại, có tiếng thì thào
chúng nó nói chuyện gì đó với nhau. Rồi tiếng xe “Commanca” rồ máy. Chúng đẩy,
phải nói là chúng xách tôi lên xe, vì lúc này chân tôi nhẹ tênh chỉ có da bọc
xương. Xe chạy, có lẽ ra khỏi cổng, người tôi lạng qua phía trái, vậy xe quẹo
về bên phải.
Trên đường im vắng, chỉ
có tiếng động cơ của chiếc xe tôi đang ngồi. Không ai nói với tôi một lời. Vì
quá đột ngột nên trí óc tôi cũng đơ ra, chỉ còn nghĩ mình sắp chết. Tôi không
còn tinh thần để kịp hỏi chúng đưa tôi đi đâu. Hồn tôi lãng đãng như không còn
trong người tôi.
Chừng 20 phút, có lẽ
bây giờ xe đã đi ra ngoài thành phố, bởi vì xe đi thẳng và gió lạnh thêm. Xe đi
chừng nửa tiếng nữa thì dừng lại. Hai tên xách mạnh hai cánh tay tôi. Một tiếng
quát lạnh băng:
- Đi xuống!
Tôi đứng lên, rồi chúng
phải nhấc tôi xuống. Chân tôi đạp xuống đất có cỏ ướt. Chúng kéo tôi đi, chân
tôi vẫn lướt thướt trên cỏ và đất gập ghềnh. Tai tôi nghe tiếng ễnh ương và
tiếng côn trùng rên rỉ. Như thế, chung quanh đây là ruộng đồng. Đi chừng 10
phút, chúng dừng lại. Một giọng en ẻn miền Bắc đột nhiên nổi lên:
- Báo cáo đồng chí, đã
đào xong!
Tiếng miền Trung nói
nhỏ hơn:
- Có mang vôi không hỉ?
Tiếng báo cáo “Có” nghe
lẫn vào tiếng gió, có lẽ vì đã đi xa. Chúng kéo xềnh xệch tôi đi, buộc hai tay
vào một chiếc cột. Tay tôi chạm, như là một cái cây vì còn cả vỏ. Mấy phút im
lặng. Một giọng miền Trung chắc nịch:
- Tên Bình nghe đây:
“Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc. Bộ Công An. Tên Đặng Chí
Bình, 24 tuổi, quê quán… Can tội gián điệp làm tay sai cho Mỹ Diệm, đã xâm nhập
miền Bắc phá hoại cách mạng. Y vô cùng ngoan cố, vẫn kiên trì một lòng bao che
những âm mưu hại dân, hại nước, không chịu khai báo sự thật. Nay quyết định xử
tử. Theo truyền thống nhân đạo của cách mạng, Bộ cho phép tội phạm 5 phút để
suy nghĩ, tự cứu mạng sống của mình, bằng cách khẩn cấp xin khai báo lại sự
thật. Bộ Công An Nhân Dân. Ngày 27 tháng 01 năm 1963…”
Đêm thâu vắng lặng, chỉ
có tiếng gió lào xào lẫn với tiếng nỉ non re re re… của côn trùng. Tiếng lên
đạn của mấy khẩu CKC nghe rõ mồn một.
Giọng miền Trung lại
nổi lên dõng dạc:
- Tên Bình! Bây giờ
giữa sống và chết, cho mi 5 phút… Bắt đầu!
Tai tôi ù lên. Đầu tôi
như đông đặc lại. Tim tôi như không đập nữa. Tôi nghe như có tiếng o-o kêu ran
ran chung quanh. Một thoáng hình ảnh mẹ tôi, một thoáng ân hận về việc Trí.
Hình ảnh mẹ tôi, hình ảnh Trí hẫng lên, loãng dần. Trời vào Xuân còn lạnh buốt,
vậy mà ở sống lưng tôi như có giòng nước chảy. Hai bàn tay tôi cũng ướt đẫm mồ
hôi. Một tiếng quát rổn lên, tim tôi như thắt lại:
- Bốn phút rồi; còn một
phút nữa!
Tiếng gì đó kêu ran
trong đầu, tôi chờ, tôi lắng nghe mấy tiếng nổ. Người tôi tê đi như không còn
cảm giác. Chân tôi như muốn khuỵu xuống, nếu không có cái cột chắc tôi không
thể đứng được.
Tôi thấy như hết hơi,
không thở được nữa. Chết! Một tiếng “Chấp hành!” dội lên. Tôi tưởng là tiếng
súng nổ. Tôi thấy cắn, buốt ở hai bên ngực. Bỗng dưng im lặng, một phút, rồi
hai phút, tôi cố lắng nghe, dường như có tiếng thì thào…?! Có người đến cởi dây
trói buộc tôi vào cây cọc ra, rồi một giọng người Bắc vang lên:
- Số anh còn sống ít
ngày nữa, có lệnh hoãn…..
Chúng lại xốc nách tôi
ra xe. Người tôi như không hồn, mềm nhũn ra, mặc chúng lôi kéo, đẩy đưa tôi đi.
Trên đường về, trong lúc ngồi trên xe, một giọng nói quen quen, nhưng tôi không
thể xác định được là ai:
“Vì một sự việc đặc
biệt, anh còn được sống thêm ít ngày nữa…”
Hồn tôi vẫn bồng bềnh,
tôi không nói một lời.
Lại về xà lim. Chúng
cùm chân tôi xong, mới mở khóa trên, khóa dưới tay tôi. Cuối cùng chúng mới cởi
khăn bịt mắt của tôi. Mắt tôi hoa lên với đầy những vòng tròn to nhỏ trước mắt.
Tôi chỉ thấy lố nhố mấy người. Tới khi tôi nhìn rõ lại cảnh vật, chúng đã ra ngoài
và đóng cửa lại rồi.
Trời vẫn chưa sáng. Tôi
cố lựa chân đứng xuống đất, để với lấy hai cái chăn chúng đã ném ở sàn bên.
Thấy lành lạnh ở dưới đùi, tôi sờ quần, thấy ướt. Như vậy, đã đái ra quần mà
tôi không biết.
Mệt và căng thẳng, tôi
nằm xuống đắp chăn. Hồn tôi vẫn lềnh bềnh như đang còn trong một cơn ác mộng.
Như vừa từ cõi chết trở về. Tự nhiên, tôi thò tay vào trong áo sờ hai bên ngực.
Một nỗi buồn phảng phất, vướng vít trong óc tôi. Sự việc vừa xẩy ra, tôi thấy
mình vẫn chỉ là một tên hèn, sợ… chết.
34. Đổi Xà Lim, Bạn Tù Mới…
3 ngày trôi qua. Tôi vừa lại sức, lại hồn, một buổi chiều
sau giờ làm việc, (5 giờ chiều thì hết giờ làm việc), cửa con bỗng mở, mặt tên
cán bộ mắt lồi:
- Có gì mang hết đi, cả
chăn chiếu!
Y rút cùm. Tôi vội vàng
lấy chân ra, vơ gọn chăn chiếu. Tôi không quên đút cái gối bằng cuống chổi
Thanh Hao vào trong chăn, cuộn lại và mang cả cái gáo nữa. Y mở cửa, tôi ôm đồ
ra. Chợt nhớ tới đôi đũa, tôi quay lại xin y cho lấy đôi đũa thường treo ở đuôi
chốt cùm phía ngoài.
Mọi hôm đi cung, thường
ra cuối hành lang rồi rẽ tay phải. Hôm nay, lại rẽ phía trái, vào trong, tới
một cái cửa, y mở. Chà, cả một cái sân to lớn, rộng thênh thang, với bao nhiêu
dẫy nhà chung quanh. Có 5, 6 cây bàng to tướng, cành trơ trọi với những búp lá
non mới nhú, trông khẳng khiu như những cánh tay gầy. Y dẫn tôi vòng theo mé
sân, mở mấy lần khóa, rồi tới một khu toàn buồng. Một hàng chữ đỏ kẻ trên
tường: Xà Lim II.
Hơn 7 tháng trời ở xà
lim III, hôm nay tôi mới nhìn thấy xà lim II. Xà lim II ở ngay cạnh cổng phòng
trực của trại chung, nên có cái loa, tiếng nói đang vang vang nghe rõ mồn một.
Vào tới buồng, đã có một anh nằm đang đắp chiếc chăn bông, lồm cồm bò dậy. Trong
khi tên cán bộ rút chốt cùm, tôi tự hiểu, nên nhấc cùm ra và cho một chân vào.
Y đóng chốt cùm, khóa cửa. Tôi quay lại gật đầu chào anh bạn mới. Anh chàng này
độ 26, 27 tuổi, trông có vẻ khỏe mạnh, tuy da vẫn xanh xao. Anh mỉm cười gật
đầu chào lại tôi.
Tôi lục đục vừa trải
chiếu vừa ngó chung quanh tường, lên cửa sổ. Không khí ở đây có vẻ khoáng đãng
hơn xà lim III, cả ánh sáng nữa. Phía trên đầu nằm là một khung cửa sổ to, kích
thuớc khoảng 1 mét x 60 phân, với những song sắt đường kính 2 phân, có lưới
thép phía trong. Mép dưới cửa sổ chỉ cao hơn nền gạch khoảng 2 mét rưỡi. Do
đấy, nếu đứng lên sàn, có thể nhìn ra ngoài được, phía giàn nho. Phía chân nằm,
ngay trên cửa ra vào là một khung cửa sổ nữa nhưng bé hơn, khoảng 50 x 30 phân,
cũng bọc lưới thép phía trong sát vào chấn song. Cùm và sàn cũng giống như xà
lim III. Khác hẳn với cảnh vắng lặng tịch mịch của xà lim III, ở đây có một
chiếc loa gắn ngay trên cửa lớn ra vào trại chung, chĩa ra sân phía trước có
giàn nho, nơi tôi vẫn đi cung. Như vậy là ngay cạnh xà lim II, vì vậy nằm trong
buồng, tôi nghe tiếng loa rất rõ.
Buổi chiều và tối đêm
hôm đó, qua những câu chuyện thăm hỏi anh bạn mới cùng buồng, tôi được biết sơ
lược về anh: Tên Phạm Huy Tân, nghề chuyên môn là y tá, phục vụ tại một xã ở Hà
Nam, đã có vợ và một con. Anh tham gia hoạt động bí mật trong một đảng chính
trị: “Tân Cách Mệnh Việt Nam Phong Trào” (gọi tắt là “Tân Phong”). Chủ tịch
đảng tên là Chương (tôi quên họ), cũng là chủ tịch một xã thuộc Hà Nam.
Đảng Tân Phong đã hình
thành hoạt động được gần 3 năm. Đảng kỳ nền vàng có một sao đỏ ở giữa, cũng có
tôn chỉ, mục đích, cương lĩnh chính trị; số đảng viên vài chục; đã phát triển
lên miền cao là Hòa Bình, Tuyên Quang. Về sau bị lộ, vì Cộng Sản đã cài được
người của chúng vào trong Ban lãnh đạo. Vì thế, nhân một buổi họp đảng, (lợi
dụng một đám cưới nhiều khách khứa các nơi ra vào, đảng họp bí mật ở giữa một
gian nhà trong), bất ngờ, Cộng Sản tới vồ tất cả tại chỗ. Sự việc đã xẩy ra
cách đây hơn 6 tháng.
Về phía tôi, tôi cũng
nói thẳng là ở trong Nam ra. Tất cả những chuyện mà tôi nói chỉ nằm trong phạm
vi tôi đã khai báo với chấp pháp. Đồng thời chỉ có khái niệm sơ lược.
Qua một số ngày, với
một số thử thách của tôi, cùng với những hiện tượng, tôi biết chuyện đảng phái
và anh ta bị bắt là có thực. Nhưng, anh ta thuộc loại khôn ngoan vặt. Trong
tình thế này, để tự cứu mình, anh ta đã thở ra những hơi muốn “tiến bộ”. Như
vậy, anh ta còn nguy hiểm hơn một tên cán bộ dùng khổ nhục kế. Vì mọi người
cùng cảnh sẽ mất cảnh giác, dễ tâm sự thổ lộ những tư tưởng và quan điểm, cũng
như những công việc mình đã, đang và sẽ làm. Tuy nhiên, dù sao y cũng còn non
nớt, cho nên sau những buổi đi cung về, nhiều khi y lộ vui ra nét mặt. Đôi lúc
không kìm được, y nói thành lời: Nào là chấp pháp rất tin tưởng và thương mến
y, nào là nhiều lúc chấp pháp vỗ vai thân mật như anh em. Ngay ông cán bộ tên
Tư người miền Nam trực xà lim cũng tỏ ra có thiện cảm với tên Tân, thường gọi y
ra sai làm những việc vặt như làm vệ sinh, hoặc đôi khi sai quét đường đi ở
giữa hai dẫy xà lim.
Ai đã từng ở xà lim một
vài tháng trở lên mà được sai ra làm những công việc này, là một hình thức được
chiếu cố, gia ân. Thứ nhất, sẽ được thoải mái, không bị gò bó ngồi một chỗ; hai
nữa, điều đó nói lên lòng tin của cán bộ, không sợ anh có thể lợi dụng cơ hội
để liên lạc, dưới nhiều hình thức, với các buồng khác, tuy rằng vẫn luôn luôn
có cán bộ đứng coi anh làm.
Ngay thái độ tên Tân
cũng có vẻ bợ đỡ, nịnh nọt cán bộ ra mặt. Thái độ ấy, và ý đồ ở trên, lòng tôi
làm sao ưa y được. Dù vậy, tôi vẫn bình thường không tỏ một cừ chỉ nào quá đáng
thể hiện là không ưa anh ta. Một lần, tôi hỏi thử:
- Liệu vụ án của Tân có
đem ra xử không? Và xử thì Tân sẽ bị khoảng bao lâu?
Y có vẻ đắn đo, thận
trọng, cuối cùng mới thổ lộ:
- Theo như một số hiện
tượng, từ đấy tôi suy đoán, kết hợp với chấp pháp của tôi, có thể hơn một tháng
nữa, vụ án của tôi sẽ được đưa ra xử. Ông Chương đầu vụ có thể bị từ 12 tới 15
năm. Còn tôi, nhiều hy vọng có khi không phải ra tòa. Nếu có ra, cũng chỉ từ 2
tới 3 năm.
Qua cách trả lời, cũng
như sự suy lý của y, tôi nhận thấy: Tên này đang bị cái bùa tình cảm của chấp
pháp, chắc rằng y đã phải tố nhiều người trong tổ chức của y. Y tin như vậy là
một cách để tự cứu. Một loại người như vậy, nếu chấp pháp hỏi về tư tưởng, về
tâm sự, v.v… của người cùng buồng, là tôi, tất nhiên y phải nói bằng hết. Rồi
có khi y sẽ được giao nhiệm vụ gợi chuyện, tìm hiểu tư tưởng và công việc làm
của tôi, với những lời hứa hẹn đẹp đẻ. Với tôi, dù có nhận định y không phải là
loại người như trên đi nữa, cũng đừng hòng bao giờ tôi tâm sự chuyện riêng,
huống chi tôi đã thấy y là một tên cơ hội rõ ràng. Tuy vậy, qua cái nhìn của
tôi về y, chưa cho phép tôi nhận định chung về các đảng phái ở miền Bắc. Tuy
tôi cũng thấy trong lòng không được vui, vì y là cán bộ chịu trách nhiệm về
tuyên truyền, liên lạc mà trình độ như vậy, tư tưởng lại bấp bênh giao động như
thế. Ngay bản thân cán bộ cốt cán, cũng không hề có lý tưởng thực sự! Ở đây,
tôi lại nói “thực sự”, vì rất nhiều người chỉ có lý tưởng ở mồm, mà không phải
ở tim, ở óc.
Tôi cũng rất tiếc không
được gặp ông Chương nào đó, chủ tịch đảng Tân Phong, để tìm hiểu và học hỏi
những khả năng và kiến thức của ông ta, để từ đó thấy được về đảng Tân Phong
này. Tuy vậy, qua một cán bộ tuyên truyền, tôi cũng có một số khái niệm về đảng
đó. Vì thế, tôi mới thấy trong lòng không có một niềm phấn chấn tin tưởng.
Theo Tân, vụ của y có
hơn 10 người hiện đang ở trong Hỏa Lò, một số nhẹ ở trại chung. Ngay ở xà lim
II này, buồng số hai có một người anh họ cùng vụ, chịu trách nhiệm về ngoại
giao và tài chính, y là giáo viên Cấp hai.
Xà lim II gồm có 8
buồng, mỗi bên 4 buồng đối diện nhau, không bị cùm, đứng lên cái cùm có thể
nhìn thấy từ trán của nhau trở lên. Nhưng, nội quy xà lim nghiêm cấm đứng lên
sàn. Bất cứ lúc nào cửa con xoạch mở, nếu thấy anh đứng lên sàn, dù chỉ tựa
lưng vào tường đứng chơi. Cùm sẽ được rút ra ngay và mời anh cứ tự nhiên bỏ
chân vào, đừng nói gì thêm nữa, vô ích. Trong 8 buồng, chúng dành buồng số 8,
bắt một vòi nước máy vào làm chỗ đỗ phân và tắm rửa.
Do điều kiện bị cùm,
hơn nữa trong buồng không hề nhìn thấy gì bên ngoài, vì thế tất cả linh khí của
thân thể, đều tập trung về thính giác, để phán đoán và xác định âm thanh. Càng
ở xà lim lâu, thính giác càng bén nhậy, tinh vi. Tuy chưa bao giờ thấy một ai ở
cùng xà lim, nhưng lúc đó tôi đã biết: Buồng 1 giam một người, buồng 2, hai
người, không bị cùm. Buồng 3 không có người. Buồng 4 là buồng chúng tôi. Buồng
5, nhà tắm, buồng 6, một người. Buồng 7, sát nhà tắm, có hai người đều là nữ,
bị cùm mỗi người một chân. Thỉnh thoảng ban đêm, tôi thường nghe tiếng phụ nữ
khóc sụt sịt, nhiều khi thành tiếng nức nở thảm thiết ở phía đó.
Theo Tân kể chuyện thì
do sự kích thích tò mò của đàn ông con trai, nên một lần đã liều, khi cán bộ
vào gọi cung một cô, Tân đứng trên chiếc chăn bông gấp cuộn lại, y lén, nép
nhìn. Cô đó khoảng 20 tuổi, trông như nhà tu, ở xà lim chừng độ gần tháng nay.
Tôi nghe chuyện cũng
thấy lòng thương hại thông cảm. Tôi là đàn ông thanh niên, bị cùm đã thấy khổ
sở khi ỉa đái, phụ nữ thì thật khó khăn. Nhất là đêm hôm, cán bộ đàn ông thường
mở cửa con kiểm tra; có khi không mở, chỉ đứng rình qua cái khe của miếng sắt
hơi bẻ cong, che cửa con. Ở ngoài nhìn vào thấy nửa buồng, còn ở trong nhìn ra
chỉ thấy trần nhà. Chắc rằng, thôi thì thân gái, trong cảnh này cũng đành phó
mặc!
Vì hai cô này, trong xà
lim, tâm trạng hầu hết đều tò mò muốn biết người và sự việc. Hôm qua, buồng số
2 đối diện một anh đã bị bắt tại trận đang đứng trên cùm, kiễng chân thập thò
nhìn khi tên Tư, cán bộ xà lim mở cửa số 7 cho ra rửa ráy. Cùm rút chốt luôn,
và anh đó đã bị cùm.
Tên Tân rất khôn ngoan
tinh quái. Y nắm được những quy luật giờ giấc, cùng những mánh khóe rình mò của
cán bộ, nên y cũng đứng lên mà lão cán bộ không biết. Trong một ngày, ở xà lim
II, giờ tương đối an toàn nhất là sau giờ tan tầm 5 giờ, nghĩa là từ 5 giờ 15
phút đến 6 giờ tối. Lúc đó, cán bộ vừa bàn giao thay ca, kiểm nhận người hết
lượt xong, đi ăn cơm.
Tên Tân tỏ ra nhiều
hiểu biết về các cán bộ ở Hỏa Lò, làm nhiều khi tôi phải ngạc nhiên suy nghĩ.
Thì ra, lúc mới bị bắt, Tân cũng ở ngoài trại chung, mỗi ngày hàng trăm người,
đủ mọi thứ tội. Được gần một tháng, không hiểu vì sự khai báo thế nào của những
người trong cùng một tổ chức đảng, nên y bị đưa vào xà lim. Vì vậy, qua chuyện
trò với y, tôi được biết giám thị trưởng của Hỏa Lò là tên Võ, người miền Nam
tập kết. Tuy y chỉ là Thiếu Tá, nhưng đã già rồi, y rất có thanh thế, vì cùng
lứa với y mà y quen biết, có nhiều người đã là cán bộ trung ương đảng. Qua đó,
tôi đã đoán ra được, hôm đầu tiên tôi bị đánh và bị cùm mồm. Một ông già gần 60
tuổi đeo kính trắng vào tha cho tôi, chính là tên Võ giám thị. Còn hai phó giám
thị, một là tên Trì, Trung úy người Quảng Bình, một là tên Lê, Trung úy quê ở
Hưng Yên.
Hỏa Lò có hai y tá, một
nam và một nữ. Nữ là mụ Dậu đã tiêm cho tôi mấy lần khi tôi bị sốt. Theo Tân
biết, mụ là cán bộ lưu dụng, vì có chồng là một cán bộ cách mạng nằm vùng nội
thành. Nam y tá tên là Huệ, thường coi ở bệnh xá.
Ba tên cán bộ văn thư,
thường gọi đi cung là lão Bằng, mụ Hoa và một lão già tên Kim cũng đeo kính
trắng người Bắc, Thượng sĩ. Lão Kim này là cán bộ gần như lưu dụng, vì thời
Quốc Gia trước 1954, lão cũng là cai tù ở Hỏa Lò, nhưng là người của Cộng Sản
cài vào. Còn mụ Hoa có một tiểu sử như sau: Mụ là gái Quảng Trị. Trước 1954,
theo chỉ thị của đảng, mụ bán xôi chè cho binh lính ở những đồn bót tại Quảng
Trị, rồi yêu đương và trở thành vợ chồng với một anh Trung sĩ Quốc Gia ở trong
đồn đó. Cuối cùng, Cộng Sản dùng mụ này làm nội ứng, nên đã chiếm được đồn lính
sau một đêm tấn công. Sau hội nghị Genève, mụ bỏ chồng, tập kết ra Bắc theo già
Hồ, rồi làm công an ở Hỏa Lò.
Đầu năm 1961, một sự
trớ trêu, chính người chồng mụ ngày xưa lại vào Biệt Kích và ra Bắc, rồi không
may bị bắt đưa về Nghệ An. Lúc ấy, mụ còn là cán bộ ở đó, bất ngờ gặp lại người
chồng năm xưa. Mụ đã mua cho một bánh chưng với một cái bánh mì, cùng với một
giờ chưởi bới, giáo dục. Cuối cùng người chồng cũ uất hận và khổ đau, đã quẳng
cả bánh chưng, bánh mì ra sân dù đói, và phải đi cùm vì hỗn láo với cán bộ.
Nghe tên Tân kể, tôi
băn khoăn, làm sao mà y biết rõ thế? Y giải thích là, trong đám tù ở buồng y,
có một cán bộ tập kết biết rỏ mụ ta, kể lại.
Sau khi nghe chuyện Tân
kể, mỗi khi mụ Hoa vào gọi cung tôi, liếc nhìn cái dáng đi vặn vẹo và cái môi
thâm xì của mụ. Một nỗi niềm vừa thương hại, lại vừa ghét trỗi dậy trong lòng
tôi. Ghét, vì mụ đã làm cho bao nhiêu chiến hữu của tôi phải nằm xuống, trong
đêm Cộng Sản cướp đồn. Thương hại, vì mụ quê mùa, ngu muội, nghe lời phỉnh phờ
bịp bợm của tụi lãnh tụ Cộng Sản. Cố hy sinh tất cả, để tiến tới một thiên đàng
Cộng Sản không bao giờ có thực. Cũng giống như những người lính của họ Tào, đã
vượt núi, vượt rừng để tiến tới cái rừng mơ, mà thỏa chí, trong truyện Tam Quốc
của Trung Hoa.
Vào một ngày thứ Bảy,
tên Tân được gọi ra cổng kể nhận tiếp tế của vợ. Khi về, y xách theo một cái
túi, gồm 2 cái bánh chưng, khoảng 2 lạng muối vừng đã giã, 3 lạng đường phèn
(mía), 3 cái bánh mì và 10 quả chuối; đặc biệt nhất là 2 gói thuốc lá Trường
Sơn.
Ngay từ một vài ngày
trước, tôi đã thấy y lấm la lấm lét, nằn nì lão Tư để xin chỗ cơm còn thừa của
một buồng bị bệnh không ăn hết, để rồi tên Tư quát “Nhanh lên!” y vội vàng chạy
ra cái chõng, lấy bát cơm thừa đổ lên cái khăn mặt của y, chừng độ một nắm cơm,
khoảng 1/3 suất. Y hí hửng sung sướng ngồi ăn, không một chút ngượng ngùng gì
với tôi cả. Với một người như vậy, thái độ của tôi càng tỏ ra coi thường miếng
ăn. Thực ra, trong lòng tôi, tôi không cần biết y có cái gì cả. Nhưng, trong
một căn buồng chật hẹp sát nhau như thế, chạy đi đâu được! Cái gì cũng đập vào
tai, vào mắt mình!
Thấy y ăn quả chuối, y
ăn vỏ trước rồi ăn ruột sau. Y vuốt ve, nâng niu những thứ đồ tiếp tế như cái
gì quý giá nhất của đời y. Tôi chỉ còn cách duy nhất là lựa thế nằm xuống, đắp
chăn để khỏi nhìn thấy cái cảnh không muốn nhìn. Nhưng, tới khi y đánh diêm để
hút một điếu thuốc, tâm hồn tôi bị xáo trộn dữ dội. Trong một căn buồng quá
nhỏ, khói thuốc quạt vào mũi tôi như gãi vào từng tế bào, làm cho hồn tôi như
ngây ngất đê mê, và như thách thức lý trí, làm đầu óc tôi đầy vơi những nghĩ
suy. Vô kế khả thi. Nhưng, bảo tôi mở miệng ra xin y một điếu thuốc, thà chết!
Điếu thuốc của y hút làm bận rộn đầu óc tôi, nghĩ hết cách này đến cách khác,
nhưng chẳng cách nào có thể thực hiện được. Để rồi, ngập ngừng di vào giấc ngủ
muộn của đêm thâu.
Bị cùm mà ở chung với một
người không bị cùm, người bị cùm lại thêm một nỗi khó khăn nữa. Nếu bị cùm một
mình, tới bữa cơm, cán bộ phải mở cùm cho ra lấy cơm. Một ngày được cho ra đổ
bô một lần. Đó, chính là lúc nghỉ chân vào thay đổi chân. Ở đây, hai ngày cán
bộ mới mở cho ra một lần để đổ bô phân mình đi đại tiện.
Còn cơm, nước, cũng như
khi trả bát, tên Tân được ra vào hai lần, mà mình lại phải mang ơn người khác.
Nhưng, ở trường hợp này, lại chẳng muốn họ làm cho mình. Còn một vấn đề nữa là
những khi đi giải, lúc đầu tôi thật ngượng ngùng lúng túng, chỉ có một cái thế
đứng duy nhất, nếu anh kia đang ngồi, là phải vén quần ngay trước mặt anh đó.
Rồi lúc đi ỉa, không thể kéo cái bô từ gầm sàn ra, mở nắp, rồi lựa thế lê đít
ra cạnh mé sàn mà ngồi đi được. Trong lúc anh kia đang ngồi ở sàn bên cạnh, chỉ
cách có 60 phân. Vì vậy, phải cố xách cái bô lên sàn, rồi lựa thế, một chân
quỳ, một chân hơi nghiêng nghiêng trong cùm, để mông ngồi lên miệng bô. Như
vậy, đỡ hôi cho người cùng phòng, nhưng mình phải chịu cạnh cùm nghiến vào chân.
Mỗi lần ngồi khó khăn như thế, thường phải từ 20 đến 30 phút. Nhiều khi ê cả
chân, ê cả đít, mỏi cả người. Tuy vậy, lúc rửa chỉ còn một cách duy nhất, là
lại phải xách bô xuống nền, dịch đít ra mé sàn, lựa thế hai tay đưa ra phía
sau, một rửa, một cầm gáo đổ.
Chưa hết, người bị cùm,
người không, ở chung một phòng còn bị một khía cạnh tâm lý nhỏ nữa. Người ta
nói, trong cuộc đời: Suớng, khổ, vui, buồn, một phần do môi trường chung quanh,
nên mầu đen mà cạnh mầu trắng thì hai mầu càng làm rõ cho nhau. Trong khi chân
mình lạnh buốt trong cùm, giở người, hoặc ngồi lên, nằm xuống cũng khó khăn;
họ, sau bữa cơm, đi bách bộ, dù chỉ 4, 5 bước, đi đi lại lại hai tay chắp sau
đít thật tự do. Sáng dậy, họ tập thể dục, chạy tại chỗ dăm phút cho khỏi tê
chân. Mình, chân tê lại cắn rần rần cũng đành nằm im mà thèm.
Sáng hôm sau, khi Tân
và tôi mỗi người một sàn đang cắm cúi ăn cơm, tự nhiên Tân lên tiếng:
- Anh Bình này, tôi
thấy các anh ở miền Nam vẫn coi thường miếng ăn lắm!
Tôi quay sang nhìn y để
phán đoán qua nét mặt, y hỏi như vậy là ý muốn gì? Vì chưa xác định rõ, nên tôi
cũng lửng lơ:
- Miếng ăn thì cần
thật, nhưng nhiều lúc chẳng coi ra gì cả.
Y cười, hơi ngượng
ngùng:
- Tôi biết là anh không
cần thiết ăn lắm… Anh có dám hút thuốc không?
Tôi đã nắm được ý của
nó. Tôi sáng mắt lên: Nếu bỏ một bửa ăn để đổi lấy thuốc hút! Tôi đồng ý ngay!
Y hơi gượng gạo:
- Bây giờ thế này nhé!
Thuốc lá thì tôi không cần, tôi chỉ thích ăn thôi. Vậy, để cho công bằng: Một
bao thuốc lá Trường Sơn, giá bên ngoài là 3 hào. Trong đây, tiêu chuẩn ăn, bao
gồm cả thuốc men do nhà nước đài thọ, cho một phạm nhân là 12 đồng một tháng.
Như thế, vị chi mỗi ngày là 4 hào, kể cả canh. Do đó, cơm là 3 hào, còn một hào
là canh và thuốc men. Vậy thì, một suất cơm cả canh, 1 hào 8 hay 9, còn một xu
chi cho thuốc. Tôi cứ rộng rãi, cho một suất cơm là 2 hào. Vậy nếu anh đồng ý,
mỗi bữa tôi chỉ lấy nửa suất cơm thôi, còn canh phần anh. Tôi sẽ đưa cho anh 6
điếu thuốc. Hay một bao là một suất rưỡi. Nhưng mỗi ngày tôi lấy nửa suất thôi,
kẻo anh đói quá!
Tôi im lặng ngồi nghe
và nhìn y tính toán. Rồi y lại tỏ ra một người có lòng nhân ái nữa. Y sợ tôi
đói quá, nên mỗi ngày chỉ lấy nửa suất cơm thôi!
Lòng tôi trỗi dậy một
niềm tê tái lẫn oán thù. Tê tái vì tình người như nước ao bèo. Oán thù, vì một
chế độ kinh khủng đã tạo ra một cuộc sống, cùng khổ cho người dân. Những nếp
suy nghĩ tính toán vặt vãnh, làm tan hoang cái truyền thống nhân ái, đạo đức,
đùm bọc tốt đẹp của dân tộc.
Tuy trong lòng nghĩ như
vậy, nhưng trong cái thế và cảnh này, tôi sẽ đồng ý đổi nửa suất cơm thôi, và
sẽ là lần đổi duy nhất đối với nó. Vì thế, tôi lạnh lùng:
- Tôi chỉ cần ăn để
không chết thôi! Vậy, chiều nay tôi hãy đổi thử nửa suất thôi, xem sao đã.
Y ra trả bát, xong xuôi
y lấy bao thuốc đưa cho tôi 6 điếu. Trông y có vẻ hưng phấn, thỏa mãn, cũng lấy
một điếu thuốc phì phèo. Tâm tư của tôi thực nặng chĩu. Tôi cũng châm một điếu
thuốc, rồi nằm đắp chăn, mắt nhắm nghiền cho hồn say sưa, mà lòng thì quặn
thắt.
Ngay chiều hôm ấy, khi
y lấy cơm vào. Sau khi quản giáo đóng cửa, tôi bảo y cứ xẻ lấy một nửa suất
theo ý muốn, rồi đưa lại cho tôi.
Vì hút thuốc mà trong
lòng lại chẳng vui gì, nên mỗi ngày, tôi chỉ hút một điếu vào lúc sắp đi ngủ. Y
tỏ vẻ không được vui khi thấy tôi hút ít như vậy. Những ngày sau đó, lúc hút
cũng như lúc thở khói, y cố ý gợi cho tôi thèm, nhưng tôi vẫn lạnh lùng. Thậm
chí, y phải hỏi:
- Anh không hút thuốc
lá nữa à?
Tôi thủng thẳng khô
khan:
- Không thích hút nữa!
Một hôm, y còn gạ tôi
trắng trợn:
- Tôi biết anh chỉ
thích hưởng hương hoa tinh thần thôi! Vậy, tôi còn một cái bánh chưng, giá ở
ngoài là 5 hào. Tuy nhiên, tôi cũng chỉ lấy hai suất rưỡi, cũng mỗi ngày nửa
suất thôi. Anh ăn một lần để thưởng thức cái ngon của bánh chưng?
Tôi lạnh lùng nhìn y,
lòng căm phẫn:
- Cám ơn, tôi không
thích!
Mặt y cứ trơ ra, không
một chút ngượng ngùng. Điều làm tôi không hiểu được là tại sao, y ăn nhiều thế,
mà vẫn còn đói dữ như vậy? Mới ngày hôm kia, buổi trưa y đã được quản giáo gọi
ra, rồi mang vào một suất cơm thêm. Suất cơm của buồng số 6. Chẳng hiểu vì sao
buồng đó, sau một lần đi cung về rồi bị cùm một chân, anh ta đã tuyệt thực, tới
nay đã 4 ngày rồi. Vì tên Tân thỉnh thoảng quét dọn, nên tên Tư đã gọi ra cho
một suất cơm.
Tôi nhìn cơ thể tên
Tân, thấy y chỉ mập hơn tôi vì người tôi quá gầy thôi, chứ y làm sao khỏe, rắn
chắc như lúc tôi chưa bị bắt. Vậy mà đồ tiếp tế với lại thỉnh thoảng được cán
bộ cho ra vơ vét. Thế mà, nhiều lúc y như điên cuồng, đứng ngồi không yên vì
đói.
Tôi chẳng hiểu buồng số
6 tội gì, phải tuyệt thực. Chỉ nghe thấy báo cáo xin nước uống, còn nhất định
không ăn. Nhưng, cán bộ xà lim cương quyết, có ăn mới cho uống nước.
Một bữa sáng, sau khi
các buồng đổ bô xong, tên Tư vào gọi tên Tân ra. Tôi nghe mở buồng số 6. Hôm
nay cũng là ngày thứ 6 anh ta không ăn. Tôi nghe tiếng nước dội rửa và tiếng
quét. Chừng 30 phút sau thì Tân về. Tôi hỏi, được biết: Buồng số 6, năm, sáu
ngày nay đầy sàn cứt đái, bôi đầy lên tường. Vào buồng, cơm canh đổ lẫn với
cứt, có mùi xông lên không chịu được. Anh ta cứ nằm ngửa, đắp chăn che mặt. Lợi
dụng một lúc tên Tư quay ra, Tân hỏi anh ta tội gì, nhưng anh ta không trả lời.
Tân nhấc cái chân xuống xem mặt, chừng 30 tuổi, trắng trẻo, anh ta vẫn nhắm
nghiền mắt. Tân vội phải đậy chăn lại sợ tên Tư vào biết.
Theo Tân, tên Tư nói
là, nếu anh ta tuyệt thực mà cho uống nước, chỉ từ 5 tới 7 ngày là chết thôi,
bởi vì nước sẽ hòa loãng máu rồi theo nước đi giải ra. Còn nếu không cho uống
nước, 20 ngày hay một tháng cũng không chết. Nhưng, có một điều quần áo, chăn
của anh ta toàn cứt và cơm thiu nên dù quét dọn, buồng vẫn thối lắm.
Những ngày thứ bốn, thứ
năm, tôi còn nghe tiếng đập cửa xin nước, nhưng từ ngày thứ 6 trở đi cứ thấy im
lìm. Mãi tới đêm ngày thứ 9. Khoảng 10 giờ, nghe có tiếng mở cửa buống số 6,
rối tiếng chân người khiêng đi sau khi, có tiếng rút chốt cùm. Tôi và Tân,
trong buồng cố lắng nghe, nhưng không biết là anh ta chết hay sống, hay đưa đi
đâu. Báo hại, sáng hôm sau tên Tân lại phải quét rửa buồng.
Tân về, nhăn nhó bảo là
cái chăn cứt thối quá, mà tên Tư bắt giặt phơi ở phía buồng vãng lai. Tân lại
kể, khi ra đấy, nhìn vào sân trại chung, y thấy bây giờ Hỏa Lò đầy tù, ngồi đầy
cả sân. Cách đây hai tháng, khi Tân còn ở trại chung, trại chỉ có khoảng 4, 5
trăm người. Nhiều buồng chỉ 4, 5 chục người, có buồng để không. Y nói, y gặp
người nhà tiếp tế, nói thầm cho biết, ngoài xã hội bây giờ dân chúng hoang mang
lắm. Ở đâu, tỉnh nào cũng thế, các nhà tù chật ních. Đầu tháng Tư vừa rồi, có
lệnh của Bộ Công An: Tất cả những ai từ lính trơn cho đến Thượng sĩ, mà hồi
1954 chỉ bị học tập và giáo dục tại địa phuơng mấy ngày rồi cho về (Chỉ có sĩ
quan mới bị bắt đi học tập ở trại giam). Nay đều được mời vào “ấp” để lao động
“xây dựng xã hội chủ nghĩa”.
Những người Hạ sĩ quan
và lính tráng này, biết mình có tí đuôi với chế độ cũ, nên dù ở địa phương nào.
Họ luôn luôn tỏ ra là những người tích cực, năng nổ trong mọi lĩnh vực với chế
độ mới. Ở địa phương, hợp tác xã, nhà máy, công nông trường, v.v… đâu đâu cũng
vậy. Chính vì thế, sau 9 năm nỗ lực công tác, nên ngày nay rất nhiều người đã
được đảng hoặc chính quyền tín nhiệm, tin cậy. Có người đã trở thành đoàn viên,
có người là tổ trưởng tổ lao động xã hội chủ nghĩa của, công trường hay nhà máy
v.v…Thậm chí, có người do tinh thần hăng say, đã công tác, học tập ngày đêm
quên mình, nên đã trở thành chủ nhiệm hợp tác xã, hay thư ký công đoàn… Họ
tưởng rằng như vậy là cuộc đời từ nay yên lành, chỉ còn một lòng phơi phới yêu
thương chế độ mới của mình. Nhưng, đùng một cái! Bây giờ tất cả được mời đi học
tập, bất kể anh đang ở cương vị nào. Lý do: An ninh của Tổ Quốc xã hội chủ
nghĩa đang bị đe dọa!
Ngoài nhân dân có cái
từ mới là: “Trót xỏ nhầm giầy” (đã đi lính hoặc làm việc với chính quyền Quốc
Gia). Dù xỏ nhầm giầy một ngày cũng phải đi. Tỉnh nào vào trại giam tỉnh đó.
Sau khi lập hồ sơ và xét hỏi qua loa, rồi được chuyển đi các trại trung ương.
Bao nhiêu người ngã
ngửa ra. Không những bản thân người đi tù và gia đình người ấy, mà ngay các cán
bộ địa phương cũng không thể nào ngờ được. Bởi vì, đã 9 năm trường dài đằng
đẵng, trôi qua rồi!
Như thế, cho phép ta
nhận định (sau tháng 4/1975). Nếu, Cộng Sản chưa hỏi tội đến những người đã
từng cộng tác với “Địch” dù chỉ một ngày, là vì chúng còn muốn lợi dụng, hoặc
vì chưa ổn định những công việc khác lớn hơn. Vì tình thế, điều kiện chưa cho
phép, sợ hoang mang lòng dân, trong khi chưa ổn định xã hội, chưa nắm được chặt
những tầng, loại người chúng nghi ngờ. Chứ trước sau, sớm muộn gì chúng cũng sẽ
hỏi tội. Lúc đó chúng có đầy rẫy lý do hợp lý: Nào là Hạm Đội 7 tập trung về
biển Đông, Trung Quốc chuyển quân, Thái Lan động đậy, v.v… và v.v…
35. Người Nữ Tù Xà Lim II …
Cuối Xuân và trời đã bắt đầu sang Hè, không khí trở lên dìu
dịu. Thỉnh thoảng vẫn còn những trận mưa Xuân lưa thưa phảng phất, như báo cho
nhân thế chuẩn bị đón nhận những ngày nắng hạn.
Tối hôm đó, tôi đang
ngồi đăm chiêu với bao nỗi đầy vơi của cuộc đời. Giữa cái vắng lặng đến lạnh
lùng, sau khi cái loa cạnh xà lim đã tắt ngủm lúc 9 giờ tối. Đột nhiên, từ một
cái loa phòng ngoài góc sân có giàn nho phía trước, tiếng một người miền Nam
thong thả dõng dạc:
“Các anh em chiến sĩ
trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa thân mến! Tôi là Phan Thanh Vân, Trung úy phi
công thuộc phi đội “X” của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tôi đã nghe theo lời
phỉnh phờ dụ dỗ của Mỹ Diệm, lái chiếc C-47 xâm nhập bầu trời miền Bắc xã hội
chủ nghĩa để thả gián điệp biệt kích, đã bị bộ đội phòng không của chính phủ
cách mạng hạ…..tại Cồn Thoi, Ninh Bình. Tôi đã bị thuơng nặng, nhưng do chính
sách khoan hồng của nhà nước cách mạng, đã tận tình cứu chữa cho tôi. Nay, tôi
đã bình phục. Được sự giáo dục, đùm bọc của cách mạng, tôi đã thấy được tội lỗi
phản dân hại nước của tôi, hiểu được đường lối nhân đạo thuơng yêu dân của đảng
và chính phủ. Tôi kêu gọi tất cả các bạn thuộc binh chủng Không Quân của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa, hãy vì độc lập của Tổ Quốc, vì hạnh phúc tự do của nhân
dân. Các bạn hãy mạnh dạn đứng lên quay về với chính phủ cách mạng, về với nhân
dân. Hãy lái máy bay về vùng Mặt Trận Giải Phóng, các bạn sẽ được đón tiếp nồng
hậu như anh hùng. Các bạn sẽ góp sức mình cùng nhân dân tiêu diệt kẻ thù là Mỹ
Diệm…”
Nguyên văn thì tôi
không thể nhớ rõ, nhưng nội dung là như vậy. Tai tôi lắng nghe, mà lòng tôi rỉ
máu dần dần, tên Tân đang nằm cũng bò dậy nghe. Mắt tôi hơi sượng sùng khi gặp
ánh mắt y. Tôi hỏi một câu thăm dò, để giảm nét hổ lòng:
- Họ bắt Phan Thanh Vân
phải đọc như vậy sao?
Tên Tân tỏ vẻ hiểu
biết:
- Mỗi lần đọc một bản
như vậy, được thù lao 5 đồng. Một phần do họ bắt đọc, phần khác, cũng do mình
muốn tiến bộ.
Thấy y có vẻ hiểu biết
thật, tôi hỏi tiếp để sáng tỏ:
- Bài viết do họ viết
sẵn, hay do mình phải viết?
- Họ gợi ý cho mình
viết, rồi họ sửa!
Tuy ngoài miệng hỏi
chuyện Tân, nhưng trong đầu tôi liên miên với giòng suy tưởng. Nếu chúng thu
thanh tiếng nói của Phan Thanh Vân, rồi đem về miền Nam, phát cho Quân Đội Việt
Nam Cộng Hòa nghe. Hoặc cho nhân dân nghe, thì có thể làm ruỗng lòng người có
tinh thần, làm nghiêng ngả cho người không có chính kiến, khi những người này
còn mơ hồ về Cộng Sản. Thật là tai hại!
Tên Tân còn nói tiếp là
đã nghe Phan Thanh Vân đọc mấy lần rồi. Hiện nay Vân được ở trại thợ trong khu
nhà bếp, tỏ ra rất tiến bộ, cán bộ chiếu cố rất nhiều mặt. Thảo nào, tôi nhớ
tới hình ảnh Vân ngồi gốc cây bàng, hôm đầu tiên tôi bị bắt vào Hỏa Lò. Tôi im
lặng, chẳng muốn hỏi nữa, về một câu chuyện mà trong lòng mình chẳng vui gì.
Lòng tôi cứ bồng bềnh, lững lờ chảy về miền Nam xa xôi.
Hàng ngày, tiếng loa ở
cổng trại chung cứ chọc vào tai tôi, tình hình Phật giáo sôi sục đấu tranh với
chính quyến…Tôi chẳng lạ gì khi nghe đài truyền thanh của địa phương Hà Nội và
phát thanh trên vô tuyến của Cộng Sản. Nhưng, với khả năng nghiệp vụ của tôi,
cộng với kiến thức riêng, tôi cũng thâu nhận được một số tin tức qua từng khía
cạnh của từng sự việc. Những người chịu suy nghĩ thấu đáo, ai cũng hiểu ở đây
chính là do bàn tay máu của Cộng Sản. Cộng với cái tự do nhố nhăng không đúng
chỗ, không đúng lúc của miền Nam. Với tác phong lề lối làm việc, mang sẵn tinh
thần tắc trách nói chung của cán bộ cũng như chính quyền miền Nam. Cộng sản tha
hồ, lợi dụng thao túng… Chúng gieo rắc lẫn thổi phồng, bóp méo, khích lệ mọi
mâu thuẫn giữa chính quyền với nhân dân, với tôn giáo, với đảng phái. Rồi chờ,
khi có điều kiện, có thời cơ, chúng chỉ cần cầm cái gậy chọc vào từng điểm.
Thí dụ “Vụ Phật Giáo”..
Chúng sẽ có hàng trăm cách, tùy theo từng nơi, từng lúc. Tôi cứ hình dung:
Trong một đám rước đang diễn hành trang nghiêm trên đường phố ở Huế chẳng hạn,
của một ngày lễ Phật giáo đặc biệt. Ngay trong đám Phật tử đang diễn hành này,
thậm chí ngay trong các tiểu chức sắc ni tăng, chúng đã cài người của chúng
vào, cùng làm việc với nhau mà cũng không biết, lợi dụng điều kiện lúc đông
đúc, cũng như lúc thuận tiện, chúng dễ dàng bí mật thả truyền đơn chống và mạt
sát chính quyền. Các cơ quan có trách nhiệm về an ninh như cảnh sát, mật vụ,
v.v…lúc đó sẽ giải quyết thế nào? Khi chưa hiểu rõ đầy đủ những thủ đoạn tinh
vi của Cộng Sản. Khi chưa có kinh nghiệm hữu hiệu để giải quyết những trường
hợp phức tạp như thế, chỉ còn một phương pháp ngăn chặn, bằng cách tìm tòi,
khám xét làm ngưng đọng đám rước. Đám rước đã rối loạn, Cộng Sản càng làm rối
loạn hơn, hò la chính quyền Công Giáo phân biệt, đàn áp Phật tử, v.v… Mâu thuẫn
chồng lên mẫu thuẫn, lòng căm hờn chồng lên lòng căm hờn. Lúc đó chỉ có trời
mới giải quyết nổi.
Thân tôi đang chìm
trong nỗi tăm tối ngục tù, giờ đây lại đắp thêm mối ưu tư cho quê nhà miền Nam
thương yêu.
Hôm sau, chiếc loa ở
cổng đã ngừng mồm mép, như vậy là đã 8 giờ, giờ bắt đầu làm việc của một ngày,
thế mà vẫn không thấy tên trực xà lim đến cho tù ra đổ bô. Tên Tân ngồi chờ
mãi, y đừng dậy đi đi lại lại, rồi không hiểu y nghĩ thế nào lại trở lên sàn,
rồi lựa thế kiễng chân, nhìn ra phía cổng xà lim. Y tỏ vẻ phấn khởi, cúi xuống
nhìn tôi:
- Cửa xà lim vẫn đóng!
Tên Tân quái lắm khi
cửa xà lim đóng hay khép là an toàn. Y có thể nói chuyện với buồng khác, nhưng
mắt vẫn để ý nhìn mép trên của cánh cửa xà lim, khi thấy hé ra là trong này tụt
xuống rồi, vì thế ít khi bị bắt. Y cất tiếng gọi:
- Số 7! Số 7!
Im lặng một lát, y gọi
nữa:
- Số 7!
Một giọng phụ nữ rất
trong:
- Ai gọi đấy?
- Số 4 đây! Dạo này có
khỏe không?
Vẫn giọng khi nãy:
- Cám ơn, khỏe!
- Bị bắt vì tội gì đấy?
Im lặng một phút, rồi
giọng trong lại cất lên:
- Kéo chuông nhà thờ
Nam Đồng báo cho giáo dân vì công an vào bắt Cha phó.
- Bao lâu rồi?
Bỗng Tân nhớn nhác tụt
vội xuống, trong khi tôi không nghe thấy một tiếng đồng gì khác. Cửa con xịch
mở, tên Tư mắt long sòng sọc:
- Anh nào trong buồng
này vừa đứng lên nói chuyện?
Y hỏi để mà hỏi, chứ y
thấy tôi ngồi cùm, làm sao mà đứng dậy được. Tên Tân nắm hai tay vào nhau, vặn
vẹo:
- Thưa cán bộ…
Tân chưa nói hết câu,
tên Tư đã cúi xuống rút xoạch chốt cùm ra, rồi quát:
- Bỏ chân vào!
Mặt tên Tân chảy dài. Y
biết không còn cách nào khác, nên tự tay nhấc cùm và từ từ nhấc một chân bỏ
vào. Tên Tư nhìn qua cử con theo dõi, y chốt cùm vào, không nói gì thêm. Như
vậy, tên Tư cũng quái. Y chưa mở cửa, đứng ngoài im lặng nghe đã. Nếu khi y
đến, dù đẩy khẽ cửa đi vào. Tân đã biết rồi. Tiếng nói của Tân, Tư còn lạ gì.
Thế là tình cảm hay chẳng tình cảm gì, sai là vẫn cùm.
Tôi nghe tiếng mở cửa
mấy buồng đổ bô, rồi tự nhiên thấy chốt cùm tôi rút ra. Tôi nhẹ tay nhấc cùm,
nhấc chân. Cái chân ê đi, bước xuống đất cứ bì bì. Tôi tưởng đi cung, nhưng khi
mở cửa, tên Tư không nói gì, tôi chợt hiểu, ôm vội bô vào nhà tắm để đổ, rửa.
Tôi gõ nhẹ vào tuồng số 7 mấy cái như ý nói: “Các cô đã làm cho một người nữa
bị cùm đấy nhé!”. Đến bữa cơm, tên Tư lại mở cùm cho tôi ra lấy cơm cho cả Tân.
Tên Tân mặt rất buồn. Theo y, bị cùm là một chuyện, y còn sợ là vụ của y sắp
xử, có thể bị ảnh hưởng xấu vì y đã không giữ tốt nội quy trại giam.
Trước đây, ngay khi mới
tới xà lim II được mấy ngày, tôi đã biết buống số 7 có hai cô gái đều bị cùm.
Tôi rất băn khoăn, dứt khoát đây không phải là tội hình sự rồi. Bởi vì, hình sự
rất hiếm phải vào xà lim, cá biệt nào đó. Phải là những tội tương đối quan
trọng, nhưng cũng chỉ đến một vài tuần hay một tháng là cùng. Hai cô phải là
tội chính trị nặng ký mới phải vào xà lim, và còn bị cùm nữa. Mặc dù về lý trí,
tôi tin là không phải, nhưng phần tình cảm trong lòng tôi, cũng lắng lo một
cách phảng phất. Biết đâu, đây lại chả là chính “đối tượng” nhận tài liệu “M”?
Cho mãi tới một hôm, tôi bắt Tân phải tả lại. Y nói dáng người đó như nhà tu,
mới khoảng 20 tuổi, tôi mới yên tâm. Dù vậy, tôi vẫn để ý theo dõi với mọi khả
năng có thể, kết hợp suy đoán dựa trên những điều kiện đã biết:
- Cùng một tội, hoặc
cùng một tổ chức, không bao giờ chúng giam chung một buồng ở xà lim.
- Hai tội khác nhau,
lại cùng bị cùm? Ngay phạm nhân nam ở xà lim, cũng ít khi cùng bị cùm, huống
chi là nữ. Vậy nữ bị cùm là hạn hữu, ở đây lại cả hai!
Tại sao có sự trùng hợp
kỳ lạ như vậy? Câu giải đáp chỉ có thể thỏa đáng là phải có một người thực, một
người giả!
Với điều kiện của mình
như thế này, muốn làm sáng tỏ vấn đề trên. Tôi chỉ còn cách duy nhất là phải
lắng nghe những âm thanh, sự việc…..rồi từ đấy suy lý dần. Từ định tâm đó, tôi
thấy cá biệt, lẻ tẻ vài lần thôi, còn hầu như cứ cô nằm phía trái, tức cô có dáng
nhà tu đi cung. Sau đó, cô nằm bên sàn phải lại đi, rồi thông thường là về
trước. Như vậy, nếu cô đi sau về trước này không nói, thì cô đi trước về sau
không hề biết là cô sau có đi cung.
Lúc này, tôi đã có thể
phân biệt được, tiếng động của chốt cùm nào rút, tiếng mở cửa buồng nào; mụ Hoa
vào gọi cung hay Bằng, hay Kim già, hoặc lão Tư, họ chưa mở cửa tôi đã biết
ngay là ai, qua cách bước sền sệt trên nền nhà, cách cầm chùm chìa khóa lắc,
cách mở cửa buồng…..Còn những tật khịt mũi hay hắng giọng thì quá rõ. Óc tổng
hợp ngay các âm thanh để ra lời giải đáp không khó khăn gì. Hơn nữa, trừ buồng
tôi, cả xà lim chỉ có chiếc cùm buồng 1, và 2 cô gái bị cùm ở số 7. Như vậy,
chỉ phân biệt 3 tiếng cùm thì hầu như không lầm. Vì thế, tôi đã nhận định được
đến 80% là 2 cô ở buồng số 7: Một cô giả và một cô thật. Nếu chính mình không
bị cùm, tôi có thừa khả năng để thử, cũng như mắt nhìn để kết luận. Ngay bây
giờ, tôi muốn báo cho cô thật biết để cảnh giác. Không để ý thì khổ. Nhưng đành
chịu vì cái chân trong cùm. Cách nào cũng có chỗ bất lợi cả. Vì người kia
thường xuyên có mặt ở đấy. Chỉ còn cách chờ đợi một bữa nào bất ngờ cô bên phải
đi cung, cô bên trái ở nhà, tôi sẽ lên tiếng nói bâng quơ. Thí dụ: “Chớ có tin
người cùng buồng mình” chẳng hạn. Nếu cán bộ có đứng rình, mở cửa con hỏi, giả
vờ nằm nhắm mắt ngủ, nằm mơ. Nó chẳng làm gì được mình.
Chiều hôm đó, tôi đang
nằm vẩn vơ suy nghĩ, cửa con xoạch mở, tên Bằng chỉ tôi:
- Mặc quần áo đi cung!
Đã hơn một tuần nay
không gọi. Hôm nay, không hiểu có gì khác chăng? Từ đêm đem tôi đi bắn tới giờ
đã hơn ba tháng rồi, cứ một tuần hai, ba lần chúng gọi tôi đi cung. Vẫn những
trò dụ dỗ phỉnh phờ, đe dọa, rồi lại tình cảm. Truy hết chỗ này, lại đến điểm
khác. Có lúc, chúng bắt tôi viết hẳn lại một sự việc nào đó cho rõ ràng. Tôi
vẫn trước sau như một. Có một vài chỗ do cái dốt của tôi đã bị bục, tôi đã phải
lao đao vất vả. Bây giờ đã có thêm kinh nghiệm, đã nắm được những mánh khóe
khai thác, những động tác thật, giả hầu như tôi đã thấy trước. Tuy vậy, tôi vẫn
tỏ vẻ còn ngây thơ, hiểu biết kém. Đôi khi, tôi phải vờ sa vào những cái bẫy
chúng đã giương ra, nhưng tôi vẫn chủ động lái nó thành vô hại, hoặc hại ít.
Cũng có lúc tôi làm như hoang mang, dao động để chúng khó xét đoán, hoặc sẽ
hiểu sai về con người thực của tôi.
Thí dụ: Một hôm 3 đứa
hùng hổ đập bàn, xô ghế, nào là xin tha tội xử tử cho tôi, vì tôi còn quá trẻ,
chưa suy nghĩ chín chắn; mong đường lối khoan hồng, nhân đạo của đảng sẽ thấm
nhuần vào tim vào óc tôi, để tôi sẽ thành thật khai báo hết, v.v…..Nào ngờ, tôi
vẫn là một tên ngoan cố ngu xuẩn, chuyến này, cho đi luôn…..Nào là cứu một
người là để hy vọng nó sẽ trở nên tốt, chứ không phải cứu một người mà tật xấu
vẫn cứ khư khư giữ trong mình, mười thằng như thế cũng bắn bỏ…..
Phải nói rằng, từ ngày
chúng đưa tối đi bắn đến giờ, tôi chẳng sợ nữa; ngay dủ bây giờ chúng đem tôi
đi bắn thật, tôi cũng vậy thôi. Dứt khoát, tôi không đến nỗi ngắc ngư con tàu
đi vừa qua. Tuy thế, tôi vẫn vờ hoang mang lo sợ, xin chúng tha cho. Xin chúng
là người trực tiếp với tôi, hiểu tôi đã thành khẩn khai báo mọi vấn đề ngay từ
đầu.
Hôm nay, không biết
chúng còn giở trò gì nữa đây? Vào tới phòng cung, tôi thấy mặt 3 tên: Nhuận,
Đức và Đặng rất lạnh lùng. Trên bàn, trước mặt chúng, một chiếc cặp da đen dầy
cộm. Thái độ của chúng hôm nay hơi khác thường. Chúng nhìn tôi rất lâu như muốn
xét đoán một cái gì. Cuối cùng, tên Nhuận trang nghiêm:
- Từ ngày anh bị bắt
vào đây đã bao lâu rồi?
Tôi nhìn y dè dặt:
- Thưa ông, hơn 10
tháng rồi.
- Anh có biết rằng,
trong Nam chúng đã phái ra đây mấy tên để tìm anh không?
Tôi hơi ngỡ ngàng, xen
lẫn chút lắng lo trong lòng. Dù thế, ngoài mặt, tôi vẫn xem như họ nói đùa:
- Chúng nó tìm tôi làm
gì! Tôi quả quyết là không có ai ra tìm tôi cả. Ở trong Nam, tôi là loại vô
danh tiểu tốt. Chẳng qua chúng trả mấy tháng lương, rồi tung ra ngoài Bắc để
lấy tiếng vang là chính; còn bị bắt, sống hay chết, chúng đâu còn cần biết đến
nữa.
Tên Đặng từ nãy vẫn cứ
ngồi yên nhìn và nghe tôi nói, bây giờ đập bàn cái “thình!”, chỉ tay vào mặt
tôi:
- Ngậm ngay cái mồm anh
lại! Hôm nay tôi báo cho anh biết, và không cần giấu giếm gì cả. Người của
chúng tôi từ trong Nam ra, đã báo cáo đầy đủ về anh. Chúng tôi đã thấy bộ mặt
thật của anh. Anh là một tên ngoan cố đến cùng, muốn đem trứng chọi với đá, dám
đội đá vá trời, dám đánh lừa cả Bộ Công An cách mạng!
Trong khi vừa sỉ vả
tôi, y vừa mở cặp lấy ra một cái phong bì dầy cộm. Y chọn, rút ra một tấm ảnh
cỡ 6×9, cố ý cho tôi thấy là còn rất nhiều ảnh nữa. Y vất tấm ảnh xuống bàn,
trước mặt tôi, gằn giọng:
- Đây, hãy mở mắt ra
nhìn. Khôn hồn khai báo lại ngay. Nếu không, lần này chúng tôi sẽ không nương
tay với anh nữa, sẽ có biện pháp mạnh!
Tôi thoáng nhìn bức
ảnh, dù chưa cầm, tôi đã thấy tim mình như thắt lại. Tấm ảnh Phan và tôi chụp ở
góc đường Nguyễn Huệ, trông chéo sang rạp xi nê Rex. Phan cao lớn, mặc áo sơ mi
ca rô bỏ ngoài quần, đeo kính đen đang quay chéo mặt về phía người chụp ảnh.
Tôi, áo sơ mi trắng, bỏ trong quần, đeo kính trắng. Một tay đang cầm mấy cuốn
sách, một tay đang chỉ về phía trước mặt. Mặt tôi nghiêng góc với mày ảnh
khoảng 30 độ.
Tôi điếng hồn, suy
nghĩ, phản xạ tổng hợp cấp thời. Chúng đã biết hết rồi chăng? Chúng còn nhiều
ảnh nữa hay không? Tại sao chúng lại chụp ảnh ở ngoài đường? Có thể chỉ là một
tấm duy nhất, bởi vì Phan đã bị lộ, chúng đã biết lâu rồi. Khi thấy tôi đi với
Phan, lạ, chúng chụp một tấm, để sau này phòng hờ dùng trong tình huống áp lực
về chứng cớ. Tại sao chúng phải cố ý cho tôi thấy, chúng còn nhiều ảnh nữa?
Chính cái “cố ý” này cho thấy, đó chỉ là một động tác giả của chúng để gây áp lực
tâm lý. Một điều tôi tin chắc, dù cho nằm ngay trong Cục Tình Báo Sài Gòn,
nhưng nếu không cùng một công tác, chúng cũng không thể biết được sự việc. Và
dù cho cùng một công tác đi nữa, cũng chỉ biết được từng khâu, từng phần, chứ
không thể biết toàn bộ. Mấy phút tính toán, phản ứng nhậy lẹ, thành quyết định.
Đầu tiên để thăm dò, tôi làm ra vẻ mạnh bạo, nét mặt tươi lên tin tưởng:
- Tôi càng tin tưởng
cách mạng hơn. Đây là tên Hòa mà. Như thế này, sự việc của tôi càng được xác
minh sớm hơn.
Tên Đức đứng bật dậy,
xô lại sát tôi, chỉ tay vào mặt tôi, gầm lên:
- Anh đừng có già họng!
Đấy là tên Hòa à?
Tôi mở to mắt ngạc
nhiên, cầm tấm ảnh, chỉ khẳng quyết:
- Thưa ông, tôi bảo đảm
với các ông, đây là tên Hòa mà! Hàng ngày, y đi với tôi, huấn luyện tôi, tôi
còn lạ gì mặt y nữa!
Đây là một điểm tình
cờ, mà lại may. Trước đây, khi tôi tả về ông Hòa, tôi thường lấy hình ảnh người
cậu họ tôi, béo trắng, to lớn. Ông là chủ hãng xuất nhập cảng hàn vải Vĩnh An ở
đường Hồng Thập Tự. Ông Phan cũng to lớn, chỉ có điểm khác là tôi tả cậu tôi da
trắng, đỏ hồng, hay mặc áo sơ mi trắng, trong khi ông Phan da bánh mật, hay mặc
áo sơ mi ca rô. Nhưng, trông ảnh làm sao phân biệt được da bánh mật hay da
trắng! Còn áo sơ mi và trắng, có điều khoản nào bắt buộc ông Hòa cứ phải mặc áo
sơ mi trắng mãi đâu. Còn tôi, tôi chỉ biết cái tên “Hòa”, tên “Phan” tôi không
biết. Điều gì chứng minh bắt buộc tôi phải biết tên “Phan” khi mà trong tình
báo, với mọi người đều dùng tên giả. Vì thế, tôi cứ khăng khăng hình người
trong ảnh là tên Hòa. Điều tôi vẫn nơm nớp lo sợ là, nếu chúng đưa một tấm hình
nào đó chụp tôi với Cẩn, hoặc với Hoàng Công An, lúc đó tôi chưa biết tính sao.
Bởi vì từ trước, tôi chỉ khai tên Hòa duy nhất là người huấn luyện và đào tạo
tôi mà thôi. An và Cẩn, người chỉ cao 1m62 là cùng.
Chúng tỏ vẻ tức tối
lắm, nhưng xem ý chúng không làm gì hơn được. Qua thái độ tức bực của chúng,
tôi càng yên tâm hơn. Nếu chúng có vài tấm ảnh nào khác, chắn chắn chúng sẽ lấy
ra ném vào mặt tôi. Tôi cầm tấm ảnh đưa trả lại chúng, mặt tôi đầy vẻ hân hoan
tin tưởng:
- Như thế này, tôi đoán
cách mạng đã bắt được tên Hòa rồi, và cách mạng đã xác minh được sự việc của
tôi. Tôi rất mong, một buổi nào đó, tôi sẽ gặp tên Hòa ở đây để thỏa phần nào
lòng căm phẫn của tôi đối với y.
Tên Đặng cười nhạt! Tên
Nhuận cầm tấm ảnh, giọng giễu cợt:
- Bình đeo kính trắng,
đẹp trai, trông tư cách đấy chứ!
Tôi cười:
- Các ông còn lạ gì xã
hội miền Nam! Một anh dốt đặc cán mai, nhưng ra ngoài, cứ ra vẻ ta đây là sinh
viên, trí thức, tay luôn luôn ôm chồng sách ngoại ngữ dầy cộm. Hiển nhiên, tôi
cũng lây cái nét giả tạo ấy. Mắt tôi có sao đâu, thế mà cũng đeo kính trắng
gọng vàng, loại không độ. Bây giờ nghĩ lại, tôi còn thấy ngượng.
Hôm nay, chúng tưởng
với tấm ảnh ấy, chúng sẽ làm tôi tan hoang, hoặc ít nữa cũng phải bục ra một số
mảng. Nhưng cuối cùng, vẫn không giải quyết được gì, chúng bầm gan, tím ruột!
Tên Đặng cộc lốc:
- Đi về!
Tôi về xà lim, thật hú
vía! Tuy thế, lòng tôi vẫn đầy lo lắng. Tôi hiểu sự việc chưa thể yên được.
Từ ngày tôi bị phát
hiện, rồi bị theo dõi ở nhà thờ “X‟ tôi đã nhiều đêm ngày suy nghĩ vì sao tôi
bị phản gián phát hiện. Tôi tập trung tư tưởng: nhìn, xét, rọi, soi lại từng
điểm. Từng khía cạnh, từng sự việc, từ điểm đổ bộ ở Kỳ Phương cho đến khi tới
Hà Nội, những ngày vào Việt Đức, lúc sang Gia Lâm…..Tôi không thấy một điểm nào
nghi ngờ để bị địch phát hiện. Như vậy, tôi bị địch phát hiện, chỉ có thể:
1) Từ nơi linh mục A.
Linh mục đang bị Cộng Sản bí mật theo dõi. Tôi mò đến, nên chúng tìm về nhà trọ
để xác minh. Mà đã xác minh, chân tướng tôi lòi ra ngay.
2) Từ Paul Lạng ở
Paris. Có thể y là nhân viên “hai mang”. Để lấy tiền, y đã cung ấp cho phản
gián Hà Nội biết rằng sẽ có một người xâm nhập Hà Nội, nhưng không biết đích
xác ngày tháng cũng như nhiệm vụ. Nếu đúng như vậy, phản gián Hà Nội phải tìm
ra là tất nhiên. Nhưng điểm này yếu khả năng hơn điểm trên.
Tôi mất bao ngày đêm
nặn óc suy nghĩ, nhưng vì thiếu cơ sở để nhìn, để xét, cho nên tôi vẫn chưa thể
khẳng quyết là do điểm một, hay điểm hai. Bây giờ, lại có thêm tấm ảnh của Phan
và tôi. Với tấm ảnh trong điều kiện như hôm nay, tôi chưa thể có ý kiến gì,
phải đợi những ngày kế tiếp mới sáng tỏ.
Tên Tân bị cùm đến ngày
thứ tư, thì mụ Hoa vào gọi đi cung. Qua gần 2 tháng trò chuyện với tên Tân, tôi
được biết y chỉ có một chấp pháp duy nhất tên là Châu. Cũng thuộc phòng 44,
phòng hỏi cung chính trị. Vậy mà tôi, sao nhiều chấp pháp thế! Trước sau đã 6
người rồi. Mỗi buổi hỏi cung lại thường có từ hai, tới ba người. Có lẽ tại tôi
là một điệp viên, có nghiệp vụ, được đào tạo huấn luyện bởi những cơ quan tình
báo của một quốc gia, cho nên, để khai thác chúng phải mất nhiều tâm sức hơn?
Tên Tân đi cung gần hai
tiếng đồng hồ đã về ngay. Tân đã vào buồng mà tên Tư vẫn chưa đóng cửa. Vẫn
đứng ở ngoài, trong khi tên Tân vội vàng quấn chăn màn và quần áo. Tân quay lại
tôi nói nhanh:
- Tôi được ra trại
chung, vụ án của tôi sắp xử.
Y ôm các thứ ra tới
cửa, quay lại gật đầu chào tôi. Cửa đóng, rồi khóa. Tôi thấy nhẹ hẳn người. Từ
nay một mình, dù buồn hơn, nhưng không làm phiền toái ai, tôi cảm thấy dễ chịu,
tự do hơn.
Ngày hôm sau nữa, tôi
lại nghe cán bộ vào bảo cô gái bị cùm, phía trái của buồng số 7 mang chăn màn,
quần áo ra trại chung. Cô đó đi được hơn một tiếng, rồi cô bị cùm phía phải
cũng đi, rất im lặng. Tôi cố gắng nghe để phán đoán, nhưng cũng không hề nghe
thấy một âm thanh gì. Như thế, sự nghi ngờ của tôi cô “phía phải” là tù giả
cùng chắc đúng hơn nữa… Mặc dù mỗi người một buồng, họ ra đi, lòng mình cũng
thấy mang mang vắng lặng.
Buồng số hai cũng một
người ra trại chung, cùng với hôm Tân đi, có lẽ là người anh họ cùng “vụ” với
Tân. Như thế, hiện nay xà lim chỉ còn có 4 người: Một ở buồng số 1, bị cùm một
chân, một ở buồng số 2, không bị cùm; một ở buồng số 4 là tôi và một ở buồng số
5, không bị cùm.
36. “Đòn Thù” Của Chấp Pháp và Những Cay Đắng Của Đời Tù
9 tháng 4, ngày mà tôi nhớ mãi, sau hôm tôi đi cung được 5
ngày. Sáng hôm đó, tên Tư mở cửa buồng cho rửa và đổ bô xong. Tôi đang ngồi mài
móng tay xuống sàn xi măng chờ cơm sáng, bỗng cửa con xoạch mở. Theo cách mở cửa
con và khóa cửa lớn, tôi đã biết ngay là người lạ. Tôi nhìn lên, cửa con đóng
lại và cửa lớn mở to. Đứng ngay giữa cửa là tên Lê, trung úy Phó Giám Thị, phía
sau có tên cán bộ Tư. Nhìn tôi, tên Lê nghiêm trang, nói giọng Bắc:
- Theo lệnh trên, anh
bị cùm hai chân. Vậy hãy nghiêm chỉnh chấp hành!
Tôi choáng váng đến
lặng người đi. Tôi bị cùm hai chân! Như thế này, chỉ có tê rồi chết thôi. Tôi
đờ đẫn người hỏi, trong khi tên Tư bên ngoài đã rút chốt cùm ra chờ đợi:
- Thưa ông, tại vì sao
tôi bị cùm hai chân ạ?
Tên Lê gằn giọng:
- Đó là lệnh trên, anh
hãy cứ chấp hành!
Một màu u xám như sụp
xuống chung quanh tôi. Tôi hiểu, gian khổ cùng khốn lại đoạ đầy tấm thân khốn
nạn của tôi. Còn biết nói năng chi, tôi nhấc cùm và từ từ nhấc chiếc chân còn
lại ở ngoài đặt vào cùm, tâm tư tôi như đi vào nhà mồ.
Đóng chốt cùm xong, tên
Lê ra tới cửa còn quay lại:
- Hãy suy nghĩ kỹ đi,
kẻo rồi không sống được!
Tiếng cánh cửa buồng
đóng mạnh. Tiếng lạch cạch của then sắt cài cửa như cào vào trái tim đang rỉ
máu của tôi. Lần này rõ ràng rồi! Tụi chấp pháp cùm tôi, vì cho tôi ngoan cố,
không chịu khai báo sự thật.
Lần trước, chấp pháp
còn lấp lửng “chúng tôi không cùm anh”, vì lúc đó chùng còn nấp sau cái mặt nạ
“dân chủ”, lấy “chính nghĩa” phục vụ nhân dân, lấy “khoan hồng” giáo dục con
người sai phạm là chính. Bây giờ, chúng hất cái mặt đó ra rồi, hiện nguyên hình
là những con quỷ, đầy mồm nanh vuốt với hai bàn tay máu.
Cùm hai chân, khổ cực
nhất là cảnh đái và ỉa. Đi đại tiện, tôi phải cố tập hai ngày đi một lần. Nhưng
đi đái, dù uống ít nước, ban ngày phải 3, 4 tiếng đi một lần; còn ban đêm, từ 9
giờ tối đến 6 giờ sáng tôi mới dậy đi. Đó là với điều kiện ngủ, chứ vì đau đớn
không ngủ được, một đêm cũng phải đi 2, 3 lần. Lúc đi đái, dù cố gắng bằng cách
nào, tôi cũng vung vãi cả ra nhà và trên sàn ngủ. Bởi vì, tôi chỉ có một thế
duy nhất: nằm nghiêng ở giữa sàn, rồi từ giữa sàn tiểu xuống dưới bô, có khi
vào bô, có khi không.
Gặp khó khăn phải đẻ ra
sáng kiến. Đó là phương châm đối với tất cả mọi sinh vật. Sau hai đêm, chân tôi
tê và mỏi nhừ. Nhưng, bứt rứt và khó chịu nhất là hai cái đầu gối không thể gập
hẳn lại được. Đa số thời gian tôi phải nằm nhiều. Còn ngồi, thì ở cái thế gù
gù, đầu phải gục về phía trước, rất mỏi, không thể ngồi lâu được. Vì vậy, tôi
nghĩ nếu lúc cùm vắt chéo hai chân, chân phải sẽ ở bên trái và ngược lại, chân
trái sẽ ở bên phải. Như thế, muốn nằm, phải nằm xấp, và chỉ nghiêng về một
phía. Nhưng, được cái lợi là quỳ lên rồi ngồi gập lên cái cùm, lúc đó, chân gập
sát được, thoải mái hơn.
Nghĩ như vậy, buổi sáng
hôm sau, ăn cơm rồi trả bát xong, tôi vắt chéo hai chân. Lão Tư nhìn tôi với vẻ
ngạc nhiên. Lão định hỏi, nhưng nghĩ thế nào lại thôi, rồi lão đóng cửa cài
then. Tôi lựa thế xoay úp người xuống sàn, chống tay quỳ lên, rồi ngồi lên cái
cùm, hai chân gập lại phía dưới mông đít. Thế ngồi thật vững chãi, nhất là hai
chân được gập được sát lại mông. Ngồi một lúc mỏi, tôi lại chống tay xuống sàn,
từ từ nhoài người ra phía trước, nằm sấp. Như thế, hai chân duỗi ra được thẳng
hơn. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn hẳn thế cùm cũ. Tuy vậy, cũng có điều bất tiện
của nó là không đi đại tiện được, vì không có thế nào để đưa mông ra được sát
mép sàn. Còn đi tiểu tiện, chỉ có một thế duy nhất là quỳ lên, rồi từ giữa sàn
cho chéo xuống dưới bô. Thế này có lợi là tôi nhìn thấy miệng bô, nên ít văng
ra ngoài, nhưng nước giải rớt ra sàn ngủ nhiều hơn. Tóm lại, kiểu cùm này chỉ
có thể dùng ban ngày, từ bữa cơm sáng lúc 9 giờ cho đến bữa cơm chiều lúc 4
giờ. Về đêm, nên đổi lại thế cùm bình thường. Tuy thuận tiện hơn nhau không bao
nhiêu, nhưng điểm lợi là chân luôn cử động được, mạch máu lưu thông, giảm bị tê
bại chân.
Tôi đang ngồi chễm chệ
trên cùm, mắt mơ màng nhìn lên một khoảng trời con, rộng chừng 10 phân giữa mép
dưới cửa sổ và riềm mái ngói chạy dài theo cửa sổ. Trong cái khung trời này có
6, 7 cái lá nho của giàn nho phía sân trước Hỏa Lò, nơi mỗi khi tôi đi cung đều
có đi qua, cửa con bỗng xoạch mở. Tôi quay lại, chỉ kịp thoáng thấy bộ mặt của
lão Tư. À ra thế! Khi nãy, thấy tôi vắt chéo hai chân cùm, y không biết tôi
định làm gì, vì vậy y mới để ý theo dõi. Bây giờ, y bất chợt mở cửa kiểm tra.
Thấy tôi ngồi như vậy, y đã hiểu, nhưng chẳng có gì nói được tôi, nên y lại
đóng cửa con lại. Tuy chỉ là một khung trời nho nhỏ với mấy chiếc lá nho xanh
rờn, nhưng nó cũng làm cho tâm hồn tôi được thêm một chút thi vị, còn hơn là
chỉ nhìn thấy 4 bức tường và hai cái cùm, không một chút sinh khí. Nhiều lúc
bâng khuâng, nhìn những chiếc lá nho xen kẽ những mảnh trời xanh xanh, hồn tôi
buông trôi dật dờ, như ký thác, gửi gấm những nỗi niềm đầy vơi của mình mà quên
đi được phần nào cái nhức mỏi của đôi bàn chân trong cùm.
Mấy hôm nay, người lại
đưa vào đầy xà lim. Buồng nào cũng có người. Lúc gần trưa thấy tiếng mở cửa xà
lim, tôi nghe giọng một người Tầu, nói tiếng Việt không rõ:
- Téo mẹ, tui làm sao
mà pắt tui?
Và ngay sau đó, tiếng
quát:
- Câm mồm!
Tiếng mở buồng số 6,
tiếng rút chốt cùm. Tiếng lão Tư cao giọng:
- Bỏ chân vào!
- Tui làm sao lại cùm
cái chân tui!
Tiếng xô động huỳnh
huỵch, tiếng đóng chốt cùm, tiếng đóng cửa cài then. Rồi im lặng, tôi vểnh tai
nghe ngóng. Vẫn im lặng, có lẽ các buồng khác cũng đang vểnh tai nghe những âm
thanh để suy đoán như tôi. Im lặng một lúc, tôi lại dõi hồn vào những chiếc lá
nho. Vài cơn gió nhẹ, những chiếc lá nho rung rinh, đong đưa như đùa cợt với
gió. Bỗng một giọng khàn khàn cất lên nghe rõ mồn một:
- Chúng mày không cho
làm ăn puôn pán gì cả!…Vợ con tau ăn cái sắn mà không có ăn…Mua cái tậu, mua
cái muối, xếp hàng dài dài mà không mua tược!…..Chúng mày giết vợ con tau đi,
giết tau đi!…..Téo mẹ cái Cộng Sản! Téo mẹ cái cách mạng!…..
Càng lúc giọng càng ầm
vang, nhiều khi như gầm lên. Qua giọng nói, tôi đoán ông này cũng đã có tuổi,
phải từ 35 đến 40. Có tiếng cửa con xoạch mở, rồi tiếng lão Tư sắc, đanh:
- Câm cái mồm lại, mày
muốn chết hả?
Tiếng người Tầu gầm lên
như điên rồ:
- Mày giết tau đi! Téo
mẹ chúng mày! Tau không muốn cái sống nữa! Chúng mày làm cái dân không có cơm
ăn! Téo mẹ cái tồng chí, téo mẹ cái Cộng Sản!
Tiếng lão Tầu gầm thật
to, vang ra cả ngoài sân khu giàn nho. Mấy tên cán bộ chạy vào. Một giọng lạ
như ra lệnh:
- Khóa mồm nó lại.
Không chịu nữa, cho xuống “cát xô”!
Lão Tầu gần như điên
khùng, không biết sợ là gì, lão vẫn chửi. Một lúc sau, có tiếng mở cửa buồng.
Rồi những tiếng huỳnh huỵch vùng vẫy và giọng của lão Tầu cứ xìn xịt, phì phì
như tiếng của con chó bị buộc mõm. Tiếng cửa đóng nghe “xầm”, rồi xà lim lại
trở về vắng lặng. Thỉnh thoảng tiếng xìn xịt hổn hển của buồng 6 cứ như cào vào
tim của mọi người trong xà lim. Tôi nhớ lại hình ảnh chiếc cùm mồm lúc tôi mới
bị bắt vào. Khi đó, tôi còn bị đánh máu me đầy người, lại còn bị cùm hai chân.
Nghĩ đến, tôi còn thấy tim mình như bóp thắt, gáy tôi còn rờn rợn. Ở đây, ông
Tầu chỉ bị cùm một chân, nhưng chắc cũng không gãi được, vì nếu đã bị cùm mồm
thì phải khóa tay ra sau, nếu không, tay sẽ mở được cái vít dưới cằm. Tôi thở
dài, thông cảm của ông.
Tôi nhớ lại lúc bị cùm
hai chân dạo ấy. Khi đó, phần vì mới vào cơ thể của tôi còn có chất dự trữ, còn
sức lực để chịu đựng, hơn nữa, đang ở thời gian liên tục đi cung, nên coi như
chỉ bị cùm về đêm. Ban ngày hai chân được nghỉ ngơi, thay đổi, máu chạy điều
hòa, ít bị tê xuội. Vậy mà tôi cũng chỉ chịu đựng được gần 40 ngày rồi không đi
được nữa. Bây giờ, chúng lại không gọi cung nữa. Tôi đã nổ lực phấn đấu bằng
cách luôn luôn thay đổi thế cùm, vất vả đau đớn lựa thế duỗi ra co vào như tập
thể dục, thế mà bàn chân khi sờ vào cứ bì bì, căn cắn. Tay sờ vào chân, cảm
giác như sờ vào chân người khác.
Ngày 16 tháng 4, tên Tư
mở buồng, thu hết chăn màn và áo trấn thủ. Khi y tới buồng tôi, tôi nằn nì,
khẩn khoản:
- Thưa ông, tôi chẳng
có một cái gì ngoài hai bộ quần áo cũ. Đề nghị ông thông cảm, cho tôi mượn lại
một chiếc chăn, tôi xin đội ơn ông và nhà nước.
Y quắc mắt, gằn giọng:
- Nguyên tắc là nguyên
tắc. Không nói nhiều!
Tôi đành cởi áo và gấp
hai chiếc chăn đưa cho y với bao nhiêu luyến tiếc hận sầu. Y ném xuống đất, phía
ngoài cửa. Y như kinh tởm khi cầm tới chiếc chăn, mũi y nhăn lại. Cửa đóng rồi,
mà lòng tôi còn ngẩn ngơ tiếc nuối. Tôi hiểu rằng những ngày tới, trong tình
trạng cùm kẹp này, tôi còn phải chịu đựng nhiều khổ sở khó khăn hơn nữa. Có
tiếng người lục đục vào ôm những chiếc chăn phía ngoài cửa. Chắc là một anh tù
hình sự nào đó đi thu chăn về để giặt và nhập kho. Như vậy là hàng năm, cứ 16
tháng 10 thì cho mượn chăn, và 16 tháng 4 thì thu lại.
Chiếc loa ở cổng trại
chung đã như cái đồng hồ. Ngày nào cũng như ngày nào, sáng đúng 5 giờ tiếng loa
bắt đầu với những bài tập thể dục ở trên đài. Giọng một cô gái thanh thanh kéo
dài 1, 2…..theo từng động tác, nghe có lúc như tiếng hò kéo gỗ ở một công
trường lao động đổ mồ hôi, có lúc lại dồn dập khẩn trương như tiếng đập lúa
trong ngày mùa của một hợp tác xã nông nghiệp. Sau 15 phút tập thể dục, tới mục
“thanh niên”, rồi đến công trường, nhà máy, bản tin. Từ 6 giờ tới 6 giờ 30 là
mục “Quân Đội Nhân Dân”,v.v…Tiếng loa cứ the thé chọc vào tai mọi người cho tới
8 giờ thì câm bặt. Đến 12 giờ trưa lại nheo nhéo. 1 giờ lại tắt họng, để đến 5
giờ chiều lại bắt đầu hò hét cho tới 9 giờ tối mới chịu ngủm củ kiệu.
Trong một tuần, sáng
thứ Hai và thứ Sáu là hai ngày “giao và đưa hàng”, đó là những từ, tôi nghe tụi
cán bộ thường xuyên nói chuyện với nhau. Ngay từ 3, 4 giờ sáng, lúc chưa có
tiếng loa phát thanh, ở chỗ sân giàn nho sát với cổng trại chung, tiếng rì rầm,
ồn ào hỗn độn của tù, xen lẫn với những tiếng quát tháo của những tên cán bộ,
bộ đội về cơm nước, cùm, khóa…để đưa tù đi trại trung ương. Tôi nằm nghe theo
dõi những tiếng rì rầm bàn tán. Có ngày là tù chính trị, có ngày là tù hình sự.
Như vậy, ở trại chung, hoặc ở xà lim, anh nào sẽ phải đi trại nào, ngay từ tối
hôm trước đã được gọi ra tập trung ngủ ở một ngôi nhà gọi là “buồng vãng lai”.
Sáng sớm 3 giờ đã được gọi dậy ra chỗ giàn nho phía bên ngoài tường của xà lim
II, để nhận cơm nắm, rồi đọc tên, khóa tay chung, cứ hai người một. Tù thường
không biết mình sẽ đi trại nào. Nhưng, tôi nằm trong này tôi đã biết trước họ.
Ngoài cổng trại chung, sát phía bên kia cũng là địa điểm để xe đạp, những giờ
tan tầm, cán bộ thường tập trung lại đó, đôi khi bàn tán, đùa cợt, hỏi han
nhau. Vì thế từ chiều hôm trước, có khi tôi đã biết tù ngày mai đi trại nào rồi
như: Vĩnh Quang, Phú Sơn, Vĩnh Tiến, Tân Lập, Phố Lu, Phong Quang, Trại 5,
Quyết Tiến hay “Cổng Trời”, v.v…..Cũng từ địa điểm này, đôi khi nghe được nhiều
chuyện giữa cán bộ bàn luận, hỏi nhau trước khi về, hiểu thêm được về chúng và
về xã hội miền Bắc.
Ngay bữa cơm chiều hôm
đó, tên cán bộ hỏi buồng số 6:
- Cái mồm còn la nữa
hay không?
Im lặng một lúc, rồi
tiếng mở cửa buồng:
- Từ nay, tôi chỉ nghe
anh la một tiếng, tôi sẽ cùm cả hai chân, khóa mồm cho vài ngày. Lúc đó, chỉ có
chết.
Lục đục một lúc. Có lẽ
tên Tư mở khóa tay, mở khóa mồm, rồi tiếng mở chốt cùm. Tiếng chân lẹt đẹt ra
lấy cơm và lấy nước. Tiếng đóng cửa.
Như thế là ông Tàu đã
biết sợ rồi. Ai mà không sợ! Chết ngay không sợ, nhưng phải sợ kiểu cùm khóa
như vậy. Tôi đã nếm gần hai ngày, bây giờ còn thấy ngán.
Ngay hôm sau, tôi lại
nghe thấy tiếng mở cửa buồng 6, tiếng quát tháo bảo ôm quần áo ra trại chung.
Tôi suy đoán, có thể anh Tàu này vì bất mãn chán chường, chửi bậy ở địa phương
hay ngoài đường phố nên bị công an bắt. Bị giữ ở đồn, vẫn chửi, nên sau đó bị đưa
vào Hỏa Lò ở trại chung; nhưng ở trại chung, vẫn cứ điên rồ chửi bới la hét,
nên mới bị đưa vào xà lim. Vì thế, bây giờ thấy anh ta biết điều rồi, nên được
đưa ra trại chung lại, chứ anh ta chả có tội gì đặc biệt cả.
Vào một buổi sáng sớm
thứ Sáu, tôi đang mơ màng thiếp đi sau một đêm quằn quại vì đôi chân nhức mỏi,
vì cơ thể cũng rã rời thiếu ngủ, thiếu ăn và cứ phải nằm trong những thế gò bó,
những tiếng xụt xịt, tiếng the thé cãi cọ nhau của nhiều người con gái phía bên
ngoài tường làm tôi thức dậy. Có lẽ lúc đó độ 3 giờ rưỡi, 4 giờ sáng…?
Tôi lắng nghe, được
biết những người tù nữ này đi trại Mỏ Chén. Tôi cũng chẳng biết trại Mỏ Chén ở
đâu cả. Qua những tiếng đếm cơm, phát cơm, rồi khóa tay, v.v… Tổng số người là
43. Có hai cô cãi cọ giành nhau là người thứ 43, lẻ, không phải khóa tay. Vẫn
nghe có những tiếng khóc tỉ tê, sướt mướt, nức nở, rồi có tiếng một cô quát:
- Không cầm lấy cơm,
con đĩ! Còn khóc mãi….!
Lại có một giọng khác
cất lên lanh lảnh:
- Tổ sư bố con đĩ, ăn
cho lắm “đầu cá khô” vào, bây giờ còn ngồi đấy mà khóc! Làm thối cả ruột người
khác nữa!
Tôi rất ngạc nhiên,
không hiểu họ mắng nhau như vậy là nghĩa gì! Nghĩ một lúc tôi chợt hiểu. Dù
đang đau, tôi cũng phải mỉm cười cho cái kiểu ví von ngộ nghĩnh của họ. Sau lúc
họ được lệnh ra xe ngoài cổng Hỏa Lò, tôi không ngủ lại được nữa. Đầu óc lại cứ
bập bềnh nhấp nhô chảy dài trăm ngả cuộc đời…
Tôi nhớ lại những ngày
dong duỗi trên khắp các nẻo đường Hà Thành. Ngay từ 1954, khi còn là một cậu bé
15, 16 tuổi, tôi đã nhìn thấy các cô nữ sinh Hà Nội, nhất là các nữ sinh Trưng
Vương, đẹp, mềm mại duyên dáng tuyệt vời. Rồi, tôi vào Sài Gòn. Tôi lại được
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các nữ sinh Gia Long, Trưng Vương với những đôi mắt
huyền, làn da trắng bóc, gót chân đỏ hồng; với ngực nở, eo thon, mông to; với
chiếc nón bài thơ nghiêng nghiêng; hai bàn tay đeo “găng” trắng muốt, cỡi trên
chiếc solex đen (tương phản với màu của áo quần, của đôi “găng”, của chiếc nón
và của da thịt), tất cả tạo thành một bức tranh không còn từ gì dể mà ca ngợi.
Bây giờ tôi lại trở về
Hà Nội, đất ngàn năm thanh lịch của đài các trâm anh, ngoài những mặt tôi phải
tính toán đấu tranh với kẻ thù Việt Cộng, tôi cũng muốn tìm lại những bóng dáng
mỹ miều của người con gái thủ đô lúc này ra sao. Thế mà, gần một tháng trời,
suốt ngày tôi lang thang khắp 36 phố phường, nhiều khi cả đêm tối, tôi chẳng
thấy một cô nào gọi là khả dĩ sánh với Hà Nội năm xưa, và Sài Gòn ngày nay. Họ
biến đâu hết! Chỉ có một lần, vào một buổi sáng, trời thật trong không một vẩn
mây, đang đi trên đường Hàng Chiếu, tôi thấy từ “ban công” của một căn nhà lầu
sát phố, một cô gái chừng 18, đôi mươi, nước da trắng hồng, bộ mặt trái soan
với đôi mắt bồ câu, đang làm những động tác thể dục. Tôi liếc nhìn lên, cũng là
lúc cô nhìn xuống. Từ trên vai trở xuống mông, tôi thấy như gần bằng nhau. Có
thể lúc đó cảm xúc so sánh của tôi còn sắc nét, bởi vì vừa mới ở Sài Gòn ra,
nên mới thấy rõ như vậy. Chứ những năm tháng sau này, khi hình ảnh so sánh đã
mờ nhạt do chất chồng thời gian, tôi lại thấy những cô gái miền Bắc vẫn còn nhiều
cô đẹp, mặc dù tôi chỉ ở núi rừng, và chỉ nhìn thấy những “bà” cán bộ thôi.
Thế mới sợ cho tâm lý
con người. Nhìn sự vật phải có điều kiện. Cộng sản đã tích cực lợi dụng khía
cạnh này để thống trị con người. Chúng làm mất dần ý niệm so sánh suớng khổ,
xấu đẹp, lẫn lộn yêu nước chân chính và phản dân tộc vô tình. Vì thế, nếu ta có
nói, người dân cũng không tin.
37. Chết… Hụt
Đã vào hè, thời tiết càng ngày càng oi nồng và muỗi. Xà lim
2 thật nhiều muỗi, có lẽ vì cửa sổ to, lại thấp nên muỗi nhiều vô kể.
Phải nói rằng, tôi kiệt
sức một phần vì cùm, nhưng còn một phần nữa vì muỗi. Tôi thường lấy ngày làm
đêm, lấy đêm làm ngày. Suốt đêm, tay cứ phải cầm áo xua đuổi muỗi. Rồi những
lúc mệt mỏi quá thiếp đi, tay chân lại đầy lên nốt muỗi. Ở xà lim 3 vậy mà ít
muỗi hơn. Có lẽ vì cửa sổ nhỏ, lại ở mãi tít tận trên cao, cho nên các chú muỗi
cũng khó vào. Những người ở buồng khác hầu như đều có màn. Những lúc tắm giặt
đem quần áo ra chỗ nhà vãng lai phơi, thỉnh thoảng tôi thấy có màn phơi. Cụ
thể, hai người ở chung với tôi trước đây là Hoàn và Tân, họ đều có màn cả. Hơn
nữa, những buổi đêm tối, chỉ có buồng tôi có tiếng động, đập và đuổi muỗi; các
buồng kia im vắng, có chăng chỉ là tiếng kêu rên ban đêm. Như thế, cả xà lim
này, ban đêm, chỉ có mình tôi phải đón nhận tất cả các con muỗi. Ôi khổ cực
thân tù: “Mùa Đông rét mướt, mùa Hè muỗi bu!”.
Có thể vì cơ thể tôi
không còn chất để chống đỡ, lại do người tôi bẩn thỉu, cứt đái, hôi hám, cho
nên những nốt muỗi cắn dần dần trở thành ghẻ, ngứa ngáy bắt gãi suốt ngày đêm.
Từ nhỏ tới lớn chưa hề bị ghẻ lần nào, chưa biết ghẻ là gì, bây giờ ghẻ suốt cả
người, nhất là ở háng, nách, kẽ tay, kẽ chân, trông như hủi. Ngứa ngáy quá tôi
không chịu nổi nữa, tôi báo cáo với lão Tư để xin thuốc ghẻ.
Tôi phải báo cáo nhiều
lần, một hôm mụ Dậu mới xem tôi. Đã lâu không gặp tôi, con mắt mụ nhìn tôi như
đượm một chút ngạc nhiên, một chút xót xa cho một người chóng tàn lụi như vậy.
Mụ cho tôi một chai thuốc, nhưng tôi chỉ được để ở ngoài chỗ đuôi suốt cùm,
phía sàn bên. Hàng ngày khi được mở cùm ra lấy cơm, tôi phải báo cáo cán bộ,
tranh thủ đứng đấy bôi, rồi để lại chỗ cũ. Chúng sợ tù tự tử. Uống thuốc ghẻ
không chết, nhưng làm cho chúng mất công. Vì điều kiện chữa và bôi như thế, nên
ghẻ không thể khỏi được.
Đã gần 30 ngày cùm hai
chân rồi mà tôi vẫn không được gọi đi cung. Bây giờ, hai chân tôi cứ cắn nhức ở
trong xương. Hàng ngày ra lấy cơm, tôi không thể đi nhanh được nữa. Tôi lặc lè
những bước đi rất khó khăn, vừa đau nhức, vừa như không nhấc nổi hai chân. Dần
dần hai mu bàn chân của tôi tự nhiên sưng múp lên. “Nam túc, nữ mục”. Tôi nhớ
các cụ già nói thế. “Đàn ông chân phù, đàn bà mắt phù”, đó là triệu chứng của
sự chết! Chuyến này, chắc tôi phải chết. Chúng chả cần phải bắn tôi. Nếu bắn,
chết ngay đâu có khổ. Nhưng ở đây, chúng bắt tôi chết dần, chết trong quằn
quại, ngắc ngoải, khổ đau; bắt tôi phải nhìn cái chết đến dần dần.
Tôi hiểu lòng dạ chúng
như vậy. Là người Công Giáo không được tìm cách tự tử. Nhưng, dù muốn tự tử
trong tư thế này, tôi cũng không có cách gì tự tử được cả. Anh có gan đập đầu
vào tường không? Hay chỉ dang dở, để rồi không chết dược mà lại sống mang bệnh
thần kinh? Vả lại, tâm lý con người, trừ trường hợp cá biệt, còn nói chung, dù
biết là sắp chết, trong lòng vẫn níu kéo từng giây, từng phút để sống.
Phải nói, tư tưởng của
tôi bây giờ cũng suy sụp lụi tàn rồi. Chân thì nhức buốt, người lại rã rượi
ngứa ngáy như điên, tôi không còn đâu tinh thần để phấn đấu nằm xuống,ngồi lên
cho mạch máu lưu thông nữa. Tuy thâm tâm tôi hiểu rằng, càng chán nản tiêu cực
như vậy, càng đi nhanh đến chỗ chết. Ngay cả khi lấy cơm ăn, tôi cũng phải bò
ra, vì không đi được nữa. Có lần, tên cán bộ thấy tôi chậm chạp quá lâu, mất
nhiều thì giờ của hắn, hắn kéo tôi vào buồng, để rồi cả bát cơm canh đổ ra đất.
Tôi phải bò theo để bốc, nhặt vào, chỉ còn một chút cơm với mấy cọng rau. Chỉ
vì, y không dám sờ vào người tôi, sợ bẩn, sợ ghẻ; y cầm vai áo của tôi mà kéo nên
mới đổ như vậy.
Có lẽ y đã nhìn thấy
tôi như thế này, vừa mất thì giờ của y, đồng thới tôi sẽ chết, nên y đã bao cáo
thế nào đó, chiều hôm ấy, tên Lê vào. Lê phải mở cửa buồng to ra, mà vẫn đứng ở
mép cửa, chắc hẳn vì cái buồng hôi thối lắm rồi. Y nói vẻ dìu dịu:
- Tại sao anh ngoan cố
không chịu thành khẩn khai báo?
Tôi nói giọng hổn hển
vì mệt và pha lẫn một chút niềm xúc động.
- Tôi…khai hết rồi,
nhưng…các ông ấy không tin.
Cửa đóng rồi, tôi nằm
xuống. Tôi nằm, cảm thấy dập dờn như đi trên thuyền. Tai cứ nghe những tiếng
lùng bùng, o o , tôi chưa bao giờ thấy cơ thể mình như vậy. Có lẽ, tôi sắp
chết, chết đêm nay.
Đã 43 ngày rồi, cơ thể
không còn sức chịu đựng nữa. Hai chân tôi cứng đơ ra. Tôi muốn lùi người xuống
để cho cái chân co lại một chút, nhưng tôi chống tay mà không còn sức để lết.
Tay tôi rủn ra, yếu đuối quá! Tôi bằng lòng chết, không thắc mắc gì nữa. Xin
Chúa hãy cho con chết! Cho con chết đêm nay, con xin cảm tạ Chúa! Bây giờ muỗi
cứ đốt, tao không tiếc chúng mày nữa. Đàng nào thì máu tao cũng thành tro bụi,
đất cát, vậy chúng mày cừ dùng đi…Tôi cũng không còn cảm thấy ngứa ngáy nữa.
Tôi lịm đi…
Tới khi có ai đó kéo
tôi dậy. Tôi mở mắt ra, thấy một ông mặc áo “blouse” trắng, đang cầm tay tôi
tiêm. Tôi nhìn. Tôi không còn nằm xà lim nữa, mà nằm trên một cái giường gỗ.
Tôi cố cúi nhìn xuống hai chân. Hai chân tôi không còn trong cùm mà giạng ra ở
cuối giường. Như thế, chúng đã tháo cùm tôi từ bao giờ. Đây là đâu? Tôi tự hỏi.
Sao tôi không hề biết gì cả? Tôi đoán đây là tên Huệ, y tá, có lần tên Tân nói
với tôi về y. Để y tiêm xong, tôi hỏi y với giọng còn run run xúc động:
- Thưa ông, đây là đâu
ạ?
Mặt y tươi tỉnh nhìn
tôi:
- Bệnh xá!
Rồi y hạ thấp giọng,
tình cảm:
- Đêm qua, tôi tưởng
anh đi luôn rồi. Anh có một sức sống kỳ diệu!
Vừa nói, y vừa đứng
dậy, cầm khay thuốc sang phòng bên.
Tôi nằm, miên man nhớ
lại lần lượt; chiếu tối hôm qua, tự nhiên tôi thấy người như nhẹ nhàng, không
còn cảm giác đau đớn và ngứa ngáy nữa… Rồi, không biết làm sao, tôi như thấy
mình về lại Sài Gòn. Tôi gặp mẹ tôi. Người còn cho tôi một cuốn sách chữ vàng
rất dầy, và nói: “Đây là một cuốn sách quý lắm!”… Như vậy, chắc là tôi đã xỉu
đi. Rồi một cán bộ nào đó, vô tình đi kiểm tra các buồng, thấy tôi như vậy, nên
đã gọi người và xin lệnh đưa tôi xuống bệnh xá. Âu đây, cũng là cơ trời, số của
tôi chưa chết được!
Nghĩ tới đây, tôi lại
thấy người bắt đầu ngứa ngáy. Tôi thử nhấc hai chân, thấy hơi nằng nặng, nhưng
được. Tôi lựa thế, cố gắng ngồi dậy. Tuy hơi khó khăn, nhưng tôi ngồi dậy được,
và tôi bắt đầu gãi. Chỗ tôi nằm là một căn buồng nhỏ, chẳng có ai.
Bỗng cửa mở, tôi thoáng
nhìn ra một căn phòng rộng ở bên cạnh, có nhiều giường cá nhân, trên đó, lố nhố
một số người gầy như những bộ xương đang nằm. Mụ Dậu vào, mắt mụ sáng lên nhìn
tôi:
- Hôm qua, tôi tưởng
anh chết rồi!
Tôi nhìn mụ bằng con
mắt cám ơn. Tôi thoáng có ý nghĩ, làm cách nào xin được thuốc ghẻ? Thấy mụ định
đi ra, tôi đánh bạo lên tiếng:
- Thưa bà, ghẻ tôi ngứa
lắm. Xin bà cho tôi thuốc…?
Mụ vừa gật đầu, vừa đi
ra. Thái độ của mụ tỏ vẻ tích cực giúp tôi chữa ghẻ.
Mót giải, nhìn quanh,
tôi thấy một cái bô ở góc buồng, tôi cố gắng tụt xuống và chậm chạp lê bước đến
chỗ cái bô. Tôi cảm thấy khỏe hơn ngày hôm qua, hôm kia nhiều. Mấy bữa đó, tôi
không còn đi được. Như thế, có thể nhờ được tiêm thuốc nên tôi hồi sức.
Tôi trở về giường. Hai
chân tôi vẫn sưng múp, nặng chình chịch. Tôi mệt mỏi nằm xuống, đúng lúc đó tên
Huệ mở cửa đi vào, theo sau là một anh tù hình sự, bưng một tô cháo, khói bay
nghi ngút. Huệ đưa cho tôi một lọ thuốc ghẻ.
Thấy có vẻ dễ chịu, tôi
hỏi:
- Thưa ông, tôi được ở
đây bao lâu?
Vẻ mặt đắn đo, y dè
dặt:
- Tôi không rõ, nhưng
chắc vài ngày.
Tôi hỏi, vì tôi sợ trở
về xà lim lại bị cùm. Tôi cố ăn hết bát cháo nấu muối. Mồ hôi vã ra và tôi thấy
nhẹ hẳn người.
Không có điều kiện tắm,
tôi gãi mạnh những nốt ghẻ cho bong vảy. Trong buồng không có ai, tôi cởi hết
quần áo ra bôi, bôi đi bôi lại. Tôi tích cực bôi, mong mấy ngày cho khỏi, vì sợ
rằng về xà lim, tôi lại bị cùm, không thể chữa được.
Chiều hôm đó, khoảng 4
giờ tôi lại được một tô cháo nóng nữa. Tôi vừa ăn xong, tên Lê- Phó Giám thị
vào buồng với tên Bằng. Y nhìn tôi với vẻ mặt dễ chịu:
- Anh có thấy không,
đáng lẽ anh đã chết đêm qua rồi, nhưng lòng nhân đạo của đảng đã cứu sống anh.
Đảng và cách mạng đã đưa sự sống trở về cho anh. Anh phải ghi ơn đó suốt đời
anh. Tôi đã cho lệnh y tế bồi dưỡng anh một tuần cơm cám. Để đáp lại công ơn
cứu tử này, anh hãy dốc lòng thành thật khai báo. Đời anh còn dài, anh sẽ có
ngày được hưởng lượng khoan hồng của đảng và nhà nước, trở về xã hội làm lại
cuộc đời.
Tôi thấy y cứ nói đi
nói lại, vẫn loanh quanh chỉ có thế, vì vậy, để cho qua chuyện, tôi chậm chạp
từng lời:
- Trong nơi sâu kín của
trái tim này, tôi xin biết ơn đảng và cách mạng, trực tiếp là các ông.
Tôi vừa nói, vừa để tay
lên ngực. Với một giọng gia ơn, tên Lê tiếp tục:
- Tôi thông cảm điều
kiện sức khỏe của anh, tôi đã đề nghị trên tạm thời tha cùm cho anh. Ngay chiều
nay trở lại xà lim, anh hãy suy nghĩ cho sâu, quyết tâm từ bỏ những tội lỗi sai
lầm trước đây bằng cách khai báo hết mọi âm mưu thủ đoạn làm hại nhân dân, làm
hại cách mạng của bè lũ Mỹ Diệm với đảng và nhà nước. Chỉ có một con đường duy
nhất đó, anh mới được hưởng lượng khoan hồng của đảng.
Nó nói, mặc nó nói, tôi
cũng chẳng chú ý nghe. Điều tôi chú ý lắng nghe nhất là ba chữ:”Tạm tha cùm”.
Chỉ nghe ba chữ này, tôi thấy người tự nhiên nhẹ hẳn đi, như có một nguồn sinh
lực ở đâu tràn vào cơ thể. Tên Lê và tên Bằng đã đi rồi, tôi vẫn ngồi yên. Hồn
tôi vẫn rung rinh nhảy múa, có cảm giác như một phiến đá nặng nề hằng ngày đè
chĩu trên vai, nay được hất xuống rồi, dù rằng tạm bợ.
Khoảng 5 giờ chiều,
trại chung đã vào hết, tên Bằng vào bảo tôi đi theo y về xà lim. Mùa Hè, lúc
này mặt trời chưa đi ngủ, ánh nắng nghiêng nghiêng phản chiếu từ những bức
tường nhà trại chung, làm cho cảnh vật sáng lên một mầu vàng ửng. Dăm con chim
sẻ ríu rít trên cành bàng, như chia xẻ với nỗi hân hoan đang tràn ứ trong lòng
tôi. Nhìn những chiếc lá bàng đang thời kỳ con gái mơn mởn, sau những ngày Đông
giá khẳng khiu khô cằn, tôi liên tưởng tới đời mình, mới vừa từ cõi chết trở
về, để rồi lại tiếp tục bì bõm lặn lội trong đường hầm đen tối; đâu đã được
thảnh thơi đùa rỡn với gió chiều như những chiếc lá bàng kia.
Tên Bằng dẫn tôi về xà
lim II, nhưng lại mở cửa đưa tôi vào buồng số 2. Như thế càng gần cổng trại
chung, càng gần chiếc loa lắm mồm hàng ngày. Thấy tên Bằng hôm nay có vẻ dễ
chịu tử tế, tôi khẩn khoản:
- Thưa ông, tôi có cái
bó chổi dùng làm gối để ở buồng số 4, xin ông bớt chút công mở cửa cho tôi
lấy…?
Y ngơ ngác, không hiểu,
tôi phải nói thêm:
- Đó là những cái cuống
chổi thanh hao đã cùn, tôi không có gối, nên đã buộc, bó với nhau làm gối. Vừa
rồi xuống bệnh xá, tôi còn để lại buồng số 4.
Y chạy lại mở cửa con
buồng 4. Tôi thấy y hỏi gì người bên trong. Như vậy, buồng 4 lại có người mới
rồi. Một lúc, y trở lại bảo tôi:
- Vào nhà tắm xem sao?
Tôi vội chạy sang buồng
8 ngay đối diện. Tôi đã nhìn thấy cái “gối” của tối ướt nhẻm, vất ở một xó sàn,
hãy còn dính đầy phân. Thôi đành! Tôi vội vàng mở vòi nước, đập đập cái “gối”
xuống nền cho phân trôi đi, vẫy khô, rồi nhanh nhẹn chạy vào buồng. Như vậy là
hôm nay y đã dễ dãi với tôi nhiều rồi.
Cửa đóng. Căn buồng này
không được sạch, nhưng đã có cái chổi thanh hao, tôi cảm thấy khoáng đãng tự do
thoải mái. Chân tôi, tuy chưa được nhanh nhẹn, nhưng từ nãy, do sự hoan hỉ ở
trong lòng, tôi cứ thích lăng xăng làm việc. Tôi quét sạch hai sàn, dưới nền,
hốt hết vào cái bô. Chai thuốc ghẻ vẫn nằm trong túi, tôi lại cởi hết quần áo
tích cực diệt ghẻ.
Đêm hôm đó, để chống
muỗi, với hai bộ quần áo, mặc một bộ, bộ còn lại, tôi lấy cái quần mặc dài
xuống dưới cho hai ống quần phủ che kín hai bàn chân, thắt giải rút ở ngay đầu
gối, còn chiếc áo thì trùm lên mặt, cho hai tay lên đầu luôn. Trời nóng, mồ hôi
ra ướt đẫm, đắp như vậy khó thở, nhưng còn hơn là để muỗi cắn. Mới được tha
cùm, tâm tư còn nhiều sôi nổi, lại thêm mấy ngày thoa thuốc ghẻ, bớt ngứa, đêm
hôm ấy, tôi ngủ một giấc thật thoải mái tự do.
Hôm sau, lại là ngày
tắm giặt, tôi cào hết mọi mụn ghẻ, về buồng bôi thuốc, ghẻ đỡ đi rất nhiều. Chỉ
3 ngày sau, người tôi lại sức hẳn. Hàng ngày, tôi loanh quanh trong buồng ung
dung, nhàn hạ. Tôi tò mò cố đọc những giòng chữ nhỏ, những người tù trước đã ghi
vào tường bằng một cọng thép hay một cái đinh”.
- Trần Minh Châu, tức
Cập. Vụ án tình báo 1958.
Tôi chẳng hiểu “Trần
Minh Châu” là ai, chẳng hiểu “vụ tình báo” này từ 1954 cài lại, hay mới ở miền
Nam ra như tôi bây giờ. Rồi một vài hàng chữ nữa rất mờ, nói đến “…vụ án chiếc
ấn vàng của Bảo Đại…”. Phần do trình độ, người viết chữ nguệch ngoạc, phần vì
đã lâu ngày rồi, chữ mờ, tôi cố gắng nhưng không thể đọc hết được, dù viết rất
nhiều. Tôi chỉ thấy ghi 1957… Một vài vụ vượt tuyến…
Tôi đang ngồi tỉ mẩn, mò
mẫm tìm tòi, đọc những hàng chữ ghi trên tường, cửa con xoạch mở. Mụ Hoa chỉ
tôi!
- Đi cung!
Từ ngày tôi bị cùm do
chấp pháp, để đến nỗi phải bò và suýt chết, trong lòng tôi căm lắm. Vì thế, tôi
đã chủ trương sẵn. Khi ra tới phòng cung, tôi thấy lại vẫn là tên Nhuận và
Thành. Mặt tôi rất lạnh lùng. Không chào hỏi, tôi cứ ngồi vào chiếc ghế đã dành
sẵn cho can phạm. Tên Nhuận nhìn tôi, giọng đạo đức giả:
- Dạo này anh có khỏe
không? Sao anh gầy thế?
Tôi cũng nhạt nhẽo:
- Cảm ơn ông, tôi bình
thường!
Tên Thành nói với giọng
ra vẻ tình cảm:
- Chúng tôi bận việc,
lâu lắm không gặp anh. Hôm nay, chúng tôi vào thăm anh. Tôi tin rằng với thời
gian lâu như vậy, chắc anh đã biến chuyển tốt. Vậy, hôm nay anh có cần gì nói
với chúng tôi không? Chúng tôi sẽ đáp ứng những ý kiến mới của anh!
Thấy chúng không hề nói
gì đến việc cùm kẹp tôi cả, tôi cần nói ý cho chúng biết là từ nay đừng nói gì
đến “chính nghĩa” nữa:
- Thưa các ông, từ ngày
các ông ra lệnh cùm tôi hai chân, nếu không do một sự may mắn tình cờ, làm sao
tôi sống để mà nghĩ với ngợi…
Cả hai tên đều mở to
mắt, ra vẻ ngạc nhiên. Tên Thành vội vàng:
- Hả? Anh bị cùm hai
chân à? Ai nói với anh là chúng tôi cùm anh?
Đúng là Cộng Sản! Tôi
tin là chúng biết hết mọi diễn tiến suốt thời gian cùm tôi, cho tới khi bọn chúng
phải đưa tôi xuống bệnh xá để cứu sống. Thế mà, bây giờ chúng lại ra vẻ ngạc
nhiên như không hề biết gì cả. Thật là trắng trợn! Tôi càng suy nghĩ, tôi càng
thấy chúng lòng lang, dạ sói mà lại cố che giấu dưới bộ mặt từ bi, nhân hậu.
Tôi thấy nóng người lên, chẳng biết sợ nữa, nhìn thẳng vào mặt chúng, tôi trả
lời:
- Tôi ân hận là đã
thành thật khai báo hết với các ông!
Tên Nhuận đứng giỗ dậy,
đập bàn, chỉ ty vào mặt tôi:
- Anh láo! Anh trả lời
trước cán bộ nhà nước như vậy hả?
Tôi vẫn ngẩng đầu, cứng
rắn:
- Tôi tin tưởng các ông
là chính nghĩa, nên tôi đã ngày đêm moi óc, nhớ lại hết mọi sự việc để khai báo
với các ông. Ra ngoài Bắc, tôi cũng đã không hoạt động gì cho bè lũ Mỹ Diệm;
thế mà giờ đây các ông lại dùng những hình thức tra tấn khai thác của thực dân,
Đế quốc đối với tôi. Để rồi tôi, một thanh niên khỏe mạnh, không chịu nổi với
bao nhiêu ngày đêm hành hạ, đến nổi phải bò đi. Rồi cho tới khi, thấy rằng tôi
sẽ không sống được nữa, các ông mới tạm tha.
Tôi giơ hai tay và vạch
hai chân ra:
- Đây, các ông xem, hai
bàn chân tôi vẫn còn sưng phù, đầy ghẻ lở. Tôi đề nghị các ông cho lệnh bắn tôi
đi, tôi cảm tạ các ông!
Tên Nhuận cười nhạt,
tên Thành vẫn ngồi yên. Một lúc, tên Nhuận nói lớn tiếng:
- Chúng tôi đã nói,
chúng tôi không cho lệnh cùm anh! Để chúng tôi sẽ hỏi các đồng chí bên trại
giam xem thế nào. Chúng tôi muốn cùm anh, chúng tôi sẽ nói thẳng, chứ cần gì
phải giấu anh. Còn anh muốn chết? Sẽ được chết! Loại người như anh, cũng không
để sống làm gì. Anh đã ăn nhiều bơ thừa sữa cặn của Mỹ và tay sai. Bơ thừa, sữa
cặn đã thấm vào xương vào tủy anh rồi, nên anh mới dốc một lòng, một dạ hại
dân, hại nước. Anh đã quyết tâm là một tên bán nước, để anh sống làm gì, hại
cơm nhân dân!
Tôi không chịu dược nữa
rồi. Tôi nói với sự phẫn uất căng đầy:
- Tôi nói với các ông
là, tôi, một thanh niên, giòng máu Việt Nam đang cuồn cuồn chảy trong cơ thể
này. Với luơng tâm và danh dự: Nếu nước Việt Nam yêu quý này có giặc ngoại xâm,
tôi sẽ là một trong những người lính đứng hàng đầu, cầm súng chiến đấu với kẻ
thù, để bảo vệ cho giải giang sơn gầm vóc này. Tôi sẽ sẵn sàng chết cho quê
hương, không phải vì tiền, cũng không phải vì danh vọng. Tôi không ưa gì người
Mỹ, và tôi cũng chống đối đến cùng tất cả những kẻ nào muốn thống trị đất nước
tôi, xâm phạm vào chủ quyền độc lập của mảnh đất hình chữ “S” này!…
Tôi thấy cả hai đứa đều
tím mặt lại. Trong cái thế này, tôi nghĩ phải xoa dịu chúng, vì vậy tôi nói
thêm:
- Tôi là một người yêu
nước với cả tâm hồn tôi, có chăng chỉ là tôi đã yêu…lầm!
Dù gì, hai tên cũng
thấy tôi đang nói lên những lời từ trái tim đang sục sôi bầu nhiệt huyết. Chúng
không thể phủ nhận được điều đó, vì thế tên Thành mỉm cười nói giọng dàn hòa:
- Anh yêu nước như thế
là tốt! Vậy, tại sao anh không chịu nói hết với cách mạng, mọi âm mưu thủ đoạn
Mỹ Diệm giao cho anh, ra ngoài miền Bắc này?
Tôi lợi dụng câu nói
của y để đẩy đưa:
- Chính vì thế, không
phải đợi đến bây giờ các ông hỏi. Tôi đã thấy có trách nhiệm ngay từ lúc đầu,
tôi đã khai báo ngay âm mưu, ý đồ của địch giao cho tôi.
Các ông đã hiểu rõ lòng
tôi, vậy từ nay, tôi đề nghị đừng dùng những từ bán nước, hại dân đối với tôi.
Hai đứa cười không trả
lời. Một lúc sau, tên Nhuận hỏi với giọng nửa đùa, nửa thăm dò:
- Này tôi hỏi thực anh,
anh còn điều gì không đồng ý với xã hội chủ nghĩa nữa, khiến anh không chịu
khai hết sự thật? Tôi đã hỏi cung nhiều rồi, nhưng tôi chưa thấy ai khó khăn
như anh cả. Người ta ai ai cũng vậy, khi đã thấy được ánh sáng chính nghĩa, đều
thành khẩn khai báo mọi chi tiết. Chỉ riêng anh cứ khư khư ôm mãi.
Rồi y tươi nét mặt thổi
và dụ dỗ:
- Anh biết không, chúng
tôi suy nghĩ về anh rất nhiều, chúng tôi muốn giải quyết thất tốt cho anh.
Người như anh về với cách mạng thật có lợi cho nhà nước. Đối với đảng, gỗ cong
có việc cong, gỗ thẳng có việc thẳng. Biết đâu, anh hoạt động cho kẻ địch, vì
phi nghĩa nên không thành công, còn hoạt động cho cách mạng, với tài của anh,
anh lại chả gặt hái được nhiều kết quả có lợi cho nhân dân?!
Tôi cười và nói cho qua
chuyện:
- Cảm ơn các ông, các
ông nói đùa vậy. Tôi là một kẻ quê mùa lại còn trẻ, có biết gì đâu mà các ông
nói là tài. Bây giờ thân tôi đã bị bắt, đã có tội với cách mạng, tôi chỉ biết
ăn năn đền tội; ngoài ra, tôi không có một ý nghĩ gì khác.
Trước khi chúng cho tôi
về, tên Nhuận còn cố ra vẻ thân mật:
- Bình về suy nghĩ kỹ
nhé! Chúng tôi sẽ giải quyết rất tốt cho anh!
Tôi lặc lè theo tên
Bằng về xà lim, vừa cười thầm trong bụng cho cái trò hề rẻ tiền của chúng. Về
mặt gì khác, tôi có thể còn ngây thơ chưa hiểu chúng, chứ về mặt này, tôi không
còn lạ gì tim đen của chúng cả. Chẳng qua chúng đã dùng đủ mọi cách rồi mà
không có kết quả. Bây giờ, chúng lại đưa mồi ra nhử. Tôi luôn xác định rõ,
không mơ hồ: Chấp pháp với bị can (người còn đang trong thời gian thẩm tra khai
thác, chưa thành án), cũng có thể ví như người câu cá với con cá, hai ranh
giới, hai quyền lợi đối nghịch nhau. Mơ hồ miếng mồi, đớp vào, không lên bờ vào
giỏ đợi chờ làm thịt, thì cũng rách mõm, toạc môi.
Hôm nay, đã mồng 5
tháng 6 rồi. Đang độ giữa Hè, trời nóng như nung. Tôi được thả cùm đã hơn nửa
tháng. Hai bàn chân tôi sau một tuần ăn cơm cám, đã rút lại. Những nốt ghẻ do
tôi tích cực bôi thuốc đã thành sẹo. Còn một vài mụn nữa đã đóng vảy đen, hết
ngứa, chắc cũng gần khỏi. Như thế, tôi đã ra miền Bắc được một năm lẻ tám ngày,
và bị bắt vào Hỏa Lò 20 ngày nữa thì tròn năm. Bây giờ chỉ còn khổ vì nóng và
muỗi. Hai cái thật mâu thuẫn nhau. Nóng cỡi trần, vén quần cao lên như quần đùi
để ngủ thì đỡ nóng. Nhưng muỗi nhiều quá. Ăn đã triền miên không đủ no, đêm mà
để nhiều muỗi hút máu, sớm muộn cũng bị bệnh. Vậy, lại phải mặc áo, che kín
người, chân tay, mặt mũi. Thế mà, vì ngủ mệt, trở mình, chỗ nào hở ra, sáng dậy
lại thấy đầy nốt muỗi. Quần áo đêm nào cũng ướt đẫm mồ hôi, thật hôi hám! Thôi
đành, thân tù mà! Người ta vẫn nói: “Thằng tù, thằng hủi, thằng bổ củi, thằng
đốt than” mà lại!
38. Cái Giá Phải Trả của “Người Hùng Điện Biên”…
Đang sáng, trời bỗng tối sầm lại. Mới 2 giờ chiều mà như 6
giờ tối. Tôi dịch về phía cuối sàn, ngồi lên chiếc cùm, rõi mắt ra ngoài chiếc
cửa sổ.
Một mảnh trời đẹp, dài
theo mép cửa sổ, xám xịt nặng chĩu nước. Một làn chớp xanh lè nháng lên, kèm
theo một tiếng nổ làm rung rinh cõi lòng. Rồi như tiếng đại bác liên hồi nổ, ầm
ầm, ì ì chạy suốt từ phía này sang phía kia, rền vang trên bầu trời. Trong ngục
tù tăm tối vắng lặng, một mình ngồi nghe sấm chớp rền rĩ, tôi cảm thấy thật cô
đơn, heo hút, cách biệt với thế giới loài người. Nằm giữa lòng Hà Nội một năm
rồi, mà không hề biết biến chuyển gì của Hà Nội.
Gió bắt đầu thổi mạnh,
mưa bắt đầu rơi…..Đầu tiên là những hạt lộp độp trên mái ngói, sau đó là ào ào
như trời đổ nước xuống. Không khí dịu hẳn lại. Ngồi nghe mưa gió ngoài trời,
tôi nghĩ đến cuộc đời hẩm hiu, bất hạnh của mình cũng quay cuồng trong gió mưa
của đời. Mưa gió của đất trời thì chóng qua đi, còn mưa gió của đời, thì ôi
thôi, dài lê thê, biết bao giờ mới dứt?!…..
Tôi cứ ngồi bồng bềnh
với giòng suy tưởng ngược xuôi. Tôi nhớ đến cũng một buổi chiều mưa rơi trên
thành đô ngày nào…..Hôm ấy, để tránh một trận mưa, tôi nhào vào trú dưới mái
hiên của một ngôi nhà bên đường Tú Xương. Cho đến lúc trời đã nặng hạt, từ một
góc đường, một cô gái cũng đang đạp vội chiếc xe đạp, đến gần chỗ tôi đang trú.
Cô hấp tấp dắt xe lên hè, chợt nhìn thấy tôi, cô lúng túng, nửa muốn vào, nửa
muốn đi ra, trong khi trời đang đổ mưa ầm ầm. Vì lúng túng, cô đánh rớt chiếc
cặp xuống vũng nước đang chảy ào ào ở mé đường…..Cuối cùng, cô đành vào mái
hiên tôi đang trú, mặt ửng hồng, e ấp chả dám nhìn tôi.
Cô chừng 18, 19 tuổi,
có mái tóc dài óng ả buông xõa sau lưng, bám lất phất những hạt mưa lóng lánh.
Đôi mắt huyền long lanh rụt rè, càng làm tăng nét dịu hiền của bộ mặt. Trời
càng mưa to, phố càng vắng. Mái hiên vừa hẹp lại vừa nhỏ, nếu cùng đứng ở giữa
thì không ướt. Nhưng, vì không dám đứng sát gần nhau, nên cô đứng một phía và tôi
đứng một phía. Cả hai đều bị mưa hắt, ướt từ đầu gối trở xuống. Cách nhau có
hơn một thước, mà không ai dám quay lại. Mưa cứ rơi và hai người cứ đứng. Với
cô ấy, tôi không hiểu thế nào, chứ lòng tôi thì thấy vấn vương, ngập ngừng,
nhưng tôi chẳng biết và chẳng dám nói cái gì. Ngay quay lại nhìn, tôi còn không
dám, huống chi mở miệng nói năng. Tôi cứ đứng bần thần ngơ ngẩn, tiếc là mình
tại sao không đủ can đảm, ra nhặt ngay chiếc cặp cho cô ấy khi nãy!?
Đường trơn, phố nhỏ,
mưa cứ rơi dầm dề. Gần một tiếng đồng hồ sau, mưa mới tạnh. Lúc tôi dẫn chiếc
xe solex xuống đường, cô cũng dắt xe đạp đi ra, hai người đi về hai phía. Trước
khi bước chân lên xe, tôi mới dám ngoái lại nhìn, như luyến lưu, như mất mát.
Khi đó, cũng là lúc cô nghiêng nón nhìn lại, để rồi hai người đi về hai ngả
cuộc đời. Chẳng bao giờ gặp nhau nữa, và cũng chẳng biết nhau là ai…..Bây giờ,
cũng một trận mưa rơi, nhưng tôi đang ngồi trong ngục tối một mình. Tôi buông
một tiếng thở dài không chủ định, như vĩnh biệt những đoạn đời đã qua…..
Tôi cứ ngồi đăm chiêu
để hồn lửng lơ về đây đó, mưa đã ngừng lúc nào tôi cũng không hay. Mãi tới khi
nghe tiếng cửa buồng xịch mở, tôi mới giật mình nhìn ra: Một người cao lớn, có
bộ râu quai nón, đang ôm túm một cái chăn bộ đội mầu cứt ngựa lách cửa đi vào,
theo sau là lão Tư. Tên Tư nhìn hết buồng một lượt, rồi ra đóng cửa lại.
Tôi và người mới vào
gật đầu chào nhau. Để ghệ bọc chăn lên sàn xi măng, tay vẫn còn cầm túm bốn góc
cái chăn, anh nhìn suốt lượt trong buồng. Cuối cùng, anh mở to mắt chăm chú nhìn
hai cái cùm sắt to lù lù phía cuối sàn. Câu đầu tiên, anh nói với tôi:
- Hai cái cùm, trông
ghê quá nhỉ! Có lẽ Hỏa Lò đây do thực dân Pháp xây lên, vì thế, chế độ ta giữ
lại để làm lưu niệm, cho mọi người thấy sự tàn ác của đế quốc!
Tôi chưa hiểu anh là dạng
thế nào, nên tôi chỉ cười, không trả lời. Anh lúi húi mở gói chăn ra, nào màn,
nào quần áo, đặc biệt có cả cái điếu con, diêm và thuốc lào. Mọi thứ đều lộn
xộn, có lẽ vừa bị khám xong, trước khi chúng cho anh vào buồng. Anh vừa sắp xếp
các thứ lại, vừa hỏi tôi:
- Anh bị bắt lâu chưa?
Tôi nói thẳng:
- Một năm rồi!
Anh dướn mắt to lên,
ngạc nhiên:
- Anh nói đùa đấy chứ?
Làm gì mà một năm?
Tôi lại cười, hỏi lại
anh:
- Còn anh?
- Mới ngày hôm nay. Bắt
ở Vinh hồi sáng, đưa về đây ngay.
Trông anh có vẻ dữ tướng,
thế mà trao đổi qua vài câu nói, kết hợp với thái độ lại tỏ ra hiền, cởi mở. Vì
thế, tôi vồn vã:
- Anh bị bắt vì tội gì?
- Vượt tuyến!
Rồi anh ngửng lên, hất
hàm:
- Còn anh?
Tôi nói như đùa:
- Cũng vượt tuyến!
Anh mở to mắt, ngửng
lên nhìn tôi nữa. Để anh khỏi ngỡ ngàng, tôi tiếp:
- Nhưng từ Nam ra Bắc!
Anh càng ngạc nhiên hơn
nữa, anh ngừng xếp dọn, quay hẳn người ra hỏi:
- Anh thích chế độ xã
hội chủ nghĩa miền Bắc?
- Không những tôi không
thích, mà còn chống. Chứng cớ, tôi đang nằm trong nhà tù của họ.
Mặt anh cau hẳn lại,
dáng băn khoăn:
- Như thế nghĩa là…?
- Nghĩa là, tôi là
người của chính quyền Sài Gòn, đột nhập Hà Nội để hoạt động tình báo.
Anh có vẻ hân hoan ra
mặt. Buổi tối hôm ấy, chúng tôi trao đổi tâm sự để biết sơ lược về nhau. Anh
tên là Hoàng Hùng, 40 tuổi, quê ở Hải Phòng. Anh theo cách mạng từ ngày 19
tháng 8 năm 1945, Khi đó, anh 21 tuổi. Anh là bộ đội, năm 1958 chuyển ngành về
Bộ Tài Chính. Năm 1959, anh lập gia đình và hiện có hai con, còn nhỏ.
Muốn được thêm sáng tỏ
về anh, tôi hỏi tiếp:
- Như vậy, nguyên nhân
và động cơ nào khiến anh vượt tuyến vào Nam?
Mặt hiện lên nét đăm
chiêu, anh chậm rãi:
- Vấn đề nguyên nhân và
động cơ phức tạp lắm. Thong thả tôi sẽ kể cho anh nghe, vì nó không phải bắt nguồn
từ một điểm!
- Thế vì sao anh bị
bắt?
Vẻ mặt anh buồn buồn:
- Chỉ vì một anh bạn
muốn từ giã người yêu ở Vinh, nên câu chuyện bị lộ.
Tối hôm đó, tôi chỉ
biết sơ về anh như vậy, và anh cũng tỏ vẻ háo hức muốn biết một vài nét về tôi
cũng như về cả hội miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Anh Hùng lấy chiếc điếu
con con, gói thuốc lào và bao diêm, quay sang tôi hỏi:
- Bình có hút thuốc lào
không?
Thấy anh là một người
vui vẻ cởi mở, tôi cũng thấy vui vui. Hơn nữa, anh là một cán bộ đã theo Cộng
Sản tứ 1945, hẳn qua anh tôi sẽ hiểu thêm về Cộng Sản trong quá trình. Nghĩ như
thế, nên tôi cũng tươi nét mặt:
- Tôi chưa hút thuốc
lào bao giờ…..
Chợt tôi nhớ đã có lần
hút ở nhà lão chủ tịch Phong ở Kỳ Phương. Nhưng tôi không đề cập tới chuyện đó,
nói tiếp:
- Nhưng, để đỡ sầu, tôi
sẽ hút thử…..
Nói xong, tôi chồm sang
bên sàn của anh. Nhìn anh vê điếu thuốc lào cho vào nỏ điếu, dáng ngồi nghiêng
nghiêng, làm râu quai nón xồm xoàm vì mấy ngày không cạo. Nét mặt rắn rỏi, nói
lên anh là một con người đã có nhiều xông xáo trong gian khổ, hiểm nguy. Anh
bật diêm, đưa chiếc điếu lên miệng. Nhìn ngọn lửa que diêm bập bùng nhỏ to theo
điệu nhắp của từng nhịp hút “rẹt, rẹt, rẹt…..” Rồi cuối cùng, một tiếng rít dài
và nhọn lanh lảnh như tiếng con dế cái hứng lòng gọi bồ trong đêm khuya, làm
cho điếu thuốc chui tọt vào nõ điếu. Gân cổ căng lên, anh bỏ điếu xuống sàn,
nhắm mắt, ngửa mặt lên trần, miệng tròn như chữ “O”. Từ đấy, như một ống khói
tầu thuỷ chạy than, khói theo nhau tuôn ra, dẫy dọn, ngập ngừng lửng lơ bay lên
trần nhà, rồi tan loãng vào không gian… Ngực anh phập phồng, hổn hển, mắt anh
lơ mơ, đờ đẫn.
Ngắm anh, tôi chưa hút
mà cũng thấy lơ ngơ, dập dờn. Tôi vê một điếu và bắt chước anh. Nhưng, khi kéo
một hơi dài, tôi bị sặc, ho chảy cả nước mắt ra. Người cũng rần rật đê mê, ngây
ngất bập bềnh như bơi trên biển sóng.
Mải chuyện trò rao đổi,
tối hôm ấy, mãi khi chiếc loa “nghẹt thở”, chúng tôi mới đi ngủ. Anh nhìn sang,
thấy tôi không có mùng mền, quần áo gì cả, anh ái ngại bảo tôi:
- Hai anh em nằm quay
đầu ngược xuôi, chui vào mùng tôi ngủ đi, kẻo muỗi cắn chết!
Hơn một năm rồi, tôi đã
chịu được, nhưng vì lòng mến anh, tôi cũng chui vào mùng ngủ chung. Chiếc sàn
chỉ rộng 65 phân nên quá chật chội, trời lại nóng. Để khỏi ảnh hưởng đến giấc
ngủ của anh, tôi nằm một lúc rồi chui ra ngoài, về sàn mình. Tôi lại mần mò làm
thủ tục che muỗi như mọi khi.
Anh thấy tôi chỉ có cái
gối làm bằng mấy bó cuống chổi, liền ném cho tôi cái vỏ ba lô, giọng thương
cảm:
- Bình hãy lấy tạm cái
này gối đỡ!
Lòng tôi len lén dâng
lên một niềm xúc cảm. Tình nghĩa đùm bọc của người cùng một nước như ấp ủ hồn
tôi. Trước khi chìm vào giấc ngủ muộn, tôi miên man nghĩ ngợi. Anh và tôi,
trước đây đứng trong hai chiến tuyến đối lập. Vậy mà giờ đây, do những bối cảnh
của cuộc đời, do những thực tiễn của đất nước đẩy đưa, lại gặp nhau trong một
hoàn cảnh này, để rồi thể hiện lên như một chân lý về cái thiện mỹ của con
người cùng chung một quê hương, một dân tộc. Điều đó, cho phép tôi hiểu và tin
tưởng rằng, dù Cộng Sản dùng bất cứ hình thức nào, cũng không thể đổi thay được
bản chất chân chính của con người… Từ suy tư ấy, trong đầu tôi lạo lóe lên một
nét nữa: Một con người như Hoàng Hùng, với tội vượt tuyến, tại sao Cộng Sản lại
đưa vào nằm với tôi, một tình báo của miền Nam?
Tôi hiểu, chúng làm
việc gì cũng đều có nghiên cứu, nhất là những việc như thế này, lại càng cần
nghiên cứu kỹ lưỡng hơn.
Tôi băn khoăn lý luận,
phân tích, để ít ra dự đoán gần đúng như ý định của chúng. Nếu đúng như tôi dự
đoán, việc chúng đưa Hoàng Hùng vào nằm với tôi có phần tốt cho tôi. Chúng đánh
giá phần nào, tôi là một người tiến bộ theo hướng nhìn của chúng?
Tôi nhớ lại, trong một
lần đi cung đã lâu, chúng có hỏi vì sao tôi lại thích xã hội chủ nghĩa. Lúc đó,
tôi đã ngẫm nghĩ xem nói gì để chúng có thể tin được. Chúng đâu có phải tay mơ,
dễ qua mặt chúng, muốn nói gì thì nói được đâu! Phải có biện chứng “lô gích”,
hợp tình, hợp lý mới hòng làm cho chúng tin. Cuối cùng tôi đã nói với nội dung
như sau:
- Tôi thích xã hội chủ
nghĩa, không phải mới đây, mà đã từ xa xưa lắm rồi. Ngay từ lúc tôi còn là một
cậu bé 10, 12 tuổi. Tôi đã đậu bằng Tiểu học với hạng Ưu ở Huyện nhà, dưới
chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Những buổi đi cắm trại, những ngày hoạt
động thiếu nhi, tôi thường được đi chơi với rất nhiều anh bộ đội. Các anh ấy
cũng mến tôi, thường dẫn tôi đi chơi đây đó, có khi mang cả về đơn vị của các
anh ấy. Nhiều anh bộ đội “Cụ Hồ” luôn ngự trị trong một góc trái tim nhỏ bé của
tôi. Lớn lên, do cuộc mưu sinh, do những biến chuyển cuả đất nước, tôi ra Hà Nội,
rồi vào Sài Gòn. Một phần, hình ảnh anh bộ đội vẫn chưa mờ nhạt trong tôi; phần
khác, tư duy và kiến thức dần trưởng thành theo tuổi đời. Từ trước, tôi vẫn
ngưỡng mộ, cảm phục các nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tôi hiểu họ là những người
có nhiều kiến thức, uyên bác cổ kim. Họ tìm tòi, phát kiến ra nhiều tư tưởng
sâu sắc, có lợi cho nhân quyền xã hội, có lợi cho thời đại mới của loài người.
Họ là những người đi tiên phong, chỉ đường và hướng dẫn tư tưởng quần chúng.
Sau những biến thiên của đất nước, hầu hết các nhà văn, nhà thơ nhà báo đều ở
lại với chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, kể cả sau 1954. Còn ở miền Nam, chỉ
có một số cá biệt. Như thế, phải chăng chế độ miền Bắc là đúng, là chính nghĩa?
Từ những suy nghĩ đó, dù sau này, vì hoàn cảnh tôi phải làm việc cho chế độ
miền Nam, tôi vẫn có một phương châm như kim chỉ nam: “Nếu tôi không làm gì có
lợi cho chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng dứt khoát không bao giờ làm hại”.
Đấy là lý do tôi nêu
lên, khi chúng hỏi cung tôi. Rồi trong thực tế, với tên Hoàn, người chúng dùng
làm “khổ nhục kế” với tôi. Tên Phạm Huy Tân, loại chó chết cơ hội chủ nghĩa,
tôi cũng thường kể, hoặc nói những khía cạnh tiêu cực của chế độ Việt Nam Cộng
Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo.
Vậy bây giờ, đưa Hoàng
Hùng, một anh bộ đội lão thành, thích chế độ miền Nam, cho vào cùng buồng với
tôi,một người của chính quyền miền Nam. Cộng sản, tính lợi dụng tôi làm ruỗng
nát lòng mơ tưởng, của Hùng bằng những tư tưởng, mà chúng cho là tôi đã có?
Tôi nghĩ, chỉ có như
thế, mới giải đáp thỏa đáng trường hợp Hùng và tôi giam chung với nhau.
Sáng hôm sau, anh Hùng
dậy, sau khi hút thuốc lào, còn sờ và ngắm nghía cái cùm. Anh quay sang tôi:
- Tụi thực dân dã man
thực. Cùm người ta thế này, thì chỉ có chết thôi!
Nghe anh nói, tôi cũng
hơi băn khoăn. Một người Cộng Sản, hầu như cả cuộc đời chiến đấu, nằm gai nếm
mật, vào sinh ra tử trong hàng ngũ Cộng Sản, mà lại phát biểu như vậy ư? Không
gì bằng thực tế sẽ trả lời anh! Anh còn ở xà lim này, chỉ ít ngày nữa anh sẽ
nghe thấy tiếng cùm, tiếng khóa thôi. Nghĩ như vậy, tôi cũng chỉ nhìn anh, cười
không nói gì.
Cửa con xoạch mở, mụ
Hoa chỉ tay vào Hùng, bảo đi cung. Buổi trưa Hùng về, chiều lại tiếp tục đi
cung, mãi 5 giờ mới về. Sau khi cửa đóng, Hùng quay lại tôi, giọng ngạc nhiên:
- Này, Bình này, sao
nhiều tù thế nhỉ? Tôi đi qua sân trại chung, đầy tù?!
Ơ! Tôi mở to mắt ngạc
nhiên nhìn anh:
- Tôi tuởng câu đó phải
để tôi hỏi anh mới đúng chứ! Tôi là người của chế độ khác mới đến, anh phải
giải thích cho tôi điểm đó mới phải. Vậy, trước đây anh nghĩ thế nào?
Nét mặt Hùng rất thành
thật:
- Suốt cuộc đời, tôi ở
bộ đội, đến khi chuyển ngành công tác ở Hà Nội. Thỉnh thoảng trên đường phố,
tôi gặp dăm ba người mặc quần áo sọc, quét dọn ở đường, hoặc làm lao động nặng
nhọc ở một khu vực nào đó, do một anh công an coi. Theo hiểu biết và quan điểm
của tôi, dưới chế độ cách mạng, phải không có nhà tù nữa. Bời vì, khi cách mạng
dựng ngọn cờ khởi nghĩa, đánh đuổi thực dân, tuyên bố phá nhà tù để xây trường
học cơ mà. Nhưng bao giờ cũng vậy, trong một xã hội, tất yếu phải có người chưa
tự giác cao, có lúc gây ra tội lỗi, sai phạm. Đó chỉ là nhất thời, vậy chỉ cần
một số ngày giáo dục, một vài biện pháp bắt buộc lao động, cũng chỉ nhằm mục
đích giáo dục con người. Nhưng, ngay những số này, cũng rất là hạn hữu.
Ngồi nghe anh lý luận,
tôi càng khiếp sợ cho sự khéo léo, tinh vi của Cộng Sản. Một người như Hoàng
Hùng mà cũng chỉ như một con ngựa kéo xe, hai bên mắt bị che kín. Chỉ được nhìn
thẳng về phía trước, bảo đi là đi, bảo đứng là đứng. Tôi phải có trách nhiệm,
lựa lời dần dần cho anh biết thực tế. Nhưng bây giờ tôi chỉ nói với anh một
cách đơn giản:
- Thực tế sẽ hoàn toàn
không giống như anh đã nghĩ đâu! Tôi tin rằng những ngày tới, anh sẽ hiểu biết
nhiều hơn bằng những sự việc thực tế, và bằng mắt thấy tai nghe.
Anh về muộn, tôi đã lấy
sẵn cơm nước vào cho anh. Ăn xong, tên Tư mở cửa. Từ sáng, anh chưa được rửa
mặt, vì thế khi tên Tư sắp đóng cửa, Hùng tiến ra:
- Báo cáo đồng chí, cho
tôi ra rửa sơ cái mặt?
Tên Tư quắc mắt nhìn
Hùng:
- Từ nay, tôi cấm anh
không được gọi tôi là đồng chí! Anh là một người tù, không ai là đồng chí với
anh cả, nghe chưa!
Hùng mở to mắt ngạc
nhiên, hai quai hàm bạnh ra, cuối cùng nuốt hận, Hùng chỉ nói:
- Xin lỗi, tôi quên!
Lúc vào ngồi, Hùng có nét
đăm chiêu.
Qua một thời gian, tôi
được biết rõ về Hùng như sau: Anh là con một gia đình giầu có ở Hải Phòng. Đang
học Trung học thì tiếng súng ngày 19/9/1945 bùng nổ. Với bầu nhiệt huyết của
người con trai Việt, chỉ biết yêu nước, yêu dân đơn thuần. Anh đã theo tiếng
gọi của núi sông, thoát ly gia đình, cầm súng giết giặc để bảo vệ quê hương.
Anh nhiệt tình hăng say học tập, chiến đấu nên ngay cuối tháng 12/1945 anh đã
là Tiểu đội truởng trong Trung Đoàn Thủ Đô. Đơn vị anh đã giành giật với thực
dân Pháp từng khu phố của Thủ Đô năm 1946. Cuối cùng, sau khi rút lui về chiến
khu, anh đã nổ lực chiến đấu vào sinh ra tử bao nhiêu chiến trường. Hết ở đồng
bằng, lại Đông Khê, Cao Bắc Lang. Biên chế đổi thay hết: Từ Sư ”312”, Sư Đoàn
Đồng Bằng, tới Sư “320”, v.v… Cuối cùng là chiến dịch Điện Biên. Chính Đại Đội
anh đã cắm lá cờ đỏ sao vàng lên nó hầm tướng De Castrie. (Ngay từ cuối 53 đầu
54, chính phủ, bộ quốc phòng Pháp đã gắn lon Thiếu Tướng cho De Castrie, bằng
cách từ trên máy bay thả lon, xuống ngay chiến lũy Điện Biên).
Bao nhiêu bạn bè đồng
lứa với anh lúc đầu, lần lượt nằm xuống hết cho quê hương. Còn sót người nào,
ngày nay không là “D” Trưởng, cũng là “E” Phó. Bản thân anh, cao nhất cũng chỉ
là “D” Phó, tức Tiểu đoàn phó. Mãi tới khi chuyển ngành năm 1958, anh cũng vẫn
là “D” Phó. Chỉ vì, suốt quá trình, anh vẫn có cái đuôi là con tư sản. Do thái
độ trong học tập, cũng như trong sinh hoạt tổ chức, anh càng bất mãn, nên đôi
lúc cũng có thái độ bất cần.
Anh tâm sự:
- Bình thử tưởng tượng
xem, những ngày họp đảng, họp tổ v.v… Ngay các chiến sĩ dưới quyền mình đi đâu
cũng không thèm cho mình biết. Rồi cứ nhỏ to thầm thì chuyện này, chuyện kia.
Mình có hỏi đến, chúng nó trả lời việc này đồng chí không nên biết. Mình là
thằng chiến đấu chịu đựng biết bao gian khổ. Bao nhiêu lần tưởng tan xương nát
thịt, may nhờ hồng phúc nhà mình, còn sống sót, thế mà bị đối xử phân biệt,
Bình nghĩ có hận không?
Không phải một mình
tôi, một số người nữa cũng bị như tôi. Cho nên, khi Sư đoàn tôi về tiếp quản
Thủ Đô 10/10/1954, từ địa điểm xuất phát vùng Tây Bắc, trên đường về chúng tôi
bắn phi đạn như mưa, gặp cây cối, núi rừng hai bên đường, đều bắn chơi. Tôi
ngày càng chán chường, nên có những hành động tiêu cực, chểnh mảng trong học
tập. Cũng như trong công tác. Mãi đầu 1958, tôi xin chuyển ngành mới được về
công tác ở Bộ Tài Chính, làm phó phòng điều hành. Năm 1959, tôi lấy em gái một
người bạn hiện nay là Tiểu đoàn trưởng. Ngay ở Bộ Tài Chính, hiện tượng đối xử
phân biệt với tôi cũng vẫn thế. Bởi vậy, tôi đi làm là phải đi làm, nhưng làm
sao hăng hái tích cực được nữa.
Trong số những bạn bè
quen biết thời gian công tác ở Hà Nội, có một anh là sinh viên Văn Khoa năm thứ
hai, thời trước 1954. Sau bị đuổi khỏi trường, ngày ngày lang thang cùng mấy
người bạn làm sơn mài, mà vẫn đói rách không đủ ăn. Trong quá trình quan hệ, dọ
dẫm, thử thách, khi hiểu về nhau, chúng tôi đã có lần nhen nhúm tư tưởng đi
Nam. Chúng tôi tìm hiểu, nghe ngóng một thời gian, thấy rằng: Sài Gòn, cũng như
Hà Nội trước 54, là một xã hội đầy dẫy thối nát, với toàn loại chính khách xôi
thịt đớp hít, chỉ lo cho gia đình cũng như bản thân làm sao được “vinh thân phì
gia”. Còn nói đến quê hương dân tộc, chỉ nói đến ở cái mồm. Nhưng, từ ngày cụ
Ngô Đình Diệm về nước, Sài Gòn đã đổi khác. Cả cuộc đời cụ đã lo cho nước, cho
dân. Cụ đem ấm no hạnh phúc lại cho người dân thực sự, vì vậy dân tin, dân yêu.
Mọi người dân miền Bắc, khi Cộng Sản đến tuyên truyền đã không còn nghe theo
lời chúng nữa. Vấn đề đã làm cho Bộ Chính Trị Trung Ương đảng điên đầu. Dân
chúng thường thầm thì bàn tán, ít nhiều mang trong lòng niềm hy vọng hướng về
Nam. Do đó, chúng tôi hoạch định một đường hướng, rồi quyết tâm ra đi, bỏ cả vợ
con lại, khi nào về giải phóng hãy hay.
Từ đó, tôi lại tỏ ra
tích cực trong công tác. Đồng chí Bộ Trưởng là bộ đội cũng chuyển ngành, có sự
đồng cảm nên rất thương và tin tưởng tôi. Tôi thường được giữ một số giấy phép
cấp cho cán bộ hàng tháng đi công tác, có đóng dấu và chữ ký sẵn của Bộ Trưởng.
Tôi lấy 3 cái, điền tên của anh bạn và tôi vào công tác ở Vĩnh Linh, để giải
quyết một số vấn đề về tài chính. Chúng tôi hẹn ngày, giờ ra đi. Khi tới Vinh,
anh bạn còn vào gặp một người yêu ở đấy. Trong lúc từ giã yêu thương, thế nào
đó, anh đã thổ lộ mọi chuyện với người yêu. Cô này lại là công an mật, nên khi
chúng tôi lên xe vào Vĩnh Linh, công an đến xét hỏi giấy tờ và bắt về đây…..
Những ngày không đi
cung, những buổi tối nằm không, tôi thường gợi chuyện anh. Anh cũng mến tôi,
nên anh đã kể lại cho tôi nghe bao nhiêu trên đánh ly kỳ. Bao nhiêu câu chuyện
ngộ nghĩnh của một số Tướng, Tá trong bối cảnh phức tạp của vùng núi rừng chiến
khu Việt Bắc.
Anh Hùng, thường ngày
vẫn đi cung liên tục, đôi khi cũng có ngày không gọi. Anh rất thích nghe chuyện
miền Nam. Anh tỉ mẩn hỏi giá từng ký gạo, cân thịt bò, cho đến rau cỏ và những
sinh hoạt thông thường của xã hội miền Nam. Tôi chỉ cần trung thực kể lại cho
anh nghe những điều gì tôi biết. Nhiều cái anh không thể tưởng tượng được.
Nhưng sự thật bao giờ cũng có hồn, có giá trị nội tại của sự việc. Vì thế, ngồi
nghe tôi nói, anh càng tỏ chán chường ghê sợ đời sống lầm than, cơ cực như con
vật của đồng bào miền bắc. Tôi thường kể cho anh nghe một vài nét diễn tiến
chính, của xã hội từ ngày cụ Ngô Đình Diệm về nước. Tuy vậy, tôi chưa dám nói
những điều gì sâu sắc của cá nhân mình, cũng như của chế độ miền Nam. Tôi định
rằng, chưa vội, hãy dần dần tùy theo điều kiện. Mục đích, giúp anh nhận chân rõ
được bản chất, của từng sự việc và phần nào thực trạng, của đất nước.
Những lúc anh đi cung,
anh thường để diêm và thuốc lào mời tôi hút tự do. Bấy giờ, mỗi ngày tôi hút 3
điếu, và cũng chính do anh Hùng mà tôi đã biết, hút thuốc lào từ đó. Mấy bữa
nay đi cung về, hình như có nhiều điều suy nghĩ căng thẳng, anh ít nói hẳn đi.
Tối, anh thường mắc mùng đi ngủ sớm, kêu nhức đầu. Tôi hiểu anh đang gặp khó
khăn, sự việc của anh có điều căng thẳng. Do ý thức tế nhị chưa muốn đi sâu vào
sự việc của anh. Tôi tính mai kia dần dần sẽ lựa lời thăm hỏi, để nhân đó phần
nào góp ý giúp anh chăng.
Anh vào đây đã được
ngót một tháng rồi, vợ con anh vẫn chưa được gặp. Chiều nay, cũng như mọi khi,
tôi đang ngồi buồn bâng khuâng suy nghĩ, chờ anh đi cung về, để biết diễn tiến
cung kẹo của anh. Bát cơm của anh tôi đã lấy vào, vẫn lạnh lẽo chơ vơ trên cái
cùm ở cuối sàn anh. Cửa mở, anh Hùng đi cung về, tôi thấy anh lách cửa vào, mặt
đỏ dừ, hai môi mím chặt. Tôi chưa kịp hiểu và có thái độ gì, đã thấy tên Tư mặt
hầm hầm rút chốt cùm. Y bảo Hùng chuyển bát cơm từ chỗ cái cùm lên phía đầu
nằm, rồi y nhấc nửa trên cái cùm lên, trong khi Hùng mặt tím bầm, ngồi ghệ ở
sàn. Tên Tư quát:
- Bỏ chân vào!
Hùng lừ lừ nhấc một
chân cho vào. Tên Tư quát tiếp:
- Bỏ cả chân kia nữa!
Mặt Hùng lại biến sang
đỏ. Tôi hiểu anh bị một áp lực nào đó, kìm hãm ghê lắm. Không nói năng gì, anh
bỏ nốt chân kia.
Tôi chưa hiểu nguyên
nhân nào khiến tên Tư có vẻ căm hận Hùng. Y nhấc cao chân, rồi đạp mạnh vào nửa
cái cùm trên, cho dập mạnh xuống. Sắt trên sắt dưới dập mạnh vào nhau, đồng
thời người của Hùng cũng giật lên một cái. Tôi nhìn chỗ cùm, thấy một giòng máu
đang rỉ chảy từ trên cùm xuống sàn. Tôi hiểu rằng, khi Hùng cho chân vào, chân
đã to, anh lại vô ý để bắp chân nằm bè ra mép lỗ. Vì vậy, khi hai nửa cùm dập
lại, thì bắp chân anh bị dập đứt. Tên Tư, coi như không thấy, ra chốt cùm rồi
đóng khóa cửa lại.
Hùng không nói một lời,
mắt nhắm nghiền, nằm ngửa, mặt lại tím bầm.
Tôi suy nghĩ, tội vượt
tuyến đâu đến nỗi cùm như vậy! Có thể, do sự phẫn uất của một người đã hiến
dâng cả một đời cho chế độ, bây giờ lại bị đối xử không ra gì, nên anh Hùng đã
thể hiện thái độ căm phẫn nào đó đối với chúng chăng? Tôi cũng không ngờ sự
việc, đã trả lời cho câu hỏi của anh, khi mới vào xà lim này, về “cái cùm của
thực dân Pháp”, lại quá đầy đủ như vậy. Giòng máu từ chân anh đã đọng lại, nhưng
anh vẫn nằm yên. Tôi thấy không đành lòng, bước xuống để một tay lên vai anh:
- Anh Hùng! Hãy cố gắng
gượng ngồi dậy, ăn tí cơm đã!
Anh chỉ lắc đầu, không
nói một lời, thái độ tỏ vẻ đừng quấy rầy anh. Tôi hiểu, anh lớn tuổi hơn tôi
nhiều, anh đang có những suy nghĩ quyết liệt của đời anh. Tôi phải tôn trọng
những phút riêng tư thiêng liêng ấy, thong thả sẽ nói chuyện với anh sau. Tôi
về chỗ mình, cũng buồn, nghĩ thương cho một đời của anh. Bao nhiêu công lao
sinh tử, để rồi bây giờ là đây?
Cửa con xoạch mở! Mặt
tên Tư. Y đóng cửa con lại, mở cửa lớn. Đứng ở giữa cửa, y quát to:
- Anh có ăn cơm không?
Hùng vẫn cứ nghiến
răng, nhắm mắt nằm yên. Tên Tư, quay sang tôi gằn giọng:
- Mang bát cơm ra
ngoài!
Tôi thấy rất ngại ngần,
nhưng mình là tên tù, tôi đành chậm chạp cầm bát cơm đưa ra. Y đóng cửa đến
“xầm” một cái.
Tiếng chiếc loa lại léo
nhéo vang lên, hết giờ làm việc. Tôi về sàn ngồi, lòng cũng không yên. Ngồi
mãi, rồi tôi cũng nằm xuống nhắm mắt, nghĩ ngợi miên man. Đến chừng 6 giờ
chiều, giọng ồm ồm của anh Hùng bỗng vang lên:
- Bình! Hãy mắc giúp
tôi cái màn!
Tôi ngồi dậy, quay sang
anh. Anh nói mà mắt vẫn nhắm nghiền. Tôi lục cái màn của anh trên đầu sàn, tìm
mấy cái lỗ ở trên tường loay hoay mắc màn cho anh. Tôi hơi lúng túng, hơn một
năm ở xà lim, vì không có màn nên cũng chẳng để ý. Tường không có đinh, chỉ có
những lỗ nhỏ. Những người trước đã khoét lỗ vào tường, lấy sợi dây nhỏ, thắt
nút thành một cục rồi nhét vào lỗ và lấy cơm phết chặt, khô đi rất cứng, chắc.
Còn đầu sợi dây, bẻ một đoạn chổi thanh hao chừng 2, 3 phân buộc lại, thành cái
khuy để mắc màn. Mãi tôi mới mắc xong màn cho anh. Tôi cũng hất đuôi màn, che
hết cả chân anh.
Mọi khi cũng giờ này,
trước khi đi ngủ, tôi bắn một điếu thuốc lào cho say sưa rồi đi nằm. Nhưng bữa
nay, anh đang trong tình trạng như thế, tôi cũng chẳng còn lòng dạ nào để say
sưa. Ngồi mãi một mình cũng buồn, mới 8 giờ tối. Tôi cũng chuẩn bị những thủ
tục che muỗi của tôi để đi ngủ.
Tôi nằm, nhưng không
sao ngủ được. Tôi nghĩ đến chân anh Hùng to, tuy người anh khỏe, nhưng làm sao
nằm ngửa mãi được. Tôi hiểu rằng, anh cũng không bị cùm lâu đâu, nhiều lắm cũng
chỉ một tuần. Chân anh quá to, anh sẽ khó xoay sở để ỉa đái dễ dàng như tôi
được. Hơn nữa, tôi biết anh cũng không thể chịu đựng được lâu. Tôi cứ nằm trằn
trọc vơi đầy bao nổi niềm về cuộc đời, về đất nước. Thân anh Hùng đã vậy, thân
mình cũng tái tê trăm ngả thương đau. Tiếng loa tắt ngấm đã lâu, có lẽ cũng hơn
11 giờ rồi.
Tôi bỗng nghe tiếng
khìn khịt, như tiếng một con gà bị cắt tiết. Tôi vội nằm xoay người lại, liếc
sang màn anh Hùng. Dưới ánh đèn 40 watts ở giữa trần, tôi cố căng mắt nhìn qua
lần vải thưa của chiếc màn, đã ngả mầu vàng của anh. Tôi thấy mờ mờ một mầu đỏ
xậm lan to dần chỗ ngực, trên lần vải áo “may ô” anh vẫn mặc. Tôi hiểu, anh qua
phẫn uất và chán chường cảnh đời lầm than, khổ đau của anh, nên anh tự tử. Tôi
cho rằng, có thể anh có một cái đinh, thọc mạnh vào mạch máu; hoặc, anh ghé
răng cắn những mạch máu ở cổ tay. Chứ trong xà lim, lấy cái gì ra để tự tử
được!
Tôi cũng suy nghĩ, dù
sao trước đây, trong những năm tháng miệt mài hăng say lập công với Cộng Sản,
ít ra anh Hùng cũng đã làm ngã gục nhiều người lính chiến, mang trong mình dòng
máu Quốc Gia chống Cộng Sản. Vậy, cần để anh thấm thía những sai lầm anh đã
làm, để anh thấm đậm hơn “chính nghĩa bịp bợm” của cái gọi là “cách mạng nhân
dân” mà anh đã từng phục vụ. Từ ý nghĩ đó, tôi vẫn nằm yên như ngủ say.
Nhưng, những tiếng phì
phì như tắc nghẹn của anh, đã làm tôi lại phải mở mắt liếc sang. Giòng máu đỏ
đã loang ra đến ngoài màn, chảy xuống nền nhà thành một vũng. Tôi không thể nằm
được nữa rồi. Ngồi bật dậy, tôi bước chân xuống đất, chồm sang bên sàn anh. Tôi
nhấc màn lên. Máu đỏ lòm, ướt đẫm chiếc áo may ô và một khoảng chiếc chăn bộ
đội. Mắt anh vẫn nhắm nghiền, mặt anh xám ngoét. Tôi xúc động, lay lay tay anh:
- Anh Hùng! Tại sao anh
làm thế? Anh không được chết, người đáng chết là tôi đây này. Anh còn phải sống
vì trách nhiệm với vợ anh, con anh, và cần sống để nhìn rõ được nhiều sự thật,
mà trước đây mơ hồ.
Anh vẫn nằm im, không
nói gì với tôi cả. Không làm sao được nữa, tôi vội đứng lên sàn, ngửa mặt ra
ngoài phía cửa sổ, gào to:
- Báo cáo cán bộ, buồng
2 có người tự tử!
Im lặng. Bên ngoài chỉ
có tiếng gió rì rào của đêm thâu. Tôi lại gào lên lần nữa. Vẫn im lặng. Lần
này, tôi cho miệng ra sát cửa sổ. Mới mở miệng hô “Báo Cáo…” Chưa hết câu, cửa
con đã xoạch mở. Giọng một người lạ:
- Cái gì?
Chắc gì đã nhìn thấy
vũng máu còn đỏ xậm dưới nền nhà, dù vậy tôi vẫn nói và chỉ tay sang phía màn
anh Hùng:
- Anh này tự tử…
Tiếng chìa khóa lẻng
xẻng mở cửa. Một người lạ mặt mặc thường phục, tôi chưa thấy bao giờ, khẩu súng
ngắn đeo trễ một bên hông. Y vào, nhấc cái màn, rồi y nhìn xuống hai cái chân ở
trong cùm cũng có máu đã đen xậm. Y vội vàng ra, đóng cửa lại. Khoảng 5 phút .
Hôm nay, tôi mới lại thấy mặt tên Thế, cái tên khốn nạn đã đánh tôi khi tôi mới
vào xà lim năm ngoái. Y còn đang mặc quần đùi, cởi trần.
Chúng rút cùm, nhấc hai
chân anh Hùng ra, và giật cái màn xuống. Ngoài cửa đã có cái băng ca bằng gỗ.
Tên mặc thường phục, hất chân của anh Hùng ra. Bây giờ tôi mới nhìn rõ, tay
trái của anh: cổ tay và khủy tay đều rách nát, đầy máu. Trên cổ anh, ngay chỗ
yết hấu, mấy cái bong bóng máu to nhỏ bám ở vết cắt vẫn phập phồng. Tên Nhiễm
đã tìm thấy, giơ lên một lưỡi “lam” mỏng. Tên Nhiễm cầm hai tay anh Hùng, tên
Thế hai chân, khênh ra ngoài cửa. Tới cửa, quay lại tôi Nhiễm nói:
- Tất cả những vật dụng
gì của anh ấy, anh bỏ ra!
Tôi thu gọn hết, cả cái
điếu con, diêm và thuốc lào. Trong lúc quá vội vàng, nên thứ gì của anh Hùng
tôi cũng vơ gọn lại. Sau này, tôi tiếc cái điếu và thuốc lào mãi.
Buồng tanh ngòm! Tôi đề
nghị tên Nhiễm cho tôi lấy một bô nước dội. Sau khi thấy y gật đầu, tôi chạy ra
làm 3 bộ nước dội lên sàn và dưới nền. Xong việc, chúng đóng cửa và khóa ngay,
lúc đó đã 12 giờ đêm. Tôi lấy chổi quét nước trên sàn xuống, rồi quét nền cho
nước chảy xuống một cái lỗ nhỏ dưới nền nhà, chỗ sát tường phía đầu nằm. Đêm đã
khuya, vắng lặng, trong buồng vẫn sặc lên mùi tanh của máu! Từ đó, tới lúc có
tiếng loa, tôi cứ thấp thỏm không làm sao ngủ được. Chẳng hiểu anh Hùng sống
hay chết!
Tôi đoán rằng, trong
lúc chúng khám, khi anh mới vào Hỏa Lò, anh vẫn giấu được một lưỡi “lam” chắc
để cạo râu. Vì là tôi vượt tuyến, đâu chúng khám kỹ như khám tôi. Tôi cứ triền
miên nghĩ ngợi, hết ngả nọ đường kia, chợt nhìn đến cái vỏ ba lô anh cho tôi
mượn để gối đầu, vẫn còn đây. Hồi đêm vì quá khẩn cấp và căng thẳng, tôi quên
khuấy đi. Ngày mai, tôi sẽ báo cáo cán bộ để trả lại anh. Với miền Bắc, đó cũng
là một tài sản quý giá. Một ý nghĩ nữa lại lóe lên trong óc tôi. Để biết rõ anh
ra sao, cứ để 2, 3 ngày nữa hãy báo cáo. Như vậy, trong thời gian đó, nếu cán
bộ đến hỏi cái ba lô, có nghĩa anh Hùng không sao cả, nên đã nhờ cán bộ đến lấy
lại. Ngược lại, nếu mấy ngày nữa, không thấy gì, tôi báo cáo trả mà cán bộ cầm
đi, anh Hùng cũng vẫn còn sống. Tuy rằng không chắc chắn lắm, nhưng như vậy
cũng ang áng đoán được sự việc.
Mấy hôm sau, tôi thật
là thèm thuốc. Thèm thuốc, lại nhớ đến anh Hùng. Một buổi, sau khi tôi trả bát
xong, lúc tên Tư sắp đóng cửa, tôi cầm cái ba lô, tiến ra trước mặt y:
- Báo cáo cán bộ! Anh
Hùng, mấy hôm trước nằm ở đây, thấy tôi không có cái gì gối đầu, anh đã cho tôi
mượn để gối. Đêm hôm anh ấy tự tử, vội quá tôi quên trả, xin gửi cán bộ để trả
lại cho anh.
Y nhìn cái vỏ ba lô
bằng vải bộ đội, cũng đã cũ, một phía túi đã rách, đoạn thủng thẳng:
- Thôi, cho anh!
Tôi lộ vẻ băn khoăn:
- Thưa ông, cái này của
anh Hùng, chắc gì anh đồng ý cho tôi?
Y hất tay đuổi tôi vào,
vừa đóng cửa vừa nói:
- Tôi nói cho là cho!
Đừng nói nhiều!
Cửa đóng rồi, tôi vẫn
đứng cầm cái ba lô ngẩn ngơ, bần thần. Như vậy, anh Hùng đã chết thật rồi ư? Vợ
anh, con anh ở đâu, có biết gì không? Anh Hùng ơi! Còn bao nhiêu điều nữa tôi
định nói với anh, và cũng còn bao nhiêu điều nữa tôi muốn hỏi anh. Thế mà, anh
đã vội vàng bỏ hết, bỏ cả vợ dại con thơ, để ôm một mối uất hờn, oan nghiệt ra
đi…..
Tự nhiên, tôi buông một
tiếng thở dài nhè nhẹ, lê thê như lời than vãn não ruột, cho một kiếp người vô
nghĩa.
Chuyện của anh Hùng làm
cho tôi hàng tuần lễ, đêm nào cũng thấp thỏm ngủ không yên. Thỉnh thoảng, những
lúc giật mình thức giấc, tôi lại liếc sang sàn bên. Hình ảnh anh Hùng nằm thẳng
cẳng, hai mắt nhắm nghiền, hai chân trong cùm, máu me bê bết như mới vừa đây…..
39. Mùa Đông Thứ Hai…
Sáng hôm nay, tên Bằng vào gọi tôi đi cung sớm. Phòng cung
chỉ có tên Nhuận. Ngay khi nhìn thấy tôi, y tỏ vẻ tươi cười niềm nở. Sau khi
chỉ ghế cho tôi ngồi, y săn đón hỏi:
- Hôm nay tôi gặp anh,
chắc anh sẽ cho tôi biết nhiều điều mới lạ! Tôi tin là hơn nửa tháng nay, anh
đã suy nghĩ kỹ để nhìn thấy vấn đề rồi. Bây giờ, tôi để anh tự do nói, anh hãy
mạnh bạo nói đi! Chính anh đưa tay ra mở cửa, cho anh vào tương lai đó!
Ngồi nghe y nói, tôi tỏ
vẻ rất khổ tâm và đau xót. Khi y giục, tôi mới tỏ thật nỗi tuyệt vọng của mình:
- Thưa ông, lâu không
được gặp các ông, tôi vẫn hy vọng rằng các ông và nhà nước đã xác minh được
lòng thành khẩn cùa tôi với cách mạng. Thế nhưng, bây giờ ông lại bảo tôi mở
cửa vào tương lai, thì tôi còn biết làm sao được nữa! Và như vậy, nhà nước vẫn chưa
kết luận được sự việc của tôi. Đã hơn một năm rồi, tôi mòn mỏi đợi chờ.
Y không cười nữa,
nghiêm giọng:
- Thôi được, chúng tôi
vẫn sẵn sàng mở cửa chờ đón anh, cách mạng luôn luôn giang tay cứu vớt những
con dân bị lầm đường lạc lối. Muộn còn hơn không! Bây giờ, anh hãy nói lại chi
tiết, tả tỉ mỉ ngôi nhà tranh ở Cầu Cống, nơi tên Hòa đã huấn luyện anh.
Ngồi nghe y nói, trong
dạ tôi cũng hơi lo. Qua tấm ảnh Phan và tôi chụp chung, chắc chắn chúng có
người của chúng trong ấy. Bây giờ, tên Nhuận bắt tôi tả lại, như vậy có nghĩa
là chúng có thể thẩm tra xác minh. Nhưng đã trót khai trước đây nhiều lần, tôi
thường lấy nhà một người Tầu bên Chợ Lớn mà tôi quen biết. Tôi đã đến chơi mấy
lần nên nhớ để tả, còn không gian là ngõ Cầu Cống, Khánh Hội; do đó, lúc này
tôi chỉ việc moi óc nhớ lại toàn cảnh nhà người Tầu đó để ghi lại. Tuy vậy,
trong lòng tôi cũng đầy băn khoăn lắng lo. Tôi nói, nó ngồi ghi, chỗ nào chưa
sáng tỏ nó hỏi lại. Mãi gần hết giờ, nó mới cho về.
Ngay chiều đó, lại gọi
nữa. Khi tôi ra tới nơi, y đưa cho tôi 5 tờ giấy, chỉ cái bàn con ở góc phòng:
- Anh hãy ngồi viết tỉ
mĩ chi tiết: dụng cụ, đồ đạc…bên trong nhà, bên ngoài nhà. Đường đi từ Khánh
Hội vào. Rồi một tờ, anh hãy vẽ một sơ đồ, có chú thích từ phía Sài Gòn sang
qua cầu Khánh Hội, cho tới ngõ ngôi nhà đó.
Tôi cầm giấy về chỗ bàn
con ngồi, óc căng ra. Phải chăng đây là khúc nút, để chúng sẽ cởi tung toàn bộ
sự việc ra? Tôi đã suy nghĩ, đào sâu, xét kỹ, nhưng thấy không còn cách nào cả.
Mà một khi tôi đã hiểu là không còn cách nào khác, chỉ còn một con đường duy
nhất trước mặt, tôi sẽ đường hoàng dấn bước. Bản sơ đồ, thoáng trông có vẻ rõ
ràng chi tiết, đường nét sáng tỏ, nhưng nếu đi vào thực tế, chỉ có mù trời. Tôi
vẫn để những kẻ hở để phòng hờ sau này.
Chiều về tới xà lim,
tôi thấy cửa buồng đang mở. Tên Tư đang cầm mấy miếng vải sọc ở cái quần rách
của tôi. Thấy tôi về, y sừng sộ hỏi:
- Những mảnh vải này,
anh xé ở đâu ra?
Thấy thái độ của lão
như thế, tôi hơi ngạc nhiên trình bầy:
- Thưa ông, đấy là ở
một bộ quần áo cũ, trại phát cho tôi một năm trước, khi tôi mới vào. Nó đã bở,
rách cả hai đầu gối, đũng quần cũng đã bục ra. Tôi phải xé từ đầu gối làm khăn
mặt, còn phía trên tôi làm quần đùi, thay đổi lúc mặc trong buồng.
Vừa nói, tôi vữa cởi
giải rút quần, chỉ quần trong cho y xem.
Đến đây, phản xạ cấp
thời cho tôi hiểu là chúng đang tìm cớ để cùm tôi. Gần hai tháng nay rồi, hàng
ngày tên Tư coi tôi, y còn lạ gì hàng ngày, tôi vẫn mặc chiếc quần đùi rách đi
đổ bô, cũng như ra vào lấy cơm, sao y không hỏi. Đến hôm nay, tôi đi cung, chắc
y đã được lệnh đến buồng, tìm một lý do để cùm tôi. Các mặt khác thuộc về nội
quy, tôi không sai phạm. Không còn cớ gì, chỉ còn cái quần rách. Quần, vải đã
cũ, ở xà lim đã hơn một năm, mùa Hè thường phải mặc đêm, mồ hôi ướt đẫm, lại
không được giặt thường xuyên, như vậy, làm gì không mục!
Thế là y ghép tôi vào
tội phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa. Y ra rút cùm, bắt tôi bỏ chân vào. Ôi
thân tù, chúng làm thế nào chả phải chịu! Tôi đành phải bỏ chân vào mà lòng tái
tê, héo úa.
Y xách cả mấy miếng vải
hôi hám, mốc meo của tôi đi. Như thế là mới thả cùm chừng gần một tháng, giờ
lại cùm.
Lại gian khổ bắt đầu.
Trời đã cuối tháng 8, vào Thu, cuộc sống của tôi ở trong tù lại bắt đầu…mất ”tự
do”. Lại những ngày dài tăm tối với chiếc cùm oan nghiệt, heo hút, cô đơn. Cứ
ngày này, qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, và tháng này qua tháng khác,
bao nhiêu đau thương tủi cực chất chồng, mò mẫm lặn lội trong vũng bùn đời…lao
lý.
Chiều hôm đó, sau giờ
tan tầm chừng một lúc, các cán bộ đã lấy hết xe ra về. Cảnh sinh hoạt của Hỏa
Lò đã vào giờ vắng lặng, chỉ còn tiếng loa léo nhéo đều đều như mọi khi. Chợt
tôi nghe tiếng huyên náo, ồn ào của một tốp người, từ phía cổng Hỏa Lò đi vào
phía cổng trại chung. Tiếng tên Nhiễm cao giọng:
- Sao hôm nay về muộn
thế?
Rõ ràng tiếng tên Tân
trả lời, giọng thổn thức:
- Báo cáo cán bộ, bây
giờ tòa mới xử xong!
Giọng tên Nhiễm gằn
mạnh:
- Các anh oan lắm sao,
còn khóc? Các anh mang theo những cái gì vào đấy?
Một vài tiếng xụt xịt,
tiếng hỉ mũi, rồi một giọng nói như rên:
- Báo cáo cán bộ, có
mấy gia đình vợ con lên, cho ít quà…
- Anh là Chương à? Anh,
tòa xử bao nhiêu năm?
Một giọng khàn khàn
nghẹn ngào:
- Báo cáo, chung thân!
- Thế anh kia bao nhiêu
năm?
Giọng ồm ồm:
- Báo cáo, 20 năm!
- Còn anh này?
Tiếng tên Tân nói trong
nức nở:
- Báo cáo, 15 năm!
Tiếng tên Lê từ trên
gác phía ngoài cổng, nói vọng vào:
- Đồng chí Nhiễm cho họ
vào đi, rồi lên đây tôi nhờ chút việc!
Những bước chân xào xạo
lẫn với những tiếng xụt xịt của hàng chục người đi qua cổng, nhỏ dần rồi mất
hút. Lòng tôi vẫn còn ngỡ ngàng suy nghĩ về tên Tân, đến lời nhận định về vụ án
của y, khi tôi hỏi:
“Có thể tôi không phải
ra tòa. Nếu có ra, cũng từ 2 đến 3 năm là cùng!”.
Ngây thơ như thế, nên
các cậu khóc là phải rồi! Chủ quan, rồi bị quật một đòn mới choáng váng như búa
bổ. Âu đây cũng là một sự việc, để tôi suy ngẫm sau này…..
Thấm thoát, trời lại
chuyển sang Đông. Những ngón chân, ngón tay của tôi lại bắt đầu sưng nhức. Cứ
mỗi độ Đông về, đời tôi càng cay đắng!
Sáng hôm nay, tiếng loa
vừa ngừng bặt, giờ làm việc đã đến. Tiếng tên Lê phó giám thị ầm ầm quát tháo
với vẻ rất bực bội, đang đi dần vào phía cổng trại chung, nơi có một số cán bộ
mới tới, đang buộc khóa xe đạp. Giọng tên Lê dội lên đanh đanh:
- Hôm qua, đồng chí nào
lấy xe đạp của tôi đi?
Một giọng rụt rè trả lời:
- Báo cáo đồng chí…hôm
qua quả tình…..tôi không ra phố. Có lẽ đồng chí Thế?!…..
Lê càng bực tức:
- Các anh lấy xe không
bao giờ hỏi tôi cả. Cứ mỗi lần tôi đi, lại thấy xe không mất “má” phanh, cũng
xỉ lốp; không bẹp chắn bùn, cũng đứt dây phanh…..Tôi đi sửa xong, mấy bữa sau,
lại tình trạng ấy. Khóa rồi, vẫn mở đi!
Có tiếng cười rúc rích
nho nhỏ, tiếng tên Lê gào lên hồng hộc:
- Tôi nói cho các anh
biết là, chưa phải giai đoạn Cộng Sản chủ nghĩa đâu nhé! Lần sau, anh nào lấy
xe đừng trách tôi!
Qua mẫu đối thoại trên,
tôi thấy lũ cán bộ này, từ tên Lê trở xuống, trong tâm tư vẫn mang một niềm tin
về viễn ảnh rực rỡ, hào quang ngày mai của chủ nghĩa Cộng Sản. Từ đấy, tôi cũng
thấy được tâm trạng chung của chung của quần chúng nhân dân và cán bộ miền Bắc
trong giai đoạn đó (1963). (Tôi không nói những trướng hợp cá biệt), vẫn chưa
nhìn rõ chiếc bánh mầu sắc huy hoàng rực rỡ, mùi vị thơm ngon tuyệt thế của chủ
nghĩa Cộng Sản, chỉ là chiếc bánh vẽ. Họ chưa thấy được rằng, cái “thiên đường
Cộng Sản” ấy, không bao giờ có thể hiện thực, trong xã hội loài người này cả.
Thực tế biện chứng như toán học: A cộng B bằng C, thì dứt khoát, không bao giờ
A lại lớn hơn C. Chỉ kém hơn, hoặc bằng, trong trường hợp B bằng không mà thôi.
Sáng hôm nay, ngày 16
tháng 10, tên Tư mở từng buồng cho ra đổ bô. Xong, y chỉ vào đống chăn ở một
góc nền lối đi, cho mỗi người mượn một cái, và tùy người cho mượn áo trấn thủ.
Đến lượt tôi, có lẽ lúc này ở xà lim ấy tôi là người ở lâu nhất. Hàng ngày tôi
và y vẫn nhìn thấy nhau, vì thế, y có vẻ dễ dãi; chỉ vào đống chăn, y dịu giọng
bảo tôi:
- Anh không có quần áo,
tôi cho anh chọn một cái chăn dầy và một cái áo trấn thủ!
Tôi lựa một cái chăn
dầy và một cái áo trấn thủ, còn tốt đến 80%. Nghĩ đến những ngày rét giữa Đông
sắp tới, tôi đành xề, xuống nước với y:
- Thưa ông, tôi không
có màn cũng như quần áo, lạnh quá, chân tay của tôi bắt đầu sưng buốt (tôi vừa
chỉ ngón chân và gơi tay cho y xem). Đề nghị xin ông, chốc nữa nếu còn thừa,
xin ông cho mượn một cái chăn nữa? Tôi xin cảm ơn ông!
Y không nói gì cả, hất
hàm bảo tôi vào đi. Thôi đành vào buồng! Được cái chăn dầy, trong dạ cũng hý
hửng rồi! Tôi đã bỏ chân vào cùm, vẫn chưa thấy y đóng chốt. Tội gì! Tôi lại
khe khẽ lấy chân ra. Tuy ngồi, tuy đứng loanh quoanh, nhưng trong lòng vẫn thấp
thỏm không yên. Mắt cứ luôn luôn liếc về chiếc cùm, thành ra được nghỉ cùm một
lúc mà lòng vẫn không được thoải mái.
Những người ở xà lim có
chăn riêng ở nhà mang theo, vẫn đều được mượn thêm một cái. Khi tên Tư mở các
buồng cho mượn chăn hết lượt, y đến mở cửa buồng tôi. Tôi tiến ra phía cửa, y
chỉ vào 3 cái chăn ở dưới nền:
- Anh xếp lại, để trên
ghế kia! Tôi cho anh mượn một cái nữa!
Nỗi vui mừng hưng phấn
như ngày còn bé nhận được quà, chạy ùa vào lòng tôi. Sau khi xếp chăn lên ghế,
tôi vội vàng ôm chiếc chăn nữa vào buồng, như ôm niềm ấm êm hạnh phúc cho những
ngày Đông rét sắp tới.
40. “…Thắng Lợi Bất Ngờ Của Việt Cộng” Miền Nam Đảo Chánh
Hôm nay là mồng 2 tháng 11 rồi. Những trận mưa phùn đầu
Đông làm ẩm ướt cả không gian, cả ngày u ám không có mặt trời. Thỉnh thoảng một
cơn lạnh tái tê len qua cửa sổ, luồn vào trong xà lim, như đem theo niềm cô đơn
băng giá, để đầy đọa thêm người tù đói khổ.
Cũng như những buổi
trưa khác, tôi đang nằm lặn ngụp trong nỗi đầy vơi trăm hướng, của cuộc đời tù
tội, mặc cho tiếng léo nhéo của chiếc loa lắm mồm. Chợt nghe một giọng the thé:
“…..Theo nguồn tin mới
nhận được, cái gọi là Hội Động Tướng Lãnh của Ngụy Quân Sài Gòn đã làm một cuộc
đảo chính, lật đổ chế độ độc tài gia đình trị của Ngô Đình Diệm…..”.
Tim tôi như thắt lại,
tôi bò nhổm dậy, mắt mở to, tai vểnh lên như muốn hút hết mọi âm thanh của
chiếc loa.
Phía bên ngoài, một số
cán bộ cũng đang huyên náo, bàn tán xôn xao. Một tiếng quát nhẹ của một người
nào đó:
- Các đồng chí hãy yên
lặng, để nghe đã!
Tiếng loa vẫn oang
oang:
“…..Quân đảo chính đã
làm chủ tình hình. Anh em Ngô Đình Diệm đang bị bao vây dưới hầm dinh Gia Long.
Không khí Sài Gòn rất căng thẳng và nghẹt thở…..”
Tôi bàng hoàng và hoang
mang cực độ. “Vận nước đã đến ngày điêu linh rồi chăng?”, tôi than thầm. Đây là
sự thực hay tuyên truyền của Cộng Sản? Tuyên truyền nào cũng có nguyên tắc của
nó. Có những sự việc: “Không” không thể nói thành “Có” được…..Về lý trí, tôi
biết đây là một sự việc thực. Nhưng về mặt tình cảm, tôi cố níu kéo, cho là một
chuyện tuyên truyền của Cộng Sản, nhằm gây hoang mang cho tinh thần mọi người,
chứ không có thực.
Từ khi bị bắt, tôi chưa
bao giờ đọc kinh cả. Thế mà hôm nay, trước mối hiểm nguy cho một cá nhân, nhưng
cũng có thể là mối nguy cho cả dân tộc, tôi không biết làm sao, chỉ còn biết
cầu xin Chúa, cầu xin đấng tối cao hãy che chở cho cụ Ngô, người mà cả cuộc đời
tôi kính yêu, trọng nể.
Thường ngày, sáng cũng
như chiều, tôi chờ đợi bữa cơm như tâm trạng ngày còn bé mong mẹ về chợ. Càng
gần giờ cơm, tai càng vểnh lên nghe ngóng âm thanh những tiếng xền xệt, bình
bịch của tiếng chân mấy người tù hình sự, khênh chiếc chõng có thùng nước nóng
và một số bát cơm vào lối đi giữa của xà lim. Tiếng “kịch” của chiếc chõng để
xuống nền; tiếng “xàn xạc” của đít thùng tôn đựng nước cọ xuống nền xi măng…Rồi
lại chờ lắng nghe tiếng chân cán bộ với tâm trạng xốn xang: Sao cán bộ đi đâu
mãi, không thấy trở về cho tù ăn cơm. Để rồi khi nghe tiếng lẻng xẻng của chùm
chìa khóa. Tôi chắc rằng, mắt tôi phải sáng lên: Hạnh phúc đã đến rồi! Đôi khi
tôi cũng bị mừng hụt, vì đó chỉ là tiếng chìa khóa của cán bộ Hoa, Bằng, hoặc
Kim vào gọi một người nào đó đi cung…..
Hôm nay trái lại, cơm
đã khênh lên lúc nào tôi cũng không hay. Mãi tới khi cán bộ mở cửa buồng, bảo
ra lấy cơm, tôi mới giật mình choàng dậy, như vừa tỉnh một giấc mơ nhiều máu
lửa. Lấy cơm vào rồi, tâm hồn tôi vẫn còn lửng lơ đâu đấy, không còn cái thú
thèm khát, vồ vập ăn như mọi ngày. Đầu óc tôi đang xáo trộn bao nhiêu nỗi chất
chồng, đường nọ, ngả kia với niềm thấp thỏm mong chóng đến 5 giờ chiều, để nghe
bản tin xem tình hình Sài Gòn diễn tiến như thế nào.
Mong mãi, rồi cũng đến
5 giờ. Phải nói rằng, từ ngày về miền Bắc, chưa bao giờ tâm tạng tôi lại bồi
hồi háo hức, tập trung tư tưởng để lắng nghe tiếng loa như vây giờ. Tiếng loa
mà tôi vẫn ghét như một “con mụ chửi thuê lắm mồm!”…
Tình hình Sài Gòn vẫn
căng thẳng. Vẫn thiết quân luật ngày đêm, nhưng có chiều hướng phe đảo chánh đã
thành công đến 90%. Họ đang gửi tối hậu thư bắt ông Diệm phải ra hàng, nếu
không họ sẽ cho dinh Gia Long tan thành bình địa…..Qua bài bình luận của Hà
Nội, chúng cố ý tỏ ra khách quan, (ra cái điều đứa nào trong chúng mày, tao
cũng phải diệt). Nhưng ai cũng ngửi thấy, chúng mong muốn phe đảo chính thành
công. Người chúng sợ nhất, cho nên chúng thù nhất, là Ngô Đình Diệm. Bộ chính
trị của chúng đang phải điên đầu, tính trăm mưu ngàn kế, để làm sao hạ được ông
Ngô Đình Diệm xuống, bằng bất kể giá nào. Thế mà, bây giờ lại có những kẻ thay
chúng để làm công việc đó, hẳn chúng đang bắt tay nhau với những đôi mắt long
lanh chào mừng “Thắng lợi không ngờ!”.
Đêm hôm nay nằm hoài
không ngủ được, tôi trằn trọc suốt năm canh mong chờ trời sáng để nghe “con mẹ
lắm mồm”. Đôi chân vẫn giá buốt trong cùm, tấm thân gầy thấp thỏm suốt đêm
thâu! Tiếng gió Bấc than gào như tiếng núi sông báo hiệu với con cháu giống Lạc
Hồng, vận nước đã đến ngày tơi tả thê lương.
Mùng 3 tháng 11. Sau
một đêm dài thao thức quằn quại, hôn mê giữa chán chường và hy vọng, tôi thấy
bản tin sáng hôm nay, cũng chưa nói lên điều gì rõ ràng lắm. Có tin anh em Ngô
Đình Diệm đã chui vào đường hầm bí mật, ôm theo một va-li vàng và kim cương
(?). Sau bữa cơm sáng, tôi lại nằm đợi nghe bản tin buổi trưa, nhưng vì suốt
đêm qua không ngủ, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Mãi cho tới khi quản giáo
mở cửa cho đi đổ bô buổi chiều, tôi mới choàng thức dậy.
Cơm chiều xong, cũng
như hôm qua, tôi ngồi chờ đợi tới 5 giờ chiều. Hôm nay, lòng tôi không mềm rũ
như hôm qua. Óc tôi liên tưởng tới cuộc đảo chính ngày 11-11-1960. Biết đâu
chẳng có một thế cờ quật ngược lại phe đảo chính. Một niềm hy vọng nhen nhúm
dâng lên trong lòng tôi. Tôi không thấy hồi hộp lo lắng như hôm trước, khi bản
nhạc dạo quen thuộc của đài phát thanh Hà Nội trỗi dậy trước giờ phát thanh.
Và, cũng là lúc báo hiệu giờ tan tầm của các nhà máy, xí nghiệp.
Những tiếng gọi hỏi
nhau í ới, những tiếng rì rầm bàn tán của bọn cán bộ, tập trung tại chỗ để xe
đạp để lấy xe, hôm nay hình như đông hơn mọi ngày. Có thể trước khi về, chúng
còn muốn nán lại ít phút để nghe bản tin, chúng cũng nôn nóng đợi chờ. Chúng
không ngờ, cách một bức tường dầy 50 phân, có một người, và có thể một số
người, cũng đang nôn nóng đợi chờ như chúng. Hai sự chờ đợi này chắc hẳn mâu
thuẫn đối nghịch nhau. Tiếng ả xướng ngôn viên rành rọt:
“…..Theo nguồn tin vừa
nhận được: Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu trốn đến một ngôi nhà thờ ở Chợ Lớn,
do một linh mục người Tầu tên là Tam trông coi. Ở đây, do lòng căm phẫn cả quần
chúng, nên có người đã tố cáo với phe đảo chính. Phe đảo chính đã đến bắt Diệm
và Nhu lên một xe bọc thép M-113. Trên đường giải về Bộ Tổng Tham Mưu, khi qua
đường Hồng Thập Tự, phe đảo chính đã hạ sát Nhu và Diệm bằng nhiều phát súng
ngắn và dao găm. Hai tên đã chết ngay tại chỗ trên xe bọc thép…..”.
Tai tôi ù lên! Mũi tôi
như nghẹt thở! Cái cửa sổ và mấy chiếc lá nho bên ngoài kia như đang nhẩy múa
quay cuồng trước mặt tôi “Có thật không?”, tôi tự hỏi, “Hay đây chỉ là một cơn
ác mộng?”.
Những tiếng reo hò của
lũ cán bộ ngoài sân như nhắc nhở tôi “Đừng mơ hồ nữa!”. Có hai tên vừa chạy ra
phía cổng, vừa hò to:
- Ngô Đình Diệm đổ rồi!
- Ngô Đình Diệm bị giết
rồi!
Chao ôi! Tiếng hò làm
một luồng lạnh buốt từ xương sống chạy ngược lên gáy ôi. Tóc gáy tôi như dựng
lên, người tôi nổi gai ốc. Tiếng hò đã ra tới cổng rồi, dư âm của nó còn như
vặn xé trái tim đã đầy ắp khổ đau của tôi.
Chúng ta nhiều người đã
thấy, nói chung, những tên cán bộ Cộng Sản thường lầm lì, lạnh lùng ít nói.
Không giống như các anh Thiếu úy, Trung úy của ta, thường tươi cười, có khi nô
đùa trước người khác. Đối với bọn cán bộ trại giam, những nét đó lại càng rõ
hơn. Thế mà hôm nay, chúng hò reo, nhảy lên. Điều đó, nói lên nổi vui mừng to
lớn quá, chúng không kìm hãm nổi, nên đã để bộc phát ra như vậy.
Trong chúng ta, những
ai đã ít nhiều hiểu Cộng Sản đều thấy rằng, cái mũi của chúng tương đối thính
lắm. Cho nên nếu khi nào chúng ca tụng, đề cao một cá nhân, một tồ chức hay một
quốc gia nào, điều đó có nghĩa là cá nhân đó, tổ chức đó, hay quốc gia đó đã
hoặc đang làm những điều thiệt hại cho thế giới tự do, và có lợi cho Cộng Sản.
Ngược lại, khi chúng chê bai, chửi bới cá nhân, tổ chức, quốc gia, v.v… có
nghĩa cá nhân đó, tổ chức đó, quốc gia đó đã làm những điều trái nghịch lại.
Mặt khác, cứ đo lường sự hung hãn chửi bới, cũng như tâng bốc ủng hộ của chúng,
sẽ thấy được mức độ lợi hại hoặc hại của đối tượng, cho phe ta hay phe địch…..
Điều này gần như trở thành một công lý, chỉ trừ một vài trường hợp hạn hữu cá
biệt, mới không đúng, khi chúng dụng ý gây mâu thuẫn.
Trong bối cảnh của nước
Việt Nam lúc này, một nhà nước do Cộng Sản chiếm đóng thống trị. Còn một nửa,
Cộng Sản đã đặt một chân lên, bằng cái gọi là “Mặt trận giải phóng” với những
khu vực bưng biền, với một số thôn bản xen kẽ. Ngay trong nội bộ miền Nam,
chính quyền chưa đủ thời gian, hoặc chưa đủ khả năng để khẳng định được ai là
người của đối phương, ai là người của ta. Lòng dân còn ngang ngửa, chưa biết ai
là chính, ai là tà! Vậy làm chính trị, ai cũng phải thấy là: Bất cứ một cuộc
binh biến nào trong lúc này, bất cứ một vụ lộn xộn thay ngôi đổi chủ nào, cũng
đều nguy hiểm, có lợi ghê gớm cho Cộng Sản. Nghĩa là thiệt hại ghê gớm cho phe quốc
gia!
Về ông Diệm, thử nhìn
tất cả các bộ mặt gọi là chính khách ở miền Nam, ai hơn hoặc bằng ông Diệm? Dù
ông Diệm cũng còn nhiều điểm chưa đúng!
Nếu không có cái tốt
hoàn toàn, chúng ta phải chọn cái tốt vừa vậy. Huống chi, “Nhân vô thập toàn”.
Không làm, mới không phạm sai lầm!
Bất cứ ai, làm việc,
hành động, tất yếu phải có những điều sai lầm. Vậy, trong quá trình xử sự công
việc, ông Diệm có điểm gì sai? Tôi cũng như quần chúng thuộc loại dân đen, thấp
cổ bé họng, không thể sửa chữa được cho ông đã đành. Nhưng, nếu một ông Tướng
không thể sửa được, nhiều các ông Tướng phải sửa được. Một ông Bộ Trưởng không
thể sửa được, đa số các Bộ Trưởng sẽ sửa được. Một dân biểu không sửa được, thì
cả Quốc Hội, v.v…với điều kiện: vì dân, vì nước, đạt quyền lợi của Tổ Quốc lên
trên hết! Không bằng biện pháp này, thì phương pháp khác. Nếu quyết tâm các
ngài sẽ sửa chữa được cho ông Diệm, nhất là khi những cái sai lầm ấy không phải
là cơ bản.
Tóm lại, Dương Văn Minh
và bè lũ đã lật đổ và giết chết ông Diệm, phải nhận một trong hai lỗi lầm, hoặc
cả hai sau đây:
- Không nhìn thấy cái
lợi ghê gớm cho Cộng Sản.
- Nhìn thấy, nhưng vẫn
gục đầu mà làm.
Không một lý do nào,
không một biện luận nào, không một quốc tế này, tình hình kia, có thể phủ nhận
thỏa đáng hai điểm trên.
Vậy, nếu ở điểm:
1) Các ông làm chính
trị, các ông không nhìn thấy một điểm sơ giản như thế. Các ông không đủ khả
năng lãnh đạo quần chúng nhân dân là chúng tôi đâu! Hãy nằm im đi! Dẹp!
2) Các ông đã để cá
nhân các ông lên trên Tổ Quốc. Loại này cho đi tầu suốt!
Những điểm lợi cho Cộng
Sản thì nhiều, nhưng điểm ghê gớm nhất là: Khi một chế độ có cuộc đảo chính, mà
cuộc đảo chính đó chỉ có mục đích tranh giành quyền lợi cá nhân, muốn ăn chia
xôi thịt. Lúc đó sẽ xẩy ra tình trạng gì? Trong chính quyền: Cán bộ thuộc mọi
lãnh vực, quân đội cũng như hành chính; ngoài nhân dân ai ai cũng thế, đều tự
thấy đây là một xã hội không ổn định, một chế độ lộn xộn. Như vậy, tất yếu lại
sẽ có cuộc đảo chính khác. Không tin tưởng được nữa, hảy lo thủ cho bản thân!
Cũng chẳng còn dám ủng hộ ai! Có gì là chắc nữa đâu! Lòng dân ly tán, lòng quân
nghiêng ngả.
Điểm mạnh của một cá
nhân, một tập thể, một quốc gia là ở tinh thần, chứ không phải thể chất, vũ khí
hay tiền bạc. Vậy, tinh thần của cán bộ và người dân như trên, rã rượi không
còn lòng tin. Làm sao chống cộng?!…..
Ngay lúc này, Cộng Sản
miền Bắc đã ngửi thấy điều đó, là tinh thần quân dân miền Nam đã và đang bị
khủng hoảng. Chứng cớ, sau những buổi họp bàn thảo luận của đảng, ít ngày sau,
chính những tên chấp pháp đã nói thẳng vào mặt tôi:
- Chúng tôi nói thực
cho anh biết, tình hình miền Nam lúc này…..Nếu không do vấn đề chính trị quốc
tế, vuốt mặt vướng mũi, chúng tôi chỉ cần 5 sư đoàn tinh nhuệ đánh dọc từ Bến
Hải vào tới Sài Gòn, không khó khăn lắm…..Chỉ cần nghe tin có đại bình đến,
lòng quân, lòng dân đã như trên thì chỉ có chạy. Càng gây hỗn loạn, để rồi cuối
cùng tất cả đều phải buông súng…..
Đó không phải là những
lời nói huênh hoang không có cơ sở. Tôi nhìn bao quát miền Nam, rồi nhìn toàn
diện miền Bắc lúc bấy giờ, tôi thừa nhận lời tuyên bố đó có giá trị.
Thực vậy, nếu ai nhìn
quán triệt vấn đề sẽ thấy: Khi lòng quân và dân nghiêng ngả thì sẽ rơi vào cái
thế “Cuốn chiếu” tất yếu. Kẻ thù dùng một lực lượng tối đa; thần tốc, vũ bão
chiếm điểm A, thì điểm B sẽ chạy. Điểm B chạy, thì C, D, E lần lượt cuốn vó
hết. Lúc này, thì người có tài thánh cũng đành chịu đứng nhìn, sự hỗn độn, vô
chính phủ của quân đội lẩn dân chúng bồng bế chạy mà thôi.
Một vấn đề nghiêm trọng
nữa, không hiểu những người chủ trương hạ ông Diệm, trong đó có những Tướng, Tá
và cả một số người Mỹ, có biết và luờng được những gì xẩy ra trên nửa nước phía
Bắc Việt Nam này hay không? Có thấy được sự khủng hoảng, rã rượi tinh thần của
người dân miền Bắc ở mức độ nào hay không?
Tôi tin rằng, dù cho họ
uống sâm nhung, đầu óc họ cũng không thể nghĩ được mức độ tai hại đến như thế!
Về việc hạ bệ ông Diệm đã trở thành cái nhân nẩy mầm, để cây trưởng thành cho
tới khi kết trái, là 30 tháng 4 năm 1975!
Quả thế, mọi từng lớp
quảng đại quần chúng nhân dân miền Bắc, sau 8, 9 năm bị lũ Cộng Sản khát máu,
dùng bạo lực sắt thép để kìm kẹp thống trị. Họ vẫn nhẫn nhục chịu đựng ngày
củng như đêm. Những khi thấy lầm than tăm tối, trong lòng họ vẫn trỗi lên những
niềm hy vọng sáng tươi ở chân trời phía Nam, nơi có cụ Ngô mà lũ lãnh đạo miền
Bắc ăn không ngon, ngủ không yên. Không những chúng không làm gì được miền Nam,
chúng còn đang lo ngay chỗ ngồi của chúng ở miền Bắc cũng không vững. Vì sẽ có
ngày Bắc tiến! Bây giờ, niềm hy vọng của họ tan tành, vì cuộc sống, vì nồi cơm,
họ đành phải tích cực yêu cái chế độ hiện tại vậy. Hàng triệu tấm lòng như thế,
dần dần trở thành triệu triệu những giòng nước nhỏ, góp lại thành thác cuồng xô
vỡ bờ tháng 4/75.
Những người quật cường,
có tính năng hoạt động, hoặc bộc phát do cá nhân, hoặc đã tổ chức thành những
tập thể để chiến đấu với lũ cộng tham tàn khắp nơi, từ rừng sâu, góc biển, đến
thôn làng thành phố…..Cũng biết bao người đã sa vào tay giặc, và đang bị giam
cầm đầy ải trong ngục tù. Nhưng, những người trong tù cũng như những người còn
đang chiếc đấu bên ngoài, vẫn kiên trì dũng cảm chịu đựng gian khổ, chiến đấu
với lũ cộng thù, để chờ đại quân miền Nam ra giải phóng. Bây giờ, hy vọng của
họ trở thành mây khói. Thậm chí, nhiều cá nhân cũng như tổ chức đã tuyệt vọng
đầu hàng giặc, mà tôi đã gặp ở các trại trung ương sau này.
Hôm nay, mồng 4 tháng
11. Đã 8 giờ sáng rồi, trời còn âm u đen kịt. Mưa rơi nhì nhẹt suốt đêm thâu,
mà giờ đây vẫn còn dầm dề, rả rích như giọt lệ sầu của người Mẹ hiền núi sông
đang rã rượi, vật vã khóc thuơng đàn con Việt gặp một tai ương đau đớn.
Cả đêm qua, tôi đã bàng
hoàng mê tỉnh với những giấc mộng hãi hùng. Người tôi rã rượi như một tầu lá úa
trong mưa dầm gió Bấc. Đôi chân gầy vẫn giá buốt trong cùm gông, những ngón
chân, ngón tay càng sưng lên nhức buốt. Nhưng cái đau đớn của thể xác bây giờ
chỉ là thứ yếu, nhường chỗ cho cái đau ruỗng nát cả niềm tin. Cái đau tan tác
cả một hướng đời, bơ vơ lạc lõng như con thuyền mục nát trên đại dương, đang bị
bão tố dập vùi không còn định hướng.
Tôi nằm lịm đi, đang
ngụp lặn trong một trời khổ đau, bỗng cửa con xoạch mở. Tôi mệt nhọc, chống tay
bò dậy nhìn ra. Chiếc mũi và cặp kính trắng thập thò qua song cửa con. Một
giọng miền Nam quen quen:
- Anh dạo này có khỏe
không?
Chà, tên Võ, tên chánh
giám thị Hỏa Lò, hơn một năm trước đã vào tha cùm tôi. Tôi vội vàng tươi tỉnh:
- Cảm ơn ông, tôi vẫn
thường thường…..
Y nói với vẻ hồ hởi:
- Hôm qua anh có nghe
đài không?
Tôi đã thấy chạm vấn
đề, nên cộc lốc:
- Có!
Như tràn từ một nỗi hân
hoan trong lòng, y xì ra:
-Đối với chúng tôi,
miền Nam bây giờ không còn đối thủ nữa. Tôi nói với anh là vấn đề thống nhất
chỉ còn là thời gian thôi.
Á! Thì ra y mừng quá! Y
không biết thổ lộ với ai cho đã, bằng nói với một người từ miền Nam ra. Cho
nên, mới sáng sớm y đã vào xà lim không kể gì mưa gió, gặp tôi để cho giãn cái
bọc sướng vui của y ra. Mà lão sướng vui bao nhiêu, thì tôi ngược lại bấy
nhiêu. Cho nên, để câu chuyện qua nhanh càng tốt, tôi chậm chạp trả lời:
- Thưa ông, tôi cũng
nghĩ vậy!
Trước khi đóng cửa con lại,
y cười cởi mở:
- Thôi nhé! Hãy cố giữ
gìn sức khỏe!
Hôm nay sao lịch sự
thế! Khi vui người ta cũng dễ dãi…..Hai hôm sau, mụ Hoa vào gọi tôi đi cung.
Khi tôi ra phòng cung, tôi thấy 3 tên Đức, Nhuận và Thành. Mặt tên nào cũng
tươi roi rói, sau khi chỉ ghế cho tôi ngồi, tên Đức đã hỏi ngay:
- Mấy ngày nay, anh có
theo dõi đài không?
- Thưa ông, có!
- Anh thấy thế nào?
Dù đang cúi xuống, tôi
cũng biết là cả 6 con mắt của chúng đang tập trung theo dõi thái độ của tôi. Vì
vậy, tôi trả lời, vẻ bình thản:
- Thưa ông, nghe đâu có
vụ đảo chính, và họ đã giết anh em Ngô Đình Diệm rồi!
Tên Nhuận giọng thử ý:
- Tôi biết mấy hôm nay
anh buồn lắm, vì chủ anh đã chết rồi! Tôi nghĩ, như vậy là tốt cho anh đấy! Anh
không còn phải mắc mớ điều gì nữa. Hãy tự cứu lấy mình, hãy khai báo hết với
cách mạng. Còn như thằng Dương Văn Minh và một lũ Tướng, Tá, anh cũng biết đấy,
chỉ là đồ bỏ! Rồi đây, chúng nó chỉ tranh giành nhau làm tay sai cho Mỹ, không
hơn không kém!
Tôi vờ ngạc nhiên:
- Thưa ông, tôi buồn,
hôm nào tôi chả buồn. Còn ông nói Ngô Đình Diệm là chủ của tôi, không đúng. Bởi
vì tôi cũng chưa được nhìn thấy ông Diệm bao giờ cả. Hơn nữa, tôi cũng chẳng có
ân huệ hay hận thù gì với ông ta. Còn khai báo, ngay từ đầu, tôi đã thành thật
khai báo hết rồi, chứ không phải đợi tới bây giờ….
Tên Thành vội vàng cướp
lời tôi:
- Anh nói vậy mà nghe
được à!? Diệm là người Công giáo, anh cũng là người Công giáo, tất nhiên anh
phải ủng hộ ông ta chứ?
Tôi vẫn tỏ vẻ ngạc
nhiên, cãi lại:
- Thưa các ông, như tôi
đã nói với các ông nhiều lần trước đây, bố mẹ và họ hàng nhà tôi chỉ làm thuơng
mại, buôn bán. Chỉ có mình tôi do sự bồng bột của tuổi trẻ, do ảnh hưởng của
phim ảnh nên đã ngây thơ nhận nhiệm vụ của họ, ra ngoài miền Bắc. Chứ thực lòng
tôi, ai là Tổng Thống, ai là Chủ Tịch cũng thế, vì tôi có hiểu gì về họ đâu! Vả
lại, đối với tôi bây giờ, họ lại càng vô nghĩa nữa. Tôi đã chán ghét họ nhiều
lắm rồi!
Thành lộ vẻ ngạc nhiên,
gằn giọng:
- Sao anh lại cho là vô
nghĩa đối với anh?
Mặt rầu rầu, tôi trả
lời:
- Tôi bây giờ đã hiểu!
Ngay khi ông Diệm còn sống, tôi đã thuộc loại đứa con đem bỏ chợ. Không một ai
ở Sài Gòn lúc này còn nhớ đến tôi, có chăng chỉ còn bố mẹ và các em tôi. Huống
chi, tôi sống hay chết, những người đảo chính còn quan tâm đến làm gì. Như vậy
rõ ràng họ còn có nghĩa gì với tôi đâu…..?
Có lẽ tên Đức thấy chỉ
là những câu đối đáp lằng nhằng, không đưa đến vấn đề gì, nên y đổi giọng:
- Theo anh, tình hình
miền Nam rồi sẽ như thế nào?
- Thưa ông, tôi chẳng
biết gì để nhận định. Nhưng, tôi cho rằng với tình hình như thế, rồi đây các
Tướng sẽ tranh giành nhau, cắn xé nhau, xã hội sẽ càng lộn xộn. Chắc rằng “mặt
trận giải phóng” do đảng lãnh đạo sẽ đứng lên cướp chính quyền một cách dễ
dàng.
Cả 3 đứa sáng mắt lên,
tên Nhuận cười rộ:
- Khá lắm, anh làm tham
mưu được đấy!
Tôi lúng túng, dè dặt:
- Tôi hiểu các ông cười
chế nhạo tôi. Các ông hỏi, tôi phải trả lời. Tôi nghĩ thế nào, thì nói thế, chứ
tôi làm sao để biết được những vấn đề lớn ấy.
Tên Đức nghiêm giọng:
- Tôi nói thẳng cho anh
biết, trong điều kiện tình hình hiện nay, vì lý do chính trị quốc tế, vì những
khía cạnh liên quan ràng buộc, nếu không, chúng tôi chỉ cần 5 sư đoàn, đánh từ
Bến Hải dọc vào tới Sài Gòn, không khó khăn gì lắm!
Nghe y nói tôi tỏ vẻ
rất tin tưởng:
- Như vậy, tôi thật
mừng! Các ông sẽ vào bắt được cả Cục Tình Báo Miền Nam. Lúc đó, cách mạng sẽ
hiểu được sự thành khẩn của tôi.
Để chúng tin hơn, tôi
nói một vài sự việc lơ mơ:
- Về ông Diệm này, tôi
nhớ đến vụ đảo chính (1-1-1960). Lúc đó,dư luận dân chúng miền Nam rất chê ông
Diệm. Từ trước, ông vẫn lấy cây trúc ẩn biểu hiện lòng dạ thanh liêm, đạo đức
trong sáng của ông. Từ những ý nghĩ cho đến lời nói, tất cả đều là mẫu mực tiết
khí của người quân tử. Khi ông ta bị ở vào cái thế cùng quẫn, bị “hội đồng cách
mạng” lúc đó vây hãm trong Dinh Độc Lập. Ông đã tuyên bố trên làn sóng điện,
trước quốc dân đồng bào, cam kết với “hội đồng cách mạng” là ông bằng lòng chấp
nhận sự thỏa hiệp với “hội đồng cách mạng” như một sự đầu hàng. Thế nhưng, sau
đó, khi một số đơn vị ở các quân khu về tiếp ứng, phá được vòng vây và dẹp phe
đảo chính, ông Diệm đã nuốt lời hứa, lời cam kết trước đó. Như thế, ông ta đâu
còn là bậc quân tử mà cây trúc là biểu hiện?
Cả 3 đứa cùng cười, tên
Đức giọng phân tích:
- Diệm xử sự như vậy,
không có gì sai cả. Chỗ này, ông ta đã hành động rất đúng. Bởi vì, lời nói hay
lời cam kết trong lúc bị uy hiếp, cưỡng bức, hay dưới một áp lực, đều không có
giá trị.
Ngồi nhìn và nghe y
nói, tôi thấy y cũng có kiến thức và hiểu biết. Từ những sự phân tích trên, tôi
chợt suy ngẫm thêm: Thời đại ngày nay, trong kho tàng lý luận muôn mặt, muôn
màu mà Cộng Sản đang lợi dụng, ta không nên lạ lùng ngạc nhiên khi thấy Cộng
Sản xé bỏ tất cả những lời cam kết, những hiệp định chính tay chúng đã trang
trọng ký kết. Chúng vẫn có muôn ngàn lý do để giải thích cho đồng bọn và những
người dân dưới quyền chung một cách hợp lý. (Chúng chỉ giữ lại những hiệp định,
những lời cam kết nào, chúng thấy có lợi cho chúng mà thôi). Lời giải thích của
chúng sẽ: nào là lúc đó do áp lực kinh tế, vì dân chúng quá đói khổ, khi đó
tình hình biên giới căng thẳng, lúc đó v.v… và v.v… Vậy, cá nhân hay quốc gia
nào đừng thắc mắc, than vãn trách móc chúng, mà hãy trách sự ngây thơ ấu trĩ
của chính mình, vì chưa hiểu rõ bản chất của chúng mà thôi!…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét