31.
NỖ LỰC ĐỂ SINH TỒN
Tính toán, cân nhắc rồi tôi âm thầm chuẩn bị, đôi dép không
cần thiết, tôi bỏ vào một góc khuất, cởi chiếc quần “jean” rách, đã bạc màu,
thắt chặt hai ống lên cổ. Cái giấy ra trại, cái nhẫn chị Lợi đưa, chiếc đồng hồ
Seiko 5 của thầy tôi cho, tất cả tôi túm lại trong một cái túi nylon, đút gọn vào
trong một cái túi con khâu ngầm trong quần đùi, rồi cài kim băng.
Nghĩ đến đôi dép để đấy
không tiện, sau này CA khám thấy đôi dép, chúng nghi ngờ có người trốn, tôi đi
đôi dép đàng hoàng. Trời đã cập quạng tối, tôi đến rủ mấy cậu Bạch, Thâu và
Triết có theo tôi bơi vào bờ ngay từ còn ngoài biển v.v…? Cả ba cậu thấy tôi
chuẩn bị, bằng những con mắt sợ sệt, e ngại, cuối cùng các cậu đều nói:
- Thôi! Anh ơi! Bị bắt
một, hai năm về, tính chuyến khác, bây giờ xuống biển đêm, chả biết thế nào.
Nguy hiểm lắm!
Tôi thật ngạc nhiên:
Cậu Thâu và Triết đều gốc chài lưới, mà cũng rụt rè, sợ sệt như vậy. Tôi đã
thấy một điểm sáng, từ trong chỗ đen ngòm lóe lên, như thế sắp tới đất liền
rồi. Rồi ánh đèn bấm từ thuyền trước cũng lóe lên, biển lúc này tuy có động,
sóng to, gió lớn hơn, lại có trận mưa đêm nữa, như vậy là càng tốt cho kế hoạch
của tôi. Tôi phỏng đoán cách bờ chỉ khoảng một cây số hay một cây số rưỡi là
cùng, tôi lại bơi bỏ xa chỗ đèn pin lóe lên, thì cho đến hai cây là hết cỡ. Tôi
đã được ăn một bát cơm và một gói mì khô. Có nguy hiểm, nhưng xét cơ thể của
tôi, có thể chịu đựng được cái lạnh ở dưới biển.
Tôi hỏi lại các cậu lần
nữa, các cậu vẫn e ngại lắc đầu. Không thể chần chờ, bắt tay các cậu, tôi xuống
vào chỗ người ta vẫn đi cầu phía khoang cuối. Xác định phương hướng, tôi tụt
xuống biển, trừ ba cậu, cả thuyền không ai hay. Chìm nghỉm, sóng to gió lớn,
tôi sải bơi theo sóng, áng chừng nửa giờ, tôi lặn sâu xuống, sờ chân xem có
thấy đất chưa. Lặn đã hết cả hơi, chân tôi không hề chạm vào một vật gì. Tôi nhổm
lên, nhìn vào phía trong, vẫn một mầu đen kịt, tôi cũng chẳng nhìn thấy hai con
thuyền đâu, chỉ thấy sóng biển trắng đầu nhấp nhô.
Cứ xác định hướng ấy, bơi nữa (nếu không xác định đúng, mà
lại bơi trở ra biển, thì tôi chẳng còn ngồi viết những dòng này). Tôi lại bơi
nữa, cũng áng chừng nửa giờ, bỗng có một loạt súng AK 47 pằng. . . . . .pằng. . . pằng.
. . ..vang réo vào tiếng gào của sóng. Tôi lặn vội xuống biển, tôi
tưởng trong bờ CA đang nhằm bắn tôi, nhưng thấy yên. Tôi cũng thấy mệt qua rồi,
vì sự sống, tôi cố bơi nữa, tay chân của tôi đã rã rời, tôi tưởng phen này đành
buông xuôi tay chân cho hết một kiếp người nhiều cực nhọc.
Giữa lúc tôi nghĩ đến mẹ tôi mù lòa, bố tôi lẩn thẩn thì
chân của tôi chạm đất, tôi đã đứng được lên, nhưng người yếu quá! Một cơn sóng
đánh tôi đổ nằm ra, bây giờ cả tay tôi cũng đã chống sờ thấy đất cát, tôi cố
lết vào thêm để có thể nằm ra được mà không có nước. Tay tôi vừa chạm vào mấy
cành lá con con, tôi hiểu là loại “đước” con thường mọc ở bờ biển. Hai tiếng
súngpằng… pằng… Lần
này là của CKC réo vào không khí, từ ở phía phải.
Tôi suy đoán là lúc này
cả thuyền đã bị bắt, sau khi CA tra xét biết là có người trốn, nên chúng tản ra
các bờ để truy lùng. Vì nghĩ như thế, nên tôi vẫn cứ phải nằm ngâm trong nước
biển lạnh hàng giờ nữa. Người tôi rét run, hai hàm răng đánh vào nhau cằm cặp,
lúc này tôi mới chợt thấy cái quần jean buộc ở cổ đã gửi nó trong lòng biển, cả
đôi dép cũng không còn. Quần đùi, chân không giầy, dép với một cái sơ mi mầu
“gụ” đã sờn vai. Tuy tôi ở miền Nam từ 1954, nhưng chỉ ở Sài Gòn. Có một lần
xuống Hồng Ngự thăm mộ người em mới đây, chỉ ở một đêm sáng hôm sau đã trở về.
Nói chung ở những tỉnh khác của miền lục tỉnh, tôi chưa hề đặt chân.
Tôi có cảm tưởng như từ
thuyền đổ bộ, xâm nhập vào để hoạt động tình báo, chống cộng sản của 1981. So
với đầu 1962 tôi đổ bộ vào Hà Tĩnh của miền Bắc, nhưng lần này khó khăn hơn vì
không được trang bị quần áo, và lương thực.
Một điều tôi không ngờ,
và chưa bao giờ thấy, đó là muỗi. Muỗi như những đàn ong, vo vo quấn lấy mặt,
lấy cổ, lấy tay và lấy chân của tôi. Vỗ, đập, đuổi, người cứ phải giẫy lên khoa
chân múa tay, để xua đuổi muỗi. Đứng cũng không yên, cứ như tập võ, múa Mai Hoa
Quyền. Tôi chợt nhìn mấy cành đước, tôi bẻ hai cành, mỗi tay một cành, đập và
xua đuổi muỗi. Tuy có khá hơn, đỡ mệt hơn là làm bằng hai bàn tay, tôi đành
chịu trận để chờ trời sáng. Thật là may, khi mặt trời bắt đầu thò lên, thì
những con muỗi cũng đi đâu mất tiêu. Miền Bạc Liêu, Minh Hải, tôi đáng ghi nhớ
nhất là muỗi.
Vừa quan sát, vừa nghe
ngóng tôi cứ tiến dần vào phía trong, vì có một chút kinh nghiệm hoạt động nên
lòng tôi cũng có phần tự tin, khi vào miền đất lạ. Tôi suy đoán, trong vùng vì
có người trốn vượt biên, nên ở các chặng đường có thể có CA để ý người lạ,
nhưng chắc rằng chả quan trọng như tù trốn, tuy vậy, tôi vẫn luôn luôn để ý mọi
hiện tượng trên đường đi. Thực sự, tôi cũng chẳng biết đi về đâu? Chỗ nào cũng
sông ngòi hay rừng non. Mãi gần trưa, chân tay đã mỏi rời, tôi đã đến một con
sông to, nước phù sa cuồn cuộn chảy, có chỗ rộng năm sáu chục mét, rải rác hai
bên bờ có những chiếc vó rất to.
Tôi cứ theo bờ sông, đã
có lúc tôi định bơi sang bên kia bờ, nhưng chưa biết hướng ấy đi về đâu? Điều
cần là tôi phải gặp người, để lựa lời thăm hỏi. Nhìn phía trước có một căn nhà
tranh con con ở mé sông, từ xa tôi thoáng thấy bóng một người đi vào. Đến gần,
nhìn cái cửa phên tre khép hờ, căn nhà trơ vơ bên một bờ sông trống trơn, không
có nhà cửa cây cối. Sát phía bên trong, là những ruộng bắp đã thu hoạch, sâu
vào trong nữa là những cây rừng non. Chung quanh thật vắng vẻ, cạnh cái nhà nhỏ
chỉ có một cái am con để một bát hương, nhưng đã tàn lạnh. Tôi chậm chạp lê
chân tiến đến cánh liếp khép hờ, tôi lên tiếng cũng rề rà lửng thửng, tay đẩy
cánh cửa liếp:
- Có ai …….không?
Thoáng nhìn thấy khẩu
CKC dựng mé vách, một người mặc chiếc quần ka-ki xám, cởi trần chừng 35- 36
tuổi, tay đang cầm cuốn sách: “Thép Đã Tôi Thế Đấy” tôi hơi chột dạ, nhưng đã
vào thì phải tiến tới .
- Chào anh ! Nằm đây .
. . . đọc sách là số “dách” !
Anh ta định cho chân
xuống dép, với tay lấy cái áo sơ- mi nâu có cầu vai, tôi ngồi ghệ xuống chiếc
giường tre, tay lắc lắc:
- Anh cứ nằm đi! Tôi
xin ngụm nước uống thôi!
Anh ta vẫn đứng lên,
vào góc buồng cầm cái ấm nhôm, rót ra cái chén ở chiếc bàn con. Anh ta nhìn tôi
từ đầu đến chân, chỉ qua ánh mắt tôi đã thấy anh ta đã đặt vấn đề. Đúng như
vậy! Anh ta nhìn ra phía sông, nói một câu:
- Đêm qua, được báo có
người vượt biên trốn !
Hơi điếng người, nhưng
tôi vờ như chuyện đó, không có liên quan. Tôi cầm chén uống nước, rồi cũng nhìn
ra phía sông, như nói với mình:
- Ồ! Chuyện ấy, bây giờ
cũng bình thường thôi! Hôm qua họp rồi uống say quá, sáng nay một đồng chí chở
tôi trên chiếc Mobylette, chết máy còn đang nằm với xe ngoài lộ. Chân đau tôi
bỏ cả dép lại, khát nước và buồn ngủ quá, tôi mò vào đây. Đồng chí có biết sửa
xe máy dầu không?
Anh ta quay lại nhìn
tôi cười nửa miệng:
- Chắc anh hai đói, và
buồn ngủ lắm?
Không gọi tôi là đồng
chí, cũng không trả lời câu tôi hỏi, tôi vờ uể oải dựa vào vách, mắt lim dim
nói rời rạc:
- Hôm qua… say… nôn
hết… vừa đói…vừa buồn ngủ!
Anh ta đẩy cửa buồng,
không quên cầm khẩu CKC đi vào, nói vọng ra:
- Còn chút bánh canh,
tôi mần nóng cho anh hai!
Tôi nói như ngái ngủ:
- Ờ . ờ , xin cảm
ơn….đồng chí!
Nói rồi tôi ngả ngay
xuống giường nhắm mắt, chừng bẩy, tám phút. Nghe tiếng cánh cửa buồng mở, tôi
vẫn nằm yên, mũi thoáng có mùi rượu, rồi đập tay vào chân tôi, anh ta giục:
- Dậy ! Anh hai… ăn cho
nóng !
Tôi mệt nhọc chống tay
bò dậy, có một chén rượu trắng và một tô bánh canh đang khói nghi ngút trên
chiếc bàn con. Anh ta đã mặc quần áo chỉnh tề và đeo súng vào vai. Tôi như sáng
mắt ra, nhìn tô bánh canh đang nóng, tôi cười với anh ta, rồi cầm chén rượu như
đưa lên miệng định uống. Thực ra, để ngửi mùi rượu. Nhà quê trong lúc bất chợt
làm gì ra thuốc mê? Nhưng tôi tỏ ý như chợt nhớ ra, để chén rượu ra mé bàn và
cầm đũa:
- Hôm qua tại rượu, nôn
hết, hôm nay không uống nữa!
Tôi ăn vồ vập, anh ta
ngồi nhìn tôi ăn, rồi lại nhìn ra ngoài, về phía trái. Để cho bầu không khí bớt
căng, nặng, tôi hỏi như quan tâm:
- Vụ bắp vừa qua, xã
nhà thu hoạch, có năng suất không?
Anh ta thủng thẳng:
- Cũng được thôi!
- Miền Nam ta vẫn nổi
tiếng cả nước, về thiên nhiên tôm cá. Trữ lượng thủy sản của con ngòi này, tôi
vẫn nghe là cao nhất vùng này?
Anh ngồi nhìn tôi vừa
ăn vừa hỏi, cái nhìn hơi nhíu nhíu con mắt của anh, như muốn nói với tôi: ” Hãy
lo thân anh bây giờ đi! Đừng hỏi vớ vẩn nữa ! “
Nhưng anh ta vẫn tỏ ra
như người hiếu khách:
- Con ghềnh Hào này,
cũng như các con ghềnh khác vùng này thôi! Cuối nguồn phía Hộ Phòng, cao hơn
phía trên này.
Để phòng hờ lạc hướng,
tôi hất hàm ra sông:
- Thế bên kia là xã gì?
Tôi mừng, nắm được biết
đây là ghềnh Hào, còn Hộ Phòng ở phía dưới là phía nào? Nhưng chưa tiện hỏi. ăn
xong, bát bánh canh nóng, thật là ngon, sau này dù cả ở Mỹ cũng không có bát
bánh canh nào ngon bằng (vì trong người đã có đủ chất). Tôi chậm chạp đưa bát
đũa ngâm vào chậu nước có bát đĩa ở mé hè, rồi lặc lè lê bước đến mé vách cầm
ấm nước, trở lại bàn rót nước uống. Tôi biết anh chẳng bỏ sót một cử chỉ nào
của tôi, nhưng tôi vờ như không biết. Tôi cứ lẩm bẩm trong miệng: Ngon quá!
Tuyệt quá! Xin cảm ơn. . …đồng chí!
Rồi tôi nằm vật ra tiếp
tục ngủ. Chừng năm phút, anh ta đứng dậy nhìn tôi mê mệt gáy gỗ. Anh ta đến
khóa cửa buồng, rồi đẩy cửa liếp ra ngoài. Ra ngoài chừng hai ba phút, anh ta
lại trở lại, đứng bên ngoài nhìn qua cửa bếp vào chỗ tôi nằm, năm mười giây rồi
mới vội vàng ra đi về phía trái.
Tôi bò dậy ngay, nhìn
theo, phải chừng 7- 800 mét có một căn nhà con như cái điếm canh, lúc sáng tôi
đã đi qua. Khi anh ta đi chừng 500 mét, tôi đẩy cửa liếp đi ra ngoài quan sát.
Con sông nước đang lên to, nên có chỗ rộng bẩy, tám chục mét. Nước lên là từ
ngoài biển vào, vậy phía dưới Hộ Phòng là phía phải, ngược với chỗ điếm canh.
Tôi ra hẳn ngoài nhìn cho kỹ ! Chung quanh tất cả trống trơn, sát phía phải bờ
sông, có một cái am con, chỉ cao đến cổ người đứng, mỗi bề chừng khoảng tám,
chín mươi phân. Từ trên bờ xuống mép nước dốc ngược đến 45 độ, bờ sông toàn
sỏi, đá cuội và cát.
Phía trong, có những
ruộng bắp (đã thu hoạch), trong nữa là rừng non, từ căn nhà tôi đang đứng vào
đến chỗ rừng non cũng hơn 100 mét. Thoáng bóng tên đó từ điếm canh đeo súng đi
ra, bóng hai tên nữa ra bắt tay rồi lại vào, tên đeo súng dáng vội vàng trở về
căn nhà có tôi.
Tôi suy nghĩ: Từ sau vụ
1978 người Hoa ra đi bán chính thức (nộp vàng, kim cương, tiền). Miền lục tỉnh,
CA hiểu những người vượt biên, thường có vàng hay kim cương hoặc dollars. Trước
đây chúng bắt được vượt biên, năm, mười tháng hay một năm, tùy theo đút lót
chúng sẽ tha. Bây giờ 1979- 80- 81, CA hay du kích tính ăn “mảnh”.
Nếu trường hợp nào đó,
chúng vớ được vượt biên, bắt giong về đồn, vừa mất công lại chả được cái gì,
nên chúng thường cho đi “mò tôm”, sông rạch miền Nam thiếu gì? Khi đó người
vượt biên nộp vàng, nộp tiền chúng cũng giết. Nộp vàng xong, chúng vẫn giết, để
khám của giấu đút trong người, và khỏi tố chúng sau này. Không có của đưa cho
chúng, cũng bị thủ tiêu để chúng khám trong người (người vượt biên hay giấu của
kỹ lắm). Chúng vừa khỏi mất công giong về đồn, chỉ cấp trên hưởng, chứ chúng có
chăng chỉ một tờ giấy khen, giải quyết gì?
Tên đeo súng đã về gần
tới nơi, tôi nhìn khắp không có chỗ nào ẩn nấp, dù bơi sang bên kia cũng không
kịp. Tôi chạy ngay ra chỗ chiếc am, nơi mé sông: nhìn vào chiếc am con, có cái
bệ ở giữa, để mỗi bát nhang. Nhang cắm năm, bẩy cái, nhưng đều đã từ lâu, hương
tàn khói lạnh. Một người không thể chui vừa vào trong am.
Trời nắng chang chang,
khoảng 1- 2 giờ trưa. Tên đeo súng, đẩy cửa liếp vào nhà, chừng 30 giây, chắc
nó tưởng tôi chui rúc trong nhà nên sục sạo. Y xô, dập mạnh cánh cửa liếp chạy
ra ngoài, ngơ ngác nhìn khắp chung quanh. Y đoán với thời gian, tôi không thể
bơi sang sông, dù vậy y cũng chạy ra nhìn dọc theo dòng nước mênh mông, đang
chảy cuồn cuộn. Chỉ có một cái am con độc nhất ở mé sông, y cũng chạy ra nhìn,
rồi thò cổ ngó phía sau am, cũng không có. Y lại chạy ra phía bên kia nhìn cả
ra sau chiếc am, cũng không người.
Chẳng lẽ một người có
thể biến? Cho nên y chắc, chỉ còn một cách duy nhất, là đã chạy vào trong rừng!
Vì đinh ninh như thế, y chạy vội về điếm canh, thổi còi để báo anh em (trước
đây định ăn riêng, ăn mảnh). Y cũng quỷ quái, cứ chạy được một tí, y lại quay
người lại. Nhưng nếu y biết được rằng, một người muốn quay đầu lại thì cái lưng,
cái vai đã báo trước rồi. Vì thế y quay lại nhiều lần không thấy gì, cũng như
khi nãy rõ ràng y đã nhìn bên này cái am, lại chạy ra nhìn phía kia cái am, mà
cũng không thấy ai.
Ai đã từng khi bé chơi
“ú tim” trốn tìm mà phải nhanh như máy thì, đều hiểu. Cái chính là bất ngờ, và
chủ quan coi thường đối tượng, chứ nếu y cứ chạy hết cả chung quanh cái am, thì
tôi sẽ lòi mặt chuột ra thôi. Lúc ấy tôi phải có “vỏ bọc” tại sao ra đấy làm
gì? Thừa sức để trả lời: như cầu khấn, lễ bái hay tìm chỗ giải quyết đại tiện,
sau khi ăn v.v. . . Tóm lại thời gian y về gọi mấy tên du kích, thì tôi đã lẻn
vào rừng non, dù y có biết cũng không đuổi kịp. Y nhanh, tôi cũng nhanh, mà tôi
lại chạy trước y hàng chục phút.
Trước khi mấy tên đuổi
vào rừng, cũng ra vẻ áp đảo tinh thần người chạy trốn, chúng bắn hai phát CKC
vào rừng. Nhưng như tôi đã nói ở trên, tôi đã có một chút kinh nghiệm lặn lội
ngoài Bắc với những bậc thầy của chúng rồi, nên làm sao chúng tìm được? Có
chăng, là sự may rủi trong cuộc đời này, mà thôi!
Ngoài Bắc là phòng phản
gián, những người đã được đào tạo có nghiệp vụ, những đồng chí du kích thì làm
gì đã có nghiệp vụ? Chỉ là cái tinh khôn của tự nhiên mỗi người. Qua suy đoán,
tên du kích đã đọc “Thép Đã Tôi Thế Đấy” và vài hiện tượng, chắc y cũng là một
cấp chỉ huy của du kích? Y cũng không phải là không quái, khi nãy tôi đã cố ý
đánh lạc hướng hỏi thăm cái xã bên kia sông. Vậy mà y cứ chú ý vào khu rừng
non, nhưng ít ra y cũng đánh giá tôi chậm chạp, hơi lù đù v.v. . .
Phải nói tôi cũng rất
vất vả chạy bán sống bán chết, ở trong rừng có nhiều chà-nà, chân tôi bị gai
đâm mấy lần. Những cái nào rút ra được thì thôi, cái gai nào gẫy bên trong thì
đành để vậy. Tôi hiểu cái kiếp sống của con người, chỉ cần sai chuyển một chút,
thì cuộc đời đã hoàn toàn khác hẳn trong tương lai. Chỉ một vài giây thế này,
thế kia đã thay đổi hẳn cả cuộc đời.
Đêm khuya hôm ấy tôi đã
về đến Hộ Phòng, là một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Minh Hải, mỗi ngày chỉ có một
chuyến ca – nô chạy khách về thị xã Bạc Liêu do nước triều. Về tới Hộ Phòng vừa
mệt vừa đói, tôi vào một hàng cơm, chân vẫn đau đi lặc lè vì gai (bây giờ lặc
lè thật). Gọi một đĩa cơm thịt bò, ăn một tí đã sạch đĩa.
Tôi gọi một đĩa nữa, cô
bé chừng 14 – 15 tuổi cứ nhìn tôi mãi, tôi ngạc nhiên với cái nhìn của cô,
nhưng khi cô ta vào trong gặp bà má ở dưới bếp, thì tôi đã hiểu. Con người của
tôi lúc đó vừa xanh xao, lôi thôi, lếch thếch, quần ngắn không giầy dép, mà lại
ăn khác thường. Cô bé sợ là dân đói rách, ăn mày, ăn xin không có tiền trả, gọi
đĩa cơm đầu cô ta đã ngần ngại rồi.
Tôi ăn như máy, lại gọi
nữa thì làm sao cô ta không nghi ngờ? Tôi hiểu vậy, nên tôi lặc lè tiến xuống
bếp gặp luôn bà má. Tôi nhã nhặn :
- Thưa chị Hai, tôi bị
lỡ độ đường! Tôi bị lừa, hiện nay giá vàng bao nhiêu? Tôi có cái nhẫn hai chỉ?
Chị đó chừng 45 tuổi,
ngẩng lên nhìn tôi chắc để thẩm định. Mắt của chị như được tráng lên một cái
mầu xanh nâu, cái mầu của tha nhân, hòa hợp nghĩa tình, chị nói như chia xẻ:
- Bây giờ họ lừa lọc
nhiều lắm? Những tháng trước nhiều người mất hết cả tiền, lang thang ngoài bến
bãi! Vàng hôm nay 400 một lượng.
Chị vừa nói vừa cầm
chiếc nhẫn tôi đưa, vừa hất hàm cho cô con gái làm đĩa cơm tiếp. Tôi hỏi chị
ngay, thích ứng kịp thời:
- Một đĩa cơm mấy đồng
hả chị Hai?
Chị đã nói liền là “hai
đồng”.
Như thế, tôi chả phải
rụt rè với cái bụng nữa. Khi cô bé đau đĩa cơm đến, tôi nhìn cô, mắt tôi hơi
nhay nháy như muốn nói với cô bé : “Đừng thấy bộ quần áo đẹp mà ham!”
Chẳng hiểu cô có hiểu ý
tôi không, cô lại đỏ mặt lên ngượng nghịu! Để thưởng công đã thoát được một
“ca” may mắn! Tôi quay lại vẫy cô bé, nói nho nhỏ:
- Cho tôi một ly nước
chanh đá !
Trước khi đi, cô bé còn
quay lại nhìn tôi vài giây, như muốn bảo: “Lại còn dám gọi cả nước chanh nữa!”
Tôi chỉ mỉm cười, rồi
gật gật. Khi chị Hai ra tính tiền, để tôi rời quán, chị đưa cho tôi 75 đồng.
Tôi ngạc nhiên:
- Sao chị lại đưa nhiều
thế?
Chị cười nói:
- Tôi trả cậu như ngoài
tiệm, mà không phải trả tiền công nhẫn.
Chị đã đeo chiếc nhẫn
vừa vào ngón giữa. Ngoài ra, tôi còn hỏi chị được nhiều điều, về những chặng
đường, từ Hộ Phòng về Sài Gòn.
Đến Bạc Liêu, phải đi
xe lôi đến bến xe đi Cần Thơ, rồi về Bắc Mỹ Thuận. Trên đường đi cũng nhiều
cảnh, nhiều người và cũng nhiều tình huống, nhưng xin quý độc giả cho qua.
Tới Bắc Mỹ Thuận trời
đã bốn năm giờ chiều, trước đây chỉ nhìn thấy trên bản đồ, bây giờ dòng sông
Cửu, đã ở ngay trước mặt tôi. Tôi có ngờ đâu, nó lai rộng như thế, tôi cứ hình
dung tường cũng như con sông Đáy, của dòng sông Hồng Hà ngoài Bắc, mà tôi đã quen
thuộc.
Đúng là trên bến dưới
phà, thật là tấp nập, người thì đông. Nhìn những anh chàng mặc đồng phục xanh,
các cậu khoác trên cánh tay chiếc băng đỏ, chạy lăng xăng miệng nhai nhồm
nhoàm, khách ngược xuôi trên xe dưới đường, hầu hết đều đăm chiêu, tư lự. Những
cảnh bán mua, những tấm mía hoặc trái cây, cá biệt có con gà, con vịt thì lấm
lét chụp giựt, nói lên những cảnh sống lam lũ, chạy vạy tơi tả ngược xuôi của
miền trù phú nổi tiếng. Một cái vựa lúa khổng lồ của Đông Nam Châu Á. Không
hiểu trước đây, khi VC chưa cướp trắng trợn được miền Nam, thì có cảnh như thế
này không?
Có chăng chỉ có trời
thì vẫn chẳng hề đổi thay. Đứng từ chiếc phà giữa dòng nước đục ngầu, mang
những mầu mỡ từ Tây Tạng, Trung Quốc, Lào và chút ít của Cao Miên, về vun đắp
cho miền đồng bằng này thêm phì nhiêu. Đã từ lâu tôi vẫn có ấn tượng trời là
một chiếc vung khổng lồ, mầu xanh lam úp xuống trái đất này. Vì vậy, có lần
nhìn những đám mây trắng nõn nà đây đó một vài cụm, tôi đã tưởng, nếu tôi ở gần
tôi sẽ nhặt nốt mấy búi bông con con đó, cho cái mầu xanh ” ái ân ” ấy, nó đã
đầy và cho thiên hạ cũng đã đầy, mà mình có mất cái quái gì đâu.
Hơi đặc biệt hôm nay,
nắng chiều đã xiên khoai, đứng trên tầng phà cao, trời lặng gió. Nhìn những làn
sóng lăn tăn, từ mãi phía bờ tây xa tắp. Nước nhấp nháy, lóng lánh do ánh
chiều, tưởng như những chiếc vảy bạc, của cổ một con rồng khổng lồ, có chín cái
đầu.
Tôi cứ mẩn mê quê hương
với rồng tiên, phà đã sang bờ lúc nào. Chân đã bước lên bờ, mà đầu tôi còn
ngoảnh lại, tiếc nuối nhìn một cái cảnh mà rồi đây, tôi không còn thể nhìn thấy
nữa. Một câu hát lê thê, nỉ non rúc vào tai tôi, làm cho tôi đờ cả người ra:
Nếu con không về….chắc
mẹ…..buồn lắm…..!
Một tiếng hát khác nữa,
ở trong đáy tâm tưởng của tôi, tự bật lại:
Nhưng nếu con… về… chắc
mẹ… còn buồn hơn… !
Tôi chen lấn đám đông,
dõi theo tiếng hát lúc này đã khè khè, như chiếc bễ lò rèn hết hơi. Kia rồi!
Tôi không tin ở con mắt của tôi! Một anh mặc chiếc áo “treillis” đã cũ rách,
đội chiếc mũ nồi mầu đỏ, đã trở thành nâu sậm, cả đôi chân của anh bị cụt sát
háng. Anh nằm sấp trên một miếng gỗ, phía dưới lồi ra mấy cục. Hai tay của anh
có hai miếng da trâu khô, anh di chuyển bằng hai cánh tay đó.
Anh chừng 42- 43 tuổi,
khuôn mặt khắc khổ, cái môi dưới của anh bị mất một miếng, thành ra tiếng hát của
anh tưởng rằng hết hơi. Anh chẳng xin ai, mọi người qua lại như không nhìn thấy
anh. Thỉnh thoảng anh ngừng di chuyển , rồi cái giọng bi ai hổn hển lại cất lên
được mấy câu:
Anh ra… đi… trong một
chiều… sương… âm… u…!
Tôi cứ theo anh, nhìn
anh xoay xở, tâm tư của tôi cởi ra, rồi lại buộc vào, với những tiếng thở dài
không nín được. Tôi nhìn xuống đôi chân đất khập khiễng, vì đau và chiếc quần
đùi mầu nâu non, đã phai và bẩn thành mầu bí ngô chín nửa chừng của tôi Tôi thò
tay vào túi cố lựa ở trước quán cơm. Anh lại ngửng lên nhìn tôi, đôi con ngươi
của anh, nắng nhạt buổi chiều làm xám lại như mầu hạt dẻ, cái mầu của nhiều đêm
ngày vặn vò cắn xé trái tim anh. Tôi hỏi vội một câu, không cần lắm câu trả
lời:
- Chân anh bị cụt lâu
chưa?
- Em ở tiểu đoàn I dù,
bị thương ở Cổ Thành Quảng Trị 72.
Choáng người, tôi lại
hỏi vội một câu nữa:
- Có biết Đỗ Văn Tân
không?
- Ở khóa 10 Thủ Đức, em
ở khóa 26.
Anh lơ xe đã vời gọi
khách, xe chuyển bánh, tôi rút ở túi quần còn 54 đồng rưỡi. Tôi không có gan
đưa hết cho anh, tôi chia đôi, tôi lấy 27 đồng, đút cả vào chiếc gáo vỡ, bắt lẹ
được tay anh! Tôi nói được một câu cuối:
- Cố gắng chịu đựng!
Tôi vội lên xe đò dù
nhiều lúc phải nghiến răng vì cái chân bị nhói buốt! Tới lúc xe đò đã chạy, tôi
mới trách mình sao lại không hỏi tên?… Nhưng tôi lại nghĩ: hỏi để làm gì? Chính
mình còn đang quay cuồng trong gió bão của quê hương, biết lúc nào rụng rơi?
32.
LÀM ĐƠN XIN ĐẢNG VÀO TÙ
Mãi 8 giờ tối, tôi mới về đến Sài Gòn. Chưa dám về nhà, tôi
thuê xích lô đạp về nhà em Xuân, bên Lăng Cha Cả hết 4 đồng. Nếu chân tôi không
đau, thì tôi đi bộ dù năm mười cây số. Tôi lặc lè bước vào nhà, các cháu không
nhìn ra tôi, tóc tai, râu ria bùm sum, quần áo lếch thếch lôi thôi. Em Xuân ở
dưới bếp bước lên, nhìn tôi rồi miệng mếu xệu ôm chầm lấy, nói trong nước mắt:
- Anh ơi ! Sao anh khốn
khổ thế này?
Chú Tuất đi làm đêm, ở
nhà chỉ có mấy mẹ con, một đứa lấy xe đạp sang báo cho ông bà. Tôi căn dặn nói
cho ông bà, chưa để cho hàng xóm biết. Tôi mệt quá và thiếu ngủ, cô Xuân đun
một thau nước nóng cho tôi ngâm rửa chân, vì buốt nhói quá! Tôi lên gác nằm ngủ
cho lại sức, ngày mai còn đối ứng với CA phường, khu vực.
Sáng hôm sau, cô Thu đã
đến sớm, cứ ôm tôi khóc sướt mướt như trẻ con ngày nào. Mắt em Thu sáng, nên đã
khêu lấy ra được, ba cái gai chà-nà, ở hai bàn chân tôi. Tôi đã mang chúng mấy
ngày trời, từ dưới khu rừng ở ghềnh Hào, Minh Hải về Sài Gòn. Cả một buổi sáng,
cô chú Tuất và cô Thu, các cháu ríu rít mua bán đồ ăn, để gọi là bồi dưỡng cho
tôi, sau 10 ngày trăn trở, quặt quẹo với chuyến vượt biên không thành. Gần
chiều, tôi phải trở về bên bố mẹ và còn phải đi trình diện CA khu vực, lúc 7
giờ tối.
Sau khi thăm hỏi và
chào thầy tôi, tôi vào trong mùng với mẹ tôi. Hai mẹ con không nói ra được một
lời nào, chỉ ôm nhau hàng giờ, để cho những dòng lệ vàng đục, từ những cõi lòng
dúm dó, quặt quẹo chảy ra. Cuối cùng mẹ tôi lần tay sờ lên đầu tôi thều thào:
- Con hãy dâng hết niềm
khốn khó, nỗi khổ đau cho Chúa và mẹ Maria.
Gần 7 giờ tối, tôi mò
đến nhà cô Ngọc Anh, thoáng thấy tôi bước vào buồng, cô trợn mắt nhìn tôi. Cái
bánh “xèo” của cô hôm nay nhăn nhúm, mắt của cô càng trắng ra, gằn giọng:
- Sao anh không đi
luôn, về đây làm gì nữa?
Mặt tôi xìu xuống, chảy
dài ra, chậm chạp ngồi vào chiếc ghế bên cạnh, thiểu não:
- Cô hãy nhìn con người
tôi cô đã rõ. Gần năm tháng nay, ngày nào tôi cũng đi làm, không có tiền mà
cũng không có một hạt gạo nào. Chẳng lẽ tôi chỉ uống nước lã rồi đi làm? 43 –
44 tuổi rồi, mà còn ăn bám bố mẹ mù lòa già yếu. Cô là CA, người đại diện của
Đảng và chính quyền của khu vực này, xin cô hãy xét cho điều kiện và hoàn cảnh
sống, của tôi.
Theo lệnh của phường,
tôi phải làm một bản kiểm điểm: Mười ngày đã bỏ đi đâu? Tại sao đi? Đi những
chỗ nào? Viết chi tiết đưa cho CA khu vực ký, rồi đưa ra phường!
- Vẫn đi làm tổ mành
trúc như mọi khi!
- Viết kiểm điểm vào
buổi tối và sáng sớm !
- Phải nộp bản kiểm
điểm trong ngày thứ sáu (hôm nay là thứ ba).
Họ không cho tôi ăn, mà
còn không cho tôi thở nữa. Thôi! Mình là kẻ chiến bại, thì hãy nhắm mắt lại,
cho kẻ thắng nó hành, nó đầy đọa.
Tôi cố gắng chắt lựa
thời gian, ngày hôm sau, (thứ tư) tôi phóng miết xe lên nhà thằng Lợi. Không
ngờ cháu Mỹ Linh và cháu Hữu Lực còn bị giữ lại ở đồn Cỏ May. Đêm hôm đó (ở bến
bãi) lộn xộn thằng Lợi đưa con lên bờ. Ra ngoài mà đi đông nguy hiểm, nó chia
làm hai. Nó chỉ một đường cho các cháu lớn ra đón xe về Sài Gòn, còn Lợi dẫn
hai cháu nhỏ đón một chuyến xe khác để tránh CA nghi ngờ.
Các cháu lớn có mang
theo một chiếc va-li đựng quần áo, một số hình ảnh, thư từ mang đi (vượt biên)
để làm kỷ niệm. Chẳng hiểu CA khám xe hỏi, chúng nghi ngờ, chúng tách hai chị
em ra hỏi, truy nên phải ra sự thật: Đi không được nên quay về v.v… Cũng may
các cháu không nói gì tới bố, nên chúng còn để ở đồn Cỏ May, chờ bố mẹ đến lãnh
(một hình thức xoay tiền).
Cháu Thủy và cháu
Thắng, con của vợ chồng Đạt thì vẫn còn bị giam ở trại Gáo Dừa, ruột gan của
tôi lại càng bị vặn vò thêm. Đành rằng tôi không có lỗi trực tiếp, nhưng có lỗi
trong gián tiếp Vì thế, mỗi khi có điều kiện tôi lại đạp xe lên vợ chồng thằng
Lợi, vợ chồng Đạt thăm hỏi như một sự chia xẻ. Như tôi đã nhiều lần thố lộ ở trên,
tôi không có khả năng, tài cán gì mà lại còn gián tiếp làm thiệt hại đến bạn
bè. Tôi hiểu vợ chồng thằng Lợi, ruột còn đang rối như tơ vò, nên tôi cũng chưa
dám nói gì, về chuyện phía bên kia, còn định thanh toán thằng Lợi. Nó sẽ càng
buồn bực thêm, mà lại không thể giải quyết, trong hoàn cảnh này.
Nội dung bản viết kiểm
điểm của tôi, chỉ quanh quẩn mấy ý chính: Là một đứa con đã 43- 44 tuổi rồi, bố
mẹ mù lòa già yếu đã không hề giúp đỡ đấm bóp, cơm nước hầu hạ; lại còn ăn bám
vào tiêu chuẩn gạo của bố mẹ, để rồi các người phải ăn cháo, bữa đói bữa no. Dù
thương con nhưng khó khăn não nề quá, nên có lúc các người đã chửi mắng tôi.
Tôi biết bố mẹ tôi là đúng, tôi là sai. Biết mình sai nhưng tôi không biết và
không có khả năng để sửa sai, cho nên tôi phẫn uất lấm! Tôi muốn bỏ nhà ra đi,
dù có khổ cực hay đói khát mà chết, tôi cũng xin bằng lòng. Ở với bố mẹ tôi vừa
buồn …..vừa đau xót…..vừa nhục!
Đến ngày, tôi đem nộp
lên phường, tên Mậu xem xong, xé ngay trước mặt tôi, bắt tôi về viết lại. Y
nói:
- Viết những điều lăng
nhăng, mà chưa thấy cái sai của mình. Nếu không viết đúng sự thật, y sẽ có biện
pháp!
Tôi lại lủi thủi đi về,
tranh thủ tối khuya ngồi viết lại. Tôi cũng chỉ có bằng ấy lý do chính, như tờ
kiểm điểm trước. Ba ngày sau tôi lại phải lấy chữ ký của CA khu vực, của tổ khu
phố, rồi mới đem lên phường nộp. Tên Mậu lại đập bàn, quát tháo là tôi viết lảm
nhảm chưa thấy cái sai cái lỗi của bản thân, nó lại bắt tôi về viết lại nữa. Y
bảo cho tới khi nào tôi thấy được cái sai, cái lỗi của mình mới thôi!.
Suốt ngày đi làm, ăn
uống thì rau, mắm mà cũng không đủ no, tối về lại cặm cụi viết kiểm điểm. Đêm
qua vừa buồn vừa mệt, tôi cứ trằn trọc đến 12 giờ, vẫn chưa chợp mắt được một
chút nào. Đến khi vừa chợp ngủ được thì bất chợt, tôi nghe tiếng của thầy tôi
la to:
- Giời ơi ? Các ông phá
nhà tôi à ?
Mẹ tôi thì khóc nức nở
kêu la:
-Ối trời cao, đất dầy
ơi! Tôi có làm cái gì đâu, mà các ông lục lọi nhà tôi như vậy?
Tôi choàng ngồi dậy, có
tiếng giầy đi lên gác, hai ba người đèn pin loang loáng. Tiếng giầy đi nặng
trên gác, sàn gỗ làm rung rinh cả căn nhà, một tiếng nghe lạ hoắc:
- Tên Bình đâu?
Tôi hất màn chui ra,
ngơ ngác, tên đó lại hỏi tiếp:
- Có người lạ trong nhà
không?
Tôi cảm thấy nản lòng
và phẫn uất quá rồi, nên tôi trả lời không cần văn hóa nữa:
- Các ông đang lục lọi
trong nhà thì các ông biết, tôi làm sao biết!
Cả hai tên chiếu ngay
đèn bấm, vào thẳng mặt tôi. Tôi đứng yên nhìn lại chúng mấy giây, rồi tôi đi
xuống dưới nhà xem thầy mẹ tôi thế nào. Cả hai cái mùng của thầy mẹ tôi, chúng
đều vắt lên, một tên sục xuống bếp, mở cả bể nước mưa ở ngoài sân. Chúng cầm
một cái gậy dài chừng 1m50 chọc, khùa vào bể nước, làm đục ngầu, chúng hạch
sách sổ hộ khẩu, một tên nhìn vào bàn thờ rồi hỏi trống không :
- Cả nhà theo đạo Chúa
à?
Thầy mẹ tôi ngồi yên, tôi
không còn kìm được nữa, muốn thế nào cũng mặc, tôi cũng không trả lời, tôi đã
định nói: ”Các ông nhìn bàn thờ mà các ông không biết gì, nên mới phải hỏi”
nhưng tôi đành “nín thở qua cầu” .
Thầy mẹ tôi, mỗi người
gục ở một góc giường, gần một giờ sau, chúng mới chịu đi ra, không một lời chào
chủ nhà. Nhìn bộ điệu của cả năm tên, hai tên đeo súng ngắn, nhưng cả hai cũng
không đeo lon nên chả biết là CA nào? Quận hay Thành? Tên nào tôi cũng chưa hề
nhìn thấy bao giờ. Tôi đóng cửa rồi bỏ mùng xuống cho thầy tôi, một ông cụ già
77 tuổi rồi, còn lẩn thẩn nữa. Tôi cũng vào đỡ mẹ tôi nằm ra, và bỏ mùng lại
cho cụ. Bà cụ mù lòa cũng không được nằm ngủ yên, tôi chỉ hiểu vì tôi, vì đứa
con bất hạnh, bất tài này nên các cụ cũng phải khổ lây Từ đấy cho tới sáng, vừa
hận vừa buồn nên tôi không tài nào ngủ lại được nữa, thỉnh thoảng nghe những
tiếng thở dài não ruột của thầy, của mẹ tôi vẳng lên.
Sáng hôm sau, tôi vẫn
phải dậy sớm để chuẩn bị ra phường đi làm. Tôi quá mệt nhọc, thấy cuộc sống của
tôi được gần bố mẹ già, nhưng bị ràng bố cả ngày lẫn đêm, tôi nghĩ đến giai
đoạn được ra tù. Khi ấy (năm ngoái) từ cán bộ, cho đến tù nhân đều được tương
đối thoải mái hơn trước đây. Cụ thể, các cán bộ lén lút khoán chúng tôi làm đồ
tư, chúng tôi có trà, thuốc lá, gạo thành ra không sợ đói khổ, như những năm
trước đó.
Tôi chợt thấy, ở nhà
bên bố mẹ già nhưng cũng không có thời gian để phụng dưỡng, đỡ đần các người,
còn làm các người khổ lây như đêm qua. Bản thân tôi còn cực nhọc, đói thiếu hơn
thời gian, tôi ở trong tù vừa qua. Một ý tường lóe lên trong đầu: Tại sao không
xin trở lại tù? ở trong tù còn được cái thú ” tự tôi xin vào tù ” không còn
phải đêm ngày lo lắng CA đe dọa, sẽ bắt vào tù Nghĩ như thế, tôi mần mò để viết
một lá đơn có tình có lý, xin trở lại tù.
Nếu được CA chấp nhận,
thì mình đã đạt điều mình mong muốn! Nếu CA không chấp nhận, thì họ đỡ hành
mình, đỡ hơi một tí, họ lại đe dọa bất trở lại tù, (tôi nghĩ lúc ấy họ đe dọa
sẽ không bắt mình đi tù còn sợ hơn). Sau mấy ngày suy nghĩ, tôi đã viết được
một lá đơn xin đi tù. Nội dung lá đơn xin trở lại trại giam đi tù như sau:
Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam Độc lập tự do hạnh phúc
Kính gửi:
Cục Lao Cải (lao động
cải tạo) trực thuộc Bộ Nội Vụ .
Thông qua:
- Sở CA thành phố Hồ
Chí Minh
- Tiểu Ban Quản Lý
Những Người Học Tập Cải Tạo Được Về.
- Công An quận Tân Bình
- Công An Phường 6.
- Công An khu vực thuộc
Phường 6.
Tôi là Đặng Chí Bình
hiện được tạm trú ở nhà bố mẹ tôi là ông Đặng Chí Phúc và bà Nguyễn thị …..tại
số 12/ 34/18 phường 6, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
Xin quý ông cứu xét
chấp nhận sự thỉnh cầu của tôi:
Tôi nghĩ không một ai ở
một nước nào, lại muốn vào trong nhà tù cả, đây là hoàn cảnh và điều kiện sống
của tôi.
Đầu 1962, tôi có nhận
một nhiệm vụ của cục tình báo VNCH, ra Hà Nội để chống phá cách mạng. Nhưng tôi
đã không làm gì, khi đến Hà Nội CM đã đưa tôi ra Tòa án Nhân Dân Thành PhốNội
ngày 30- 12- 1967 xử phạt 18 năm tù giam và 5 năm mất quyền công dân.
1980 tôi đã được ra tù,
tôi trang trọng cảm tạ ơn trời biển của Đảng và chính phủ. Khi tôi về tới miền
Nam thì bố tôi đã 77 tuổi, lẫn lộn trí nhớ, hay yếu đau. Mẹ tôi 73 tuổi, đã lòa
cả hai mắt 16 năm rồi. Bố mẹ tôi còn sống là do sự đùm bọc, giúp đỡ của bà con
xóm giềng: ” Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước hãy thương nhau
cùng “.
Về địa phương, tôi đã
thi hành mọi điều khoản được quy định với chính quyền, của một người tù được
tha về. Bản án còn 5 năm mất quyền công dân của tôi. ở phường 6 hiện có gần năm
chục quân cán của chính quyền VNCH cũ đi cải tạo được về. Hầu hết họ phải đi
trình diện CA phường một tháng một lần, gần 10 người trình diện tuần một lần,
một mình tôi duy nhất phải trình diện ngày một lần.
Gần 20 năm đi tù tôi đã
tự hiểu, tuy cùng mất quyền công dân, cùng đi tù nhưng chính sách của CM đã đối
xử với từng người hoàn toàn khác nhau. Như tôi đã đi tù: ở 6 năm một mình trong
buồng kín, 4 mét vuông của xà- lim Hỏa Lò Hà Nội. Bị cùm ba năm rưỡi, lúc cả
hai chân, lúc một chân trong cái cùm của thời thực dân Pháp.
Hiện nay, hàng ngày tôi
phải đi làm ở tổ mành trúc 19/5, tám giờ mỗi ngày. Tôi đã làm hơn sáu tháng
nay, không có tiền lương, cũng không có gạo. Tôi phải ăn bám vào bố mẹ mù lòa
già yếu. Cuộc sống già yếu tật nguyền của bố mẹ không còn yên ổn vì tôi. Tôi
tha thiết tự nguyện xin trở lại trong tù cho tới chết, tôi và bố mẹ tôi xin đội
ơn hải hà của Đảng và chính phủ đã cưu mang tôi một lần nữa.
Thành kính Ký tên, ĐCB.
Trưa hôm qua, tôi đi
làm về, thầy tôi đang hì hục chẻ củi, nấu cơm ở dưới bếp, mẹ tôi ngồi ở trong
màn đang ôm đầu. Mọi khi thì thầy mẹ tôi đã ăn rồi, tôi vội vàng nhấc mùng,
trèo lên ngồi bên mẹ, ôm lấy mẹ tha thiết:
- Mẹ làm sao thế? Thầy
mẹ chưa ăn cơm ạ?
Mẹ tôi bị đau đầu từ
sáng đến giờ, nhưng hết thuốc rồi, thầy tôi chống gậy ra nhà ông lang Cảnh ở
Ông Tạ từ 9 giờ sáng. Mãi 12 giờ mới nghe tiếng lọc cọc, thầy tôi chống gậy đi
về, vẫn chưa mua được thuốc. Tôi không kịp xuống bếp xem thầy tôi loay hoay thế
nào, tôi cũng chả thiết gì ăn với uống, tôi phóng xe vội vàng ra ngã ba Ông Tạ,
để mua một liều thuốc nhức đầu cho mẹ tôi trước đã.
Lúc về, tôi gần rẽ vào
đường Bắc Hải, rõ ràng tôi nhìn thấy anh Bưởi đang gò lưng đạp chiếc xe, kiểu
mới tự chế: Theo anh Bưởi, chiếc xe Farovite hơn một chục năm, đã sơn lại hai
lần, một người quen đã bán lại cho anh 70 đồng, trả góp hàng tuần 10 đồng.
Anh nhận được một công
việc, đi giao sữa tươi cho các gia đình, đã đặt mua mỗi buổi sáng. Đi cất sữa,
đi giao sữa bận bịu tối ngày, anh tằn tiện ăn cơm độn bo bo, với mắm cáy (món
sở thích của anh). Mỗi ngày anh có thể để ra được 1 đồng 70. Sau khi kể cho tôi
nghe thành tích, mặt anh Bưởi tươi hơn lên, đôi mất long lanh dưới chiếc riềm
mũ vải, mầu xỉn hạt mít:
- Mỗi tuần tôi còn gần
hai đồng để “vi vu” thuốc rê với đời, chỉ hơn một tháng nữa, chiếc xe này đã
hoàn toàn là của tôi!
33. LÒNG MẸ
Mặc tiếng nói của anh, giấc mơ của anh chạy vào tai tôi lộn
xộn. Mắt tôi đang mải ngắm nhìn cái yên sau, chiếc xe đạp của anh. Bằng năm que
gỗ loại ba phân vuông, dài một mét, anh khéo đóng ba miếng dọc, hai miếng
ngang, trông như cái phên. Anh lựa buộc chặt vào trên cái yên sau, anh có thể
chở đi lủng lẳng và chồng lên trên hơn hai chục bình nhựa sữa tươi. Mới đầu tôi
không nhận được ra anh, tưởng một người đang đạp chiếc xe lôi thồ. Tôi chợt nhớ
đến chuyện CIA gần hai tháng trước, tôi hỏi nhỏ anh:
- Anh còn gặp tên
xích-lô ngày ấy không?
Anh Bưởi lắc đầu, cũng
khe khẽ nói:
- Nghe Bình nói như
vậy, tôi sợ quá! Có mấy lần gặp tên đó, nhưng tôi cố tránh.
Sờ tay vào túi, thấy
gói thuốc nhức đầu của mẹ, tôi từ giã anh Bưởi, hẹn gặp lại sau! Mỗi người một
cảnh đời, đều phải tất bật lo toan!
Về tới nhà, thấy yên
ắng! Thầy mẹ tôi đều ở trong mùng. Tôi vén màn, nhìn mẹ tôi đang ôm đầu rên rỉ:
“Mẹ không muốn sống
nữa, con ơi?”
Lòng tôi càng muốn đứt
ra từng khúc! Nước mắt đã làm mờ, hình dáng tiều tụy của mẹ tôi. Tôi chạy xuống
bếp, mở vung nồi cơm thầy tôi nấu khi nãy. Nồi cơm vẫn còn nguyên, nhưng nhão
như bánh đúc, có lẽ thầy tôi đổ nước hơi nhiều nên nát quá! Nhìn vào trong
chạn, chỉ có thố cà ghém muối của cô Thu đưa sang hai ngày trước, chưa ăn hết.
Trong chạn không còn mắm, muối gì. Tôi dọn cơm vội vàng cho thầy mẹ tôi, chính
tôi sáng sớm mới chỉ có một củ khoai lang luộc, để đi làm. Tôi mang bát đũa của
thầy mẹ, nồi cơm lên nhà, sắp xếp sẵn trên chiếc bàn con, như mọi khi. Tôi
tranh thủ xúc vội một bát cơm, với ba quả cà xuống bếp, ăn lẹ để còn kịp đi làm
chiều.
Tôi mở từng mùng, thầy
mẹ tôi vẫn nằm yên, tôi khẽ khóa cửa rồi phóng xe ra phường, làm bổn phận một
người mất quyền công dân với tổ mành trúc. Tay tôi nhịp nhàng, từ từ đưa từng
cây trúc vào chiếc máy cưa con. Nhìn những đoạn trúc đều nhau, bắn rơi xuống
chiếc rổ, tôi chợt nhớ đến một ước mơ những ngày tôi còn ở xà lim Hỏa Lò.
Tâm lý của con người,
có nhiều khi, chính mình đôi khi cũng không hiểu bản thân mình. Ngày ấy, biết
bao nhiêu lần đêm ngày nhớ thương về người mẹ, như đói thèm ăn, khát thèm uống.
Tôi đã hình dung suy đoán, cái thịt ở rốn của mình là cái thịt cắt với cuống
nhau của mẹ. Để phần nào coi như là đã được sờ thấy, cầm tận tay của mẹ; nên
tôi đã sờ rốn của tôi nhiều lần, bất kể ngày đêm mỗi khi tôi nhớ tới mẹ tôi.
Một ước mơ khi ấy như một đặc ân của Trời, của Chúa mà tôi không thể có, là
được gục mặt vào đôi tay của mẹ mình, rồi có từ giã cõi đời lòng tôi vẫn thỏa
mãn với cuộc đời.
Thế mà từ ngày về được
gặp cha mẹ, chưa bao giờ tôi thực hiện, dù cũng đã có lần gục vào vai, vào tay
mẹ, nhưng chưa lần nào có ý niệm là tôi đang thực hiện được giấc mơ ngày ấy ở
trong tù! Tôi vẫn chưa thấy đầy đủ giá trị, những điều tôi đang có. Dứt khoát,
chiều nay đi làm về, tôi sẽ thực hiện được cái ước mơ cao quý đó. Chỉ mới có ý
định, chủ trương, còn hơn hai giờ nữa mới đến giờ về, mà tôi nhìn mọi người
trong tổ mành trúc hôm nay, ai cũng dễ thương, ai cũng như có thêm nguồn sinh
lực mới, của cuộc đời.
Tôi lửng thửng đạp xe
về nhà, ngay từ xa, nhìn ngôi nhà tôi cũng cảm thấy hôm nay, tôi thương yêu
ngôi nhà hơn. Mở cửa, thầy tôi đang lom khom chuẩn bị hút điếu thuốc lào, cũng
như mọi khi tôi vừa dựng chiếc xe đạp, vừa lễ phép:
- Thưa thầy con về!
Thầy lại hút thuốc! Thầy có nhớ đây là điếu thứ mấy trong ngày hôm nay, không
ạ?
Thầy tôi quay lại nhìn
tôi, như có vẻ lạ lùng, rồi người thủng thẳng:
- Điếu thứ hai!
Thấy thầy tôi có vẻ
tỉnh táo, tôi hỏi luôn:
- Thầy ơi? Có bao giờ
thầy nghĩ đến bỏ thuốc, không hút nữa không?
Thầy tôi đã bắt đầu rít
thuốc, tôi vẫn thấy thầy tôi vẫn duy trì một ngày hút ba điếu, chỉ có thuốc lào
là người không lẫn lộn.
Tôi vào trong, định vào
chào mẹ tôi, lại nghe tiếng lách cách bát đĩa ở ngoài chiếc sân con, nhà bếp.
Mẹ tôi đang mò mẫm rửa chén bát! Tôi đã định chào người như mọi khi đi làm về,
nhưng hôm nay tôi muốn đứng yên, để ngắm nhìn người rửa chén đũa. Mẹ tôi ngồi
trên chiếc ghế con, (chiếc ghế tôi đóng tạm bợ khi tôi mới về cho mẹ tôi) người
đang xát xà bông từng cái bát, cái thìa, đôi đũa. Tuy chậm, nhưng người làm rất
kỹ, từng những động tác nhỏ nhặt, hộp xà bông, miếng giẻ, vòi nước, cái rổ con
úp bát, cho đến cái thau con. Tuy chỉ có ba bốn cái bát, mấy cái thìa, mấy đôi
đũa, người lại chỉ sờ soạng và suy đoán. Bất cứ vật gì trong nhà phải để đúng
chỗ cũ. Đã từ hơn một chục năm nay, các cô Xuân, Cô Thu, hai người con gái cứ
thay nhau một tuần, đến tắm cho mẹ tôi một lần.
Hút thuốc xong, thầy
tôi đã vào mùng đi nằm, tôi kiên nhẫn chờ cho mẹ tôi rửa vừa xong chiếc thìa
cuối cùng. Mẹ tôi một tay sờ chiếc rổ, một tay cầm chiếc thìa từ từ đặt vào rổ.
Tôi không thể kìm hãm được nữa, tôi đã bước đến nhẹ ôm lấy mẹ. Mẹ tôi tươi hằn
mặt, ngửng quay lại như muốn nhìn tôi, nhưng đôi mắt của người đã hoắm vào, làm
sao người nhìn thấy đứa con trai của người, bây giờ ra sao? Tôi kéo tay người
vào vòi nước, rửa từng kẽ ngón tay. Đôi tay này ngày xưa, đã bao lần tắm rửa
cho tôi, đã bế ẵm, ôm ấp tôi bao nhiêu đêm ngày. Thậm chí, cứt đái, mủ máu hôi
thối cũng do bàn tay này, đã rửa ráy săn sóc cho tôi. Mẹ ơi!
Tôi đã dẫn mẹ tôi vào
trong giường của người, tôi ra dọn dẹp hết những phần việc còn lại. Liếc nhìn
chiếc chạn, thố cà muối vơi đi một nửa, như vậy các người chỉ ăn cà với cơm
nhão. Nhớ kỳ này cô Thu đã không kịp mua cho, lọ mắm tôm như mọi khi. Mắm tôm
chưng là món dễ ăn nhất, nhưng tôi chợt nghĩ, cô Thu cũng đang quằn quại với
mấy đứa con nhỏ, chồng còn nằm trong Chí Hòa, những cảnh sống, trong xã hội
dưới chế độ này, chẳng nên ai trách buồn ai. Mẹ tôi đang dò dẫm ra bàn uống
nước, tôi đưa người trở lại giường, để người ngồi.
Mẹ tôi đang định tụt
dép, để cho cả hai chân lên giường.. Không thể chờ được nữa, tôi định tối nay
sau khi ăn cơm tối xong, tôi sẽ biến hóa giấc mơ ngày ấy, ở trong tù thành hiện
thực. Tôi đã tiến đến cầm đôi tay cao quý của mẹ tôi, lật ngửa để trên hai đầu
gối của người. Tôi nhẹ quỳ xuống nền, rồi gục đầu mũi tôi hà, hít mãi cái hơi
thương nhớ, ngọt ngào, ruột thịt. Bàn tay mớm cơm, đút cháo nâng niu, ẵm bế
tôi, ngay khi tôi mới lọt lòng ra chào đời. Tôi đang được hưởng ân sủng của
người, tôi đang sướng vui nhưng sao nước mắt của tôi lại trào ra làm ướt cả
tay. Để rồi mẹ tôi đã rút một tay ra, xoa đầu của tôi, lo lắng hỏi:
- Làm sao mà con khóc?
Trái tim của tôi đang
bị dúm dó, vặn vò do những cái vòi của con Hồng Tuộc (Từ ngàn xưa biển cả có
giống Bạch Tuộc, hay gọi là qủy trắng. Nó có hàng trăm cái vòi, chuyên hút máu
loài hải sản. Thế kỷ 20, thế giới mới sản sinh ra một giống Hồng Tuộc “quỷ đỏ”.
Nó ác độc và thâm hiểm, gấp nghìn lần hơn Bạch Tuộc. Giống Hồng Tuộc có hàng
triệu cái vòi vô hình để chuyên hút máu người. …dân).
Mẹ tôi làm sao nhìn
được, trái tim đang rỉ máu của tôi, nên người cười. Ôi! nụ cười! Nụ cười độc
nhất từ ngày tôi gặp lại người. Tiếc rằng mắt mẹ tôi đã lòa, với nụ cười ấy,
nếu mắt người còn, hẳn sẽ long lanh như những hạt kim cương, môi người vẫn còn
cười như hoa nở mùa Xuân, người nói thong thả :
- Nghe mẹ ? Con hãy lấy
vợ đi !
Một câu nói làm thay
đổi cuộc đời của tôi. Bất chợt, làm cho tôi bàng hoàng, nhưng để làm vui lòng
mẹ, không còn nhìn được tôi, tôi đã nói như khẳng định:
- Con sẽ làm theo lời
của mẹ !
Bẩy giờ tối, tôi mang
cả lá đơn theo, để trình diện CA khu vực. Cô CA Ngọc Anh sau khi ký vào sổ
trình diện hàng ngày của tôi; cô nhắc tôi thứ Bẩy này nhớ đi lao động XHCN. Tôi
rút lá đơn “xin đi tù” nhờ cô thông qua, rồi ký vào. Cô đọc xong, quay lại, mở
to mắt nhìn tôi, cô nhìn tôi như một người cô chưa hề gặp lần nào. Cô không hỏi
han gì cả, cô ký vào rồi đưa lại cho tôi. Thái độ của cô hôm nay, cũng bần thần
khác thường.
Sáng hôm sau, trước khi
vào tổ mành trúc, tôi đưa lá đơn vào phường. Tên Trung úy Mậu, mặt vênh vênh
chuẩn bị ra oai, y tưởng tôi đưa nộp tờ kiểm điểm. Y cắm cúi đọc, tôi có cảm
tướng cái khí thế giương oai khi nãy, như đang xì dần ra phía dưới hậu môn của
y. Y ngửng lên nhìn tôi, mắt y thu nhỏ lại, như con cua rốc bất chợt gặp con
ếch “cồ”. Y lại cúi xuống đọc lần nữa, y nhìn tôi như không tin chính là tôi. Y
nói dịu dàng như nói với người anh, hay người bạn, của y:
- Sao anh lại có ý nghĩ
lạ lùng thế! Anh không nên giận ông bà cụ, ông bà cụ già rồi sẽ chết!
Trong bụng của tôi đang
nghĩ:
“Tôi kính yêu thầy mẹ
của tôi như trời biển ấy chứ! Tôi chỉ thù ghét con Hồng Tuộc mà thôi ! “
Tuy vậy, tôi vẫn nghiêm
mặt, nói rành mạch:
- Tôi nhờ ông ký rồi
chuyển lên, theo hệ thống cơ quan, tôi đã ghi.
Hôm nay sao y lại có vẻ
ân cần, lịch sự như thế! Khi tôi cúi đầu chào y để sang tổ mành trúc, y còn
đứng dậy đi ra theo đến cửa, cứ như đưa tiễn một người bạn, đến nhà y chơi.
Sáng thứ Bẩy LĐXHCN
cũng như mọi khi, cả năm người chúng tôi, phải quét dọn chung quanh khu chợ Nam
Hòa và cả mấy con đường ngang cái cổng, trước chợ. Ngoài những đống rác rưởi
hôi thối, lại có mấy cái cuộn băng vệ sinh của phụ nữ, còn bê bết máu, đỏ lòm,
ruồi nhặng bâu đầy. Có một tồ băng quấn, vướng chặt vào mấy song sắt của lỗ
cống, máu trên tồ băng đã thẫm đen, không một anh nào chịu cho tay vào kéo tồ
băng ra. Ai cũng rụt cổ, lắc đầu trước những con mắt của bà con đi chợ.
Các anh đều chung ý
kiến, thà bốc đất cát, hay khuân vác nặng nhọc, các anh không nề hà, nhưng cái
này, đều giừa cho nhau. Đã mấy anh dùng cào, que, gậy chọc nhưng cái băng cứ
quấn chặt. Cô ả Ngọc Anh, đã thấy rõ từ đầu, dù ả đứng từ xa hàng chục mét.
Tôi liên tưởng đến giai
đoạn tôi ở xà- lim “án chém” Hỏa Lò, để chống muỗi của cả khu 14 buồng xà-lim
bâu vào cắn tôi. Các buồng khác ai cũng có thân nhân nên có màn cá nhân. Tôi từ
Sài Gòn ra, đất nước chia đôi, nên chả có gia đình thân nhân. Để khắc phục cái
khó khăn này, tôi đã có sáng kiến, kết hợp với sự kiên trì công sức của mình,
để có kim, có chỉ và những mảnh giẻ chùi trong nhà cầu, Xà – Lim I dành cho cán
bộ. Vì là nơi sâu kín, nên đa số là cán bộ phụ nữ hay đi vào, vì thế trong
thùng giấy, giẻ chùi, ngoài cứt đái, còn có những băng vệ sinh của các bà.
Tôi không có tiếp tế
nên làm sao có xà phòng! Dù cứt hay máu, chỉ tranh thủ cho vào vòi nước vò vội,
lén giắt vào cạp quần mang về, buồng của mình (rửa ráy, cọ bô trong 5 phút). Vì
sự sống và chết, làm sao tin có ngày về? Ý niệm bẩn hay sạch đã gạt ra ngoài,
để có những cái túi chui đầu vào chống muỗi, túi tay, túi chân ban đêm trong
sáu năm dài.
Vậy hôm nay, tôi làm
hay không làm, chứ tôi còn ra vẻ kiêng bẩn, sạch, mỗi khi cuộc sống bắt buộc,
phải đối diện, là giả dối. Vì thế, cho tới bây giờ, tôi vẫn thường đùa bỡn với
bạn bè: Tôi là loại người, từ trong bãi rác đi ra, chứ chẳng cao sang
Thấy anh em ngại ngần,
lúng túng, tôi đã dùng tay giải quyết dễ dàng, nhanh gọn. Không có gì sạch bằng
nước và xà phòng!
Đêm hôm qua, ý tưởng
lấy vợ cứ vấn vít lòng của tôi mãi. Chỉ vì cuộc sống “du” vào một hoàn cảnh
cùng cực, tiền không có, bố mẹ mù lòa, già yếu, thân thì bị o- p ràng bố đêm
ngày, nên chẳng bao giờ tôi nghĩ tới. Huống chi, trong cái thế này, trước sau
tôi cũng phải ra đi, dù có phải chết cũng sẽ ra đi! Điều làm cho lòng tôi vơi
đầy, như nước thủy triều là bố mẹ già của tôi, bao nhiêu giằng co, ngắc ngư,
lưỡng lự. Đành rằng hai mươi năm trước đã bỏ cha mẹ ra đi biền biệt, nhưng khi
ấy còn em trai, em gái, bố mẹ còn trẻ.
Hơn nữa, trước mắt, tôi
vừa làm lá đơn xin trở lại nhà tù và đã nộp, hãy chờ con đường định mệnh của
mình, ít ngày nữa rồi sẽ tính. Tối hôm qua sinh hoạt tổ của khu phố tại nhà ông
Trùm Lộc, như mọi khi sau khi tôi đọc báo (Nhân Dân) xong, bà con chuyện trò,
nghe tôi phàn nàn làm ở tổ mành trúc, hơn sáu tháng mà không có một đồng tiền
lương nào, mà gạo cũng không. Họ mách tôi, sao không đi xin làm mộc ở các tổ
mộc Phường, Quận, khi tôi có nghề mộc khá?
Ngày hôm sau tôi ra
Phường gặp tên Mậu, đề bạt ý kiến với y. Lần này y lại mềm mỏng chuyện trò với
tôi. Y tỏ ra rất thông cảm với hoàn cảnh sống của tôi. Y đã khuyến khích tôi,
đi tìm những cơ sở làm mộc ở quanh vùng. Tôi cũng thăm dò y xem là tôi đã sắp được
chấp nhận trở lại nhà tù chưa? Y cho biết lá đơn của tôi đã lên Quận rồi, được
chấp nhận hay không phải hàng tuần, hàng tháng, trước mắt hãy đi tìm một công
việc mà làm, rồi chờ. Sau mấy ngày dò dẫm, tìm tòi tôi đã được một tổ mộc thu
nhận.
Tổ mộc Thành Công ở bên
Chi Lăng Gia Định, do ông Huỳnh trên 50 tuổi làm tổ trưởng. Đặc biệt, ông Huỳnh
có bàn tay phải bị ba ngón cụt: ngón giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út. Bàn tay
chỉ còn ngón cái và ngón trỏ, nhìn ông ta cầm bút như cái càng của con cua bể,
đang cắp một con giun đất. Ông ta đã từng là một tổ trưởng, một tổ đặc công nội
thành hàng chục năm trước đây.
Tổ mộc Thành Công,
thường nhận hàng gia công của các cơ quan như: giường, bàn, tủ, ghế. Ông Huỳnh
có một chiếc Mobylette cũ, chuyên chạy đi quan hệ, giao thiệp các nơi. Tổ có
chừng gần mười người thợ ở các khâu. Tôi nhận mức khoán đóng bàn, làm việc nếu
chịu khó năng nổ lao động thì đủ ăn, và còn có điếu thuốc phì phèo. Tên trung
úy Mậu ở phường, yêu cầu tôi phải có giấy ký nhận hàng ngày, làm ở tổ mộc. Và
cứ 7 giờ tối phải trình diện công an khu vực mỗi ngày, như mọi khi.
Từ đấy, tôi cứ sáng đi,
chiều về. Có một việc mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn còn thấy lòng nở hoa. Làm việc ở
tổ mộc Thành Công được hơn một tuần, hôm ấy tôi lĩnh lương được hơn ba chục
bạc, những đồng tiền đầu tiên tôi kiếm được, sau khi ra tù. Đạp xe về qua một
bà hàng bán trứng vịt lộn, để thầy mẹ tôi và tôi đều được thường thức, được
hướng cái đồng tiền đầu tiên này, tôi quyết định mua ba quả trứng vịt lộn, có
đủ muối tiêu và rau răm.
Trên đường đạp xe về
nhà, tay ôm túi giấy gói ba quả trứng còn nóng hổi, tôi có cảm tường như ôm
niềm vui, niềm hưng phấn của thầy mẹ tôi, và của tôi trộn lẫn. Chiếc xe đạp của
tôi, như nó cũng vui lây với tôi, nó chạy, nó đi một cách ” phởn phơ” như muốn
nhẩy cẫng lên ở ngoài đường. Khí hậu của Sài Gòn chiều tàn, cũng thật mát dịu.
Lạ lùng là ngay tiếng chiếc chìa khóa mở cửa nhà, hôm nay nghe nó cũng ngọt
ngào khác thường.
Thầy mẹ tôi vẫn còn nằm
yên trong màn, các người không biết rằng, hôm nay con trai của các người đã
kiếm được đồng tiền đầu tiên sau gần hai mươi năm bị tàn phế, bị cái vòi của
con Hồng Tuộc, nó cuốn chặt cổ và hút máu ở tim. Cũng như mọi ngày, tôi nhẹ
nhàng dọn cơm nước chuẩn bị sẵn sàng ra bàn. Tôi khe khẽ đỡ thầy tôi dậy để
chuẩn bị ăn cơm, tôi lại vào đỡ mẹ tôi dậy. Tôi phải công nhận, hình như mẹ tôi
có một cái linh cảm đặc biệt, mặt của người hôm nay thật tươi, người hỏi tôi:
- Hôm nay có cái gì,
làm con vui thế?
Tôi quay lại nhìn kỹ,
vào hai hố mắt sâu của mẹ tôi, cứ như mẹ tôi nhìn thấy nét vui của tôi thể hiện
ra mặt, vẫn là đôi mắt nhắm nghiền, hõm sâu vào. Tôi đã định nói, nhưng tôi đã
kìm lại nuốt xuống. Tôi muốn để các người ăn cơm xong rồi, mới thưa cái nguồn
vui đó với các người. Cơm hôm nay ngoài món mắm tôm chưng cố hữu, còn có rau
muống luộc tôi đã mua từ hôm qua.
Tôi đợi thầy mẹ tôi vừa
bỏ bát đũa xuống, từ lúc về tôi đã vùi gói giấy ciment có ba quả trứng vào tro
nóng, để nó duy trì cái ấm êm của thầy mẹ tôi và của tôi sắp tận hưởng. Tôi để
nhẹ một tay lên vai mẹ tôi, và trang trọng:
- Thưa thầy mẹ, hôm nay
con muốn thầy mẹ cùng hưởng với con cái đồng tiền đầu tiên, con kiếm được sau
khi tù về.
Thầy tôi vồ vập hỏi:
- Con kiếm được… ở đâu?
Tôi hiểu thầy tôi không
tỉnh táo hoàn toàn, nhưng tôi vẫn thưa rõ ràng :
- Con đi làm ở tổ mộc,
bên Gia Định, tuần đầu con lĩnh lương !
Mẹ tôi thì hiểu, nên mẹ tôi ngửng mặt lên cười, kỳ này mẹ
tôi lại hay cười, đó là nguồn vui chính, lớn lao của tôi. Chắc tâm tư của người
đã chuyển đổi tư duy, cách nhìn. Tôi nhớ đến một ý của Trần Trung Đạo. Tôi xin
đổi hai chữ “thiên thu”: Đổi cả ngàn năm..-..tiếng mẹ cười ! Tôi chạy lẹ xuống bếp lấy
gói trứng lên, tôi lấy một quả lau sạch sẽ, với cái thìa con đưa cho thầy tôi.
Tay thầy tôi run rẩy cầm lấy, tôi biết thầy tôi sẽ tự ăn được. Phần mẹ, tôi lấy
một quả, tôi phải đập một đầu quả trứng rồi bóc ra đưa cho mẹ tôi húp. Mùi
trứng thơm lừng căn buồng, nước trứng nóng hôi hổi.
Thầy mẹ tôi, xì xụp
húp, tôi nghe cả thầy mẹ tôi đều hừ… hừ khi các người nuốt cái nước thơm ngọt
ấy xuống dạ dầy. Phần tôi từ ngày về tù, tuy đã có mấy lần được các cô chú ấy
cho ăn bồi dưỡng, nhưng người tôi vẫn thấy thiếu đói. Vì thế, khi tôi phục dịch
thầy mẹ tôi, tôi nghe rõ trong bụng tôi nó đòi, nó kêu ọ… ọ… ọ… liên hồi. Nhưng
tôi đã ra lệnh cho chúng… ”Hãy yên lặng, phải biết điều! Tao là chủ nhân chúng
bay, nhưng tao còn phải phụng dưỡng thầy mẹ tao đã! Hãy nằm yên!” Chúng nó đã
nghe lời tôi răm rắp!
Bây giờ, tôi mới ra
lệnh cho chúng há hết cả miệng ra! Và tôi bắt đầu húp, bắt đầu rót cái nước
tuyệt vời, xuống từng cái miệng bé xíu của chúng, tôi nghe rõ chúng đồng loạt
kêu:
- Trời ơi ! Sướng !
sướng quá !
Biết chúng nó sướng
lắm, vì chính tôi là chủ của chúng cũng đang sướng ” rủn ” hết, người ra đây
này. Cho hay “trời cũng chiều người!” Cả ba quả trứng vịt lộn, “con” lớn cũng
vừa phải, vì thế cái “nước” và trứng nó cũng đã ngon hết cỡ của nó. Bây giờ bắt
đầu tôi ăn, miệng tôi nhai, tai tôi nghe ở dưới bụng những tiếng rầm rập, rõ
ràng hình như tất cả con tì, con vị, trong con người của tôi, chúng nó rủ nhau
ra hết. Chúng nó đang nhảy múa như ngày vào hội của đình làng, vừa đánh trống,
vừa thổi kèn làm rung rinh cả người tôi.
Không thể để cho chúng
nó vô trật tự, làm loạn. Tôi ra một cái lệnh tối khẩn:
- Đồng bào có nghe tôi
nói rõ không? – Cùng một loạt trả lời ” rõ “. Tôi nói tiếp: ” đồng bào ” ở
trong bụng của tôi yêu quý, tuy trên danh nghĩa là tôi phục vụ, nhưng “đồng
bào” ở trong bụng tôi, thực sự tôi là chủ. Vậy đây là miếng trứng vịt cuối
cùng, toàn “dân” phải tập trung, lắng nghe lệnh của tôi. Tôi bảo đi là đi, bảo
đứng là đứng, bảo nằm là tất cả đều phải nằm. Khi tôi bảo “sướng” thì tất cả
đều “sướng” nó mới có tác động qua lại, cộng hướng để cho cái “sướng” bay lên
chỗ cao nhất của nó.
Miếng trứng vịt cuối
cùng, tôi vét và dốc ngược hết cả vào miệng, trước khi nuốt, tôi liếc nhìn thầy
mẹ của tôi. Thầy mẹ tôi cũng dốc ngược cả cái, cả nước vào miệng, các người cứ
ư ử ư ử rên rỉ. Mặc các người !
Tôi phải giải quyết với
đám “đồng bào”của tôi đã. Lưỡi của tôi đã cứng “đơ” ra rồi, nhưng tôi còn kịp
quát một tiếng thật to: “Sướng!” Tai tôi nghe có tiếng sáo cao vút của Thiên
Thai và hàng bầy tiên nữ rủ nhau nhẩy múa khúc “Nghê Thường”. Thầy mẹ tôi, mỗi
người đều chui vào mùng của mỗi người. Tôi cũng để mặc cho đĩa bát ở đấy, tôi
lần từng bậc thang lên gác, rồi cũng chui vào mùng của tôi.
Năm giờ rưỡi chiều hôm
sau, tôi đạp xe về đến nhà, từ xa tôi thấy bóng một phụ nữ thập thò trước cửa.
Tôi đoán là em Xuân hay em Thu thăm thầy mẹ tôi, nhưng là chị Hai Công và thằng
cháu Hoài Khanh trên Hồng Ngự xuống thăm thầy mẹ tôi. Chị em, bác cháu gặp nhau
thật là mừng rỡ.
Đặc biệt lần này, chị
Hai cứ hay nhìn tôi rồi mỉm cười, thấy chị cười thì tôi cũng cười để đáp lại,
chứ tôi không hiểu hết ý nghĩa đôi mắt trìu mến, và nụ cười thương yêu của chị.
Thì ra ở nhà chị và mẹ tôi đã chuyện trò bàn tán nhiều, về việc lấy vợ của tôi.
Hai thím cháu đã quyết định, chiều mai sẽ có một bữa cơm đại gia đình, của
chúng tôi. Ngay buổi tối đó, thằng Khanh phải sang báo cho cô Thu và cô Tuất
chiều mai đến ông bà.
Phần tôi, vì là làm
khoán, nên tôi đã xin ông Huỳnh về từ 3 giờ chiều mai (lúc khác làm bù). Hôm
sau, buổi chiều nhà tôi ồn ào đông vui như một ngày Tết. Các em, các cháu chật
một căn nhà, để chuẩn bị một bữa cơm sum họp của cả gia đình. Chỉ còn thiếu
thím Lý và bốn cháu nhỏ mãi trên Hồng Ngự (nhưng đã có thằng Khanh, đại diện
cho gia đình chú Lý). Chú Tuất làm ở xướng Ba Son, 5 giờ chiều mới về tới, các
cô chú đã mua hẳn một con gà trống hai ký để thịt, chứ có phải thường đâu! Phải
nói từ ngày tôi về, ngoài những bữa các cô chú mời tôi đi ăn bồi dưỡng ở tiệm
ăn, thì cũng chỉ hai, ba người là cùng.
34.
TÌM BẠN ĐỜI
Đặc biệt từ hôm qua, mẹ tôi đã sai tôi ra đường Bắc Hải, để
mời mợ Út, cùng vào ăn cơm hôm nay. Tôi xin sơ lược về mợ Út của tôi: Mợ Út
chỉ hơn tôi hai, ba tuổi, mợ là vợ của cậu Út, có bốn người con, mợ là họ hàng
phía bên mẹ của tôi. Khi tôi đi tù về thì cậu Út đã chết từ khi nào, và mợ đã
tái giá với một người khác mà chúng tôi thường gọi là chú Hiệp. Chú Hiệp và mợ
Út, sống với bốn người con riêng của mợ Út ở đường Bắc Hải.
Từ ngày tôi về, thỉnh
thoảng tôi vẫn ra thăm hỏi sức khỏe mợ Út và chú Hiệp, các em Quang, Tuấn, Thu
và Phương (hiện nay mợ Út + chú Hiệp và các em đều đã ở Califomia, Mỹ). Mợ Út
là người thành thị, từ Hà Nội cùng di cư vào Sài Gòn 1954, mợ giao thiệp rộng
và ăn nói dễ vừa lòng người. Hôm nay, mẹ tôi sai tôi đi mời mợ, điều chính yếu
là nhờ mợ mối lái tìm, cưới vợ cho tôi. Bữa cơm của đại gia đình hôm ấy, mọi
người đều tán đồng và ủng hộ, việc tôi cưới vợ là đúng với ba lý do:
1) Tôi đã lớn tuổi rồi.
2) Tỏ với chính quyền
VC, tôi an cư lạc nghiệp, chí thú làm ăn, sống với bố mẹ già.
3) Có người phụng dưỡng
đỡ đần cha mẹ mù lòa, già yếu của tôi, nếu như một mai . . .? Tôi muôn vạn nẻo
đường? Trong đó có cả một nẻo về lòng đất nữa!
Mợ Út, tên thực là
Vân, rất sốt sắng sẽ đảm nhận việc tìm kiếm một người. Người đó sẽ đồng hành đi
chung cuộc đời với tên bất tài, bất hạnh này, mợ Út căn dặn tôi: “cuối tuần ra
mợ “.
Những cháu nhỏ, chưa có
ý thức, thì không nói làm gì, các em Thu, cô chú Tuất, chị Hai Công hưng phấn
ra mặt. Từ lâu, trong lòng của mỗi người, tuy không thể hiện ra ngoài; rất băn
khoăn, thấp thỏm không yên, cảnh bố mẹ mù lòa già yếu, mà không có một ai sống
bên cạnh để giúp đỡ, những khi “tối lửa, tắt đèn”. Những ngày “mưa tạnh, gió
hòa ” lại có những ngày “mưa giông, sét giật ” thì làm sao?
Riêng cuộc đời của
người em, người anh lận đận, may mắn sống sót từ trong cơn ” lốc ” của quê
hương trở về. Tuy tuổi đã trên nửa đời, với nhiều ” di chứng ” của cơn ” lốc”
vẫn đang bị những cái vòi của con Hồng Tu ộc quấn chặt khấp người ngày đêm.
Những chiếc vòi ” vô hình ” này đã thẩm hút cơ thể của tôi, chỉ còn da bọc
xương.
Chị Hai Công, đã gọi
riêng tôi xuống bếp, chị cầm tay tôi, nước mất đoanh tròng:
- Chị thương cậu lấm?
Mười ngày nữa, chị sẽ xuống cho, tặng cậu một cây vàng? Không được nói cho các
cô biết.
Tôi đã lên nhà chị ở
Hồng Ngự, một căn nhà tranh vách đất nghèo nàn. Vậy mà chị lại có một cây vàng
để cho tôi, tôi hiểu lúc này (1981), một cây vàng không phải là nhỏ trong cái
lúc mà tình người đã bị con Hồng Tuộc làm cho cạn khô. Tôi đã ngồi xuống chiếc
ghế con ở bếp, hai tay tôi ôm đầu, hàng giờ để thẩm nhận dần cái tình thương
yêu lồng lộng của chị Công.
Cuối tuần đó, tôi mò ra
mợ Út, chú Hiệp theo lời dặn. Mợ nhìn tôi rồi nói như thật, như đùa:
- Năm nay cháu đã 44 –
45 rồi, mợ nhìn cháu, chỉ ngoài 30 thôi!
Tôi hiểu, mợ tôi muốn
cho tôi một liều thuốc, để yêu đời, tôi cười và cũng nói vui lại với mợ:
- Mợ lại cho cháu đi ”
trực thăng ” rồi! Dù vậy, cháu cũng xin cảm ơn mợ!
Miệng trả lời mợ Út
như vậy, nhưng trong lòng tôi cũng có những suy nghĩ chủ quan: Tôi luôn năng
động thể dục, thể thao, bơi lội, lại có sáu năm nằm yên một chỗ thực hành
phương pháp A (tập II Thép Đen) nên có phần trẻ lâu. Cụ thể đã có nhiều bạn bè
nói đến, từ ý nghĩ chủ quan này tôi đã nói thắng với mợ Út nội dung:
- Với khả năng nhìn
sâu, xét kỹ của mợ về con người, cháu tin nơi mợ lấm! Nhưng cháu cũng xin đưa
ra những ý nghĩ của cháu về vấn đề này như sau. Thực sự cháu sẽ lập gia đình,
nhưng chưa phải bây giờ, như bữa cơm ở nhà cháu: cháu phải lấy vợ. Vậy cháu đề
nghị thế này: Vấn đề tiên quyết trong cuộc hôn nhân này: Cháu bị tù 18 năm, rõ
ràng không phải chuyện riêng của cá nhân cháu, mà tù trong chế độ VC với cái
tội ” Hoạt động, gián điệp ” thì hầu như không được tiếp xúc hay nhìn thấy ai.
Vậy cô nào, đối tượng
bất cứ là ai, có đồng ý trừ cho cháu những tháng năm, cháu nằm trong nhà tù
cộng sản hay không, có như thế thì cháu mới bàn đến chuyện hôn nhân. Nếu ”
đối tượng ” đồng ý trừ, thì cháu năm nay mới có hai mươi mấy, huống chi (tôi
nửa đùa, nửa thật) cháu nói vui theo lối ” hình dung “: ông trời ban cho loài
người, phụ nữ cũng như nam giới, mỗi người một sợi ” tơ đồng “, tượng trưng cho
cái thời hoa mộng của mỗi người. Một người đàn ông 44- 45 tuổi ở ngoài đời,
thông thường, cái dây tơ đồng của người ấy đã ” gẩy ” nhiều lần, nếu không nói
là gẩy quá nhiều nên đã ” rão ” ra rồi. Bây giờ có đem ra gẩy thì nó kêu ” bùng
bục, rè rè ” Ngược lại cái giây ” tơ đồng ” của cháu chưa hề gẩy lần nào, vậy
nếu bây giờ có điều kiện gẩy, thì nó phải “thánh thót, lanh lảnh” như buổi ban
đầu hoa mộng của mỗi người!”.
Mợ Út và chú Hiệp nghe
tôi trình bày, đều cười như nắc nẻ, chú Hiệp còn nói đùa thêm:
- Cậu lý luận, hình
dung kiểu này thì dù cho cô nào khó tính mấy, rồi cũng sẽ trừ cho cậu. Vì họ
cũng cảm thấy, như có phần đóng góp cho cái đất nước, khổ đau của chúng ta,
không may gặp phải con Hồng Tuộc. Trên thế giới, bất cứ một nước nào gặp phải
con Hồng Tuộc, gặp nhiều thì dân khổ nhiều, gấp ít thì dân khổ ít.
Ngày Chủ Nhật, đã có
hẹn với chú Hiệp, mợ Út; sau khi đi lễ về tôi phóng xe ra đường Bắc Hải.
Theo mợ Út ở ngoài đầu
đường Bấc Hải, có cô Hoàng Thúy 37 tuổi, hiện là giáo viên cấp Hai trường
Nguyễn Quý Cáp, bố là “chef” một nhà ga xe lửa, ở Nha Trang đã chết trong
chiến tranh. Hiện nay cô Thúy sống với mẹ già 65 tuổi và người em trai theo
nghiệp bố, đang làm trong ngành hỏa xa của chế độ mới. Cũng theo mợ Út, nhà cô
Thúy rất gia phong, nền nếp đạo đức cô và mẹ cô thường đi lễ nhà thờ Thánh Tâm.
Mấy ngày trước mợ Út đã nói sơ về tôi với gia đình cô Thúy, hôm nay họ muốn
tôi ra để chuyện trò, như để nhìn và ra mất buổi đầu.
Vì ngay ở đầu phố, nên
tôi và mợ đều đi bộ đến nhà cô Thúy, ngôi nhà của cô Thúy hai lầu, cũng khá
khang trang. Bà cụ và người em trai cô Thúy chừng 30 tuổi, tiếp đãi chúng tôi
tỏ ra có văn hóa, lịch thiệp. Cậu Thành, em cô Thúy đã hỏi tôi rất nhiều chuyện
ở trong tù, cậu tỏ ra rất thích thú những cảnh phản gián Hà Nội theo dõi v.v…
Vì trước đây cậu đã đọc Z 28 của Người Thứ Tám. Khi cô Thúy đưa nước ra mời
khách, mợ Út đã kéo lại ngồi với mợ để nói chuyện.
Bà cụ và cậu Thành tỏ
ra một vài ý: Nếu cưới hỏi xong thì bà cụ sẽ lo cho vợ chồng ” oversea” (Vượt
biên) v.v. . . Chúng tôi nói chuyện khoảng hơn một giờ, thì xin phép ra về.
Buổi chiều mợ còn dẫn
tôi ra đường Thoại Ngọc Hầu, đến nhà cô Mai, sinh viên Văn Khoa năm thứ 2, năm
nay cô 23 tuổi. Trên đường về nhà, mợ Út đã hỏi ý kiến tôi về cô Hoàng Thúy,
tôi cũng thưa với mợ vài nét có tính cách phiến diện: tỏ ra là một gia đình có
học, có văn hóa. Họ tiếp đãi chuyện trò ân cần không kênh kiệu, khách sáo. Dù
vậy, xin cứ để ít ngày nữa, vội gì.
Khi tôi về nhà, thầy
tôi thì không để ý, nhưng mẹ tôi như nôn nóng đợi chờ, tôi mới bước vào nhà, mẹ
tôi đã hỏi vọng ra từ trong màn:
- Làm sao con? Liệu có
xong không?
Nghe mẹ tôi dồn dập hỏi
tôi chỉ thấy lòng tôi như ăn mấy cục muối mặn. Hình dung, thương cảm cho nỗi
niềm của mẹ tôi, nếu mắt người không bị lòa, thì đây là việc của người. Chính
người sẽ đo lường thẩm định người con dâu của người, nhưng giờ đây chỉ ngồi một
chỗ âm thầm trong bóng đêm để đợi, để nghe, để xin một sự ” bố thí ” của dòng
đời cho người. Tâm tư của tôi như vậy, nên tôi đã trèo lên ngồi cạnh người,
tường thuật tỉ mỉ, chi tiết sự việc cho mẹ tôi. Tôi hiểu đây là một cách, để
nỗi “ẩn ức” trong lòng của người vơi đi được phần nào.
Buổi chiều, mợ Út
không đi được xe đạp, nên tôi đã phải “đèo” mợ ở yên sau. Hai mợ cháu mò mẫm
lách dòng người đến nhà của cô Mai. Ông bố và bà mẹ cô Mai là nhà giáo, dù là
dậy các cháu ở bậc tiểu học trong xứ đạo (giáo làng). ông bà gốc gác ở Cẩm
Thủy, Thanh Hóa, vì chúng tôi vào nhà bất chợt, nên cô Mai đang ngồi với mấy em
nhỏ, ở cái bàn trong góc nhà. Ông bố tên là Thăng, khoảng trên năm chục tuổi.
ông bà Thăng tỏ ra chất phác, cuộc đời của ông bà gắn bó nhiều với luỹ tre, với
xóm làng. Chỉ một thoáng nhìn cô Mai nhưng cô đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng.
Đôi mắt của cô tròn và đen như hai hột nhãn lồng, mái tóc cuối Xuân, đầu Hè như
co, như duỗi trên chiếc áo sơ- mi mầu nâu non của cô. Đặc biệt, trong khi tôi
và bà mợ ngồi tiếp chuyện với ông bà Thăng, tôi đã nhìn thấy hai cái hột nhãn
lồng ấy nhiều lần, ở một cái khe cửa phía nhà trong.
Ông bà Thăng hỏi rất
nhiều sự việc: tại sao ra ngoài Bắc? Họ hàng, thân nhân quê quán, và về bố mẹ
của tôi v.v. . . Tôi cứ sự thật trình bày, cũng hơn một giờ, chúng tôi xin phép
ông bà đi về. Ông bà Thăng vồn vã, như đã thân quen lâu ngày:
- Bây giờ anh đã biết
nhà, khi nào có thời gian cứ xuống chơi với các em!
Trên đường về nhà, bà
mợ lại hỏi như sau buổi đến nhà cô Hoàng Thúy. Lẽ ra, tôi chưa muốn nói về ý
nghĩ của tôi, nhưng nghĩ đến tâm sức của bà mợ, đã mấy ngày nay vất vả vì tôi.
Tôi dịu dàng nói chân thành với bà mợ:
- Mợ hỏi, cháu thấy khó
nói, khó diễn tả, xin nói dễ hiểu thế này: ” Cháu có thiện cảm với cô Mai hơn
là cô Thúy “.
Mợ Út nói, còn hai đám
nữa ở xứ Đắc Lộ và bên đường Hoàng Văn Thụ. Một người hẹn chiều thứ Bẩy tới,
nhưng một người ở đường Hoàng Văn Thụ, thì ngay 8 giờ tối thứ ba này. Tôi không
nghĩ mợ Út lại quen biết nhiều thế!
Đã nhờ mợ, thì cứ phải
đi theo mợ, và cũng là đi theo sự may rủi. Truy cho cùng của sự may rủi, là
định mệnh của đời mình rồi còn gì. Vì cuộc đời kỳ diệu khôn lường.
Từ ngày trở về miền
Nam, quá nhiều sự việc dồn dập, nhưng chính vì ngày đêm CA, không cho tôi thở
nữa nên rất nhiều sự việc, tôi không còn tâm hồn nào mà nghĩ tới. Thời gian
này, do những thúc bách như đã trình bày, nên tôi đi tìm vợ. Một hôm chợt từ
trong hố sâu của đĩ vãng, váng vất nổi lên hình bóng một người của trước năm
1962. Đó là cô Thu Nga, con của một người bạn thân của mẹ tôi, ở khu Bàn Cờ mà
dạo ấy, mẹ tôi đã tâm niệm Thu Nga sẽ là cô con ” dâu ” hiền của bà cụ.
Phải nói, nếu không vì
ngày ấy lòng tôi quá nhiều sôi nổi với quê hương dân tộc, cộng với cái chí
ngang dọc, vẫy vùng của người con trai còn đỏ thắm nên tôi đã gạt hết, gạt cả
những hình bóng diễm kiều, của giai nhân sang bên cạnh. Để tôi bay theo gió,
theo mây, để rồi đã rụng vào mồm của con Hồng Tuộc.
Tối hôm nay, ngoài
chuyện phải trình bày, tường thuật tỉ mỉ sự việc đến nhà cô Mai, (dứt khoát
không thể quên hai hột nhãn lồng) tôi sẽ hỏi mẹ tôi về cô Thu Nga ngày ấy, bây
giờ ra sao? Tất nhiên sẽ cũng như cô TTKH: (tôi không thích gọi là bà).
Nếu biết rằng….tôi đã
lấy ….chồng…
Trời ơi!….người ấy có……
… buồn không?
Có còn thương đến
loài……hoa vỡ…
Tựa trái tim
phai…..tựa…..máu hồng!
Thưa cô Thu Nga, thương
thì vẫn thương! Nhớ thì vẫn nhớ! Nhưng tôi không buồn vì là . . . . . . tôi tự
nguyện. Và chính lòng tôi muốn hỏi cô:
Nếu biết rằng … … ….
tôi đã ở tù
Trời ơn Người ấy có
…buồn không?
Có còn thương nhớ người
… … … năm… … cũ…
Vùng vẫy bên trong….
miệng …Tuộc Hồng?
Ngày thứ Ba, tôi lại
đèo mợ Út sang bên khu Lăng Cha Cả, đường Hoàng Văn Thụ, cô này có một cái tên
rất là “lai láng, dập dờn”: Thùy Trang. Bố cô là một Thiếu Tá trong binh chủng
Thiên thần Mũ Đỏ, hiện ở trại tù Hà Nam Ninh, chưa biết ngày về. Ông có hai
trai, hai gái, cô Thùy Trang là thứ nhì, 26 tuổi, người em Út cũng là gái 20
tuổi rồi, người anh trai cả hơn 30 tuổi đã có gia đình và một con nhỏ. Người
anh trai này tên là Dương đang là sinh viên sĩ quan cửa Thủ Đức, được ba tháng
thì đứt phim nên không phải đi tù.
Bà mẹ của cô Trang đã
gần 60 tuổi, năm 1980 cả hai mẹ con đã mò mẫm ra trại Nam Hà, để thăm nuôi
chồng và cha. Qua mợ Út tôi còn được biết, hai chị em cô Thùy Trang đã đi vượt
biên hai lần rồi, nhưng không thoát, có lần bị bắt giam hơn bốn tháng, phải đút
vàng mới được tha về.
Tóm lại đây là một gia
đình của phe ta, cái phe đã không đứng bằng chính đôi chân của mình, mà hay
đứng dựa, đứng vịn vào người khác, nên đã chiến bại. Và nó mới đẻ ra, những
nông nỗi nhiều nhiều sau này, cho người cùng phe.
Bà mẹ và anh chàng
Dương cũng tiếp đãi chúng tôi nồng hậu, anh Dương và bà cụ tỏ ra tương đối hiểu
biết về những thủ đoạn gian ác, lật lọng của VC. Tôi hơi ngạc nhiên, sau tôi
mới hiểu : gia đình gốc ở xã Lưu Phương Phát Diệm, Kim Sơn tỉnh Ninh Bình. Phát
Diệm khu tự trị đã một thời làm cho Hồ Chí Minh điên đầu.
Bà cụ và anh Dương có
nhã ý mời chúng tôi ăn bữa cơm gia đình buổi chiều tối, vì đối với mợ Ut thì có
thân quen. Phần vì 7 giờ tôi phải đi trình diện, phần khác tôi còn định ra
Phường xin con dấu, để sáng mai lên quận xin gia hạn ba tháng tạm trú ở nhà bố
mẹ. Tôi đã nói riêng với mợ Út , rồi tôi đưa luôn lý do trên ra để từ chối bữa
ăn. Lúc này tôi thấy bà cụ hướng lên gác gọi to:
- Trang! Có chùm trái
vải của chú Trung ở dưới vườn cho hôm qua, con đưa xuống đây để mời bà Vân
(Út) và anh Bình ăn vải đầu mùa!
Tôi nghe tiếng ” dạ ”
êm và ngọt, như mùi trái Lạc Tiên, ngày còn bé tôi và chị Hai Công hay ra vườn
dâu để lục lọi, tìm kiếm. Rồi thoáng bóng một đôi chân, mềm mại đi xuống gác.
Gặp mắt tôi, cô hơi cúi đầu như chào, đôi bàn tay rụt rè bầy những chùm vải ra
một cái đĩa trên bàn.
Nhìn đôi bàn tay, tôi
có ý nghĩ: Đôi bàn tay này chắc cũng đã làm phiền những giấc ngủ, của những anh
chàng nào gặp chúng lúc ban ngày. Nhưng cái đầu và mặt của cô hơi một chút
khuyết điểm, sống mũi của cô hơi gẫy lõm vào như hình chữ V gioãng. Cái cằm của
cô hơi ngắn, thành ra nếu nhìn thoáng, tường rằng cô móm. Bộ mặt của người anh
lại tương đối hoàn chỉnh, con trai đâu cần bộ mặt bằng con gái. Thế mà, ông
trời cũng thường hay lắt léo chéo cẵng gà, có thể cô Thùy Trang cũng được “bù
trừ”. Giọng nói của cô nhiều lúc nghe như tiếng khánh, tiếng ngọc chạm nhau, lý
luận của cô cũng rất mạch lạc, vững chắc dễ thuyết phục người nghe.
Khi chúng tôi chào, bắt
tay từ giã ra về, anh Dương và chính cô Thùy Trang, đã thỏ thẻ ngập ngừng:
- Có dịp mời bà và anh
ghé sang chơi ! Em rất thích nghe chuyện tù của anh Bình!
Tôi chỉ biết cám ơn
toàn bộ gia đình đã niềm nở đón tiếp như người quen, lại được thưởng thức những
trái vải đầu mùa, thực là may mắn! Trên đường về, tôi có nhận xét với mợ Út,
gia đình này tuy ở Phát Diệm nhưng cháu thấy có vẻ hơi đài các, còn cô Thùy
Trang, có thể cô phải va chạm cuộc sống nhiều nên tỏ ra khá sắc sảo, tinh
nhanh.
Tôi vẫn tin vào sự kỳ
diệu của đời, có những cái đúng bây giờ nhưng sau này lại không còn đúng nữa,
hay ngược lại! Chính vì vậy tôi thường nghe nhiều ở cửa miệng người già là ” vợ
chồng là duyên số “. Để rồi, tôi sẽ cảm nghiệm trong những ngày tới.
Mợ Út và mẹ tôi, thấy
đã đi đến ba đám, xem ý tôi vẫn: con cá vàng bơi lội trong hồ, nên cái ” côn “,
” gas ” lúc đầu đã hạ dần xuống. Nghe mợ Út còn nói thứ Bẩy này đến một nhà ở
khu Đắc Lộ, gần hồ bơi Cộng Hòa. Cô này tên Hương, mợ lại khen, ca ngợi là một
cô gái được nết lại được người, rất đảm đang, đã có mấy lần đi buôn hàng chuyến
cà phê đường Ban Mê Thuột với mợ Út. Thì tôi cứ đến gặp cô Hương đó đã, vội
gì?
Chiều hôm qua, một việc
làm cho tôi bần thần, thấp thỏm có lúc tự trách, nhưng có lúc lại thôi. Đi làm
về, khi tôi mệt nhọc đạp xe về đến ngang cổng khu Tân Chí Linh, rõ ràng từ xa,
qua dáng dấp là cô Mai đang đi gần lại, vì ngược chiều nhau. Đúng rồi, hai hột
” nhãn lồng ” nhưng cô không nhìn thấy tôi, sắp ngang qua tôi thì cái mũ mầu
gạch non trên đầu của cô bị gió hất tung xuống đường. Tôi đã đạp xe qua hàng
chục mét. Tôi ngừng xe ngoái lại chiếc mũ bay xuống mé đường, cô Mai cũng đã
ngừng, dắt xe trở lại để lấy cái mũ. Tại sao tôi lại lưỡng lự không nhặt cái mũ
cho cô Mai? Phải chăng khi ấy tôi chưa phân định kịp giữa lịch sự, lịch thiệp (galant)
với ” nịnh “để làm vừa lòng một đối tượng. Nếu ở cái sau, tôi cứ thấy thấp
thoáng có chữ ” hèn ” nên tôi đã ngần ngại, nhặt chiếc mũ cho cô Mai?
Rồi cũng đến ngày thứ
Bẩy, buổi sáng đó tôi lại phải đi Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa, trưa về cơm nước
tắm rửa gần ba giờ, tôi đã xách xe ra mợ Út (vì mợ dặn trước). Lần này không
hiểu sao mợ lại căn dặn tôi nhiều việc như: Cô Hương này rất quý trọng mợ Út,
nên mợ cũng thương quý cô Hương. Hôm nay, có cả người anh rể cô Hương cũng đến
để tiếp, và cũng muốn xem cái anh chàng ” đồng hao ” của mình thế nào!. Mợ vẫn
nói ” Cái mặt và dáng dấp của cháu , nhiều lắm là 35 tuổi, vậy cháu nhớ khi nói
chuyện với gia đình cô Hương, cháu đừng nói đi tù 18 năm, mà nói đi tù 10 năm
thôi. Chứ họ không tin, chả lẽ bị tù chính trị ra Bắc mới có 16- 17 tuổi thì ai
tin được ?” (tôi suy đoán chắc mợ Út đã giới thiệu tôi 35 tuổi).
Hẹn 7:30 tới nhà cô
Hương, vì 7 giờ tôi đem sổ cho cô Ngọc Anh ký, nên tôi đạp xe ra chở mợ Út, để
đi luôn.
Trời đã cập quạng, chim
đã bay về tổ, khách lữ hành cũng rảo cẫng, chúng tôi loay hoay tìm số nhà một
lúc. Một trong những căn nhà mới xây cùng một kiểu cho công nhân viên chức mua,
của chế độ cũ. Trong sân, dưới tàng cây trứng cá đã có hai chiếc xe Honda, một
thanh niên chừng 26 – 27 mặc sơ- mi trắng quần đen, bỏ trong thùng. Anh ta tự
giới thiệu khi bắt tay, là anh rể của cô Hương, đến đây để đón tiếp và chuyện
trò với tôi. Anh ta kéo tôi ngồi xuống mấy chiếc ghế ở góc sân, anh đưa bao
thuốc lá Samitt đầu lọc ra mời tôi. Tôi hiểu giai đoạn ấy thuốc lá đầu lọc là
loại sang, ăn chơi. Trong khi bà mợ vào trong nhà, tỏ ra đã quen biết nhiều với
gia chủ.
Những câu chuyện xã
giao trao đổi với anh chàng ” anh rể ” làm cho tôi đã hơi ngại ngần trong cách
xưng hô. Thôi thì cứ “anh, tôi “, dưới ánh điện từ trong. nhà chiếu ra mập mờ
sáng tối, chẳng thể nhìn được nét ngượng ngùng trên nét mặt của tôi.
Đến khi trong nhà đã
chuẩn bị xong, mợ Út thò mặt ra gọi niềm nở:
“vào trong này cháu ” .
Trong phòng khách, đèn
sáng choang, một ông chừng 46 – 47 mặc bộ Pyjama đã sờn cổ. Qua cách tiếp đón,
bắt tay chứng tỏ là chủ nhân của ngôi nhà. Ngay lúc này, tôi đã mất hết tự
nhiên, đành rằng tôi gọi người đó là ông. Nhưng tôi lúng túng không biết xưng
cháu, hay xưng con, chả lẽ xưng tôi khi định đến hỏi vợ là con gái của người
ta? Vì vậy trong khi chuyện trò, tôi toàn là dùng những câu không có chủ từ .
Ví dụ như khi ông ta hỏi :
- Anh đã được ra tù từ
bao giờ?
- Dạ thưa ông, được gần
7 tháng rồi ạ !
- Ông bà cụ của anh có
khoẻ không?
- Dạ . . . . .cám ơn
Chúa, bố mẹ . . . . .khỏe ạ !
Nói chung, bao nhiêu
cái chủ động tháo vát mọi khi của tôi, hôm nay chúng bỏ nhà đi chơi sạch. Mặt
của tôi cứ nóng lên, nhất là khi một bà từ trong nhà đi ra, tươi cười cầm tay
mợ tôi, trông bà chỉ trạc tuổi của tôi 44- 45 tuổi. Khi được ông giới thiệu: ”
Đây là nhà tôi “. Tôi cũng đứng dậy hơi cúi đầu, miệng lí nhí:
- Xin chào… bà ạ !
Tôi và mợ Út ngồi một
ghế sofa, ông bà đó ngồi một sofa đối diện, một cái bàn kính thấp hình chữ nhật
dài ở giữa, mặt nhìn mặt rõ mồn một. Ông bà ta cứ chằm chằm nhìn thẳng mặt tôi,
ngược lại, tôi chưa dám nhìn xem bộ mặt của ông bà ta ra sao? Mặt tôi cứ nóng
lên phừng phừng, lợi dụng lúc ông bà quay đi; tôi bấm lưng mợ Út nói nhỏ như
cầu cứu:
- Về đi thôi! Mợ ơi!
Mợ coi như không nghe
thấy lời “cầu cứu” của tôi, mợ vẫn say sưa bàn tán vào câu chuyện với bà . . .
..đó. Ông bà hỏi tôi rất nhiều chuyện, từ khi còn đi học ở trong Nam, cho tới
khi ra Bắc và lại đi tù (tất nhiên 10 năm). Cảnh bố mẹ, anh chị em v.v… Tôi
toàn bị động trả lời ngập ngọng, nhất là khi biết bà ấy còn kém tôi một tuổi.
Trước bốn con mắt của ông bà ngồi đối diện, người tôi như ngồi trên nồi rang.
Mục đích là đến hỏi con gái của người ta mà lại xưng “tôi” thì làm sao “ổn”,
xưng “cháu” hay “con” thì cái miệng của tôi không thể thồt ra lời.
Tay tôi cầm chén nước
trà từ lúc đầu; để che lấp những lúc mất tự nhiên, tôi lại đưa chén nước lên
miệng nhấp, nước đã hết từ lâu . Cái chén đã nóng lên do ” nhiệt ” ở tay tôi
chuyền vào, mà tôi vẫn chưa dám bỏ chén nước xuống bàn, cho tới khi bà ấy quay
vào trong nhà gọi rất trìu mến:
- Hương ơi! Đưa nước
thêm ra đây con!
Tôi nghe tiếng “dạ” êm
như gió mộng trong nắng Xuân, từ trong bếp vọng ra, tôi biết cô Hương “đối
tượng” của tôi sắp ra. Tôi cũng còn biết bốn con mắt như tia đèn bấm, đang
chòng chọc quan sát mặt tôi, khi con gái của họ ra “trình làng”. Tôi đã được
biết cô Hương năm đó 18 tuổi, tôi chỉ thoáng bóng dáng một giai nhân có bộ tóc
dài óng ả, xuống quá dưới mông. Cho tới bây giờ tôi cũng chưa biết mặt mũi của
cô ta ra sao? Tôi có dám nhìn lên mặt của cô ấy đâu!
Tôi chỉ được nhìn đôi
bàn tay của cô, khi cô nhẹ nhàng rót thêm nước vào các chén, và tôi lại được
liếc nhìn “suối tóc mơ ” một lần nữa khi cô quay vào nhà trong. Cho tới khi
tiễn chúng tôi ra cửa, ông bà còn vồn vã căn dặn:
- Bất cứ khi nào có
thời gian, anh lại đây chơi với các em, chuyện trò như trong gia đình.
Cho tới khi ra sân, ra
cổng bắt tay với người “anh rể hờ một giờ ” lòng tôi còn xốn xang xúc động.
Từ hôm tôi có ý định
cưới vợ, đây là đám thứ tư, đối tượng nhiều tuổi nhất là cô Hoàng Thúy 37 tuổi,
đối tượng ít tuổi nhất là cô Hương “suối tóc mơ ” 18 tuổi.
Tôi một người con trai
đã 44-45 tuổi đời, bị dòng đời đẩy xô vào trận cuồng lưu, đến nay là một người
tù, bị quản chế chặt chẽ ngày đêm. Bố mẹ thì mù lòa già yếu, cơm gạo thì bữa
đói, bữa no. Không những “tay trắng” mà còn là những bàn tay “nhơ bẩn” có quá
nhiều vết đen, trong chế độ này.
Ai cũng nhìn thấy vì
sao, cả bốn đám đều nồng nhiệt đón nhận? Do tôi đẹp trai? Do tôi ăn nói hay,
tán hươu, tán vượn giỏi? Dù một em bé mới lớn, mới hiểu biết cuộc đời cũng thấy
là hoàn toàn không phải! Về phương diện này có khi còn ngược lại. Như vậy vì
sao?
Đặt câu hỏi thì ai cũng
thấy nguyên nhân sáng tỏ như ban ngày: Nó ẩn tàng, nó cuốn chặt, nó luồn lỏi
vào bên trong sự việc. Tôi đi tìm vợ được người ta chấp nhận là: ý thức và tinh
thần hoài . . .Ngô, hay hoài Quốc Gia của người dân.
Tôi hiểu: Muốn trong
lòng người dân có cái tinh thần hoài…..này, phải mất nhiều xương máu, công sức
của các bậc cha anh, máu xương của nhiều người đã nằm xuống. Khối óc và bàn tay
của nhiều người, nhiều thế hệ để được lòng dân ” hoài ” này. Chế độ VC hiện nay
càng hà khắc, độc tài, chà đạp tự do, dân chủ thì lòng dân càng ” hoài ” Quốc
Gia. Cũng như cụ Nguyễn Du, cụ Nguyễn Khuyến, bà Huyện Thanh Quan v.v… thậm chí
đã làm công chức, làm quan cho triều Nguyễn, mà tâm hồn vẫn còn hoài nhà Lê.
Tôi xin cúi đầu cảm tạ công ơn của quý vị đã đóng góp cho Quốc Gia, để tôi được
hướng thành quả ngày nay.
Trong những câu chuyện
trao đổi ở nhà các cô, dù có nói về gia cảnh, về chuyện làm ăn – Là những
phương diện, tôi không bằng ai – Nhưng phải nhận rằng, thân nhân của các cô, có
thể ở cả các cô nữa, đều ít nhiều ấp ủ trong tâm tư lý tưởng quốc gia.
Sáng ngày Chủ Nhật tôi
lại phóng xe sang nhà vợ chồng Lợi, tôi tường thuật sơ lược chuyện tôi đi hỏi
vợ, cho vợ chồng nó nghe. Vợ chồng Lợi thích nhất là cái cảnh tôi ” ngậm hột
thị ” ở nhà cô Hương 18 tuổi ở Đắc Lộ. Thằng Lợi vừa cười, vừa nói:
- Tao cứ hình dung cái
mặt của mày lấm lét “đíu” dám nhìn mặt cô em. Mày càng “khổ” thì ông, càng
“sướng”!
Buổi trưa tôi đạp xe về
qua Hàng Xanh, đã nhiều lần lên nhà Lợi trở về, cứ đi qua ngã ba Hàng Xanh là
tôi dẫn xe đạp lần mò đến trước cái tháp, người bán hàng đã xếp chồng những bia
lon, thành một cái tháp hình tam giác. Tôi ngẩn ngơ hàng chục phút, ngắm nghía
những lon Heineken, những lon Coca-cola, Budweiser của ngoại quốc. Đời tôi từ
Nam chí Bắc chỉ mới được thường thức bia hơi, bây giờ đi tù về lại có cái loại
bia lon của Mỹ, của Nhật, của Hòa Lan. Như vậy, không biết bên trong mùi vị, nó
như thế nào? Có khác với bia hơi không
Chỉ vì khả năng trong
túi không có đủ tiền, nên nhiều lần chỉ được đứng ngắm nhìn, tường tượng. Rồi
dẫn xe đi, đầu còn ngoảnh lại nhìn cái tháp bia lon, như một loại hàng xa- xỉ
không phải của mình. Nhưng hôm nay, tôi long trọng xin báo cho cái tháp tam
giác ấy rõ, tôi đã có chủ trương! Chủ trương từ mấy ngày hôm trước rồi! Chị Hai
Công khi trở về Hồng Ngự đã đút vào túi của tôi 50 đồng.
35.
MỘNG ĐỜI NỞ HOA
Hôm nay tôi quyết định, mua một lon Heineken và một điếu
thuốc lá lẻ đầu lọc. Tôi sẽ lên căn gác vắng, để tự hưởng một mình để bù lại
những tháng năm, nằm trong miệng của con Hồng Tuộc của thời đại.
Tôi nhẹ nhàng đút cẩn
thận lon Heineken vào trong chiếc túi ” rết ” phía sau lưng, chiếc túi hàng
ngày nó vẫn ngồi trên lưng tôi đi lao động ở tổ mộc Thành Công Trong khi tôi
nắn nót quấn cái khăn chung quanh lon bia để đút vào túi, tôi nhìn cái túi
“rết” mầu núi mùa Đông, như muốn hỏi nó: “Cậu có thấy hãnh diện, từ ngày về với
tôi, hôm nay “đặc trách” cậu được mang một thứ nước tuyệt vời để phục vụ “hạnh
phúc” của chủ nhân?”
Cô bé bán thuốc lá lẻ
hôm nay cũng đặc biệt: bao thuốc lá Dunhill còn ba điếu, cô lấy lại một điếu
rồi đưa cho tôi cả bao. Xin cảm ơn cô bé nhé ! Trang trọng nhẹ nhàng đút bao
thuốc vào túi ngực, áo sơ-mi.
Đẩy chiếc xe đạp ra
đường, tôi thấy mọi người nhìn tôi bằng con mắt khắc thường. Mặc! Tôi nhẩy
“phắt” lên chiếc yên xe rồi nghênh ngang, dõng dạc thẳng lưng, nhấn bàn đạp. Đi
qua Cầu Bông, rất đông người đang chen chúc nhìn xuống dưới triền sông.
Tôi thấy họ lạ thật, họ
lạnh lùng thờ ơ thật! Họ không biết rằng trong chiếc túi “rết” ở trên lưng tôi,
có một lon Heineken! Trong túi áo sơ-mi trước ngực của tôi, có một bao thuốc lá
Dunhill nổi tiếng của Anh, còn những hai điếu. Phố phường, bà con có biết
không?
Tôi muốn mọi người
chung quanh phải chia xẻ với “hạnh phúc” niềm vui của tôi. Ngay mảnh mặt trời,
đã ngả về Tây còn như muốn đẩy lưng tôi, để tôi mau về tới nhà mà “hưởng thụ”.
Trước mặt, hai vẩng mây trắng, trông như đôi bàn tay nõn nà của cô Thùy Trang
đang vời . . . vẫy. Ghét ơi . . . là ghét! Tôi chẳng . . . Tôi lại cúi gầm
xuống, chân nhấn mạnh bàn đạp.
Về tới nhà mới gần ba
giờ. Nhà vắng lặng, chắc thầy mẹ của tôi đang nghỉ trưa! Tôi cố cẩn thận không
gây một tiếng động, tôn trọng giấc ngủ của các người. Tôi cứ thong thả, đường
hoàng chuẩn bị, cho cái phút giây hạnh phúc của tôi. Tôi chợt nghĩ:
“Tại sao không tắm một
cái?”
Đã hai ngày rồi, mà chỉ
15 phút thôi, người sẽ sảng khoái, tỉnh táo, để đón nhận cái ” thú vị ” từ
trước đến giờ chưa nếm mùi. Nghĩ thế là tôi làm liền!
Sau khi tắm rửa sạch sẽ
chuẩn bị xong. Khe khẽ tôi ôm lon bia và bao thuốc lên gác. Khi đi qua màn thầy
mẹ, tôi đã liếc nhìn vào từng màn, các người vẫn nằm yên ắng. Tôi mở to hai
cánh cửa sổ, chiếc cửa sổ duy nhất nhìn sang phía nhà bà Tường, qua một cái ngõ
hẹp, rộng chừng hai mét. Ngồi đây vừa thoáng mát, lại vừa được ngắm một miếng
vuông phía Tây Nam, của mảnh mặt trời chiều. Tôi khẽ khàng trang trọng, đặt lon
bia Heineken và bao thuốc Dunhill gần sát cửa sổ.
Tôi ngồi xếp chân bằng
tròn, mắt tôi cứ đăm đăm nhìn lon bia, và bao thuốc. Óc tôi lần dở lại những
trang đời xa cũ: Thuốc lá Dunhill, trước 1962 tôi đã từng hút nhiều lần. Nhưng
bây giờ cảm nhận lại, mắt tôi nhắm nghiền vài giây. Tôi quên tiệt mùi vị của nó
đi rồi! Được hãy chờ đấy, đừng có hấp tấp mất hết cả ý nghĩa. Tôi liên tưởng
đến một ý, tôi đã quên mất xuất xứ:
“Anh không biết trân
quý những cái anh đang có, thì anh không được hưởng cái tuyệt vời của nó”.
Ngay từ lúc mua ở Hàng
Xanh, tôi đã đọc, nhìn nhiều lần chữ Heineken rồi. Bây giờ tôi vẫn thèm đọc
nữa. Bia hơi thì tôi đã được thưởng thức. Thưởng thức ngay từ những ngày trước
khi đi vào vùng bão tố. Những bia lon, lại là bia của ngoại quốc, bia của Hòa
Lan thì làm sao mà tôi hình dung, tưởng tượng được?
Cũng xin chờ một chút!
Hôm nay tôi sẽ cho phép cơ thể của tôi được thưởng thức cái mùi vị đặc biệt, từ
bé đến giờ chưa một lần được biết mùi.
Bất chợt tôi đập hai
tay vào 2 đầu gối của tôi một cái mạnh. Tôi giật thót người, quay lại nhìn
xuống gác! Tư tưởng của tôi cứ đắm chìm vào bia, vào thuốc từ nãy, khi chợt nhớ
ra đã không lấy cái hộp diêm quẹt, hút thuốc ở dưới nhà lên.
Như choàng tỉnh, nên đã
vỗ vào đầu gối, rồi lại chợt nhớ thầy mẹ đang ngủ, mà mình vỗ mạnh tay quá.
Thành ra cứ luẩn quẩn, loanh quanh, luýnh quýnh, như sắp được nếm của lạ !
Thôi hôm nay tạm tha
cho cái tính lẩn thẩn, lính quýnh, loáng quáng này một lần. Lần nữa thì không
tha mà còn bắt viết kiểm điểm. Ta sẽ xé nhiều lần trước mặt, bắt viết lại, và
còn bắt trình diện hàng ngày nữa. Là chủ nhân, ta sẽ hành cho mi mê tơi, ta có
trăm nghìn cách, bắt mi phải phục tùng làm nô lệ trâu ngựa, suốt đời cho ta.
Mới chỉ nhìn, chưa uống
và cũng chưa hút mà đã say! Ghét bia và thuốc quá đi thôi !
Đã ngâm nga từ nãy,
không chịu được nữa rồi. Tôi cầm lon bia khẽ bật cái móc: Một tiếng xịt dài làm
tôi nhớ ngay đến con voi ở sở thú năm 1958.
Hôm đó tôi và thằng em
trai Công Lý vào sở thú xem voi và hổ. Bỗng một tiếng xịt dài ở hậu môn con voi
làm nhiều người quay lại. Rồi một mùi ung ủng của thịt thiu xông ra, làm cho
mọi người phải bịt mũi. Nhưng tiếng xịt hôm nay nghe thì giống, nhưng cái mùi
của nó thì đê mê làm ngất ngây lòng tôi. Tôi không thể giữ được tay tôi ngừng
lại, tay tôi đã đưa lon bia vào miệng rồi, ừng ực mấy hơi liền. Sau khi đã ngất
ngưỡng được trên nửa lon, bấy giờ tôi mới sờ đến cô nàng Dunhill. Ngày xưa tiền
bối Vũ Hoàng Chương, gặp cụ Lưu Linh thế nào tôi không biết, nhưng hôm nay tôi
đã hân hạnh gặp cụ. Cụ Lưu Linh vẫn trẻ mãi không già, như nàng Xuân mới lớn.
Mùi bia, mùi thuốc đầy
ắp căn gác trống, hồn của tôi đã thập thò mấy lần định lẩn ra ngoài, nhưng tôi
đã kìm lại. Nhìn làn khói xoay tròn, rồi ngoằn ngoèo bò ra ngoài cửa sổ, mầu
khói thuốc đã lẫn lộn vào mấy tảng mây trời. Khói lắt léo giẫy dọn, mây thì nằm
yên nhưng đều bị ánh hoàng hôn nhuộm vàng hết. Mặt trời muộn, đã nhuộm vàng cả
mấy mái tôn, mái ngói; cả một nửa cây điệp to tướng, trong khu nhà thờ Nam Hòa.
Mắt tôi lơ mơ thoáng
một bóng trắng, dưới chiếc giếng giữa nhà bà Tường và nhà tôi, tôi tưởng là hoa
mất. Tôi ghé sát ra song cửa nhìn xuống, đúng là một cô gái, mái tóc đen huyền
buông xõa xuống bờ vai. Đôi tay của nàng, đang kéo gầu nước đổ vào chiếc thau
nhôm, có mấy cái khăn đen trắng. Giữa khe hở của hai lọn tóc phía sau lưng cô,
là chiếc cổ trắng ngần. Cô chừng 22- 23 tuổi, không hiểu cô là con cái nhà ai ở
trong xóm này? Tôi chưa hề trông thấy bao giờ, từ khi đi tù về”
Động óc tò mò, nên tôi
tỉnh hẳn, nghĩ đến hàng rào sắt có cây mai tốt tươi (chưa một lần nở hoa) ngay
sát chiếc giếng, chỉ cách khoảng 1 mét 50.
Tôi lẹ làng xuống dưới
nhà, liếc vào gương, vuốt lại mái tóc, rồi ra sân bếp bên cạnh cây mai, hàng
rào sắt chỉ cách chiếc lưng của cô hơn một mét. Tôi đã nhìn rõ! Thừa nhận da
của cô thật trắng, nhưng chỉ nhìn thấy phía sau lưng. Tôi suy đoán, chắc chắn
khi xong, cô phải đứng lên, quay vào nhà.
Hai tay chống nạnh hai
sườn, ngực tôi hơi ưỡn ra, trong thâm tâm, một sợi chỉ nhỏ lờ mờ, tự nhủ : Bốn
đám mình đã đến nhà; dù không trâm anh thế phiệt, cũng là loại nghiêng nước,
nghiêng thùng mà cũng đều đã chấp nhận. Vậy thử xem cô nàng này, mặt mũi ra sao?
Kiên nhẫn đứng chờ, tôi
đinh ninh, cô này khi ngửng lên, nhìn thấy một chàng trai (hai con mắt) đứng
lừng lững ngay phía sau lưng, cô ả sẽ đỏ mặt, rồi lúng túng. Tôi đã vận dụng
con mắt của nghề nghiệp , chỉ không, chứ cô đã nhìn, dù nhìn ngang (nhìn bằng
trường của con ngươi) cũng không thể qua mắt tôi được.
Nhưng, cho tới lúc cô ả
đứng dậy, xách gầu, mang thau đi vào một cái cửa sau, của một ngôi nhà quay mặt
ra phía xóm nhà thờ, cô không hề liếc nhìn, mặt nghiêm trang, dù cô đã quay cả
ra phía sau lưng. Một luồng hơi anh ách dồn lên ngực tôi, tôi quay vào nhà định
tiếp tục lên gác. Thấy mẹ tôi đã ngồi dậy trong mùng, cái luồng anh ách hãy còn
nóng trong lồng ngực. Tôi sà vào màn mẹ, hỏi ngay:
- Mẹ ơi! Mẹ có biết
phía sau nhà, có một cô gái chừng 22- 23 tuổi có nước da thật là trắng, mẹ có
biết con cái nhà ai không mẹ?
Bà cụ hơi ngạc nhiên,
vì đã hàng nửa tháng nay, tôi đi tìm vợ hết đám này đến đám kia, tôi chẳng nói
năng gì. Bây giờ, lại hỏi về một người con gái, ngay phía sau nhà? Bà cụ ngồi
im, đăm chiêu một lúc, rồi mặt người tươi lên, mỉm cười:
- Đấy là con của bà
Chức, vẫn sang với mẹ, mà con đã gặp. Tại sao, con lại hỏi mẹ thế?
Con bà Chức! Cái bà đã
hai lần chuyện trò với tôi, vẫn gọi thầy mẹ tôi là ông bà cụ, và bà đã xưng em
khi nói chuyện với tôi? Tôi nhớ lại, chính cái bà đã đi xe đạp sang nhà em
Xuân, báo cho biết là buổi sáng hôm ấy, tôi đã về. Mẹ tôi quay lại, còn cười
nữa:
- Con có thích, mẹ sẽ
nói cho?
Để đường hoàng, nhìn
xem mặt cô này, tôi nói với mẹ tôi:
- Con thường không có
nhà, khi nào bà ấy sang, mẹ cứ nói dạm thử, con sẽ sang nhà bà ấy chơi, mẹ nhé!
Chừng bốn năm ngày sau,
một buổi tôi đi làm về, mẹ tôi từ trong màn nói vọng ra:
- Bà Chức nói, hôm nào
con ghé sang nhà bà chơi!
Trong khi hôm kia, hôm
qua phía nhà cô Thùy Trang và cô Hương nhắn mợ Út:
” Sao không thấy anh ấy
xuống chơi! ” .
Một buổi chiều, còn
mươi mười lăm phút nữa, tôi mang sổ trình diện đến nhà cô Ngọc Anh, tôi lúi húi
sửa lại cái xích xe đạp, chuẩn bị cho ngày mai đi làm. Một tiếng rao hàng quen
thuộc, khàn khàn như tiếng con ngạn đực gào, gọi vợ con:
- Lạc rang ……..nóng……..
dòn…….. đây……
Tiếng rao cất lên đã
phá tan cái tĩnh lặng của một xóm chiều, nhiều tần tảo sở xoay với hai bữa cơm
độn bo bo của mỗi ngày. Dạ dầy, sau một ngày lao động cực nhọc nó đã vặn vò,
không còn một chút nguồn sống, nên chỉ nghe tiếng rao, mũi đã đánh hơi thấy mùi
lạc rang thơm lừng. Lòng vừa muốn được thưởng thức những hột lạc dòn ngậy ấy,
vừa muốn giúp đỡ phần nào ông già bán lạc, còn khốn cùng hơn tôi. Nhưng cái túi
của tôi đã ngăn lại, một cách hữu hiệu. Tôi đành phải theo nó, dù vậy tôi vẫn
mở cửa bước ra ngó ông già. Một tay ôm thùng lạc, một tay chống chiếc gậy tre,
vót nhọn.
Nhìn chiếc lưng gầy đeo
chiếc áo lính mầu xám, đã trở thành mầu lá úa, vá chằng chịt. Áo đụp miếng nâu,
miếng đen, như nó đang đeo theo nỗi vơi đầy của người dân đen, quằn quại trong
nanh vuốt của nhà nước chuyên chính vô sản có nhiều tài bịp bợm.
Tiếng rao mất hút dần
về phía cuối chợ Nam Hòa. Con đường hẻm rộng rãi, tráng xi – măng nhiều rác
bẩn, lá bánh, giấy vụn, vỏ chuối, giẻ rách, lá khô thối rữa, gió vun rải rác
từng đống to nhỏ. Những căn nhà hai bên lớn, bé, hai lầu, ba lầu, những mái
bằng, mái ngói, cửa lớn, cửa nhỏ, nhưng đều đóng im ỉm như nhà của bố mẹ tôi.
Trên những ban công, những chiếc chuồng to, nhỏ đóng ghép bằng tôn, bằng gỗ
thùng và bằng các- tông nhặt nhạnh để nuôi gà, thỏ, vịt thậm chí cả heo. Cứt
gà, cứt heo văng vấy lên những bức tường, mầu sơn tươi còn sót lại, những áo,
quần, màn, chăng vắt phơi đây đó. Tôi hình dung đường thời gian của con hẻm
này:
Trước 1962 tôi đi ra
ngoài Bắc, đường hẻm này là đất, cát. Nhà gỗ, nhà tôn, nhà xây lẫn lộn, to,
nhỏ, lồi ra, thụt vào, có nhiều cây trứng cá. Những buổi chiều tôi hay nằm trên
chiếc phản đầu hè, để học hay đọc sách. Nắng, mưa hai mùa, sớm chiều, những
nàng gió vào lả lơi, với những chàng trứng cá. Những anh chàng và những cô nàng
có xức nước hoa hay không, nhưng thực sự con ngõ này, nếu không có mùi hương
của các chàng trai và những cô nàng, thì là những cái mùi, nhè nhẹ trong lành
của thiên nhiên như mùi của cây, của cỏ, của đá và của đất.
Nhưng bây giờ, cũng con
ngõ này, lẫn vào trong không khí, nếu không là mùi của phân heo, gà, vịt, thì
là mùi của lá thối, hay mùi ủng của cống rãnh.
Cuối 1980 tôi trở về,
nhà hai ba tầng xây san sát, đã nói lên một thời phồn thịnh còn vang bóng. Nhìn
con ngõ, tôi hình dung như một người gặp thời làm ăn phát đạt sung túc, mặt
tươi roi rói như hoa mùa xuân. Bây giờ gặp phải thời mạt vận, buôn thua, bán lỗ,
thất cơ, lỡ vận, suốt đêm ngày vật lộn với cái dạ dầy, nên mặt nhăn nhúm, lúc
nào cũng buồn rười rượi, mà còn phì ra những cái hơi, vừa chua vừa thủm nữa.
Chiều hôm qua, sau khi
cơm nước, rửa chén bát xong, tôi đã trèo vào mùng với mẹ để chuyện trò nỉ non.
Tôi đã nói với mẹ, hôm nào bà Chức sang; hay khi mẹ đi chầu, gặp ở nhà thờ, mẹ
hãy nói dùm con chiều thứ Bẩy này, con sẽ sang để thăm gia đình.
Mẹ tôi đã gặp bà Chức ở
nhà thờ, và bà đã đồng ý chiều thứ Bẩy. Cái buổi chiều thứ Bẩy hôm ấy, tôi cũng
chuẩn bị quần áo sạch sẽ, để sang thăm nhà cô nàng, và để nhìn rõ cái mặt, của
cô nàng; dám coi thường đấng ” mày râu “
Nhà nàng cứ tưởng… …..ở
đâu?
Cạnh ngay cái giếng
……..phía sau….nhà mình.
Cũng giống cô nàng của
bác Nguyễn Bính ngày ấy:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi…..
Cách nhau cái giậu mồng
tơi…….. xanh rờn.
Dù đứng ở sân bếp, cạnh
cây mai tôi cũng nhìn thấy cái cửa xanh xanh phía sau nhà nàng. Tôi vẫn đường
hoàng cuốc bộ vòng ra phía nhà thờ, để vào phía trước nhà.
Bà Chức đang ngồi khâu
vá ở một cái bàn, bà bỏ giỏ khâu vào phía trong, rồi niềm nở; sau khi tôi hơi
cúi đầu nhã nhặn chào bà:
- Chào anh! Anh sang
chơi!
- Không ngờ nhà bà lại
ở ngay phía sau, từ ngày về, hôm nay mới sang thăm gia đình .
Bà Chức cầm cuộn chỉ
đút vào chiếc giỏ, quay lại:
- Tôi vẫn sang bên ông
bà luôn, hàng xóm, láng giềng.
Đã chuyển đổi hơi khác
đi rồi, tôi nói đã không có chủ từ, bà Chức đã xưng ” tôi ” không còn xưng ” em
” như mọi khi, và đã gọi bố mẹ tôi là ông bà, thay vì thường gọi ông bà cụ.
Điều này là tự nhiên, tự hiểu của cuộc đời.
Chắc bà ấy và mẹ tôi đã
bàn thảo, trao đổi; nhất là từ ngày tôi về có bao giờ lại sang nhà hàng xóm? Đi
trình diện với CA và lo ăn tối ngày, tâm hồn nào để ý đến hàng xóm?
Trong câu chuyện với bà
Chức, điều chính yếu là cám ơn bà ấy và xóm giềng đã giúp đỡ bố mẹ mù lòa, già
yếu của tôi, trong khi tôi không có ở nhà. Bà Chức cười vui, không khí cởi mở,
bà quay xuống bếp gọi:
- Hoa ơi ! Đem nước mời
” anh ” con !
Đúng cô nàng hôm múc
nước ở giếng rồi, cô nàng chỉ e lệ cúi đầu, chứ không có lời chào, đứng rót
nước, rồi xuống bếp.
Như tôi vẫn biết và vẫn
tin: “Đời sống kỳ diệu, khôn lường!” Không một ai biết được ngày mai của mỗi
người. Ngay một người tử tội, ngày mai sẽ bị bắn ở pháp trường, có trường hợp
vẫn sống, mà còn sống lâu nữa! Có rất nhiều sự việc không thể lý giải. Đã bốn
đám tôi và mợ Út đi đến, họ cũng nồng nhiệt đón nhận anh chàng thất cơ, lỡ
vận, phó thường dân xác xơ nghèo, nhưng nó không thấy thân quen, gần gũi. Họ
còn có nhã ý sẽ lo cho cả hai vợ chồng ” vượt biên ” khi đã là con cái của họ
rồi. Bà Chức bỗng đứng dậy nói:
- Anh ở nhà chờ tôi một
chút, tôi ra đây có tí việc.
Nói rồi, bà quay xuống
bếp cao giọng:
- Hoa ơi ! Con lên nói
chuyện với ” anh “, mẹ ra đây một tí !
Cô Hoa lên nhà, lần này
không dám nhìn tôi; thái độ lúng túng, rụt rè, khác hẳn với khi nãy. Tôi đứng
dậy, nhìn vào một chiếc ghế đối diện, nói nhẹ nhàng:
- Mời cô . . . . .ngồi
nói chuyện !
Câu đầu tiên tôi hỏi cô
Hoa là: ” ông đâu, đi vắng hay ở đâu?”
Trong suốt câu chuyện,
tôi được biết: Ba (tức ông bố) ở trên Phương Lâm, ba người con trai là em của
cô, có nhà làm ruộng, làm vườn ở trên ấy. Cô học vừa hết lớp 11 thì mất nước,
khi ấy cô 18 tuổi, cô đã phải đi thủy lợi hai lần, mỗi lần một tuần, đã nếm mùi
đoàn thể của Việt Cộng.
Hiện nay cô đi làm cho
tổ ngòi bút Đức Thành. Điều làm cho tôi “mềm” lòng nhất, là đã có mấy lần, cô
ấy đã dẫn mẹ tôi từ nhà thờ về nhà. Để biết được ý của cô, đồng thời muốn biết
một vài quan điểm của cô về xã hội, về đất nước và cuộc sống v.v. . . tôi đề
nghị một buổi chiều, ra bờ sông Sài Gòn nói chuyện, cô đã trả lời rất là hợp
lý:
- Em đồng ý lắm, nhưng
phải hỏi ý kiến của mẹ em đã.
Cũng vừa lúc ấy thì bà
Chức trở về, tôi cũng đã thưa thẳng ý kiến trên với bà. Bà tỏ vẻ rất vui và bà
đã nói một câu, tôi vẫn còn ghi nhớ tới bây giờ:
- Em nó đi với anh, tôi
không có ngại ngần gì?!
Để cho mát, tôi xin hẹn
7 giờ 15 chiều. Sau giờ trình diện, tôi đã đèo Hoa ra bờ sông. Buổi đi chơi
này, tôi và Hoa đã trao đổi, thẩm định nhiều lãnh vực, để hiểu tương đối về
nhau.
Tôi muốn có một chút
khái niệm, về ngành giáo dục của miền Nam trước 30-4-1975, nên tôi đã hỏi cô
Hoa học trường nào? Cô đã theo học một cái trường rất lạ: Trường Nhân Chủ, tôi
hiểu dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa thì có rất nhiều trường tư. Trường Nhân Chủ
ở đường Nguyễn Văn Thoại, sau Việt Cộng đổi lại là trường Nguyễn Thái Bình.
Giai đoạn tên Nguyễn
Thái Bình bị bắn chết, ở ngoài Bắc khi ấy VC có dư luận (cán bộ) cũng không ưa
tên NTB này. Nhưng ở trong Nam, Việt Cộng cần lấy chính trị, nghĩa là nó cần
mua những người nhẹ dạ khác, cho nên chúng ra vẻ ghi công như trường hợp Nguyễn
Văn Trỗi.
Giữa Quốc Gia và cộng
sản về lĩnh vực này khác nhau rõ rệt:
- Quốc Gia: Bất cứ ai
đã đem lại lợi ích, cho quê hương dân tộc ở bất cứ lãnh vực gì, chúng ta đều
ghi ơn tôn kính như một danh nhân của dân tộc.
- cộng sản: Bất cứ lãnh
vực gì, chính trị phải đặt lên hàng đầu: Phải có tính Đảng, tính giai cấp, cho
nên chúng có đặt tên phố hay một công trình nào đó, hoặc đề cao một cá nhân là
để mua, để đánh lừa những người nhẹ dạ, trong nước cũng như ngoại quốc. Chứ
người đó, chưa hẳn đã làm lợi cho dân, cho nước.
Sau khi thấy có thể
cùng đi một đường, cùng nhìn về một hướng, tôi cởi cái bọc “anh ách” hãy còn
nóng hổi ở trong lòng, với cô Hoa. Tôi đã cầm tay Hoa, nhẹ nhàng hỏi:
- Thế cái buổi chiều
hôm ấy, ngoài giếng em không nhìn thấy anh ư?
Hoa hơi bóp ngón tay
tôi, rồi nói nhẹ như gió xuân đầu mùa:
- Em không nhìn, nhưng
em biết!
Ngạc nhiên, tôi hỏi cho
bằng thỏa, để rồi em Hoa phải thú thật là đã để ý đến tôi, từ mấy tháng trước.
Một buổi họp liên tổ
Dân Phòng, bà Vinh với bà Chức (mẹ Hoa) đi họp về nói chuyện tên Long to lớn,
thường ngang tàng hống hách trong xóm. Y mượn của anh Bình cái kính, dùng xong
rồi đút vào túi, coi như quên. Anh Bình đường hoàng đến rút cái kính, rồi về
chỗ ngồi, không nói năng gì. Bà Vinh còn nói: “Con ông bà cụ ít nói, nhưng
không dễ bắt nạt.” Em ngồi học, nghe được, rồi em cứ nghĩ đến anh.
Tôi đã cảm ơn em Hoa,
cho tôi biết một sự thật.
Mắt tôi lơ đãng dõi
theo hai con thiên nga, đang sóng đôi bay về phương trời. Tâm tư của tôi lại
chạy ngược về buổi chiều, gặp cụ Lưu Linh hôm ấy, tôi kéo đầu Hoa lại gần. Nói
với Hoa, mà mắt tôi vẫn ôm chặt đôi thiên nga, đã mờ dần xa vút:
- Nếu hôm ấy, em không
nhìn anh bằng một giác quan đặc biệt, thì đã không có buổi hẹn hò hôm nay. Và
em có đồng ý với anh rằng: Đời là kỳ diệu?
Hoa đã bóp chặt tay tôi
hơn, rồi gục đầu vào tay tôi, thầm thì:
- Em đồng ý !
Và cũng trong buổi tối
hôm ấy, chúng tôi quyết định, tiến tới hôn nhân.
36.
CÁI ÁO NHÂN DÂN
Sau buổi nói chuyện với cô Hoa, tôi đã về trình bày chi
tiết lại với thầy mẹ tôi. Mẹ tôi mừng ra mặt, người tươi như có một nguồn sinh
lực mới, người sai tôi đi mời mợ Út vào để người nói chuyện.
Mợ Út vừa vui, vừa
ngạc nhiên: Vui vì tôi đã chịu lập gia đình, lớn tuổi mà còn lận đận, long đong
mãi. Ngạc nhiên vì so với bốn đám kia thì tôi có điều kiện để bay, nhẩy sau này
nhiều hơn, nhưng một khi đã nói: Đời là kỳ diệu, vợ chồng là duyên số thì xin
ngừng lại đây.
Chuyện lấy vợ của tôi
cũng không đơn giản, bình thường. Tôi còn bị mất quyền công dân năm năm, cho
nên tôi phải chạy lên Thành, xuống Quận; ra Ủy Ban Quản Lý Những Người Học Tập
Được Về, vào Phường còn phải đến báo cáo cả cô Ngọc Anh, công an khu vực nữa.
Không phải một lần mà xong, chúng bắt tôi chạy đi, chạy về nhiều lần. Hạch hỏi,
cả những điều tôi không hề nghĩ tới, như:
- Anh quen với cô Hoa
này do đường dây nào?
- Anh có chủ trương gì
với cô Hoa sau này?
Tôi nóng cả người lên,
tôi đã định trả lời theo cái ngang bướng cố hữu khi bị ép đè là:
“Tôi có chủ trương sẽ
đẻ con với cô Hoa! Và sẽ phong cho cô ấy, chức Nội Tướng sau này”.
Nhưng thôi, phải nín
thở qua đò, thì mới có thể làm được những việc mình muốn, nên tôi đã trả lời,
ngoan ngoãn ngây thơ:
- Thưa ông, chủ trương
nào cơ? Tôi chỉ muốn lấy cô ấy làm vợ thô i !
Chỉ có cô Ngọc Anh làm
cho tôi ngạc nhiên. Một buổi tối, tôi đến trình diện xin chữ ký của cô mỗi
ngày, hôm nay sau khi làm những điều thường nhật xong, tôi nói luôn:
- Thưa cô, tôi và cô…
Hoa sẽ chuẩn bị tiến đến hôn nhân, vợ chồng !
Con ngươi của cô đang
là mầu xanh lam hình bầu dục, cô ngửng lên nhìn tôi. Con ngươi của cô mở to dần
thành tròn, rồi ưỡn ra, chuyển thành mầu nâu. Không nói một lời, cô quay ngoắt
vào trong.
Thấy vậy, tôi đứng lên,
khẽ chào, rồi tôi ra về. Mợ Út đã vào nhà tôi nhiều lần, cùng với mẹ tôi, có
cả bà Chức. Các bà đều đã chuẩn bị sấp xếp vào ngày Chủ Nhật này, có cả ông
Chức từ trên Phương Lâm về. Như một ngày chính thức dạm hỏi, để rồi ấn định
ngày cưới, ngày vào Cha cho một lễ cưới đơn giản theo điều kiện và hoàn cảnh
của gia đình đôi bên ở giai đoạn ấy. Vợ chồng Lợi và Đạt hoan nghênh tích cực,
chuẩn bị cho đám cưới của tôi.
Mấy ngày sau, chị Hai
Công ở Hồng Ngự đã xuống và chị đã thực hiện lời chị nói là, cho tôi một cây
vàng lá Kim Thành. “Tiền vào nhà khó, như gió vào nhà trống”. Phải thừa nhận
lạng vàng của chị Hai, đã giải quyết những khó khăn chính, trong giai đoạn này
của tôi.
Tôi nhớ có một bữa cơm
họp mặt mấy bạn bè trên nhà thằng Lợi trước ngày đám cưới của tôi. Bữa cơm hôm
ấy có năm sáu người bạn hoặc liên quan họ hàng: Anh Trần Đình Lộc(anh rể của
Lợi) Đạt, Lợi, tôi, ông Long và anh Bùi Văn Đệ. Bữa cơm họp bạn bè giữa năm
1981, đã hằn vào tiềm thức của tôi.
Những ai ở Sài Gòn
trong giai đoạn này, đều đã thấy: Hầu hết cuộc đời của mỗi người, đều không
biết ngày mai sẽ ra sao? Đầy trăn trở, lắng lo; đầy thấp thỏm ngơ ngác nhìn
ngày mai với những khó khăn, chất chồng trước mặt. Vì thế bữa cơm này, dù tâm
trạng mỗi người khác nhau, nhưng đều muốn uống mà không cần kìm giữ. Trong sáu
người này, người nhiều tuổi nhất có lẽ là ông Long, ông đã từng là một người
điều hành kỹ thuật, của một cơ xường mộc xuất khẩu của Sài Gòn trước và cả sau
1975.
Trong khi người nào cụ
Lưu Linh cũng đã đến thăm, có nhiều chuyện được đề cập. Tôi hiểu tuy là bạn bè
nhưng mỗi người đều có những nỗi niềm riêng, tôi cũng có niềm riêng. Tôi còn có
một cái tôi tin rằng, khác với năm người kia. Tôi có muốn gặp cụ Lưu Linh,
nhưng cái túi nó đã ngăn tôi lại, hôm nay có điều kiện, nên tôi đã nói chuyện
với cụ hơi lâu, hơi nhiều. Bỗng nghe thằng Đạt nói như sừng sộ :
“Ông Hồ có tên trong tự
điển Larousse” .
Rồi tiếng ông Long cũng
sôi nổi:
“Ông Hồ Chí Minh tuy có
một số điểm sai, nhưng chúng ta phải thừa nhận, ông ta đã cả một cuộc đời yêu
quê hương dân tộc”
Anh Đệ ngồi mãi phía
cuối bàn, cũng khàn khàn lên tiếng:
” Rất tiếc, nếu ông Hồ
còn sống, thì người dân không khổ cực như bây giờ“.
Tôi nghe, và tôi cũng
không hiểu tại vì sao các bạn lại đưa cái đề tài HCM ra, để tranh luận? Nghĩ
thế, nhưng tôi vẫn ngồi im, cho hồn đưa võng với cụ Lưu Linh. Tôi hiểu mấy
người bạn của tôi, đều là người Bắc di cư. Cùng ở dưới chế độ VNCH và đều đã là
công chức dưới chế độ đó, đều không ưa gì cộng sản, mà còn nhận định về Hồ
Chí Minh như vậy, thì còn nói chi đến người dân khác!
Nghe như vậy, nhưng
lòng tôi còn rối rắm nhiều sự việc, sáng mai phải đưa bản kiểm điểm lên tiểu
ban Quản Lý Những Người Học Tập Được Về. Họ có tha thứ, chấp nhận cho tôi được
gia hạn ba tháng, tạm trú nhà bố mẹ của tôi không đây? Tuần trước, tiểu ban
QLNNHTCTĐV gửi giấy gọi lên, bắt tôi làm kiểm điểm đã vi phạm thời gian tạm
trú. Lý do, khi tôi lên Thành CA, sáu tháng trước trình diện. Tôi có xin gia
hạn tạm trú, nhưng CA Thành đã bảo vấn đề tạm trú, đã giao về địa phương.Tôi
hiểu địa phương là phường 6; phường của tôi ở, và CA khu vực, mà hai nơi này
thì hàng ngày tôi đều có mặt trình diện rồi.
Đầu tôi đang cúi gầm,
tâm sự với cụ Lưu Linh thì ông Long đã gọi tên tôi:
- Anh Bình đã ra Bắc,
tù nhiều năm, cho chúng tôi nghe ý kiến của anh đi!
Cả cái thằng chó chết
Đạt cũng thúc vào:
- Anh Bình có đồng ý
ông Hồ có công với dân tộc, với đất nước không?
Tôi đã ngất ngưỡng rồi,
nhưng bạn bè muốn tôi có ý kiến, vậy thì cứ nói thật, những suy nghĩ trong
lòng:
- Tôi đã say, nhưng các
bạn muốn tôi có ý kiến, xin các bạn thông cảm, tôi không có khả năng lý luận và
ăn nói. Do đấy, tôi chỉ nói những cảm nghĩ và sự việc bản thân đã trải qua:
Khi tôi còn nhỏ ở trong
vùng Việt Minh, nên tôi đã là nhi đồng cứu quốc. Tôi đã chơi đùa nhiều với các
anh bộ đội của “Bác Hồ” suốt những năm 1945 đến 1950. Năm 1950 tôi ra Hà Nội,
1954 vào Nam, rồi 1962 ra miền Bắc. Do những bối cảnh của quê hương, do những
thúc đẩy của dòng đời, tôi đã nhận một nhiệm vụ nhỏ bé ra Hà Nội để chống cộng
sản.
Dù tôi đã được nghe,
được diễn giải chủ nghĩa cộng sản từ đệ I, II, III IV Quốc Tế diễn tiến cho tới
Tito của Nam Tư (thời gian ở lớp học số 2 Jean Jacques Rousseau).
Một mình tôi xông vào
bức màn sắt, mò về Hà Nội để đi thực tế. Trong đáy con tim của tôi vẫn còn dành
một góc nhỏ, lòng mến mộ HCM. Thật là một điều mâu thuẫn, nhưng đấy là sự thật!
Rồi tôi bị bắt.
Sáu năm trong xà- lim,
cũng là thời gian tôi có điều kiện soi rọi lại những sự kiện của cuộc đời, và
của quê hương. Ở các trại trung ương, là thời gian tôi vừa tiếp xúc với nhiều
những thành phần đối lập, với chế độ cộng sản, lại vừa có điều kiện, đọc những
sách triết, lý luận của cộng sản (do chính cộng sản xuất bản), cái món ăn
tinh thần, tôi vẫn ngán ngẩm, và lười đọc trước đây. Như một món ăn mình không
thích, nhưng đói và cái thế phải ăn mãi thành quen, rồi thành thích.
Vậy mà mãi tới năm 1978
– 1979 Việt Nam đánh sang Căm-pu-Chia; Trung Cộng dạy cho Việt Nam một bài học.
Nhiều đêm tôi mần mò trăn trở, khắp các nước cộng sản, rồi về. đến cá nhân Hồ
Chí Minh.
Đất nước ta bị thực dân
Pháp đô hộ chính thức từ 1858. Dân trí tiến lên theo cái đà chung của toàn thế
giới. Vì thế, từ 1900 đến 1925 biết bao nhiêu thanh niên Việt Nam, đều thấy cái
nhục mất nước, mong ra nước ngoài tìm được một giải pháp cứu nước. Họ, tùy theo
điều kiện, người thì sang Tàu, sang Nhật, Anh, Pháp v.v. . . Nơi nào có những
manh mối đường hướng, chủ trương, phương pháp hay tốt . Để từ đấy hy vọng đuổi
được thực dân Pháp đi.
Biết bao nhiêu phong
trào, đoàn thể, đảng phái đi khắp nơi trên thế giới: Như cụ Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Cường Để, Nguyễn Văn Tiến, Tạ Thu Thâu, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Thế
Truyền v.v…- trong đó có Hồ chí Minh.
Tất cả những người
thanh niên yêu nước, thương nòi đầy nhiệt tâm này đã bôn ba nhiều nước, tiếp
xúc với nhiều phong trào tiến bộ ở bất cứ một nước nào, hy vọng giải phóng được
đất nước của mình. Việc làm của các thanh niên này phải được hoan nghênh, toàn
dân Việt chúng ta; cho tới các thế hệ sau này vẫn ghi ơn các vị.
Thời gian và sự việc đã
cho chúng ta thấy, do cái trào lưu tiến bộ của loài người, đã đến lúc các loại
thực dân kể cả Anh, Pháp, Bồ, Nhật v.v…… trước sau đều phải từ bỏ tham vọng Đế
Quốc, Thực Dân của mình (Mỹ tiến bộ, đi đầu tiên) Hẳn các bạn cũng đã nhìn
thấy, ngay những nước láng giềng chung quanh của ta. Nói như vậy, có nghĩa các
vị thanh niên của ta không cần phải bôn ba, cực nhọc đi tìm phương cứu nước,
thì nước ta cũng sẽ được độc lập. Và như thế, chúng ta đã không biết ơn các vị
thanh niên đó hay sao?
Không! Việc làm của các
vị vẫn đúng, vẫn được chúng ta, những thế hệ sau biết ơn. Như trên tôi đã nói
là do cái trào lưu tiến bộ của loài người. Ngay những tên thực dân sừng sỏ,
cũng không thể biết trước được, huống chi các vị thanh niên ấy.
Nhận xét một con người,
ta phải nhìn từ nhiều mặt, nhìn với con mắt khoa học, biện chứng. Một người có
lòng tự trọng, có nghĩa trọng người khác, thì không thể lừa dối bạn bè, lừa dối
người thân, không thể làm được một công việc hèn hạ, đáng khinh.Một người miệng
và lòng khác nhau, coi quyền lợi cá nhân trên tập thể, trên cả dân tộc. Sẵn
sàng lậy van quy lụy kẻ thù, chỉ cần đạt được mục đích, bất chấp phương pháp
thủ đoạn.
Do thời gian đã dài,
ngày nay nhiều tài liệu mật của Liên Xô (cũ) của thực dân Pháp đã được bạch
hóa, báo chí Pháp và thế giới đã trình bày. Khi HCM đến Pháp (1911) đã làm đơn
xin theo học Trường Thuộc Địa, để sẽ trở thành một người phục vụ trung thành,
cho mẫu quốc nhưng đã bị Bộ Thuộc Địa Pháp từ chối. Anh ta đi thăm hỏi, tìm
tòi, nghe ngóng khắp nơi. Ngày nay ở đâu nước nào có một cái đường hướng tạo
lập được một lực lượng quần chúng như phong trào Đông Du (Nhật), Tam Dân (Tôn
Dật Tiên), Mặt Trận Bình Dân, hay Cộng Hoà v.v. . . Anh chàng tên Minh thấy,
sau này dù có đuổi được thực dân Pháp, thì người lãnh đạo cũng chỉ có một nhiệm
kỳ 4 hoặc 5 năm mà thôi. Rồi chàng thanh niên đó đã gặp chủ nghĩa Marx kết hợp
với của Lénine. Anh ta say sưa học tập và nghiên cứu.
Tuy anh ta hiểu, đi
theo con đường của đệ III của Marx+Lénine, người dân sẽ nghèo khổ, nhưng mục
đích của anh ta đã đạt Nếu đuổi được thực dân, hoặc lật đổ được một chế độ, thì
anh ta sẽ ngồi ở cái ghế đứng đầu ở trong nước, mãi mãi. Một hình thức của một
ông vua, một ông Hoàng Đế tuy không thể làm ngai vàng. Nhưng chỉ khi nào chết
mới thôi, như ở Âu Châu: Lénine; Staline; Caucescu; Honoker; Fidel Castro. Á
Châu: Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh. Đặc biệt Kim Nhật Thành còn truyền ngôi lại
cho con trai nữa.
Đến đây, ai cũng đã
thấy: Những lãnh tụ cộng sản là những người có chủ nghĩa cá nhân cao nhất,
núp sau cái bình phong tập thế, là nhân dân.
Điều này cũng lý giải
cộng sản phải thanh toán gián tiếp hay trực tiếp, tất cả những cá nhân hay đoàn
thể, không phải là cộng sản. Cũng đã lý giải, ngay từ khi còn chính phủ liên
hiệp, cho đến ngày nay biết bao nhiêu cá nhân bị hạ sát, bị thủ tiêu.
Với cái hiểu biết hạn
hẹp của cá nhân tôi: HCM là một người không có tim, không có tình cảm, đầy thủ
đoạn. Một con người bằng gỗ, bằng đá. Cụ thể: Bất cứ một bài báo, một bài viết
nào của HCM, không bao giờ nhắc đến, hay nói đến:
- Cha mẹ, anh chị em
(Ai mà chả có cha mẹ?).
- Bạn bè. Dù là một tên
trộm cướp, một tên vô lại cũng có bạn bè !
- Vợ con, người tình.
Ngày nay không những ở trong nước, thế giới bên ngoài đều rõ: Không những HCM
có vợ, mà còn có nhiều vợ, nhiều người tình.
Còn nữa, có lẽ trên thế
giới này, là độc nhất, vô nhị. Tự mình lấy một cái tên giả để viết ca tụng đạo
đức, tài ba của chính mình. Như tên T. Lan, rồi Trần Dân Tiên. Các anh có thấy
nực cười không? Trần Dân Tiên (tức HCM) viết: ” . . . .Tôi hồi hộp, sung sướng,
bồn chồn khi được bác Hồ cho gặp, bác tiếp chuyện tôi (Chế Lan Viên đã nói
trong hội nhà văn năm 1978. Trần Dân Tiên là chính bác Hồ). Đến đây, nếu chịu
suy nghĩ một chút, thì ai cũng hiểu.
Một người như thế thì
có thể làm bất cứ điều xấu xa nào. Lừa lọc, lật lọng trắng trợn, giết người;
nếu cần giết cả vợ con, bố mẹ, anh em để đạt cái mục đích thâm sâu của mình. Mà
quan điểm của tôi:
- Một người bất cứ ở
thành phần nào, tuổi tác nào chỉ một lòng vì dân, vì nước kể cả mạng sống của
mình, tôi xin tôn trọng kính nể, chết thì tôi tôn thờ.
- Một người cũng bất cứ
ở thành phần nào, tuổi tác nào, coi mình là trên, Tổ Quốc quê hương bên dưới,
làm hại đồng bào, bán nước, bán đất cầu vinh. Sống tôi gọi là “tên”, là
“thằng”. Chết, „tôi phỉ nhổ đến muôn đời. Và từ đấy, tôi đã gọi HCM là “tên”,
là “thằng”. Dù cho y mấy trăm tuổi, muôn đời như “tên” Trần ích Tắc, Lê Chiêu Thống
v.v. . .
Xin trở lại bữa cơm họp
bạn ở nhà Nguyễn Hữu Lợi, gồm 6 người của năm 1981. Hiện nay 2005, trừ ô.
Nguyễn Phan Long còn ở VN. Năm người kia thì 3 ở Hoa Kỳ là Trần Đình Lộc, Bùi
Văn Đệ và tôi. Hai người ở Australia là Nguyễn Đức Đạt và Nguyễn Hữu Lợi. Bằng
phương tiện khác nhau, thời gian khác nhau nhưng đều đã ở hải ngoại. Điều này
đã nói rõ: Đời là kỳ diệu !
Sau bữa cơm, tôi đã rủ,
mời cụ Lưu Linh cùng về. Chiếc cầu Kinh chiều nay trắng quá ! Tôi ngừng lại,
ghé ra thành cầu. Sao lạ lùng thế! Từ trên cao của thành cầu nhìn xuống, hôm
nay nước xanh ngắt một mầu lam mát mắt. Tôi nhìn thấy cả mặt một anh chàng “ngố
„ cũng đang nhìn tôi. Tôi cứ ngạc nhiên ngắm nhìn anh ta mãi. Trông mặt mũi anh
ta, tôi cũng thấy cảm tình, gần gũi dễ mến. Cho tới khi tôi tỉnh dần, rồi tỉnh
hẳn, để biết anh chàng “ngố „ đó cũng chính là tôi.
Trời trong xanh, không
một làn gió, cảnh vật yên ắng của một buổi chiều êm ả. Một vài tiếng quang quác
như tiếng chào hỏi của một đàn vạc vừa bay ngang, làm tôi phải ngửng đầu lên nhìn
theo. À . . .thì ra bầu trời hôm nay không có một vẩn mây. Cái mầu lam xanh yêu
đương ấy, đã nhuộm cả mặt nước dưới chân cầu.
Tôi đã ghệ chiếc xe đạp
vào thành cầu, rồi đứng lên, kiễng chân. Tôi đã thấy nhiều mây trắng lắm dưới
chân trời. Tôi có cảm tưởng cái vung xanh kỳ vĩ của bầu trời, đã lắc lư rúng
động sao đó. Bao nhiêu những miếng bông gòn trắng rải rác, đã tụt hết xuống
riềm chiếc vung, thành từng đống.
Con sông Thanh Đa nằm
phơi mình ưỡn ẹo, hai bên bờ cây lá xanh um trườn ra, như những vết mực đen
loang lổ. Cụ Lưu Linh cũng đã từ giã tôi, để đi về một phương trời. Tôi cũng
nhấn mạnh bàn đạp, để kịp giờ trình diện của ngày hôm nay, với CA.
37.
HỢP DUYÊN ĐỜI
Ngày Chủ Nhật, mợ Út và tôi đã sang nhà ông bà Chức, tôi
đã được gặp ông Chức từ trên Phương Lâm về. Tôi cũng đã được gặp một số anh chị
em của cô Hoa, cuối cùng đám cưới sẽ được cử hành vào ngày 28 tháng 9, như thế
chỉ còn hơn hai tháng nữa.
Phải nói, do tình
thương yêu đùm bọc của bà con bạn bè, nên đám cưới được chuẩn bị dù giản dị,
trong điều kiện và hoàn cảnh của giai đoạn ấy, nhưng cũng tạm đủ những truyền
thống, tập tục của quê hương. Tôi cũng cật lực, chạy ngược xuôi với các ban
ngành của địa phương, từ thành xuống đến công an khu vực. Tôi không thể quên
được nghĩa tình của họ hàng, bà con, bạn bè:
- Anh chị Hiền (anh họ
của tôi) đã cho mượn một cái giường đôi một tháng. – Mẹ của anh Mai Văn Học
(một biệt kích nhẩy toán ra Bắc mới được tha), nhận sẽ mua cau tươi cho đám
cưới. – Cô Thu và cháu Thanh Lan, đi lo đặt mua một số bánh phu thê (xu xê) và
bánh cốm. – Cô Oanh, bạn của cháu Thanh Lan đã cho mượn một bộ quần áo, và giầy
của người anh trai mới cưới vợ. – Con trai (Hùng), con gái, con rể (Vợ chồng
Uy+ Lý) của anh Nguyễn Huy Lân (toán trướng toán Boone chưa được về) đến chuẩn
bị nhà cửa, giúp đỡ tôi trong đám cưới.
Để xác định rõ ràng,
tôi ra phường hỏi rõ ông Nguyễn Quốc Văn chủ tịch phường và ông trung úy Mậu
trưởng CA, về lá đơn tôi xin trở lại tù, bây giờ ra sao? Đã được chấp nhận
chưa? Theo ông Văn và ông Mậu, lá đơn của tôi đã chuyển lên Thành rồi, được
chấp nhận hay không, các ông ấy cũng không biết. Tôi định lên hẳn đường Trần
Hưng Đạo, CA thành để hỏi cho ra sự việc. Tôi tin rằng, tôi chỉ mất công thăm
hỏi với sự nhã nhặn đúng mức, thì rồi tôi sẽ tìm ra được diễn tiến của sự việc,
nhưng tôi chẳng còn một thời gian nào cả, để kiếm miếng cơm hàng ngày, tôi đã
làm việc cật lực. Kỳ này điện thành phố bị tắt thường xuyên (thành phố thiếu
điện) vì thế tôi lao động bất kể ngày đêm, kể cả thứ Bẩy, Chủ Nhật, cứ khi nào
có điện, tôi lại lao vào cưa, bào, đục, xẻ.
Mệt nhọc và căng thẳng
tinh thần; tôi đâm ì mặc cho ra sao! Thế nào cũng chấp nhận. Tôi đã hình dung
chuẩn bị tư tưởng, nếu đang đám cưới mà có lệnh đưa tôi trở lại tù, tôi cũng
sẵn sàng ra đi, vì tôi đã tự nguyện. Trước mắt tôi cứ gạt điều đó ra một bên,
để tâm trí vào việc chuẩn bị lo cho đám cưới. Dù gì cũng phải tôn trọng cô Hoa
nữa, mới chạm vào đời tôi một chút, mà đã để cho cô phải lao đao với tôi?
Theo ý của các cô Thu,
Xuân và chị Công, đám cưới dứt khoát phải chụp hình, ít nhất là ở nhà thờ. Giai
đoạn này chụp hình hãy còn nhiều khó khăn, nhất là hình màu thì thật là tốn
phí, ai cũng nói, nó là những tấm hình kỷ niệm của một đời người.
Tôi cũng hiểu như vậy,
chỉ vì hoàn cảnh và túi tiền, cuối cùng tôi quyết định chỉ chụp bốn tấm hình
màu ở nhà thờ với cha Bình (đầu người bạc trắng, dù người còn trẻ) giá 100
đồng, là tiền công của tôi làm mộc 10 ngày cật lực, ở tổ mộc Thành Công thuộc
phường 7 Quận Phú Nhuận. Tôi đã nhẩm tính, dự trù một số người tôi sẽ mời tham
dự đám cưới trong thời gian quản chế, mất quyền công dân, rồi tôi làm một lá
đơn xin phép ngày tổ chức đám cưới tại nhà vào khoảng bốn chục người. Lá đơn
xin phép không những ra Phường, mà còn phải ra tiểu ban QLNNHTĐV và quận Tân
Bình.
Khi vào gặp tên Bội,
trong tiểu ban QLNNHTĐV, y lấy bút đỏ gạc con số 40 mà viết số 20, y nói:
- Sao đám cưới lại đông
thế?
Tôi nghĩ ngay anh em họ
hàng trong nhà cũng đã hai chục người rồi, vậy y không cho mời khách ư? Người
tôi lại ngứa ngáy, tôi định nói những lời phản đối. Y lại nói tiếp:
- Những người không
phải anh em ruột thịt đều là khách, chỉ giới hạn hai mươi người, nếu anh không
chấp hành, anh sẽ phải chịu trách nhiệm.
Tôi nhìn y trừng trừng,
miệng tôi không cười, nhưng tôi cườibằng mắt, như muốn nói với y:
” Tôi đã làm đơn chịu
trách nhiệm rồi, tôi còn coi ra gì cái trách nhiệm này“
thấy y có vẻ không hiểu
cái cười mắt có lồng ý của tôi, nên tôi nói thẳng:
- Thưa ông hơn hai
tháng trước, tôi đã làm đơn xin tự nguyện trở vào tù rồi mà?
Y cau mặt, quay ra hỏi tôi:
- Anh làm đơn khi nào?
Tôi chợt ngạc nhiên,
nên nói mà như hỏi:
- Hơn hai tháng trước!
ở dưới phường ông Văn nói đã nộp lên quận, lên thành rồi?
Đầu y hơi nhúc nhích
như lắc, miệng y hỏi tiếp như không tin:
- Tại sao anh làm đơn,
xin trở vào tù?
Nhìn y chừng hơn bốn
chục tuổi, không đeo lon nên tôi không xác định được. Giọng Nghệ An của y nghe
như giã gạo; nhưng từ tốn hơn khi nãy, nên tôi điềm đạm nói sơ lược lý do:
- Thưa ông, từ ngày tôi
đi tù về, tôi đã tích cực chấp hành mọi quy định với địa phương: tôi đã lên
thành, và tiểu ban quận trình diện nhiều lần. Hàng tuần mỗi thứ Hai ra trình
diện tại phường, mỗi ngày tôi trình diện CA khu vực để xin chữ ký, hàng ngày
tôi phải lao động tại tổ mành trúc 19/5 bên cạnh phường 6. Hơn bảy tháng tôi
không có gạo, không có lương, bố mẹ của tôi già yếu, mù lòa. Tôi phải ăn bám
vào các người, làm cho các người càng thiếu đói, khổ cực. Tôi đã nỗ lực làm lại
cuộc đời nhưng cho tới nay, tôi không còn muốn sống nữa. Mẹ tôi 74 tuổi mù lòa
từ 17 năm, nay người lại mắc thêm bệnh phổi thường nôn ra máu, tôi đã phải đưa
người vào bệnh viện Hồng Bàng mấy lần. Không còn một lối nào để tôi sống, nên
tôi đã làm đơn xin Đảng và nhà nước, cho tôi được trở lại nhà tù, tôi xin tự
nguyện ở tù cho tới hết đời.
Y ngồi nghe tôi từ tốn
trình bày, mặt y nhợt trắng ra, không xám đen như lúc đầu, y hỏi như băn khoăn
thắc mắc:
- Thế, sao bây giờ anh
còn lấy vợ?
Tôi trả lời ngắn gọn:
- Để nếu được Đảng và
chính phủ ra ân cho tôi vào tù, thì có người đỡ đần bố mẹ tôi !
Y đứng dậy, hơi hất hàm
nói nhẹ nhàng:
- Thôi, anh về đi, lo
cho ông bà già ! Đừng bi quan quá!
Tôi cầm tờ giấy cho
phép tổ chức đám cưới ra về mà lòng nặng trĩu. Đi qua rạp ciné Đại Lợi cũ, cạnh
đấy là một building to lớn, nay đã trở thành nhà tù. Một thoáng tôi liên tưởng
về miền Bắc: Nhà tù đã mọc lên khắp nơi, cả những nơi vui chơi, du hí của quần
chúng cũng trở thành một trại giam. Có bao giờ những người đi làm cuộc Cách
Mạng Tháng Tám, đánh đuổi thực dân Pháp, ngồi suy ngẫm: Để lôi kéo toàn dân
đứng dậy, với hai khẩu hiệu chính:
- Người cày có ruộng. –
Phá nhà tù để xây trường học.
Bây giờ thực tế nhìn
vào xã hội, đã đảo ngược hai khẩu hiệu trên.
- Người có ruộng trở
thành làm thuê. – Phá trường học để xây nhà tù.
Hẳn các quý vị đã nhìn
thấy những cái lắt léo, lật lọng của những người chủ trương. Còn lý do thì vô
vàn: Ngược thành xuôi, ngang thành dọc, phải thành trái:
Mất mùa là tại thiên
tai. Được mùa là tại thiên tài Đảng ta.
Sau nhiều những chuẩn
bị lo toan, và sự giúp đỡ của bà con, họ hàng và bạn bè, ngày cưới cũng đã đến
và đi qua. Tôi cũng đã thực hiện được bốn tấm hình mầu, ở nhà thờ Nam Hòa với
cha Bình, cùng bạn bè thân thuộc.
Đã chấp nhận trở lại
nhà tù, nên tôi chẳng cần phải mời một ai trong chính quyền. Duy nhất có ông
Trùm Lộc, mời ông ấy không phải vì ông ấy là tổ trưởng của khu phố, mà là vì
thân tình xóm giềng hàng mấy chục năm với bố mẹ tôi. Thế mà trong lúc đám cưới
đang ăn uống, tên công an khu vực Ngọc Anh cũng mò đến cửa, làm cho nhiều bạn
bè, bà con nhớn nhác nhìn ra, tôi coi như “pha”.
Nhưng con người phải có
văn hóa, tôi đã nhã nhặn ra mời y thị, vào chung vui ngày cưới của tôi. Y thị
không nói một lời, nhìn tôi một lúc bằng đôi mắt mầu nâu già, rồi lặng lẽ bỏ
đi.
Cuối cùng thì cũng như
mọi người:
Cái đêm hôm ấy, đêm
gì….. ?
Bóng dương lồng đóa trà
mi….chập chùng!
Một điều làm tôi đắn
đo, nhưng rồi tôi không thể không nói đến, dù bạn bè đã cố nài kéo tôi phải gặp
lại cụ Lưu Linh, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn giữ một chủ trương. Tối nửa
khuya, sau khi khách khứa ra về hết, tranh thủ lúc chị Công, cô Xuân, cô Thu và
Hoa (giai nhân của ngày hôm nay) đang loay hoay dưới bếp, tôi lên gác một mình,
ngồi vào chiếc giường duy nhất anh chị Hiền cho mượn. Tôi ngồi im lặng năm phút
nhắm mắt, để gọi là một chút nào, nhớ về cô Thanh Vân người năm cũ, cô đã bước
lên xe hoa từ cuối 1969, đến nay đã 12 năm rồi. Lòng tôi chẳng trách cô, mà còn
mừng cho cô:
Đừng trách nhau…..
Đừng ái ngại nhau….
Thuyền yêu không
ghé….bến sầu….
Như đêm thiếu
phụ…….trên lầu …..không trăng.
Hãy như chiếc sao
băng….băng mãi.
Để lòng buồn …..buồn
mãi … ….không thôi.
Dù sao tôi vẫn biết ơn
cô suốt đời.
Phải thừa nhận, khi
cùng một giai cấp, thì có nhiều những cảm nghĩ tương đồng, tôi và Hoa:
Tôi nghèo, mà Hoa cũng
nghèo.
Chúng tôi vẫn nguyện
như keo suốt đời
Sau ngày cưới, chúng
tôi vẫn không giảm đi niềm khó khăn, nỗi chật vật. Tôi vẫn ngày ngày gò lưng
đạp xe sang Phú Nhuận làm ở tổ mộc. Hoa cũng vẫn ngày ngày đi làm ở tổ ngòi bút
Đức Thành. Nghe Hoa nói tổ ngòi bút có chừng hơn bốn chục nhân công, hầu hết là
đàn bà con gái. Tôi cũng như Hoa đều năng nổ, cố gắng làm việc, cũng chỉ đủ để
nuôi bản thân mình.
Một buổi chiều như mọi
khi tôi đi làm về, thoáng qua cánh cửa sổ khép hờ, dưới bếp Hoa đang tắm rửa và
gội đầu cho mẹ tôi. Tôi đã đứng như dán chân xuống ở cửa, trái tim của tôi như
to dần lên, giãn nở ra, miệng tôi lẩm bẩm:
” Con xin cảm tạ Chúa
và mẹ Maria đã ban cho con một người vợ, biết thương yêu, đỡ đần bố mẹ mù lòa
già yếu của con “.
Buổi tối hôm đó ở trên
gác tôi cũng không quên cảm ơn Hoa, đã vì tôi. Có những buổi tối khuya tôi và
Hoa, trên căn gác trống ngồi bên cửa sổ, ngắm nhìn chị Hằng hàng giờ. Chúng tôi
nghèo, và ý thức trách nhiệm với bố mẹ già, nên chúng tôi trang trải “Honey
Moon” của chúng tôi, bằng những đêm khuya, dựa lưng vào nhau cùng nhìn và tâm
sự với chị Hằng. Hoặc với những anh chàng mây và những cô nàng gió thỉnh thoảng
đi qua. Đôi khi có những đêm chúng tôi bàn tán chỉ cho nhau, chị sao Mai và
chàng sao Hôm, còn hàng chục vì sao nữa do chúng tôi đặt tên, mà chúng tôi
thường gặp, đã trở thành bạn bè.
Có một điều khác
thường, từ ngày cưới Hoa về, tối nào lúc 9 giờ, thầy mẹ tôi, tôi và Hoa đều
ngồi đọc kinh chung buổi tối. Một điều mà trước đấy, thầy tôi một giường, mẹ
tôi một giường, còn tôi thì nằm trên sàn gác một mình, đều tự đọc kinh riêng rồi
đi ngủ .
Vào một buổi chiều, sau
khi cơm nước xong, tôi và Hoa ở trên gác đang bàn bạc, về một số khó khăn của
ngày mai, thì nghe có tiếng một cô gái réo gọi ở dưới nhà :
- Chị Hoa có nhà không
?
Tiếng của mẹ tôi, dõng
dạc rõ ràng:
- Cô hỏi ai?
- Cháu muốn hỏi, là chị
Hoa có nhà không ạ?
Mẹ tôi có vẻ hơi bực
dọc:
- Ở đây không có ai tên
là Hoa cả !
Hoa đang định chạy
xuống dưới nhà, nhưng tôi đã kéo tay lại. Tôi đã hiểu mẹ tôi, người vẫn duy trì
cái lễ giáo, gia phong ngày trước. Cô gái cũng chắc đã chợt hiểu như tôi, nên
cô ta đã lại lên tiếng:
- Cháu muốn hỏi chị
Bình ạ?
- Cô chờ một chút nhé !
Chị ấy có nhà đấy!
Rồi tiếng mẹ tôi gọi
vọng lên gác:
- Chị Bình ơi! Xuống có
ai gọi chị đây này!
Từ đây, tôi và Hoa đã
hiểu ý của mẹ tôi, tôi và Hoa đã đồng một quan điểm từ ngày nên nghĩa vợ chồng:
Thầy già lại lẫn lộn, tâm trí của thầy không còn bình thường, mẹ thì mù cả đôi
mắt, bây giờ lại mắc thêm bệnh phổi, sớm muộn lúc nào đó, Chúa sẽ gọi về. Chúng
ta bổn phận là con cái, bất cứ ngày đêm, tâm niệm làm sao cho các người vui,
chúng tôi cũng tự nguyện nhắc nhở nhau, giữ trọn đạo làm con.
Một buổi chiều, tôi
đang cắm cúi thẳm một cái vai bàn gỗ trò, anh Vinh thư ký của tổ mộc chạy vào
nhìn tôi, nói như trêu đùa:
- Có hai giai nhân đang
tìm anh Bình kìa !
Mấy người trong tổ đang
thao tác cũng ngừng tay, cười rẻ lên. Biết là anh Vinh đùa vui, vừa thở, tôi
vừa nói:
- Nhân với nho gì ? Có
con bò trắng răng năng . . .
Ông Huỳnh ở ngoài sân
bước vào, cắt ngang câu nói, ông nghiêm mặt nhìn tôi:
- Có hai cô gái nào,
tìm anh Bình!
Tưởng đùa hóa ra thật,
tôi chạy vội ra sân. Tôi thật ngỡ ngàng, Hoa và cháu Thanh Lan, hai bác cháu
đèo nhau xe đạp, mò mẫm mãi sang đây. Vừa ngạc nhiên vừa vui, hết luôn cả mệt.
Tôi hỏi như “phè” niềm vui trong lòng ra ngoài:
- Làm sao, em và cháu
lại biết anh ở đây? Anh có nói cho em biết địa chỉ này đâu?
Hai bác cháu cười rúc
rích, như gà giò đuổi nhau:
-Ở đâu mà không tìm
được!
Dù còn gần một giờ nữa,
mới tới giờ nghỉ, tôi vào văn phòng nhã nhặn xin cho về sớm, vì nhà có chuyện.
Tôi vẫy cả hai bác cháu vào chào ông Huỳnh và người trong tổ. Tôi cũng giới
thiệu với ông Huỳnh, vợ và cháu của tôi.
38.
CHUYỂN ĐỔI TƯ DUY
Dẫn xe ra khỏi tổ mộc Thành Công, phố phường, cảnh vật hôm
nay tươi ra roi rói, như trong lòng tôi lúc này, vợ và cháu gái đến tìm tôi! Đã
mấy chục năm nay có ai hỏi tìm, thăm tôi đâu? Hôm nay cảm giác của tôi khác
thường. Như vậy tôi cũng là một người như mọi người! Và tôi cũng có hạnh phúc
giống người khác, điều mà đã mặc nhiên từ lúc nào, tôi không còn dính dáng gì
đến cái hạnh phúc của cuộc đời này.
Tôi nhớ lại, cái tâm
trạng đó, rõ nét nhất là cái buổi sáng hôm ấy, sau sáu năm ở trong buồng kín,
tên cảnh sát khoá tay dẫn tôi sang toà án nhân dân Hà Nội để xử. Tôi nhìn đường
phố Hoả Lò, tôi nhìn phố Hàng Bông Ruộm, dòng người và xe cộ ngược xuôi. Nhiều
người ngước lên hoặc ngoái lại nhìn tôi, một tên tù gầy gò xanh tái bị khoá hai
tay, do một tên cảnh sát đeo súng, lầm lì giong phía sau. Phía người dân, họ
chẳng còn lạ gì với cảnh cùm khoá này, trong cái xã hội cộng sản. Nhưng phía
tôi, tâm trạng của tôi: Tôi có cảm tưởng như nhìn một loài người khác, một xã
hội khác, tôi không còn dính dáng, liên quan gì với họ.
Nhưng hôm nay, vợ tôi
và cháu Lan đã lấy lại cho tôi cái cảm giác tôi còn dính dáng, còn liên quan
đến cái xã hội này, những người đang ngược xuôi trên đường phố là đồng bào ruột
thịt của tôi. Tôi nhìn em Hoa và cháu Thanh Lan cứ ríu rit cười đùa nhởn nhơ,
tôi như muốn nói:
“Em yêu và cháu thương
có biết rằng em và cháu vừa chuyển đổi tư duy của một người đấy!”
Tôi xin cảm ơn em
thương yêu và cháu ngoan với tư cách một người Việt Nam.
Một ngày khác thường,
một ngày vui như thế này, nếu tôi có điều kiện, tôi sẽ đưa em và cháu vào một
nhà hàng nào đó, như thể hiện một tấm lòng với một tấm lòng.
Sờ vào túi, nhớ lại chỉ
có 3 đồng rưỡi từ hôm kia còn lại, tôi đã định tối hôm nay sẽ bàn với em Hoa,
hai vợ chồng sẽ chuẩn bị nấu một bữa cà ghém có thịt ba rọi, xào cháy cạnh với
đủ mùi gia vì: ngổ hương và lá tía tô. Món tủ, món sở thích của mẹ.
Mặt của tôi ngẩn ra, đã
cho tay vào túi lại đành rút ra. Đi qua một xe nước mía, tôi chợt nghĩ: Nếu
uống nước mía loại 2 thì được, loại nhiều đá, ít mía chỉ ba hào (cắc), loại 1
những 5 hào cơ. Nhìn trán cháu Lan lấm tấm mồ hôi tôi ghé sang, hơi kéo
“ghi-đông” xe về phía xe nước mía. Tôi hỏi cháu Lan có mệt để cho bác đèo bác
gái? Nhưng cháu muốn tỏ nhã ý nói:
“Bác đã yếu, phải làm
mộc cả ngày, ăn uống lại không đủ chất, hơn nữa cháu còn có ý định ghé thăm ông
bà ngoại.”
Cơm nước xong, từ cửa
sổ trên gác, nhìn em Hoa đang loay hoay rửa chén bát, tôi nghĩ đến nguồn vui
hôm nay, chả có cái gì liên hoan chào mừng. Mỗi người mới có một ly nước mía
loại 2! Tôi quay lại lấy chiếc quần đùi, lẹ làng xuống dưới nhà. Nhìn làn tóc huyền
óng ả, thấp thoáng, che chiếc cổ trắng ngần, tôi cúi xuống, nhẹ áp mũi tôi vào
hít hà cái mùi ngọt ngào à nói khẽ vào tai em Hoa:
- Hôm nay vợ chồng mình
lại đánh cờ!
Mặt em đỏ như gấc chín,
quay lại đắm đuối nhìn tôi. Em đã tự hểu như một thói quen ngất ngây êm ả mà
Thượng Đế đã ban cho một đôi vợ chồng. Tôi vào đi tắm trước, và em sẽ tắm sau
để chuẩn bị cho “cuộc cờ”.
Công việc chồng chất
vây quanh, quấn chặt vào người, ăn uống, cũng chỉ có rau, mắm rồi lại cà tương.
Đôi khi, bữa cơm cũng có con tôm, con cá, miếng thịt, thì từ thầy mẹ đến chúng
tôi, đều hí hửng như có chất tươi ở trong tù. Đó là cảnh sống hiện nay của
chúng tôi, nhưng từ lâu đã trở thành một thói quen. Hãy gạt hết qua một bên,
mọi trở ngại khó khăn vây quanh, chú trọng hưởng cái trước mặt! Cuộc sống đã
cho tôi hiểu:
“Không biết trân quý
những cái mình đang có, thì mình sẽ không được tận hưởng cái tuyệt vời của nó”.
Đã trở thành nền nếp
hơn một tháng nay rồi, từ ngày tôi và Hoa cùng trẻo lên chung một chiếc “thuyền
đời”, mỗi một lần đánh cờ thì tôi được bồi dưỡng một quả trứng gà tươi của cửa
hàng bà Khản trước cửa chợ Nam Hoà. Lên gác, mảnh mặt trời chiều đã chìm hẳn từ
lâu, chéo phía Đông một mảnh trăng gầy đang nhìn vào cửa sổ. Tắt đèn đi, trong
căn gác trống, ánh sáng mơ hồ mập mờ, càng tạo cho “cuộc cờ” thêm hương vị.
Chẳng cần quay lại, tôi đã biết em thương của tôi đã lên gác, cái mùi ngọt ngào
ngan ngát nhè nhẹ quên thuộc, đã phả kín căn buồng.
Bỗng cái mùi ngầy ngầy
ấy sực đậm hơn, đôi vai của tôi bị một cái gì vừa mềm, vừa cứng đè trĩu xuống,
rồi hai thỏi ngọc ngà của đôi cánh tay đã quấn chặt cổ, làm tôi tưởng không thở
được . Tôi đâu có chịu thua, tôi sẽ cho cô nàng biết sức mạnh của chiếc dây đàn
từ bé tôi mới được “gảy” vói cô hơn một tháng nay. Tuy tôi ít “gảy” nhưng khi
tôi đã “gảy” thì trời “long” đất “lở”, cho tả tơi gỗ đá, cho rung chuyển cả căn
nhà, để rồi chỉ có chắp tay mà lạy….xin tha!
Khi người “anh hùng”
vùng vẫy chiến đấu đã ngã ngựa, em Hoa mới ghé sát tai thỏ thẻ:
- Anh có biết tối hôm
qua, mẹ gọi em vào mùng, hỏi em cái gì không?
Tôi biết “tỏng” Hoa nói
như vậy để tôi sẽ vồ vập hỏi Hoa là mẹ hỏi gì? Nhưng đừng “hòng! Tỉnh bơ tôi
thong thả nói:
- Anh đã biết rồi! Mẹ
cũng hỏi anh!
Hoa cuống quít hỏi:
- Mẹ hỏi sao?
- Em đưa ra ý kiến
trước, thì em nói trước; anh sẽ nói sau!
Hoa ngồi hẳn dậy, nói
ngập ngừng:
- Mẹ hỏi em ;”Đã một
tháng rưỡi, gần hai tháng… có thấy người khác thường không?”
Em trả lời mẹ là “em
không thấy gì cả”!
Tôi nhìn Hoa với đôi mắt thương yêu nhiều hơn vì em của
tôi, vợ của tôi thật “ngây thơ và hiền”. Tôi nhớ câu: Hạnh phúc cho những ai lấy được
vợ hiền, lòng tôi cũng nhen nhúm lên một niềm thích thú: Mình thua
cuộc đời, về nhà chỉ bắt nạt được vợ”. Nhưng tôi lại chợt nhớ, khi còn ở các
trại tù chung, các bác giả thường nói: Khi vợ có con, vợ bắt “nạt” lải mình,
càng nhiều con càng bị “nạt” nhiều.
Tôi nghĩ đến mẹ tôi,
hẳn người mong ngóng lắm để tôi sớm có con, vì tôi đã lớn tuổi rồi. Tôi lại lan
man nghĩ, có thể gần hai chục năm, tôi ăn uống đói khát, dơ bẩn, hầu hết là bo
bo, ngô, khoai, sắn, cả nấm độc, đến lá cây rừng …cho nên tôi không còn bình
thường nữa chăng? Tôi trở mình, kéo em Hoa lại gần:
- Rồi mẹ bảo sao hở em?
Thái độ của Hoa như
được hưng phấn, sôi nổi, khoe một thành tích:
- Mẹ dặn em ra gặp bà
Ngôn bán thịt, đặt mua một quả cật heo, đem về xẻ đôi lấy hết cái trăng trắng
bên trong, nó rất hoi. Rồi ướp hành, tỏi với muối và đem nướng khô cho anh ăn.
Buổi chiều, em đã đặt rồi, sáng mai anh sẽ có ăn.
Chẳng biết thế nào, tôi
chỉ được ăn năm, sáu lần cật heo. Nửa tháng sau, em Hoa cứ nôn oẹ sáng chiều,
để rồi mẹ tôi cười tủm tỉm lẩm bẩm: nó đã “có” rồi!
Ngày hôm sau, sáng nào
cũng vậy, Hoa dậy sớm nấu cơm. Sau khi nắm cho tôi một nắm cơm với ít mắm tôi
chưng, Hoa chuẩn bị cơm nước cho thầy mẹ xong, tôi và Hoa bắt đầu đi làm mỗi
người mỗi ngả, chỉ có buổi chiều là bữa cơm sum họp gia đình.
Hôm nay, sau khi cơm
nước xong, Hoa và tôi chuẩn bị: Thầy tôi một ly nước vối nóng, mẹ tôi một ly
nước lá thuốc cho bệnh phổi của mẹ, dáng mặt khắc khổ, mẹ tôi chậm rãi:
- Các con ngồi xuống
đây, mẹ muốn nói chuyện với các con.
Thấy thái độ của mẹ hơi
khác thường, chúng tôi kéo nhau ngồi lại. Thầy tôi, sau khi kéo điếu thuốc lào,
cũng đến ngồi một ghế. Tôi đứng lên, đến bên mẹ, nhẹ vuốt bàn tay nhăn nheo của
mẹ, thì thào:
- Có chuyện gì thế hả
mẹ?
Mẹ không nói gì, nhưng
hai dòng nước từ đôi mắt lòa từ từ chảy xuống má. Miệng người méo xẹo đi, nói
ngập ngừng thổn thức:
- Mẹ đã kêu van Chúa và
mẹ Maria nhiều đêm ngày, cho mẹ được nhìn thấy con trai của mẹ bây giờ ra sao
một lần. Mẹ khao khát, thèm ước đêm ngày. Vợ chồng con lam lũ cực nhọc, mẹ đứt
ra từng khúc ruột. Phải chi, Chúa không bắt tội mẹ, thì các con đâu có khổ cực
như bây giờ!
Nhìn đôi mắt hõm sâu,
còn ướt của mẹ, má mẹ hóp lũm vào, càng làm giồ đôi xương quai hàm, hằn rõ từng
chiếc xương dưới làn da nhăn nheo, Bệnh lao phổi đã hút hết thịt, làm cho mặt
mẹ teo lại. Tôi hình dung lại bộ mặt của mẹ 19 năm xưa, ngày tôi về gặp mẹ buổi
chiều cuối cùng trước khi lên đường vào đất địch trong ngôi nhà thờ Nam Hòa .
Dạo ấy nhà thờ còn là
tôn là gỗ, tôi cũng đã cầm đôi bàn tay mềm mại của mẹ, đôi mắt của người nhìn
tôi, khi ấy tôi đã có cảm nghĩ: ” Trên thế gian này không có một ngôn từ nào
nói hết được cái đẹp, cái bao la lồng lộng của đôi mắt người mẹ”. ….Nghĩ đến
đây, tôi không muốn, nhưng nước mắt của tôi đã giàn ra, làm cho em Hoa cũng
nước mắt vòng quanh. Kéo ghế sát lại gần mẹ, tôi cầm tay mẹ áp vào má, tôi nức
nở:
- Mẹ ơi! Con nghe nói
khoa học ngày nay, có thể đổi thay được mắt. Trước bàn thờ Chúa linh thiêng,
con xin tự nguyện kính biếu một mắt cho mẹ, để mẹ nhìn thấy con và con cũng
nhìn thấy mẹ cho đến trọn đời.
Mẹ vuốt đầu tôi, như
ngày tôi còn bé, mặt người có sắc tươi hơn lên, miệng người nói mà như cười:
- Mẹ sắp về với Chúa
rồi! Con còn phải kiếm gạo để nuôi cháu của mẹ.
Thầy tôi thở dài, rồi
lụ khụ đứng lên, lần vào giường, tôi cũng đỡ mẹ tôi đến giường của người, trong
khi Hoa ra rửa chén bát. Tôi lấy cuốn vở để chuẩn bị đi trình diện CA khu vực.
Hôm nay, là tối thứ Năm còn phải đến sinh hoạt tổ khu phố tại nhà ông Trùm Lộc,
lúc 8 giờ tối hàng tuần.
Hôm nay tôi đi làm về,
Hoa đã vẫy tay nói nhỏ:
- Mẹ bên nhà, bảo anh
sang, mẹ nó cái gì ấy!
Chúng tôi sắp xếp vội
vàng cho gọn ghẽ công việc nhà, rồi cùng xin phép thầy mẹ để sang nhà ông bà
nhạc, một lúc rồi về ngay.
Chúng tôi đã được gặp
mẹ của Hoa, nội dung, mẹ Hoa cho biết: Bên nhà cậu mợ Tập (em ruột của mẹ Hoa),
trước đây, có một tổ chức vượt biên quen biết cậu. Họ lấy khách chỉ là quen
biết để an toàn kín đáo. Khi đó cậu mợ có ý định cho người con trai tên là Hòa
(em họ của Hoa), mỗi người đi phải đóng ba cây vàng. Là chỗ thân quen nên ai
cũng đã đóng vàng rồi, để họ có sở phí lo cho chuyến đi.
Bốn tháng trước, cậu
Hòa đã đi một lần, nhưng trục trặc nên chưa đi được, nay cậu Hoà quen biết một
cô gái nhà nền nếp, cậu thay đổi ý kiến là sẽ cưới vợ, rồi sẽ đi sau.
Cậu mợ Tập cũng là loại
có tiền, lại quen biết giao tế với chính quyền mới, thấy người cháu rể mới là
tôi, trong hoàn cảnh ngặt nghèo về quản lý của chính quyền. Nhã ý của cậu mợ
Tập là sẽ nhường lại suất đi cho tôi, theo cậu mợ, người cần đi đích đáng là
tôi, đích đáng hơn là con của cậu. Mẹ của Hoa hỏi ý kiến tôi, để bà còn sang
nói chuyện với em trai và em dâu là cậu mợ Tập.
Trong đám cưới của tôi,
đã nhiều lần tôi tiếp chuyện với cậu mợ Tập, sau chuyến đi không thành do người
bạn thân Nguyễn Hữu Lợi khổ công tổ chức. Di hại của chuyến đi là hầu hết người
đi còn đang ở trại giam Gáo Dừa. Ngay hai đứa con của vợ chồng Lợi, ở đồn Cỏ
May còn chưa lo xong cho chúng về, vợ chồng Lợi còn đang liểng xiểng về chuyến
tổ chức cho tôi đi. Tôi tự hiểu, trong hoàn cảnh của tôi, không còn một hy vọng
gì để ra đi nữa. Tôi đã được nghe, được biết nhiều chuyện vượt biên trầy trật,
đầy cam go. Ngay ở Ngã Ba ông Tạ, có ông bà chủ một hiệu vàng lớn, từ ngày mất
nước đã lo vượt biên, chạy trốn cộng sản nhiều lần. Nhiều lần bị bắt phải lo
vàng chuộc, đút lót, tốn phí cũng phải vào tù hai ba lần.
Đến nay (cuối 1981) hết
cả tiền, ông ta như người ngớ ngẩn lang thang dật dờ trong những nhà họ hàng,
quen biết. Trong dân chúng, sau sáu năm trong bàn tay sắt bọc nhung của cộng
sản đã hiểu, đã thấm, mức độ khác nhau. Hầu hết ai cũng muốn ra đi. Tôi có cảm
nghĩ: Nếu được đi tự do, mấy con chó, mèo, gà vịt, trâu bò cũng ra đi. Nghĩa là
con vật cũng muốn ra đi, huống chi con người? Nên nó mới đẻ ra nhiều những tổ
chức thật, giả, lừa lọc Phía cộng sản cũng có nhiều phương pháp công khai, bí
mật ngăn chặn và để xoay tiền và vàng.
39.
TÌNH MẪU TỬ XOẮN VÕ
Trong tình trạng đen tối như thế của giai đoạn ấy, thì
chuyện cậu mợ Tập nhường chuyến đi lại cho tôi, là một cơ hội của đời tôi. Hơn
nhiều người đã hiểu, đã biết: Trong đời của một người, cơ duyên (duyên may) chỉ
đến một hay hai lần, nếu người đó không biết nắm lấy, để nó vuột đi, đôi khi
lại có tác dụng ngược. Nghĩa là cái cơ duyên đó lại làm cho đời người ấy khốn
đốn tơi bời.
Vì đời là kỳ diệu!
Như vậy, ai cũng đã
thấy, nếu tôi không nhận, mới là chuyện ” trái khoáy ” của cuộc đời. Theo ý cậu
mợ Tập, nếu tôi đồng ý ra đi, thì một buổi hai vợ chồng tôi xuống gặp cậu mợ
bên đường Trần Quốc Toản, sau này là đường 3 tháng 2. Chúng tôi đã nhờ mẹ, cho
cậu biết và xin một ngày chúng tôi sang thăm cậu mợ.
Đêm ấy hai vợ chồng tôi
cũng biết bao nhiêu tâm tư chồng chéo trong lòng.
Trong cuộc sống biết
bao nhiêu chuyện không theo ý của mình, mà phải theo một cái khuôn thước hoàn
cảnh và điều kiện khách quan. Chẳng một ai mới cưới một người vợ trẻ đã bỏ vợ
lại để ra đi, và càng chẳng một ai, người con gái mới lấy chồng lại muốn để cho
người chồng của mình ra đi. Ra đi vượt biên ở những giai đoạn ấy có hàng chục
tình huống xẩy ra, tù đày, xuống lòng biển, cướp biển bắt v.v. . . Còn một cái
có thể ở cả những trường hợp đi thoát, đi được, nhưng người ra đi đã ôm cầm
thuyền khác, điều này lại không phải là cá biệt.
Như vậy tâm trạng của
Hoa, vợ thương yêu của tôi, sẽ trăn trở như thế nào? Nhất là trong bụng đã có
mầm mống của tôi hai ba tháng, kẻ ở người đi: ”chia đàn, xẻ lứa “? Tôi phải
hiểu để cảm thông với những trận giông bão trong lòng của Hoa. Chồng mới cưới,
mới bén mùi thương yêu đã ra đi với hàng chục tình huống. Hầu như ra đi, không
có ngày trở lại, bụng mang dạ chửa, tay làm hàm nhai (Tay trắng như chưa bao
giờ trắng thế?). Chồng ra đi, còn để lại một trách nhiệm ý thức liên đới, cha
mẹ già yếu, mù lòa. Hoa ơi! Nghĩ đến đây, anh chỉ biết xin cúi đầu lắng nhận
cái lồng lộng của tình em, sự chịu đựng truyền thống, em đã được thừa hướng,
của người phụ nữ Việt Nam. Con xin cảm tạ Trời, Chúa đã ban cho con một người
vợ là Hoa.
Một buổi chiều, sau một
ngày lao động căng thẳng, tôi uể oải nhấn chiếc bàn đạp của chiếc xe, cũng mắc
nhiều bệnh, vì tuổi nó cũng đã về chiều. Mở khóa vào nhà, cũng như mọi khi,
thoáng bóng thầy tôi nằm trong màn, dù thức hay ngủ tôi vẫn lên tiếng chào: ”
Thưa thầy, con về “, rồi vào gian trong chào mẹ, nhưng mẹ tôi không có ở nhà.
Loáng lên, tôi thấy có vấn đề, lại không thấy em Hoa. Nhớn nhác, tôi xuống bếp,
bếp cũng lạnh vắng như ” chùa bà Đanh “, vừa quay lên nhà, tai thoáng có tiếng
động trên sàn gác, tôi giồ lên, thì cũng là lúc có đôi bàn chân mềm, của em Hoa
thò đi xuống. Tôi được biết từ sáng, Hoa đã đưa mẹ vào nhà thương Hồng Bàng.
Khoảng 9: 30 (sáng)
thầy tôi mở cửa, gào to với hàng xóm:
- Các ông, các…… bà
…..ơi!
Bà Chức và một vài
người chạy sang. Mẹ tôi đã nôn ra nhiều máu, người đang xỉu trên giường, mỗi
người một tay, nắn cổ, xoa dầu, đỡ bà cụ ngồi dậy.
Bà Chức, nhanh nhẹn
chạy sang tổ ngòi bút Đức Thành gọi Hoa; rồi bà Chức và Hoa đã thuê chiếc
xích-lô đạp, chở bà cụ vào nhà thương Hồng Bàng cấp cứu.
Hoa đã mệt nhọc từ sáng
với bà cụ trong nhà thương, mới về hơn một tiếng, quá mệt lả, nên chả thiết làm
hay ăn uống gì. Tôi tranh thủ gầy nồi cơm, rồi chuẩn bị cùng với Hoa trở lại
nhà thương, mãi bên Chợ Lớn. Dưới đất, trên giường đây đó còn những vệt máu của
mẹ tôi, chưa dọn lau sạch, tuy tôi cũng mệt, nhưng bụng chả thiết uống, ăn gì.
Vả lại, có muốn ăn cũng chả có gì mà ăn.
Nghĩ đến mẹ tôi đang rờ
rẫm một mình trong một căn buồng nhiều người lao bệnh khác, như tôi vừa nhai
xong một nhúm muối rang. Tôi muốn phóng xe ngay, sang nhà thương Hồng Bàng,
nhưng nhìn Hoa đang chậm chạp đi xuống bếp, để giải quyết vệ sinh, tôi lưỡng lự
vài giây. Tôi đã vậy, nhưng còn Hoa, người vợ thương yêu của tôi đã có bầu? Mệt
nhọc từ sáng với mẹ tôi, nếu không tỉnh táo giải quyết lần lượt sự việc, có
nhiều khi sự việc lại kéo dài thêm ra, trầm trọng thêm. Nếu quá sức, người mẹ
đã vậy còn đứa con trong bụng?
Nồi cơm đã ghế, đảo
5-10 phút nữa chín, Hoa phải ăn một bát cơm nóng. Tôi đổ thêm một ít mắm cáy
của mẹ Hoa mới cho hôm qua, thêm lẫn vào chiếc soong con mắm tôm chưng, hai
loại mắm đảo lộn với nhau. Chưng nóng sôi lên thành một món ăn ít người được
thưởng thức. Vừa xong thì cơm cũng đủ chín, Hoa cũng từ nhà cầu ra, hai chúng
tôi mỗi người một tay, một chân, lấy sẵn bát đũa, thìa lên bàn cho thầy tôi,
rồi mỗi người xới lẹ một bát cơm thưởng thức vội, với món ăn tôi vừa sáng chế.
Hai vợ chồng vừa nhìn
nhau, vừa nhồm nhoàm nhai miếng cơm với mắm, tôi chợt nghĩ đến một ý :
Dù nghèo mà vui…..
Hỏi ai không hé môi
cười… … ….
Tôi yêu ….quê tôi, yêu
lũy tre dài… …đẹp xinh …
Rồi miệng nhai, tai tôi
nghe rõ mồn một bài hát ” Tôi Yêu ” hình như của ông Trịnh Hưng sáng tác thì
phải, từ trong hố sâu của ký ức. Tiếng hát đu đưa réo lên ở một chiếc loa phóng
thanh, trong khu chợ Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn một buổi chiều muộn nắng nhạt,
khi nhiều gia đình đã quây quần bên mâm cơm năm 1958.
Tôi yêu …..quê
tôi…..yêu mãi ….bây giờ càng yêu… …
Yêu con sông xanh……dâng
cát …..hoe vàng bên đình…
Yêu trăng buông
lơi…..trên má cô nàng…..dệt tơ….
Và yêu cánh đồng vời
xa… ngàn tay dâng mùa thái hòa
Yêu anh, yêu em……. Yêu
nước…..yêu trời gần xa
Và yêu…mối tình nở
hoa…ngàn năm..không hề phai nhòa.
Tôi mắm môi, mẩm lợi
đèo Hoa sang Chợ Lớn cho kịp trước giờ nhà thương đóng cửa. Đến cổng cũng là
lúc ông già gác cổng đang đẩy cánh cổng khép lại để khóa. Tôi hộc tốc cùng Hoa
xông vào, ông già nhìn tôi và Hoa đang chạy phía sau với vẻ mặt của con ngan
vừa ” tè “, ông nói như tiếng mưa rơi mùa hè :
- Đã đến giờ rồi, anh
ơi!
Vừa thở hổn hển, mặt
tôi vừa dài ra, nhăn nhúm lại:
- Thưa bác, tôi vừa đi
làm về tới nhà, mẹ tôi bị ngất đưa vào đây, xin bác thông cảm cho đứa con trai
nghèo thăm người mẹ.
Ông già ngừng tay đóng
cổng, mặt của ông tỏ vẻ ái ngại:
- Tôi thông cảm cho
anh, còn cháu thì không được!
Tôi biết ông ta lầm,
nên nhã nhặn nài nỉ:
- Thưa bác đây là vợ
của tôi… cũng đã mang bầu…..
Ông mở cổng rộng ra,
nhưng mắt của ông cũng mở to, tưởng chỉ còn lòng trắng, để nhìn hai chúng tôi
như một chuyện không bình thường của quê hương nhiều máu lửa. Khi tôi đi qua
cổng, ông già đã để tay lên tay tôi, trên ghi dông xe như muốn kéo lại để ông
cởi cái nút băn khoăn trong lòng của ông về một đôi vợ chồng, mà ông lại tưởng
là cha và con.
Nhưng rồi ông lại nở
một nụ cười hiền hòa, đẩy tôi đi, như đã tự tìm được câu giải đáp: Trong một
đất nước không may gặp phải cái nạn ” hồng tuộc ” để gây ra một cuộc chiến
tranh dai dẳng ác liệt suốt một giải Trung Nam Bắc liên tục 30 năm. Hết chống
thực dân xâm lược, lại làm nồi da để nấu, hầm thịt của mình. Cho nên nó đã đẻ
ra nhiều chuyện không bình thường, mà đây là một. Khi đã có quá nhiều chuyện
không bình thường, thì đương nhiên nó trở thành chuyện bình thường. Có nghĩa
chuyện của vợ chồng tôi, cũng chỉ là, một câu chuyện bình thường của quê hương
nhiều súng đạn, lửa, bom của chúng ta.
Tôi đã hình dung từ
trước, nhưng khi nhìn thấy mẹ tôi, tôi đã không nhìn rõ người, vì nước mắt của
tôi giàn ra mà tôi đã không kìm giữ được. Họ đã cắt tóc mẹ tôi chỉ còn hơn một
phân. Người nằm, mắt người lúc nào cũng nhắm, không thể biết được người thức
hay ngủ, nếu người không động đậy tay, hoặc chân. Cái mặt của người khắc khổ
càng bé choắt lại.
Ngày xưa, mẹ tôi là
người đẫy đà, tầm thước duyên dáng đã được nhiều bạn hàng và họ hàng trêu đùa,
ca ngợi, nhất là đôi mắt. Đôi mắt mà thầy tôi vẫn bông đùa với chúng tôi, mỗi
lần nàng Xuân của dân tộc ghé thăm gia đình tôi:
”Mẹ chúng mày có đôi
mắt thu hồn người “,
thế mà giờ đây, một tấm
thân khô gầy, tiều tụy chỉ vì những tai ương của cuộc đời đã dập vùi, dầy vò mẹ
tôi.
Cái tai ương mở đầu, lại
chính đứa con trai cả, yêu quý của người gieo. Người con trai ấy đã bất ngờ bỏ
ra đi, không một lời từ giã mẹ mình, để lại cho người những đêm dài thấp thỏm,
khắc khoải nhiều nước mắt.
Người con trai khi đó
do bầu nhiệt huyết, tâm hồn trắng trong của tuổi trẻ, thẩm thấu cái nhân sinh
quan của cụ Nguyễn Công Trứ: Chí trai ngang tàng vẫy vùng ngang dọc bốn phương
trời. Không những cụ có tài về quân sự mà còn uyên bác về kinh tế, xã hội.
Trong văn học sử nước nhà, khó tìm được một người: Tri, ngôn, hành hợp nhất. Vì
thế ngay khi còn niên thiếu, học trung học đệ II cấp, tôi đã thuộc làu nhiều
thơ văn của cụ. Chỉ nghĩ và làm những điều mình muốn, ở những phương trời có
lửa và có máu. Chàng trai ấy, đâu nghĩ đến cái nỗi lòng của người mẹ, chờ con:
Chờ con lúc canh
khuya……
Người con ….đã ra đi
….. vì ….nước !
….. Để rồi …….. biền
biệt ……… mất tiêu.
Tôi hơi một chút se
lòng, lắt lay trong đạo lý làm con, mập mờ, sáng tối giữa hiếu và trung. Mẹ tôi
đã khóc thương con nhiều, nên người đã lòa cả đôi mắt từ 1964. Còn thằng con
trai thứ hai lớn lên, cũng đi vào quân đội để cứu nước, cuối cùng đã bị một tên
du kích hạ sát để trả thù, lúc đang ngủ ở giữa cánh đồng, trên Hồng Ngự năm
1976 để lại một đàn con sáu đứa côi cút và người mẹ cũng đã bước sang thuyền
khác. Người có hai đứa con trai, thì cả hai đứa đều bỏ người lại, để ra đi
không trở về.
Cuộc đời của người và
gia đình càng chìm sâu vào vũng lầy trong hang tối, để đến bây giờ từ lao tâm,
người đã trở thành lao phổi, trầm trọng mà không có thuốc men để chữa chạy. Tôi
cứ ngồi yên nhìn mẹ tôi nằm, dòng suy tường của tôi cứ cuồn cuộn vặn vò trong
đầu, nó đã vắt kiệt và đẩy dần nước ra ngoài mắt tôi
Đặt một tay lên bàn tay
gầy của người. Tôi chỉ nói được một tiếng ”mẹ“, bao nhiêu nỗi niềm như đút chặt
cổ họng, làm tôi không nói ra lời. Mẹ tôi tuy nằm, nhưng người không có ngủ,
như ”thần giao cách cảm” người biết ngay là tôi. Nước mắt của người đã giàn ra,
môi của người mím lại rồi thốt ra, cũng chỉ có một tiếng ”con “. Tay của người
xoay lên cầm nhẹ tay tôi, người vẫn nằm yên, nhưng trong hai hố mắt của người
nước càng giàn ra nhiều hơn. Tôi phải lấy khăn lau mắt cho người và cũng chiếc
khăn ấy, lau cả cho tôi. Nhìn lên Hoa, mắt cũng đỏ hoe, tôi chợt nhớ đã đến giờ
về để trình diện.
Hoa ở lại với mẹ, 5 giờ
sáng mai tôi đưa cơm nước sang, hẹn Hoa ở ngoài cổng nhà thương, vì giờ đó chưa
mở.
Tôi sẽ dậy từ 4 giờ,
nấu cơm, để kịp chuẩn bị đưa sang nhà thương, rồi phóng xe sang tổ mộc Thành
Công, bên Phú nhuận. Tôi còn phải sang bà mẹ vợ, nhờ mẹ đến tổ ngòi bút Đức
Thành, xin cho Hoa nghỉ để chăm lo mẹ lòa, trong bệnh viện.
Sau khi tôi đi trình
diện về, ở nhà tối hôm nay chỉ có hai bố con tôi, nhìn đôi mắt chậm chạp lờ đờ
của thầy tôi, tình phụ tử từ dưới đáy con tim của tôi đã trỗi dậy. Mới 7: 30,
tôi chạy vội ra cửa hàng bà Lân để mua thêm hai hào cà ghém nén, món cà tuy
mặn, nhưng thầy tôi vẫn thích từ ngày xưa.
Sau khi bà xúc cho gần
một chục quả cà, tôi nhìn mấy con cá khô, tôi biết thầy tôi cũng thích mà tôi
cũng thèm, nhưng tôi cứ ngần ngừ. Bốc đồng, tôi định bảo bà ấy bán cho hai con,
chợt nhớ Hoa đã dặn gom cho đủ 12 đồng để đong thêm 7 kg gạo thiếu. Vì đã đổi
bo bo để lấy gạo, vừa không muốn ăn bo bo lại vừa thích ăn cá kèo, thì làm sao
mà đạt? Năm hào cà nén, đã là phóng tay rồi. Tôi bước ra tới cửa thì bà Lân lại
gọi giật vào:
- Cậu cứ cầm lấy hai
con cá về mà ăn! Tôi không lấy tiền đâu!
Tôi đã trợn mắt nhìn bà
Lân “bà này đọc được tâm tư của tôi ư?”. Nghèo, nhưng lòng tự trọng của tôi vẫn
trỗi lên:
- Cám ơn bà, tôi đủ
rồi!
Bà ấy cầm luôn hai con
cá, gói vào miếng giấy báo đưa vào tay tôi:
- Cậu cứ cầm về đi, tôi
còn mang ơn bà cụ nhiều lắm!
Sau này, tôi nhớ lại,
có lần tôi hỏi mẹ tôi thì được biết: Khi mắt của mẹ tôi còn sáng bán vải ở chợ,
người giữ (làm chủ) nhiều bát ” hụi “, không những rộng rãi, nhân nhượng với bà
Lân, mẹ tôi còn là người đỡ đầu cho con trai của bà ấy.
Sáng hôm nay, cũng như
mọi khi, tôi dậy từ 3: 30, để lo cơm nước đưa sang cho mẹ và em Hoa. Đặc biệt
hôm nay, có chừng nửa lạng bột sắn dây, loại này giai đoạn ấy rất quý và hiếm
của bà Cần trước cửa nhà, đưa cho tôi chiều qua, dặn đưa vào cho bà cụ. Thứ này
rất mát, rất tác dụng với bệnh lao phổi.
Ngoài ra, chiều qua tôi
có mua được một bó rau lang, tôi đã luộc để lại cho thầy tôi mươi ngọn, tôi ăn
mươi ngọn, còn gói đem sang cho Hoa và mẹ. Ở nhà thương mẹ uống thuốc bị nóng,
thiếu rau tươi, Hoa cũng cần vì bụng chửa, tôi cũng cần ” bồi dưỡng “cho con
tôi đã 4- 5 tháng rồi. Chả biết con trai hay con gái, kinh nghiệm của cô Thu,
cô Xuân và mấy bà hàng xóm, bụng chửa tròn như quả dưa hấu, đứt đuôi là con gái.
Nhưng theo mợ Út và ông lang Diệm phía trước nhà thờ, bụng óng lên như mít Tố
Nữ thì có chạy đi đằng trời, cũng là thằng cu tí! Tôi chẳng biết nghe ai, con
trai hay con gái, cũng là của quý như ngọc, như vàng của tôi. Bây giờ tôi cứ
phải bồi dưỡng cho con tôi đã. Con thông cảm cho bố nhé ! Bố không có tài, lại
đang bị con Hồng Tuộc nó ràng bố, nên bố chỉ có rau lang, để bồi dưỡng cho con
thôi.
Vừa đạp xe, đầu óc mông
lung, vừa nghĩ đến bồi dưỡng, mà đã nhìn thấy cổng bệnh viện Hồng Bàng rồi. Mới
4: 45, còn 15 phút nữa, mới tới giờ Hoa ra cổng.
Nhìn chéo phía bên kia
cổng, một mảnh vườn con, với chiếc ghế để không, tôi vòng sang đấy ngồi chờ.
Mới còn tinh mơ, đã có hai chú bướm trắng đậu vào hai bông Thược Dược. Hai cánh
”khỏa ” chậm chạp như một ông tiên, đang phe phẩy chiếc quạt lông ngỗng. Tôi
khẽ nhón bước, lách vào bụi râm bụt, tiến lại gần hai anh chàng hay cô nàng
bướm. Thôi, cứ cho một chàng và một nàng đi, cho họ hạnh phúc mà mình có thiệt
hại gì đâu?
Một con phía cuối cánh,
gần đuôi có mầu xanh nước biển, một con cũng phía cuối, lại có mầu vàng nghệ,
tôi cứ cho con vàng nghệ là một anh chàng đi. Anh chàng thò mãi cái vòi như sợi
chỉ nâu, chọc vào hết chẽ này, lại chẽ khác của nàng Thược Dược mới nở. Hai
chiếc cánh cứ ấp vào rồi lại mở ra, thỉnh thoảng cái bụng con, cong cong của
con bướm có điểm chút màu xanh biển, cũng có vẻ tham lam lắm. Chiếc vòi của
nàng ngoặt ngoẹo lách vào chẽ này, lại quặt sang chẽ khác của bông hoa. Hai
chiếc râu con phía trên đầu, cứ lắc lắc mở dài ra, rồi lại cuộn vào cứ như đang
bơm bánh xe đạp bị hết hơi. Cánh của cô nàng cũng từ từ mở ra khép vào giống
như anh chàng mầu nghệ, có thể anh chàng và cô nàng đã chắc dạ, nên lại lẳng lơ
vờn đuổi nhau sang mãi bên kia vườn.
Cũng kỳ khôi, từ nãy
tâm trí của tôi chỉ chú ý đến đôi bướm trắng mà không để ý đến một khóm huệ,
phía sau chiếc ghế tôi ngồi, có hai con chuồn chuồn nâu gắn vào nhau! Nhìn
thoáng, tôi có cảm tường là một chiếc trực thăng thu nhỏ. Chúng không biết có
tôi ngồi ngay đấy, tôi khẽ xoay người đầu cúi thấp, mò gần lại xem chúng làm gì
mà lạ vậy? Thảo nào, mới khi vào ngồi ghế, lẫn vào mùi thược dược rõ ràng có
một mùi lạ. Bây giờ tôi mới hiểu, đó là mùi đài các quý tộc của huệ trắng, thứ
hoa thường để dâng hiến Đức Mẹ và Phật Bà Quan Âm. Nó vừa trâm anh, thế phiệt
lại vừa hòa nhã, khiêm tốn, đạo đức, thế mà mấy chú chuồn chuồn mới bảnh mắt,
đã rủ nhau đến làm trò.
Rất là lạ, đuôi của một
con phía dưới lại cong tớn lên, gắn vào phía sau đầu của một con, ôm phía trên.
Con phía trên quay ngược đầu lại, thò mãi cái đuôi dài xuống phía dưới, gắn vào
bụng của con phía dưới: Chẳng biết chúng làm cái trò gì mà rắc rối vậy? Tôi đã
giơ tay lên định chộp cả đôi, để nhìn cho rõ, nhưng tôi chợt nghĩ, dù là một
sinh vật nó cũng có buồn, vui, sướng khổ, tôi không có quyền làm gián đoạn hay
phá quấy, cuộc sống của chúng nó.
Nghĩ thế, tôi đã hạ tay
xuống để cho cái mũi, tự do hà hít cái hơi thiên kim của nàng huệ trắng, đang
phì ra cái hơi ngát, ngây ngất của tiểu thư. Làm cho tôi quên béng là phải đứng
yên và thở nhẹ, để ngắm nhìn đôi chuồn chuồn. Tôi đã đứng thẳng người lên, làm
cho hai chú chuồn chuồn đang ôm nhau, cất cánh sang mảnh vườn bên cạnh. Lúc
chúng ôm nhau bay đi, lại càng giống một cái trực thăng bà già, mà tôi đã nhìn
thấy nhiều lần.
Tôi đang định dẫn xe
đạp theo sang mảnh vườn bên ấy, thì đã thoáng thấy bóng em Hoa trong cổng bệnh
viện, phía bên kia đường đang vẫy. Như chợt tỉnh một cơn mê, của anh chàng Từ
Thức :
Rằng xưa…..có gã …..từ
quan …… ….. lên non
Tìm động …….hoa vàng ……
với …..tiên!
Tôi vội dẫn xe đưa các
thứ sang cho em Hoa, đến nơi, chưa kịp hỏi thăm mẹ, em Hoa đã hỏi tôi rồi:
- Anh làm gì . . . . .
. mà em gọi . . . . . . em vời mãi?
- Xin lỗi em! Đêm qua
anh ít ngủ, nên hơi mệt? Mẹ …. đêm qua, có ngủ được không em? Cả em nữa?
Chợt nghĩ đến con của
tôi, như có một sinh khí luồn vào người, tôi tươi mặt:
- Thế còn con của anh,
nó có ngủ yên không?
Hoa đỏ mặt rồi ứ. . .
.ứ, tay cầm các thứ đi vào, chẳng trả lời một câu hỏi nào của tôi. Tôi cũng đã
đến giờ phóng xe sang Phú Nhuận.
Buổi chiều, tôi lúi húi
vo gạo, đặt nồi cơm để chuẩn bị sang với mẹ. Đã hơn một tuần, mẹ tôi đã đỡ nên
ngày mai nhà thương sẽ cho mẹ tôi về nhà, uống thuốc Bắc. Mấy hôm trước, một
ông bác sĩ trẻ trưởng khoa, hỏi tôi và Hoa có một loại thuốc trị vi trùng lao
của Tiệp rất hữu hiệu, chúng tôi có đủ tiền lo cho bà cụ không? Với giá tiền
ấy, chẳng khi nào chúng tôi nghĩ tới, chứ đừng nói là chúng tôi có, nhà chạy
gạo, chạy củi từng ngày làm gì có tiền mua loại thuốc như vậy.
Có thể Chúa và ông Trời
đã thương gia đình chúng tôi hay sao, vài ngày sau, mẹ tôi lại tỉnh táo, như có
một phép lạ tiếp sức, hàng ngày nhà thương cũng cho mẹ uống thuốc lá Đông y là
chính.
Buổi tối, tôi đi trình
diện về, vừa bước vào nhà, thầy tôi chỉ chiếc ghế như bảo tôi ngồi. Tôi ngồi
đưa đôi mắt ngạc nhiên nhìn thầy tôi, hôm nay người có những thái độ khác
thường. Người mở tủ, trịnh trọng lôi ra một chiếc hộp con đánh vẹc- ni đã cũ,
từ mãi góc trong cùng của chiếc tủ cũng xấp xỉ tuổi đời với thầy tôi. Người
mang chiếc hộp ra chiếc bàn con, nhà vẫn ăn cơm. Chiếc hộp chỉ có cái móc,
không có khóa, người ngồi xuống mở hộp, tôi đoán chắc người có món gì quý người
cho tôi đây? Người cầm ra một cái lọ con mầu tím xanh, người đưa cho tôi mặt
người tươi lên, nói dịu dàng:
- Con giữ lấy . . . . .
. mà dùng ?
Tay tôi cầm, nỗi ngạc
nhiên của tôi càng lớn hơn, rõ ràng là lọ mực Wateman của thời trước 1975. Lọ
mực còn đầy nguyên chưa mở, vậy người đưa cho tôi để làm gì? Dù tôi biết là
thầy tôi đã hơi lẫn trí, nhưng tôi vẫn băn khoăn. Để thầy tôi vui lòng, tôi
nhận và cũng trịnh trọng:
- Con cám ơn… thầy!
Thầy cho mực để đi học?
Rõ ràng tôi đã bốn mươi mấy tuổi, lại đang là phó thường dân, chạy ăn từng bữa,
còn đang làm đơn xin vào nơi địa ngục của đời, thì còn học hành cái gì? Vậy
người cho lọ mực để tôi bán lấy một hai đồng? Hợp lý và rốt lý nhất là tinh
thần của người không còn sáng suốt, nên người đã làm như vậy!
Tuy thế, chiều ngày hôm
sau, mẹ tôi và em Hoa ở nhà thương về, ngoài những chuyện khác, tôi vẫn còn đưa
chuyện lọ mực Waterman ra hỏi ý kiến Hoa và mẹ. Hoa và mẹ cũng ngẩn người ra
chịu chết, cuối cùng cũng chỉ còn cho là thầy đưa lọ mực trong một lúc mà óc
thầy không còn sáng suốt.
Phần tôi đã nhiều lúc
tôi định hỏi thẳng thầy tôi, nhưng tuy thầy tôi đã lẫn trí, nhưng người vẫn còn
cái uy với tôi. Cái uy nó đã có từ những ngày tôi còn bé, còn niên thiếu, những
ngày khổ cực tập luyện võ nghệ, đấm đá cây chuối, đấm đá cột nhà, bao cát. Khổ
luyện về mùa Đông cũng như mùa Hè hàng chục năm, từ ba bốn tuổi đã phải đứng
Trung bình tấn, Đinh tấn, Xà tấn, Chảo mã tấn, v.v. . . trong những bài quyền
thuật, hay có binh khí cho mãi tới 14-15 tuổi. Rồi những trận đòn nên thân của
thầy, nên tôi cứ rụt rè không dám hỏi, vả lại tôi đã đinh ninh là một việc làm
của một người không còn bình thường, nên tôi đã bỏ qua.
Tôi nhớ lại hôm kia,
tôi đang gò lưng đạp chiếc xe già trên đường Trương Minh Giảng, thì gặp Tuấn
Nguyệt. Cũng như năm ngoái gặp Lộc Vàng, những người của Hà Nội, của miền Bắc,
giờ đây lại gặp ở Sài Gòn. Tuấn Nguyệt bị ghép cái tội phản tuyên truyền, phản
cách mạng, chẳng có án ung gì mà chỉ ” tắc bọp “. Loại tù tập trung ba năm ở
miền Bắc XHCN hầu như ở đại đa số người tù, người thì ba lệnh, bốn lệnh, năm
lệnh v.v…
Mỗi lệnh là ba năm, rất
ít người được cái may mắn là một hay hai lệnh, thì được về.
Tuấn Nguyệt cũng ở cái
lệnh thứ ba, tại phân trại A, trại trung ương số 2 Phong Quang (Yên Bái), thời
gian này, (cuối 1974) tôi đã gặp Tuấn Nguyệt. Anh có bố di cư vào miền Nam 1954,
ông đã già, không di tản, Tuấn Nguyệt liên lạc lại được với bố. Năm 1976 Nguyệt
được tha đã về sống với bố, Nguyệt lấy vợ, cả hai vợ chồng cũng vất vả ngược
xuôi để kiếm miếng ăn. Hiện nay Nguyệt cũng chả có công việc gì làm; lông bông
thỉnh thoảng ăn bám ông bố già, Nguyệt cũng khoảng tuổi của tôi, hiện nay cảnh
sống cũng tương tự như tôi, chỉ có khác là người tù địa phương (những người ở
miền Bắc đi tù như Trần Nhu, Nguyễn Chí Thiện, Lý Cà Sa, Vũ Thư Hiên,v.v…). Chứ
không phải như tôi, của chính quyền miền Nam ra Bắc, anh không bị mất quyền
công dân và quản chế như tôi.
Đặng Chí Bình
40.
RA KHƠI LẦN THỨ HAI
Gặp lại nhau, thật là vui, nhưng cũng chỉ là ly nước mía,
hay nước chanh là hết cỡ. Tôi cũng đã mời Tuấn Nguyệt lại nhà tôi, và tôi cũng
đã lại thăm nhà, chào ông bố của Nguyệt. Đều tự hiểu là chẳng có cơm nước gì,
dù chủ nhà có muốn mời cơm, cũng không có khả năng. Qua Tuấn Nguyệt tôi biết
thêm một số anh em khác, cũng đã được tha như Mạc Lịch, Tâm Bột, Trần Thế Khải,
Kiều Duy Vĩnh v.v. . . Từ đấy thỉnh thoảng Tuấn Nguyệt ghé lại nhà tôi chơi,
cũng như một số anh em Biệt Kích vậy. Người này liên hệ thăm hỏi để biết người
kia.
Sang đầu 1982, số Biệt
Kích càng ngày càng được về nhiều. Ngay trong anh em BK hầu như không có ai
trong hoàn cảnh và điều kiện như tôi. Họ không có bố mẹ già mù lòa, họ không bị
ràng bố và phải trình diện mỗi ngày như tôi. Nhiều anh em BK được tha về, hầu
như ai cũng phấn chấn ra mặt, riêng tôi hẩm hiu lại xin trở vào trong tù.
Hôm nay tôi đi làm về
đến nhà, Hoa bảo sang mẹ gặp, buổi trưa cậu Tập đến gặp mẹ lâu lắm!. Tôi vội
sang bên bà nhạc, cậu Tập cho biết: tối nay, 8:00 tôi phải sang nhà cậu ngủ, để
sáng sớm mai có xe đón ra Vũng Tàu. Tôi vội về lo toan chuẩn bị những thứ cần
thiết. Tôi trèo vào mùng thầy tôi, thấy tôi vào, người lồm cồm bò dậy, tôi đã
ôm lấy thầy tôi và thì thào:
- Xin thầy giữ gìn sức
khỏe, thầy cầu nguyện cho con đi được trót lọt.
Tôi đã bước chân xuống
giường, tôi chợt nghĩ: ”có thể rồi đây thầy tôi chết, hay tôi chết chả còn gặp
nhau nữa, tôi đành lỗi đạo làm con “. Tôi quay lại ôm lấy thầy tôi thật lâu,
như muốn nói thầm với người như vậy.
Tôi lại vào giường mẹ
tôi, mẹ tôi đã hiểu chuyện từ lúc tôi chưa đi làm về, mẹ tôi cầm tay tôi, vuốt
tóc tôi, người nói trong nước mắt:
- Mẹ muốn con ở bên mẹ,
nhưng mẹ lại cầu xin cho con đi bằng yên! Con phải thương vợ của con, nó cũng
đứt ruột để chồng ra đi !
Tôi ngồi ôm mẹ, gục đầu
vào vai mẹ im lặng cho nhiều nỗi niềm, chảy ra theo dòng nước mắt. Biết bao
nhiêu chuyện phải nói, phải dặn dò mẹ, nhưng tôi chỉ nói được với mẹ, một lời:
- Tất cả mọi sự, con
xin dâng và vâng theo thánh ý Chúa!
Cũng như với thầy tôi,
sẽ chẳng còn hy vọng gặp lại mẹ nữa. Mẹ tôi thì già yếu, bất cứ lúc nào người
ra đi, còn tôi thì trăm thứ bấp bênh trước mặt. Tôi đi trình diện rồi tôi và
Hoa đèo nhau sang nhà cậu.
Tôi đã dặn kỹ mẹ và
Hoa, từ sau 7 giờ chiều mai cho tới ngày hôm sau, nếu cô công an Ngọc Anh có
đến hỏi tôi, thì đều nói : Khoảng 5:30 chiều, người cháu ở Hồng Ngự xuống báo
bà Hai Công sắp chết. Nó vội vàng chạy đến cô để xin phép, nhưng nói là không
gặp cô, nên nó đã đi ngay với người cháu. Đại cương là cứ nói lửng lơ, không
xác định, diễn tiến tuỳ theo để mặc tôi giải quyết! Trong thực tế tôi đã đi từ
sau lúc trình diện, ngày hôm qua.
Buổi tối ở nhà cậu mợ
Tập, tôi đã minh định với cậu mợ Tập: ” Vợ chồng cháu xin ghi lòng nhã ý của
cậu mợ . Về chuyến đi này cháu xin nói rõ:
Nếu cháu chết ở biển
cả, xin Chúa trả đền cho cậu mợ, hoặc trong muôn một vợ con của cháu có điều
kiện nào, trang trải món nợ này cho cậu mợ. Nếu cháu đi đến nơi, cháu sẽ thanh
toán đủ số vàng, mà cậu đã đưa cho họ. Không may mà cháu bị bắt, là phần số của
cháu, còn liên lạc được với cậu mợ, vả lại cháu luôn nghĩ rằng: Nếu lòng cậu mợ
tính toán như cháu vừa thưa, chắc chắn cậu mợ đã không nhường, chuyến đi này
cho cháu “
Đêm hôm ấy, tôi ngủ với
em Hòa, còn Hoa ngủ với mấy con gái của cậu mợ. Bốn giờ sáng còn tối đất đã có
người đến đón, xe đậu mãi gần chỗ chợ cá cũ (Trần Quốc Toàn), Hoa bịn rịn cứ
quấn quít bên tôi, tôi đã đèo Hoa ra tận chỗ xe đậu.
Cả một đêm, Hoa không
chợp mắt được một phút, tôi cho một tay lại sau, cầm tay Hoa. Lòng tôi như sóng
biển trong cơn giông, dạt dào, gào thét thương vợ và đứa con chưa chào đời.
Trên xe đàn ông, đàn bà, trai gái đã có hơn một chục người. Tôi chẳng muốn
người khác chú ý mình, tôi ngừng xe ở một gốc cây bên này đường, Hoa và tôi đã
ôm nhau một lúc thật lâu, để rồi ngực và vai tôi đã ướt cả. Tôi khẽ xoa và vỗ
nhẹ bụng vợ tôi, như nói thầm:
- Con ở lại nhé! Bố đi
sẽ đón con đi sau!
Tôi đã lên xe và xe đã
chạy, tuy trời chưa sáng hẳn, nhưng tôi nhìn rõ Hoa đang gò lưng lại, đạp theo
chiếc xe tôi đang ngồi, để cứ mờ dần, rồi mất hút vào phố phường. Tôi nói như
tự nói với mình:
-Em ơi ? Có mệt không
em? Cái bụng to, tròn như thế mà đạp xe khỏe thật!
Hơn 2 giờ trưa xe mới
đến đồn Cỏ May, vì chiếc xe còn đón một vài người nữa ở chợ Cầu Ông Lãnh, lúc
sáng nay. Xe đi qua đồn Cỏ May, mãi đến một con rạch thì chiếc xe rẽ vào. Xe
ngừng trước một đám nhà tranh, tôn như một xóm nhỏ của làng quê Mười lăm, mười
sáu người lục đục kéo xuống, lúc đó đã hơn 6 giờ chiều. Họ dẫn vào một căn nhà
lợp tôn vách gỗ, trong nhà chỉ có vài chiếc giường ọp ẹp. Một cái bàn mộc đã
loang lổ mực tím, với mấy chiếc ghế đã thứt thẹo, do gánh nặng thời gian. Chiếc
bếp nhỏ lợp rạ vẫn le lói ánh lửa, có một bà mặc nâu sồng, khăn mỏ quạ đang cời
than, tỏ là một gia đình người di cư nghèo từ 1954. Mỗi người còn đang nhớn
nhác tìm chỗ đứng, ngồi thì cái bà tóc quăn, mặc áo cánh trắng khi sáng đôn đốc
người lên xe vào nói, và chỉ tay sang cái nhà bên cạnh:
- Mời các ông, các bà 6
– 7 người sang bên kia, cho rộng chỗ nằm!
Ồn ào một lúc, một số
người quen nhau đã sang căn nhà lợp rạ. Trời tối dần, phần tôi đi ra ngoài quan
sát địa hình, cảnh vật. Theo bà tóc quăn thì đêm nay ngủ ở đây, chờ thuyền lớn
vào theo con nước, có thể 2- 3 giờ sáng chưa biết chừng. Có một cậu chừng 25-
26 tuổi, da bánh mật, đầu húi ” cua “, ngay từ trên xe, cậu ta gặp mắt tôi, mặt
cậu tươi lên, miệng cậu vừa như cười, vừa như mấp máy, mặt của cậu toát ra là
một người hiền lành, chân thật.
Như tôi đã có chủ
trương từ trước, tôi không muốn tỏ ra một hiện tượng gì khác thường, để người
chung quanh để ý. Vì thế, tôi muốn làm quen với cậu lấm, nhưng tôi vẫn giữ im
lặng, giữ nét mặt tư lự hợp lý như mọi người, đều nghĩ về gia đình, người thân
của mình. Bây giờ thấy cậu giở ra một miếng nylon đen đã cũ, tìm một góc nhà,
định trải ra nằm. Lúc cậu gặp lại mắt tôi, tôi đã mỉm cười như chào, rồi tiến
đến chỗ cậu. Cậu đã ngồi dịch lại một chút như ý ” xin mời “. Tôi đã ngồi xuống
bên cạnh và khẽ hỏi:
- Cậu đi có một mình?
Cậu gật đầu và khẽ ” dạ
“. Tôi đã biết cậu người Nam, và chúng tôi đã quen nhau, cậu tên là Chánh, bố
là sĩ quan cấp tá đi ” cải tạo ” ngoài Bắc từ tháng 7/1975 . Phần vì chẳng nên
vội vàng quen biết lúc này, phần khác ai còn tâm hồn đâu, mỗi người đang đầy
ắp, mối ưu lo cho mình.
Trời đã tối, góc này
chỗ kia đã có người móc đồ riêng ra nhai, ăn nhóp nhép. Khoảng 8 giờ, bà tóc
quăn đi vào, theo sau có một bé gái chừng 12- 13 tuổi, bê một rổ cơm đi vào,
còn đang bốc khói và một chồng bát con. Mùi cơm chắc làm nhiều người chảy nước
miếng, vì chính tôi, từ trưa chỉ có hai quả chuối tiêu, ở Biên Hòa, gần chợ Đồn
khi xe nghỉ máy. Bà tóc quăn nói: ” bà con ăn tạm bát cơm với cá khô”, nói rồi
bà ta ra ngay.
Đã có kinh nghiệm trong
tình huống này, nhiều người còn nhìn nhau ngập ngừng. Phải thực thi lời dậy của
cổ nhân: ” ăn cỗ đi trước lội nước đi sau “. Tôi kéo tay cậu Chánh ra, lấy mỗi
người một cái bát xúc cơm, gắp mấy con cá ” cơm ” khô, rồi về chỗ, dùng đũa ”
trời ” mà ăn. Miệng nhai nhưng đầu tôi phảng phất nghĩ suy: Đây là một hình
thức nhà ” ếm ” người. Để đêm thuyền vào đón, hoặc người đón dẫn đi ra thuyền,
nhưng họ tương đối tử tế, những người không có đồ mang theo là đói.
Trời lại tối đen như
mực, khoảng 10 giờ, cũng đã nghe một vài tiếng ” gáy ” khọt khẹt đây đó. Tôi
chợt nghĩ ” cẩn tắc, vô ưu ; lo xa thì không gặp khó khăn gần”. Nếu như CA họ
đã ngửi thấy hơi, mình chưa hiểu ” bến, bãi ”mua hay giao thiệp thế nào nằm một
” rọ” thế này, đêm CA đến vây là bắt gọn. Tôi quay sang ”lay” vai cậu Chánh,
nói nhỏ, trao đổi với cậu nội dung như trên, và tôi đã nói với cậu như một
quyết định. ”Thà chúng ta chịu khổ cực một chút, nhưng an toàn hơn “:
- Anh em mình ra chỗ bờ
dậu găng, chui vào trong bụi nằm tạm chờ, nghe ngóng. Nếu họ đến đón thì chúng
ta vào nhập bọn, còn bộ đội CA đến, thì chúng ta rút, lủi chạy!
Cậu Chánh đã đồng ý,
nên đêm hôm ấy làm sao tôi chợp mắt? Tôi ngồi nghe ngóng tiếng đêm thâu, của
không gian vùng Chu Hải Bà Rịa. Ngoài những tiếng lá cây xào xạc, tiếng dạt dào
của sông nước xa xa vọng về, thỉnh thoảng có tiếng chó cắn, tiếng gà gáy của
những xóm làng quanh vùng vẳng đến. Một điều tôi hơi lạ lùng, rõ ràng tôi nghe
thấy mấy hồi cú ”rúc ” như tiếng oan hồn đêm thâu gọi ”tử thần ” của vùng Vũng
Tàu, Bà Rịa. Tôi cứ tưởng đồng bằng hay ven biển, thì làm gì có tiếng cú kêu?
Dòng tư tướng của tôi
trong bụi găng giữa đêm thâu, đã nhiều lần nhẩy nhót về Sài Gòn. Về người mẹ
hiền mù lòa, bệnh tật của tôi, về người bố lẫn trí. Tự nhiên, tôi nắn tay, sờ
chân xương thịt của tôi là truyền nhân của người. Về người vợ trẻ thương yêu
cùng giai cấp nghèo, như tôi và về đứa con ngọc quý hơn sáu tháng vẫn còn nằm
trong bụng (không biết trai hay là gái). Do một vài ngôi sao đêm to nhất nhòm
xuống và ánh của chiếc đèn biển, từ một chiếc cột cao trên chỏm, cái đồi trọc
phía trước, tôi đã nhìn thấy lúc chiều. Cảnh vật, nhà cửa chỉ còn mờ mờ trong
trí tưởng là chính. Cậu Chánh thỉnh thoảng cựa quậy và thở dài, tôi thông cảm
với cậu.
Tôi đã phải hàng mấy
năm, đêm ngày trong cùm, xích, xê dịch, nằm, ngồi, trở mình, ỉa đái khó khăn
bao nhiêu. Như thế này thì đã thấm tháp gì. Hơn nữa, gió mát lồng lộng, khí hậu
trong lành. Như vẫn thường ăn cơm muối rang, nay được ăn với thịt cá. Sướng như
cưỡi ngựa ấy chứ! Tôi chỉ có nhớ và thương bố mẹ vợ con, lẫn với một chút niềm
lắng lo CA, bộ đội đến vồ. Tôi hiểu mình đã xin đi tù, giờ đây có bắt thì cũng
đi tù, nhưng ở hai tư thế khác nhau rõ rệt.
Có tội bị bắt vào tù và
tự nguyện vào tù đã thấy khác hẳn nhau, ngay ở trong lòng mình rồi. Nó khác
ngay trong con mắt của mình, khi nhìn những tên cán bộ của trại tù.
Do mắt không nhìn rõ
cảnh vật, nên đôi tai đã phải tăng tần số, để nghe tiếng động. Quá nửa đêm, có
lúc trời lặng gió, tôi nghe thấy cả những tiếng giun, tiếng dế nỉ non chuyện
trò, tiếng mấy con cóc cọ kẹ, gại lưỡi gọi trời mưa. Để rồi vừng Đông rạng dần,
còn tôi lại hư đốn, chợp luôn vào giấc Nam Kha. Có lẽ, cái tần số cảnh giác của
thần kinh, tự thấy tạm an toàn, nên đã thổi còi hụ tan giờ ”giới nghiêm “.
Đến khi cậu Chánh đã
lay vai, tôi mới bò nhổm dậy. Nhìn đồng hồ 4:30 như thế tôi cũng chợp mắt, được
gần một giờ. Thảo nào, người tôi thấy sảng khoái hẳn lên, tôi chui ra khỏi bụi
găng, rồi vẫy tay cho cậu Chánh. Tôi khẽ lách, nhẩy qua một luống rau dền cơm,
vào phía sau ngôi nhà hôm qua, mọi người còn đang ngủ yên ắng! Có thể đêm qua
ai cũng thấp thỏm, nên giờ đây đều hãy còn ngủ trả.
Tôi rủ cậu Chánh làm
vài động tác thể dục buổi sáng. Trời trong xanh, nhưng cũng thật nhiều mây
trắng, có chỗ mây chồng lên nhau lổm ngổm như những trái núi mầu xám bạc. Phía
dưới những tầng mây, chỗ thì xám, chỗ thì mầu sữa đặc, nhưng phía trên thì
trắng toát, thậm chí, phát ra hào quang rừng rực, có lẽ mặt trời đã mò lên ở
chân trời phía Đông!
Dưới này thì ánh sáng
nhàn nhạt, nhưng nếu những máy bay nào đi lên trên mây, thì vẫn thấy mặt trời
nắng chói. Bầu trời vẫn còn những khoảng trống, không có mây. Mầu xanh, cái mầu
xanh êm như lụa, tôi không có khả năng để diễn tả hết được cái đẹp kỳ diệu, cái
đẹp hùng vĩ của bầu trời lúc này. Hẳn các quý vị ai cũng đã hơn một lần đã
chiêm ngưỡng, bầu trời xanh mây trắng buổi sớm mai như tôi!
Cái mầu hài hòa kỳ vĩ
lộng lẫy này, tôi đã nhìn thấy ở đâu? À đúng rồi cái mầu xanh của áo khoác
ngoài Đức Mẹ Maria đồng trinh với cái mầu trắng của áo dài phía trong. Mầu xanh
càng làm nổi mầu trắng và ngược lại, như mầu xanh của da trời với mây trắng, nó
hài hòa, nó bao dung, và linh thiêng mãi mãi.
Người tôi đờ đẫn ngắm
trời xanh mây trắng như xuất hồn, một tiếng trong vắt kéo dài rồi rung lên như
phím tơ: Tì…tì….te te… té té… của một con chim lạ đậu trên cây bưởi Biên Hòa
phía trước cổng. Tôi tỉnh hẳn, quay lại cậu Chánh cũng đang dõi mắt về phía
tiếng chim lạ. Không ngờ cũng có người say mê như mình, tôi kéo tay cậu len lén
nép vào dậu găng. Mò gần đến cây bưởi, hình như con chim càng kêu hót nhiều
kiểu, như ca ngợi bầu trời êm ả sớm mai, vùng Chu Hải Vũng Tàu?
Chả lẽ nó liếc nhìn
thấy hai chúng tôi, đang lò dò đến gốc cây bưởi, nên biểu diễn thêm khúc nhạc
mê hồn?
Tôi đã nhìn thấy rồi?
Đúng là con chim lạ, tôi chưa hề nhìn thấy bao giờ, mỏ trắng, đầu và cổ đỏ
chót, hai cái cánh mầu cánh chả ấp lấy cái thân mầu trắng, đặc biệt, cái đuôi
tím sậm, dài ngoẳng. Mỗi lần cất tiếng hót….tí tí ..tẹ….tè…tè tè…thì cái đuôi
lại quay ngang, rồi ưỡn lên một cái.
Tôi và cậu Chánh đều
ngây ngất, không dám cả thở mạnh sợ động, nó bay đi, làm sao có điều kiện, hoàn
cảnh để gặp lại con chim ấy lần thứ hai? Thoáng bóng cô bé bưng rổ cơm tối hôm
qua, đi về phía chúng tôi, tôi đã định chạy lẹ ra kéo cô bé vào bóng cây găng,
nhưng không còn kịp nữa, con chim khỏa cánh bay sâu vào vùng Hải Sơn. Nó bay
đi, vẫn còn hát tiếp tẹ tẹ … tí tí…. tè tè…. Cô bé cũng thoáng thấy con chim
bay đi, và chúng tôi vẫn còn ngoái nhìn theo. Cô bé cũng nhìn theo con chim,
nhưng miệng thì lại hối hả:
- Các chú vào để chuẩn
bị ra xe?
Nhìn đồng hồ mới 5: 15,
tôi và cậu Chánh đều tự hiểu, là chuyến đi đã trục trặc không thành. Bà tóc
quăn căn dặn: cứ hai hay ba người một toán đi cách xa nhau, lần lượt trở ra
tỉnh lộ, tự túc đón xe trở về Sài Gòn. Chuyến đi không được hôm nay, bà ta
không nói lý do, nếu có ai hỏi thì tùy theo mỗi người là ra thăm bạn bè, bà con
ở Chu Hải hay Hải Sơn v.v…
Với tôi thì sự việc đã
tương đối rõ, để khỏi những rắc rối bất ngờ. Tôi đeo chiếc tay nải cố hữu theo
những hướng, đường tôi đã biết để trở về. Tôi định quay vào rủ cậu Chánh cùng
về cho vui, nhưng khi tôi vào trong nhà, chả thấy cậu ta đâu. Một mình tôi trở
về Sài Gòn, để sớm gặp lại bố mẹ, vợ, và con (còn trong bụng).
Trong lúc ngồi xe trở
lại thành Đô, tôi nhớ đến cậu Chánh, rất tiếc do những tình huống đặc biệt, nên
tôi đã không hỏi để biết cậu ở đâu, và bố của cậu bị ra Bắc tên là gì? Với cái
nhìn một vài thái độ của cậu, tôi hiểu là sáng hôm sau cậu cũng đã biết chuyến
đi ấy, chẳng có tàu, thuyền gì cả. Nhưng hiện nay, là người tị nạn trên xứ
người, do những đẩy xô của dòng đời sau 22 năm (1982- 2004) tôi đang ngồi lần
giở lại một quãng đời trong hố thẳm của thời gian, không biết bây giờ cậu ở
đâu? Như thế nào? Còn ở trong nước hay đã ở hải ngoại? Nếu cậu còn hiện hữu,
chắc cậu cũng không thể quên được cái đêm hôm ấy, chúng ta trong bụi cây găng
già và con chim lạ vùng Chu Hải, Bà Rịa?
Hai giờ chiều hôm ấy
tôi đã trở về đến nhà, mẹ tôi cho biết cô Ngọc Anh 8 giờ tối qua đã đến đây tìm
con, mẹ đã nói như lời con dặn, cô ấy dặn:
- Hôm nay con về phải
đến cô ấy ngay.
Tôi tranh thủ tắm rửa,
thay quần áo rồi phóng xe sang tổ mộc Thành Công, ông Huỳnh đã từng là đặc công
của Sài Gòn, qua nhiều lần tôi trao đổi. Phần vì thực tế, từ sau khi miền Bắc
đã chiếm được miền Nam cho tới nay, ông ta đã nhìn rõ một phần sự thật. Phần
khác với những cái hiểu biết của tôi, ông ta thắc mắc, nghi hoặc chưa rõ điều
gì; tôi chỉ cần trình bày sự thật, chính điều này, ông Huỳnh đã dần dà có thiện
cảm với tôi. Đến nay, ông sẵn sàng giúp tôi trong điều kiện của ông. Tôi sang
gặp ông, trình bầy tôi phải đi Hồng Ngự đột xuất thăm bà chị v.v . . . Đến nơi,
bà chị đã gặp được bác sĩ ở bệnh viện Tam Nông giải quyết đúng phương pháp, và
cho thuốc đúng bệnh nên đã khỏe lại chờ ngày cho trở về nhà v.v …
Tôi cũng xin ông cấp
cho cái giấy xác nhận, tôi có đến xin ông nghỉ, để đi Hồng Ngự. ông Huỳnh còn
giúp tôi là CA phường 7 Phú Nhuận, xác nhận trưa nay tôi đã về lao động tại tổ
mộc. Có giấy này, thì dễ dàng nói chuyện với cô Ngọc Anh.
Trưởng CA phường 7 là
bạn thân của ông, từ những ngày hoạt động trong nội thành. Tôi đã chuẩn bị
những giấy tờ cần thiết, chuẩn bị cả tư tưởng cho một ngày thiếu trình diện, để
đến gặp cô Ngọc Anh. Gặp cô, sau khi đưa hai tờ giấy của tổ mộc Thành Công và
của trưởng CA phường 7 Phú Nhuận cho cô. Tôi tưởng sẽ phải trả lời những câu
hỏi hạch sách và thái độ lôi đình của cô như mọi khi, nhưng cô đã không hỏi
han, hay thốt một lời. Mắt của cô nhìn tôi vài giây như đọng lại, mi mắt của cô
hơi hạ xuống, rồi lại từ từ giương lên như nhìn một bến sông chiều muộn, gần
cửa biển lộng gió. Nhìn cô ký cho tôi cả ngày hôm qua, tự nhiên một nhánh tư
tường ngông cuồng, của một người trai tạt ngang, tôi gọi khẽ:
- Cô Ngọc Anh!
Đôi mắt mầu lam nhạt
quay, quét khắp người tôi, rồi đọng lại như đóng cọc nơi cổ tôi. Con ngươi của
cô chuyển dần thành mầu nho chín, trong nắng chiều giữa hạ, tiếng nói thập thò
như muốn lôi kéo, mùa thu về của tôi.
- Tôi muốn . . . . .bắt
tay cô !
Con ngươi của cô tròn
lại, rồi dẹp ra khép lại, tay cô như đầu con sẻ tơ, ngước mỏ lên, rồi tiến dần
về phía tôi. Tôi đã đường hoàng nấm chặt lấy đầu con sẻ, như một lời cảm ơn.
Tôi đứng dậy ra về, với một hơi thở ra thật dài.
Trên đường về, những
ánh đèn trong những ngôi nhà lồi ra thụt vào, như những chiếc lưỡi trắng vàng,
lè ra ngoài con đường hẻm. Cảnh vật mập mờ như dáng hình của mấy sơn nữ, vừa
ngụp lặn trong dòng suối mơ, đang thay đồ bên triền dốc, một ngọn đồi có nhiều
sim tím. Chân bước thấp, bước cao, có lúc nhẹ ” hẫng ” như vừa nhắp một men
rượu lạ, chưa một lần hít hơi.
Nhưng một mùi hương
ngọt ngào quen thuộc, đã xồng xộc chui vào khứu giác, làm cho tôi ngơ ngác đến
lạ lùng. Càng bước tới, cái mùi ngọt ngào, ngây ngất đã nhiều lần kéo, lôi tôi
vào động hoa vàng, càng đặc quánh lại. Để rồi hai cánh tay mềm tròn lẳn, đã
vòng xiết chặt lấy cổ tôi. Mùi hoa thiên lý đang thì, của làn tóc huyền óng ả
của em Hoa, đã vít chặt hai lỗ mũi của tôi. Lạ quá! Có bao giờ em ra đón tôi ở
mãi ngoài này?
Bữa cơm hôm nay có mấy
món lạ, chẳng hiểu em tôi xoay xở ở đâu, như một chút lòng của người vợ mừng
đón người chồng của mình trở lại, và hẳn cô nàng cũng tự hiểu, sẽ có những giờ
phút nắm tay nhau nhún nhẩy vào thăm động hoa vàng!
Một bát canh hoa bí đỏ
nấu lẫn với mấy ngọn bầu, em xin ở nhà cô bạn trong xóm Nghĩa Hòa, một dĩa
trứng vịt tráng, già lửa vàng ngậy thơm ngứa cả mũi, từ khi tôi bước vào nhà.
Do Hoa lỉnh về nhà, xin mẹ được một quả trứng, bữa cơm hàn huyên đầy ắp nghĩa
tình phụ mẫu, phu thê, tường rằng chuyến đi sẽ khó lòng gặp lại.
Đôi mắt em Hoa, nhìn
như chà xát, như dội nước nóng vào cái tay cầm đũa của tôi. Có thể Hoa nhìn
theo ý riêng của Hoa, nhưng tôi có cảm tường cái tay ấy rát ràn rạt, vì dám cầm
vào tay của một cái vòi của con Hồng Tuộc? Tôi lên gân, nắm chặt cứng lại, như
nắm chặt cái vòi, bắt nó co lại, rụt hẳn vào, để đợi ngày.
Con của tôi, chẳng có
cái gì để bồi dưỡng, nhưng cứ mỗi ngày mỗi lớn, nó làm cho cái bụng của mẹ nó
gồ cả vạt áo lên. Hôm nay lĩnh lương, tôi đã ghé đến hàng bà Thản, bán trứng
vịt lộn Hiền Vương. Đã từ lâu, từ ngày có vợ tôi đến bà mua trứng ” bồi dưỡng ”
thường là bốn hột. Hôm nay, tôi lại bảo bà lấy cho năm cái bà ngước mắt lên,
quét ngang vào mặt tôi một cái, như đàn cò đêm, cả vào mặt chị Hằng. Tiếng nói
rặt vùng Cai Lậy, của bà reng rẻng cất lên, như tiếng nồi cám heo sôi già:
- Bữa nay sông Bến Nghé
nước chảy ngược dòng, cậu đòi những hai?
Chẳng muốn thanh minh
với bà Thản, nên tôi chỉ mỉm cười để bà tự thưởng thức câu nói đùa vui của bà.
Thẳng người, khoan thai cỡi lên ” ông già ” lắm mồm, để rong ruổi về Nam Hòa. ”
Ông ” này đã kêu ca cọt kẹt hơn nửa tháng rồi, nhưng tôi vẫn khuyến khích ” ông
” hãy chịu đựng, tôi chưa có thời gian và cũng chưa có tiền mua bốn cái má ”
thắng ”và lau dầu. Đã từ lâu tôi đã gọi là ”ông ” vì tuổi đời như tôi hoặc hơn,
một ”ông” có phí phách, dù cũng phải thiếu thốn ngược xuôi, tần tảo hết lên
Quận, xuống Phường như tôi để trình diện với các cơ quan quản lý. Dù mưa dầm
hay bão giật ”ông” cũng lần mò đi trong nước bùn, cống rãnh ngập tràn, dù cho
nắng rách vai, đỏ tóc ”ông” vẫn cùng tôi đi đến nơi về đến chốn.
Đức tính đặc biệt nhất
của ”ông” là không tố cáo ai, đã hơn hẳn những người bệ vệ, kính trắng, xách
cặp da nhưng xun xoe, luồn cúi, tố giác cả bạn bè, anh em để lấy thành tích,
trèo lên chỗ ngồi cao, để lừa lọc đám dân đen. Dù bết bát, bệnh tật như thế
nhiều lần ”ông” vẫn sẵn sàng cõng thêm cả vợ tôi. Tiếng cọt kẹt của ”ông” hôm
nay nghe như ”ông” hoan hô đồng tình với năm quả trứng vịt lộn, đang chễm chệ ở
trên vai tôi tuy ”ông” thấy tôi có tiền bồi dưỡng, mà lại không có tiền chữa
bệnh cho ”ông “?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét