18. Những Con Rận Phiêu Lưu
Hồn tôi đang lãng đãng, chơi vơi, nửa mơ màng, nửa thức thì lại có tiếng lục đục ồn ào, ngay sàn trên chỗ tôi nằm. Tôi giật mình, ngồi bật dậy. Tưởng lại một người nữa đi cùm. Tôi chồm xuống đất, xỏ dép nhìn lên. Ba, bốn anh đang tranh nhau chộp vồ huỳnh huỵch. Thì ra có một con gián to, Lê Văn Kinh đã vồ được.
Vội vàng, Kinh trèo xuống đất, đến chỗ chiếc đèn con, đang để ở gầm sàn dưới, chỗ hút thuốc lào của buồng. Anh dùng một chiếc đóm nứa con đốt, hơ, nướng con gián. Con gián thật to, mầu sậm bồ quân. Cánh cháy trụi ngay, bụng nó bị ngọn lửa của chiếc đóm hơ mãi vào. Nó phình ra, rồi cong lên, phì ra một đám bọt li ti, sủi lên sùng sục. Một mùi thơm ngậy, phả ra khắp buồng.
Tôi mở to mắt, nhìn cái thân hình đồ sộ, nhìn những ngón tay chuối mắn dài nghêu của Lê Văn Kinh đang vặt từng chiếc chân, cái đầu con gián, đưa lên miệng. Cuối cùng, còn cái thân mình con gián, anh đút tỏm vào mồm, làm nước chân răng của tôi ứa ra. Qua ánh mắt của những người khác, đang ngồi nhìn Lê Văn Kinh thưởng thức con gián. Tôi dám cả quyết rằng cuống họng của họ, cũng bị ướt như tôi. Hàng tháng không có chất protein trong người, chỉ cần một tí hơi hướng, cũng làm say đắm hồn người.
Hẳn cũng sắp đến giờ kẻng báo thức đi làm buổi chiều. Vì không chợp mắt được chút nào, người tôi cảm thấy mệt mỏi. Tôi vội vàng mượn chiếc gầu của cậu Toàn, chạy lẹ xuống giếng, rửa qua cái mặt cho tỉnh người. Khi ngang qua buồng số một, tôi thoáng thấy một đám người ồn ào, to tiếng ở phía chái hồi. Lẹ làng tôi ghé tới. Có mấy bác già, mặt đang chảy dài như quả bí khô. Một bác đang năn nỉ với tên trật tự Tân:
- Xin anh thông cảm tha cho, vì chúng tôi tuổi già không ngủ được.
Hai con mắt của tên Tân, càng trắng thêm ra. Tay y cầm một con dao con làm bằng một miếng sắt, dài hơn một ngón tay. Miệng y đang nguệch ra, hai hàm răng khít lại như không muốn cho ai nhìn thấy lưỡi:
- Tôi tha đề nghị kỷ luật. Từ trưa mai, dù không ngủ, các anh cũng phải vào buồng nằm. Tụ tập, chui rúc ra đây để bàn chuyện phản động à? Con dao này, tôi tịch thu!
Dù không phải chuyện của tôi, nhưng sao người tôi cứ nóng lên bừng bừng, chân tay tôi, thấy ngứa ngáy bứt rứt. Nghe tên Tân nói, tai tôi như có ai rắc sạn vào. Có lẽ, từ nỗi khinh rẻ, căm uất nó từ buồng số 2 xà lim II, Hỏa Lò, nên nhìn cảnh này, nỗi khinh, nỗi uất trong lòng tôi càng chất chứa nhiều hơn.
Xuống đến giếng rồi, mà tay chân tôi vẫn còn rần rật. Vừa lau mặt, vừa nhìn chiêc hoa chuối đang rung rinh với gió. Mới có mấy ngày mà hôm nay nó đã lồi ra, thò dài. Những chiếc bẹ úp phía ngoài, mầu đỏ đã thẫm lại, giương xòe ra như những chiếc cánh dơi. Ấp bên trong một lượt quả con tí, như những ngón tay con gái, dài ngoẵng, trắng đục màu ngà. Trông chiếc hoa chuối chiều nay như một chiếc hoa sen đại đang thì, đỏ choét.
Nước lạnh, nhìn hoa chuối đỏ, tôi quên béng chuyện của tên Tân, để rồi tiếng kẻng mất dạy, đập ngay vào bên tai. Trên chòi gác, tên bộ đội oắt con, cứ thong thả nện cái búa con, vào cái vỏ quả bom kêu oăng oẳng. Tôi thừa nhận cái kẻng này mất dạy thật. Người ta đang ngủ ngon lành thì nó khua dậy. Người ta đang gửi hồn, lãng đãng với trời, mây, gió, nước thì nó đập tan tành. Nó cũng mất dạy, trơ tráo, ỏm tỏi như những tên chủ của nó vậy.
Lúc các toán xuất trại đi làm chiều, tôi đang ngồi trong hàng ở giữa sân, bên cạnh Phan Thanh Vân. Vừa thì thào nói chuyện với Vân, mắt vừa lo đãng rõi nhìn các toán đang xếp hàng đôi, theo nhau ra ngoài cổng trại. Tiếng một tên cán bộ quát to, làm tôi chú ý:
- Không đi, thì lôi nó đi!
Toán bốn, toán nông nghiệp, do anh Hà làm toán truởng. Theo lệnh của tên cán bộ toán, anh đang lúng túng, chỉ định cho hai đi cuối hàng, trở lại kéo một anh còn đang ngồi lại ở sân. Anh này chừng 30 tuổi, mặc bộ quần áo trại mầu xanh xám đã tã. Anh có bộ mặt xương xẩu, đang gục đầu vào hai đầu gối, hai tay luồn, ôm ngang bụng, mồm rên rỉ kêu:
- Thưa ông, tôi đau bụng quá!
Hai anh toán 4 được chỉ định, còn đang lóng ngóng, ngần ngừ, thì tên Cẩn trực trại, quát giận lên:
- Kéo nó đi, còn chần chờ gì nữa! Để cho toán khác xuất trại chứ?
Như cái máy khởi động do người khác điều khiển; hai người cầm hai tay anh đang đau bụng, kéo nê ra phía ngoài cổng. Anh đau bụng nằm ngửa hơ hơ, hai chân xuội ra, rê trên mặt đất. Đầu anh ngoẻo về một bên, đôi mắt nhắm nghiền, miệng cứ rên rỉ…đau quá! Vì lần đầu tôi nhìn thấy cảnh này, nên quay lại hỏi Vân:
- Đau bụng mà không được nghỉ lao động à?
Vân quay sang, như đang định trả lời, thì tên trực trại đã gọi đến toán 2. Thành ra, mãi tới khi vào đến nhà vernie, tôi phải hỏi lại Quý và Lê Sơn. Tôi rất ngạc nhiên, thấy Lê Sơn văng tục:
- Địt mẹ cái thằng Thái y tá! Phải có gì cho nó, thì không ốm, muốn nghỉ cũng được nghỉ.
Thấy thái độ giận dữ của Lê Sơn như vậy, Quý Cụt cũng buồn cười, nói vừa như dàn hòa, vừa như mai mỉa:
- Quy định của trại là 2 phần trăm người bịnh chung cho các toán. Như toán ta có 49 người, thì chỉ được phép nghỉ ốm 1 người là cao nhất. Nếu áp dụng đúng chính sách thì chỉ được nghỉ tám phần chín thân của một người mà thôi. Do đấy, không những mọi người đã “thông” mà còn phải biết ơn cái nhã ý, linh động, nhân đạo của ban giám thị nữa chứ! Hơn nữa, y tế cũng phải chấp hành lệnh của cán bộ mà!
Thấy Lê Sơn cầm mấy tờ bìa đi xuống dưới lán mộc, tôi lại hỏi Quý nữa:
- Việc gì mà phải lôi kéo như thế, nhỡ anh ta đau bụng thật thì sao?
Quý Cụt cười lên khềnh khệch:
- Y tá không cho nghỉ, thì đi làm. Không đi thì bị lôi đi, có khi còn vào kỷ luật nữa chứ!
Không hiểu vì sao, chỉ trả lời như vậy mà Quý lại cười? Hay anh cười tôi đã hỏi một câu thật là tồ? Tôi không hỏi nữa, quay vào lấy sơn, bút ra làm tiếp công việc buổi sáng. Tay làm việc nhưng lòng tôi vẫn băn khoăn; không yên được. Tôi lại đến chỗ Quý:
- Này, thế anh Thái nào đó là y tá có khá chuyên môn không?
Quý đang mở tủ xách mấy lọ dầu sơn ra. Vì Quý chỉ có một tay nên tôi phụ giúp. Xong, Quý quay lại thong thả giải thích:
- Chuyên môn ở đây là phụ thôi. Ông Đặng Văn Hiệp kia kìa, là bác sĩ nội khoa nổi tiếng đấy; đang ở toán 6 nông nghiệp, làm cỏ, nhổ mạ, gánh phân như điên. Vấn đề là tư tưởng và tội trạng, chứ chẳng phải do chuyên môn.
Quay về chỗ tiếp tục làm việc, tôi vẫn chưa hiểu hết vấn đề Quý nói.
Buổi cơm chiều nay, cả toán 2 xôn xao náo nhiệt hẳn lên. Cứ í a, í ới, ríu ra, ríu rít gọi nhau về bát với đĩa, làm như mở đại tiệc. Một đám đông những nhân vật tai mắt trong toán: toán trưởng, tổ trưởng, tự giác đang túm hụm vây quanh gánh rau lá cải bắp già luộc. Tay chân các vị chỉ chỏ, miệng bàn tán cứ vung củ cải lên. Tôi nhớ, ngay từ khi còn ngoài lán thủ công: lúc anh Lý A Chén gánh về một gánh đầy lá rau cải bắp. Trong lán, anh em giáo giác đổ xô hết cả ra chỗ gánh rau đang để ở giữa sân, bên cạnh đống lửa bác Đặng Minh Chánh hàng ngày vẫn đun nước sôi cho toán. Dù phải tôn trọng giờ lao động, nhưng ai cũng liều chạy ra nhìn một cái, rồi mới chịu vào làm. Tôi cũng chả ngăn được sự háo hức nên cũng phải nhào ra. Nhìn cái mầu xanh xậm của những lá cải bắp nằm từng loạt hơ hớ, xếp xuôi chiều, thấy mát cả mắt và cũng mát cả con tì, con vị luôn.
Tên Kích cán bộ toán hôm nay cũng có vẻ dễ dãi. Y cũng thấy nhiều anh em rầm rập chạy ra chỗ gánh rau, nhưng có lẽ y nghĩ rằng: nỗi vui này, hạnh phúc này cũng có phần chính của y ban cho nên tuy y đứng ngay đấy mà chẳng hề nói gì. Mặc dù hàng ngày có bác Chánh dọn dẹp, phục vụ vệ sinh và đun nước cho toán, hôm nay anh Lân còn phân công thêm 2 người nữa, xin bộ đội vũ trang dẫn vào trại, gánh nước ra để rửa và luộc rau.
Thế mà chỉ khoảng 40 phút sau, rau đã được vớt ra để vào 3 cái giành còn mới tinh, đậy bằng mấy lá chuối tươi, khói tỏa ra nghi ngút.
Cả toán được thưởng thức phần cải thiện đầu tiên ngay tại lán là nước rau. Cái này thì cho tự do, tuy vậy, anh Lân, toán trưởng cũng nhẹ nhàng nhắc nhở anh em hãy tự giác. Mỗi người nên uống in ít, còn để dành cho người khác.
Lê Sơn đưa cho tôi cái cóng nhôm Guigoz đã vàng khè vì đôi khi nấu trà:
- Bình hãy xuống múc đầy 3 chiếc ly nứa.
Nước óng lên mầu xanh bích ngọc, tôi nghĩ rằng nó chứa rất nhiều diệp lục tố. Nước nóng, 3 chúng tôi vừa thổi, vừa uống, vừa nhìn nhau. Uống đến đâu, tôi cảm thấy khoan khoái, mát rượi cả cõi lòng đến đấy. Tôi liên tưởng đến những năm xưa còn ở thành đô nhiều hương sắc. Những buổi trưa hè oi ả sau buổi tan tầm, ghé chiếc solex đến chiếc xe sinh tố ở đầu đường Yên Đổ làm một ly cối thập cẩm: măng cụt, chuối, dứa, mãng cầu với một hột gà cũng tuyệt cú mèo đến thế này là cùng.
Bây giờ ở trong trại, theo anh Lân cho biết: gánh rau luộc rồi cân được 19 kg 5. Như thế, toán 49 người, đổ đồng mỗi người cũng xấp xỉ 4 lạng rau chứ có phải chơi đâu. Của hiếm, lâu ngày mới có, nhiều anh toán 2 cũng đem đi chia xẻ niềm hạnh phúc với những người thân quen ở toán khác. Tôi vẫn có lòng thương mến riêng cậu Hùng, vì vậy tôi cũng đưa cho cậu một bát con; gọi là một chút cho ấm lòng nhau lúc này. Hôm nay trại cũng có canh rau, tuy mỗi phần cũng chỉ độ nửa lạng, nhưng vì hàng tuần lễ chỉ có canh sắn hoặc muối rang. Cho nên, cũng có nhiều chỗ một, hai người đã hể hả ăn chung với nhau như một bữa tiệc thân tình.
Buổi trưa hôm sau, khi ăn cơm xong tôi và Toàn xách túi rổ, rá, bát đĩa từ dưới giếng về, vừa bước chân vào cửa buồng, thì anh Lân đang nằm ngay mép sân, cạnh lối cửa ra vào, bò giật dậy, tay chỉ vào tôi, miệng ré lên:
- Thằng Bình, mày đổ rận cho tao phải không?
Phần bất ngờ, phần thấy nhiều người đều chăm chú nhìn tôi, cả Toàn nữa làm tôi ngượng chín người, yếu ớt chống chế:
- Đâu có!
Anh Lân choài người ra, nắm tay tôi, kéo ngồi xuống chỗ anh, miệng vẫn bô bô, làm nhiều người đã nằm đều ngồi dậy nghe chuyện:
- Chính mày mang rận ở Hỏa Lòa lên rồi!
Thấy mọi người còn ngơ ngác nhìn, anh lại nói tiếp như phân bua:
- Tôi thấy lạ, mấy hôm nay đêm nằm cứ ngứa mãi. Lúc nãy cởi áo ra xem, bắt được mấy chú rận kềnh. Tôi nghĩ và biết ngay là anh chàng Bình chứ không có ai vào đấy cả.
Tôi chỉ cười, mặt hơi nóng lên vì ngượng. Nhất là mọi người cứ nhìn tôi như đang nghe một trò vui ngộ nghĩnh. Chưa tha, anh Lân còn chỉ vào mặt tôi giọng chì chiết:
- Trông mã cậu, kẻng trai, tư cách như sinh viên, ai ngờ người toàn rận. Mình không biết lại cứ ôm ấp nó!
Anh còn đang nói, thì Vân ở sàn trong cũng bò giật dậy, la hoảng:
- Thôi chết, thảo nào mấy đêm nay tôi cũng thấy ngứa quá!
Một số các anh, các bác xôn xao có ý kiến:
- Thôi, chiều nay anh Lân phải đề nghị ông cán bộ toán: cho đun một thùng nước sôi. Tất cả quần áo chăn màn của 3 anh, hãy nhúng vào nước sôi, cho chết cả trứng đi. Nếu không, rận lan ra toàn toán thì chết.
Lân còn quay lại hỏi tôi:
- Có rận, sao không nói cho tao biết!
Lí nhí, ngập ngừng, tôi nói nhỏ:
- Tôi quên mất, là nó lại có thể bò sang người khác!
Nhiều người cười ầm cả lên. Để chữa ngượng, tôi nói như thanh minh:
- Lúc ở xà lim ra, họ cho tôi vào một cái buồng có đến hàng trăm đứa trẻ con. Ghẻ lở, rận, chấy đầy, tôi không biết làm sao được.
Và buổi chiều hôm ấy ở ngoài lán, tôi phải một bữa rét run. Quần áo phải nhúng nước sôi, vắt kỹ rồi hơ, phơi ở đống lửa trong nhà vernie, suốt cả buổi mới khô.
Câu chuyện rận này, cho suốt mãi hàng chục năm sau, ở trại này, hay trại kia, nếu mỗi lần Nguyễn Huy Lân gặp lại tôi, còn nhắc nhở đến. Anh lại vẫn không quên nói với anh em chung quanh:
- Trông cậu thế đấy, mà trong người toàn rận thôi!
19. Nghệ Thuật Ăn “Hơi”
Sáng hôm nay trời mưa thật lớn, chẳng biết mưa từ lúc nào đó trong đêm. Trận mưa như tắm rửa, giặt giũ, kỳ cọ những cảnh vật vào cuối Đông để chuẩn bị đón nàng Xuân sắp về. Mưa ào ào dữ dội như có một giòng sông lớn ở trên trời, mở đập ngăn để cho nước đổ xuống trần gian.
Kẻng báo thức đã lâu rồi, mà tên trực trại vẫn chưa vào điểm buồng. Những khung cửa sổ, sàn trên cũng như sàn dưới, nhiều anh khoác chăn ngồi nhìn mưa rơi. Một giọng ngâm khàn khàn của ai đó ở sàn trên dội xuống:
Em thương ơi!
Mưa có rơi dầm dề
Ngày có dài lê thê
Thì em ơi, em cứ đợi
Anh của em lại về…..
Tiếng ngâm rè rè, khô khan không hay mấy, mà cũng làm cho nhiều bộ mặt tần ngần, mắt đăm chiêu dõi mãi ra mưa gió mịt mờ. Nghĩ mình cóc có ai đợi cả, tôi quay sang Vân, đang phì phèo điếu thuốc buổi sáng ở môi:
- Có lẽ hôm nay nghỉ lao động?
Vân đưa hai ngón tay lên kẹp điếu thuốc vẫn ở trên miệng, hít một hơi thật dài. Đầu điếu thuốc lá cuộn, đỏ sáng lên. Vân vừa lấy điếu thuốc ra khỏi miệng, vừa nói trong làn khói hắt hiu, đang phả ra từng sợi ngoằn ngoèo lãng đãng:
- Mưa, bão. Trại nghỉ nhưng toán thủ công không bao giờ…..
Vân chưa nói hết câu, tôi còn đang tính toán, sắp xếp thời gian từng phút, vì hôm nay đến lượt tôi lấy sắn sáng, thì cửa đã lạch xạch và tiếng chùm chìa khóa rủng rẻng. Như tắt ngừng một cái máy, chỉ ba mười giây, âm thanh và mọi di động đều ngưng bặt. Khi cửa mở thì mọi người trong buồng đã ngồi ngay ngắn, thẳng hàng, im phăng phắc, như những tượng đá chùa Hương. “Hương Sơn đệ nhất động, hỏi rằng đây đó phải?”
Điểm xong, mặc mưa rơi, mặc gió thổi, áo tơi, áo lá, nhiều anh lao vào gió mưa, xuống bếp lấy sắn sáng về chia cho mâm mình. Hai buồng kia, cán bộ điểm xong, khóa cửa lại. Lúc ngồi nhai sắn ở hội trường, tôi hỏi anh Đồng mới hiểu: không đi lao động, thì không có ăn sáng. Gà không cục tác, thì gác mỏ. Nhưng “gác mỏ” mà đâu có được nằm yên, trong buồng lại phải đọc báo rồi sinh hoạt. Bởi vậy, với đại đa số người tù, mưa không đi lao động được, lại là một bất hạnh đối với họ. Sáng sáng, quen có mấy đoạn sắn vào dạ dầy, hôm nay đành nhịn teo, mà còn phải gò lưng ngồi sinh hoạt hay đọc báo nữa. Cho nên ai cũng muốn được đi làm, sướng hơn. Phải chọn giữa hai cái xấu, thì ai cũng sẽ chọn cái xấu ít.
Gần trưa thì mưa thưa hạt, rồi tạnh hẳn. Mặt trời lại vén bức màn mây xám xịt, thò mặt ra tươi cười chào mừng nhân thế. Núi rừng lại bừng sáng, lung linh. Hai con sáo to, mầu lông đen óng, hai chiếc mỏ đỏ như sơn Tầu. Chúng cứ khúc khích, nhún nhẩy trầm mình xuống vũng nước mưa ngoài chiếc sân con trước nhà vernie. Một con bọ ngựa mầu xanh lam, to như ngón tay cái, đứng nép dưới chiếc lá của cành muồng non phía chái hồi. Chiếc đầu hình tam giác tí hon, cứ nghiêng ngó nhìn cặp sáo đang vùng vẫy, nhởn nhơ trong hạnh phúc lứa đôi. Chẳng hiểu nó có chạnh lòng nghĩ đến cảnh đơn côi một chiếc của nó; hay nó cũng buông lơi tâm tư để hòa nhịp, hưởng ứng cái hạnh phúc của đời? Thân nó đứng không yên, cứ lắc lư như bà vãi lên đồng.
Tôi hơi bàng hoàng, khi thoáng nhìn thấy một bàn tay gầy nhăn nheo, đang từ phía sau gốc cây muồng cụt, thò ra chộp nghiến lấy chú bọ ngựa, làm rung rinh cành muồng còn đẫm nước. Ồ, bác Chánh, mắt bác vậy mà còn tinh gớm!
Hai con sáo bay vụt lên, đậu tít trên ngọn cây bằng lăng phía cổng khu thủ công. Chúng quay lại chí chóe nhìn bác Chánh đang mang con bọ ngựa về phía đống lửa đun nước, đang cháy hừng hực của toán. Chúng cứ chí chóe mãi, chẳng hiểu chúng trách oán ông Chánh đã phá bĩnh cuộc vui tắm mưa của chúng hay chúng mừng đã nhanh chân chạy thoát ông thần người?
Chỉ còn 5 ngày nữa là đã Tết. Sáng nay, nhân dịp mưa, anh Lân và Đinh Khắc Sản theo toán hai và ba ra lán, rồi được lệnh trở về họp ở trại.
Buổi chiều, anh Lân về phổ biến lại cho toàn buồng gồm cả toán hai và toán ba vì anh Lân là buồng trưởng, thi đua, trật tự, do ban giáo dục, cán bộ trực trại và cán bộ toán nhà bếp chủ tọa. Họp suốt gần ba tiếng đồng hồ, cuối cùng được công bố như sau:
1/ Trại viên sẽ chính thức được nghỉ hai ngày, mồng Một và mồng Hai. Ngày mồng Ba Tết, toàn trại sẽ ra quân, nỗ lực thi đua vượt mức kế hoạch vụ Đông Xuân, lấy thành tích chào mừng ngày thành lập Đảng Lao Động vinh quang 3 tháng 2.
2/ Năm nay, do sự cố gắng lao động sản xuất, hăng say với khí thế một người làm việc bằng hai của toàn thể trại viên, nên đã vượt kế hoạch ấn định của trại. Ban giám thị quyết định, cho trại viên ăn Tết 4 bữa chính, cơm không độn. Một bữa chiều Ba Mươi Tết, sáng, chiều mồng Một và bữa cuối cùng vào sáng mồng Hai. Từ chiếu mồng Hai mọi sự trở lại bình thường.
3/ Hiện nay trại ta có nuôi được hai con lợn, một con 40 kg, một con 25 kg, ban giám thị quyết định cho giết cả để phục vụ trong bốn bữa Tết. Như vậy, kể cả nhân để gói bánh chưng, bình quân mỗi đầu người được hưởng 2 lạng 1 thịt lợn hơi (tính cả xương xẩu, lông lá, phèo lòng và phân của lợn nữa). Mỗi trại viên được một bánh chưng 2 lạng rưỡi gạo (luộc chín sẽ thành hơn 4 lạng). Đặc biệt, trại chính phân phối cho trại ta 50 kg, vừa cải bắp vừa chou-fleur (súp lơ), một tạ khoai tây.
4/ Toán hai, chịu trách nhiệm trang trí và vẽ khẩu hiệu trong toàn trại, và làm một bộ quân cờ lớn cho toàn trại viên vui Xuân.
5/ Về bình bầu thi đua giữa các toán, có 4 toán được là xuất sắc đó là:
Toán 1 nhà bếp.
Toán lâm sản.
Toán 2 mộc, thủ công.
Toán 3 xẻ, thủ công.
Đây là do trại bình bầu, còn quyết định tối hậu do ban giám thị điều nghiên, duyệt xét sẽ công bố sau.
Khi anh Lân phát biểu xong, toàn buồng vỗ tay râm ran, đôm đốp như pháo. Mặt ai cũng tươi roi rói; già, trẻ ai cũng vỗ tay thật nhiệt tình. Thấy mọi người vỗ, thì tôi cũng vỗ hết khả năng, mặc dù tôi cũng chưa hiểu hết trọn vẹn ý nghĩa, đến nỗi vỗ xong, đau cả tay. Chờ cho Vân vỗ tay xong, tôi hỏi ngay:
- Buồng hôm nay vui thế?
Vân nói mà nỗi vui còn phè ra nét mặt:
- Gấp đôi năm ngoái, còn gì nữa mà không vui. Năm ngoái chỉ có hai bữa thôi, mà còn không có chou-fleur nữa.
Thấy bầu không khí trong buồng cứ vui như Tết, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: từ ngày tôi lên trại, hàng ngày mặt người nào cũng đăm đăm, mang nhiều u uất, nặng nề. Thế mà chỉ hai lạng thịt hơi, hãy còn trong hứa hẹn, đã làm tan biến cái màn u ám, đen tối, khổ đau; nhường chỗ cho những tiếng cười, tiếng nói thoải mái, không còn một chút ngập ngừng. Thế mới biết cái uy lực ghê gớm của vật chất, nếu biết dùng đúng chỗ và đúng lúc.
Hôm nay ngày 27 tháng củ mật (tháng Chạp), chỉ còn 3 ngày nữa là đã Tết rồi. Toán lâm sản chịu trách nhiệm lấy lá giong để gói bánh chưng, nên họ đã phân công 2 người vào rừng ngay từ sáng sớm hôm nay rồi. Ngoài ra, mỗi toán chọn lựa 2 người “đứng đắn” (có nghĩa là quá trình chưa bị những lem nhem, táy máy về ăn uống) xuống bếp gói bánh chưng và phụ với nhà bếp.
Mới có 2 ngày từ lúc tuyên bố – chưa có bánh chưng, chưa có thịt và chưa có cả Tết nữa, mà buổi tối ở các tổ, các toán sinh hoạt. Đã có nhiều người tố cáo, phát hiện anh này định bán bánh chưng với giá 2 đồng. Anh kia đã đặt tiền mua suất thịt ngày mồng 1, mồng 2 hoặc cả bốn bữa ăn của người khác rồi. Lung tung liên quan đến rất nhiều người. Để tối nay, các toán trưởng được lệnh của ban giám thị tuyên bố trước.
Nếu trong ngày Tết, cán bộ biết hay bắt được anh nào mua bán đổi chác dưới bất cứ hình thức nào về ăn uống sẽ bị tịch thu. Cả người bán lẫn người mua đều bị đi kỷ luật và không được ăn Tết.
Tôi hiểu rằng: có những người cả năm không có một hơi hướng về miếng thịt, cũng thèm lắm chứ. Nhất là những người dân tộc, hoặc những anh đã kém khả năng xoay sở, lại không có gia đình tiếp tế. Họ cũng thèm ăn lắm; nhưng có thể nhiều thứ khác trong cuộc sống đối với họ còn cần thiết hơn. Như xà phòng, thuốc lào, tem giấy viết thư v.v…chẳng hạn. Họ đành nhịn, họ chỉ cần có cái ăn sao cho không chết, nên họ mới bán cái thứ quý báu mà hằng năm mới có này.
Ngay như tôi, nếu không sợ bị anh em tố giác, tôi cũng sẽ đổi chiếc bánh chưng hay 1 suất thịt để lấy miếng xà phòng con. Mỗi lần tắm về mùa Đông, nước quá lạnh tôi chỉ cần xát một tí lên đầu gội, hoặc để cọ xát cái bàn chải đánh răng mỗi buổi sáng một tí cho có bọt. Như thế chỉ hy sinh một suất thịt mà có thể dùng được 5 – 6 tháng. Hoặc nếu đổi thuốc lào, một chiếc bánh chưng trị giá những 2 đồng. Thuốc lào, giá chính thức ngoài xã hội là hai hào một gói. Nhưng giá trong trại là 5 hào, thì cũng được 4 gói. Hút dè cũng được 2 tháng rưỡi hay 3 tháng.
Chiều tối cũng như nhiều những buổi chiều khác. Nếu làm nhanh công việc riêng như ăn uống, rửa ráy thì thường thường ai cũng có khoảng 15 hay 20 phút thong dong trước khi kẻng vào buồng. 15 hay 20 phút này, vào những hôm trời không mưa, hoặc không quá lạnh. Chỗ tụ tập đông nhất ở ngoài sân là phía đầu nhà hội trường. Nơi có những cây sào nứa làm dàn để phơi quần áo.
Họ ra đây một phần là để cho thoáng khí, trao đổi những câu chuyện rông rài lúc lao động sản xuất của một ngày. Phần khác, mà có lẽ là phần chính yếu, họ ra đấy để thưởng thức những món ăn ngon lành mà đời họ không còn có được. Mấy hôm đầu thì tôi còn lạ, còn ngơ ngác, chứ bây giờ quen rồi. Bởi vậy, sau khi rửa bát xong khi Toàn nhắc tôi:
- Chốc nữa ra “ăn hơi” chứ anh Bình?
Tôi đã vừa cười vừa gật đầu đồng ý ngay. Của trời cho trại E, tại sao không hưởng? Cho hồn ngây ngất, cho lòng đê mê! Khi tôi và Toàn ra tới nơi, thì đã có hơn một chục người rồi. Chỉ không có toán nhà bếp thôi, chứ toán nào cũng có. Chỗ thì 2 người đứng nói chuyện nhỏ to ra vẻ tâm đầu ý hợp lắm. Nhưng rất nhiều người chỉ đứng một mình thẩn thơ trầm ngâm. Mắt họ lơ đãng nhìn những ngọn nứa đang ngắc ngư phía bên ngoài bờ rào trại như những triết gia đang bận tâm tìm một lối thoát cho thế nhân đồng loại. Lại có người ngồi ghệ trên viên gạch, hay hòn đá con. Họ cũng cúi đầu đăm chiêu như đang để hết tâm hồn trên một hướng đi cho mình và cho dân tộc.
Có gì đâu, chỉ vì phía bên kia hàng rào là nhà bếp của cơ quan. Cứ đến cái giờ chết tiệt này là họ xào, họ nấu, họ nướng đủ thứ. Mùi hành, tỏi, mùi mỡ, mùi cá chiên, mùi thịt nướng theo gió, nó rót vào trại E. Có những buổi chiều, mũi nhiều anh đã phải cong lên, mặt đần ra, mắt lờ đờ chỉ vì những cái hương vị chết người đó, ở phía bên nhà bếp cơ quan bay sang. Bởi thế, nhiều người ra đây để tranh thủ 15 hay 20 phút. Có khi hẹn hò như tôi với Toàn, có khi không, nhưng cùng một chí lớn nên đều tụ về một điểm này để ăn…hơi. Mà khoa học thực nghiệm đã cho tôi biết: cái gì ăn tưởng tượng thường lại đẹp hơn cái mình đã có trong tay. Mà nhớ nó cũng thật lâu.
Sau này dù đi trại nào, hay ở đâu, tôi vẫn nhớ nhiều về trại E hơn, chỉ vì cái món ăn “hơi” tuyệt cú mèo này.
20. Những Kỷ Niệm Buổi Đầu Đời
Tết càng gần, nét Tết càng rõ trên mặt mọi người. Lòng mong Tết của người tù cũng như trẻ con mong Tết để được mừng tuổi. Để được mặc quần áo mới và để được chơi bời thỏa thích với bạn bè. Cả một năm lao động khổ sai, đói rét, cùng khổ, chìm đắm trong kiếp đời nhục nhằn lầm than. Tết đến, không những được nghỉ vài ngày, mà còn được ăn bánh chưng, được ăn thịt, được ăn cơm không độn nữa. Những thứ ưu việt cao quý nhất của loài người mà cả một năm không có. Thử hỏi ai mà không mong, không vui sao được?
Sáng hôm nay là 28 tháng chạp rồi. Mới sáng sớm, mọi người còn đang ríu rít chia sắn sáng thì tên Thái y tá kiêm phụ trách nhà tiếp tế của trại đã đến buống số 2. Tay y cầm mấy miếng giấy rơm mầu lá vàng khô. Ngay còn khi ở ngoài sân, lúc y vừa ở buồng số 1 ra. Nhiều con mắt, tuy chẳng ai bảo ai, thế mà đều quay lại nhìn y với ánh mắt đợi chờ, nghe ngóng cho tới khi y bước vào buồng số 2 thì nhiều người đã chạy xô vào, chằm chặp nhìn những tờ giấy vàng ở tay y, mặt hóng lên niềm hy vọng.
Cái tâm trạng này thật cũng đáng buồn cười. Những người có gia đình, thân nhân tiếp tế hồi hộp, nghe ngóng, đợi chờ đã đành. Cả đến những người chả có thân nhân, hoặc đã lâu năm không ai tiếp tế cũng thập thò, nhấp nhổm, dâng lên niềm mơ ước hy vọng như mây chiều trong gió lộng. Thậm chí ngay cả tôi. Tôi đã biết rõ, chẳng có ai là thân nhân tiếp tế cho tôi cả. Suốt đời tù, chả viết thư cho ai, mà cũng chả có ai viết thư cho tôi. Vậy mà cũng thấy lòng động đậy, xốn xang nhìn về tên Thái.
Cái tâm trạng của những người cùng khổ, nó kỳ dị như một người nghèo chả bao giờ có tiền mua xổ số cả, mà lại mong trúng số độc đắc. Mộng ước những chuyện tự nhiên ở trên trời rơi xuống hoàn toàn không tưởng; không hề có một cơ sở thực tế nào. Vậy mà lòng vẫn cứ mong, vẫn cứ ước mơ.
Cuối cùng tên Thái đã đọc tên 5 người của buồng số 2. Những người này xin phép cán bộ toán ở nhà để ra gặp thân nhân, nhận đồ tiếp tế:
- Nguyễn Tứ Hải, toán 3.
- Nguyễn Khải, toán 2 (bị đi kỷ luật hơn 10 ngày trước, chưa được tha).
- Lù Chằn Páng, toán 2.
- Lồ Cao Dưu, Lồ Cao Chính, toán 3.
Bao nhiêu con mắt nhìn về những người vừa được gọi tên. Họ thấy những người này, hôm nay khác hẳn với mọi ngày. Quan trọng hơn, giá trị hơn, Họ đã bước lên một giai cấp khác. Giai cấp có tiền, có thể trong cái xã hội nhà tù nhỏ bé này. Trong khi ấy thì mặt những người vừa được gọi tên đang đờ đẫn với bao nhiêu những nỗi niềm nguồn cơn về gia đình và cuộc đời; xốn xang chuẩn bị tinh thần để gặp gia đình và người thân.
Tôi quay lại nhìn anh Đồng ngồi ngay cạnh tôi. Mặt anh buồn rười rượi, đôi mắt áng lên mầu nâu xám như lắng đọng, chất chứa một nỗi sầu xa vắng. Tôi khẽ đặt một tay lên vai anh:
- Xin lỗi, hàng năm anh có nhận được tiếp tế của gia đình không?
Câu hỏi như khơi dậy, cho nỗi buồn thầm kín của anh chảy dài. Những vết hằn trên trán của anh càng nhăn nhúm lại, như trong lòng anh đang bị quặn thắt, xót xa. Anh nói như chia sẻ bầu tâm sự:
- Tôi chỉ còn một bà mẹ già, năm nay đã gần 70 tuổi. Năm năm trước, mẹ tôi đã mò mẫm, lặn lội lên đây thăm tôi một lần. Khi về, phần vì tuổi già, phần vì lam sơn chướng khí của miền đèo heo hút gió này đã quật bà cụ một trận ốm tơi bời hơn hai tháng. Từ đấy, mẹ tôi bị liệt một chân, phải đi nạng. Lá thư năm ngoái mẹ tôi gởi lên đã làm tôi nhiều đêm không ngủ. Hình ảnh của một người mẹ già sống lam lũ, thiếu thốn, cô đơn, heo hút trong căn nhà tranh xiêu vẹo phía cuối làng hoang vắng vẫn đêm đêm hướng về người con trai trong ngục tù biền biệt xa vời, cứ giằng xé, gậm nhấm hồn tôi. Nỗi đau, nỗi hận tôi đã kìm hãm, đè chặt trong tim; vậy mà nhiều lần vẫn ứ ra theo giòng nước mắt trong những đêm dài không ngủ.
Hai mẹ con côi, tôi là đứa con trai duy nhất của người. Bố tôi đã bị giết ngay từ 1955, đợt đầu của cuộc cải cách ruộng đất ở quê tôi. Hiện nay, mẹ tôi sống lần hồi rau cháo, hàng ngày quét dọn vệ sinh cho một hợp tác xã thủ công ở địa phương.
Ngồi nghe anh thổ lộ, tôi cũng thấy lòng se lại trước cảnh tình thương đau của anh. Tôi chợt muốn biết sơ qua về tội lỗi của anh, vì thế đợi anh ngừng tôi mới hỏi:
- Thế anh tội gì và án hay tập trung?
Anh ngửng lên nhìn tôi như đắn đo một lúc rồi ngập ngừng:
- Tội vượt tuyến, án tôi chung thân.
Tôi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, nên đầy thắc mắc:
- Vượt tuyến gì mà lại án chung thân?
Mặt hơi nhăn lại, mắt anh quắc sáng nhìn về phía chiếc cửa sổ phía đối diện như còn chất chứa một nỗi u uất tràn ắp trong lòng:
- Tôi và một người bạn nữa, bị vây bắt ở biên giới Lào và Việt thuộc Nghệ An. Trong thế cùng chúng tôi đã chống trả quyết liệt để thoát thân. Chúng tôi đã giết chết một tên bộ đội biên phòng. Cuối cùng người bạn của tôi bị bắn chết ngay tại chỗ và họ đã bắt được tôi. Chúng đã đánh tôi một trận đòn thù tưởng không thể sống được. Vết thương ở đầu làm tôi mê man gục xuống. Chúng tưởng tôi đã chết rồi. Mãi 3 tháng sau vết thương tôi mới tạm lành.
Nói đến đây, anh cúi đầu xuống, giơ một tay vạch tóc phía trên gáy cho tôi nhìn một vết sẹo gồ ghề, ngòng ngoèo, chỗ trắng, chỗ còn tím xậm dài đến 5 phân. Chẳng hiểu vì nỗi xúc động bừng dậy hay vì cái đau ẩn uất của tâm hồn; mặt anh tái hẳn lại. Anh đứng dậy ra khỏi buồng.
Còn nhiều điều nữa tôi muốn hỏi về anh, nhưng thấy thái độ của anh như vậy. Tôi chậm chạp tiến lại chỗ chiếc điếu cày, hút một điếu cho hồn vấn vít chảy vào khói mây với những bồng bềnh ngổn ngang, ngược xuôi của những kiếp người.
Ra lán thủ công lao động được một lúc, khi tôi ra chỗ nhà cầu để đi tiểu, thì anh Đồng từ dưới toán mộc cũng ra theo. Tôi có cảm tưởng như anh đã để ý chờ tôi từ sớm. Vừa đi tiểu anh vừa nhìn tôi dáng băn khoăn rồi nói như dặn dò:
- Hầu như tất cả đồng phạm ở đây không ai biết rõ về sự việc của tôi. Nhưng tôi đã thổ lộ với anh, chỉ vì tôi tin chắc, anh là người có ý thức, có tâm hồn, không làm thiệt hại gì đến tôi về sau.
Khẽ đặt tay lên vai Đồng, tôi nói giọng thân tình khắng khít:
- Cám ơn anh, chắc rằng lòng tin tưởng của anh không sai đâu.
Buổi trưa, toán và trại đang ồn ào, rối rít chia cơm canh ở sân thì một tốp đến gần chục người buổi sáng đi gặp thân nhân và nhận quà tiếp tế, từ ngoài cổng trại đi vào, làm mọi người đều ngoái lại nhìn ra. Phía bên ngoài cổng trại. Tên cán bộ Cẩn trực trại và tên Tân trật tự đang lúi húi vuốt, nắn từng anh, và những gói quà tiếp tế trước khi cho vào trại. Mỗi người, tay xách chiếc túi vải con, mặt anh nào cũng rầu rầu. Có anh mắt hãy còn đỏ hoe, hẳn vừa trải qua những giây phút xúc động não lòng. Tôi chợt thấy anh Đồng đứng trong một góc khuất phía cuối hội trường. Mặt anh đờ đẫn chảy dài, cũng đang nhìn ra phía cổng. Tôi bước lên, tiến lên chỗ anh đứng. Gần 1 phút đứng bên anh, nhưng anh vẫn bần thần như xuất hồn, để rồi anh phải bàng hoàng giật mình khi thấy tôi đứng ngay bên cạnh. Để lấp cái ngỡ ngàng, ngượng ngập của anh, đưa hiệu mắt nhìn ra đám người đang xách những gói đồ tiếp tế tôi hỏi:
- Hàng năm, mới gặp gia đình nhận quà tiếp tế một lần, sao chỉ có một túi con vậy?
Anh quay lại, giọng rời rạc,heo hút:
- Anh tính đã 14 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa rồi. Gia đình nào cũng kiệt quệ, phải chạy ăn từng ngày. Những năm đầu, do tình thương yêu máu mủ nồng nàn, gắn bó giữa người thân yêu ruột thịt. Còn vài tháng hay 1 năm tiếp tế một lần. Sau dần dần, nhiều gia đình đành bỏ luôn. Nhất là người thân lại phải chuyển lên núi rừng xa xôi như thế này nữa. Vả lại, khi kinh tế gia đình khánh kiệt dần thì tình nghĩa cũng tàn rụi theo. Mặc dù anh nhìn thấy đấy, những đồ tiếp tế quanh quẩn chung chung thường là một ký đường cát, hoặc đường phên, ít muối vừng, ít bánh mì khô hoặc mấy con cá hay tôm khô. Một hai cái bánh chưng, đôi gói thuốc lá hay thuốc lào. Tất cả chừng 4 – 5 ký là nhiều.
Buổi chiều khi toán đi làm về, anh Nguyễn Huy Lân, buồng trưởng đứng ở giữa nhà, tay cầm một tờ giấy nói to:
- Như thường lệ hàng năm.Các anh em quân, cán tập kết hãy ghi tên vào danh sách này để chiều nay tôi nộp cán bộ giáo dục.
Trong khi anh Phạm Tấn Tích đến nhận tờ giấy từ tay anh Lân; tôi hỏi Phan Thanh Vân đang ngồi bên cạnh:
- Tại sao làm danh sách quân, cán tập kết để làm gì?
Vân vừa lục đục lấy túi bát đĩa ở trên kệ vừa thủng thẳng trả lời:
- Những anh cán bộ hay bộ đội tập kết từ trong Nam ra Bắc năm 1954 theo hội nghị Genève. Bây giờ bị bắt vì nhiều tội khác nhau như: xét lại, hủ hóa, ương ngạnh, chống đối hay phản tuyên truyền v.v…Cứ cuối năm, gần Tết thì được mời riêng ra, để cán bộ nói chuyện.
Tôi chưa hiểu trọn ý của Vân nói, nên cũng cầm rổ, đĩa ra ngoài sân theo Vân để lấy cơm và hỏi tiếp:
- Mục đích, gọi họ ra như vậy để làm gì? Và có được ăn uống gì không?
Vân quay lại cười và nói nhẹ như thì thầm:
- Chỉ được uống nước trà và hút thuốc lá. Của đâu mà ăn!
Mục đích để động viên tinh thần, làm khỏa lấp nỗi nhớ nhà của họ mà thôi. Tuy vậy, hàng năm họ được đặc biệt thêm mỗi người một chiếc bánh chưng của trại.
Thấy nói đến bánh chưng của trại. Hơi thắc mắc nên tôi hỏi tiếp:
- Bánh chưng của trại là tiêu chuẩn chung của phạm nhân sao lại phát thêm cho họ? Sao không là bánh chưng của ban giám thị?
Vân kéo tôi lùi xa chỗ đám chia cơm, lấm lét nói nhỏ:
- Năm ngoái đã có 2 người đi cùm chỉ vì thắc mắc về bánh chưng của quân, cán như Bình.
Rồi Vân dặn dò:
- Đừng đem ý kiến này nói với ai, nhớ đấy!
Tôi hiểu rằng Vân đã thân tình với tôi hơn, nên lại hỏi tiếp:
- Quân cán ở trại này có đông không?
Vân hơi cau mày như để nhẩm tính:
- Buồng mình 8 người, toàn phân trại E này khoảng 22 – 23 người.
Cơm đã chia xong, nên tôi trở về phía mâm cơm. Sáng hôm sau, trời rét lạnh, hanh khô. Ánh nắng dịu ngọt làm vàng ửng những ngọn nứa già, cao lêu nghêu phía cuối hội trường. Góc phương trời phía Nam, vài vạt mây trắng hồng nằm gác dài trên rừng nứa xa xa. Đất trời như muốn báo cho nhân thế, nàng Xuân sắp về. Toàn trại vừa ồn ào, nhộn nhịp ngoài sân chia sắn sáng xong. Đây đó, rải rác chỗ từng tụm, chỗ dăm ba người đang ngồi nhai vội vàng mấy đoạn sắn luộc để kịp giờ đi lao động của một ngày. Tôi ngồi ghế phía đầu chiếc ghế dài bên cạnh anh Đồng ở hội trường. Vừa nhai sắn, mắt tôi dõi nhìn hai con chim sẻ đang đứng dựa vào nhau, trên nóc nhà số một, cheo chéo phía trước mặt. Thỉnh thoảng chúng quay lại nhìn nhau, chí chóe chuyện trò. Nắng sớm, làm cho cánh và đầu chúng sáng hồng lên trên mầu trời xanh nhạt. Nhiều lúc cả 2 con, cánh chúng đều vung lên như giận dữ. Chúng lùi xa nhau ra, rồi lại tiến sát gần vào nhau, cùng nhìn xuống đám tù đang ngồi nhai sắn ở dưới sân.
Chẳng hiểu chúng là vợ chồng hay đang còn trong thời kỳ yêu nhau của buổi ban đầu? Nhưng tôi cứ nghĩ chúng chỉ là đôi bạn rủ nhau đi chơi sớm, nhân một ngày đẹp trời. Vì vậy dòng liên tưởng của tôi, đã đẩy tôi trở về một quãng đời ấu thơ rất xa xưa ở quê nhà. Khi ấy tôi khoảng độ 7 – 8 tuổi. Tôi có 2 người bạn rất thân cũng xấp xỉ tuổi tôi. Nhà chúng tôi rất gần nhau, và cùng ở phố huyện. Một cậu tên là Kim, bố mẹ nó mở hàng bán thịt chó duy nhất ở phố huyện, chỉ cách nhà tôi một cái chợ làng. Tôi nhớ nó nhiều nhất, vì mỗi lần đến bên, người nó toát ra một cái mùi khăn khẳn của thịt chó thui.
Một cậu nữa có cái tên rất là đặc biệt: Chũm Đế. Để mỗi khi tôi với Kim tức tên gọi là “Chũm Chọe” nó là con một ông Lý Cựu ở trong làng. Thế giới đối với chúng tôi lúc đó là phố huyện và xã hội, cuộc đời là chỉ gồm có 3 chúng tôi. Ngoài ra chúng tôi không hoặc chưa biết một chuyện gì khác của cuộc đời rộng lớn đầy phức tạp này.
Ôi thôi, khung cảnh ấy và giai đoạn tuổi đời này, chứng tôi có rất nhiều kỷ niệm không quên. Nhưng lúc này tôi chỉ nhớ nhất đến một việc khi nhìn đôi chim sẻ trên nóc nhà.
Một chuyện thật ngây thơ đến độ buồn cười. Chẳng hiểu do từ đâu và bắt đầu có từ bao giờ, để trở thành một quy định thế này giữa 3 chúng tôi: mỗi khi vì lý do nào đó tôi và Kim giận Chũm, không muốn chới với Chũm nữa. Sáng sớm, chúng tôi ra đống đá của lục lộ đang làm đường. Mỗi đứa lấy hai hòn đá bằng nắm tay, đến ngồi trước ngõ nhà thằng Chũm. Cứ đập hai hòn đá vào nhau: cạch cạch… hàng giờ. Như vậy là báo cho Chũm, chúng tôi không chơi với nó nữa. Vậy nếu có gặp nhau thì đừng hỏi han gì cả, chúng tôi sẽ không trả lời đâu.
Có khi một người lại giận cả hai người. Buổi sáng đến gõ đá trước nhà hai người. Nếu ngày sau còn giận tiếp thì lại đến đập đá nữa. Bởi vì nếu buổi sáng không đến đập đá, có nghĩa là đã hết giận rồi. Đôi khi cả 3 người đều giận nhau. Trường hợp này phải đi đập đá lung tung.
Một lần tôi không nhớ rõ là chuyện gì mà cả Kim lẫn Chũm đều giận tôi. Mỗi sáng dậy tôi đã nghe tiếng cành cạch phía ngoài đường. Trong nhà nhìn ra, cả Kim và Chũm đang ngồi đập đá liên hồi. Lòng tôi vừa buồn vừa tức. Buồn tức cả ngày, đêm đi ngủ hay cả lúc ăn cơm cũng hãy còn buồn.
Sáng hôm sau, tôi chờ mãi không thấy chúng nó đến đập đá nữa. Như vậy chúng nó đã hết giận tôi rồi. Nhưng tức vì chúng nó đã làm tôi buồn mất mấy ngày, nên tôi lại lấy đá đến nhà chúng để đập v.v…
21. Khám Trại
Hồn tôi còn đang chảy dài xuống hố sâu của thời gian thăm thẳm đã qua, thì mắt tôi thoáng thấy một đoàn cán bộ vừa công an vũ trang đeo súng dài và cán bộ quản giáo, đến gần hai chục tên đang từ phía cổng xồng xộc đi vào trại. Tôi còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì thì đã thấy nhiều đồng phạm nhớn nhác, vội vàng hấp tấp mang bát đĩa đi vào buồng. Đồng thời tiếng kẻng mất dạy lại rống lên từng tiếng một ở phía cổng. Đến giờ tập họp đi lao động như mọi khi. Thấy anh Đồng vơ vội túi bát đi vào buồng, tôi cũng chạy theo, chỉ kịp hớt hãi hỏi anh:
- Chuyện gì thế?
Anh Đồng vừa chạy vừa trả lời đứt quãng:
- Khám trại!
Trong buồng, sàn trên, sàn dưới; mọi người đang hùng hục lấy những chăn màn, quần áo, cuốn chiếu bụi mù. Ai ai cũng khẩn trương sớn sác. Mãi lúc này, một lũ cán bộ đã đứng trước cửa buồng, một tên cán bộ dõng dạc tuyên bố:
- Lệnh của ban giám thị, hôm nay sẽ làm tổng vệ sinh toàn trại. Mỗi anh, công, tư trang có cái gì phải khẩn trương mang hết ra sân. Thứ tự tổ nào vào toán ấy, do cán bộ chỉ định từng khu vực. Bất cứ cái gì còn lại trong buồng đều sẽ bị tịch thu.
Rõ ràng, bây giờ cán bộ mới tuyên bố khám trại, vậy mà các anh, các bác tỏ ra đã có kinh nghiệm. Ngay khi đoàn cán bộ mới vào tới cổng, các anh các bác đã rối rít vào buồng chuẩn bị rồi. Sau này tôi mới hiểu. Do những nhu cầu của cuộc sống tù, hàng ngày, hàng năm mỗi người đều phải lo toan cho mình những thứ tối thiểu: cái gô, cái cóng đun nước, cái lược, con dao con để xử dụng. Đôi khi mua, bán đổi chác lén lút được gói trà, nắm gạo v.v… Những thứ này đều vi phạm nội quy, cán bộ thấy sẽ tịch thu. Vì vậy ai cũng tớn tác lo cho mình làm sao giấu, đút qua mặt được cán bộ khi bị khám bất ngờ. Muốn vậy phải lanh lẹ chạy vào lo toan trước, chứ chậm, muộn thì còn làm sao giấu đút được nữa.
Tôi vừa vơ chăn màn, quần áo, rổ rá, đĩa và những đồ linh tinh, tôi vừa nghĩ: mình chả có cái quái gì cả. Có cái quan trọng nhất là chì mật thì ngay từ những tháng trước, tôi đã luồn chắn chắn vào gấu chiếc quần đùi cũ. Chiếc quần đùi này, tôi không mặc, vẫn để lẫn trong túi quần áo. Tôi vẫn tin tưởng rằng: dù cho cán bộ hay bất cứ ai có trông thấy cái mẩu chì này thì cũng chả hiểu được giá trị của nó. Vì vậy tôi vẫn yên tâm. Tôi theo Vân ôm đồ ra khỏi buồng.
Ngoài sân, la liệt khắp kín cả sân trại. Từ trên đầu nhà kỷ luật cho đến sát hàng rào giếng, phía cuối sân, đầy tù và chăn màn quần áo. Tổ nào toán nấy đều có 3 tên cán bộ áo vàng, nghiêm trang đứng đưa những đôi mắt cú vọ, soi mói quan sát mọi người.
Tôi khệ nệ ôm gói chăn màn, quần áo đến chỗ tổ vernie đã có Quý Cụt và Lê Sơn ở một góc phía đầu hội trường, thuộc về khu vực toán hai. Nhìn về buồng số II, bốn tên cán bộ vũ trang. Mỗi tên trên tay cầm một chiếc đèn pin đang lục lọi các ngóc ngách, sàn trên, sàn dưới. Một bác già vẫn làm vệ sinh trại, đem vào buồng một sọt lớn, đặt ở giữa nhà, để đựng những thứ tù bỏ sót lại hoặc các tên cán bộ đi khám, moi móc được những thứ tù cất, giấu.
Tôi để ý thấy tụi cán bộ lục soát thật kỹ càng. Từ trên mái nhà, dưới gầm sàn, chúng bới móc mọi nơi, mọi chỗ mà chúng khả nghi tù có thể giấu diếm những đồ nội quy, quốc cấm. Tôi còn đang liếc nhìn những ánh đèn pin le lói, loang loáng phía trong buồng thì một vật cưng cứng, đột nhiên chạm nhẹ vào phía sau lưng tôi, trong khi tên công an vũ trang đứng ngay trước mặt, chỉ cách tôi hơn một mét. Tên này cũng đang đưa mắt nhìn về phía một tên cán bộ ở chỗ toán 3 đương quát tháo:
- Tất cả các anh nghe đây: anh nào ngồi chỗ nào, ngồi yên chỗ ấy. Tuyệt đối không ai được di chuyển, đi lại lộn xộn. Anh nào đã được khám xong, ôm đồ đạc của mình vào trong hội trường gấp gáp.
Mồm y nói, mắt y quắc sáng, tay chỉ vào trong hội trường cũng đã có một tên cán bộ đứng coi. Tôi lẹ đưa tay về phía sau, thì ra là một chiếc lược nhôm mới, rất bóng của Lê Sơn luồn cho tôi. Tôi chợt nhớ đến con dao nhỏ làm bằng lưỡi cưa con, dài hơn một ngón tay của tôi. Tôi vẫn dùng trong những công việc vặt, sinh hoạt của đời tù. Chỉ một thoáng suy nghĩ, tôi đã tìm ra một phương thế hữu hiệu. Ngay trên chiếc chiếu con tôi đang để chăn màn quần áo của tôi. Tôi lựa, lách lưỡi dao vào kẽ những sợi cói. Dùng sức, tôi giúi ngập ngay xuồng nền đất của sân. Thế là ổn! Quý Cụt và Lê Sơn ngồi ngay bên cạnh tôi cũng không hề biết.
Bây giờ những tên cán chịu trách nhiệm từng toán bắt đầu lần lượt khám, lục xét vuốt nắn từng người và công tư trang của họ. Lắm anh có lẽ vì không cất dấu kịp nên bị tịch thu cũng nhiều. Nhìn chiếc sọt đựng đồ thu của mỗi toán. Tôi thấy nào ống bơ, lược, dao, nõ điếu nhôm, giấy má thư từ, hộp gỗ con v.v… vất lưng một sọt.
Lê Sơn bị tịch thu 2 chiếc lược nhôm kiểu con rồng, mới bóng và hai gói trà. Sau đó tôi được biết: sáng đó Lê Sơn có gần một chục cái lược và một tá gói trà, nhưng anh đã khôn khéo tẩu tán, gửi gấm, giấu diếm gần hết.
Đến lượt tôi, tên công an vuốt nách, vuốt tay chân, lục túi rồi giũ từng cái chăn, cái quần, cái áo. Chả có cái cóc khô gì cả. Chỉ có một cái lược sừng và một cái lược nhôm của Lê Sơn vừa đưa. Theo nội quy, mỗi người chỉ được dùng một cái lược, ngoài ra bị tịch thu hết. Tên công an cầm hai cái lược hỏi tôi:
- Cho anh tùy ý giữ lại một cái.
Lòng tôi đang có sự giằng co lựa chọn. Tuy cái lược nhôm thật đẹp, giá trị gấp mấy lần cái lược sừng nhỏ của tôi. Nhưng cái lược sừng này là vật duy nhất của tôi, từ ở trong Nam. Nó đã theo tôi suốt dài những năm tháng tái tê trong xà lim, Hỏa Lò. Dù cái lược nhôm, hay bất cứ cái lược gì khác có quý đến nhiều lần hơn thế, thì tôi vẫn chọn chiếc lược sừng nhỏ, tuy xấu, cũ đã gãy 1 răng, nhưng nó như là một người bạn thân thiết của tôi. Ngày trước, khi tôi tự tử ở buồng số 6, xà lim I, của hơn 4 năm trước tôi cũng đã rũ rượi xin chào từ giã nó. Nhưng cái lược nhôm lại là của Lê Sơn vừa gởi.
Anh đã đối xử với tôi đầy ân tình. Tôi nhớ đến một hành động cao đẹp của anh, chiếc đĩa nhôm mà tôi đang dùng và những suất sắn sáng anh đã giúp tôi một cách hào hiệp, lúc khó khăn buổi ban đầu mới lên trại của tôi. Hơn nữa Lê Sơn là một người có lý tưởng chống Cộng sâu sắc, kiên định. Tôi làm sao có thể để một người như thế, mất hay giảm lòng tin tôi. Tôi lúng túng đến nỗi mặt tôi nóng lên rần rật. Hết liếc nhìn Lê Sơn, rồi lại nhìn Quý Cụt ngay trước mặt tên cán bộ. Không thể có một cử chỉ, một nháy mắt ra hiệu được cho nhau.
Cuối cùng, đành vậy, tôi giơ tay ngập ngừng, rụt rè cầm chiếc lược nhôm, để chốc nữa trả lại cho Lê Sơn. Tôi đành để mất chiếc lược sừng kỷ niệm, thân thương từ đấy; tuy trong lòng không khỏi xót xa, luyến tiếc.
Mãi gần trưa mới khám xong toàn trại và được lệnh các toán mang chăn chiếu vào buồng! Lòng buồn rười rượi, tôi nhìn Phan Thanh Vân đang gấp lại quần áo bên cạnh. Mặt Vân cũng đanh đỏ gay, tôi khẽ hỏi:
- Có mất gì không?
Vân trả lời trong hiu hắt:
- Vài thứ lặt vặt không đáng kể, nhưng có mấy tấm ảnh của bà chị ở Pháp gửi cho đã lâu, họ cũng không cho giữ.
Ngừng một lúc rồi Vân lại nói lầu bầu:
- Tôi sẽ làm đơn ra ông Toán, vì chính ông đã mang thư và ảnh đó từ trại chính vào cho tôi cơ mà.
Tôi chưa biết nói sao, nên chỉ biết khích lệ và an ủi Vân:
- Đúng đấy, Vân phải làm đơn đi. Ảnh gia đình, thân nhân của người ta mà cũng thu.
Ngay sau khi tôi xếp chăn màn, quần áo của tôi tạm ổn. Trèo lên sàn trên chỗ Lê Sơn, tôi rút chiếc lược nhôm ở túi ra gửi lại anh. Lê Sơn nhìn tôi đăm đăm rồi cười, anh đẩy tay tôi lại:
- Tôi tặng anh để làm kỷ niệm đấy!
Biết rằng, không thể nói cho anh hiểu được, tôi còn quý cái lược sừng của tôi hơn nhiều lần cái lược nhôm này. Vì anh và tất cả người khác không thể tin được. Cũng chính vì điểm này, tôi càng không thể nhận chiếc lược của anh tặng. Bởi vậy, tôi nói với anh bằng thái độ dứt khoát:
- Không được. Tôi cảm ơn nhã ý của anh, nhưng tôi nhất quyết không lấy chiếc lược này đâu. Để mai kia ra lán, anh cho tôi ít nhôm rồi anh chỉ cho tôi cách nấu và pha chế. Tôi muốn, chính tay tôi sẽ làm lấy một cái lược để tôi dùng.
Nói rồi tôi đặt cái lược lên đùi anh và trèo xuống, về chỗ.
Buổi trưa, tôi đang nằm liu riu. Một mắt ngủ, một mắt thức thì thấy xôn xao, ồn ào ngoài sân. Trong buồng cũng có một số người ngồi dậy đi ra. Tôi cũng tung chăn bò dậy. Ra tới cửa buồng, gặp cậu Hoàng Mạnh Hùng, tôi hất hàm ra phía sân, hỏi khẽ:
- Cái gì thế em?
Hùng ghé vào tai tôi thì thào:
- Họ thả những anh em bị kỷ luật, cho ra ngoài ăn Tết.
Gợi trí tò mò, tôi nhẹ đập vào tay Hùng tỏ ý cùng ra đó xem sao. Ngay trên đầu nhà số III, đã có gần chục các anh và các bác đang đứng túm tụm trên đầu hè, nhìn về phía nhà kỷ luật. Tên Cẩn, cán bộ trực trại cũng đứng gần chỗ nhóm nứa trước nhà kỷ luật. Tay y cầm chùm chìa khóa cứ rung, lắc reng rẻng. Sát phía đầu hồi nhà kỷ luật, tên trật tự Tân đang kéo tay một anh nằm dài dưới đất, miệng y léo nhéo:
- Cố đứng dậy mà đi! Ban giám thị khoan hồng cho ra ăn Tết lại không mừng sao?
Phía trong, chỗ hiên sau nhà kỷ luật, lố nhố có gần chục người. Người thì đang vịn vách lò dò bước ra, người thì bò lết dưới nền đất. Nhìn cảnh đó mà lòng tôi đờ dại ra. Một nỗi xót xa của những kiếp con người dâng ngập lòng tôi. Người già, người trẻ, mắt ai cũng trắng dã; tay chân khẳng khiu, gầy guộc như những cái càng của con cua rốc. Hai thái dương và hai má đều lõm vào, thành ra nhìn ai mặt cũng gồ ghề, toàn xương.
Một mùi khăn khẳn, ngai ngái, tanh tanh từ những đám người kỷ luật phả ra chung quanh. Thỉnh thoảng, tên Cẩn lại quay mặt ra phía đầu gió, gần hàng rào trại, xì khô mũi của y mấy cái. Cái mùi làm cho tôi nhớ lại, cái mùi của những con chuột chù, ngày còn bé tôi thường bắt chơi, ngửi thấy.
Thoáng thấy bóng anh Khải, tôi đến ngỡ ngàng nên cứ nhìn anh mãi. Mới có hơn một tuần lễ, mà tôi đã không nhận được ra anh nữa. Ông Nguyễn Tứ Hải, cha anh, một tay ông ôm chiếc chăn ẩm, một tay ông đỡ nách anh Khải. Hai cha con chậm chạp, bước từng bước run rẩy về phía buồng số II. Mỗi người đều có những bạn bè dìu, nâng, đang lê từng bước về buồng.
Riêng có một anh chừng 35 tuổi, dáng đã nhỏ con, lại chỉ còn xương với da. Nếu không nhìn thấy mấy sợi tóc bạc và những nếp nhăn nheo trên trán anh, thì tôi lại tưởng là một đứa trẻ con. Anh mệt nhọc ôm chiếc chăn tã, nhiều chỗ toàn bụi đất. Anh cứ lê, bò đi vài thước, lại đặt cái chăn xuống nền sân đất, rồi gục đầu lên đó nằm yên một lúc, lại ngẩng đầu dậy bò tiếp. Nhìn anh, tôi liên tưởng đến cái ngày khốn khổ, tôi ở cachot, Hỏa Lò bò ra năm xưa. Ruột tôi vặn vò không yên được; khẽ động vào tay Hùng tôi nói như thúc hối:
- Em hãy ra giúp anh ta về buồng, dù có bị liên quan, em cũng cứ làm đi!
Chắc Hùng cũng đang xúc động, thấy mắt cậu đỏ lên. Hùng chỉ khẽ nói:
- Anh Hải Sơn toán 2 đấy!
Nói rồi, Hùng tiến ra đỡ anh Hải Sơn đứng dậy trước con mắt gườm gườm, lạnh lùng của tên Cẩn và những con mắt mở to của mọi người. Mấy hôm, sau ngày Tết, tôi được anh Đồng cho biết: anh Hải Sơn là người của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Anh ta bị bắt 11 năm rồi.
Khi về buồng, nghe mấy anh xì xèo bán tán với Nguyễn Huy Lân buồng trưởng tôi mới hiểu: trong nhà kỷ luật lúc ấy có tất cả 9 người, đều được thả cho ra ăn Tết. Duy có bác Lê Tài Chương thì không được ra, chẳng một ai hiểu vì sao?
Những người đi kỷ luật về, đều được về toán của mình nằm cho lại sức. Chưa ai rửa ráy, tắm giặt gì được. Chiều hôm ấy cũng chưa ai được ăn cơm, tất cả đều phải ăn cháo, vì sợ thủng dạ dầy. Ba người của toán 2 là Nguyễn Khải, Hải Sơn và một anh nữa là Trần Hiển. Khi ra lán thủ công lao động buổi chiều, Quý Cụt đã cho tôi biết: Trần Hiển là một tu sĩ công giáo. Án tập trung cải tạo 3 năm, nhưng đã ở tù thành 9 năm rồi.
Hôm nay là ngày giáp Tết. Buổi sáng nay là buổi lao động cuối cùng của một năm. Theo như chương trình nghỉ Tết và gọi là vui Xuân (?) của trại sẽ diễn tiến như sau:
Hai giờ chiều, toàn trại tập họp ra hội trường để nghe ban giám thị nói chuyện và tổng kết những thành tích lao động sản xuất một năm của trại. Tuyên bố kết quả những toán và những cá nhân xuất sắc sau khi ban giám thị đã duyệt xét. Cuối cùng sẽ tuyên bố chương trình vui Xuân của trại gồm có thi đấu bóng bàn và cờ tướng.
Về bóng bàn:
Giải nhất – 1 bánh chưng, 1 gói trà và 1 bao thuốc lá.
Giải nhì – 1 bánh chưng và ½ bao thuốc lá.
Thi đấu cờ tướng:
Giải nhất – 2 bánh chưng, 1 gói trà và 1 bao thuốc lá.
Giải nhì – 1 bánh chưng, 1 gói trà và ½ bao thuốc lá.
Phần vì tôi cũng biết chơi ít nhiều cờ tướng ngay từ khi còn nhỏ, sau này vào Nam, ở trại học sinh di cư Phú Thọ, tôi lại tiếp tục chơi những khi có điều kiện. Phần khác, sau nhiều năm ngồi tù đơn độc trong xà lim ở Hỏa Lò, tình cảm tâm tư bị nén buộc, tôi muốn nhân dịp này gặp gỡ được nhiều người ở những toán khác. Bởi vậy, tôi cũng ghi tên tranh giải cờ tướng của trại. Phan Thanh Vân dù chỉ nhìn đời bằng một con mắt, anh cũng ghi tên tranh giải bóng bàn.
Vì thời gian chỉ có hạn, chỉ trong vòng có hai ngày rưỡi nên ban tổ chức vui Xuân quyết định: sẽ đấu vòng loại ngay sau khi ban giám thị nói chuyện tổng kết ở hội trường. Riêng về cờ tướng, ngay khi hết hạn ghi danh lúc 5 giờ chiều hôm qua (ngày 29), tôi đã biết có 52 người ghi tên thi đấu của toàn phân trại.
Phải nói sáng hôm nay không khí của trại cũng khác thường, mặt anh nào cũng rạng rỡ hẳn ra. Như mỗi người đêm qua đều được uống một ly đường Cuba pha đậm vậy. Thực thế, rõ ràng mắt mọi người như mới được quét thêm cái mầu tình nghĩa và nụ cười đã trở lại ở trên môi nhiều người.
Khi cái toán xuất trại đi lao động, do sự chỉ định của cán bộ giáo dục: toán 2 phải để lại 4 người vẽ và làm lỗ cho bàn cờ tướng của trại.
Bàn gỗ bóng bàn, do nhóm kỹ thuật của Đinh Sơn đã làm xong từ gần một tuần trước. Hôm nay cũng được khênh về, lắp ráp ở trong cổng trại, chỗ gần bụi nứa cuối hội trường. Về cờ tướng, để thêm phần hào hứng cho mọi người tù, ban giáo dục cho vẽ bàn cờ lớn ngay ở sân chính của trại, trước nhà số I. Bàn cờ chiếm gần nửa cái sân. Quân cờ bằng những miếng gỗ hình chữ nhật, một bề 15 phân và một bề 20 phân, được sơn xanh và đỏ. Trên quân cờ viết chữ bằng sơn trắng để phân biệt quân của hai bên. Mỗi quân cờ được đóng vào một thanh gỗ, vuông 3 phân, dài chừng 70 phân để làm chân.
Vì thế, bàn cờ phải có lỗ để cắm quân. Những lỗ này chỉ cần cưa một đoạn đầu mặt của một ống nứa nhỏ, dài chừng 10 phân, rồi cứ việc đóng cho bằng xuống nền đất là thành một cái lỗ để cắm quân cờ.
Khoảng 10 giờ sáng, ngay khi toán còn ở ngoài lán thủ công lao động đã nghe thấy tiếng lợn kêu eng éc, từ nhà bếp cơ quan và nhà bếp của trại văng vẳng vọng ra. Tiếng lợn kêu, làm cho mắt ai cũng sáng lên long lanh. Anh nọ nhìn anh kia như có ý nói: đấy…nghe thấy không bạn ơi! Cho đến trưa, khi toán về đến trại thì nỗi vui mừng, niềm hân hoan trên mặt mọi người đều bị phì ra tứ tung. Từ lời chào hỏi, xen lẫn ánh mắt dịu dàng nhìn nhau, cho đến dáng đi, nước bước đều như được chứa chất nỗi hưng phấn, đong đưa của một kiếp người.
Một mùi ngòn ngọt, ngây ngất thơm tho từ trong nhà bếp xông bừa ra phủ kín cả trại E. Để, dù cho xuống giếng rửa ráy, tắm giặt hay vào buồng nằm nghỉ; đâu đâu ai cũng ngửi, cũng hít thấy cái mùi mê ly, say đắm đến xụi hồn ra ấy. Tác dụng của nó đã làm cho mọi người hôm nay đối xử với nhau đậm đà, cởi mở hơn, nhã nhặn dễ dãi hơn.
Tuy chẳng nói ra, nhưng ai cũng tự hiểu: bữa cơm trưa nay thì vẫn cơm ngô xay, muối rang như mọi ngày. Nhưng bữa chiều nay thì phải biết, phải tự mỗi người hãy suy nghĩ lấy… Có trời mà đoán được nó hạnh phúc như thế nào? Chính vì vậy, chính vì cái hạnh phúc đang đến thường thường lại hơn hẳn cái hạnh phúc đã đến rồi.
Một điều nữa, cũng chẳng ai nói ra nhưng ai cũng hiểu như nhau: bắt đầu từ lúc này, không phải gò lưng để kéo xẻ, không phải è cổ gánh phân, vác gỗ, không phải vẹo người đế quai búa tạ v.v… Được xả hơi thong dong, nhàn du, dài những 2 ngày rưỡi cơ mà; cho nên niềm vui, nguồn thanh thản, thênh thang càng được nâng cao rõ rệt.
22. Tổng Kết Một Năm Tù
Trưa nay tôi nằm mãi không ngủ được. Bên cạnh Vân cũng trở mình hoài. Tôi hiểu cũng ít ai ngủ được buổi trưa nay. Ngày Tết đã đến nơi rồi, mà tấm thân vẫn nằm trong tù mịt mù.
Mỗi người là một thế giới riêng biệt đầy ngược xuôi, ngang dọc nỗi niềm thì làm sao mà ngủ được. Tôi cứ nằm chập chờn trong cái bồng bềnh của tâm tư. Hình ảnh của bố mẹ, các em thơ dại; hình ảnh những phố phường, bạn bè, thân thuộc của miền Nam nồng đượm hương sắc; hình ảnh chiếc lưng ong mỹ miều của người Hưng Yên ngày ấy….. tất cả, có lúc lướt nhanh vùn vụt rồi cũng biến nhanh đi vào cõi mông lung, mịt mùng, nhưng có lúc nó dềnh dàng, chậm chạp lắc lư như dừng đứng lại, trong nỗi khắc khoải mênh mông.
Một giờ 30. Tiếng kẻng lại rổn rang lên trong cái tịch mịch hoang vắng của núi rừng giữa một buổi chiều cuối năm. Kẻng tập họp. Tất cả mọi người đều phải ra hội trường để dự lễ tổng kết cuối năm.
Hội trường hôm nay đã được dọn dẹp, trang hoàng, sạch sẽ. Bàn đã được khênh hết ra ngoài, chỉ còn những hàng ghế dài. Mười phút sau, hội trường đã chật ních đầy người. Phía khán đài, chính giữa treo tấm hình Hồ Chí Minh to tướng. Chung quanh là các khẩu hiệu chữ vàng, đỏ, treo la liệt. Tên Cẩn trực trại và mấy tên cán bộ lạ, đi lại lăng xăng. Đúng 2 giờ, một đoàn cán bộ, quần áo đại lễ, lúc nhúc từ phía cổng, trang trọng đi vào. Đi đầu là một tên đã đứng tuổi, đeo lon trung úy. Khi những tên này vào đến khán đài, một tên cán bộ đã đứng chờ sẵn hô to:
- Đứng dậy!
Cả hội trường phải đứng dậy chào y. Sau khi tù đã được lệnh ngồi xuống, tên đeo lon trung úy tiến ra bục nói chuyện. Y thao thao bất tuyệt, nói hết chuyện trên trời, dưới đất. Nào là quân dân miền Nam đang đà chiến thắng ở khắp mọi chiến trường. Quân dân miền Bắc sản xuất vượt mức trong mọi ngành, mọi nghề và hạ được nhiều máy bay Mỹ v.v…
Rồi về phần trại, y cũng nói rất nhiều. Cuối cùng vẫn có một câu bài vở:
hầu hết trại viên đã nổ lực, phấn đấu thi đua lao động cải tạo, nhưng vẫn còn một số phần tử ngoan cố không chịu cải tạo, từ chối sự giáo dục của đảng, vẫn ngày đêm ôm ấp, bao che những tư tưởng chống đối, chây lười lao động, ù lì trong học tập. Những phần tử này phải mau mau chuyển biến, hối cải. Đảng và nhà nước sẽ nghiêm khắc trừng trị đích đáng v.v…
Tôi thấy y nói cũng chẳng có gì mới lạ. Tôi vẫn đinh ninh lão là Hoàng Thanh, mà ít ngày trước đã có nhiều anh em nói tôi. Nhìn và nghe y nói, lòng tôi đã giảm hẳn những lắng lo, băn khoăn của tôi về y. Nghĩa là, y cũng bình thường và chung chung mà thôi, không như tôi tưởng. Quay sang Vân ngồi bên cạnh, tôi nói như chia xẻ:
- Tôi cứ tưởng Hoàng Thanh ghê gớm, nham hiểm, sâu sắc lắm!
Một mắt của Vân mở to nhìn tôi, rồi hơi nhếch môi trên, nửa như cười:
- Không phải đâu! Đây là ông Mạch, trưởng ban tuyên huấn của toàn trại trung ương số một này đấy.
Tôi hơi ngỡ ngàng, hỏi tiếp thì được biết: Hoàng Thanh đã đi đâu gần một tháng nay chưa về. Có thể ông ta có công tác về bộ.
Phần tuyên bố kết quả những toán và cá nhân xuất sắc do một tên cán bộ giáo dục đọc. Tên này, tôi vẫn thỉnh thoảng thấy y ra vào trại. Tuy y chỉ có cái lon trung sĩ, nhưng qua phong dáng và cách ăn nói, tỏ ra y là một người trầm tĩnh có năng lực điều hành, tổ chức. Chỉ nghe một buổi y nói chuyện, tôi có cảm nghĩ: rồi đây y sẽ tiến lên cao nữa trên bước đường công tác của y. Sau đó tôi được biết tên y là Tập, Bùi Huy Tập. Hai toán được xét duyệt là thi đua xuất sắc: toán 4 nông nghiệp và toán lâm sản.
Về cá nhân xuất sắc: cả trại gồm 15, 16 người. Riêng toán 2 có 4 người là: Lê Khắc Dũng, Phan Thanh Vân, Lù Chằn Páng và Lý A Chén (tự giác toán).
Khi bình bầu ở dưới toán thì có 7 người, trong số này không có Lê Khắc Dũng. Ngược lại Nguyễn Huy Lân (toán trưởng, buồng trưởng) Lê Văn Kinh (người nhái) Đặng Minh Chánh, khi đưa lên trên duyệt lại bị xóa tên.
Mỗi khi tên Tập đọc đến tên toán hay cá nhân xuất sắc thì người đó phải đi lên khán đài đứng quay mặt về phía trại viên. Toán thì do toán trưởng đại diện. Mỗi một người bước lên khán đài lại được một tràng vỗ tay của mọi người. Đến lượt Phan Thanh Vân ngồi cạnh tôi đứng dậy tiến lên khán đài, mặt Vân đỏ rừ, chả hiểu vì ngượng hay vì vui mừng?
Vì được chỉ định là đại diện các cá nhân xuất sắc nên Vân phải đọc một bài viết sẵn, cảm tạ đảng và ban giám thị, hứa hẹn sẽ duy trì và phát huy sự cải tạo tiến bộ của mình. Đại diện hai toán xuất sắc do anh Hà, toán trưởng toán 4, cũng đọc một bài bài viết sẵn. Nội dung cũng từa tựa như trên.
4 giờ, vừa bế mạc lễ tổng kết. Tên Thái y tá, trưởng ban tổ chức Tết đã gọi tất cả các anh em ghi tên đấu cờ tướng và bóng bàn hãy tập trung tại hội trường để rút thăm đấu vòng loại, cho kịp chương trình vì thời gian chỉ có hạn. Theo chương trình, trận chung kết sẽ đấu vào mùng 2 Tết.
Riêng về cờ tướng, vì quá đông người ghi tên, nên chia ra làm 2 danh sách A và B, mỗi danh sách có 13 cặp. Tôi có tên trong danh sách B. Do thời gian tranh giải qua ngắn, nên sau khi rút thăm, đã bắt đầu đấu vòng loại ngay. Một cặp nào đó ra đấu ở bàn lớn ngoài sân, còn hầu hết các cặp khác đều đấu cờ bàn, tùy theo ở trong hội trường hay trong buồng. Khi đấu bất cứ bàn nào cũng đều có một người của ban tổ chức làm trọng tài, giám thị.
Tôi rút thăm gặp anh Thìn người Sơn Tây của toán Lâm Sản. Tôi thắng anh không có gì khó khăn lắm. Hơn một giờ sau, 26 cặp đấu vòng loại xong: bảng A còn lại 7 cặp, bảng B còn lại 6 cặp. Sáng mai, mồng 1 Tết sẽ thi đấu tiếp.
Tôi được biết đã 2 năm rồi, chức vô địch cờ tướng của trại đều do bác Lẫm người Hà Nội của toán 5 rau xanh giữ. Nghe nói trước đây bác đã từng tranh giải cờ người ở chùa Lán và Văn Miếu. Như vậy tôi hiểu rằng bác chẳng phải là tay tầm thường trong làng cờ Bắc Việt.
Như trên tôi đã trình bày, mục đích chính của tôi chỉ muốn nhân dịp này để làm quen, biết thêm các anh, các bác ở các toán khác mà thôi. Cho nên tôi không đặt hoàn toàn chủ trương vào cuộc tranh giải. Vả lại, tôi hiểu rằng nếu quyết tâm tranh giải, sẽ phải tập trung hết tâm tư, trí lực vào bàn cờ. Đêm nằm cũng phải suy nghĩ tính toán từng thế, từng nước cờ. Như vậy còn đâu tâm hồn để thưởng thức những món ăn tuyệt vời, mà đã hơn 6 năm nay tôi không được hưởng. Chưa nói, còn đâu những giờ phút thảnh thơi, thanh thản buông lơi cho hồn chơi vơi với cái Xuân trong tù. Do thế, tôi chả dại.
Nhớ lại lúc ban giám thị tuyên bố những cá nhân xuất sắc. Trong đám đông tôi liếc nhìn thấy nét mặt của Nguyễn Huy Lân và Lê Văn Kinh trầm ngâm, thẩn thờ khác thường. Tôi hiểu rằng, tâm trạng những người bị xóa tên, ít nhiều đều ôm một nỗi băn khoăn thấp thỏm. Không hiểu mình có điều gì nặng về tư tưởng, hoặc có ai báo cáo ngầm với ban giáo dục những điều gì để cuối cùng ban giám thị đã gạch tên. Tôi có ý định nhân ngày nghỉ Tết sẽ đến anh Lân để chuyện trò tìm hiểu thêm về quan điểm của anh, cũng như vụ án của toán Boone biệt kích.
Khi vào buồng, Shè Khửu Sáng đã đón tôi ngay ở cửa, nói nhỏ:
- Chúng em đã chờ anh từ nãy, mời anh lên chỗ Hùng để uống nước trà.
Nghĩa tình anh em trải ra như vậy, nên dù định về chỗ nằm nghỉ ngơi tôi cũng ráng trèo lên sàn trên chỗ Hùng ngay. Ố, vui quá! Có La Văn Thịnh, Nguyễn Văn Châu, Sáng và Hùng, bốn cậu người dân tộc cùng một toán biệt kích. Không thấy Nông Quốc Hải, tôi hỏi thì Hùng tỏ ý ngập ngừng. Thoáng hiểu có một chuyện gì đó trong nội bộ, nhất là ít thấy Hải nói chuyện với các cậu, vì vậy tôi hỏi vấn đề khác:
- Làm sao các cậu có trà, và lại ngồi đàng hoàng thế này?
Châu vừa khẽ nâng cái ca tráng men rót trà vào 5 chiếc ly nứa con, vừa cười:
- Anh không biết à? Ngay từ trưa trại đã thông báo: “trưa nay cho đến mồng 1, mồng 2 Tết, nhà bếp sẽ đun riêng 1 chảo nước sôi. Anh em trên toán được xuống lấy nước sôi tự do để pha trà”. Chúng em…..
Châu vừa nói đến đấy thì chiếc nắp ca đột nhiên bật ra rơi xuống chiếu, làm tung cả bã trà ra. Giộ lên những tiếng xuýt xoa tiếc rẻ, cùng với 4 -5 bàn tay như những cái chổi con nhanh nhảu vơ quét những bã trà. Chỉ một loáng, chiếu đã sạch trơn không còn một cánh trà. Bã trà đã gọn ghẽ vào trở lại trong ca và tiếp tục đổ nước sôi.
Hùng hẳn còn nhớ ý của cậu Châu đang nói dở nên lại tươi mặt lên nhìn tôi:
- Chúng em có mấy người bạn dân tộc có gia đình tiếp tế, cho trà. Được phép chúng em mới dám công khai chứ anh!
Chỉ có dúm trà và ít thuốc lào, ngồi quây quần bên nhau thôi, nhưng dạt dào nghĩa tình anh em, chiến hữu. Trong cảnh bất hạnh, khốn cùng đầy ắp thương đau của đời, tình người lại càng nở hoa, lại càng thấy thương yêu nhau như anh em ruột thịt.
23. Nàng Xuân Đến Thăm Tù
Tôi mới uống được lưng chiếc ly nứa con, thì tiếng kẻng đã rống lên rồi. Cũng tiếng kẻng ấy, mọi khi tôi ghét cay, ghét đắng, nhưng hôm nay nghe nó thánh thót, ngân nga có lúc như tiếng sáo diều trưa hè ở quê xưa. Bởi vì hôm nay nó tử tế; lịch sự hiền ngoan lắm; nó trang trọng mời bà con xuống bếp lấy cơm Xuân, để đón đêm trừ tịch.
Không khí cả buồng, cả trại sôi ồn lên như giữa buổi chợ phiên. Chúng tôi, chả ai cần nói, cũng đều tạm dẹp chuyện nước nôi, đển đến tối hãy hay. Bây giờ phải đi lo cái chuyện quan trọng, chuyện lớn, nó liên quan đến cái hạnh phúc hay buồn khổ của đời người.
Ra đến ngoài sân, nườm nượp những người. Ai cũng rảo bước chạy, như một giòng nước chảy xuôi về phía nhà bếp. Ngày thường 2 người trực mâm, một người chia cơm, một người chia canh. Nhưng hôm nay vì tình thế quá căng thẳng, nên mâm nào cũng đều phải tăng cường thêm 2 người nữa là 4. Chỉ mươi phút sau, giòng nước lại chảy ngược từ nhà bếp túa ra về các ngả.
Những ngày thế này thật là một cái nạn với một số đông người, nhất là tôi lúc này, một người mới tới trại. Hàng ngày chỉ cần 2 cái để đựng, một cái lấy cơm và một cái lấy canh hoặc muối, là đủ rồi. Hôm nay, trời đất ơi, những năm món, tôi bấn xúc xích cả lên! Lấy cái gì để đựng bây giờ đây, hỡi cuộc đời? Làm sao mà mượn được ai trong này! Những món mà mới chỉ nhắc đển tên thôi là nước miếng đã rỉ ra rồi:
1. Thịt lợn kho – 1 soong cho cả toán
2. Rau cải bắp trắng xào mỡ – mỗi mâm một soong
3. Khoai tây hầm xương lợn – mỗi mâm một soong
4. Lòng lợn xào chou-fleur – mỗi mâm một soong
5. Hành nén chua – mỗi mâm một soong
Tôi chỉ có một cái rổ con để lấy cơm. Còn có mỗi cái đĩa, thế mà những năm thứ, làm sao đây? Người ta gọi nhau í ới, râm ran cả sân lên. Dáng ai cũng tớn tác khẩn trương. Nhóm này gọi “anh Bình ơi, đặt bát lấy khoai tây”, nhóm kia gọi “anh Bình ơi, đặt bát lấy cải xào”.
Tôi hiểu rằng, phải có đủ bát thì họ mới chia lẹ được. Bởi vì, từ mấy ngày trước, trong khi chuyện trò tôi đã biết: những hôm có tươi thế này họ chia chác cẩn thận lắm. Ấy là còn may, soong thịt lợn kho là quan trọng nhất, anh Lân toán trưởng chịu trách nhiệm đã giữ soong thịt để chia sau. Tôi bấn cả người lên ! Chạy ra, chạy vào, nhìn ngược, nhìn xuôi, cuối cùng tôi lật đật tạt vào buồng, lục lấy cái khăn mặt bằng vải áo tù, ở dưới Hỏa Lò đặt đại ra để lấy hành nén. Nhưng đển đây, lại có một khó khăn trở ngại nảy ra: mọi thứ chia đặc biệt này, đều phải gọi tên. Nó đã trở thành một nguyên tắc không ai được quyền thay đổi, kể cả cán bộ hay ban giám thị. Người ta có rổ, hay đĩa sạch sẽ, nên khi gọi tên, ai lấy phải phần tôi đựng bằng giẻ thì làm sao họ bằng lòng?
Cả mâm 10 người nhìn nhau không tìm ra 1 cách giải quyết cho ổn. Bất chợt anh Đồng lên tiếng:
- Nếu tôi lấy phải cái khăn của anh Bình, tôi đồng ý đổi lại với anh.
Thấy vậy, Toàn và cậu Sáng cũng lên tiếng đồng ý như anh Đồng. Nghĩa là, nếu lấy phải cái khăn vải của tôi, họ cũng đồng ý đổi lại với tôi. Thế là bắt đầu chia. Hành nén, một củ thường có 2 hay 3 nhánh. Có nhánh to, nhánh nhỏ, nhánh vừa. Họ tách đều ra, rồi chọn 10 nhánh tương xứng bỏ vào 10 phần. Mười nhánh khác cũng thế. Cuối cùng khi đã chia xong, thì mỗi phần chừng độ 12, 13 nhánh.
Bắt đầu làm thủ tục gọi tên. Anh Đồng quay mặt ra phía hàng rào trại. Anh Yên cầm 1 phần lên, hỏi to:
- Ai?
Anh Đồng vẫn quay lưng, không được ngoái nhìn lại, trả lời:
- Anh Sáng!
Thế là cậu Sáng cầm lấy phần ấy. Anh Yên lại cầm phần khác lên hỏi “Ai” tiếp. Cứ như vậy cho đến phần thứ 9. Còn người cuối cùng không gọi đến tên, thì còn 1 phần là của người đó rồi. Chia xong hành, còn cái soong không, nhiều người muốn đến giành, nhưng anh Đồng và đa số anh em trong mâm đều đồng ý là để cho tôi. Đấy là nhã ý của họ với người mới đến trại, vì còn nhiều người nữa cũng không đủ bát đĩa.
Tôi đành giữ cái soong, rồi đem đĩa đi lấy từng thứ đem về đổ lẫn lộn vô soong. Chợt thấy ồn ào ở phía mâm ăn 18 kg, tôi xách chiếc soong theo, chạy lại. Kinh và Vân đang sừng sộ, chỉ vào mặt nhau. Nghe đâu Kinh múc nước khoai tây hầm chia không đồng đều. Chẳng có thì giờ để nghe rõ câu chuyện, tôi lại phải chạy về mâm để lấy phần.
Đến lần chia cải bắp xào mỡ, cũng phải gọi như vậy. Cho đến khi chia khoai tây hầm xương, lại có vấn đề hơi phức tạp, vì cả soong khoai chỉ có 3 – 4 cái xương, lại cái to, cái nhỏ. Chưa nói, ngay khoai cũng thế, có củ to, củ nhỏ, củ cắt đôi, củ không cắt. Cuối cùng củ nào họ cũng cắt làm đôi, rồi nhìn tương xứng 10 miếng bỏ 10 phần. Khi chia gần hết chỉ còn 2 miếng thì họ cắt mỗi miếng ra 5 phần đều nhau, để bỏ vào 10 suất. Nước gân riêng, đong bằng thìa, còn chừng 3 thìa thì họ đong bằng cho mỗi suất 1 tí cho đủ 10 phần đều nhau. Vài miếng thịt con lẫn trong nước đều được vớt riêng ra. Trong xương còn dính tí thịt nào cũng lấy ra hết, rồi trộn đều. Mỗi phần được ¼ thì thịt vụn nhừ. Còn 3 cục xương, chúng tôi thỏa thuận quyết định cứ bỏ đại bất kỳ 3 phần nào. May cho ai, người đó trúng số, sẽ hên cả năm. Xong rồi, họ lại tiếp tục cầm từng phần để gọi tên.
Đến chou-fleur xào lòng lợn. Vì một cỗ lòng lợn cho cả trại hơn 300 người, ai cũng hiểu, dù ngăn chận cách nào đi nữa, toán nhà bếp cũng phải chấm mút ít nhiều, vậy thì cỗ lòng còn lại được bao nhiêu? Cho nên 1 soong chỉ còn 4, 5 miếng ruột con con. Tuy vậy khi chia, cũng phải để nước riêng. Chou-fleur cũng phải cắt nhỏ hơn, và mấy miếng ruột cũng phải thái nhỏ thành 10 miếng đều nhau để mỗi suất có một miếng. Gan,phổi thì chẳng thấy đâu, nếu có thắc mắc thì được nhà bếp trả lời, nó lẫn vào toán khác. Cứ toán này lại cho là gan, phổi về toán kia, nhưng thực tế chả có toán nào có cả.
Đến cơm, hôm nay là cơm không độn, cơm trắng, cơm đặc biệt của cả 1 năm mới có. Bởi vậy, lại càng cần được đảo rời, trên dưới đều nhau, không chỗ nào để vừng. Vì ai cũng hiểu, cơm vừng thì nặng cân hơn cơm rời, cơm trên đã bốc hơi nên khô, cân sẽ được nhiều, cơm dưới ấm sẽ nặng cân v.v… Dù như vậy, khi cân xong, vẫn phải một anh quay đi và một anh cầm bát gọi tên.
Đến phần chia thịt mới là trọng tâm của vấn đề, một soong thịt chia cho cả toán. Lúc này các mâm đã chia xong, 5 mâm đưa đến 5 cái soong không.
Anh Lân được 2 người phụ giúp, trước hết gạn riêng nước ra hết, còn thịt được xúc vào 1 cái bát nhôm rồi đem cân như cân cơm ở trên. Cẩn thận, xúc nạc, mỡ tương xứng đều nhau, sau đó là chia nước. Nước cũng phải đảo đều vì váng mỡ nằm bên trên, ai cũng hiểu, từng thìa chia, tản đều nhau cho 5 phần. Năm người đại diện của mâm, lại một người quay đi gọi tên mâm như trên, nghĩa là 1, 4, 3, 5, 2 chẳng hạn. Phải gọi lung tung không được gọi thứ tự, vì người ta nghi ngờ có sự ăn ý; sắp xếp giữa người gọi và người cầm bát hỏi. Bây giờ về đến mâm, không đủ nhiều thịt để cân, bởi vì mỗi suất chỉ độ 3, 4 miếng, vậy miếng mỡ, miếng nạc thì làm sao? Đành phải dùng dao con cắt những miếng mỡ, miếng nạc riêng ra. Trông tương xứng bỏ cho 10 phần đều, càng về cuối càng phải cắt nhỏ.
Nước, nếu có nhiều váng mỡ ở trên thì lấy thìa nhỏ, khẽ múc nước váng đó chia cho đều đủ 10 phần, rồi sau mới múc chia nước phía dưới.
Sau khi làm xong, người chia mới hỏi ý toàn thể anh em trong mâm. Phần nào tương đối hơn, phần nào tương đối ít, hoặc ít ngon v.v… Anh em chỉ, chỏ điều chỉnh. Khi đã thỏa thuận tổng quát lại có 1 anh quay đi, để cho 1 anh hỏi v.v…
Nhìn cảnh chia chác phức tạp như vậy, tôi rất thắc mắc. Đứng cạnh anh Đồng nên tôi mới hỏi ngay anh:
- Này, đã chia tương đối đều rồi, tại sao còn phải gọi nữa, cho phiền? Bát đĩa lại phải trao trả lại? Nghĩa là, anh này lấy phải cái bát của anh kia, thì lại phải đổi trả bát lại. Nhiều khi rất lung tung, lộn xộn. Của anh A lại về anh B, nhưng bát anh B lại về anh H, mà bát anh H lại ở anh A v.v… Cứ tìm bát đổi lại, đã nhiều phiền phức rồi.
Trong khi chờ chia các món, nói chuyện với anh Đông và Quý Cụt tôi đã hiểu thêm nhiều sự việc. Sống cảnh cùng khổ này nó đẻ ra nhiều điều ti tiện, tính toán, lừa lọc vặt vãnh lắm! Trước đây mỗi khi có chất tươi, sau khi chia xong. Thường làm 19 tờ giấy con viết tên 10 người trong mâm, rồi 1 anh gấp lại, xóc đều bỏ vào cạnh mỗi phần một miếng. Bấy giờ cứ việc mở giấy ra, tên ai ở phần nào thì người đó nhận. Nhưng, dần dà đã có sự khôn lanh khi gấp giấy. Người gấp giấy, chỉ cần chú ý một cái giấy tên mình, rồi tìm phần nào có vẻ nhiều, hoặc ngon hơn thì bỏ miếng giấy đó. Hiển nhiên là không ai yên tâm, tin tưởng được. Thậm chí đã có tên lỳ lợm, khi đã chia xong sắp sửa bỏ phiếu, thấy suất nào có vẻ nhiều hay ngon, anh to nhổ đại một bãi nước bọt vào. Như thế sẽ không ai dám lấy phần ấy nữa, vậy là về anh ta.
Tóm lại, trước đây đã xảy ra nhiều chuyện lắm rồi. Cái tâm lý chung của mọi người trong cái cảnh thiếu thốn thương đau này là, mắt nhìn suất của người khác thường cứ thấy nhiều hay ngon hơn của mình. Mà như vậy thì trong lòng buồn lắm, ăn sẽ giảm ngon đi. Làm sao lòng còn được thảnh thơi hoàn toàn để thưởng thức trọn vẹn cái món ăn trọng đại 1 năm dài đăng đẳng mới có này. Thậm chí còn buồn cả đêm, cả 2 ngày Tết, có khi còn kéo dài cả năm, vẫn buồn mỗi khi nhớ đến cái phần ít, không công bằng của mình trong dịp đầu năm. Vì vậy dù chia đã đều rồi, vẫn phải gọi tên, như thế về mặt tâm lý, sẽ bằng lòng, sẽ thỏa đáng. Ngon hay không ngon, nhiều hay ít, đấy là do cái số phận của mình thôi. Có như vậy mới hoàn toàn yên tâm để tận hưởng cái vưu vật, hiếm có của đời tù.
Cũng có nhiều tên cán bộ, cả giám thị nữa, vào đứng nhìn cảnh tù chia chác thế này. Họ đều lắc đầu, giờ giọng khuyên răn v.v… Họ chỉ khuyên răn, mà họ không thể ra lệnh, vì họ cũng hiểu đây là tiêu chuẩn của người tù được hưởng. Họ chỉ lấy lời khuyên tù không nên chia chác ti tiện như vậy, hơn kém một vài hạt cơm, một tí thịt, thì có sao đâu v.v… Nhưng đều vô hiệu. Những người tù ai cũng vậy, họ đã phải đổ mồ hôi, nước mắt đến tàn lụi xác thân mới được hưởng những thứ này. Nó là sự sống của họ, là thịt là máu của họ. Một hạt cơm là một tí thịt, tí máu của họ để họ sống. Họ chỉ muốn có sự công bằng với nhau, chứ họ không hề chống đối chính quyền, chống đối ban giám thị.
Cuối cùng, những tên cán bộ ấy và những tên giám thị nọ, vẫn không thể hiểu được cái bé nhỏ ẩn tàng trong lòng người tù, đã bị đói khổ nhiều năm, tháng. Bất kể một ai, dủ cho danh giá như là một tổng thống, một nhà bác học, một nhà hiền triết hay một ông triệu phú, nếu phải ở vào cảnh này, thì họ cũng sẽ như vậy. Chỉ trừ họ không phải là người, chứ đã là người thì cũng chỉ là một sinh vật nên phải cần sống đã. Trong đám tù cùng khổ ở đây, cũng có nhiều người trước đây, đầy hào hoa phong nhã. Đã một thời, đã từng coi miếng ăn là sự tầm thường, hèn hạ của con người như Phan Thanh Vân, bác sĩ Hiệp, hay như ông Hinh mù tư sản đài các, thanh lịch của Hà Nội v.v…
Sau khi chia cơm nước xong, bóng chiều đã ngập ngừng dâng lên. Từng mảng tối thẫm với nhiều hình thù kỳ dị đang từ những bìa rừng lẩn thẩn bò ra, che mờ dần cảnh vật. Trên chỏm những ngọn núi xa xa, còn rơi rớt chút ánh vàng loãng nhợt. Một đàn vạc trắng giăng hàng như một cánh cung, đang mải miết bay về phương Bắc. Một con chim rừng phía sau trại, thỉnh thoảng cất giọng đều đều “bắt cô trói cột” mà sau này, những tên cán bộ phụ trách dân công chiến trường miền Bắc, đã đặt trẹo đi là “khó khăn khắc phục”. Nhưng lúc này, tôi lại cứ nghe ra là nó hót “chết ai cũng mặc”. Một nỗi mênh mông khắc khoải, luồn dần vào giọng hót của con chim, cùng với đêm trừ tịch giữa rừng hoang, đang ùa về đè nặng hồn tôi. Không gian, núi rừng đã ngã mầu xám sậm. Vài chiếc lá nứa vàng khô rời cành lắc lư, chao đảo đìu hiu trong buổi chiều muộn để về lòng đất ẩm.
Tôi thấy sân vắng, thưa hẳn người ra. Trong hội trường cũng chỉ còn lác đác dăm ba người. Mà ngay cả những tiếng ồn ào, râm ran cũng đã lắng dần vào yên lặng. Hơi ngạc nhiên, như mọi bữa, sau khi chia cơm, canh xong lúc ăn uống cũng còn ầm ĩ chán.
Một tay cầm rá cơm, tay ôm cái soong thức ăn lẫn lộn, tôi cũng đi vào buồng. Tôi cứ tưởng chỉ có mình tôi mới có ý định riêng là sẽ không vội vàng gì cả, chờ cho cán bộ điểm xong đâu đấy, bấy giờ mới thong thả thưởng thức cái của ngon vật lạ này trên cái cõi đời tù. Thế mà khi vào buồng, sàn trên, sàn dưới, hầu như mỗi người đều đã ở chỗ của mình. Họ ngồi yên lặng, nét mặt nghiêm trang, thỉnh thoảng họ cúi gầm đầu xuống những món ăn, nét mặt thành khẩn, ngoan ngoãn như ngồi trước một bậc trưởng thượng rất mực tôn kính. Chỉ có một vài người, chắc không thể chịu đựng được, lấy tay nhón một vài miếng nhỏ, bỏ vào miệng để nhấm nháp trước, chứ họ cũng đều muốn chờ điểm xong đã như tôi.
Ngay anh chàng Vân ở bên cạnh cũng đang ngồi thừ người ra nhìn đám thức ăn, đang để tênh hênh ra trước mặt. Chẳng biết Vân đang nghĩ gì, nhưng tôi hiểu anh không muốn nói chuyện lúc này. Tôi xin được tôn trọng và trong lòng tôi cũng muốn được yên lặng. trong những giờ phút thiêng liêng này như anh.
Hôm nay tên cán bộ ngồi ở trên chòi gác ở cổng trại, chẳng hiểu vì tâm hồn y cũng đang vơi đầy với đêm cuối năm giữa rừng sâu hoang lạnh, để tâm hồn thẩn thờ, để mắt đăm chiêu rọi tìm vào cõi xa xăm đen tối những hình dáng thân nhân, ruột thịt, hay y có lệnh hôm nay gõ kẻng điểm muộn, nên mãi y cũng chẳng chịu gõ để anh em tù phải chờ?
Mãi rồi tiếng kẻng cũng réo vang lên trong cái tịch mịch của núi ngàn. Sau khi điểm xong, cửa đóng, then cài khóa kỹ.. Hơi ồn ào một chút lúc đầu vì những tiếng rít của điếu cầy và vì ai cũng vào nhà cầu để đẩy ra hết những cái nước thừa cho nhẹ lòng.
Ánh sáng của chiếc đèn bão treo lủng lẳng giữa nhà, càng làm cho căn buồng thêm mờ ảo, mông lung. Tôi ngồi xếp chân tròn ngay ngắn, thụt sâu lên phía đầu sàn, trong bóng tối. Nhẹ đưa mắt một lượt chung quanh phía sàn dưới, rồi nhìn về chiếc soong và rá cơm của mình phía trước mặt. Lòng hơi gợn lên một chút xót xa, khi thấy soong thức ăn của tôi, lộn tùng phèo các món. Nhưng không sao, sá gì mấy cái tiểu tiết ấy. Bởi vì, từ nãy tới giờ tôi đã phải nuốt vào nhiều lần nước chân răng rồi.
Ngay từ lúc chia, tôi đã biết chắc là phần của tôi có 4 miếng thịt lợn, mầu nâu xậm, óng lên những mỡ rồi. Miếng to nhất phải bằng đến 4 đốt ngón tay ghép lại, chứ có chơi đâu. Nghĩa là, một bề 3 phân, một bề 4 phân và dầy đến gần một phân. Bây giờ tôi vẫn còn nhìn rõ, nó nằm lù lù một góc soong kia. Người tôi đã nóng lên rần rật rồi, tay chân đã thấy ngứa ngáy ran lên. Nhưng tôi phải trầm tĩnh, không vội vàng, dù cái mùi ngọt ngào, ngầy ngậy thơm phức cứ xộc bừa vào mũi tôi. Óc tôi còn đang bận suy nghĩ là nên hưởng cái gì trước? Hơi hoang mang, ngập ngừng một giây trong lựa chọn. Cuối cùng tôi quyết định: đầu tiên, cái đầu tiên phải là một miếng thịt đã!
Tay đã cầm cái thìa cụt Toàn cho, lăm le từ nãy. Bây giờ tôi khẽ nương nhẹ, xúc một miếng cho gọn ghẽ vào trong cái thìa. Trước khi cho miếng thịt vào miệng, mắt tôi lại phải liếc thiên hạ chung quanh một cái nữa đã. Yên tâm, trong bóng tôi, chả ai nhìn thấy tối. Ngửa cổ, tôi há hốc miệng ra; hai đầu gối của tôi tự nhiên động đậy rồi rung lên. Từ từ, tôi đẩy miếng thịt vào giữa hai hàm răng. Dập mạnh, hai hàm cắn mạnh, vất chiếc thìa vào soong, tôi nằm vật ngửa trên cuộn chăn phía đầu sàn. Cương quyết tôi không nhai, cứ ngậm chặt hai hàm răng vào miếng thịt như vậy. Mắt nhắm nghiền, tôi im lặng nghe ngóng. Ruột tôi cứ cuồn cuộn, vặn vò, giẫy dọn gây ra những tiếng ơ…ợ, e…ẹ liên hồi. Tôi hiểu, ruột và dạ dầy của tôi đang vật vã kêu xin, van nài tôi, mau cho chúng được hưởng chút ân tình đặc biệt của trời, mà từ lâu lắm rồi, chúng khao khát, mòn mỏi mong chờ.
Mãi tới lúc này, tôi mới chịu chấp nhận lời khẩn cầu của chúng, mới chịu nuốt những dòng nước miếng, đã đầp ắp miệng tôi từ nãy. Đột nhiên hai hàm răng tôi mở ra, rồi thong thả lại cắn vào miếng thịt. Lại từ từ há ra, rồi lại tiếp tục dập mạnh vào. Ba, bốn lần như vậy, như một nghệ nhân đang điều khiển trống, trong một ban nhạc, chân đang nhận bass: pạch…pạch…pạch… Tôi không còn nghe thấy tiếng vật vã, của ruột và dạ dầy nữa, nhưng lại còn có một tiếng khác, rất lạ. Tiếng róc rách của một giòng suối trong vắt đang chảy từ cuống họng tôi xuống dạ dầy, mà tôi lại tưởng là những giọt nước nhểu của mái tranh đầu hè trong những trận mưa.
Một lúc lâu lắm tôi mới ngồi dậy được. Liếc nhìn anh chàng Vân, cũng đang nằm ngửa hơ hơ trong khi miệng anh vẫn nhai nhóp nhép. Kệ anh. Tôi quay lại tiếp tục thuởng thức dần những thứ vưu vật của trời, lúc này đã hoàn toàn thuộc quyền của tôi.
Chỉ mới 40 phút sau, tất cả đã sạch trơn, dù tôi đã cố ý dềnh dàng kéo dài lúc hưởng thụ. Thế mà xem ý ruột, gan và dạ dầy của tôi sẵn sàng lịch sự xin nhận nữa. Tôi thầm nhủ lòng và cũng như nói nhẹ với chúng, xin vui lòng đợi đến ngày mai. Lúc này tuy mới 8 giờ tối, trong buồng đã nhiều người đi nằm đắp chăn. Có lẽ ai cũng vậy, sau một bữa ăn không bình thường, anh nào cũng muốn nằm cho tâm tư, bồng bềnh nổi trôi với cuộc đời.
Theo truyền thống hàng năm, đêm nay và đêm mai (mồng một Tết) không có kẻng cấm, đi tiểu, đi cầu đều không phải báo cáo cán bộ như mọi khi. Nghĩa là tự do, thức hay ngủ cả đêm, đó là quyền của anh. Mọi người cũng đã được thông báo ngay từ buổi chiều: đặc biệt đêm nay, Đêm Trừ Tịch, 9 giờ cán bộ sẽ mở cửa phát bánh chưng và nhà bếp sẽ cho mỗi buồng 1 thùng nước sôi, để tù nhân pha trà đón Giao Thừa.
24. Tiếng Khèn Đêm Trừ Tịch
và Nỗi Sầu
Tết Mậu Thân
Nằm
một lúc, tôi chợt nhớ đến toán Boone. Mấy ngày trước có lúc tôi chuyện trò với
anh Lân, có lúc với anh Thú hoặc Đinh Sơn. Tôi đã cảm thấy trong nội bộ của
toán biệt kích này có những điều khúc mắc. Hầu như ai cũng tránh né không muốn
nhắc lại sự việc đã qua của toán họ.
Tôi biết hiện nay ở trại này toán của họ có 5
người. Riêng Phạm Công Thành được ở dưới toán nhà bếp. Ngay trong buồng này có
4 người là Nguyễn Văn Bắc, Đinh Văn Sơn, Nguyễn Văn Thú và Nguyễn Huy Lân. Qua
cái nhìn của tôi, trong một số ngày qua thì anh Thú tương đối chân thành và cởi
mở. Anh vẫn kiên định, duy trì lập trường chống Cộng, nên dễ tâm sự hơn.
Ngoài ra còn Lê Văn Kinh người nhái nữa. Vụ án
ở sông Gianh tôi đã loáng thoáng nghe từ trước. Lại còn câu chuyện bỏ dở của
Vân nữa. Tôi đã có ý định lợi dụng trong dịp Tết này, sẽ tìm biết những điều cơ
bản về mấy vụ này. Nghĩ thế, tôi bò bật dậy trèo lên chỗ anh Thú.
Còn đang chuyện trò với anh Thú thì bỗng có ánh
đèn bão lấp loáng ngoài sân. Rồi có tiếng lạch cạch, chìa khóa mở cửa buồng.
Buồng lại ồn ào, náo nhiệt lên. Nguyễn Thạc, toán trưởng nhà bếp gọi Nguyễn Huy
Lân và Đinh Khắc Sản ra nhận bánh chưng cho toán 2 và 3. Bên ngoài cửa, tên Tân
trật tự cầm chiếc đèn bão, đang đứng cạnh tên Cẩn cán bộ trực trại. Một thùng
nước sôi còn khói nghi ngút được đặt ngay giữa nhà.
Sau khi cửa đã đóng, nhiều người tíu tít, ca,
gô, cốc chạy đi, chạy lại lấy nước pha trà. Thật là nhộn nhịp, tưng bừng, cứ
vui như ngày…Tết. Mùi bánh, mùi lá còn nóng hổi nồng nồng, ngan ngát của nàng
Xuân, ai ngửi thấy mắt cũng sáng lên long lanh. Có 6 món để tượng trưng cho
ngày Tết của dân tộc, chúng tôi đã có đến 3, lại là 3 món quan trọng nhất,
chính yếu nhất thì hỏi rằng ai mà không vui sao được? Này nhé:
Thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.
Còn ba cái món pháo nổ, nêu cao với câu đối thì
có nhằm nhò gì với chúng tôi trong tình thế này? Chưa hết, còn nữa, sau khi gọi
tên từng người để phát bánh chưng xong, anh Lân ra đứng giữa nhà cao giọng:
- Toàn buồng yên lặng, chú ý: một tin giật gân
mới nhận được!
Đâu đó đều im bặt. Mọi người đều hướng về anh
Lân đợi chờ. Nguyễn Huy Lân nói sôi nổi như tràn ứ, nét hưng phấn:
- Một ân huệ của ban giám thị, toán nhà bếp
nâng cao tinh thần phục vụ trại viên. Đặc biệt sáng ngày mai, trại sẽ có
cháo…lòng…
Tiếng hò, tiếng vỗ tay, tiếng đập sàn, tưởng
đến rung rinh cả căn buồng ra. Ôi, sao lại có nhiều cái vui thế này? Kiếp con
người như lúc này, thật đáng sống biết bao!
Đã hơn 10 giờ khuya. Mọi người ăn nhiều hơn và
uống nước cũng nhiều hơn nên cũng phải ra vào nhà cầu nhiều lần hơn. Không hiểu
tại sao, khi mở cửa vào nhà cầu, tôi tưởng như nghẹt thở, mắt cay xè, không mở
ra được. Anh nào cũng bịt mũi, nín thở đi tiểu vội vàng rồi chạy ra. Thì ra cái
mùi như “acid” đó là do hành nén. Thật cũng lạ kỳ! Ăn nhiều hành nén nước giải
lại có cái mùi ghê gớm như thế! Nhưng lòng của con người còn lạ kỳ hơn nữa. Vừa
mới xốn xang, hồn bay bổng ngất ngây, vui như cỡi…ngựa, thế mà về chỗ nằm đắp
chăn một lúc. Tâm tư đã tơ vò nặng trĩu. Cuộc đời, gia đình, đất nước nổi trôi,
tấm thân tù tội, ngổn ngang lớp lớp đã dần dần len vào cuốn chặt hồn tôi.
Đêm càng về khuya, càng vắng lặng. Thỉnh thoảng
một vài tiếng hú, rống dội lên dài lê thê của những con vượn, xen lẫn tiếng rúc
của cú rừng ăn đêm, từ trong rừng sâu vọng về, càng khắc khoải não nề cho người
tù nằm nghe.
Gió rừng đêm nay cũng thật lớn. Gió luồn qua
những kẽ hở của vách nứa, gió lách qua những tấm phên tre của mái nhà, đẩy
những cái lạnh cuối Đông vào trong buồng. Tiếng khàn khàn, đùng đục, vi vu của
những lỗ kèo, lỗ đòn tay nữa, trên mái nhà với tiếng xào xạc, ray rứt của lá
rừng. Nằm càng nghe, lòng càng co thắt.
Đột nhiên một âm thanh lạ hoắc, te te, rè rè
như tiếng nai con gọi mẹ, xa xôi lơ lửng lẫn vào trong gió. Một tiếng nữa,
trong hơn, ro ro…róc rách như đứa bé trai đứng tồ vào chiếc lu sành ở chái hồi.
Lại một tiếng nữa, cất lên gầm ghì, tỉ tê, ẽo ợt như tiếng mèo gào ráng đêm
trên mái nhà. Hồn tôi lập lờ chơi vơi cuốn lượn theo những âm thanh lạ như
thực, như mơ, bập bềnh trong sương khói. Chợt, Vân nằm bên cạnh đập mạnh vào
người tôi:
- Buồn quá Bình ơi! Dậy nghe mấy người dân tộc
thổi khèn.
Như choàng tỉnh một cơn mộng ngày, tôi tung
chăn ngồi bật dậy. Trong bóng tối, sáng lờ mờ, phía góc sàn dưới, gần nhà cầu,
một đám người dân tộc, đến gần hai chục người ngồi quây quần bên nhau, yên lặng
đăm chiêu. Có bốn, năm người đang tấu lên những khúc nhạc buồn dân tộc, gọi hồn
quê hương trong rừng thẳm. Thì ra những âm thanh lạ mà tôi cứ tưởng trong mơ,
lại là có thật ở ngay trong buồng. Từ những năm tháng cũ trong tuổi ấu thơ, tôi
đã đọc những trang sách, tả về tiếng khèn man dại của người dân tộc thiểu số:
Mường, Thổ, Mèo, Mán, Thái v.v… trong rừng già hẻo lánh, nơi biên cương như:
Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, Bắc Cạn đầy lam sơn chướng khí, huyền bí của vùng
Việt Bắc. Bây giờ tiếng khèn ấy đang nỉ non tấu lên ngay ở đây, trong buồng này
giữa đêm Trừ Tịch.
Lòng tò mò, đã giục tôi tiến lại gần đám người
dân tộc. Thấy tôi đến, Lầu Phá Tra và Sín Dẫu đang ngồi ngay đầu sàn, đã dịch
ra một chỗ cho tôi ngồi. Nhìn sang sàn bên, Vân cũng đang lúi húi tìm thế ngồi
với mấy người dân tộc khác. Trong bóng mờ của khói trà, khói thuốc lào; những
ánh mắt, những khuôn mặt, quen thuộc, ẩn hiện thấp thoáng: Lý A Chén, Lồ Cao
Diu, Lồ Cao Chính, Quách Mơi, Lù Chằn Páng, có cả nhóm của Hùng, Nông Quốc Hải.
Nhìn kỹ, tôi hơi ngạc nhiên, lại có cả Thạch Rươn biệt kích, gốc Campuchia, nhà
ở Trà Vinh; A Peng, Vàng A Páo biệt kích, người Lào. Người thì ngồi cúi gằm như
để hồn tìm về một thế giới riêng tư, người thì cặp mắt lờ đờ nhìn vào bóng tối
đăm đăm như gởi gấm tâm tư về nơi núi ngàn.
Họ im lặng buông lơi tâm tư để mặc cho tiếng
khèn ve vuốt, nắn xoa hồn họ. Tôi cũng chăm chú nhìn vào những chiếc khèn, mà
4, 5 người đang hất lên, hạ xuống theo hơi thở nén lúc đầy, lúc vơi cho âm
thanh trầm bổng lúc dài, lúc ngắn.
Những tiếng khèn, nhiều kiểu khác nhau, đều
ghép bằng những ống nứa con con, cắt ra từ những cánh nứa nhỏ. Mỗi ống dài, cái
thì 10 phân, cái thì 15 phân. Họ khéo léo ghép với nhau thành nhiều kiểu: kiểu
khèn 1 ống, 2 ống, cứ cái đến 6, 7 ống, trông như những cái lỗ của tổ con tò
vò. Hồn tôi cũng bị chìm sâu, cuốn hút vào tiếng khèn man dại. Nhiều lúc 3, 4
tiếng khèn cùng rú lên như những hồn oan, lạc lõng trong đêm rừng. Có lúc nghe
như những lời gào thét, rên xiết não nề của những kiếp người tủi cực, mò mẫm
trong tăm tối. Tôi ngồi âm thầm, cúi mặt hàng giờ.
Hẳn lúc này cũng đã Giao Thừa. Giọng một con
chó rừng hú dài trong rừng sâu, như ngoáy vào đêm khuya, đệm vào những tiếng
khèn ai oán. Ruột tôi như co lại, vặn vò, ép nặn cho rỉ dần ra từng giọt, cái
sầu thiên thu của nhân thế. Một nỗi buồn lai láng, mênh mông ập vào, làm tâm
hồn tôi rã rượi. Tôi không thể nào ngồi dậy được nữa, nhìn sang Vân thì anh
cũng đã về chỗ nằm từ lúc nào.
Về tới sàn mình, tôi nằm lịm đi, để mặc cho
thân xác chìm nghỉm vào nỗi sầu tràng giang của đời. Những tiếng khèn vẫn tỉ
tê, rả rích dẫn dần tôi vào giấc ngủ nặng nề, nhiều ngắc ngoải.
Những tiếng lịch kịch ngay bên cạnh, làm tôi
choàng tỉnh dậy. Trời đã sáng rõ. Hôm nay không có kẻng báo thức. Tôi ngạc
nhiên, thấy nhiều người đổ xô ra những cửa sổ phía trước nhà, để nhìn ra sân.
Qua một kẽ chấn song tôi nhìn ra, tên Cẩn trực trại, tay cầm chìa khóa đang
đứng trên hè hội trường một mình. Tôi đang lạ lùng sao y chưa đi mở cửa, điểm
sổ các buồng, thì y đã quay hướng về 3 buồng, cao giọng dõng dạc từng tiếng:
- Các trại viên ở trong buồng im lặng, chú ý!
Các anh hãy phấn khởi nghe tin đột xuất vui mừng cho cả nước: “theo đài phát
thanh của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam. Đúng không giờ đêm vừa qua
(31/01/1968), quân và dân toàn miền Nam, từ Bến Hải đến mũi Cà Mâu, đã đồng
loạt nổi dậy, tấn công Mỹ, Ngụy ở khắp các thành phố và thị xã. Chúng ta đã làm
chủ được nhiều tình, nhiều thành phố. Ngay tại Sài Gòn, nơi hang ổ cuối cùng
của ngụy quân, ngụy quyền, quân và dân ta đang tiêu diệt từng ổ đề kháng lẻ tẻ
của chúng.
Tên Cẩn vừa dứt lời, trong các buồng, bắt đầu
có những tiếng vỗ tay lác đác, rời rạc. Sau dần dần om lên như pháo rang, tưởng
như các căn nhà cũng bị rung rinh lên. Ngay trong buồng 2, anh này ngơ ngác
nhìn anh kia vỗ tay, rồi cũng vỗ theo. Tôi bàng hoàng, trong lòng đang đau như
cắt, nhưng thấy mọi người vỗ tay; cả Vân nữa, đã bắt đầu hai tay đập mạnh vào
nhau đôm đốp, nên tôi cũng phải vỗ như mọi người.
Hầu như ai cũng tự hiểu rằng, dù trong tim,
trong lòng anh ra sao không cần biết, nhưng trước sự việc này, nếu anh không vỗ
tay như mọi người, thì hậu họa không thể tránh khỏi, vì đây là vấn đề tư tưởng.
Cũng những tiếng vỗ tay ấy, của cùng những con
người ấy, mà ngay lúc buổi đêm rồi, nó làm bừng bừng mối hân hoan, niềm hạnh
phúc buông lơi, bay lượn với hồn Xuân, nhưng lúc này, chúng như trăm ngàn cái
kim, cắm sâu vào trái tim tôi và chắc chắn cũng vào nhiều những trái tim khác
trong căn buồng này. Vỗ tay mắt ai cũng trắng dã ra. Người nào cũng phờ phạc,
rũ rượi như những chiếc lá vàng khô trong mưa gió. Tin như sét đánh, làm tôi
bủn rủn, rụng rời.
Chẳng hiểu những người lãnh đạo, có trách nhiệm
ở miền Nam có hiểu được những mưu mô, nham hiểm của cộng sản hay không? Hay các
ngài đang bận rộn tổ chức những buổi tiệc linh đình, những buổi dạ vũ quay
cuồng, phè phỡn đón Xuân, lơ là tay súng để rồi mà khóc than cho thân phận, cho
gia đình, ôm hận, không phải một đời mà ngàn đời?
Ngay từ trong đêm tôi cứ tưởng rằng, sáng hôm
nay tôi sẽ đón một nàng Xuân hiền hòa, đôn hậu, sắc nước hương trời, nhưng nàng
Xuân hôm nay ủ rũ, rách rưới, tả tơi. Vả lại, tôi cũng chẳng còn bụng dạ nào để
nhòm ngó đến nàng nữa. Tôi chán chường cả cháo, cả cơm, cả thi đấu cờ và cả
không muốn dự cái lễ bắt buộc chúc Tết đầu năm, của ban giám thị ở hội trường.
Tôi chỉ muốn nằm im lìm một chỗ, để nghe tim mình ê chề, rỉ máu. Nhưng vì những
tên chó săn, nhất là tên Cẩn thường xuyên ra vào từng buồng xục xạo, ngó ngấp,
cho nên ai cũng thế, trừ những đã ốm bịnh từ hôm qua, hôm nay dù có ốm thật,
thì cũng phải cố gượng mà cười, mà vui. Ai nằm, dù chỉ nhớ nhà, hoặc tỏ vẻ buồn
phiền chuyện riêng tư của đời mình, đều có danh sách lên ban giáo dục. Về điểm
này, chúng đã có nhiều kinh nghiệm về những diễn tiến tư tưởng tất yếu của từng
loại người. Nghĩa là tùy theo từng người khác nhau để chúng quy kết mức độ tư
tưởng mà xử lý khác nhau.
Ngay từ lúc 8 giờ, chúng đã cho người mắc một
chiếc loa to, trên chòi gác phía cổng, để hướng vào trong trại. Chiếc loa chắc
bắt nối từ một chiếc radio ngoài phòng của ban giám thị. Nó bắt đầu ra rả nói
về tình hình chiến sự ở miền Nam. Nào là chúng đã làm chủ tình hình ở Huế, cũng
như nhiều nơi khác chính quyền cách mạng đã thiết lập những guồng máy hành
chính, cũng như quân sự ở từng địa phương để duy trì an ninh cho dân chúng. Mặt
khác, chúng cũng đang ráo riết truy lùng những phần tử có nợ máu với nhân dân
v.v… Chúng đang chiến thắng. Chúng hiểu những tin tức này sẽ làm ruỗng lòng,
làm tan nát niềm tin của những tên tù phản động này.
Thực sự, lòng tôi cũng bối rối, hoang mang
không ít. Tuy có một điều tôi vẫn còn khúc mắc, trong mối hy vọng lờ mờ. Trong
miền Nam lúc này, quân đội Mỹ và đồng minh còn đến 4, 5 trăm ngàn người, cộng
sản Việt Nam có thể bắt, hoặc tiêu diệt được hết sao? Mà đã không thể tiêu diệt
hết được, thì đâu có thể chúng nuốt trọn miền Nam nhanh chóng như vậy? Chính vì
một điểm mơ hồ để bấu víu niềm tin này đã giúp tôi gắng gượng được phần nào,
cho bộ mặt và thái độ không quá bi quan, rã rượi.
Tôi lại tiếp tục đi tham gia đấu cờ. Tình hình
đang nóng, lạnh chưa ngã ngũ, lòng ai cũng bối rối, chưa ai dám tâm sự bàn tán
với ai sợ mang di họa. Mọi người chỉ giao tế bình thường trong sinh hoạt. Không
một ai dám nhắc đến, hay gợi đến cái nóng bỏng của miền Nam, dù ai cũng đang
đầy ắp, lắng lo tơ vò trong lòng mình. Thường chỉ nhìn nhau bằng những ánh mắt
dè dặt, dọ dẫm trong đám mây buồn.
Trong khi đang ngồi đấu cờ với anh Hiệp của
toán 4 nông nghiệp, tôi chợt nhớ đến một hình ảnh lúc sáng của tên Cẩn. Cũng
khoảng lúc 8 giờ, anh em tù đang chia cháo lòng ở sân, ngoài cổng mấy anh tù
thợ điện, đang mắc chiếc loa, thì tên Cẩn từ ngoài cổng đi vào. Hôm nay, khác
hẳn mọi khi, y đeo kềnh kềnh bên hông một chiêc radio transistor của Nhật. Dáng
đi khệnh khạng khác thường, ngực y hơi ưỡn ra. Cái mặt y mới buồn cười, một bên
má hơi hóp, nên nó méo hẳn đi. Cái môi trên của y mới lạ nữa, hàng ngày nó đã
vẫu ra rồi, hôm nay nó lại cong, loe ra như một cái phễu. Khoan thai, y thong
thả bước, nhàn du như một chủ nhân ông trước đám nô lệ. Mắt y giương giương lên
nhìn mọi người.
Một đám tù ùa đi theo trầm trồ, xum xoe (loại
người này, lúc nào và ở đâu cũng không thiếu) nhìn chiếc radio mà có lẽ lần đầu
tiên họ mới nhìn thấy trong cuộc đời. Một anh có vẻ hiểu biết, cất tiếng hỏi:
- Thưa cán bộ, cái đài này của nước nào mà đẹp
thế ạ?
Tên Cẩn đã trèo lên hè nhà số I. Y quay lại,
dưới ánh nắng sớm, mặt thộn ra một lúc nghĩ ngợi, rồi như đã nhớ ra một điều gì
rất khó:
- À, cái này ma…ze…gia pan đấy! (made in
Japan).
Bây giờ ngồi đánh cờ với anh Hiệp, nhớ đến, tự
nhiên tôi bật cười thành tiếng. Anh Hiệp đang gặp nước cờ bí, lại tưởng tôi
cười anh, nên cau mặt lại nhìn tôi. Vừa cười, vừa lắc đầu, tôi nghĩ bụng, làm
sao mà thanh minh để anh hiểu được. Ngày hôm nay, từ sáng tới chiều tôi đã đấu
ba ván cờ. May mắn thế nào, tôi lại thắng cả ba. Sáng mai, mùng hai tôi phải
chuẩn bị vào vòng bán kết. Chiếc loa ở cổng trại cứ léo nhéo suốt ngày. Lòng
tôi cũng đầy mâu thuẫn: thực sự, tôi chả muốn nghe tiếng đài chó chết ấy làm
gì. Càng nghe nó, tôi càng tím thẫm sượng sùng, cúi đầu. Nhưng nếu không nghe
thì lại không biết gì, dù chỉ là khái niệm những diễn biến nóng hổi của miền
Nam thân yêu lúc này, nên đành lòng ngồi nghe nó rỉa ráy, châm chọc tim gan của
mình.
Sáng mồng hai, tôi đấu vối bác Hiểu già toán 3,
tôi lại thắng để đứng đầu bảng B. Bảng A, người duy nhất còn lại chính là bác
Lẫm Hà Nội. Như vậy, không còn tránh đi đâu được, chiều nay tôi phải đương đầu
với bác một trận chung kết để tranh giải nhất và nhì ở bàn cớ lớn ngoài sân.
Phần vì tinh thần của tôi không được tập trung,
phần khác tôi vẫn kiêng nể cái “uy” hai năm vô địch trại của bác, nên trong tâm
cũng gờn gợn, băn khoăn. Nghĩ lại, những năm tháng ở trại học sinh Pavie
Lamothe, Phú Thọ, miền Nam. Thời gian này có Lê Quang Huyến cũng ở buồng 4 với
chúng tôi. Nó có bộ óc thông minh đặc biệt, nhất là về toán. Sau khi nó tốt
nghiệp tú tài toàn phần ban B xong, để chuẩn bị cho năm tới thì toán đại cương
(math general), nó đặt mua những sách báo chuyên đề về toán ở hải ngoại, có
những bài toán hóc búa để giải. Cờ tướng là món chơi sở thích của nó, vì cờ
cũng có liên quan đến cái óc tính toán. Ngoài những sách báo dạy về cờ, nó còn
sưu tầm những ván cờ nổi tiếng của những tay cờ vô địch Bắc, Trung, Nam. Nó
cũng đặt mua tờ tuần báo duy nhất về cờ tướng của người Tầu bên Chợ Lớn. Ngoài
ra những trận cờ nổi danh của kỳ vương Lý Chí Hải ở Hồng Kông sang đấu tại Sài
Gòn nó cũng không bỏ sót. Thảng hoặc, tôi cũng xem sách báo và đấu cờ với nó,
vì vậy tôi cùng có phần nào tin vào khả năng của mình.
Khi được biết tôi đúng đầu bảng B, nhiều anh em
quen biết đều ngạc nhiên, vì chả khi nào tôi nói chuyện về cờ tướng cả, cũng
như ghé lại nhìn những bàn cờ họ đang đấu chơi với nhau vào những ngày Chủ
Nhật.
Tôi không ngờ, trận chung kết cờ chiều nay thật
đông khán giả tham dự. Có cả tên Cẩn trực trại và mấy tên cán bộ, bộ đội vũ
trang cũng vào xem. Anh em đứng vây kín cả một bàn cờ rộng mỗi bề hàng chục mét
ở giữa sân. Khi rút thăm để được tiện nghi dành quyền đi trước, tôi nhìn bác
Lẫm mãi. Bác phải ngoài 60, tóc đã điểm sương. Mặt bác rất hiền, phải nói là
phúc hậu nữa là khác. Mới nhìn thấy bác mà tôi đã đem lòng nể kính ngay, vì vậy
tôi vội nhã nhặn nói:
- Từ lâu, cháu vẫn trọng kính những người có
tuổi, Bởi thế, bác cho cháu được giữ đạo lý đó, xin mời bác đi trước, không
phải rút thăm nữa.
Hơi ngần ngừ, nhìn tôi một lúc, rồi bác gật đầu
đồng ý. Không nói một lời, mặt bác tươi lên như cười, thong thả bước vào bàn
cờ. Ngay nước đầu, bác đẩy con tốt biên: 1 tiến 1.
Tôi hiểu đây là một người thận trọng trầm tĩnh,
vừa nhã nhặn, vừa không coi thường đối thủ. Mục đích chỉ để thăm dò, bắt mạch
đối phương. Tôi cũng hiểu rằng cờ tướng là một môn tranh hơn thua không những
bằng thế, bằng mưu, mà còn bằng tâm lý nữa. Có những đối thủ cáo già, họ đi
những bước đầu hơi hớ hênh, hoặc ngập ngừng. Họ chỉ trỏ, tính toán nước này,
nước kia tỏ rằng không có chủ định, để đối thủ tưởng lầm rằng là một tay cờ
bình thường, mà chết. Ngược lại, cũng có người ngay từ đầu, đi những nước rất
lạ, cách đặt quân vững chải, tỏ ra đầy tự tin; mục đích gây hoang mang cho đối
thủ, chứ thực ra họ chả có gì sâu sắc cả. Thậm chí họ còn đánh “võ miệng”, nào
là đã từng đấu với nhân vật này, hạ nhân vật kia để hù về mặt tâm lý nữa.
Một mái đầu xanh với một mái đầu bạc đăm chiêu
tính toán để hạ nhau. Như trên tôi đã trình bày, phần vì tôi vẫn nể cái “uy”
của bác (tâm lý chủ bại thì ít khi thắng), phần khác, tôi chưa hề đấu bàn cờ
rộng thế này bao giờ. Nhìn nó bao quát, lạc hẳn đi, làm giảm hẳn trí có tính
toán của tôi. Hơn nữa, những tác động ồn ào, bàn tán của người xem cũng làm
loãng những trù liệu của tôi đối với đối thủ. Tuy vậy, tôi cũng tạo dựng, lựa
nhiều nghi binh để được vào một vài thế có lợi cho tôi, cho nên hơn một giờ
sau, bàn cờ đã nghiêng hẳn về phía tôi.
Tôi còn đủ bộ xe pháo mã, trong khi bác Lẫm kém
tôi một con mã, mà còn ở thế bị tấn công. Hai đấu thủ cờ, xấp xỉ tài năng, một
chín, một mười. Bên nào đã hơn quân rồi mà còn được ở thế tấn công, thì hầu như
bàn cờ đã được định đoạt.
Mặt bác Lẫm lúc này, đỏ gay, thỉnh thoảng bác
phải dùng chiếc khăn đỏ đang quấn ở cổ để lau trán, lau mặt. Mặt tôi cũng nóng
bừng, nhất là lúc này nhiều người xô đến gần cổ vũ, góp ý (thói đời, người ta
chỉ phù thịnh thôi). Ngay tên Cẩn đã nhìn tôi, nói to như động viên khích lệ:
- Không ngờ Bình lại cao cờ thế, nhiều mưu lắm!
Mãi đặt hết tâm hồn vào những thế hơn thua của
cuộc cờ, tôi đã quên béng đi, hay không hề nghĩ đến một điều to lớn khác. Đến
lúc này, nghe tên Cẩn nói, tôi mới thót nghĩ ra. Tôi chợt hiểu, tôi còn nông
nổi hiếu thắng lắm! Còn non lắm mà lại cứ tưởng mình đã già dặn rồi . Tất cả
những ý nghĩ luẩn quẩn trên đã tác động vào tâm trí tính toán thế cờ của tôi.
Tôi còn một nhược điểm nữa rất to lớn. Mặc dù lúc đầu nhiều việc thường thận
trọng, trầm tĩnh tính toán, nhưng khi gần đến thắng lợi, đến thành công lại rơi
vào cái hố chủ quan. Mà đáng lẽ ra, chỉ được phép vui mừng, lỏng tay súng khi
đã tiêu diệt hết kẻ thù. Phải vẫn thận trọng, cảnh giác, dè dặt tới lúc bàn cờ
kết thúc. Chính vì những nhược điểm trên, cuối cùng, tôi đã rơi vào những cái
thế bị động, mở đường máu thoát thân của bác Lẫm.
Kết lại, đánh cờ là đấu trí, dù ở khâu nào, lý
do nào tôi cũng đã thua trí của bác Lẫm. Tôi thua bác thực sự, không hề ân hận,
áy náy vì tôi còn quá nhiều nhược điểm. Nhưng rất nhiều người, kể cả những tên
cán bộ lại cứ cho là tôi có ý nhường bác Lẫm. Thậm chí, cho đến chiều muộn, khi
ban tổ chức phát giải thưởng, bác lẫm còn vỗ vai tôi:
- Cậu đã nhường tôi.
- Chính cháu không hề nghĩ lại được vào chung
kết. Cháu tưởng, cháu sẽ bị loại ngay từ những vòng đầu. Chứ đấu được với bác
như thế, cháu đã thấy may mắn và khá rồi đấy!
Tôi chân thành nói với bác Lẫm như vậy.
Về bóng bàn của Phan Thanh Vân, anh cũng chỉ ở
giải nhì, còn Đinh Sơn chiếm giải nhất, cả hai đều là đấu thủ miền Nam.
Về sau này, thật không ngờ, ván cờ ấy tôi bị
thua bác Lẫm, nhưng tôi lại được một cái khác to lớn hơn, ý nghĩa và tình người
hơn. Sau đấy, bác Lẫm lại mến tôi đặc biệt. Một buổi trưa tôi đang ngồi ở hội
trường, bác mang cho tôi một lưỡi dao cạo “Gillettte” còn mới, bác nói:
- Cậu phải thường xuyên cạo râu cằm đi, mà chỉ
để râu trên mới đẹp.
Lưỡi dao cạo ở trong tù rất hiếm, nên vô cùng
giá trị. Tôi bẻ đôi, cất kỹ dùng đến 8 năm sau mới mất (cùn thì mài). Cứ thỉnh
thoảng bác lại dấu đút cho: khi thì củ sắn, củ khoai nướng, khi nắm rau luộc.
Vì bác ở toán rau, nên được ra ngoài đồng làm việc.
Những năm sau, mỗi khi nghĩ đến trận cờ năm ấy,
tôi vẫn thấy vui. Khi ấy, nếu có đủ lực thắng bác Lẫm thì cũng nên thua vì kết
quả lại còn được nhiều cái hơn, huống chi tôi lại thua thực. Như vậy, trong
cuộc sống, nhiều khi không tính mà lại làm đúng.
Chiều ngày mồng 4 Tết, khi toán chúng tôi đi
lao động về thì chiếc loa to ở cổng trại đã được tháo đi rồi. Lý do là chỉ ráp
nối cho trại viên nghe đài ngày Tết mà thôi. Thực ra thì không phải vậy. Qua
một số nguồn tin rỉ tai từ một vài người có thân nhân lên tiếp tế sau Tết,
loáng thoáng cho biết vụ Tết Mậu Thân, không phải Việt cộng hoàn toàn chiến
thắng như đài, báo của cộng sản tuyên truyền. Nghe đâu, quân của chúng bị vây ở
Sài Gòn và nhiều nơi khác, bị bắt và bị chết nhiều lắm v.v… Nguồn tin này, đối
với tôi thì có thể tin được. Bời vì nó gần như một quy luật: khi nào chúng nó
chiến thắng thì chúng bắt tù phải nghe đài, phải đọc báo, đêm ngày, nó ra rả
sủa vào tai. Còn khi nào chúng thua, tin tức bất lợi cho chúng thì đài bị hư,
báo bị tắc đường, xe không đến trại được v.v…
Có một điều làm day dứt lòng tôi mãi nhiều năm.
Ngay chiều tối, khi các buồng đã điểm xong, khóa cửa rồi, tên trực trại Cẩn và
tên Tân trật tự, lại xách đèn bão đến buồng 2. Tên Cẩn đọc tên 4 người toán 2,
ra lán thủ công để đóng một cỗ quan tài, đột xuất. Hơn một giờ sau, khi 4 người
trở về buồng thì mọi người mới biết: bác Lê Tài Chương trong nhà kỷ luật đã
chết rồi. Nghe tin mà tôi điếng người, ngẩn ngơ. Mới vào kỷ luật có khoảng 10
ngày, sao mà đã chết? Dù bác có yếu, nhưng sao có thể chết nhanh như vậy? Ôi,
một kiếp người vô nghĩa đã trở về với cát bụi hư không.
Chẳng hiểu bác chết vì tự tử hay vì sao, mà sau
đó tôi không hề nghe một ai bàn tán gì đến cả. Ngay tên Tân trật tự, hàng ngày
y đưa cơm trong nhà kỷ luật; bác Lê Tài Chương lại là chủ tịch đảng của nhóm y,
đồng vụ với y, nhưng sự việc vẫn kín bưng như hũ nút, chẳng một ai biết rõ.
Trước đây, đã nhiều lần tôi định đến với bác để
tìm hiểu và học hỏi thêm, Ai ngờ đâu, một kiếp người lại giản dị, dễ dàng ra đi
nhanh như thế!
25. Hung Thần
Hoàng Thanh
Tôi
nhớ sau vụ bác Lê Tài Chương chết ở trong nhà kỷ luật, hai hay ba ngày. Một
buổi sáng khi các toán đang xuất trại đi lao động, anh Lân đứng báo cáo với tên
Kích, cán bộ toán như thường lệ mỗi buổi sáng. Sau đó, anh đi xuống chỗ toán
đang xếp hàng dài, nhìn tôi:
- Bình ở lại trại gặp cán bộ.
Hơi bàng hoàng lo lắng, tôi không biết có
chuyện gì? Nhiều anh em trong toán quay lại nhìn tôi bằng những ánh mắt hơi
ngạc nhiên. Đành rằng, hàng ngày không những toán 2 mà còn ở nhiều toán khác
nữa, vẫn có nhiều anh được lệnh ở lại trại để gặp cán bộ, nhưng hôm nay là lần
đầu đối với tôi, cho nên tôi vẫn e ngại.
Trại đi lao động chừng gần một tiếng thì tên
Cẩn trực trại vào buồng II. Trong buồng trống trơn, chỉ con hai anh Hiển và
Khải mới ở nhà kỷ luật ra, còn yếu chưa đi làm được. Thấy tôi, y ra hiệu tay
theo y ra cổng trại. Đến cổng, y ngửng mặt lên nói với tên công an vũ trang cộc
lốc:
- Đồng chí, tôi nhận một phạm ra ngoài.
Quay lại, y chỉ tay về khu ban giám thị, chéo
phía trái của cổng trại bảo tôi đi, y đi theo phía sau. Ngòng ngoèo một con
đường nhỏ lát gạch, dài chừng một trăm mét. Tên Cẩn hất hàm về phía một căn nhà
nhỏ, bên cạnh chiếc nhà khác to lớn của giám thị:
- Anh vào trong đó!
Tôi còn hơi ngập ngừng đứng trước cửa buồng, thì
một giọng rất đanh, khô lạnh giá phía trong:
- Vào đi!
Tôi hơi ngỡ ngàng, một tên cán bộ lạ hoắc, tôi
chưa hề nhìn thấy bao giờ. Y đeo chiếc lon trung úy đã bạc mầu. Dáng y cao,
thành ra người rong rõng gầy. Bộ mặt y hơi dài, xương xẩu nên có nhiều góc
cạnh; đặc biệt là đôi mắt, sắc, lạnh loang loáng. Tất cả nói lên, y là một
người tinh quái, nham hiểm, lạnh lùng. Nhìn tôi một lúc, y chỉ vào chiếc ghế
đẩu để trước bàn, hách dịch:
- Cho anh ngồi!
Tôi ngồi chừng một phút, y mới cất tiếng nói,
lần này lại có vẻ hơi nhẹ nhàng:
- Anh lên trại này được bao lâu rồi?
- Thưa ông gần một tháng ạ.
- Tôi hiểu, lúc này trong óc anh đang băn khoăn
muốn biết về tôi là ai ở đây. Rồi anh sẽ biết, không muộn!
Nói xong, y xoay người nhìn ra chiếc cửa sổ con
hướng về phía trại giam một lúc, rồi quay lại nhìn tôi, nói tiếp:
- Hôm nay, tôi gọi anh lên đây, buổi đầu ta gặp
nhau. Tôi muốn anh thoải mái nói chuyện thẳng thắn; để minh xác vấn đề, tôi
cũng thẳng thắn với anh: hầu hết các anh, không hoặc chưa bao giờ thích chúng
tôi, mà còn căm thù nữa. Nếu các anh nói là yêu cách mạng, yêu xã hội chủ nghĩa
thì cũng chỉ ở mồm, ở miệng mà thôi.
Nói đến đây, y ngừng lại một lúc. Cầm chén trà
đang còn vương vít một ít khói, uống một ngụm, rồi y lại nói tiếp:
- Điều đó tôi cũng không trách các anh, bởi vì
các anh đã bị bắt vào quá sớm, hoặc đã lâu. Các anh không có điều kiện để nhìn
thấy tận mắt, cuộc sống xã hội bên ngoài đang đổi thay từng ngày, tiến bộ rõ
rệt. Do đấy, anh nào cũng ôm chặt khư khư cái mơ ước viển vông cho tới ngày
chui vào lòng đất. Tiếc rằng, tôi không đủ quyền hạn, tôi sẽ cho các anh đi
nhìn, đi xem, đi nghe tận chỗ. Hiện nay, quân và dân ta đang kiên trì, dũng cảm
nối tiếp truyền thống bất khuất của ông cha, đánh cho giặc Mỹ, tên đầu xỏ đế
quốc của thời đại, phải run sợ đang chờ ngày bại trận, rút về nước không xa
nữa.
Nếu ai trong các anh còn chút lương tâm của
người Việt Nam, trong tim, trong phổi thì cũng đều hởi lòng, hởi dạ. Chính tôi
vừa qua, có dịp về công tác ở Hà Nội, tôi cũng không ngờ sự lớn mạnh của nhân
dân ta vĩ đại như vậy. Ý kiến của anh ra sao, anh cứ phát biểu thực sự những
suy nghĩ của anh.
Ngồi nghe y nói, tôi đã mường tượng y là Hoàng
Thanh. Mới hôm qua, hôm kia đây, ở ngoài lán thủ công, trong câu chuyện, có đề
cập đến việc bác Chương bị chết ở trong nhà kỷ luật, Lê Sơn đã nói, từ khi anh
ta ở trại này 5 năm nay, Hoàng Thanh đã cùm chết gần hai chục người rồi. Thế mà
hôm nay, y lại tỏ ra cởi mở, hay không phải y là Hoàng Thanh? Để thăm dò tôi
mạnh bạo phát biểu:
- Thưa ông, nghe những lời ông nói quá rộng
lớn, có nhiều điều, tôi chưa hiểu đến. Phần do tuổi đời, phần do sự hiểu biết
của tôi hạn hẹp. Cũng do sự hiểu biết còn non dại của tôi, nên tôi đã sai lầm
phạm tội với nhân dân. Bởi vậy lúc này, tôi chỉ biết ngày đêm tâm niệm tin
tưởng tuyệt đối vào đường lối giáo dục cải tạo những người tội lỗi, sai lầm của
nhà nước. Tôi sẽ đem hết sức mình ra lao động để tự cải tạo bản thân, để mong
một ngày được hưởng lượng khoan hồng của đảng và nhà nước, tôi được trở về làm
lại cuộc đời. Điều này…
Tôi đang nói thì y khua tay bắt tôi ngừng:
- Thôi! Tôi đã đoán trước nội dung anh sẽ nói
như vậy rồi. Anh nói theo một bài học khuôn thước như mọi người. Tôi lại không
muốn nghe những điều như vậy. Thôi được, để thời gian! Này, gần tháng nay, chắc
anh đã nghe những đồng phạm bàn tán về tôi ra sao?
Tôi còn dè dặt, ngập ngừng, thì y lại nói tiếp:
- Như: ác ôn, tàn ác đã giết nhiều người này,
phải không? Nên đã làm cho anh phải đắn đo, e ngại? Anh phải hiểu rằng, họ chỉ
đứng từ một vị trí rác rưởi nhìn tôi, nên họ không thể hiểu được cách làm việc
của tôi. Còn anh, tôi nghĩ rằng anh là con người thức thời, anh phải nhìn vào
thực tế…
Nói tới đây, mắt y quắc sáng nhìn tôi như có
tia lửa. Bàn tay y giơ ra về phía tôi, xòe ra, rồi lại nắm vào:
- Hiện nay, anh đang nằm gọn trong tay tôi, tôi
mở thì anh sống, tôi bóp thì anh sẽ chết. Bây giờ, tôi cho anh về để mà suy
nghĩ, chọn cho mình một sinh lộ. Hôm nay, anh có nói nữa thì cũng toàn là những
chuyện không thật, mà tôi lại không muốn nghe.
Hơn một tiếng đồng hồ tôi gặp y, khi về trại
rồi mà tôi vẫn còn phải suy nghĩ mãi về y. Có một điều tôi đã cảm nhận trong
lòng như một nguyên tắc: dù cho chính y là Hoàng Thanh, tinh khôn, ác ôn, nham
hiểm, nhưng đã nói nhiều thì tôi cũng không sợ mấy. Một điều nữa, tôi để ý
trong suốt buổi gặp y; y không hề đả động gì về tình hình đang nóng bỏng ở miền
Nam. Điều này càng cho tôi thấy rằng, những suy đoán của tôi về tình hình chiến
sự đã có chiều hướng đúng.
Buổi chiều đi lao động, qua Lê Sơn và Quý Cụt,
tôi đã biết chính y là Hoàng Thanh. Một tên hung thần của trại trung ương số
một phố Lu, Lào Cai. Tôi chưa biết rõ về y lắm, nhưng phải nói y có một cái uy
đáng nể. Thấy y về, không khí trong trại có vẻ nặng nề khác thường. Từ cán bộ,
bộ đội cho đến tù nhân trong trại hầu như đều trầm lặng, ít nói, ít cởi mở hẳn
đi. Tuy vậy cũng có một sự việc làm cho anh em buồng số II khi đi lao động cứ
liếc nhìn nhau cười thầm bằng ánh mắt hoài.
Đêm vừa qua, lúc gần sáng, tôi còn đang chìm
sâu vào giấc ngủ muộn thì có tiếng chửi bới quàng quạc như vịt được tháo
chuồng, làm cả Vân và tôi đều choàng tỉnh dậy. Mùi phân và mùi nước tiểu thối
hoăng lên ở trong buồng. Anh chàng Lê Ngọc Phi, chân không guốc dép đang đứng ở
giữa buồng, gào thét, chửi bới như một tên khùng. Thì ra, đêm y dậy vào nhà
cầu; đến khi trở về chỗ, màn và chăn chiếu của y đầy nước tiểu và phân người. Chẳng
biết ai đã bí mật, theo dõi chờ y vào nhà xí, đã hắt một lon cứt và nước đái
vào chăn màn của y. Bây giờ chăn màn ướt át, đầy cứt và nước đái, y không còn
chỗ nằm nữa. Phi thuộc toán ba xẻ gỗ, chỗ y nằm ở sàn dưới phía trước, gần cạnh
chỗ toán trưởng Đinh Khắc Sản.
Mới vào Xuân, trời vẫn còn lạnh căm căm, bên
ngoài vẫn tối om, có lẽ mới khoảng 3 hay 4 giờ sáng. Tiếng gầm thét, chửi rủa
của tên Phi làm cho cả buồng nhốn nháo, nhiều người thức dậy. Đây đó một vài
tiếng cười. Một giọng nói từ góc phía đầu nhà của sàn trên dội lên như giễu
cợt:
- Nào biết ai bây giờ! Tôi mà biết đứa nào tôi
sẽ đập nó chết cho anh thỏa lòng. Thôi đi ngủ đi, mai ra báo cáo cán bộ sớm!
Lại có những tiếng cười nữa của nhiều người.
Anh chàng Phi càng phát khùng, y gầm lên:
- Các anh phải biết rằng tôi được ban giám thị
giao cho trách nhiệm theo dõi, để ý tất cả các anh ở trong buồng này. Còn nhiều
những lời nói và việc làm phản động của các anh, tôi đã thông cảm không báo cáo
hết với cán bộ, vậy mà các anh còn chưa biết điều.
Tiếng cười ồn lên ở trong buồng. Anh Lân buồng
trưởng đứng ra giữa nhà nói to:
- Bây giờ, tất cả buồng im lặng, đi ngủ để mai
còn đi lao động. Anh Phi cũng đi ngủ, sáng mai cán bộ sẽ giải quyết.
Tên Phi càng như điên khùng, không kể gì buồng
trưởng hay ai, y quay lại xửng cồ cả với Lân:
- Chăn màn toàn cứt với với nước đái thì ngủ
thế nào?
Buồng càng cười dữ, có anh cười ré lên như dê
kêu. Bất chợt có tiếng báng súng đập mạnh vào cánh cửa:
- Buồng này làm cái gì mà ầm lên thế! Các anh
muốn phá trại hả?
Anh Lân tiến ra định báo cáo, thì tên Phi xộc
đến, len ra trước sát cửa:
- Báo cáo ông cán bộ, chúng nó đổ cứt và nước
đái đầy chăn màn của tôi.
Giọng tên công an vũ trang hách dịch:
- Đứa nào?
- Thưa, tôi không biết!
Im lặng một lúc, chắc tên cán bộ thấy chẳng
giải quyết gì được trong lúc này (y làm gì có chìa khóa, và đâu được quyền mở
cửa buồng), vì vậy y lại quát:
- Toàn buồng tuyệt đối im lặng. Tôi thấy anh
nào còn rì rầm, mai cho đi kỷ luật,
Bấy giờ tên Phi mới chịu im. Lủi thủi về chỗ
ngồi ghẹ vào mép sàn. Từ hơn một tuần trước, qua anh em tôi đã biết tên Phi này
là một bần nông ở vùng Bắc Ninh. Trong cuộc cải cách ruộng đất, y là thành phần
cốt cán. Y đã cuồng nhiệt hăng say tố cáo, đánh phá địa chủ ở địa phương. Vì
vậy gia đình y được chia một căn nhà khá khang trang của một người địa chủ đã
bị xử bắn. Sau đó y được bầu là nông hội trưởng. Nhưng khi có chính sách sửa
sai, người ta lấy nhà y để trả lại cho vợ con địa chủ.
Từ đấy, y bất mãn trong công tác, phát ngôn
những lời bừa bãi, mất chính trị. Y bị chính quyền mới của xã, giáo dục nhiều
lần, lại còn truất phế chức nông hội trưởng của y. Y càng lồng lộn bất mãn thêm
để cuối cùng phải vào trại giam từ năm 1957. Y bị cái án dây thun tập trung với
tội phản tuyên truyền. Vào trại giam, lúc đầu y cũng chống đối, chây lười lao
động, thường hay vi phạm nội quy đã nhiều lần phải đi kỷ luật. Nhưng từ ba, bốn
năm nay, chẳng hiểu do sự phỉnh phờ, khích lệ dụ dỗ của ban giáo dục với y thế
nào, y bắt đầu làm Joóc (antenne). Càng ngày y càng lao sâu vào con đường làm
chó săn cho ban giám thị.
Dần dần, hành động lén lút, hèn mạt của y không
thể che mắt được ai. Cả buồng, cả trại đều biết, không còn ai dám gần y để
chuyện trò tâm sự nữa. Từ hơn một năm nay, y và chủ y đã tìm ra một phương kế
khác. Trước đây, hàng tuần, hàng tháng, mỗi ngày, có khi đôi ba ngày lại gọi
vài anh ra gặp cán bộ giáo dục. Trong những người này, dĩ nhiên, lẫn lộn người
cải tạo tốt, người cải tạo xấu, người làm joóc, người không. Mục đích để tung
hỏa mù, không cho tù biết ai làm chó, ai không làm chó. Đấy là một cách của
người chủ bảo vệ cho những con chó của chúng. Cán bộ giáo dục không gọi tên Phi
nữa, nhưng cứ thỉnh thoảng, có khi một tháng, có khi hai tháng không chừng, tên
Phi lại tìm chuyện gây sự, rồi chửi nhau, có khi đánh nhau với một đồng phạm.
Như vậy cả hai đều báo cáo tình hình trong trại, trong toán và về những cá
nhân.
Ngay cả điều này rồi cũng không qua mắt được
những người tinh tế. Vì vậy họ phải ngăn chận những con chó ăn cứt, làm thối cả
mọi người này, bằng cách rỉ tai những người thân tin. Mặt khác, tùy theo điều
kiện họ có thể làm được những gì mà cán bộ cũng như nhiều đồng phạm khác không
biết như: lén rút quai dép râu (ở đây, mất quai hay mất dép thì đi đất, không có
mà mua), có khi lấy một chiếc ném ra rừng. Hoặc gói phân đút vào trong bọc quần
áo của những tên joóc v.v…
Cho tới sáng, tôi nằm mãi không ngủ được, đầu
óc cứ quanh quẩn về việc vừa xảy ra. Tôi hiểu rằng, trong buồng này không phải
chỉ có một mình tên Phi làm joóc, mà còn nhiều người nữa. Do trình độ kiến thức
và do sự tinh quái nên họ thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và mức độ làm
joóc cũng khác nhau. Chứ tên Phi này, do văn hóa không có, nên sự hiểu biết
tinh vi cũng hạn chế. Tuy làm joóc nhưng cũng chỉ nói lên được những điều vặt
vãnh, bề nổi bên ngoài mà thôi. Tôi lại nghĩ đến, không biết anh nào, hay một
nhóm nào đã có những hành động thể hiện được lập trường và ý chí của họ đối với
kẻ thù và lũ chó săn của chúng. Rồi đây tôi cũng phải tìm hiểu.
Trời sáng dần. Khi tên Cẩn trực trại điểm xong
vừa ra tới cửa, tên Phi đã hấp tấp ra trước mặt y, nghiêm cứng người báo cáo
chuyện cứt, đái lúc ban đêm. Tên Cẩn trở lại vào xem chỗ chăn màn của tên Phi.
Mặt y đỏ dần lên tỏ vẻ tức tối lắm. Y hiểu rằng, cứ để tình trạng này tiếp
diễn, thì rồi đây không còn ai dám làm joóc cho chúng nữa. Nhưng chắc y cũng
biết rằng, ngay lúc này làm sao y có thể tìm ra thủ phạm được. Bởi vậy, sau khi
y gọi anh Lân ra ngoài hè hỏi gì đó, y tiếp tục đi điểm buồng khác.
26. Toán Boone Biệt Kích
Hôm
nay đã 15 tháng Giêng 1968. Thấm thoát tôi đến trại E này đã hơn một tháng rồi.
Thời tiết ấm dần, đôi ngày, dăm ba trận mưa Xuân phun bụi nước khắp núi rừng.
Cây cối bắt đầu đâm hoa, nẩy lộc. Đồi núi chuyển dần từ mầu xanh xậm thành mầu
con gái hơ hớ với trời Xuân. Tuy thỉnh thoảng vẫn còn một vài anh chàng gió mùa
Đông Bắc lì lợm, vẫn thập thò mò về lả lướt với nàng Xuân mới lớn, nhưng cũng
chỉ dăm thì, mười họa mà thôi.
Hôm qua, Phan Thanh Vân được cán bộ dẫn giải ra
trại chính để gặp ông Toán, thiếu tá giám thị trưởng trại trung ương số I, về
thì thầm cho tôi biết toàn trại sắp sửa vào đợt học tập chính trị vài ngày.
Chuyện đó còn xa, tôi biết vậy, lòng tôi còn đang bận rộn với toán Boone biệt
kích của Nguyễn Huy Lân.
Ngay khi tôi còn ở dưới Hỏa Lò Hà Nội, toán
biệt kích này đã gây ra rất nhiều dư luận bàn tán khác nhau, nên sự ngộ nhận
cũng không ít. Đây là một toán biệt kích điển hình đối với dư luận miền Bắc.
Toàn toán đã không chiến đấu, mà đã ra hàng ngay. Nhà cầm quyền miền Bắc mời
các phóng viên ngoại quốc cũng như đại biểu các tỉnh, các cơ quan toàn miền Bắc
về dự phiên tòa kéo dài ròng rã 3 ngày ở Hà Nội. Kết cuộc phiên tòa, chúng đã
trang trọng tuyên bố tha bổng toàn bộ toán Boone biệt kích. Chúng mở một chiến
dịch tuyên truyền rầm rộ qua báo chí và đài phát thanh. Chúng huênh hoang về độ
lượng khoan hồng của đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa, dạt dào thương yêu
những đứa con lạc mẹ, nay đã biết ăn năn quay về với cha mẹ. Chúng vừa được về
mặt chính trị đối với trong nước cũng như ngoài nước, mà chúng còn dùng sự kiện
đó để phỉnh phờ, dụ dỗ những toán biệt kích khác ra sau.
Tôi lợi dụng mọi điều kiện có thể để gặp gỡ,
tiếp xúc với từng người của nhóm biệt kích này. Sau nhiều buổi tôi gặp Nguyễn
Huy Lân, Nguyễn Văn Thú, Đinh Văn Sơn và Nguyễn Văn Bắc để chuyện trò tìm hiểu,
tôi thấy rõ một điều là tất cả nhóm này đều không muốn nhắc lại những chuyện đã
qua của toán họ, chắc hẳn họ đều mang một tâm trạng chung khá nặng nề:
- Thấy hổ lòng với anh em đồng phạm, vì họ đã
ra hàng.
- Được tha bổng, nhưng thực tế vẫn tù như những
người tù khác.
Tuy rằng hiện nay ở trong trại, nhìn bề ngoài,
nói chung họ đều là những người cải tạo tiến bộ; trừ có Nguyễn Văn Thú là lao
động cải tạo ở cái thế cầm chừng bắt buộc. Anh phải giữ ở cái mức bình thường
như nhiều người khác để tránh sự hạ mức ăn, bị trù dập, hay phải đi kỷ luật.
Đinh Văn Sơn – tổ trưởng kỹ thuật.
Nguyễn Huy Lân – buồng trưởng, kiêm toán trưởng
toán 2.
Nguyễn Văn Bắc – tổ trưởng tổ 4 của toán 2 (mới
được cán bộ chỉ định thay Lê Khắc Dũng. Dũng đã vi phạm nội quy, Lù Chần Páng
đã tố giác trong một buổi sinh hoạt toán trước đây).
Phạm Công Thành – toán phó toán nhà bếp (ai
được ở toán nhà bếp đã là một đặc ân, hoặc cải tạo tiến bộ rồi).
Chính vì lý do trên, tôi đã phải vận dụng khả
năng nghề nghiệp một cách hơi vất vả mới có một số nét khái niệm về toán Boone
này. Trước đây, khi tôi còn ở buồng số 5 trại chung, với đám tù thiếu niên dưới
Hỏa Lò, tôi cứ tưởng toán Boone này chỉ có 5 người là:
Nguyễn Huy Lân – toán trưởng.
Đinh Văn Sơn – toán phó.
Nguyễn Văn Thú – toán viên.
Phạm Công Thành – toán viên.
Trần Mạnh Hùng – toán viên.
Nhưng bây giờ thôi hiểu thực tế, toán Boone có
những 9 người.
Từ năm 1963, trại huấn luyện biệt kích Long
Thành được điều khiển, do những huấn luyện viên Mỹ và Việt lẫn lộn. Trong thời
gian huấn luyện, Đinh Văn Sơn và Nguyễn Huy Lân là 2 toán trưởng của hai toán
khác nhau. Do những xáo trộn của cuộc binh biến 1-11-1963 lật đổ ông Ngô Đình
Diệm, nhiều người biệt kích đã đào ngũ trốn khỏi Long Thành. Toán của Lân và
của Sơn cũng có một số người bỏ trốn. Rồi do những yêu cầu của những công tác
trong mặt trận tình báo tung người ra Bắc hoạt động nên đã sát nhập 2 toán vào
làm một, lấy tên là toán Boone. Ban chỉ huy của trại Long Thành đã sắp xếp như
sau:
Nguyễn Huy Lân – toán trưởng (bao quát toàn bộ)
Đinh Văn Sơn – toán phó (đặc trách tình báo)
Nguyễn Văn Bắc – toán phó (đặc trách phá hoại)
Hồng Tôn Khải – truyền tin số I (chính)
Vũ Gia Thoa – truyền tin xố II (phụ)
Nguyễn Văn Thú – toán viên
Trần Mạnh Hùng – toán viên (liên đội 31 biệt
kích)
Ngọc – toán viên
Phạm Công Thành – toán viên, đồng thời là người
dẫn đường.
Công Thành, sinh quán ở Nghệ An, vượt tuyến vào
Nam năm 1961. Anh ta là thổ công vùng biên giới Lào + Việt, Nghệ An, vì vậy tổ
chức đưa anh vào toán Boone để dẫn đường. Bởi vì địa bàn hoạt động của toán
Boone bao gồm những khu vực Bản Hang, Nông Hét, Mường Xén, Con Cuông, thuộc
biên giới Lào, Việt Nghệ An. Khoảng tháng 6 năm 1964, lúc 1 giờ của một đêm
cuối tháng không trăng sao, toán Boone xuất phát bằng một chiếc C47, sơn đen.
Sau hơn một giờ bay trong đêm tối, chiếc máy bay đã lao tới mục tiêu. Toàn toán
đã được lệnh nhẩy dù xuống một bãi đáp gần bản Hang, sát biên giới Lào, Việt,
trong một khu rừng già của dẫy Trường Sơn.
Địa điểm tập kết là Con Cuông gần sông Lam (tên
khác là sông Cả). Con sông này bắt nguồn từ Lào chảy sang Việt Nam xuôi vể của
biển là Bến Thủy, gần thành phố Vinh, Nghệ An. Nhiệm vụ của toán:
- Chấm tọa độ.
- Theo dõi sự di chuyển xe cộ, bộ đội trên quốc
lộ 6 và 7.
- Rải truyền đơn gây hoang mang cho địch, khích
lệ, hỗ trợ sự nổi dậy của dân chúng.
- Lập chiến khu, làm đầu cầu cho những toán kế
tiếp ra sau.
- Bí mật bắt mối với nhân dân trong địa bàn
hoạt động.
Chính vì do sự sắp xếp, sát nhập 2 toán biệt
kích này làm một, đã gây ra nhiều mâu thuẫn giữa người của 2 toán. Hơn nữa,
người của 2 nhóm này cũng lẫn lộn dân sự và quân sự nữa. Nguyễn Huy Lân là một
thượng sĩ trong quân đội, trong khi Đinh Văn Sơn lại là dân sự. Ngoài ra Sơn
coi Lân là người thiếu kiến thức, không đủ khả năng lãnh đạo toán, cho nên Sơn
và nhóm của Sơn không phục, không chịu nghe lệnh của Lân. Điều này, không biết
những người có trách nhiệm tung toán Boone vào đất địch có biết hay không? Tôi
nghĩ rằng, thà họ nhận là không biết thì còn ít lỗi lầm hơn.
Nói về chiếc C47. Khoảng hơn 2 giờ đêm thì tới
mục tiêu, trời vẫn tối đen như mực. Phần vì tinh thần, tư tưởng của toán Boone
chưa được trang bị đủ mức yêu cầu, phần khác chưa đủ kinh nghiệm hoạt động
trong đất địch. Bởi vậy, ngay từ khi xuống dù đã thất lạc hỗn độn, mỗi người
mỗi nơi. Đến khi trời sáng, mãi tới gần trưa mới tập họp lại được thì toán chỉ
còn 7 người. Thiếu mất 2 người là Hồng Tôn Khải, truyền tin số I và Ngọc là
toán viên. Mọi người chia nhau ra các hướng để đi tìm. Mãi gần về chiều mới
thấy dù của anh Ngọc gác lên một cành cây đổ, ở cạnh một bờ suối, nhưng không
thấy người. Lục lọi, xem xét kỹ cũng không thấy dấu vết gì tỏ là anh Ngọc bị
thuơng, hay bị thú rừng ăn thịt. Rồi mãi tới gần tối mới tìm thấy dù và xác của
anh Khải, thịt, xương be bét dưới một thung lũng đầy mây rừng. Toàn nhóm đã xác
định, dù của anh Khải không mở, như một cục thịt từ ở trên trời rớt xuống nên
cơ thể mới bị nát bấy như vậy.
Đến đây, toàn toán ai nấy đều hoang mang lo sợ
vì anh Khải là truyền tin chính, một cột trụ để liên lạc với Sài Gòn thì đã
chết rồi. Vũ Gia Thoa, truyền tin số 2, lúng túng, không đủ chuyên môn để sử
dụng máy liên lạc với Sài Gòn. Như thế, coi như toán đã bị đứt liên lạc ngay từ
đầu với trung ương. Tình trạng, bất lợi hỗn độn như vậy càng khoét sâu nỗi
hoang mang, giao động trong lòng mỗi người. Lúc này, không còn ai bảo ai nghe
được nữa, mỗi người mỗi ý kiến. Cuối cùng, Nguyễn Huy Lân động viên những người
còn lại cứ quyết định di chuyển tìm đường về địa điểm tập kết ở Con Cuông.
Khi trong lòng mỗi người đã rối bời, lo lắng
thì lòng tin vào mục tiêu đi tới cũng mất dần. Do chân chùn, lòng nản, tinh
thần rã rời ngại khó, ngại khổ nên di chuyển rất chậm chạp. Cho tới khi đã hết
lương thực mà mục tiêu vẫn còn ở đâu chưa thấy. Tinh thần càng khủng hoảng, sa
sút, người này đổ lỗi cho người kia, thậm chí cãi nhau, chửi nhau hỗn độn không
khác chi cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.
Theo anh Nguyễn Văn Thú, tới ngày thứ 11 hay
12, kể từ lúc toán nhẩy xuống bãi đáp thì bị lộ và bị bao vây. Khi có tiếng loa
của đội quân bao vây, chõ vào rừng kêu gọi toán ra đầu hàng, thì trong nhóm
càng lộn xộn. Người đồng ý ra hàng, người không, để cuối cùng Trần Mạnh Hùng
dùng súng uy hiếp toàn toán phải đầu hàng để sống. Phạm Công Thành đã cởi ngay
chiếc áo maillot trắng đưa cho Vũ Gia Thoa, buộc vào đầu một cành cây, giơ lên
đi trước tiến ra ngoài, tỏ dấu toàn thể toán xin đầu hàng vô điều kiện. Sau đó,
đoàn bộ đội bao vây đã trói gô từng người rồi giải về nhà giam Thanh Chương,
trực thuộc quân khu 4. Chúng giam riêng mỗi người mỗi buồng để truy cung, khai
thác từng ngày.
Sau hơn 4 tháng cung kẹo, khai báo, chúng
chuyển toán Boone về Hà Nội và đưa ra tòa xử công khai như đã trình bày ở trên.
Đặc biệt là, khi tòa vừa tuyên bố tha bổng toàn thể nhóm Boone biệt kích, thì
Vũ Gia Thoa được một người họ hàng cao cấp trong chính quyền của cộng sản bảo
lãnh. Và cũng từ đấy, không ai còn biết tin tức gì về Vũ Gia Thoa nữa. Khi xử
xong, chúng chuyển toán Boone về trại giam Yên Thọ hơn một năm, rồi lại chuyển
về Phố Lu, trại trung ương số I ở Lào Cai này từ năm 1966.
Do toán Boone đầy rẫy những mâu thuẫn nội bộ từ
ở trong Nam cũng như khi ra Bắc, bởi vậy, chúng thường giam riêng, và chế dộ
đãi ngộ cho mỗi người cũng khác nhau. Hiện nay, (1968), Trần Mạnh Hùng được
hưởng chế độ 18 đồng (tiêu chuẩn chung cho một tù nhân ở các trại giam miền Bắc
là 12 đồng). Hùng lại được làm toán trưởng toán nhà bếp ở trại Phong Quang,
trại trung ương số II ở Yên Bái. Phạm Công Thành vì có công đã cởi chiếc áo
maillot trắng làm cờ hàng, nên khi đến trại E này, được cho làm toán phó, toán
nhà bếp. Từ hôm tôi đến phân trại E này đã hơn một tháng, tôi cũng chưa nhìn
thấy Phạm Công Thành. Cái chính, chỉ vì qua dư luận của anh em trong trại, tên Thành
nhà bếp rất tiến bộ và đểu cáng. Đôi khi những anh em được nghỉ một ngày bệnh ở
trên toán, xuống bếp xin tí nước sôi để pha trà hay thích uống nước uống nóng,
y đã quát tháo, chửi bới quầy quậy đuổi người ta về. Thậm chí nhiều lần y đã
ném ca, đập gô anh em, do đấy tôi cũng ghét luôn chả muốn tìm gặp y để làm gì.
Tôi để ý, tên Thành cũng không quan hệ đi lại
với những người cùng toán Boone của y ở trên các buồng.
Trong khi chuyện trò, tôi có hỏi anh Thú:
- Tại sao tòa đã tuyên bố trắng án, tha bổng nhưng
vẫn đưa vào trại tù, các anh không phản đối hay thắc mắc à?
Mắt anh Thú long lanh, quắc sáng, miệng cười
gằn như mếu, trả lời:
- Ở Yên Thọ, tôi đã bị cùm hơn 2 tháng gần chết
vì dám chắc mắc hỏi ban giám thị trại về chuyện này. Khi đến trại này, hai năm
trước, Bắc cũng tâm sự, thắc mắc với một đồng phạm, rồi bị họ tố, Bắc cũng bị
đi cùm gần 1 tháng phải bò ra, cho nên…
Thú nói đến đây thì không nói nữa, anh lái sang
chuyện khác. Tôi cũng đã tự hiểu nên cũng chả bao giờ đề cập đến chuyện ấy nữa.
Sáng hôm nay Chủ Nhật, một buổi sáng Chủ Nhật
không phải đi lao động xã hội chủ nghĩa. Tối qua, tôi có hẹn với Lê Văn Kinh,
hôm nay ra hội trường nói chuyện. Mục đích tôi muốn biết sơ lược nội vụ câu
chuyện của anh trong vụ sông Gianh. Trong khi chờ Kinh còn đang đi tắm giặt ở
giếng tôi ngồi ở hội trường nói chuyện với anh Hiển. Vũ Mạnh Hiển, một chủng
sinh (đại chủng viện công giáo) bị bắt tập trung cải tạo chỉ vì cái tội: chủng
viện đã được nhà nước giải tán, chính phủ khuyên mọi người trở về lấy vợ, lập
gia đình, anh Hiển lại không chịu lấy vợ, cứ quyết một lòng hiến dâng đời mình,
trọn vẹn đức tin nơi Chúa. Anh mới được thả kỷ luật dạo Tết, người anh bây giờ
hãy còn gầy nhom và xanh tái.
Ngồi nói chuyện với anh, mắt tôi đang lơ đãng
nhìn một con nhện đen, có những bộ chân dài ngoẵng đầy lông, đang chăng tơ làm
tổ trên ngọn những cây nứa khô của hàng rào trại. Con nhện đang loay hoay trèo
lên, trèo xuống nhiều lần. Nhìn vị thế của cái tổ mới nó đang làm, tôi hiểu
rằng nó phải chăng 4 sợi tơ ở 4 điểm chính làm cái khung thì mới làm được cái
tổ. Nhưng nó mới chăng được 3 điểm, còn một điểm nữa mãi chéo ở đầu một ngọn
nứa hơi cong. Thấy dáng điệu có lúc ngần ngừ, có lúc tất bật của nó, tôi nghĩ
rằng nó đang điên đầu, tính toán làm sao để mắc được đường tơ lên ngọn cây nứa
cong ấy. Ồ, tôi đã lầm, nó đang chờ, đang đợi một làn gió quẩn ngược chiều. Nó
trèo lên mãi một ngọn nứa cao, đít nó dụi, dính một mối tơ vào đấy, rồi nó
buông thõng người cho rơi sâu trở xuống đến hơn một mét. Khi nó theo dây tơ leo
lên về chỗ cũ, có một sơi tơ mỏng manh, lấp lánh dưới ánh nắng sớm, theo gió
đong đưa, hất nhẹ đến cái điểm thứ 4 ấy. Sợi tơ chạm vào ngọn nứa cong là dính
liền. Thế là con nhện, nhanh nhẹn theo sợi tơ leo sang ngọn nứa cong. Nó từ từ
kéo căng sợi to. Vậy là nó đã đạt được 4 điểm tựa chính của cái mạng lưới mới
để săn con mồi.
Lòng tôi đang rộn lên một nguồn vui nhè nhẹ như
chia xẻ với sự thành công của con nhện, thì chợt có tiếng bình bịch của chân
người chạy phía hiên sau hội trường. A, tên Tân, trật tự, mắt y đang trợn lên
như mắt con lợn nhúng nước sôi. Một tay y vẫn cầm chiếc gậy, như mỗi khi y đi
tua một mình trong trại; một tay y đang giằng co một chiếc rổ con, có mấy ngọn
rau tầu bay với bác Thẩm Tố Lân, người gốc Tầu. Bác Lân 2 tay đang kéo cái rổ
lại, miệng nói tiếng Việt chưa sõi lắm, giọng như năn nỉ:
- Anh à, tôi sót cái luột quá! Mấy hôm nay tôi
có cái bụng táo bón, không ti cầu tược. Tôi bòn tược mấy cái lau dại này tể
chốc nữa ăn với cơm.
Tôi nhìn thoáng thấy trong chiếc rổ con có một
nắm rau, những ngọn rau tầu bay con con và mấy ngọn rau rệu. Trong trại, khắp
nơi không có một chỗ nào có những ngọn rau dại mọc được mà còn lại. Bởi vì có
một ngọn nào mới nhú, không người này thì người khác đã vặt ngay rồi. Thậm chí,
họ móc họ đào lần lấy hết cả gốc, rễ của nó rồi còn đâu. Tôi chợt nhớ đến mấy
cây rau tầu bay phía sau lán vernie, và một bụi rau rệu mọc dưới cái rãnh cạnh
nhà cầu ngoài lán mộc. Mấy cây rau tầu bay này cũng vậy, cứ đâm ra được một vài
ngọn con thì đã có người vặt rồi. Cả bụi rau rệu cũng thế, hễ ngọn nào mới thò
ra được một vài lá cũng đã cụt luôn. Chính tôi mấy lần mò ra định kiếm mấy ngọn
cho đỡ sót ruột, vì bữa cơm toàn ăn với muối rang, vậy mà đều hụt vì người khác
đã hái rồi.
Tên Tân đang dư dứ cái gậy vào đầu bác Lân, rồi
y giật cái rổ rau, ném mạnh xuống đất. Y lấy chân đạp bẹp cái rổ, rồi di di, di
lại cho mấy ngọn rau nát bét:
- Nội quy cấm ăn rau sống, anh còn chống đối
tôi hả?
Nhiều người ngồi trong hội trường lúc ấy, ai
cũng lộ vẻ căm phẫn với việc làm của tên Tân. Nhưng họ vẫn ngồi yên, có lẽ họ
đều nghĩ trong cảnh này hãy chịu nhẫn nhục để sống yên thân. Họ đều hiểu rằng
đằng sau tên Tân còn có một con ngáo ộp là ban giám thị và những tên cán bộ,
cho nên họ chỉ ngồi nhìn ra. Tôi cũng hiểu như vậy, nhưng có lẽ một phần vì
lòng khinh ghét có sẵn với tên Tân từ dưới Hỏa Lò, phần khác do bản tính hãy
còn hơi liều bất tử nên tôi đã đứng dậy, tiến đến và quắc mắc nhìn tên Tân, dù
rằng lời nói của tôi còn mềm mỏng:
- Người ta sai thì anh phải từ tốn nhắc nhở
người ta chứ! Anh có hành động tàn ác không còn tính người như vậy à?
Ngay từ lúc thấy tôi tiến đến, y đã hơi chờn.
Chắc hẳn y vẫn chưa quên được ở buồng số 4 xà lim II, Hỏa Lò. Một lần, y có
những thái độ bẩn thỉu, khi y lấy cơm từ ngoài chõng vào cho tôi, tôi đã đập
nhau với y ở trong buồng. Lúc ấy tôi bị cùm một chân mà y còn không dám tiến
lại gần, y phải dùng cái chăn bông dầy của y, từ ở một góc xa tầm tay của tôi,
để quật nhau với tôi. Nhưng lúc này trong trại, y đầy uy quyền, không ai dám
cãi lại với y cả. Phần khác, trước mặt nhiều người y không thể chịu ở cái thế
nhún nhường thua kém, vì vậy, y chỉ cái gậy vào mặt tôi nạt nộ:
- Mày cấu kết với nhau để chống đối hả?
Thực sự trong lòng tôi tuy căm tức và khinh
ghét nó lắm. Tôi đã có chủ trương, một buổi nào đó thuận tiện tôi sẽ xả cái khinh
đó ra với nó, nhưng chưa phải hôm nay. Khốn, lòng tôi đã nóng lên rồi. Tuy vậy,
tôi cố kìm lại, tôi chỉ hất mạnh cái gậy của y ra:
- Hãy ngậm cái miệng của mày lại!
Nói rồi, tôi đi về chỗ, nhưng y như một con hổ
nhẩy theo, giơ cao chiếc gậy vụt vào cổ tôi. Tôi lạng người, hụp xuống tránh
chiếc gậy, cũng là lúc tôi gắn cái gót chân vào ngực y. Y hự lên một cái, khựng
lại rồi như điên rồ, y quật tôi túi bụi, miệng lải nhải văng tục:
- Địt mẹ mày, gián điệp, biệt kích, vét đĩa
này!
Tôi không còn kiểm soát được tôi nữa, tôi chẳng
còn nghĩ đến lợi hay hại nên cứ đấm đá thả dàn. Sau một hồi quần thảo, chẳng
hiểu tôi vung vẩy tay thế nào không biết, đấm trúng vào mặt y một cú làm chồn
cả tay tôi lại. Mũi y có máu chảy ra, vậy mà y vẫn còn hung hăng, cầm cái gậy
choi choi đâm tôi. Lựa thế, tôi bắt được cánh tay cầm gậy của nó. Tôi đưa vào
một thế khóa, định bẻ gẫy cánh tay của nó. Nó gào lên thảm thiết, nhiều anh em
trong trại đã chạy đến. Lê Sơn chen đẩy mấy người, tiến lại, để tay lên vai
tôi:
- Thôi, anh Bình!
Tôi biết rằng, tôi chỉ cần gồng mạnh lên một
chút là cánh tay nó sẽ bị bẻ giặt gẫy. Mồm nó vẫn kêu như bò rống. Tôi hiểu nếu
bỏ tay nó ra bây giờ, đang hung máu, nó sẽ làm phiền tôi nữa. Tôi còn đang
lưỡng lự thì tên Cẩn trực trại và mấy tên công an vũ trang từ cổng trại chạy
vào. Tên Cẩn xông đến quát:
- Anh Bình, buông tay ra ngay!
Tên Tân mặt xám lại, nhăn như khỉ ngửi phải mùi
mắm tôm. Tay trái y đỡ cánh tay phải, người y khòng xuống, văn vẹo. Tên Cẩn mặt
tím bầm, chỉ tay vào tôi:
- Anh dám đánh trật tự phải không? Anh muốn làm
loạn à?
Rồi y quắc mắt, nói như ra lệnh:
- Về ôm chăn chiếu đi kỷ luật, rồi sẽ giải
quyết!
Khi tôi quay về buồng để lấy chăn chiếu, còn
nghe mấy người đứng ở đó nhao nhao lên, có cả tiếng của Lê Sơn:
- Báo cáo ông Cẩn, anh Tân đã đánh anh Bình
trước, anh Bình phải tự vệ.
Dù như vậy, tôi vẫn phải vào nhà kỷ luật.
27. Tuyệt Tác của Hoàng Thanh
Tôi đã nhìn thấy cái cùm, tác phẩm của Hoàng Thanh. Sau khi
mở cửa nhà kỷ luật, tên Thái y tá mở cùm theo lệnh của tên Cẩn. Đứng ở cửa, tên
Cẩn quát, bắt tôi bỏ cả 2 chân vào. Cùm xong, trước khi y đóng cửa, tên Cẩn còn
quay lại gằn giọng:
-
Anh không coi chúng tôi ra cái gì cả!
Tôi
chỉ nói:
-
Thưa ông, đây là chuyện riêng của tôi và thằng…..
Tôi
chưa nói hết câu, y đã đóng cửa, đi rồi. Trong ánh sáng lờ mờ, tôi loay hoay,
cọ cựa đôi chân, tìm một cái thế dễ chịu một chút. Quả cái cùm này thật đáng
nể. Chả trách Lê Sơn đã nói: “Hitler có sống lại, còn phải quỳ xuống tôn tụi
này là tổ sư”. Chiếc cùm là một súc gỗ lim với những đai thép kiên cố, chắc
chắn. Một bề 35 phân, một bề 60 phân, có 2 khuy sắt, bằng loại sắt tròn, đường
kính 2 phân nằm gần phía 2 đầu. Vì thế phải có 2 then sắt cài, thọc vào hay mở
ra từ phía ngoài vách. Trông cái cùm giống như một cái hộp, nên anh em trong
trại còn gọi là cái cùm hộp. Nhìn nó thật thô sơ, nhưng quả thật là nguy hiểm,
vì nó chiếm từ cổ chân lên đến gần đầu gối. Hai đầu bàn chân lại đút vào 2 cái
lỗ đục sẵn nằm ở nửa súc gỗ phía trên. Do thế, khi bị cùm thì cái chân chỉ di
chuyển cựa quậy được trong khoảng 90 độ.
Tôi
đã từng tập luyện, kinh qua nhiều năm tháng với cái cùm ở Hỏa Lò do thực dân
Pháp chế tạo, nhưng với cái cùm này tôi cũng phải kinh hồn. Khi bị cùm, chẳng
khác gì như đi giầy ống. Còn một điều đáng sợ nữa, có rất nhiều rệp, nhưng
không thể cho ngón tay vào gãi và cũng không thể bắt rệp được. Đành chịu ngứa
ngáy cũng như để cho rệp hút máu. Trước đây nghe Lê Sơn nói, và nhất là kỳ Tết
vừa qua, nhìn thấy một số người bị kỷ luật được tha, thấy họ phải bò ra, không
đi, không đứng được. Tôi chẳng nói ra, nhưng trong lòng nghĩ: “họ yếu thật,
mình còn bị mấy năm với chiếc cùm ghê gớm ở Hỏa Lò v.v…”. Nghĩa là, chưa thấy
quan tài nên chưa đổ lệ. Ngồi ở dưới đấy giếng rồi tưởng trời chỉ nhỏ như cái
vung đậy nồi cơm của nhà mình vậy.
Bây
giờ đã quá trưa rồi, thấy cái bụng cứ kêu ọ ọ, ẹ ẹ như tiếng của những thân cây
tre làng cọ xiết vào nhau trong những tháng Hè, tôi mới chợt nhớ ra là, trưa
nay tôi chưa được ăn. Từ ý nghĩ này, tôi chợt nảy nghĩ đến tên Tân. Chết rồi!
Hàng ngày nó vẫn thường đưa cơm cho kỷ luật ăn. Chuyến này, hẳn tôi sẽ có nhiều
khó khăn với nó đây. Chân lại bị cùm, tôi phải nâng cao cảnh giác nghe ngóng
mọi hiện tượng, đề phòng mọi vấn đề. Với một tên tiểu nhân như vậy, tôi phải
coi chừng từ cơm ăn, nước uống và mọi thái độ ra vào của nó. Tuy thế, nghĩ lại
chuyện vừa qua, tôi vẫn bằng lòng, không hề ân hận một chút nào, vì đấy là
chuyện cuộc đời mà, chả trách được. Thấy việc phải làm thì cứ làm rồi kệ nó.
Chợt
thoáng có tiếng lịch kịch, rồi tiếng nước giải chảy tong tong vào ống nứa gần
phía đầu nhà kỷ luật làm tôi lạ lùng hết sức. Theo tôi biết kỳ Tết đã tha hết
mọi người trong nhà kỷ luật rồi cơ mà, còn mỗi bác Lê Tài Chương thì đã chết,
vậy ma hay là người? Nghĩ một lúc, tôi lên tiếng:
-
Anh bạn nào bị cùm ở phía trong ấy đấy?
Một
giọng ấm và cứng cất lên vồn vã:
-
Có tôi đây, anh vì sao phải vào thế?
-
Đánh nhau với tên Tân.
Tôi
cũng háo hức đáp lại anh. Lòng thấy vui hẳn lên, có bạn để nói chuyện, đỡ sầu.
Tôi hỏi lại anh:
-
Thế, anh bị kỷ luật vì chuyện gì?
Im
lặng một lúc rồi anh thủng thẳng:
-
Tôi cũng chẳng biết nữa, gọi đi là phải đi!
Tôi
vẫn chưa quên cái đói nên hỏi lại anh:
-
Anh ăn cơm chưa?
-
2 giờ mới có cơm chứ!
Tôi
hơi ngạc nhiên, nhưng tôi chợt hiểu. Kỷ luật chỉ được ăn một bữa mà thôi. Thế
mà bao nhiêu ngày ở ngoài, đã nói chuyện về kỷ luật ở đây với nhiều người, vậy
mà tôi cứ tưởng kỷ luật ở các trại trung ương vẫn ăn 3 bữa dù chỉ ít thôi. 9 kg
gạo cho 1 tháng. Thế mới biết trong cuộc đời, nhiều cái phải bắt tay mình làm
thực tế mới hiểu được hết chi tiết. Chỉ nhìn và nghe, chưa đủ!
Qua
một lúc chuyện trò, tôi biết tên anh là Vũ Đình Bách. Anh ở số 57 phố Hàng Đậu,
Hà Nội. Anh bị án tập trung với tội phản tuyên truyền, phản cách mạng, bị bắt
từ đầu 1963. Hiện nay anh ở toán 4 nông nghiệp, rất thân với anh bác sĩ Hiệp
cùng toán. Chính vì thế, khi tôi nói mới lên trại, anh đã biết ngay tôi là
Bình. Chỉ vì anh đã biết, tôi đã đấu cờ với anh Hiệp và bác Lẫm để tranh giải
cờ tướng trong dịp Tết vừa qua, cho nên anh nói chuyện với tôi rất cởi mở.
Khoảng
2 giờ chiều, có tiếng chìa khóa mở cửa nhà kỷ luật. Tôi ngồi bật dậy, quan sát,
nghe ngóng. Mắt tôi đã liếc nhìn cái ống nứa để đi giải, đang đựng phía đầu
sàn. Từ sớm, tôi đã có chủ định, với cái ống nứa duy nhất này để tự vệ, tôi chả
sợ tên Tân, dù y có dao, có gậy. Không ngờ người đưa cơm kỷ luật hôm nay lại là
tên Thái y tá. Một điều làm tôi ngạc nhiên hơn nữa là tên Thái lại tỏ ra niềm
nở, thiện cảm với tôi. Y cho biết tên Tân, tay còn đang bị bó thuốc. Rồi y tỏ
ra như tán đồng việc làm của tôi, nào là tên Tân quá lắm, hách dịch hay bắt nạt
tù, nhất là những bác già và những người dân tộc.
Chỉ
qua vài câu chuyện tôi đã thấy ngay tên Tân và Thái, cũng chẳng ưa gì nhau. Cái
không ưa nhau của những con chó tranh nhau để làm vừa lòng chủ, để cho chủ
thương, chủ hài lòng. Chuyện đó là của họ, chả nhằm nhò gì đến tôi, tôi chỉ
thấy một điều may. Chẳng hiểu có phải do sự nghiên cứu của ban giáo dục, sợ tên
Tân vào nhà kỷ luật làm liều để trả thù tôi, hay vì sao đó mà không để làm cho
tên Tân đưa cơm. Dù sao tôi cũng xin cảm ơn, điều này làm nhẹ hẳn nỗi lắng lo
từ sáng vẫn đè nặng trong lòng tôi về tên Tân.
Cái
cùm của Hoàng Thanh, quả thật là ghê gớm. Mới chỉ sau 6 tiếng đồng hồ cùm, hai
chân tôi đã cắn buốt như có nhiều mũi kim châm vào. Nó nhức nhối từ ở trong
xương, trong tủy, tôi có cảm tưởng từ đầu gối trở xuống đến bàn chân, ngón chân
máu bị đông đặc lại, máu ở bên ngoài không thể chạy xuống dưới đấy được. Chỉ
nằm xuống một tí là hai chân nóng lên rần rật, buốt ngứa như có hàng chục con
ong vàng đang đốt. Hai bàn chân tê, cắn như vậy, mà cái cùm quái ác này, không
làm sao với tay tới để xoa nắn được bàn chân của mình. Chỉ vì đôi chân không
thể nghiêng hẳn bên này hay bên kia cho nên cũng không thể co hẳn lại được.
Cái
nạn đi đái, đi ỉa mới thật đáng sợ, mặc dù sàn nằm đã được khoét một cái lỗ
đường kính khoảng 8 phân ngang chỗ hậu môn của người bị cùm. Mỗi khi muốn đi
đái hoặc ỉa, trước hết phải chịu đau, nhoài người với tay tới mé vách cầm cái
ống nứa, gò người xuống đút ống nứa vào gầm sàn, kê đầu vào một miếng gỗ đã
đóng sẵn, sao cho đúng lỗ chỗ mình ỉa hoặc đái xuống. Sau đó cởi quần, phải
nhích người sao cho tụt được quần xuống gần sát đầu gối. Khi ỉa hoặc đái phải
rướn người, chống hai tay xuống sàn lấy gân nâng đít lên thì mới rặn được. Mỗi
lần ỉa xong chẳng lẽ không rửa, mà một gáo dừa nước đổ rửa rồi mà ngay tay cũng
còn phân chưa sạch huống chi là đít vì không còn cái tay nào nữa để chống nâng
đít lên được. Cho nên mỗi lần ỉa, tuy không hề thấy tủi nhục, lòng tôi không hề
uất ức nhưng mắt tôi vẫn mờ đi vì nước mắt chảy ra do những co thắt của đường
gân thớ thịt.
Ai
đã nghĩ ra kiểu cùm này, giúp ý kiến Hoàng Thanh, hay chính Hoàng Thanh đã nghĩ
ra? Dù là ai thì cũng đáng được kính nể, chiếc cùm như một tuyệt tác góp phần
vào nền văn hóa mới của xã hội cộng sản đi đến mức tuyệt đỉnh.
Bụng
đói, chân nhức buốt, lúc đầu rệp cắn còn thấy ngứa, hay những con rệp đã ăn no
rồi, không cắn nữa thì tôi cũng chả nhìn thấy mà biết được. Chúng nó no hay
đói, cắn hay không cắn nữa thì tôi cũng đành chịu, vì chả có cách nào móc tay
vào trong súc gỗ để gãi hay để bắt chúng. Bù lại, trong cái heo hút, lủi thủi
một mình lại có anh Bách để chuyện trò. Mặc nhiên, tôi được có cái cảm nghĩ,
hiện đang có một người nữa cũng đang chịu những nỗi niềm cay đắng, nhức buốt
như mình là tự thấy lòng nhẹ đi được một nửa rồi. Tuy rằng anh Bách chỉ bị cùm
một chân, nhưng cũng gọi là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu mà lị! Vả
lại, anh Bách lại là một người kể chuyện rất hay. Anh đã kể cho tôi nghe rất
nhiều chuyện xẩy ra ở Hà Nội và của miền Bắc sau năm 1954 nên cũng quên được
phần nào cái nhức nhối của đôi chân và cái vặn vò, rên rỉ của dạ dầy đòi ăn.
Tôi
bị tên Cẩn cùm cả hai chân, có thể tên Cẩn đã ghét tôi từ trước. Phần khác, y
muốn trị cái tội dám đánh trật tự, người đại diện uy quyền của y ở trong trại.
29. Khách Yêu Hoa
Hôm
nay là Chủ Nhật, một Chủ Nhật không phải đi lao động xã hội chủ nghĩa vinh
quang. Nhưng không đi lao động thì không có ăn sáng. Quen mỗi buổi sáng có mấy
mẩu sắn nhét vào dạ dầy, hôm nay phải nhịn teo nên ai cũng bải hoải, rã rời.
Hầu hết mọi người, sau khi chờ cán bộ vào điểm số xong, đều nằm trở lại, để
ngâm dấm với cái bao tử rỗng. Cho nên lâu lâu có một Chủ Nhật được nghỉ lao
động thì vui thật; nhưng cái bụng lại bị lép kẹp thì chẳng còn vui mấy.
Tôi cũng nằm rán cho hồn bồng bềnh một lúc.
Chợt nhớ hôm nay sẽ gặp Lê Văn Kinh để biết sơ lược về vụ án người nhái ở sông
Gianh, tôi bò nhổm dậy, xuống giếng rửa mặt.
Ánh nắng sớm, đã nhuộm vàng mấy ngọn nứa phía
cuối sân. Nền trời xanh thẳm, cao ngất. Chéo phía tây, những lớp mây trắng đục
hình vảy cá, xếp đều đặn trông như một cái tổ ong khổng lồ. Phía trên của lớp
mây ửng lên, vàng chóe như viền của những chong đèn cù trong ngày hội. Cây rừng
yên ả không một làn gió, vài chiếc lá nứa mỏng dính, nhè nhẹ ngút ngắc, đong
đưa càng nói lên cái êm ả của một buổi sớm trong rừng già.
Ngoài sân, trong hội trường, đây đó cũng có vài
bóng người. Hẳn cũng như tôi, muốn gửi hồn vào thiên nhiên vắng lặng của buổi
sớm mai trong ngục tù. Những mầu sắc rực rỡ tươi rói dưới nắng Xuân của mấy
bông bách hợp đã kéo tôi lại bên luống hoa trước ngôi nhà số I. Một cây thược
dược ngay ở đầu luống chỉ chừng tuổi mười sáu, có một chiếc nụ còn buộc kín, trên
đầu hơi loe, thò ra một giải con con mầu tím xậm băng trinh. Bên cạnh là một
đóa hoa đến thì nở rộ, vươn cao. Những cánh hoa nhung mượt, tím ngắt, hơ hớ, e
ấp còn ngậm mấy giọt sương đêm, dáng dấp như một cô tiểu thư đài các, trâm anh
đang đứng cạnh mấy nàng thôn nữ cúc vàng đại đóa phía bên trong.
Một con bướm cánh vàng hoe, thân và đầu đen
thẫm, lả lơi rời bông hoa bách hợp kép để sà đến cô nàng thược dược đang lắc lư
đợi chờ. Cái mùi thanh thanh ngòn ngọt của thế phiệt trâm anh quyện chặt vào
cái mùi nồng nồng, ngầy ngậy của mộc mạc thôn dã phả dài vào ánh nắng Xuân. Hồn
tôi ngất ngây, quên cả thực tại đến nỗi, đã rỉ ra mấy câu thơ cóc nhẩy:
Muôn hồng ngàn tía, sắc hoa tươi,
Nhún nhẩy, đong đưa mỉm miệng cười.
Tôi còn đang thả hồn chìm lắng vào một trời sắc
hương thì một giọng nói đanh và ấm cất lên ngay phía sau lưng đã làm tôi tỉnh
hẳn một giấc mộng ngày:
- Trong mấy luống hoa này, anh thích loại hoa
nào nhất?
Tôi quay lại, hơi điếng hồn! Tôi không thể ngờ
vì đó là Hoàng Thanh, ông ta mỉm cười với tôi. Mắt tôi còn kịp thấy nhiều người
ở những cửa buồng, và ở phía xa xa đang nhìn về phía tôi và Hoàng Thanh. Ngay
đầu luống hoa nhà số II, từ nãy có 2 -3 người đứng cũng đã lủi đi mất.
Sau một giây bàng hoàng lúc đầu, vì tôi không
thể nghĩ Hoàng Thanh lại vào trại ngay buổi sáng sớm ngày Chủ Nhật như thế này.
Tôi lại liên tưởng đến cái ngày ông ta thả cùm tôi hơn nửa tháng trước, vì vậy
tôi cũng mỉm cười, gật đầu chào ông ta. Hoàng Thanh, nhìn như không cần chú ý vào
nét ngỡ ngàng của tôi, ông ta hất hàm vào luống hoa và nhắc lại câu hỏi khi
nãy.
Trong lòng tôi thực sự cũng hơi chờn, vì dù sao
thì y cũng là một tên hung thần ác ôn. Tôi định tìm một thế rút lui để tránh vạ
là hơn, nhưng nhìn mặt y lúc này rõ ràng cởi mở, không có mùi sát khí. Tôi tự
nghĩ, thì mình cứ nói chuyện đàng hoàng đã sao. Nghĩ thế, tôi ung dung trả lời:
- Thưa ông, mặc dù mấy bông hồng và vạn thiên
kim đẹp thật, nhưng tôi vẫn thích thược dược hơn. Cái đẹp của nó có vẻ khép
kín, khiêm tốn.
Mắt Hoàng Thanh sáng lên long lanh, đầu y gật
gật, nét vui lộ hẳn ra mặt:
- Riêng về điểm này, sao anh lại giống tôi thế!
Rồi như ý tưởng của y được khơi dậy, y vồn vã
kể lại cái ngày y được cử đi học ở bên Trung Quốc. Vì thích hoa, ngày Chủ Nhật,
y đã đạp xe đạp hơn 20 cây số để thăm một cái trại hoa khổng lồ ở ngoại ô Bắc
Kinh. Y kể, tả lại bao nhiêu loại hoa hiếm quý; rồi những buổi, y đi thăm những
vườn hoa ở Ngọc Hà, Hà Nội v.v… Khi có kẻ “đồng thanh tương ứng” đã làm cho tôi
say sưa cũng kể và tả lại những vườn hoa trác tuyệt của Đà Lạt mộng mơ mà tôi
đã có dịp đến thăm khi mới di cư vào Nam.
Từ những chuyện chuyên đề về hoa, khi đề cập
tới cái cao quý của bông sen, tôi liên tưởng tới những bộ hoa tứ bình. Hoàng
Thanh thấy tôi nói về tứ bình, y chặn lại hỏi ngay:
- Anh có hiểu nhiều về những bức họa của Việt
Nam và Trung Quốc không?
Tôi hơi chột dạ, vẻ ngượng ngập lúng túng lộ
ra:
- Thưa ông, về lãnh vực hội họa thì tôi chả
biết gì cả. Tôi chỉ thấy một bức tranh đẹp thì thích ngắm nghía chứ tôi chả
hiểu xuất xứ, nội dung của nó. Tôi chỉ biết mấy bộ tứ bình, vì hồi tôi còn ở
trong Nam, tôi có một người bạn vong niên làm sơn mài. Anh đã chỉ cho tôi biết
mấy bộ như: Cúc, Trúc, Lan, Mai và một bộ nữa là: Liên, Áp, Lộc, Tùng, Mai
Điểu, Trúc Tước.
Y quay lại hỏi tôi như khảo bài:
- Thế, anh có biết những bộ đó thuộc về thời
nào không?
Thật mình đã dốt, lại cứ muốn tỏ ra ta hiểu
biết nên đã thò đuôi ra cho y nắm:
- Thưa ông tôi không biết!
Hoàng Thanh coi như cái kém cỏi của tôi là
đương nhiên, dù tôi đã 30 tuổi đời nhưng đã có 6 năm nằm trong ngục tối. Bởi
vậy, y nói như giải thích:
- Hai bộ đó thuộc đời Đường!
Rồi một phần vì đang say sưa trong câu chuyện,
phần khác, cũng muốn khoe cái hiểu biết của mình, y niềm nở hỏi tôi:
- Anh có bao giờ nghe nói về “bát cảnh danh
họa” của Trung Quốc chưa?
Phần vì cũng hơi tò mò, phần nữa cũng muốn “đắc
nhân tâm” làm cho y vui lòng nên tôi lắc đầu, mắt mở to háo hức chờ đón. Hình
như tôi đã gãi đúng chỗ ngứa của y. Y quay lại dựa hẳn vào chiếc hàng rào nứa
của luống hoa. Rồi như y chuẩn bị để tôi có thể tiếp nhận hết được những ý
nghĩa tinh túy của những bức họa, y nói:
- Như anh đã biết đấy, trong cuộc đời cái gì
vui thì thường hay nông cạn, không có chiều sâu, người ta dễ quên đi. Bởi vậy,
những tác phẩm bất hủ của loài người thường có nội dung buồn. Nỗi buồn nó mới
gậm nhấm lòng người da diết. Sau mỗi khi y nói tên một bức họa, y lại vừa như
giải thích vừa như bình phẩm như sau:
1/ Tiêu Tương dạ vũ.
Đêm khuya mà mưa dầm trên sông Tiêu Tương thì
thật buồn.
2/ Yên tự vãn chung.
Tiếng chuông thu không trong một ngôi chùa vắng
thì buồn ơi là buồn.
3/ Giang Thiên mộ tuyết.
Một nấm mộ hoang, tuyết phủ bên một giòng sông
tịch mịch.
4/ Ngư thôn tịch chiếu.
Một xóm chài lưới đầu ghềnh phản chiếu ánh
chiều tà vắng lặng.
5/ Sơn thị tình lam.
Một cái chợ trên miền sơn cước; chiều tàn, dăm
chiếc lều xiêu vẹo, vài bóng người trên sườn đồi.
6/ Viễn phố quy phàm.
Một cánh buồm trôi về bến xa vời giữa cảnh trời
nước mênh mông.
7/ Bình sa lạc nhạn.
Trên bãi biển chiều vắng lặn, một cánh nhạn lẻ
loi lạc đàn.
8/ Động Đình Thu nguyệt.
Trăng thu trên hồ Động Đình. Tĩnh lặng chỉ có
tiếng cú kêu lẫn vào tiếng gió ngàn.
Theo Hoàng Thanh, cũng vào lần đi học ở Trung
Quốc 1957, y đã gặp một họa sĩ già đang bị nhà nước Trung Quốc quản chế ở Quế
Sơn đã cho y biết. Bây giờ đã là năm 1968. Như vậy đã 11 năm, mà y còn nhớ rành
rọt như nhớ một bài học thuộc lòng.
Tôi và Hoàng Thanh đứng cạnh luống hoa trước
ngôi nhà số I cứ miên man chuyện trò cho tới khi kẻng bom ở cổng rổn vang lên,
báo hiệu giờ lấy cơm trưa. Cả y và tôi đều choàng tỉnh, không ngờ thời gian lại
đi mau như vậy. Lúc đầu còn nói chuyện hoa, sau ra chuyện họa, mà họa thật.
Ngay từ buổi chiều hôm ấy, rất nhiều anh em trong trại đã nhìn tôi bằng ánh mắt
lạnh lùng, khinh khỉnh. Cả Lê Sơn, Quý Cụt, Nguyễn Huy Lân v.v… họ cũng có thái
độ lạnh lùng với tôi. Tôi thật buồn, làm thế nào để thanh minh được? May, chỉ
có bác Lẫm và Vân mới thông cảm với tôi. Mấy ngày sau, bác Lẫm đã gặp riêng
tôi, hỏi vẻ buồn trách:
- Sao Bình lại chuyện trò vui vẻ với Hoàng Thanh
như bạn vè thân thiết thế? Bình có biết rằng nó đã giết chết bao nhiêu người
của chúng ta rồi không?
Tôi cũng buồn, trả lời bác Lẫm, đây là một
chuyện hoàn toàn vô tình. Hơn nữa, theo sự suy nghĩ và quan điểm của tôi lúc
ấy: dù có phải giết nhau, nhưng chúng ta vẫn có thể lịch sự với nhau. Điều đó
chỉ chứng tỏ lòng mình, lập trường của mình đã được tôi luyện vững chắc rồi.
Tuy thái độ lịch sự, lời nói mềm mỏng nhưng nó có thép ở trong. Tuy thế, tôi
cũng đã thấy khuyết điểm của tôi. Tôi nhìn nhận, đó là bài học cho tôi.
Theo quan điểm của đại đa số anh em tù giai
đoạn ấy là không bao giờ được cười cợt, đùa bỡn với kẻ thù. Thái độ phải nghiêm
chỉnh, lạnh lùng khi phải tiếp xúc với cán bộ. Tôi là người ít nhiều có nghiệp
vụ để hoạt động chính trị. Tôi hiểu rằng, đôi khi để đạt được mục đích tối hậu,
có nhiều khi phải để quần chúng hiểu lầm mình. Nhưng phương cách ấy, ở đây, lúc
này không thích hợp. Tuy vậy, sự thật trước hay sau bao giờ cũng chỉ có một.
Bởi vậy, những ngày sau đó, anh em cũng đã dần dần hiểu ra nên đã trở lại bình
thường, chỉ có riêng tôi vẫn phải suy nghĩ về Hoàng Thanh. Tôi vẫn chưa trả lời
được vì sao, y đã tha cùm cho tôi, và vì sao y có vẻ có thiện cảm với tôi? Suy
nghĩ hướng nào cũng có mâu thuẫn, chỉ có thể tạm chấp nhận cái lý, tình cảm
riêng tư đặc biệt của mỗi người, mà nhiều khi chính người đó cũng không lý giải
được. Mặc dù cùng gặp một lúc, chưa hề tiếp chuyện nhưng tôi lại ưa người này,
mà lại không ưa những người kia, làm sao mà giải lý? Cũng có thể là một con cáo
già cao tay nên đã làm mờ cái nhìn của tôi, đã không thể nhìn rõ được y chăng?
Thời gian và sự việc tôi sẽ làm sáng tỏ.
30. Vụ Án Sông Gianh
Cũng
vì buổi sáng hôm Chủ Nhật đó, tôi nói chuyện với Hoàng Thanh nên đã quên buổi
hẹn với Lê Văn Kinh. Chiều hôm ấy, tuy Kinh và tôi có gặp nhau nói chuyện ở hội
trường, nhưng Kinh tiếp tôi như một sự gắng gượng, thiếu hẳn nét cởi mở của
những ngày trước. Tôi hiểu rằng, cái nguyên nhân chính cũng chỉ vì cái buổi nói
chuyện của tôi với Hoàng Thanh khi sáng. Chính vì thế, tôi biết nội dung sự
việc của Lê Văn Kinh chỉ sơ lược, nhưng sau tôi đã gặp đám thủy thủ cùng vụ với
Kinh. Trong đám thủy thủ này lại có nhiều người đã đưa tôi ra Bắc trước đấy mấy
tháng nên vụ án sông Gianh lại tương đối có chi tiết. Nội dung chính như sau:
Đây là một trong những kế hoạch đầu tiên, trong
chủ trương dùng Người Nhái bất ngờ xâm nhập bờ biển miền Bắc của cộng sản để
phá hoại những công trình quân sự, để trả đũa phía cộng sản đã thành lập mặt
trận giải phóng và càng ngày càng gia tăng quấy phá miền Nam.
Do những tin tức tình báo và do những tấm không
ảnh chụp được của máy bay Mỹ, nên đã nhìn rõ về giòng sông Gianh. Giòng sông đã
đi vào lịch sử của dân tộc, nó đã làm mốc ngăn chia đất nước trong giai đoạn
chúa Trịnh và chúa Nguyễn phân tranh.
Cơ quan tình báo trung ương của miền Nam phát
giác, phía sâu trong nội địa hàng chục cây số, trên giòng sông Gianh có một số
tầu thuộc hải quân miền Bắc. Từ căn cứ sâu hiểm này, những chiếc tầu đó lén lút
chuyển vũ khí vào miền Nam qua những mật cảng trong khu vực ranh giới của Việt
Nam và Kampuchia. Để triệt hạ tại gốc, tình báo miền Nam hoạch định một công
tác đặc biệt: dùng Người Nhái bí mật đột nhập vào sông Gianh, dùng hải mìn đánh
chìm những chiếc tầu này.
Sau nhiều ngày nghiên cứu tuyển lựa, tình báo
Sài Gòn đã chọn được 4 Người Nhái quả cảm và có nhiều kinh nghiệm:
1/ Lê Văn Kinh, dân sự, cao 1 mét 82, nặng 73
kg. Anh đã đạt nhiều thành tích trong những công tác thủy chiến ở miền Nam.
2/ Nguyễn Văn Tâm, quân sự, cao 1 mét 78, nặng
70kg. Một huấn luyện viên Người Nhái đã tình nguyện tham gia công tác đặc biệt
này.
3/ Nguyễn Văn Thảo, quân sự, cao 1 mét 78, nặng
68kg. Một con rái biển của biệt hải miền Nam.
4/ Võ Chuyên, quân sự, cao 1 mét 75, nặng 70
kg. Một hung thần xung kích. Do truyền thống gia đình đã có nhiều hận thù sâu
nặng với cộng sản, anh đã có nhiều lần tử chiến với quân cộng sản. Ngực anh đã
xâm hai chữ “sát Cộng”, thề không đội trời chung với kẻ thù là lũ Cộng khát
máu.
Trong số 4 người quả cảm, ưu tú của Người Nhái
được tuyển chọn này, có hai anh Tâm và Chuyên những năm trước đấy đã được đi dự
khóa luyện đặc biệt đầu tiên về biệt hải ở Đài Loan. Khi đó các anh còn trong
liên đội quan sát I do Thiếu tá Phạm Văn Phú làm liên đội trưởng và đại úy Lê
Văn Tất làm liên đội phó, trực thuộc sở khai thát địa hình do Đại Tá Lê Quang
Tung chỉ huy.
Các anh được huấn luyện bổ sung và thực tập
công tác ở một doanh trại đặc biệt bên Mỹ Khê, Đà Nẵng. Ngoài những huấn luyện
viên về chuyên môn, người trực tiếp chỉ huy là ông Phan và ông Lý (ông Phan
cũng là người đưa tôi đi ở Đà Nẵng, ông Lý tôi cũng đã nói tới nhiều lần khi
tôi còn ở Đà Thành), và một người cố vấn Mỹ tên là Robert, cũng là một con cá
kình của Người Nhái Mỹ.
Vào một ngày cuối tháng 10 năm 1962. Khoảng 10
giờ sáng tại một bến hẻo lánh bên biệt khu hải quân gần Sơn Trà, Đà Nẵng, cả
ông Phan, ông Lý và Robert cố vấn đã hân hoan, niềm nở cùng 4 chúng tôi (từ đây
là lời Lê Văn Kinh) sắp xếp, chuẩn bị với những vật dụng trang bị từ vũ khí đến
hải mìn. Chiếc hải thuyền đưa chúng tôi đi, trang bị như nhiều thuyền đánh cá
khác ở những vùng ven biển. Thủy thủ đưa chúng tôi gồm 10 người, trong đó có
bác Vương Tiến An làm thuyền trưởng và anh Nguyễn Dụ là thợ máy. (Anh Dụ này
cũng là thợ máy trong chuyến đầu tiên của tôi đổ bộ hụt ở ranh giới 2 huyện Kim
Sơn và Nga Sơn). Khi đó tôi chỉ biết tên anh là Tarzan theo Phan gọi.
Đặc biệt trên hải thuyền có một chiếc thuyền gỗ
con. Chiếc thuyền gỗ này làm giống hệt theo kiểu những chiếc thuyền con dùng để
đánh đáy ở các cửa sông ngoài miền Bắc. Theo kế hoạch, khi hải thuyền đến ngang
cửa sông Gianh sẽ lảng vãng ở ngoài khơi chừng 15 hay 20 cây số. Thả chiếc
thuyền con xuống biển, bên trên vờ có 2 người ngồi chèo thuyền, nhưng thực tế,
thuyền lắp ngầm một máy cực mạnh, có thể chạy 10 – 12 hải lý giờ.
Chiếc thuyền con sẽ tùy theo hoàn cảnh của từng
đoạn đường, lúc dùng máy, lúc dùng chèo len lỏi vào cửa sông, lẫn vào những
thuyền đánh đáy khác. Cứ thế rồi tiến sâu dần vào mục tiêu để thực hiện công
tác. Theo quy định đã được phân nhiệm rõ ràng khi còn ở trong phòng hành quân ở
Mỹ Khê thì:
Anh Võ Chuyên là toán trưởng. Anh Nguyễn Văn
Tâm là toán phó. Khi đến mục tiêu thì cả 4 người, mỗi người sẽ ôm một hải mìn
nổ chậm. Loại mìn này có chỗ điều khiển, bấm nút để điều chỉnh thời gian mìn
nổ. Mỗi hải mìn nặng trên 3 kg. Sau khi quan sát tại chỗ, anh Võ Chuyên chỉ
định từng mục tiêu cho mỗi người. Cuối cùng chính anh cũng phải ôm một hải mìn
đến đặt, để phá một chiếc tầu mà chính anh đã tự nhận.
Sau khi ông Phan, Lý và Robert đã kiểm tra lại
đầy đủ mọi vật dụng cho chuyến đi là những cái bắt tay nồng nhiệt, những lời
chúc thành công và hẹn ngày mai, cũng vào giờ này sẽ ra đây đón do những người
ở lại. Chúng tôi rời bến hải khu lúc 11 giờ, cái lúc mặt trời đang mở to mắt,
quắc lên từ trên cao nhìn thẳng xuống hải thuyền. Trên hải thuyền còn lại tất
cả 14 người gồm, 10 thủy thủ và 4 chúng tôi. Con thuyền rẽ sóng âm thầm ra
khơi, hướng về phía Bắc.
10 giờ 15 phút tối hôm đó, bác An thuyền trưởng
báo cho chúng tôi biết là thuyền đang ở ngoài khơi cách cửa sông Gianh từ 15
đến 20 cây số. Chúng tôi khẩn trương chuẩn bị hành trang, đồ nghề. Cuối cùng,
chúng tôi hè nhau đẩy chiếc thuyền con từ trên thuyền lớn xuống biển.
Đã được phân công từ trước, 3 người thủy thủ to
khỏe, nhanh nhẹn tháo vát sẽ chèo và lái thuyền con đưa chúng tôi đến mục tiêu.
Ba anh thủy thủ, sau này chúng tôi được biết tên là Hoàng Bài, Trịnh Văn Truyện
và Nguyễn Dụ là thợ máy. Thuyền con rời hải thuyền lúc 10 giờ 35 phút.
3 thủy thủ, 4 chúng tôi gồm tất cả là 7 người,
trên chiếc thuyền con, mở máy lầm lủi, tiến sâu vào cửa sông Gianh. Hơn 1 giờ
sau, trong cái lấp loáng mờ ảo giữa nước với trời, chúng tôi đã nhìn thấy những
ánh đèn đầu le lói của những chiếc thuyền đánh đáy ngoài cửa sông. Chúng tôi
cùng bảo nhau, một mặt tắt máy đi, mặt khác cũng thắp lên ngọn đèn con như
những thuyền của họ.
Len lỏi qua những bè đáy, có lúc rất gần, chúng
tôi trông thấy cả những bóng người ngồi trên những con thuyền nhỏ đánh đáy.
Theo những hoạch định ngay từ ngoài khơi, 4 chúng tôi và anh Hoàng Bài nằm sát
xuống sạp thuyền, che bạt ở trên. Như vậy, trông xa chỉ có anh Nguyễn Dụ và
Truyện chèo thuyền. Tuy chúng tôi nằm, mà lòng vẫn bồn chồn, hồi hộp, căng
thẳng trong những giờ phút đã tiếp cận với kẻ thù. Thậm chí, có lần chúng tôi
còn nghe thấy cả giọng Quảng Bình nặng chịch hỏi ré lên:
- Sao về sớm rứa!
Tiếng hỏi thọc sâu vào tiếng sóng rầm rì; chúng
tôi đều bảo nhau là hãy im lặng không trả lời. Qua được vùng đáy, thuyền chúng
tôi đã vào hẳn bên trong cửa sông. Mập mờ, hai bên bờ sông, cảnh vật thấp
thoáng chìm trong màn đêm và sương đục. Cửa sông Gianh rộng đến hàng cây số,
nhưng càng sâu vào trong, càng hẹp lại. Vắng lặng, chỉ có tiếng gió thì thầm
nói chuyện với tiếng sóng đêm, chúng tôi ngồi hết cả dậy, mở máy tiến vào mục
tiêu. Trong cái mờ ảo của bóng đêm trên mặt sông, xa xa, chúng tôi đã nhìn thấy
một vài ánh đèn lấp ló trên cao, khoảng ngang mái nhà. Kinh nghiệm cho chúng
tôi biết, đấy là những chiếc đèn canh đêm trên chòi lầu.
Lúc này đã 12 giờ 15 phút, thuyền chúng tôi
giảm ga, giảm tốc độ, cho tới khi chúng tôi đã nhìn rõ những chiếc tầu thân xám
xậm đang nằm say sưa ngủ trên mặt sông. Nước thủy triều đang dâng lên cao, tắt
hẳn máy, dùng chèo, chúng tôi tiến sát gần những chiếc tầu. Trong một cái hủng
sông phía bờ trái, có nhiều cây dại mọc trùm xuống mép nước, chúng tôi lần mò,
lách thuyền vào. Thuyền chúng tôi chỉ cách những chiếc tầu của địch từ 100 đến
150 mét là cùng. Trong màn sương đêm, chúng tôi đều trố mắt quan sát toàn bộ
khu vực có thể nhìn được, không kể những chiếc thuyền gỗ nhỏ, chỉ có 6 chiếc
tầu, 3 chiếc khằm xuống hẳn, vì chứa đầy hàng bên trong.
Khi đã hiểu rõ tình hình và điều kiện tại chỗ,
anh Võ Chuyên đã phân công rõ ràng: Lê Văn Kinh và Nguyễn Văn Tâm có nhiệm vụ
gắn mìn, phá 2 chiếc tầu chéo phía trong cách khoảng 150 chục mét. Nguyễn Văn
Thảo và chính anh Chuyên sẽ phá 2 chiếc ngay phía trước mặt, chỉ cách 90 đến
100 mét. Hai chiếc này thật to, mỗi chiếc dài đến 30 mét, lại chở nặng khẳm.
Theo quy ước đã đồng ý với nhau khi mọi người
rời thuyền con: sau khi dùng chuyên môn gắn hải mìn vào nơi thân tầu đã quy
định. Để thời gian nổ chậm là 2 giờ rồi bấm nút, rời mục tiêu, bơi ngay về chỗ
thuyền con. Phòng hờ một vài trục trặc bất ngờ, nên đã đều nhất định để thời
gian mìn nổ là sau 2 tiếng đồng hồ. Thực ra, thời gian bơi đến mục tiêu, gắn
mìn, rồi trở về thuyền con, thuyền con chạy ra thuyền mẹ là hải thuyền đang chờ
ở ngoài khơi chỉ hết khoảng 1 giờ 30 phút đến 1 giờ 40 phút là cùng. Nghĩa là
khi hải mìn nổ, thì cũng là lúc hải thuyền đang trên đường trở về Đà Nẵng rồi.
Tính ở trên là tính theo cái lẽ thông thường
của cuộc đời. Tính nước chảy xuôi theo giòng, mà cuộc đời lại vẫn có cái lẽ
không thường của nó và những giòng nước chảy ngược lại thì ít ai tính được. Bởi
vậy, (từ đây theo lời của các anh Truyện, Hoàng Bài và Nguyễn Dụ- ba người thủy
thủ còn lại trên chiếc thuyền con. Sau này, 1972, tôi gặp ở trại chính Phố Lu
thuật lại) khi các anh Kinh, Tâm và Thảo đã xuống nước bơi đi đến 5 – 10 phút
rồi, anh Võ Chuyên mới đeo các đồ nghề Người Nhái, ôm mìn tụt xuống nước.
Sau khi anh Chuyên đã xuống nước rồi, bơi được
hơn một chục mét, không hiểu nghĩ thế nào, anh lại bơi quành trở lại thuyền, ra
hiệu cho anh Truyện trao cho anh khẩu tiểu liên ở trên thuyền mà anh muốn mang
theo. Anh Truyện vừa trao khẩu súng cho anh Chuyên, thình lình một ánh sáng
vàng chóe, loáng lên trong đêm đen. Rõ ràng, anh Truyện nhìn thấy chiếc tầu lớn
phía trước mặt được phân công cho anh Thảo đặt mìn phá, bỗng dưng nhẩy chồm lên
khỏi mặt nước, một tiếng nổ tưởng xé màng tai. Một làn hơi ép xô mạnh đến làm
quay ngang chiếc thuyền con đang ở cách chiếc tầu đến 90 mét. Cả một khoảng
sông sóng cuộn lên. Chúng tôi nhớn nhác mất cả tinh thần, vội vàng kéo anh
Chuyên lên thuyền. Nhìn về phía anh Tâm và Kinh, trời tối đen kịt, không thấy
bóng dáng các anh đâu. Nước lại chảy xiết, lúc này khắp nơi vang lên tiếng kêu,
gọi nhau, tiếng quát tháo inh ỏi rồi tiếng còi hụ báo động ong ỏng rên lên.
Thấp thoáng đã có những vệt đèn pin vạch kẻ màn đêm chằng chịt thành nhiều nét.
Chúng tôi trên thuyền con đã hơi chợt hiểu. Có thể anh Thảo, trong lúc chìm sâu
dưới đáy nước tinh thần lại căng thẳng nên đã điều chỉnh, bấm nút nhầm từ 2 giờ
như đã quy định thành 1 phút hay 2 phút. Và như vậy, hẳn rằng thân xác của anh
cũng đã tan theo quả mìn định mệnh, không những phá được tầu của địch mà còn
giết cả người đặt mìn.
Do chúng tôi suy đoán như vậy, cho nên chúng
tôi chỉ hướng về nơi các anh Tâm, Kinh đón các anh rồi tẩu vi thượng sách. 5
phút, 10 phút tình thế nước sôi, lửa bỏng, nhưng vẫn bặt dáng các anh. Chúng tôi
suy đoán, có lẽ vì nước chảy quá mạnh, các anh khó bơi ngược trở lại thuyền
con, vì vậy, chúng tôi chèo thuyền con về phía các anh để đón. Nhưng trong đêm
tối mịt mù, lúc này khoảng gần 2 giờ đêm. Thời gian như căng trên sợi chỉ,
không thể cho phép chúng tôi chờ chực được nữa. Nhất là khi đã có vài tràng
súng AK đanh đanh thọc vào sông nước, vắt vào đêm trường, kết hợp với những
tiếng máy ca nô khởi động rú lên. Bốn chúng tôi quay mũi thuyền trở ra và mở
hết tốc độ…chuồn.
Trên đường tháo chạy, đã có những chiếc ca nô
rượt theo bắn đuổi. Do sự bắn trả quyết liệt của anh Chuyên, nên chúng nó đuổi
rất chậm. Chúng tôi lại không có súng (đến đây là lời tường thuật của anh
Truyện, thủy thủ). Khoảng 3 giờ 30 sáng, thuyền con của chúng tôi chạy ra tới
thuyền mẹ. Lúc này, rất nhiều tầu và ca nô từ trong bờ, vừa tiến ra bao vây vừa
bắn xối xả. Cả đại liên lẫn tiểu liên, đạn réo lên ào ào về phía thuyền của
chúng tôi. Chúng tôi vừa bắn trả, vừa mở máy tối đa chạy về hướng Nam. Dọc
đường, gặp những ca nô và thuyền từ trong bờ xông ra chẹn đường chúng tôi về.
Với một ý chí quyết tử, chúng tôi mở máy xông bừa vào thuyền chúng. Trước sự
dũng mãnh thà chết của chúng tôi, chúng phải tránh dạt để thuyền chúng tôi đi.
Trời sáng dần, rồi mặt trời ngoi lên nhìn rõ
cảnh và vật. Phía sau chúng tôi, lổm nhổm nhiều tầu và ca nô biên phòng của
cộng sản đuổi theo. Thuyền chúng tôi chỉ có 4 khẩu tiểu liên của 4 Người Nhái.
Ba khẩu của các anh Tâm, Kinh, Thảo để lại thuyền, chúng tôi là thủy thủ, hầu
hết là dân sự, chỉ chuyên nghề chài lưới, vì thế, anh Chuyên đã chỉ bảo cấp tốc
cách xử dụng tiểu liên để chiến đấu trong giờ phút ngồi trên nồi rang này.
10 giờ, rồi 11 giờ, lù lù, một đoàn tầu 4 chiếc
của hải quân cộng sản từ Đồng Hới tiến ra chận đường của chúng tôi. Nhìn chiếc
hải thuyền nhỏ bé, với những chiếc tầu to nhỏ phía trước, phía sau, tôi có cảm
tưởng chiếc hải thuyền như con nai tơ đơn độc bị một đàn sói thèm thịt bao vây
trên thảo nguyên bao la hoang vắng, không còn một hướng, một phương nào cho con
nai vàng chạy thoát.
Vòng vây càng lúc càng siết chặt dần, nhất là
lúc này trên hải thuyền đã có 3 – 4 người bị thương. Anh Chuyên đã bị một viên
đạn đại liên gẫy nát cánh tay trái. Tôi (tức Truyện) bị một viên đạn AK bắn
rách hông, xuyên vào ngực phía phải anh Hùng đang đứng phía sau. Tầm viên đạn
oan nghiệt sau khi vào tôi đã yếu đi, nên đến ngực anh Hùng nó không đủ sức
xuyên qua. Hải thuyền đã bị vỡ nát nhiều chỗ, vì vậy, chúng tôi đành đau đớn
nhìn nhau để mặc cho đời trôi theo giòng nước chảy ngược.
Lúc những tên cộng sản đầu tiên bước lên hải
thuyền, cũng là lúc một phát súng chát chúa giật lên, làm choáng hồn mọi người.
Những tên cộng sản thụt lùi lại mấy bước, mặt nhớn nhác. Chúng tưởng chúng đã
bị lọt ổ phục kích. Nhưng đó chỉ là phát súng cuối cùng của anh Chuyên đã tự
kết liễu đời anh. Anh đã thực hiện đến cùng lời thề thiêng liêng của giòng họ:
không đội trời chung với cộng sản.
(Xin nghiêng mình, cúi đầu trước anh linh của
anh. Anh đã quyết tử để làm vẻ vang, sáng chói lý tưởng tự do bất khuất trước
bè lũ cộng sản khát máu.. Nhớ xưa (1958), cái ngày nền đệ nhất Việt Nam Cộng
Hòa của chúng ta trăm hoa còn rộ nở khắp nơi nơi ở miền Nam, anh đã chiếm giải
nhất trong một cuộc thi lực sĩ đẹp, và người nữ sinh hoa khôi của miền cát
trắng hiền hòa Nha Trang đã e ấp choàng vòng hoa danh dự vào cổ người trai
hùng. Rồi những sắp xếp của duyên đời để anh và giai nhân ấy đã nên duyên chồng
vợ, làm xôn xao lòng ngưỡng mộ của miền Thùy Dương một thời. Anh chị đã có hai
mặt con. Ngày nay, sau gần ba chục năm dài, chị và hai cháu đang ở đâu? Còn
sống hay thế nào? Chị và hai cháu có biết rằng anh Chuyên đã anh dũng nằm xuống
cho quê hương? Chị và hai cháu hãy ngửng mặt lên với lòng tự hào đã có một
người cha, một người chồng sống bất khuất xứng đáng nhưng khi anh phải nằm
xuống còn làm cho kẻ thù kinh hồn, run sợ.)
Chúng trói giặt cánh khuỷu từng người, rồi đưa
chúng tôi vào trong bờ. Khi vào đến bờ thì anh Hùng đã chết rồi, có lẽ viên đạn
đã lọt vào phổi của anh. Như vậy, anh Hùng cũng đã thực hiện được ý định của
anh trước đây. Anh là người vượt tuyến vào Nam năm 1960. Khi anh đã đến được bờ
của đất Tự Do, anh có tự hứa rằng: rồi đây, thà anh chết cho tự do, còn hơn
sống trở lại chế độ cộng sản. Những năm, tháng trước đây, mỗi khi anh thổ lộ
tâm sự anh thường nói với mọi người như thế.
Chúng đưa chúng tôi về trại giam Quảng Bình,
giam riêng mỗi người mỗi nơi. Riêng tôi, có lẽ phần vì bị thương, phần khác tôi
chỉ là một người đưa thuyền nên chấp pháp chỉ xuống buồng hỏi sơ 4 -5 lần về lý
lịch cũng như sự việc. Mãi hơn 2 tháng sau tôi được đưa ra xử trước tòa án nhân
dân ở Quảng Bình tôi mới gặp lại anh Tâm và anh Kinh.
Đến đây về phía Lê Văn Kinh tường thuật lại:
sau khi tôi nhận hải mìn, tôi và Nguyễn Văn Tâm
bơi về phía 2 chiếc tầu mục tiêu của chúng tôi. Khi gần tới chiếc tầu, tuy
chẳng cần ai phải nói với ai. Do những kinh nghiệm qua nhiều lần công tác,
chúng tôi đều im lìm lặn xuống nước, vì sợ bất ngờ người canh gác ở trên tầu
nhìn thấy. Mục tiêu của tôi và Tâm tuy cùng một hướng nhưng cũng ở cách xa nhau
hàng 5 chục mét, trong khi chỉ cần 5 mét đã không nhìn thấy người rồi. Khi tôi
bơi đến sát con tầu mục tiêu của tôi, tôi lặn xuống phía đáy. Tôi đang chuẩn bị
gắn hải mìn vào chiếc tầu thì đột nhiên như có người dùng cái vồ dầm, phang
mạnh vào đầu tôi. Tôi không thở được nữa, tay tôi buông rơi cả hải mìn và hồn
tôi dật dờ, lãng đãng lạ lùng, rồi tôi không biết gì nữa. Một lúc, tôi mơ màng
mở mắt ra, trời đen kịt, tôi không biết đâu là phương hướng. Tay tôi sờ thấy bờ
đất và tôi tỉnh dần. Trong cái hỗn mang của sự sinh tồn, tôi thấy cần phải bơi
về phía chiếc thuyền con, điểm hẹn sau khi đã gắn mìn.
Khi tôi bơi về đến nơi thì thuyền con mất hút,
tôi hoang mang, mất tinh thần. Tôi bơi khắp đây đó mò mẫm trong bóng đêm để tìm
con thuyền cứu mệnh. Nhưng nỗi lòng của tôi cũng đen tối như đêm đen lúc này.
Trong bóng đêm, tiếng hò hét, tiếng quát tháo xen lẩn tiếng máy tầu nổ râm ran.
Thỉnh thoảng xa xa vài tràng súng AK ré lên, vọng lại, càng làm cho hồn tôi
kinh đảm tái tê. Tôi lạc lõng, bơ vơ nhìn vào đêm tối. Tôi thấy rõ đời mình
đang lăn đi bằng ánh mắt não nề, xót xa. Người tôi rã rời, đầu tôi tê dại, bồng
bềnh. Tôi tấp mình nằm im trong một hốc cỏ dại mé sông. Trời càng sáng thì đời
tôi càng đen thẫm lại. Chúng đã tìm thấy tôi, chúng hè nhau lôi tôi lên bờ.
Chúng nó đạp, đá; chúng nó lấy báng súng phang tôi lia lịa, cuối cùng tôi ngất
đi. Đến khi tôi tỉnh lại thì chúng đã trói gô giặt 2 tay về phía sau từ bao giờ
rồi, chúng giong tôi về trại giam Quảng Bình. Tôi nhớ rõ, khi tôi tỉnh lại, tôi
thoáng thấy anh Tâm cũng đang bị một đám đông vây lại đạp, đánh. Rồi mỗi người
mỗi hướng từ đấy. Vì có nhiều người cùng bị bắt trong một vụ, nên chúng khai
thác chả khó khăn gì. Không thể che dấu được gì khi chúng lấy người này để khai
thác, gài bẫy người kia. Cuối cùng ai cũng phải khai thực hết. Chính vì vậy,
chỉ hơn 2 tháng sau, chúng đã đem vụ án sông Gianh ra xử. Phần khác vì lý do
chính trị chúng muốn đưa những tội phạm ra xử sớm để trấn an lòng người và
tranh thủ lẽ phải đối với dư luận thế giới.
Phiên tòa chúng tuyên truyền rầm rộ, mời nhiều
phóng viên ngoại quốc và dân chúng tham dự đông đảo. Sau một ngày, qua những
thủ tục, hình thức xỉ vả, huênh hoang đe dọa, nâng lên, đập xuống của lũ vẹt
không hồn, không tim chúng kết án:
Nguyễn Văn Tâm, chung thân. Vì đã gài xong mìn,
mà chúng đã tháo gở kịp trước thời gian.
Lê Văn Kinh, 20 năm.
Nguyễn Dụ, thợ máy, 12 năm.
Hoàng Bài, Trịnh Văn Truyện, mỗi người 6 năm.
Bác Vương Tiến An già, 5 năm.
Thủ, Hoàng, Thiêm v.v… mỗi người 3 năm.
Xử xong, chúng chuyển cả nhóm về Hỏa Lò, rồi
chuyển lên trại Mỏ Chén, Sơn Tây. Đến năm 1966, chúng lại chuyển anh em thủy
thủ và Tâm lên trại Yên Thọ, thuộc tỉnh Phú Thọ. Riêng Lê Văn Kinh thì được
chuyển về phân trại E thuộc trại trung ương số I, Phố Lu, Lào Cai này.
31. Một Chuyện Tình Trong Chế Độ Ưu Việt
Sáng
hôm nay khi toán 2 xuất trại, lúc toán ra khỏi cổng trại đi gần đến cổng khu
thủ công. Những anh đi đầu của toán đã bắt đầu quay rẽ vào cổng, tôi bỗng thấy
anh em trong toán xôn xao hẳn lên. Nhất là cậu Toàn và Châu, cứ rên lên ư ử. A,
đây rồi, ở phía con đường dẫn ra trại chính, có một đoàn tù nữ khoảng hơn một
chục chị, tuổi từ 20 đến 30. Đi phía sau có một bà cán bộ quản giáo chừng 30
tuổi. Đoàn tù đang đi rẽ vào một con đường dẫn ra phía sau khu nhà của ban giám
thị. Tôi hơi ngạc nhiên, hơn 3 tháng tôi đến trại này, hôm nay tôi mới nhìn
thấy một đoàn tù nữ vào trại E. Hầu như chả có con mắt nào của đoàn tù toán 2
lại không hướng nhìn về phía đoàn tù nữ chằm chằm, kể cả hai tên công an vũ
trang và tên quản giáo Kích đi phía sau toán.
Lê Sơn đi bên cạnh tôi, mắt cũng đang đờ đẫn
nhìn về phía đoàn nữ tù ấy. Tôi không kìm hãm được sự háo hức, muốn biết tại
sao lại có đoàn nữ tù này, nên đành phải bất lịch sự với Lê Sơn. Tôi đập vào
tay anh hỏi khẽ nhưng cũng đầy sôi nổi:
- Họ làm gì mà vào đây thế?
Anh chẳng trả lời tôi, mắt anh vẫn hướng về
phía xuân xanh ấy. Nhìn mắt anh, tôi có cảm tưởng nó lồi hẳn ra và bất động như
mắt giả. Hình như anh không nghe thấy cả câu tôi vừa hỏi. Toán 2 đã đi vào cổng
lán, vậy mà còn nhiều cái đầu vẫn ngoái lại phía sau như người ta vừa nhìn thấy
một cái vật gì quý lắm, kỳ vĩ lắm trong cuộc đời này không bằng. Cũng như miếng
ăn, khi người ta bị đói nhiều ngày, cho nên cái uy lực của nữ giới lúc này cũng
thật kinh hồn! Rồi cả buổi sáng và cả buổi chiều, suốt ngày cái chủ đề phụ nữ
đã trở thành chính yếu trong lúc bàn tán hay chuyện trò của toán 2. Nhân thế,
hôm nay qua Lê Sơn và Quý Cụt tôi mới biết thêm được nhiều vấn đề của trại. Chỉ
có tôi mới thực là ngố Tầu, mãi hôm nay tôi mới hiểu, thường ngày vẫn có một
đoàn nữ tù từ trại nữ vào chỗ lán may (phía sau khu nhà giám thị) vừa học may
do một anh tên Hoàng Xuân Oánh ở trong trại E chỉ dạy và phụ trách.
Thảo nào, những ngày trước đây, có lần tôi thấy
một anh chừng 4 chục tuổi từ ngoài cổng trại đi vào một mình, khi trại đã sắp
điểm vào buồng lúc chiều muộn. Anh Đồng thì phải, có chỉ anh đó nói là Oánh thợ
may, án chung thân, rồi tôi không để ý nên cũng quên đi.
Thường thường mọi khi, đám tù nữ thợ may này
vào đến trại này cũng đã 8 giờ là lúc toán 2 đã vào lán thủ công làm việc được
hàng giờ đồng hồ rồi. Chiều 4 giờ toán nữ đã trở về K2 (trại nữ), trong khi
toán 2 mãi 5 giờ mới nghỉ tay lao động. Do thế, chả bao giờ gặp nhau hay trông
thấy nhau. Hôm nay, hẳn bên đám tù nữ có một chuyện gì đặc biệt nên mới vào sớm
như vậy, để rồi đã gây ra một mối bất an trong lòng những người tù toán 2 trong
một số ngày.
Cũng ngày hôm nay tôi mới hiểu được sơ sơ về
anh chàng Oánh này, khi tôi tỏ vẻ trầm trồ ca ngợi cái vị trí ngon lành, độc
đáo được phụ trách một đoàn tù nữ trong giai đoạn hạn hán, hanh khô này của anh
ta. Tôi nói như vậy, thực ra cũng không ngoa, không cường điệu. Ông bà mình
thường nói “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, đấy là trong lẽ bình thường của
người đời. Trong trường hợp này thì khí thế còn cao hơn nhiều. Những người tù
nam và những người tù nữ, hàng tháng, hàng năm, có khi hàng chục năm không
trông thấy nhau. Họ là những người tù chứ không phải đi tu, thì phải nói là như
lửa vời dầu xăng ấy chứ. Hễ cứ để gần nhau là tất nhiên phải nổ!
Vụ án của Hoàng Xuân Oánh cũng một thời sôi nổi
điển hình của thành phố Hải Phòng năm 1960. Oánh là chủ nhiệm một hợp tác xã
may mặc lớn ở Hải Phòng. Anh ta có một người vợ trẻ với đứa con một tuổi. Khi
người vợ có mang, rồi đến ngày khai hoa nở nhụy của đứa con thứ hai, được bố mẹ
vợ cho đứa em gái vợ 17 tuổi, đang học lớp 9 (hệ 10 năm) từ quê ở Kiến An lên
giúp chị. Ông bà phần vì thương đứa con gái phải vượt cạn một mình, phần vì tin
tưởng vào người con rể có uy thế, học thức đã được nhà nước giao cho làm chủ
nhiệm một hợp tác xã may mặc lớn, nên đã để cho đứa con gái còn hơ hớ tuổi xuân
lên giúp chị.
Rồi chuyện đi về, ở ăn sao đó giữa Oánh và cô
em vợ thì không ai biết được, kể cả bố mẹ vợ cũng như chính vợ của Oánh, cho
tới khi nội vụ đổ bể; sự việc phải ra trước vành móng ngựa, người ta mới hỡi ơi
ra. Nội vụ như sau:
Người em vợ đó tên là Hồng Hạnh, bị ông anh rể
cho ăn trái cấm nên đã có thai. Cô Hạnh lo sợ quá, khi cái bụng càng ngày càng
to, làm sao để che dấu được làng nước và bố mẹ. Chàng Oánh thì cũng bấn xúc
xích lên, còn mặt mũi nào để nhìn bố mẹ vợ và ngày cả vợ mình. Hơn nữa, có thể
cái địa vị béo bở của chàng cũng sẽ tan theo mây gió. Bởi vậy, Oánh đã tính
toán kỹ một kế hoạch, nhưng có lẽ tính kỹ quá thành ra tính quẩn. Anh đã chuẩn
bị một âm mưu để giải quyết với người em vợ. Anh viết một lá thư đầy nghĩa tình
nồng thắm, thương yêu hẹn Hồng Hạnh ở một cánh đồng vắng, nơi cũng đã từng
nhiều lần hò hẹn với Hạnh trước đây. Lúc này, Hồng Hạnh đã có mang được 5 – 6
tháng. Gặp nhau giữa đất trời bao la trên cánh đồng lúa đang vào thời kỳ giáp
hạt. Trước khi Oánh thực hiện ý đồ của y, y còn muốn diễn lại câu thơ trữ tình
của cụ Nguyễn Công Trứ với Hồng Hạnh một lần nữa:
Giang sơn một gánh giữa đồng.
Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ chăng?
Sau khi đã ứ hự với Hồng Hạnh xong, Oánh liền
rút trong bọc ra một con dao nhọn dài hơn 20 phân. Lúc này Hồng Hạnh đã chợt
hiểu, mặt không còn hạt máu, cô liền quỳ xuống giữa cánh đồng, lậy Oánh như tế
sao. Nước mắt đầm đìa, cô khẩn nài xin Oánh đừng giết. Rằng đời của cô đã tàn
rôi cũng không thiết sống nữa, nhưng xin hãy tha cho đứa con còn trong bụng
chưa được chào đời. Hồng Hạnh xin cam chịu mọi hình phạt búa rìu, tủi nhục của
cuộc đời để cho đứa con được ra đời rồi Hồng Hạnh sẽ tự tử, hoặc lúc đó Oánh
giết thì cô không còn oán thán gì nữa. Nhưng Oánh lúc này như một tên hung thần
cứ đâm túi bụi vào thân hình một con người mà vừa trước đó mấy phút, Oánh còn
đắm say, cuồng bạo yêu đương.
Trong khi Oánh đã đâm hàng chục nhát dao rồi mà
Hồng Hạnh vẫn còn cố gắng quỳ lên chắp tay để lậy Oánh xin tha cho mình và tha
cho đứa con, cho tới khi gục xuống chết hẳn. Tên Oánh đã chuẩn bị sẵn một chiếc
xẻng con, y tìm một chỗ khuất nẻo đào nông một hố để lấp xác Hồng Hạnh. Làm
xong, y tắm rửa, thay áo quần rồi trở về với vợ con ở Hải Phòng coi như chẳng
hề có chuyện gì đã xẩy ra.
Sau 2 ngày, bố mẹ Hồng Hạnh không thấy con gái
đâu dù tìm hỏi khắp nơi, nên đã đến đồn công an để trình báo về sự mất tích của
Hạnh. Cuối cùng, dân làng và nhà chức trách đã tìm được đến chỗ chôn xác Hồng
Hạnh. Khi bác sĩ chuyên môn khám nghiệm, đã tìm thấy tất cả 37 nhát dao đã đâm
khắp đầu, mình và chân tay của Hồng Hạnh. Với những cánh thư, và với những hiện
tượng trước đấy, người ta dễ dàng tìm bắt được đích danh thủ phạm. Cho tới khi
đưa ra tòa cử với cái án chung thân, tên Oánh đã phải diễn đi, diễn lại nhiều
lần cái buổi y đã hạ sát Hồng Hạnh.
Ngồi nghe Quý Cụt và Lê Sơn thuật lại câu
chuyện về tên Oánh, tôi đã nhớ lại bộ mặt và dáng người của y. Người y tầm
thước, da trắng trẻo hay mặc đồng bộ mầu nâu. Y có cái trán cao, đặc biệt là
đôi lông mày thật rậm, ăn nói thì nhỏ nhẻ, tỏ ra một con người hiền lành tử tế.
Qua sự việc của Oánh, kết hợp với một số vụ
khác mà tôi đã biết, tôi đã thấy được cái chủ trương, cái nguyên tắc giải quyết
của cộng sản. Những vụ án có tính cách trầm trọng làm đảo lộn luân lý, thuần
phong, đạo đức làm dư luận quần chúng căm phẫn, chúng xử phạt có vẻ nặng nề để
xoa dịu công luận. Nhưng khi vào trại giam, chúng lại chiếu cố, tin dùng cho
làm những công việc béo bở ở trong tù như: tự giác, chăn nuôi, coi ao cá v.v…
Dù cho án chung thân chăng nữa thì cũng chỉ ở mươi hoặc 12 năm là đã được tha
rồi. Bởi vì theo chúng, những tội trạng đó chỉ nằm trong hệ mâu thuẫn nội bộ.
Chúng rất lơ là với những chuyện trai gái, cướp bóc, cắp trộm, giết người.
Ngược lại, cái điều chúng đặt lên hàng đầu, bất cứ vấn đề gì chỉ hơi dính dáng
đến chính trị, thì chúng nỗ lực tìm tòi điều tra cho đến nơi, đến chốn, đến
chân răng, kẽ tóc, đến cùng kiệt của sự việc mới thôi. Những điều này chúng đặt
là thuộc hệ mâu thuẫn đối kháng. Đã vào tù, dù bất cứ dưới hình thức nào: án
hay không chỉ khi nào tốt mới cho về. Mà tốt hay xấu trong tư tưởng thì làm sao
mà biết được. Đấy là lý do cộng sản nó muốn giam giữ người tù đến bất cứ khi
nào là tùy ý chúng.
Câu chuyện của anh chàng Oánh hôm nay lại làm
tôi nhớ đển 2 câu chuyện mới xẩy ra 2 hôm trước ở trong trại mà mãi hôm nay anh
em vẫn còn đùa cợt, bàn tán. Câu chuyện đau lòng là câu chuyện của tên trật tự
ác ôn Phạm Huy Tân: buổi sáng y được gọi ra nhận tiếp tế vì vợ y lên thăm. Y
hớn hở, vui mừng lộ hẳn ra trong cử chỉ và nét mặt. Y chắc nẩm, là trật tự, đệ
nhất tay sai ở một trại; hẳn rằng ít nhất y cũng được 24 tiếng để hú hí với vợ
con, chứ nếu không thì phải 48 tiếng, vì ngay những bọn tự giác, những bọn cải
tạo tốt còn được 24 tiếng nữa là y. Nhưng không ngờ, ở đời chỉ có một chữ “ngờ”
là chẳng ai học được. Tên cán bộ giáo dục đã giữ kín cho tới phút tên Tân ra
gặp vợ mới ngã ngửa ra. Người vợ mang tiếp tế cho y 3 cái bánh mì, 6 quả chuối,
1 kg muối vừng và 2 bao thuốc lá Trường Sơn, kèm theo tờ giấy ly dị. Y thị nhờ
đảng và ban giáo dục trại giải quyết thỏa đáng cho y thị, lý do: y thị, sau 6
năm suy nghĩ, quyết định dứt khoát không thể có tình cảm luyến ái vợ chồng với
một tên phản cách mạng. Ai cũng biết, điều này đảng và nhà nước ủng hộ, giúp đỡ
quá đi ấy chứ, dù cũng ra cái vẻ khuyên răn, giàn hòa. Bởi vậy, tên Tân không
những không được 24 tiếng mà chỉ vỏn vẹn 20 phút đồng hồ, sau khi ký giấy,
trước sự chứng kiến của ban giáo dục. Theo tên Thái y tá kể lại, Tân đã tâm sự
với y: Tân đã cố nén lòng trên đường về trại, y thấy đời anh tan nát hết không
còn gì nữa. Y trở thành một tên tù bơ vơ lạc lõng trên cái trái đất đầy bùn đen
này. Để rồi y đã không thể ngăn nổi 2 giòng nước mắt đầm đìa khi bước chân vào
cổng trại; mặc cho thiên hạ anh em cười chê. Riêng tôi, khi biết được chuyện
không may của y, cũng thấy mủi lòng. Đành rằng y là một tên ác ôn, đã làm hại
biết bao nhiêu đồng phạm, chẳng qua chỉ vì sự ngu muội của y, chứ y cũng chỉ là
một nạn nhân, một tên tù không hơn, không kém. Tôi thấy ngao ngán buồn cho tình
đời trong những cảnh đời dưới chế độ xã hội ưu việt của loài người. Tôi có ý
định, hôm nào thuận tiện sẽ gặp, thăm hỏi, an ủi gọi là chia xẻ, cảm thông với
y phần nào. Điều mà trước đây, tôi nghĩ chẳng bao giờ, nếu có đến với y chỉ là
cái nắm tay và những cẳng chân mà thôi.
Còn câu chuyện thứ 2, câu chuyện buồn cười của
anh chàng Phan Thanh Vân tư bản kếch xù. Theo Vân tường thuật lại: Vân có một
đôi quần đùi thật đẹp của bà chị ở Pháp gửi cho. Vân cũng chả mặc bao giờ, trừ
ngày mồng một Tết, Vân mặc một lần để thi đấu bóng bàn, trước những con mắt
thòm thèm, suýt soa của nhiều anh em tù khác. Buổi trưa trời nắng hửng, anh
chợt nghĩ đến chiếc quần đã mặc có thể bị ẩm mốc nên đem ra phơi ở chỗ những
sào nứa, nơi chúng tôi thường ăn hơi mỗi buổi chiều. Phơi rồi, Vân cũng sợ bị
mất cắp, bởi vậy anh ngồi ngay tại cửa buồng 2 vừa cuốn thuốc, vừa nhìn ra coi.
Chỗ phơi chỉ cách Vân hơn 10 mét. Lúc anh cúi xuống cuộn điếu thuốc, khi ngẩng
lên thì chiếc quần đã không cánh mà bay mất rồi. Hộc tốc anh chạy ra thì chỉ có
vài người vẫn lảng vàng, trầm tĩnh đi đi, lại lại vì người ta cũng đang có
nhiều nỗi ngược xuôi của đời tù nên không ngủ trưa được. Hỏi ai cũng không
thấy, Vân bực vô cùng và ai biết cũng ngạc nhiên thay: ai lấy cái quần mà nhanh
như biến thế!
Tối hôm đó, Vân bàn riêng với Nguyễn Huy Lân
buồng trưởng và Đinh Khắc Sản toán trưởng toán 3. Ngày mai, Vân còn một chiếc
quần đùi nữa, sẽ đem ra chỗ cũ phơi, Vân sẽ nấp ở trong buồng, nhìn qua một cái
khe vách hở, rình bắt cho được cái tên ăn cắp khốn khiếp ngày hôm qua.
Chủ trương và tính toán như thế rồi, trưa hôm
sau Vân cứ thế thực hiện để bắt con mồi. Vân ngồi im lặng rình trong một góc
nhà phía sàn dưới, dù mót đi giải, anh cũng không đi.
Trong các buồng nhiều người nằm ngủ trưa để
chiều đi lao động. Ngoài sân, trong hội trường, đây đó dăm ba người ngồi chuyện
trò, thầm thì nho nhỏ, hoặc khâu vá ngoài sân. Chiếc quần đùi vải ngoại mầu
vàng tươi, lồ lộ vẫn nằm yên trên một con sào lẫn vào những chiếc áo bông dầy
cộm, rách tã, cùng những chiếc quần áo trại đã bạc mầu nắng mưa.
Vân ngồi đã mỏi người, tê chân. Anh nghĩ, có lẽ
tên ăn cắp đã thấy anh ngồi rình (mặc dù chuyện rình chỉ có 2 người nữa biết),
hoặc nó đã lấy được một cái đủ dùng rồi, vậy có ngồi đến tối thì chiếc quần vẫn
nằm yên đấy. Từ những nghĩ suy như vậy nên anh bình thản hơn, thảnh thơi hút
thuốc, đôi khi quay lại trả lời những người thấy anh ngồi đấy mãi lạ lùng nên
han hỏi. Rồi một lần sau khi quay lại trả lời một người, khi quay ra thì chiếc
quần đã biến mất lúc nào. Vân chạy vội ra tìm và ngơ ngác nhìn đây đó khắp sân.
Hẳn rằng tên ăn cắp, phải là 2 tên, đang đứng ở
một chỗ nào đó nhìn Vân, rồi nhìn nhau thích thú. Một người to xác, nhưng lại
thật thơ ngây. Cứ tưởng mình có vỏ quýt dầy nhưng đã gặp phải ngón tay nhọn
hoắt. Nghe Vân kể lại sự việc tôi cũng buồn cười, mà không dám cười, bởi vì nỗi
bực tức vẫn đang dàn đầy ra trên nét mặt Vân. Tôi góp y với Vân như sau:
Lần thứ nhất Vân mất quần đùi thì tôi đã hơi
nghi, nhưng lần thứ 2 thì tôi khẳng định là ít nhất có 2 người cùng bàn nhau để
ăn cắp chơi của người tư sản trong trại. Nghĩa là phải có một người nào vào làm
cho Vân chia trí đi từ 30 giây cho đến 1 phút. Bây giờ đã mất rồi không nói làm
gì nữa, cái điều cần nói là làm sao tìm lại được.
Bất kỳ ai lấy, chắc chắn: không dám dùng ở
trong trại và cũng không dám để lâu ở trong trại vì ngoài những kỳ khám trại
chính thức, cán bộ lại hay vào khám tư trang bất ngờ. Do đó, đường dây ra ngoài
thì không thể ngoài những anh tự giác của toán, hoặc toán lâm sản. Cho nên tôi
đề nghị Vân, không gì bằng hãy liên lạc, khéo léo đặt mua mấy người thân trong
đám tự giác thì sẽ ra…Bởi vì chỉ có họ mới có điều kiện ra gặp nhà dân để mua
bán đổi chác mà thôi.
Đang khi Vân đồng ý để tiến hành, thì 4 – 5
ngày sau, anh được gọi ra trại ngoài để gặp cán bộ. Khi về Vân cho biết: ông
Toán đã báo cho biết là Vân sắp được tha, họ đang chuẩn bị cho Vân sẽ làm công
nhân phục vụ ngay cho trại trung ương số I, trong bộ phận điện. Bởi vì, các
phân trại, kể cả phân trại E này cũng sắp được phân phối máy phát điện nhỏ để
phục vụ tối thiểu về điện cho trại.
Vân rất phấn khởi, lúc đầu chỉ nói riêng cho
tôi biết rằng ông Toàn bảo nhà nước sẽ chiếu cố đặc biệt cho Vân, có thể sẽ cho
Vân về Hà Nội để làm một con mắt giả. Tóm lại, Vân đang nhìn con đường ngày mai
của anh càng ngày càng rộng mở. Vì thế, Vân chẳng còn, hay chẳng cần để ý gì về
2 chiếc quần đùi đã mất nữa. Phần tôi cũng thấy vui vui trong dạ. Trong cảnh
khổ đau tăm tối này ai thoát ra được, dù ở cảnh nào thì cũng mừng cho họ. Phần
khác, còn gì thú bằng, sự lý luận suy đoán của tôi với Vân trước đây đã diễn
tiến theo chiều hướng như vậy.
32. Một Vụ Vượt Thoát
Tôi
nhớ khoảng hơn một tuần, sau vụ mất quần đùi của Phan Thanh Vân. Lúc này chừng
4 giờ chiều, tôi và Quý Cụt đang mải mê đánh vernie mấy chiếc giường đôi kịp
cho ngày mai, trại ngoài vào lấy. (Giai đoạn này, ít khẩu hiệu, sơn vẽ nên một
mình Lê Sơn làm. Tôi phải sang phục vụ vernie với Quý Cụt). Bất chợt, có 2
tiếng súng nổ ròn, rổn rang lên từ phía trong rừng. Mọi người còn đang ngác
ngơ, thì tiếp theo 2 phát nữa đoàng đoàng, chát chúa ở ngay cổng trại.
Tôi mở to mắt sớn sác nhìn Quý và Lê Sơn. Vì là
lần đầu tiên quá bất ngờ nên một thoáng, tôi tưởng như ở trong Nam, lại có đụng
độ đánh nhau tới nơi. Nhất là lúc này, tiếng kẻng bom ở cổng trại đang khua
vang liên hồi, dồn dập. Ngay giữa sân, tên bộ đội vũ trang đang thổi còi ré
lên, tay y khua rối rít dục tù ra xếp hàng tập họp. Tên Kích và tên cán bộ toán
3 chạy xổ từ trong buồng ra sân mặt hớn hở, hớt hải, miệng hò hét inh ỏi. Nhìn
thấy tôi đứng ngây người ra, Lê Sơn và Quý Cụt vừa thu dọn đồ, vừa bình thản
cho tôi biết chỉ là rải rác khắp nơi trong rừng. Toán nào phát hiện, toán của
mình có tù trốn, cán bộ nơi đó cấp tốc bắn 2 phát súng báo hiệu. Những toán lao
động gần đấy, cán bộ lại bắn tiếp 2 phát nữa. Nghĩa là bắn chuyền cho đủ cả 5
phân trại đều biết là đã có tù trốn, và tất cả các toán kể cả tự giác cũng phải
thu quân về trại.
Khi toán 2 vừa ra khỏi cổng khu thủ công để về
trại thì gặp một lũ cán bộ, công an vũ trang súng ống túa ra hướng có 2 phát
súng nổ đầu tiên. Ngay ở cổng trại, Phong, tên thiếu úy công an vũ trang, tay
đang cầm 4 sợi dây da dắt 4 con chó to lớn đang lồng lộn sủa gâu gâu inh ỏi.
Chúng đang nhe miệng thò ra những chiếc răng nhọn hoắt, trắng hếu, lợi và lưỡi
đỏ lòm trông thật dữ tợn. Lê Sơn đi bên cạnh, ghé sát tôi thì thầm:
- Giống bẹc-dê này của Đông Đức đấy! Con cháu
của bẹc-dê thời Hitler khát máu ngày xưa.
Tên cán bộ nào cũng tớn tác, khẩn trương sôi
nổi hẳn lên. Lúc toán 2 vào trại cũng là lúc tên Cẩn trực trại và một tên cán
bộ giáo dục, tay đang xách mấy bộ quần áo rách từ trên phía buồng số 3 chạy ra
phía cổng trại. Tò mò, sau khi vào khỏi cổng trại, tôi quanh lại liếc nhìn ra:
chúng vất mấy bộ quần áo rách đó xuống đất, 4 con chó xông đến hà, hít một lúc,
rồi tên thiếu úy Phong và 3 tên vũ trang nữa; mỗi đứa dẫn một con chó chạy xồng
xộc về hướng có tù trốn.
Bây giờ thì chúng tôi đã hiểu, người tù trốn là
anh Phồn Lạc. Anh là người thuộc đảng Việt Xã trong Liên Hiệp Pháp, anh ở toán
làm gạch. Tên trực trại đã vào buồng số 3, đến chỗ anh lục tung quần áo bát đĩa
của anh. Y vừa tìm những vật khả nghi có liên quan đến việc trốn tù, vừa lấy
quần áo của anh cho chó đánh hơi, đánh mùi để đi tìm anh.
Câu chuyện đảng phái của anh, từ hơn một tháng
trước tôi đã nghe anh em nói đến, nhưng chỉ hiểu sơ lược, loáng thoáng: đảng
Việt Xã trong Liên Hiệp Pháp được thành lập ở Sơn Tây, quy tụ được một số
người. Đa số là những thành phần lính tráng, hạ sĩ quan đã từng ở các đơn vị
quân đội thuộc Liên Hiệp Pháp trước 1954. Thêm vào đó là một số thân thuộc, họ
hàng con cháu của họ, hầu hết là người Sơn Tây. Họ đã bí mật hoạt động được vài
năm. Những người lãnh đạo trong đảng có thể chỉ có tinh thần cương cường chống
cộng sản nhưng thiếu trình độ tổ chức; không đủ kiến thức để nhìn rõ mình và kẻ
thù. Không có đường lối vững vàng, sáng tỏ để thu hút, lôi kéo quần chúng cùng
đứng dậy để chống kẻ thù chung. Tôi nói như vậy là căn cứ vào 3 sự việc sau:
1/ Ngay cái sự việc đặt đảng trong Liên Hiệp
Pháp đã không có chính danh rồi. Nếu ban lãnh đạo chỉ cần có một ít kiến thức
hiểu biết thì dứt khoát họ đã không dùng tên đảng như vậy.
2/ Với một lực lượng hơn 20 người, không có nội
ứng mà dám chủ trương cướp trường sĩ quan bộ binh của cộng sản ở Phùng, Sơn Tây
để đoạt khí giới phát triển lực lượng.
Số lượng người đã ít, lại ô hợp, không được
huấn luyện kỹ. Vũ khí lại thô sơ thiếu sót: chỉ có 7 khẩu CKC và 2 khẩu AK, còn
hầu hết là mã tấu với lựu đạn. Lợi dụng một đêm tối trời, không trăng sao, đoàn
quân của đảng quấn giẻ, tẩm dầu vào đuôi 3 con trâu. Bật hồng đồng loạt đốt cho
3 con trâu chạy vào cổng trường sĩ quan lục quân như một lá chắn, như một mũi
nhọn xung phong để đoàn quân nương theo vào phá trường. Để rồi hơn 1 tiểu đoàn
bộ binh của cộng sản ở Ba Vì gần đấy đến bao vây và bắt gọn.
(Trên đây, chính là lời của anh Phùng Văn Cần,
một trong những yếu nhân của đảng. Trong trại anh em thường gọi đùa là “tướng
Cần” đã nói chuyện với tôi một buổi tối ở hội trường).
3/ Riêng phân trại E này có hơn một chục người
của đảng Việt Xã. Trong đám này có 2 người tương đối có cỡ của đảng là Đinh
Khắc Sản, hiện anh đang làm toán trưởng của toán 3 (xẻ gỗ). Theo như quy ước đã
dự trù, nếu sau này lật đổ được cộng sản, anh sẽ thành bộ trưởng nội vụ. Người
thứ 2 chính là anh Phùng Văn Cần, tức “tướng Cần”. Người ta gọi đùa như vậy,
bởi vì chính anh là người chỉ huy cuộc tấn công “châu chấu đá xe” vào trường sĩ
quan lục quân ở Phùng.
Tôi rất ngạc nhiên về trình độ văn hóa và kiến
thức của cả 2 người. Văn hóa, có lẽ chỉ xong tiểu học và kiến thức cũng chỉ
xoay quanh cái tỉnh Sơn Tây mà thôi mà dám lập một đảng cách mạng.
Có lẽ vì thế, nên tụi cộng sản đã để cho 2
người sống. Mỗi người chỉ mang cái án 20 năm. Một sự việc về tính chất đâu có
phải là nhỏ.
Từ khi ra Bắc, trong cái điều kiện giới hạn,
hẹp hòi của tôi. Trước đây biết một chút về đảng Tân Phong của Phạm Huy Tân,
rồi giờ đây lại biết một ít về cái đảng Việt Xã này, làm cho lòng tôi chả có
cái gì vui.
Trở lại việc anh Phồn Lạc trốn tù. Hầu hết
trong trại, cho tới khi cơm nước xong, vào buồng điểm, khóa buồng, anh em tuy
không dám bàn tán, xầm xì, nhưng nét mặt của ai cũng đăm chiêu khác thường.
Trong lòng tôi, tuy chả nói với ai, tôi vẫn cầu mong cho anh Lạc may mắn thoát
khỏi những nanh vuốt của kẻ thù. Khi nãy nghe anh Đồng nói sơ qua tôi đã hiểu:
mỗi khi có tù trốn, một số cán bộ và công an vũ trang đã được phân công từ
trước. Tất cả sơ đồ, địa hình toàn bộ khu vực trại có những đường mòn dẫn tới
đâu, đều có cán bộ mang cơm nắm đi nằm ếm khắp các nẻo đường. Bởi thế, đã từ
lâu, thỉnh thoảng có tù trốn, nhưng sớm muộn trong vài ngày là đều bị bắt lại.
Tuy tình huống khác nhau nhưng mỗi người đều gặp những chuyện không ngờ cả.
Tôi nằm đắp chăn, cứ hình dung tưởng tượng. Bên
ngoài, một lũ người và một lũ chó đang xục xạo khắp nơi để tìm một con mồi. Con
mồi đó thật khốn khổ yếu đuối, so với cái lực lượng lớn mạnh như thế đi săn
tìm. Tôi hiểu anh Lạc, trước khi trốn đi, cũng đã phải nhiều đêm ngày đấu tranh
gay gắt, giằng co tơi bời ở trong lòng. Hẳn anh cũng đã biết, anh chẳng có hy
vọng nhiều thoát khỏi, có chăng chỉ một chút le lói niềm tin ở những chuyện bất
ngờ. Một kiếp người, một mạng sống thật rẻ để đánh canh bạc này. Một canh bạc,
một ăn mười thua để rồi cuộc đời sẽ chết hay sẽ khổ đau hơn nữa. Hoặc nếu may
mắn, được ở trong cái tỷ lệ 1/10 thành công thì cũng chỉ tìm được một cuộc sống
tối thiểu bình thường cho một kiếp người.
Trời bên ngoài càng lúc càng tối dần, nhưng
niềm hy vọng anh Lạc trốn thoát, lại càng lớn dần lên. Phan Thanh Vân nằm bên
cạnh vẫn chưa ngủ. Thấy anh trở mình xoành xoạch, thỉnh thoảng thoát ra một
tiếng thở dài nhè nhẹ. Chẳng hiểu Vân có đang nghĩ đến anh Lạc như tôi không?
Hay Vân sắp được tha, Vân đang suy nghĩ về những cảnh đời sắp tới của Vân? Lòng
người vạn ngả , ai hiểu được lòng ai? Dù có nằm bên cạnh nhau.
Hồn tôi bồng bềnh, lãng đãng chìm dần vào giấc
ngủ muộn thì 3 tiếng súng dóng đuôi nhau giật ré lên trong rừng sâu. Âm thanh
của 3 tiếng nổ, kéo dài ra đập vào những cây nứa già rên lên như ai oán làm tôi
choàng tỉnh dậy. Hai ba tiếng nói dội vào bóng đêm ở phía sàn trên:
- Bắt được tù rồi!
Tim tôi hơi giồi lên nghẹn lại. Tôi chưa hiểu lúc
này là mấy giờ khuya? Thấy Vân trở mình, tôi lên tiếng:
- Mấy giờ rồi Vân?
- Khoảng 11 giờ!
Giọng tỉnh queo của Vân làm tôi tỉnh hẳn. Như
vậy, Vân vẫn chưa ngủ. Tôi đã hiểu khi có 3 tiếng súng, là ở nơi đó đã bắt được
tù. Tôi chưa biết người anh Phồn Lạc, nhưng lúc này tôi thấy thương anh thật
nhiều. Bây giờ mọi người trong buồng đang nằm yên ổn trong chăn ấm, nhưng ở chỗ
kia, chỉ gần đây thôi hẳn là anh Lạc đang tối tai mặt mũi đón nhận những trận
đòn thù, hội chợ. Ôi, một kiếp người yếu đuối, lẻ loi trước cường quyền!
Chừng nửa giờ sau, trong buồng hơi xôn xao. Một
số người xô ra phía cửa sổ nhìn ra ngoài sân trại. Tôi cũng nhào đến. Kia kìa!
Hai chiếc đòn nứa còn tươi, được buộc với 3 đoạn nứa nhỏ nằm ngang thành một
chiếc cáng thô sơ. Tên Thái đi trước, tên Tân trật tự đi sau. Hai tên đang
khênh trên cáng một thân hình gầy guộc, trần như nhộng, mặc mỗi chiếc quần đùi
rách, đầu tóc, mình mẩy đầy bùn đang nằm khòng khoèo bên trên. Tên Cẩn trực
trại và mấy tên bộ đội nữa cầm một chiếc đèn bão và súng ống đi kèm theo sau về
phía nhà kỷ luật.
Bao nhiêu người trong buồng chen nhau nhìn cảnh
ấy, nhưng rồi chẳng ai nói với ai một lời, đều về chỗ nằm của mình trùm chăn,
tôi cũng vậy. Một nỗi sầu của đời đang phủ dần xuống lòng mọi người.
Sáng hôm sau ra lán lao động. Mới khoảng 10
giờ, Nguyễn Huy Lân đã lên chỗ lán vernie nhỏ nhẻ nói cho biết một ít chi tiết
về vụ Phồn Lạc trốn mà Lân vừa được lão cán bộ Kích rỉ cho biết sáng hôm nay:
toán gạch làm việc ở một bãi đất trống và trũng cách trại E hơn 2 cây số (đường
chim bay) về phía Tây. Trong khu vực toán gạch này, trống trơn, chỉ có một căn
nhà con, được chia làm 2 gian, một gian cho cán bộ ngồi làm việc, một dùng để
làm kho. Một chiếc lò gạch to với một cái sân rộng có một số gạch thô đang phơi
và mấy đống gạch đã nung rồi. Nhiều bộ phận khác nhau của toán cũng đều làm
việc suốt ngày ở ngoài trời.
Buổi chiều, khi gần hết giờ, tù cất dọn dụng cụ
và rửa chân tay rồi tập họp điểm số như thường lệ thì thấy thiếu một người. Sau
một lúc tìm, xét, cuối cùng đã biết là anh Phồn Lạc. Mọi người từ toán trưởng
trở xuống đều khẳng định: hơn một giờ trước, vẫn còn thấy anh Lạc, nhưng bây
giờ thì không ai biết anh Lạc đi đâu. Sau đó cán bộ bắn súng v.v…
Các bộ phận đi nằm lỗng (*), đã sục khắp nơi
trong rừng. Vòng đai tìm kiếm càng lúc càng mở rộng. Suốt từ 5 giờ chiều cho
tới 10 giờ đêm, Phồn Lạc vẫn bặt vô âm tín. Sau đó, ban tham mưu và trinh sát
của trại, có người đặt vấn đề hãy trở lại hiện trường toán gạch tìm kiếm, điều
xét lại một lần nữa. Cuối cùng, chỉ vì mấy con chó chết cứ sục vào đống gạch ở
giữa sân sủa ăng ăng. Sinh nghi, cán bộ cho lục bới từng đống gạch và đã tìm
thấy Phồn Lạc đang nằm run như con cầy sấy trước một định mệnh quái ác, trêu
người. (*)Nằm lỗng là nằm phục kín đáo ở những nẻo đường mòn dẫn ra các đường
mòn dẫn ra các đường lớn để đón bắt tù trốn.)
Lạc đã bị khảo tra, đánh đập chết đi sống lại
mấy lần vì không chịu khai ra ai đã đồng mưu xếp gạch che kín lỗ cho Lạc. Nhưng
anh Lạc dù bị đánh tưởng không cón thể sống được nữa, anh vẫn cương quyết trước
sau như một là do tự một mình anh. Anh cứ trình bầy là chính anh đã chuẩn bị
nhiều ngày mà không cho ai biết. Ngay cả cách xếp gạch để che kín lỗ cuối cùng
là một chiếc que gỗ và một miếng ván hình vuông xếp được 12 viên gạch. Nguyễn
Huy Lân kể sự việc của anh Lạc đến đây thì Lê Sơn ném mạnh cái bút lông đang vẽ
xuống nền nhà, giọng bực tức:
- Cái thằng Lạc này dốt thế mà cũng đòi trốn!
Không có một chút óc linh hoạt, bén nhậy tí nào cả.
Thái độ sửng cồ của Lê Sơn làm cho Lân, Quý và
tôi nhìn nhau cười. Tôi cười nhưng tôi lại nghĩ đến một vấn đề khác. Tôi cảm
thấy thoải mái, thích thú làm việc ở cái lán vernie này, không phức tạp vì
không có ai làm chó má cả. Có lẽ Lân cũng hiểu vậy, cho nên chỉ lên đây, Lân
mới nói chuyện cởi mở không phải giữ gìn. Khi nghe Sơn nói thế, Lân cau mày cãi
lại Lê Sơn:
- Mưu sự tại nhân, chẳng qua là số trời chứ dốt
gì?
Sơn quay phắt lại nói như gắt:
- Này nhé, nằm im trong đống gạch, nghe ngóng
theo dõi. Khi nghe thấy bắn hai phát súng thì hiểu ngay là sẽ thu quân. Chờ
chừng 1 đến 2 giờ thì phải chuồn đổi địa điểm ngay. Nhược bằng tính nằm lỳ, thì
bằng mọi giá phải chuẩn bị tỏi, hay dầu cao sao vàng sát vào quần áo, vào người
để bịt mũi lũ chó. Ai chả biết trại có một đội chó kinh hồn. Bất cứ ai muốn
vượt ngục trại này, trước hết đều phải nghĩ cách vô hiệu hóa lũ chó đã.
Nguyễn Huy Lân nhìn tôi rồi lại nhìn Lê Sơn. Nét
mặt Lân như đanh lại, đỏ lên tưởng như ngấu nghiến cãi nhau tay đôi với Lê Sơn,
nhưng bây giờ hình như hơi nóng đã xì ra hết; Lân lại đổi “gam” thành ra ca
ngợi Lê Sơn:
- Ừ, trốn phải như Lê Sơn mới là trốn, cứ như
xi-nê! Đến nỗi hơn 2 năm sau, tình cờ bắt được Lê Sơn; mọi người mới vỡ lẽ ra
vì sao Lê Sơn đã biến mất như tàng hình.
Thấy tôi trố mắt, háo hức ngạc nhiên nhìn Lê
Sơn, Lân lại quay nhìn Sơn lần nữa rồi nói như thúc giục:
- Hãy kể lại cho thằng Bình nó nghe một cú vượt
thoát tuyệt hảo của mày đi!
Để thỏa óc tò mò đang nóng của tôi, tôi trầm
trồ để thêm:
- Thế Sơn trốn bao giờ? Tình tiết ra sao, hãy
cho tôi học hỏi một chuyện hay của đời.
Quý Cụt từ nãy vẫn cắm cúi chà sát mẩu bông gòn
thấm vernie lên mặt chiếc cánh tủ, ngửng lên tham gia:
- Vụ Lê Sơn vượt đã lâu rồi, từ đầu 1964 kia.
Tôi chợt nhớ đến lần vượt trốn của tôi ở dưới
Hỏa Lò, cũng đầu năm 1964. Lòng tôi như chìm hẳn xuống, môi mím chặt lại, lưỡi
tôi lo le đẩy vào chỗ trống của 3 chiếc răng cửa hàm dưới. Một nỗi buồn kém khả
năng, thiếu bản lãnh rỉ dần ra.
Mặt Lê Sơn tươi lên roi rói, bất cứ một ai cũng
hả hê thích thú khi có người khen đúng khả năng của mình. Sau đây là nội dung
sơ lược vụ trốn tù của Lê Sơn và do chính anh thuật lại:
“Giai đoạn này Mỹ chưa bắn phá miền Bắc, nên
hầu hết tù chính trị vẫn còn ở ngoài trại chính (tức trại xây đã hoang tàn, chỉ
còn bức tường đá xây chung quanh mà tôi đã trông thấy trong ngày đầu tới trại
này). Tuy cổng xây, nhưng hàng ngày cửa thường không đóng, vì luôn luôn có một
công an vũ trang vừa canh gác, vừa trực gõ kẻng vào những giờ quy định, cũng
như trại E hiện giờ.
Do cái khả năng viết, vẽ trang trí của tôi, nên
thỉnh thoảng tôi được cán bộ vào đưa ra cơ quan ban giám thị làm việc, hoặc ở
lại trại để kẻ những khẩu hiệu v.v… Từ ít lâu nay tôi đã có chủ trương trốn,
bởi thế lợi dụng những buổi ra vào giữa trong trại và khu ban giám thị, bên
ngoài tuy luôn luôn có cán bộ đi theo. Tôi quan sát, để ý theo dõi những giờ
giấc sinh hoạt hàng ngày của cán bộ cũng như toàn bộ những khung cảnh của khu
vực trại giam.
Ở trại giam trung ương nào cũng vậy, thường
ngày có cán bộ giáo dục, trực trại vào nhận những phạm nhân ra ngoài giáo dục,
hoặc tìm hiểu tình hình trong trại. Chỉ sau một thời gian để ý tôi đã nhìn thấy
một kẽ hở, từ đấy tôi nghĩ có thể thực hiện được ý đồ vượt thoát của tôi. Trong
những buổi kẻ vẽ hay trang trí ở cơ quan, tôi đã xin được một chiếc mũ bộ đội
cũ, nhưng tôi không hề đội bao giờ. Tôi đã tháo được một cái huy hiệu công an
mà người mất ai cũng có thể nghĩ là đã rơi tuột đâu mất. Chính tôi đã làm giả
một đôi lon trung sĩ. Tôi sẵn có một cái sơ mi bộ đội cũ mà tôi đã giấu được
không bị đóng dấu. Tôi thường có gần một chục cái bánh sắn mua của trại, vẫn để
hợp pháp trong cái rương nhỏ của tôi. Mọi việc tôi đã chuẩn bị tương đối kỹ,
chỉ còn đợi thời cơ. Và rồi chờ mãi thời cơ cũng đã đến.
Một buổi chiều trời mưa lâm râm nhì nhẹt, tôi
đang phải kẻ mấy cái khẩu hiệu ở hội trường trong trại. Tôi để ý theo dõi từ
trưa tới giờ, một tên công an vũ trang mặt mũi còn mới toanh, chắc hẳn mới đổi
về. Y vừa đến cổng trại để đổi thay ca gác với một tên cũ. Không chần chờ do
dự, tôi về buồng chuẩn bị. Trong buồng chỉ có một bác Tân già nằm ốm bịnh ở sàn
trên, đang đắp chăn ngủ yên ắng. Tôi chạy sang buồng bên cạnh gặp anh Lù Pả
đang lục đục ngồi hút thuốc lào. Anh Pả hôm nay xin nghỉ bệnh.
Trong trại, do cách sống đứng đắn, hào phóng
của tôi và nhất là uy tín làm việc của tôi đối với cán bộ, bộ đội. Bởi thế, đa
số anh em trong trại đều tin tưởng ở khả năng xoay sở của tôi. Vả lại, tôi chưa
làm thiệt hại đến ai bao giờ nên tôi nói là họ tin theo. Lúc ấy tôi hỏi nhỏ anh
Pả, anh có muốn trốn theo tôi không? Mới đầu anh còn ngạc nhiên, nhưng sau thấy
thái độ khẩn trương, thận trọng, thận trọng của tôi nên anh tin ngay và gật
đầu. Tôi nói: anh phải tuyệt đối theo lời tôi chỉ dẫn, bảo làm gì thì làm cái
ấy là được rồi. Anh đã hiểu tôi từ nhiều năm trước rồi nên anh gật đầu. Tôi căn
dặn: bây giờ anh chuẩn bị quần áo đàng hoàng, nghĩa là mặc quần áo sạch sẽ. Anh
có hòm, rương gì không? Anh lắc đầu và nói chỉ có một cái túi vải. Tôi dẫn Pả
sang lấy cái rương của tôi. Những gì không cần thiết ném bỏ lại vào gầm sàn
dưới. Những gì cần mang theo, dồn hết vào một cái rương này mang đi.. Pả ngạc
nhiên, mắt đờ đẫn nhìn tôi rồi nhìn cái rương tưởng như không tin vào cái tai của
mình, đến nỗi tôi phải nhắc lại:
- Tôi bảo sao, anh cứ làm vậy!
Mọi thứ khi chuẩn bị xong, lúc này đã khoảng 3
giờ hay 3 giờ rưỡi chiều rồi. Trời có vẻ hơi hừng sáng, chỉ còn lất phất mấy
sợi mưa phùn lưa thưa. Từ ở trong nhà cầu, tôi đội mũ đeo lon đi ra trước con
mắt to đầy ngạc nhiên nhưng vẫn còn nhiều lo lắng của anh Pả. Tôi bình thản và
tỏ ra rất đường hoàng để trấn áp nỗi lắng lo của Lù Pả, tôi bảo anh ta:
- Bây giờ cứ xách chiếc rương đường hoàng theo
tôi ra cổng trại.
Ra tới sân, tôi kéo hơi thấp chiếc mũ xuống một
chút vì thoáng gặp bác Thản già quét dọn vệ sinh trại từ phía dưới bếp đi lên.
Lúc bác đi ngang qua, bác còn cúi đầu lễ phép chào tôi. Phải nói là lúc bác
ngửng lên nhìn theo thì tôi và Lù Pả đã ra gần đển cổng trại rồi.
Ra tới cổng, tên công an vũ trang ở trên chòi
gác vừa thò cổ ra ngó xuống, tôi hơi ngửng lên, tay chỉ Lù Pả đanh giọng:
- Đồng chí cho tôi nhận tên phạm này!
Y nhìn một tí rồi gật đầu, tôi quay lại khoắng
tay cho Lù Pả, ra ý bảo đi trước (ra ngoài trại, tù phải đi trước, cán bộ theo
sau). Tôi nhìn mặt Lù Pả hơi tái đi, chiếc rương anh đang xách cứ rung rung.
Tim tôi cũng hơi nghẹn lại, nhưng tôi vẫn bước dõng dạc sát phía sau Lù Pả. Ra
tới chỗ đường rẽ, cách cổng trại chừng 60 – 70 mét mà tôi tin chắc tên công an
gác cổng vẫn còn nhìn theo. Một ngả tiến về khu giám thị và khu công an vũ
trang. Một ngả dẫn ra Phố Lu, Lào Cai cách đấy 8 – 9 cây số. Tôi lên tiếng khẽ
bảo Lù Pả đi phía trước, giữa lúc anh Pả đang ngập ngừng chưa biết sẽ rẽ theo
hướng nào:
- Rẽ về phía ban giám thị!
Từ phía sau nhìn Lù Pả, lúc này không phải chỉ
thấy cái rương rung rung nữa, mà như cả người anh Pả, những bước chân đi xiêu
vẹo đò đẫn như muốn khuỵu xuống. Tôi cũng hơi lo, tôi vội lên tiếng nữa để động
viên:
- Anh hãy yên tâm! Tôi đã có chủ định, sắp đến
chỗ an toàn rồi.
Từ cổng trại đển khu nhà của ban giám thị
khoảng 250 đến 300 mét. Con đường, một bên là chiếc ao lớn, một bên là một triền
đồi dốc, hẹp trồng khoai lang. Dù tôi đã động viên, nhưng khi càng tiến đến gần
căn nhà chính của ban giám thị thì anh Pả như không muốn bước nữa.
Từ nãy, tôi rất lo, nếu giữa quãng đường trống
này, có một tên cán bộ nào đó, bất chợt từ trong khu giám thị đi ra, thì thật
là nguy hiểm. Bởi vậy tôi giục anh Pả phải bước nhanh. Khi đến trước một luống
hoa, tôi tiến nhanh lên phía trước, kéo tay anh chạy lủi vào một bụi nứa có
những dây sàn sạt leo kín. Từ đấy tôi kéo anh Pả luồn ra phía sau của căn nhà chính
ban giám thị. Chỗ này có mấy bụi giong riềng rất rậm.
Ngay sát vách phía sau nhà của giám thị, chúng
tôi chui vào nằm im. Tôi đã tính rồi, chính cái điều bất ngờ nhất, nên chỗ này
cũng là chỗ an toàn nhất trong lúc này.
Về tâm lý, không một ai có thể nghĩ tù trốn,
lại vào chỗ khu giám thị, nơi đầy rẫy cán bộ chỉ huy của trại mà nằm. Bởi thế,
kể cả người lẫn chó, chẳng bao giờ xục vào miếng đất đã có chính quyền bảo kê
đó.
Quả như tôi đã dự đoán, cho tới lúc kẻng lấy
cơm, chừng 15 phút sau thì có 2 phát súng nổ ngay phía cổng trại (lúc chia cơm,
không có tôi đặt bát cơm canh, từ đấy tôi dự đoán họ đã phát hiện ra). Sau đó
là tiếng kẻng báo động, tù phải vào buồng ngay. Như vậy tù phải mang cơm vào
buồng ăn. Tiếp theo là tiếng chó sủa ầm lên.
Trời càng tối tiếng chó và những âm thanh huyên
náo, nghe càng nhỏ dần về phía rừng sâu. Tôi ra hiệu và nói khẽ cho Pả nằm yên
tại chỗ. Tôi khẽ bò ra phía trước để nghe ngóng, quan sát. Trong nhà ban giám
thị điện vẫn sáng trưng, 6 – 7 người lố nhố đang ngồi họp, trong đó có ông
Toán, chánh giám thị. Mọi chỗ khác đều yên ắng như tờ. Với những kinh nghiệm
của những năm tháng trước đây còn ở bên quân báo, qua một số âm thanh, một số
địa hình tôi đã nắm, kết hợp với những nguyên tắc di chuyển đêm trong một vùng
nghi ngờ có những ổ phục kích, tôi vững tâm, rời chỗ nấp tiến bước về hướng chủ
định. Trước khi rời khỏi đám giong riềng, tôi thì thào cho Pả hiểu:
- Tôi sẽ mang anh ra tới chỗ an toàn, lúc đó
chúng ta sẽ chia tay. Tôi sẽ tìm đường về xuôi, còn anh sẽ về ngược, vì quê anh
ở bản Pó thuộc Bắc Cạn. Với một quy ước kiên định, không hề biết gì về nhau cả.
Với những phương pháp đi đêm đặc biệt ở trong
rừng, chúng tôi đã vượt qua được nhiều chặng nguy hiểm. Cuối cùng tôi đã đưa
anh Pả đến được con đường hàng tỉnh mà anh đã quen biết. Chúng tôi chia tay
nhau, để đi về 2 ngã đời khác biệt. Riêng về chiếc rương gỗ, khi đi khỏi khu
ban giám thị chừng nửa cây số, chúng tôi đã dúi nó xuống một đám bùn có bèo lục
bình, sau khi đã lấy hết những thứ cần mang theo.
Phần tôi, sau 6 ngày lần mò vất vả, tôi đã về
tới Hà Nội. Quê tôi ở Vĩnh Yên, nhưng tôi không hề bén mảng. Hà Nội lúc này dân
chúng đang chuẩn bị sơ tán, không khí chiến tranh đang bao trùm khắp đó đây.
Tôi làm giấy giả, thay tên đổi họ, rồi tôi lấy vợ và đã có một đứa con trai. Vì
tôi nằm trong lòng chế độ này, do đấy tôi lách được vào nhiều khoảng hở để sinh
hoạt, tồn tại. Cũng vì cuộc sống, tôi phải đi buôn hàng chuyến trên con đường
Hải Phòng, Hà Nội và Hòa Bình. Thời gian cứ như vậy trôi đi được gần 2 năm.
Vào một buổi đó, trên chuyến tàu xuôi từ Phú
Thọ về Hà Nội, tôi đang ngồi ngả lưng vào thành tầu. Thân hình lắc lư với những
cái nhún nhẩy của con tầu đang đi. Tôi thả hồn theo khói thuốc sau một lúc kháo
chuyện với mấy người bạn đồng hành. Rõ ràng, có một mầu vàng chắn ngang vào
những làn khói thuốc trước mắt. Tôi choàng tỉnh, nhìn một bóng hình to lớn, lồ
lộ đứng ngay trước mặt tôi. Ông Toán, chánh giám thị trại cải tạo trung ương số
I Lào Cai.
Tôi choáng hồn, đứng bật dậy, không phải để
chạy (vì còn chạy đâu được) mà để chào ông ta, nhưng ông ta đã đặt một tay lên
vai tôi đè tôi ngồi lại ghế. Ông nói vừa nhẹ nhàng, nhưng cũng như vừa ra lệnh:
- Cứ ngồi yên!
Tôi cứng đơ người ra như cái máy. Tôi chỉ
thoáng liếc chiếc lon thiếu tá còn mới, đỏ ráu ở cổ áo ông ta (khi tôi trốn,
ông mang lon đại úy). Tôi cười như mếu nhìn ông ta, bao nhiêu những khí thế
linh hoạt có sẵn trong người đều như biến đi hết. Người tôi cứng ra như “Từ Hải
chết ngồi” không còn biết nói năng chi, cứ im thin thít như thịt nấu đông.
Mấy anh bạn đồng hành, thấy ông công an to quá
cũng đã chuồn sang toa khác từ lúc nào. Tôi còn đang bấn loạn, thấy cả một cuộc
đời, cả vợ, cả con bỗng chốc tan thành khói mây thì ông Toán đã rút trong cặp
ra cái còng số 8 đen xì mở ra. Tôi líu ríu như một cái máy giơ 2 tay ra cho ông
ta còng. Khi xuống ga Hàng Cỏ, ông đã điện cho xe công an đưa tôi vào gửi ở Hỏa
Lò. Sau 2 ngày, chính ông ta đến lĩnh tôi ra và đưa trở lại trại I này.”
Lê Sơn nói đến đây thì ngừng lại, coi như câu
chuyện đã kết thúc nhưng nét mặt anh vẫn còn đăm chiêu, nhìn ra khoảng trời
phía bên ngoài. Giây phút hồn anh lắng đọng đã ép, nén chúng tôi cũng nín chìm
vào nỗi niềm. Một phút nặng nề riêng tư, đột nhiên anh lại nói tiếp như minh
giải với những tảng mây đang lững lờ trôi ngoài khung trời ấy, hay với cõi hồn
xa cũ:
- Nếu không vì cuộc sống, để tôi phải bôn ba
cầu thực thì có trời mà bắt được tôi!
Câu nói của anh vẫn lọt thỏm vào cái hũ im lặng
của 3 người. Còn một chút khắc khoải trong dòng liên tưởng của tôi, nên đành
làm rạn vỡ cái trầm lắng do câu chuyện:
- Thế về trại rồi sau đó ra sao?
Như choàng tỉnh, mặt Lê Sơn rắn lại, mắt anh
như có những tia sáng, quắc lên:
- 6 tháng trời, cùm kẹp thê lương! Nếu không vì
một số cán bộ có thiện cảm riêng tư từ trước thì họ đã để cho chết rồi. Với bao
nhiêu kiểm thảo, kiểm điểm, học hành cho đến rã người ra.
Sơn ngừng lại một lúc rồi lại tiếp, giọng đầy
ai oán:
- Khi được thả cùm ra, tôi đã được khênh về
buồng, rồi ốm thêm 2 tháng nữa mới khỏi, mới lại người. Mọi người tưởng tôi
không còn sống được. Trước đây tôi bị ràng, bố, theo dõi chặt chẽ lắm, chỉ mới
lỏng ra được hơn năm nay.
Để cho Sơn nói xong, tôi chỉ hỏi một câu trống
không, có thể trả lời theo nhiều hướng:
- Thế bây giờ sao?
Nhưng Lê Sơn rất bén nhậy, đã trả lời đúng ý
tôi muốn biết:
- Bây giờ thì tôi không muốn trốn nữa, vì tôi
sắp được về rồi!
Quý Cụt, Lân và tôi đều mở to mắt thì Sơn để
một ngón tay lên miệng cộc lốc:
- Bí mật!
Nói rồi, anh quay vào tiếp tục kẻ, vẽ.
Nghe xong câu chuyện vượt ngục của Lê Sơn, tôi
thừa nhận anh thật nhanh lẹ, có tài. Tôi nghĩ đến đoạn Sơn dẫn Lù Pả ra khỏi
cổng trại: Nếu lúc ấy lại có một cán bộ quen, bất chợt đi ra thì làm sao? Nghĩ
thế, vì tôi liên tưởng đến vụ trốn của tôi ở Hỏa Lò. Thôi, định mệnh! Lại nhắc
đến những chữ “nếu” đáng ghét trong cuộc đời này làm gì nữa.
33. Nhân Chi Sơ…Tính Bản Thiện
Tối
nay, sau khi điểm xong, buồng 2 rôm rả hẳn lên. Trước khi vào buổi sinh hoạt tổ
thường lệ, anh buồng trưởng Nguyễn Huy Lân tuyên bố:
- Thể hiện lòng ưu ái, chiếu cố của ban giám
thị, trại thông báo bán mía cho trại viên. Mỗi kg mía giá 1 hào, các toán làm
danh sách thu tiền. Chiều mai, tự giác của mỗi toán sẽ ra trại ngoài xe mía về.
Chỉ mấy câu tuyên bố của anh Lân mà làm cho
buồng 2 sôi động ồn ào như ong vỡ tổ. Người ta trèo lên, trèo xuống giữa sàn
trên và sàn dưới. Người ta chạy Đông, chạy Tây để mượn tiền nhau và để ghi tên
mua mía. Chất ngọt ở trong tù là một thứ vưu vật của cuộc đời. Theo anh em thì
đã hơn 10 tháng nay rồi, nay trại mới lại bán mía.
Những người có tiền mua mía xốn xang, hân hoan
sôi nổi bao nhiêu, thì càng khoét sâu nỗi niềm lẻ loi, âm thầm lạc lõng của
những người không có tiền bấy nhiêu. Đây là một dịp như ngàn năm một thuở, nên
hầu như ai ai tùy theo ít hay nhiều đều có ghi tên và số tiền mua mía. Không có
tiền thì vay mượn, tôi để ý cả các anh em biệt kích như các cậu Châu, cậu Sáng
cũng rối rít ghi tên. Tôi hiểu rằng họ là những người đã ở trại này lâu rồi nên
ít nhiều có tiền năng suất trong khi lao động. Dù cho họ không có năng suất
chăng nữa, trong cách giao tế, họ xoay sở cũng có chỗ mượn vay được. Hoặc họ là
loại tù tập trung, mỗi tháng họ đã có một đồng. Theo quy chế của các trại giam
trên toàn miền Bắc ở giai đoạn ấy. Tiêu chuẩn cho một người tù có án là 12 đồng
một tháng. Loại tập trung cải tạo 3 năm thì tiêu chuẩn là 13 đồng một tháng,
loại này, cứ 3 năm thì được phát một cái màn cá nhân, tù án thì không có. Như
vậy, tiêu chuẩn chung cho một người tù mỗi tháng là 12 đồng, do đấy, những ai
bị tập trung cải tạo, mỗi tháng được lĩnh một đồng để giải quyết trong sinh hoạt.
Chỉ có tôi, một phần vì mới lên trại, chưa có
điều kiện quan hệ thâm tình với ai. Nhưng cái chính là do cái quan điểm, cái
mặc cảm sai lầm là không thể mở miệng để vay mượn ai của tôi (vì vay rồi thì
lấy đâu mà trả). Bởi vậy, tôi đã tự khoanh cho tôi một cái vòng, thiếu hòa đồng
để trở thành đến lủi thủi âm thầm một mình. Chính vì cái quan điểm vẩn vơ này
mà ngay những điếu thuốc lào nó cũng đã hành tôi biết bao nhiêu, trong những
đêm buồn ít ngủ. Tuy tôi hút không nhiều, mỗi ngày chỉ 3 – 4 điếu là cùng. Ban
đêm, mỗi khi giật mình dậy đi đái, nhưng khi đái xong, trở lại trong mùng thì
không thể ngủ được nữa vì thèm một điếu thuốc lào. Không ngủ được thì ngồi ở
trong màn…chờ. Nhìn hết sàn trên rồi sàn dưới, chờ cho tới khi có một ai đó báo
cáo dậy đái. Lại phải xem họ là ai, họ có hút thuốc lào hay không? Họ có quen
mình hay không, hay có phải là người dễ dãi, thông cảm với mình không?
Chưa có hút thì ngồi sầu mong đợi, nếu gặp được
người thông cảm cho hút xong điếu thuốc rồi: say thì vẫn say, nhưng lại có một
nỗi sầu khác càng sầu hơn nữa. Nỗi sầu tủi của người không tiền cứ gậm nhấm,
rỉa mó cõi lòng của mình chìm mãi vào đêm thâu. Ôi, biết bao thấp thỏm, nhục
buồn do điếu thuốc lào chỉ vì tôi chưa tìm được cách nào để kiếm được tiền.
Cũng đã nhiều lần phẫn uất, tôi định từ bỏ nó,
nhưng rồi nhìn khắp 4 phương, cuộc đời của mình có còn cái gì vui đâu. Chỉ còn
có điếu thuốc lào, là người bạn thủy chung để mình gửi gấm những tâm tư, những
nỗi niềm thầm kín riêng của mình. Tóm lại, vì tôi không có tài xoay sở, lại
không muốn mở miệng vay mượn ai, dù tôi hiểu nếu tôi vay thì sẽ được. Cho nên,
tất yếu là phải nhận lấy những nỗi niềm đang nhận.
Chuyện mua mía chưa hết, rồi cho tới ngày mía
được phân phối về từng toán. Người ta ồn ào, í ới gọi nhau chia chác. Chia xong,
người ta hì hục, hớn hở khuân mía về chỗ mỗi người để cất, để dành, rồi lại ríu
rít quây quần ngồi nhai mía.
Trong khi mọi người hân hoan, mải mê tận hưởng
cái vưu vật của đời thì lại là cái nạn đối với tôi. Do cái bản tính rởm của
mình, tôi không thể ngồi nhìn mọi người thưởng thức cái ăn. Nếu tôi lì mặt ngồi
đó, thì sẽ có người thấy ái ngại mà mời tôi ăn. Từ chối không ăn thì tỏ ra kênh
kiệu mà còn làm cho người ăn mất tự nhiên, nếu cứ ngồi đấy. Tôi hiểu rằng đây
là của quý, của hiếm, là thịt, là máu của họ; cho nên tôi sẽ còn khổ tâm biết
bao nhiêu khi phải nhận cái mà họ mời mình gượng ép. Bởi thế, nó sẽ nhẹ nhàng
cho tôi biết bao, nếu họ ăn vào những giờ trưa, hay những ngày Chủ Nhật. Tôi
chỉ cần ra khỏi buồng tránh chỗ họ ăn là được. Tuy rằng, ở trong trại chẳng còn
tránh chỗ họ ăn là được. Tuy rằng, ở trong trại chẳng còn một chỗ nào để tôi
ngồi được thoải mái, yên thân. Hội trường, hè trước, hồi sau, đâu đâu cũng có
nhóm hoặc từng cá nhân ngồi nhai mía. Vậy chỉ còn một chỗ duy nhất, yên tĩnh
nhất, tuy phải cái mùi hơi thối là trong nhà cầu của trại. Tôi đành ra đấy
ngồi; thà để mũi chịu đựng cái mùi phân (phân tù không thối mấy) còn hơn mang
cái nỗi nặng nề ở trong lòng. Nhưng nếu họ ăn vào những buổi tối thì thật là
buồn ơi là buồn! Trời lạnh còn đỡ, trời nóng tôi vẫn phải nằm đắp chăn chùm kín
đầu. Nghĩa là, cứ sau khi sinh hoạt tổ, toán xong, thấy họ rục rịch lôi mía ra
chuẩn bị ăn là tôi phải sắp xếp đi nằm.
Có lần Phan Thanh Vân cứ đập vào chăn bắt tôi
ngồi dậy ăn mía với anh, nhưng tôi đã cảm ơn, nói trong người đang khó chịu. Đã
từ chối một người thì phải từ chối hết. Nằm đấy mà lòng có yên đâu, tai vẫn
nghe họ nhai mía rồn rột ấy.
Tôi cũng hiểu rằng, trong trại hàng mấy trăm
con người, chẳng phải duy nhất có một mình tôi là không có cách nào có tiền.
Tuy số này rất ít, mỗi toán chỉ một hay hai người. Những người này được coi là
kém về mọi mặt. ở cái thành phần vơ vét, nhặt nhạnh. Họ đi vơ, đi gom những bã
mía, vỏ mía để ngày hôm sau đem ra lán hay ra đồng dùng ống nứa tươi nấu kỹ
lại, cô đọng may ra còn ít chút ngòn ngọt. Ngọn mía thì đều bị chặt ngay từ lúc
thu hoạch, để dành trồng cho vụ mía năm tới. Mặt khác, phải hiểu là cái máy
nghiền (hàm răng) của mỗi người tù đói khổ thì bã mía cũng xác xơ, không còn
gì; ngay ruồi nhặng cũng đừng hòng kiếm chác. Thông thường, mỗi đợt trại bán
mía như vậy. Trại ăn lai rai hàng tháng trời mới hết, dù trung bình mỗi người
mua từ 5 kg tới 10 kg, tức khoảng từ 2 cây đến 5 cây mía.
Chính vì những dồn nén của hoàn cảnh sống trong
tù như thế, nên tôi đã nhờ Nguyễn Huy Lân toán trưởng xin với cán bộ toán cho
tôi sang học mộc. Không ngờ, sự đề nghị sang học mộc của tôi lại được ông Kích,
cán bộ toán đánh giá là tiến bộ. Bởi vì với cái nhìn của mọi người vể tổ vernie
là một chỗ lao động tương đối nhàn hạ. Phải là người được chiếu cố, hoặc có ít
nhiều khả năng mới được làm ở đấy.
Tuy công việc vẽ hay đánh vernie không có năng
suất nhưng là một công việc “hoa lá cành” nghệ thuật. Nhiều người có quan điểm
“vạn sự bất như nhàn”, nhưng với tôi, như đã trình bầy ở trên, tôi phải tìm một
cách sống phù hợp với tôi. Còn một điều nữa cũng góp phần thúc hối tôi quyết
định học nghề mộc; Thường thường cứ 10 ngày hay một tuần lễ, có một chiếc xe
vận tải ọp ẹp từ trại chính vào lấy sản phẩm như giường bàn, tủ ghế. Lúc đó,
cán bộ và toán trưởng không bao giờ lấy người thợ chính đi khênh vác mà cứ nhằm
những anh tép riu, nhừng nhỡ, không nghề, không nghiệp bắt đi khênh, chuyển
hàng ra xe đậu bên ngoài cổng lán thủ công. Bị những tên cán bộ hoặc toán
trưởng quát tháo chỉ tay sai phải khênh cái này, vác cái kia làm cho cõi lòng
tôi càng tím thẫm lại hơn. Vả lại, dù mới lên trại hơn 3 tháng cũng đủ cho tôi
thấy: sống ở trong bất cứ một tập thể nào, nhất là ở trong nhà tù càng đầy rẫy
những người chung quanh muốn trèo, muốn đạp mình xuống để họ vươn lên. Bởi vậy,
để khỏi bị đè đầu, chèn ép: một là anh phải tìm mọi cách để vươn lên ở cái thế
lãnh đạo, chỉ huy như trật tự, toán trưởng, tổ trưởng. Hai là anh đi làm chó tố
cáo anh em để có thể của cán bộ, không ai dám đè mình.
Nếu cả 2 thứ trên, không phải là mục tiêu hành
xử của anh thì chỉ còn có một con đường duy nhất: anh phải có một cái nghề
vững, một tay nghề mà ít người làm được như anh. Như vậy mới có thể khả trợ
tránh được những đè ép của đời tù. Tôi nhớ lại một sự việc, cho đến bây giờ vẫn
chưa mờ nhạt được trong lòng tôi:
Chừng khoảng nửa tháng, sau vụ trại bán mía cho
tù. Vào một buổi chiều Chủ Nhật, tôi loay hoay quét dọn, làm vệ sinh ở chỗ tôi
nằm. Phan Thanh Vân đang tắm giặt ở dưới giếng. Khi tôi kéo cái bọc quần áo cũ
của tôi trên cái kệ phía trên đầu sàn. Một cái túi con vải nâu, bé tí bằng bàn
tay đứa trẻ lên 3, đột nhiên rơi xuống sàn. Tôi vội vàng nhặt lấy mở ra, choáng
hồn, bên trong có 4 tờ giấy bạc một đồng, tiền của trại. Trời! Ai có nhiều tiền
thế! Những 4 đồng có phải ít đâu. Tôi đoán chắc là của Phan Thanh Vân, nhưng
sao lại sang chỗ tôi? Có thể Vân đã vô tình để vương sang chăng? Tôi liếc nhìn
Lù Chằn Páng và bác Chánh già ở cách đấy mấy chiếu, đang ngồi khâu vá. Chẳng ai
để ý đến tôi cả. Tim đập hơi khác thường, tôi đấu tranh giằng co giữa 2 vấn đề:
chốc nữa hỏi Vân xem có mất tiền hay không? Hoặc cầm chiếc túi giơ cao, rao to
ở trong buồng: ai có chiếc túi nay, hãy nói bên trong có gì, nếu đúng, tôi sẽ
trả. Hay cứ im đi, cất kỹ nếu có ai kêu mất thì mình sẽ đưa ra. Tôi ngồi thừ ra
một lúc, một ý tưởng lờ mờ, lởn vởn lẻn vào trong óc: nếu mình có 4 đồng này sẽ
ưu tiên cho 2 cái cần thiết là thuốc lào và xà phòng. Cả một năm, mình sẽ ung
dung không phải lo đến 2 thứ đó nữa.
Ôi, 4 đồng, số tiền lớn quá! Tôi thấy bấn hết
cả người lên, vội vàng quét dọn sơ sơ rồi tôi chạy hộc tốc xuống giếng. Thực ra
lúc tôi chạy xuống giếng, cũng không biết để làm gì nữa chứ? Có lẽ để nhìn mặt
Phan Thanh Vân xem sao, thế thôi! Tôi có cảm tưởng là chỉ cần nhìn mặt Vân là
tôi đã biết được ngay tiền đó là của Vân hay không.
Gặp Vân, thấy anh đang lom khom kéo chiếc gầu
tôn nước dội xối xả vào người. Tự nhiên tôi thấy vui hẳn lên. Tôi ca ngợi Vân
chịu lạnh tốt, vì trời vẫn còn lành lạnh của những trận Heo May cuối mùa. Tôi
cười nói huyên thuyên với Vân một lúc, rồi tôi lại chạy về buồng, lấy chăn ra
đắp, nằm suy tính cho dứt khoát. Anh chàng Vân, nếu tinh ý, sẽ thấy ngạc nhiên
tại sao hôm nay tôi lại vui thế; và Vân sẽ phải tự hỏi, tôi xuống dưới giếng để
làm gì chứ? Chả lẽ, trời lạnh như vậy tôi chạy hộc tốc xuống giếng chỉ để nói
vài câu bâng quơ với Vân rồi lại chạy về ư? Nhưng nỗi niềm ở trong lòng mỗi
người, bên ngoài ai mà biết được! Và mỗi người là một cuộc đời riêng, ai để ý
làm gì? Cho tới lúc Vân đã phơi quần áo xong, về chỗ. Lúc Vân lục đục ngay bên
cạnh tôi, thì tôi đã quyết định dứt khoát:tôi sẽ cất kỹ cái túi, im bặt. Nếu
Vân hay bất cứ ai trong buồng kêu mất cái túi thì tôi sẽ lấy ra trả, nói rằng
thấy rơi ở phia đầu giường.
Mặc cho Vân vẫn cứ hì hục bên cạnh, tôi nằm lan
man suy nghĩ hết hướng nọ ngả kia. Từng mảnh đời to nhỏ ngược xuôi, có lúc lững
lờ, lảng vảng, có lúc vùn vụt chạy qua óc tôi. Tư tưởng diễn tiến của một con
người cũng thật phức tạp, kỳ lạ. Mới nửa giờ trước còn định cầm cái túi rao to
lên để trả cho người mất, thế mà giờ đã thay đổi khác rồi, đã thấy mình có một
phần quyền lợi trong cái tiền 4 đồng, thực tế là của người khác. Tôi nhớ vào
khoảng năm 1958 ở thành đô đầy hương sắc và tình người:
Vào một buổi tối, tôi và đứa em trai 15 tuổi
đèo xe đạp nhau đi xem xi nê ở rạp Nam Quang trên đường Lê Văn Duyệt. Chúng tôi
xem suất cuối, từ 9 giờ đển 11 giờ đêm. Hôm ấy chiếu phim gì cho tới nay tôi
không còn nhớ rõ, nhưng một sự việc trong buổi ấy vẫn hằn lên trong lòng tôi không
thể phai mờ.
Trong rạp, khi phim vừa hết, đèn bật sáng. Mọi
người đều lũ lượt theo nhau ra phía cửa rạp để về nhà cho sớm. Tôi và thằng em
đứng lên sau cùng, chúng tôi đều nhìn thấy ở hàng ghế phía trên, một chiếc ví
da dầy cộm đang nằm phơi mình trên một chiếc ghế. Nhìn quanh, suốt mấy hàng ghế
đó chả còn ai. Tôi nghiêng cúi người sang cầm lấy chiếc ví, mắt ngơ ngác nhìn
theo những giòng người đang chen chúc nhau ra về.
Tôi chờ, tôi tưởng như sẽ có một người hốt
hoảng trở lại hàng ghế để tìm chiếc ví của mình. Vì thế, tôi vẫn cầm nguyên
chiếc ví ở tay chẳng dám mở ra để biết cái gì bên trong. Mãi cho tới lúc người
ta đã ra hết, tôi ra hiệu cho thằng em cũng ra ngoài cửa, trước con mắt chằm
chằm của nó đang nhìn vào chiếc ví.
Khi ra đến ngoài, cửa rạp đã lưa thưa, vãn hẳn
bóng người. Trời đã vào khuya, 11 giờ 30 đêm rồi! Một tay tôi vẫn cầm chiếc ví,
một tay dắt chiếc xe đạp. Tôi còn bấn loạn tâm hồn chưa biết quyết định ra sao
trước một việc bất ngờ thế này. Thằng em trai cứ líu ríu theo tôi, nó vẫn tin và
làm theo những quyết định của tôi. Dùng dằng, do dự một lúc, tôi quyết định
phải mở chiếc ví ra xem bên trong có cái gì? Tôi đưa chiếc xe đạp cho người em
dắt, dẫn lại dưới một cột đèn sáng, tôi mở chiếc ví. Lần đầu tiên trong cuộc
đời hai anh em tôi nhìn thấy dollars Mỹ. Có khoảng 10 tờ giấy 10 dollars, hơn
một chục dollars loại giấy một đồng, và một tờ giấy dollar 50 đồng. Ngăn bên
kia, hơn 20 tờ giấy một trăm tiền của Việt Nam Cộng Hòa. Còn nhiều giấy tờ nữa,
đút đầy trong các ngăn của chiếc ví mà tôi không dám và không muốn lục lọi kỹ.
Tôi vẫn có cảm tưởng là không được xục xạo chuyện riêng tư của người khác. Tôi
nhìn thấy một tấm thẻ tên Võ Văn Ba số nhà 50B đường Lê Văn Duyệt, Gia Định.
Lúc này, tim tôi càng xốn xang đập mạnh hơn.
Trời lại càng khuya, đường phố đã vắng hẳn bóng người. Tôi có ý định, hay đem
vào gửi người coi rạp xi nê để cái ông Ba này sẽ trở lại hỏi, tìm chiếc ví.
Nhưng khi 2 anh em tôi trở lại trước cửa rạp thì họ đã đóng chặt hết các cửa
rồi, im ắng, chả còn ai ở đấy. Đầu tôi chợt lóe lên một ý tưởng, tại sao không
mang đến trình, nộp cho bót cảnh sát? Nghĩ thế, tôi bàn với thằng em, rồi dẫn
xe đạp xuống đường, háo hức đèo nhau về bót cảnh sát quận nhất.
Đường khuya, phố vắng, phần vì lo về nhà quá
khuya sẽ bị bố mẹ la rầy, phần vì thấy lòng hân hoan vui thích cứ tưởng như
chúng tôi đang làm một chuyện tốt, một chuyện được nhiều người khác khen ngợi
là đã làm đẹp cho cuộc đời. Vì vậy, tôi càng gò lưng miệt mài chiếc xe phóng
như bay trong đêm khuya.
Đến đồn cảnh sát, đã 12 giờ rưỡi khuya, vắng
lặng, chả thấy ai ở bàn trực. Hai anh em tôi trở ra, trở vào thập thò một lúc
mới thấy một ông cảnh sát ở trong buồng đi ra. Thoáng thấy chúng tôi, ông ta
quát lớn:
- Mấy cậu kia đi đâu?
Tôi vào, đặt chiếc ví lên bàn và trình bầy lý
do đã nhặt được nó. Cuối cùng, tôi nhờ cảnh sát trả lại chiếc ví cho người chủ
của nó. Ông ta cầm ngay lấy chiếc ví, mắt ông ta chuyển ngay từ mầu vàng, cái
mầu của hách dịch, lạnh lùng sang cái mầu xanh lam êm dịu nhìn chúng tôi. Rồi
tới khi ông ta mở chiếc ví thì mắt ông ta như lồi thêm ra, mồm há hốc. Tay ông
ta run rẩy lôi những tờ dollars ra để xuống bàn, mắt ông ta lại ra vẻ lấm lét
nhìn chúng tôi. Tay ông ta chỉ hàng ghế dọc theo phía tường trước bàn, miệng
ông ta nói trong nỗi xúc động tràn ứ:
- Các cậu hãy ngồi xuống đó cho khỏi mỏi chân.
Cũng là lúc một ông cảnh sát nữa từ ở phía
trong đi ra. Hai ông vừa đếm tiền, vừa xem xét các giấy tờ. Thỉnh thoảng các
ông lại liếc về phía chúng tôi. Chừng 10 phút sau, các ông nói nhỏ với nhau một
lúc rồi cùng tiến lại phía chúng tôi. Ông cảnh sát ra lần sau, đặt một tay lên
vai tôi nói rất nhỏ nhẻ, êm dịu:
- Các các cậu vẫn còn là học sinh phải không?
Các cậu đã làm một việc đáng khen, bây giờ, các cậu có thể về nhà nghỉ, kẻo
khuya rồi. Chúng tôi sẽ có trách nhiệm mang chiếc ví lại trả lại cho người chủ,
và chúng tôi thay mặt người chủ chiếc ví cảm ơn các cậu.
Hai ông cảnh sát rất vồn vã, tiễn hẳn chúng tôi
ra đến cửa, còn đừng nhìn theo chúng tôi đạp xe đi xa rồi mới quay vào.
Về đến nhà, đã 2 giờ khuya, tuy mệt nhọc, nhưng
lòng chúng tôi thênh thang như mở hội. Tôi vẫn nhìn thấy cuộc đời toàn gấm hoa
rồi mơ màng chìm dần vào giấc ngủ muộn của tuổi đôi mươi.
Mấy hôm sau, tôi đem chuyện nhặt được chiếc ví
khoe với mấy người bạn. Họ đều nêu lên vấn đề là có thể các ông cảnh sát sẽ lấy
hết tiền, rồi chỉ trả cho người chủ chiếc ví những giấy tờ mà thôi. Họ trách
tôi, sao không để hẳn lại ngày hôm sau mang lại nhà trả cho ông Võ Văn Ba.
Tôi cũng thấy ý kiến của các bạn cũng có khá
đúng, nhưng phần vì tôi không muốn mang chiếc ví lại nhà họ, để ra cái vẻ mặt
một người làm ân đứng trước một người thọ ân. Phần khác, tôi vẫn cho rằng, tôi
đã làm tròn, làm đẹp cái khâu trách nhiệm của mình rồi. Nghĩa là nhặt được của
rơi đã đưa đến nộp cho cảnh sát. Vậy còn những khâu khác, nếu họ không làm tốt,
làm đẹp thì thuộc về cuộc đời rồi, tôi làm sao mà lo hết?
Từ chuyện chiếc ví năm xưa, giòng tư tưởng của
tôi lại chảy dài về một sự việc khác, 7 năm sau đó, ở Hỏa Lò Hà Nội: giai đoạn
này tôi đang ở xà lim I (xà lim án chém). Xà lim lúc đó do ông Dư phụ trách.
Một sự việc mà tôi vẫn thấy lòng bâng khuâng, buồn buồn mỗi khi nghĩ đến. Tôi
nhớ vào một buổi, tôi cũng vào nhà tắm để đổ bô như thường lệ. Trong khi tay
tôi vẫn khoắng bô tráng nước thì mắt tôi liếc đây đó, nhất là cái thùng đựng
giẻ chùi (tôi đang tìm giẻ để khâu đồ chống muỗi). Tôi thoáng thấy ở mé bậu cửa
có một miếng xà bông thơm, mầu xanh to bằng 2/3 hộp quẹt diêm. Phải nói là từ
mấy năm rồi nằm ở xà lim, tôi ước mong có một miếng xà bông con như vậy, nhưng
chưa bao giờ được. Tôi có cài bàn chải đánh răng, từ bao lâu chỉ đánh bằng nước
lã. Tuy tôi không nhìn thấy, nhưng tin chắc là răng tôi bẩn lắm, sợ có thể bị
sâu, hơn nữa hôi mồm. Tôi cần một miếng xà bông bất kể là loại gì, chả cần to
lắm. Mỗi ngày tôi chỉ cần quệt có một tí cho có bọt rồi đánh răng cho nó sạch
miệng.
Thế mà hôm nay, bất ngờ lại nhìn thấy, tôi suy
đoán, có thể của một nữ cán bộ nào vào tắm rồi quên. Và cũng có thể là của một
buồng nào đó họ để họ để quên không chừng. Tôi đã nhét vào cạp quẩn, rồi băn
khoăn lại moi ra định để lại chỗ cũ. Nhưng sau không cưỡng nổi với lòng tham
của tôi, vì một miếng xà bông này, tôi có thể dùng ít ra được một năm, trong
khi không còn một cơ hội nào để tôi có cả. Vì vậy, tôi lại nhét trở lại cạp
quần và mang về buồng.
Vào buồng, tôi đang hý hửng với một món đồ quý,
ngẫu nhiên lại có, thì buồng số 14 báo cáo giọng Quảng Nam trọ trẹ:
- Béo céo cán bộ, buồng tôi để quên miếng xà
bông trong nhà tắm!
Tôi vừa hồi hộp, vừa ngần ngừ lắng nghe. Tiếng
báo cáo 2 – 3 lần mới thấy tên Dư vào mở cửa buồng:
- Để quên đâu vào mà lấy!
Tôi ngập ngừng, giằng co giữa muốn báo cáo trả,
nửa không muốn trả. Cuối cùng giọng số 14 vừa từ nhà tắm đi ra vừa báo cáo:
- Béo céo, buồng nào đã lấy mất rồi!
- Miếng xà bông to không?
- Bằng bao diêm, bánh xà bông hoa nhài, vợ tôi
mới gửi vào, tôi cắt đôi.
Tôi biết xà bông hoa nhài giá 4 hào, một bánh.
Đây là ½ bánh, nhưng đã dùng nhiều lần rồi chỉ còn bằng 2/3 bao diêm thôi.
Giọng tên Dư lại cất cao:
- Buồng nào lấy nhầm miếng xà bông của người
ta, báo cáo trả lại cho người ta. Nếu không, tôi vào từng buồng khám thấy thì
đừng trách.
Tôi đã lưỡng lự, định báo cáo trả, nhưng khi
nghe y đe dọa sẽ khám các buồng thì tôi lại không muốn trả nữa. Để xem y có
khám được không! Tôi cúi nghiêng xuống, sờ tay xuống mặt dưới của cái sàn xi
măng. Vì là mặt dưới nên họ đổ xi măng hãy còn lỗ chỗ, sần sùi sỏi lẫn cát. Tôi
lấy miếng xà bông ra, mò tay xuống ấn ngược lên, miếng xà bông dính chắc. Như
vậy có trời mà tìm, trừ trường hợp có cái máy ngửi xà bông thì mới họa chăng.
Tên Dư cũng chỉ phách lối, dọa như vậy, chứ cũng không đi khám buồng nào cả.
Tôi cứ nằm bồng bềnh, đầu óc cứ hết cuộn vào
rồi lại mở ra. Từ chuyện cái ví năm xưa, đến miếng xà bông mới đây ở dưới Hỏa
Lò và bây giờ là 4 đồng bạc. Nội dung của chiếc ví và 4 đồng bạc lúc này thật
là giống nhau, nhưng đã thay đổi hẳn hồi kết cục chỉ vì nó cách nhau một thời
gian 10 năm. 10 năm trước, tâm hồn của một người thanh niên hãy còn trong
trắng, chở đầy chiếc thuyền đời toàn là nhung với lụa. Mười năm sau, cũng người
thanh niên ấy, tâm hồn đã vẫn đục như nước lũ mùa Hè.
Như vậy, phải chăng do chính tôi đã làm cho tôi
xấu dần theo tuổi đời, hay do xã hội, cuộc đời đã làm bẩn dần tâm hồn của một
con người? “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, từ đấy suy ra, người càng già thì
càng nhiều thói xấu, càng đục hay sao? Tôi không tin như vậy! Có thể con người
ta sẽ xấu, sẽ đục đến một cái mức nào đó, đến một cái tuổi nào đó, rồi người ta
lại phải tìm về cái đẹp, cái thiện và lọc dần cho tâm hồn trong lại. Cho nên mới
có nhiều ông già, bà già rất phúc hậu đạo đức.
Hàng tuần lễ sau khi tôi vớ được 4 đồng, cũng
chả thấy ai kêu mất tiền. Hơn một tuần rồi, phải thành khẩn mà nói rằng: lúc
này dù có ai kêu mất tiền, chưa chắc tôi đã trả, vì tôi đã biết một anh ở toán
6 có một miếng xà bông to. Anh đã bằng lòng bán cho tôi với giá một đồng, hơn
nữa, tôi đã dự trù cuối tháng nhờ mua mấy gói thuốc lào nữa rồi.
Tôi quan sát, nghe ngóng từng người chung quanh
tôi. Tôi có thể đoán gần chắc 4 đồng bạc này là của Phan Thanh Vân, Vân có
nhiều tiền nên để quên hoặc lại tưởng rơi ở nơi khác nên đã không kêu, không
hỏi.
34. Phỉnh Phờ Phạm Nhân Làm Chó
Tôi
đã được chuyển về tổ học nghề mộc do Nguyễn Huy Lân, toán trưởng dạy hơn một
tuần rồi. Tổ này, không kể anh Lân gồm có 5 người. Điều làm tôi mừng vui là lại
có cậu Toàn Thái Lan và anh Thành Xuân Yên, những người cùng mâm cơm với tôi từ
khi tôi mới lên trại.
Hàng ngày tôi làm quen dần với các loại dụng cụ
và những từ chuyên môn của nghề mộc. Anh Lân đã chỉ cho tôi cách mài chàng, mài
đục, bướm, lưỡi bào v.v… Dần dần, tôi hiểu được thế nào là cưa mộng, cưa rọc,
bào lau, bào phá, bào thẳm. Sau những bỡ ngỡ, chập choạng của những buổi ban
đầu, chỉ 3 ngày sau tôi đã có thể tự lấy mực và làm hoàn thành một chiếc ghế
đẩu. Chiếc ghế đẩu được Nguyễn Huy Lân khen là đẹp, chắc chắn, nhẵn nhụi, tuy
nước bào lau còn cần phải thao tác, nghiên cứu nhiều.
Tôi say sưa nhìn tác phẩm đầu tay của tôi. Tôi
trìu mến, ve vuốt nó, hân hoan lòng tự nhủ lòng: chính bàn tay mình đã làm được
một sản phẩm hữu ích cho đời dù bé nhỏ. Từ ý thức phải học một cái nghề cho
tinh, cho vững ở trên tôi đã trình bầy. Phần khác cũng do quan điểm: “nếu trong
cuộc sống chưa có cái mình thích, thì hãy thích cái mình đang có”. Trong điều
kiện hiện nay ở nhà tù thì tôi phải yêu cái nghề mộc này. Tôi yêu cái tôi đang
có. Chính vì vậy, tôi đã háo hức hăng say học hỏi và nỗ lực lao động. Chỉ sau 2
tuần lễ, tôi đã làm được một ghế đẩu trong một công lao động (một ngày). Đạt
mức khoán, điều mà tổ học nghề, trước đấy chưa ai đạt.
Đợt kế tiếp, tôi nhận lãnh 5 chiếc ghế đẩu, tôi
chỉ thao tác trong 4 ngày là đã hoàn thành. Như thế tôi đã vượt năng suất một
công. Theo quy định của trại, một công lao động của một người tù trị giá 4 hào.
Có thể do anh Lân báo cáo thế nào với cán bộ Kích. Nhiều lần, y xuống dưới lán
mộc, đứng hàng giờ quan sát tôi miệt mài thao tác lao động, để rồi cuối tháng
đó anh Lân nộp danh sách bình bầu mức ăn của toán cho cán bộ toán. Chính tên
Kích đã bảo anh Lân ghi tên tôi vào danh sách những người được ăn 18 kg để cho
y duyệt rồi đưa lên ban giáo dục (Lân về kể riêng cho tôi biết). Trong khi ở
toán không ai bình bầu cho tôi cả vì mới lên trại và còn đang ở tổ học nghề.
Điều này, cũng làm cho một số anh em trong toán không hiểu rõ đã nhìn tôi với
vẻ dè dặt, ít thiện cảm. Tôi đành chấp nhận, tôi không thể đi thanh minh với
hết mọi người, vả lại tôi phải cần có một số tiền để giải quyết những cái tối
thiểu trong cuộc sống tù của tôi. Điều quan trọng, điều chủ yếu là việc tôi làm
không trực tiếp thiệt hại đến người khác là được rồi.
Chiều nay, một tin làm cho mọi người choáng
váng đờ đẫn. Ngoài lán thủ công, mọi người đang cắm cúi lao động thì anh Lân từ
phòng cán bộ xuống lán cắt cử 4 người đóng gấp cỗ quan tài phải xong trước giờ
trại về. Anh Phồn Lạc trong nhà kỷ luật từ mấy ngày nay không ăn uống gì được
mà chỉ nôn ra máu. Trưa nay, khênh anh xuống bệnh xá cấp cứu, nhưng anh đã trút
linh hồn khi vừa đặt anh nằm xuống trên chiếc giường duy nhất của bệnh xá. Anh
đã thoát khỏi cảnh đọa đầy, khổ đau của đời anh.
Người ta rì rầm bàn tán, ngực của anh khi chết
rồi bị tím đen lại. Ngoài ra toán 4 và toán 6 có 3 người nữa vừa phải vào nhà
kỷ luật sáng nay. Ngay anh Hai Sơn của toán 2, anh mới được ra kỷ luật đang ốm
bịnh ở nhà, chẳng hiểu sao trưa nay cũng phải ôm chăn chiếu vào nhà kỷ luật.
Một bức màn đen tối đầy lắng lo, buồn thảm đang bao trùm tâm hồn mọi người.
Đêm nay tôi nằm mãi không ngủ được, tâm tư khắc
khoải cứ cuộn vào cái mớ bòng bong bất hạnh của đời mình. Bên ngoài, trận mưa
từ chập tối vẫn kéo dài rả rích canh thâu. Tiếng những giọt mưa ở mãi hồi sau
cứ rơi thõng thượt gợi sầu. Nghe tiếng mưa rơi trong đêm dài không ngủ, dù lòng
còn đang tê dại với cảnh đời tăm tối của mình, óc tôi vẫn gợi tưởng tới mấy câu
thơ của Huy Cận thì phải:
Lắng nghe giọt nhẽ rơi rơi.
Heo May hiu hắt bốn bề tâm tư.
Tâm tư hướng lạc phương mờ.
Trở nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe.
Gió về lòng rộng không che.
Phải nói là gối gỗ nằm tê cứng cả đầu, đau cả
cổ chứ còn tìm đâu ra gối mộng của đời mình. Giòng tư tưởng cứ bập bềnh nổi
trôi; một thoáng về miền Nam xa vời phía bên kia chân trời, một thoáng về Hỏa
Lò với dáng hình chiếc lưng ong của người Hưng Yên chập chờn, lẩn quất chìm dần
vào giấc ngủ muộn đêm rừng mưa dai.
Sáng nay, tôi đang ngồi chờ trong hàng, đợi gọi
đến toán 2 xuất trại thì anh Lân, sau khi gặp cán bộ toán, anh quay xuống chỗ
tôi và Lê Khắc Dũng mũi khoằm bảo ở lại gặp cán bộ. Thằng Dũng này trong vụ của
Phạm Huy Tân, từ lâu với tôi không ưa, vì thế khi trở về buồng nó với tôi chẳng
nói với nhau một lời. Một lúc sau tên Cẩn trực trại vào dẫn nó ra khu giám thị
trước, rồi y lại trở vào gọi tôi. Ngay từ sớm, tôi đã suy đoán có thể hôm nay
sẽ lại gặp Hoàng Thanh. Tôi chưa hiểu y gặp tôi để làm gì, từ buổi nói chuyện
với y về hoa ở sân trại, lòng tôi mong muốn là không gặp y nữa. Đến khi bước
vào buồng thì ra tên thiếu úy Đức trưởng ban giáo dục trại E. Sau khi y chỉ
chiếc ghế đẩu cho tôi ngồi, tay y cứ xoay xoay cái lọ mực ở trên bàn, mặt y
tươi tỉnh vẻ săn đón:
- Anh kỳ này có khỏe không?
Vì là lần đầu tiên tôi gặp y nên tôi ngửng đầu
lên nhìn y dè dặt:
- Dạ, cảm ơn ông tôi bình thường!
Tay vẫn xoay xoay lọ mực y vồn vã:
- Tuy tôi chưa gặp anh, nhưng tôi đã được các
đồng chí phản ảnh anh đã đứng đúng chỗ đứng của mình. Trong sinh hoạt học tập
cũng như trong lao động anh đã tỏ rõ lập trường minh bạch, không mập mờ ẩn núp,
lao động hăng say; chính sự lao động này đã thể hiện tư tưởng của anh. Chúng
tôi được đảng và nhân dân giao phó có trách nhiệm giúp đỡ anh tiến bộ đúng theo
đường lối giáo dục cải tạo của đảng.
Ngồi nghe y nói, tôi thấy y ít nhiều có học hơn
một số tên ở đây. Trông y trắng trẻo, người lại bé nhỏ như con gái. Chiếc hàm
công an thiếu úy bạc mầu, đã nói rằng y mang nó từ lâu. Trong cách y nói, chẳng
qua y dùng những thủ thuật nghề nghiệp của y mà thôi. Bởi vì từ những tháng
trước, tôi đã nghe nhiều tên cán bộ mắng mỏ, xỉ vả phạm nhân là đã lấy lao động
để che dấu những tư tưởng phản động. Chỗ này, y tìm một điểm tốt của một người
rồi khích lệ, ca ngợi để lôi kéo người đó về phía mình, theo mình, ủng hộ mình;
vì nghĩ thế nên tôi cứ ngồi yên nghe y nói tiếp. Hết xoay lọ mực y lại cầm cái
tẩy vê vê trên 2 ngón tay:
- Gần 4 tháng nay, với khả năng của anh, hẳn
anh đã nhìn rõ những người chung quanh anh: có người tư tưởng tốt, có người tư
tưởng xấu. Người có tư tưởng xấu, người có tư tưởng sai cũng ví như một con
bệnh phải cần có thầy thuốc chữa cho là cán bộ giáo dục. Nếu người thầy thuốc
không biết rõ căn bệnh của người bệnh thì chữa làm sao, mà nếu không chữa khỏi
bệnh thì làm sao con bệnh về với gia đình, vợ con, bố mẹ? Vì vậy, anh phải có
trách nhiệm giúp những người đó, bằng cách tìm hiểu là bệnh gì, mức độ nặng nhẹ
tới đâu rồi anh trình bầy với thầy thuốc là cán bộ. Từ đấy cán bộ mới biết được
căn bệnh của họ để chữa trị. Có như vậy anh đó mới chóng được về với gia đình,
như thế anh đã trở thành người ân đối với anh đó. Sau đây, tôi sẽ hỏi anh và
gợi ý cho anh một số vấn đề. Tuy tôi hỏi về người khác, nhưng chính thái độ trả
lời trình bầy của anh để chúng tôi hiểu về tư tưởng của anh đấy.
Nghe y nói đến đây, tôi thấy y ví von người tù
như một con bịnh thì cũng không đúng lắm nhưng tôi chợt thấy ý tưởng của y
giống hệt tên Phan Tấn Hưng đã nói với tôi ở Hỏa Lò, chỉ có khác là ở đây kèm
theo áp lực đe dọa nữa. Thì ra cùng ở trong một cái lò, lời nói, ý tưởng của
chúng cũng cùng trong một cái khuôn như nhau. Tuy vậy, tôi cũng hơi bàng hoàng,
băn khoăn. Trước đây tôi tưởng, tôi có thể lấy cái khâu lao động tốt để sống
yên thân, sống chìm như hòn sỏi, hòn đá nhưng như thế này cũng thật khó ổn. Để
thăm dò tôi phát biểu, nhất là thái độ của y lại đang im lặng chờ tôi nói:
- Thưa ông, từ ngày lên trại, tôi đã xác quyết
chỉ có một con đường duy nhất là quyết tâm cải tạo mình để mong một ngày nào đó
được hưởng lượng khoan hồng của đảng và chính phủ. Bởi vậy, tôi chỉ nỗ lực,
hăng say học nghề một cho tốt, từ đấy tôi có điều kiện để làm ra của cải cho
trại.
Nghe tôi nói đến đây, y cau mày rồi giơ tay
ngăn lại không cho tôi nói nữa:
- Thôi thôi, anh đã cố ý không muốn hiểu lời
tôi nói, vậy anh có thể đứng lên đi về trại.
Nói rồi mặt y lạnh hẳn lại. Tôi hiểu, tôi không
được phép làm căng, cương ở đây mà nó đã đè thì không còn có cơ hội nào đứng
dậy được, vì vậy tôi xả hơi:
- Thưa ông, tuy tôi đã ở tù lâu, nhưng thực sự
ở chung với đồng phạm chỉ mới mấy tháng nay, do thế còn nhiều điều tôi chưa
hiểu rõ. Ông là cán bộ giáo dục của đảng, để nghị ông hãy chỉ dạy cho tôi những
đường hướng tôi phải đi, những việc tôi phải làm.
Mặt y tươi dần lại, xoay hẳn người về phía tôi
mà từ nãy y đã xoay ra phía cửa sổ :
- Anh phải biết rằng, chúng tôi đánh giá các
anh, những gián điệp, biệt kích từ trong Nam ra xâm nhập miền Bắc hoàn toàn
khác. Các anh là những đứa con ở xa cha mẹ, xa nhân dân, thường ngày chỉ nghe
lũ tay sai và đế quốc, xúi dục, phản tuyên truyền, nói xấu cha mẹ. Các anh đã
hiểu được lòng cha mẹ thương nhớ những đứa con phải xa nhà, lạc mẹ thế nào đâu,
nên đã nghe theo lời dụ dỗ, phỉnh phờ của chúng trở về làm hại, chống cha mẹ
mình. Bây giờ các anh đã về đây, đã thấy, đã hiểu được lòng cha mẹ, cho nên các
anh dễ cải tạo lắm. Ngược lại, những tên phản cách mạng ở ngay trong nhà, những
tên phản động đội lốt tôn giáo đã hiểu rõ đường lối chính sách vì nhân dân của
đảng và chính phủ. Nhưng chỉ vì những quyền lợi cá nhân, cục bộ nhỏ bé của
mình, chúng đã lập phái này, đảng kia để nói xấu, để chống phá cách mạng. Những
loại này rất khó hay không thể cải tạo được. Nhưng với vũ khí vô song là vô sản
chuyên chính, đảng và nhà nước cương quyết đập tan, phá nát mọi tư tưởng phi vô
sản. Tiêu diệt mọi khuynh hướng phản động của giai cấp bóc lột để tạo dựng một
xã hội công bằng, ai cũng như ai. Do đấy, anh có trách nhiệm giúp nhà nước hoàn
thành sứ mệnh cao cả ấy.
Y hùng hồn dùng đao to búa lớn quá, tôi thấy
rằng, tốt nhất hãy tìm cách “hoãn binh” để rồi tùy theo sẽ lựa thế sau. Dù rằng
chưa dám đóng hẳn cánh cửa, nghĩa là từ chối thẳng thì cũng phải mở hé ra kẻo
rồi sẽ khó khăn về sau này, nghĩ thế tôi phát biểu:
- Thưa ông, hôm nay được ông chỉ dạy cho tôi
hiểu biết thêm được nhiều điều mới lạ. Tôi tự hiểu trong đầu óc của tôi còn đầy
rẫy những tư tưởng lạc hậu, lỗi thời phản động. Từ nay tôi sẽ quyết tâm gột rửa
dần dần vì tôi nghĩ rằng: bản thân tôi, lòng có sạch, tâm có trong thì mới nhìn
được sự trong đục chung quanh mình.
Y đứng dậy, đi ra phía cửa sổ nhìn ra bên
ngoài, rồi ngoái lại gằn giọng:
- Được, thời gian còn dài, tôi cho anh về suy
nghĩ cho thấu đáo. Tùy anh sẽ chọn con đường sáng sủa thênh thang, hay con
đường chông gai, đen tối.
Tôi trở về trại, lòng buồn rười rượi. Ngày hôm
sau, tôi đem nỗi niềm nặng chĩu tâm sự với bác Lẫm, tôi mới hiểu được thêm
những mánh khóe, thủ đoạn của những tên cán bộ giáo dục: cũng chính tên Đức,
hơn một tháng trước đấy đã gọi bác Lẫm lên để giáo dục lại nói: “các anh là con
cái trong nhà, dù có sai phạm, lỗi lầm thì chỉ là nhất thời cũng như đứa con
hư, nên bố mẹ dạy bảo, sửa chữa chẳng khó khăn gì; chỉ những tên biệt kích,
gián điệp từ trong Nam ra phá hoại thành quả của cách mạng. Chúng là những loại
khát máu, phản động bóc lột, làm tay sai cho ngoại bang, ngay từ trong xương,
trong thịt, bởi vậy rất khó cải tạo. Do đấy, các anh là con cái trong nhà, hãy
nâng cao trách nhiệm, để ý tìm hiểu những tư tưởng, việc làm của chúng, kịp
thời báo cáo rõ ràng với cán bộ v.v…” Nghe bác Lẫm thuật lại, đã làm tôi bàng
hoàng! Phải nói rằng giữa bác Lẫm với tôi do những quan hệ thâm tình nhìn được
từ trong ánh mắt của nhau nên đã cởi mở từ đáy lòng trao đổi, cho nên những thủ
đoạn quỷ quyệt của chúng mới sáng rõ. Tôi bị bàng hoàng vì tôi chợt hiểu rằng:
trong cảnh sống đầy đau thương và đe dọa này, hầu hết không ai dám tâm sự với
ai. Ngay như tôi, chỉ với bác Lẫm là duy nhất tôi mới dám tâm sự cởi mở hết
lòng, trong khi dù Lê Sơn, Vân hay nhiều người khác, nhìn trong sinh hoạt tưởng
như là thân nhau lắm, nhưng tôi cũng như họ đâu dám thực sự tin nhau hoàn toàn;
cho nên ai cũng ngậm miệng để khỏi di họa. Mà như vậy thì với mức độ khác nhau
đều bị rơi vào cái bẫy của cộng sản:
Ngăn cách, ly gián, gây nghi ngờ giữa mọi phạm
nhân với nhau, từ đấy mỗi người tứ tưởng chỉ có mình mới được cán bộ tin cẩn
đánh giá tốt, không tốt mà lại giao cho nhiệm vụ đặc biệt theo dõi, tìm hiểu
từng cá nhân ở trong trại?
Sau buổi nói chuyện với bác Lẫm, tôi nhìn mọi
người ra vào sinh hoạt, tôi liên tưởng đến một câu chuyện “người chủ nhà và ba
người thợ gặt”:
Anh chủ nhà có ruộng. Anh mướn được ba người
thợ gặt khác nhau. Mục đích anh chủ nhà muốn là: công việc gặt hái phải nhanh,
tốt, không để vương vãi phí phạm. Anh gọi từng người riêng biệt, mà không cho 2
người kia biết, vào trong buồng, rót cho một ly rượu nhỏ rồi trìu mến, ân tình
căn dặn: “Ngay từ đầu tôi chỉ tin tưởng nơi anh, hai anh kia không có tinh thần
trách nhiệm, nên tôi không thể yên tâm giao việc cho họ; vậy tôi giao mọi việc
gặt hái cho anh. Anh hãy để ý xem xét và cố gắng làm việc; tôi sẽ không để thiệt
anh.” Nếu ba người thợ gặt này thổ lộ với nhau thì cả ba anh sẽ thấy rõ âm mưu
của chủ nhà, vì mỗi anh đều cũng được một chén rượu như nhau. Nếu không, mỗi
người sẽ tưởng bở, ông chủ nhà chỉ tin mình và tốt với mình mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét