Cái dốc xoai xoải bến Tắm này là như thế. Dòng
sông Đằng là như thế. Trong kịch bản phim đã ký hợp đồng với Cục Điện ảnh nhan
đề Những người đang sống (và nhờ công sức của Nguyễn Vũ Phương, hắn đã được tạm
ứng sáu trăm đồng) có một cảnh phà Tắm sang ngang. Hắn thích cảnh ấy. Đó là một
đặc trưng thành phố hắn ở. Có thể dùng trực thăng quay toàn cảnh hai đầu bến
lát đá xoai xoải, chiếc ca- nô xình xịch kèm cái phà to bè giữa dòng, rồi quay
cận cảnh làm một cái travelling nét mặt từng người và cuối cùng đặc tả đôi trai
gái yêu nhau đang qua phà Tắm về quê trình diện bố mẹ. Bến Tắm đã vào cả trong
sáng tác vẫn như trước đây, cái bến phà gần gũi lần nào cũng qua hai lần ấy ở
xa 75 là thé, thoáng đáng là thế, phóng khoáng mênh mỏng là thế mà cũng gắn bó
với đời tù của hắn.
Vẫn là trời riêng, mây riêng. Gió riêng. Gió
của những khoảng không vô tận mặt biển thổi vào. Gió sông Hồng làm hắn xúc
động, nhưng ví sao được với gió sông Đằng. ở đây nhìn xuôi dòng, bãi sú bốn mùa
xanh, xanh mãi thấp mãi về phía xa hút tầm con mắt. ở đó là chân trời, góc
biển. Năm năm giam hãm hắn đã qua phà Tắm ba lần. Kỷ niệm hãi hùng về bến phà
với Ngọc là ngày 16 tháng 4, cùng con Nguyệt mắc kẹt giữa hàng nghìn người chen
chúc qua sông. Với hắn là chuyến đầu tiên rời 75 ra đi cùng đông anh em trên
chuyến xe bịt bùng, chứ không phải hai chuyến sau chỉ có một mình trên chiếc xe
com-măng-ca đít vuông từ Q.N về 75 ăn Tết rồi lại từ 75 trở lại Q.N.
Đứng trên bến phà không thể không nghĩ tới
ngày hôm ấy, không thể không nghĩ tới chuyến ra đi đầu tiên ấy. Đi đâu không
biết. Nhưng chắc lên rừng. Đau đớn là suốt thời gian chống Pháp hắn ở rừng, hắn
cùng rừng bầu bạn, hắn tin tưởng ở rừng. Nay rừng làm hắn khiếp sợ. Rừng đợi
hắn trở về để rừng đày đọa giam hãm hắn, và khi trông thấy màu xanh lầm lì hăm
dọa của rừng, lòng hắn thắt lại, thì trong xe có những tiếng gào lên:
Rừng ơi! Ta đã về đây, đem sức của đôi tay lao
động,
khó hhăn không quản ngại.
Rừng ơi! Trong tiếng ca hôm nay...
Tiếng hát của những người đã chai sạn với rừng
tù.
Đau đớn từ lúc xe mới rời 75, còn đi trong
thành phố, anh em khe khẽ nói tên những đường phố xe đang qua như những lời
vĩnh biệt. Đau đớn là không có cách gì báo tin cho bố mẹ, vợ con, anh em biết
mình không còn ở P. nữa. Mình đã bị đưa đi rồi. Biệt xứ rồi.
Lại càng chăm chú nhìn đám đông trên dốc phà.
Hy vọng bố sang phà. Hoặc vợ về quê. Hoặc chỉ một người quen thôi, để người ấy
về kể lại rằng đã nhìn thấy hắn đi. ở góc đầu dốc phà, bốn năm người cả người
lớn trẻ con đứng tụm lại. Họ không qua phà. Họ đứng nhìn vào xe. Họ gật đầu. Họ
khẽ vẫy. Một gia đình nào đó được báo trước tù chuyển đi sáng nay, kéo cả ra
đây đứng chờ để được nhìn thấy người thân của mình lần cuối... Họ chỉ dám đứng
xa xa. ôi! Giá vợ con hắn đứng đó. Để hắn nhìn thấy một lần. Bỗng cả phà nhốn
nháo. Một tiếng phụ nữ gào khóc:
- Sáng ơi! Em đi đâu đấy, hở em? Hắn nhớ lúc
đó. Đang ngồi trên xe, còng chung với một người nào đó, hắn và nhiều người bị
xô nghiêng. Sáng nhoài ra kêu to:
- Chị Dậu ơi. Em đi rồi. Không ở 75 nữa, chị
ơi!
Sáng thật may mắn. Bao nhiêu người thèm được
nói một câu như Sáng, nhắn một lời như Sáng. Ông công an quát lên:
- Im! Không được nói chuyện với người tự do,
biết không?
Người đàn bà còn trẻ vứt quang gánh - chắc là
gánh rau đã bán xong - cuống cuồng chạy lên dốc phà, len qua hai người soát vé
ngược trở ra. Rồi chị chạy xuống với một ôm bánh mì. Xe đang xuống dốc và bò
qua cầu phà. Chị nông dân quẩy gánh theo xe, tới sát ông công an nằn nì.
- Không được. Chị đi ra ngoài kia.
- Tôi chắp tay tôi lạy anh. Anh thương cho nó
được nhận mấy cái bánh mì. Chị em tôi không ngờ được gặp nhau ở dây...
- Đã bảo không được là không được. Nguyên tắc.
Biết không?
Chị nông dân mặt đỏ bừng, rồi tái nhợt đi,
đứng chết lặng với đống bánh mì trên tay. Rồi chị òa lên:
- Em ơi! Sáng ơi Em có tội tình gì mà khổ thế
này.
Sáng ngồi trong xe run lên bần bật:
- Thôi, chị Dậu ơi. Chị về nói với thầy mẹ hộ
em...
Những người trên phà nhìn chị bằng đôi mắt ái
ngại. Nhưng không ai nói giúp chị một câu. Không ai mnốn dây vào việc không
phải của họ. Ông công an mở khóa cửa sắt. Cái cửa sắt có những ô vuông như xe
chở lợn mở ra. Sáng bị đẩy vào trong cùng.
- Em đi đâu đấy, Sáng ơi?
- Em cũng không biết.
Tiếng Sáng bên trong gào lên. Và hắn bỗng thấy
một cái gì vựt vào trong xe, qua cánh cửa sắt còn để mở. Anh em tù nhặt lấy
chuyển cho Sáng. Tiền. Hai tờ giấy bạc một đồng gấp gọn. Ông công an thét:
- Gì đấy? Tiền hở? Đưa đây. Đã bảo đưa đây mà.
Có đưa không?
Sáng rút trong túi ra hai đồng nộp cho công
an.
- Đến trại nộp lưu ký. Ai cho phép các anh cầm
tiền hở. Chị kia lui ra. Đã bảo bịt mẹ nó miếng bạt ở phía sau thì không bịt.
Cho kín mít lại là xong.
Ông công an giận dữ khóa sập cửa, hầm hầm nhìn
vào trong xe, lại nhìn ra ngoài. Chị nông dân bán rau khóc hu hu: .
- Sáng ơi. Em đi khỏe mạnh, giữ gìn, chóng về
với thầy, với mẹ, với chị, em ơi...
Chị ngồi thụp xuống phà, xếp những cái bánh mì
vào sảo còn dính mấy cái lá rau, rồi gục xuống gối. Trong ô-tô mặt Sáng trắng
bệch như tờ giấy.
Ngày ấy - mới có ba năm thôi mà sao như đã mấy
chục năm rồi - Sáng còn rất trẻ, mặt mui bầu bĩnh, dáng dấp của một thanh niên
mới lớn. Ngày ấy, trời cũng nắng cuối xuân như hôm nay, cái nắng làm người ta
muốn tám gội, giặt giũ, phơi phóng, quét dọn để xếp cả một mùa mưa dầm lại.
Hôm nay tròn một tuần lễ hắn được tha, cũng là
tròn một tuần Sáng trốn trại, bị bắt và bị cùm xà lim. Khi hắn đi ra khỏi trại,
thì Sáng bị trói dong ngược về trại. Sáng là người trả cho tự do cái giá bằng
cả cuộc đời mình, nhưng Sáng luôn thất bại.
Đứng chờ phà, qua phà và đạp xe trên dường về
quê thăm bố mẹ, hắn cứ để ý trong đám đông, nhất là trong đám người quang gánh
có ai là chị Dậu không. Gặp chị, hắn sẽ nhận ra ngay, cho dù chỉ trông thấy chị
có một lần cách đây ba năm trước. Có thể hắn sẽ nói với chị một câu gì đó cũng
nên. Nhưng chắc chắn hắn không dám nói với chị những gì Sáng đã chịu. Càng
không dám nói với chị Sáng đang bị cùm.
Hắn cứ lặng lẽ đạp xe đi. Không nói. Ngọc cũng
vậy. Thmh thoảng hắn lại rời một tay cầm lái, thõng xuống ngang hông, làm như
đung đưa, vung vay để chạm vào người Ngọc.
Hiểu ý, ngồi phía sau, Ngọc nắm lấy bàn tay
ấy. Hai người nhè nhẹ bóp tay nhau. Rồi lại rời ra khi thấy có người đi ngược
lại. Lại nắm lấy ghi-đông. Lại đạp Hệt như hồi mới yêu nhau ở Hà Nội. Nhưng giờ
đây là nắm tay nhau đi trên đường đời khổ đau, nắm tay nhau vượt qua vực thẳm,
đâu phải tay trong tay rạng rỡ bước vào đời.
Từ nay chông gai trước mặt. Mà trách nhiệm
sống lại nặng nề hơn. Nặng nề đối với những người vì mình mà chịu đau khổ. Nặng
nề đối với những đau khổ của chính mình. Và nặng nề đối với những người đã gây
ra đau khổ cho mình nữa.
Qua phà, đạp xe về quê thăm bố mẹ, như đứa trẻ
mới lớn nhận thức thế giới, hắn cũng vừa tái sinh, nhìn mọi vật bằng con mắt ấu
thơ: Dòng nước xanh dào dạt quanh phà, những con roi thả mình dập dờn trong
nước, hàng phi lao ngày nào bị cơn bão vặn cụt ngọn nay đã lại tốt tươi, cánh
đồng màu, lúa đang thì con gái, con trâu đang thong thả gặm cỏ, những người đi
trên đường, cả con dường đất đỏ nữa... tất cả đều làm hắn mở to con mắt.
Và cho đến kiếp này hắn đã sống qua hai kiếp.
Một kiếp trước khi bị bắt. Một kiếp trong tù. Cả ba kiếp cùng căng mọi giác
quan, cùng cất tiếng và cùng suy ngẫm. Ngọc cũng vậy. Người nọ là một phần của
người kia. Điều xảy ra với người này cũng là xảy ra với người kia. Họ chia sẻ
cùng nhau tất cả. Hôm nay Ngọc cũng như lần đầu tiên đi trên con đường quen
thuộc này, đồng thời nàng cũng đang đi trên con đường này hai kiếp trước.
Và họ im lặng.
Chỉ đến khi gần tới đầu làng, nhìn thấy con
Nguyệt đứng ở dưới gốc cây phi lao và chạy lại phía họ, hắn mới nói:
- Con Nguyệt kìa.
Hắn nhận ra con bé ngay. Dù con bé đã lên
mười.
Hắn xuống xe. Ngọc đi bộ cạnh hắn. .
- Bố
- Mẹ
Hắn ngồi xuống, một tay giữ xe đạp, một tay ôm
con. Con bé xấu hổ vì nhiều người qua lại nhìn bố đang ôm nó. Hắn vuốt cái đuôi
gà con con sau gáy con gái:
- Con ra đây lâu chưa?
- Con ra lâu rồi. Bác Văn cũng về. Đang chờ
bố.
Ba người đi thong dong. Hắn quàng tay lên vai
con Nguyệt. Đây là con đường hắn đã trở về trại Q.N lần thứ hai, Tết năm kia.
Một mình trên chiếc xà lim lưu động, bốn chung quanh là tường thép.
- Con học lớp mấy rồi?
- Con học lớp Ba. Học bác Minh ấy, bố ạ!
Khi hắn bị bắt, con Nguyệt mới học vỡ lòng. Bố
hắn dạy. Cả ba đứa lớn, đứa nào cũng được ông dạy. Con Nguyệt đã viết thư vào
cho hắn, khi hắn ở xà lim 76. Hắn biết là bố đã đọc cho nó viết. Cầm mảnh giấy
có hàng chữ mới tập viết của con gái, hắn tê dại. Phải một lúc sau hắn mới bình
tĩnh lại được. Phải một lúc sau hắn mới nhớ lại được những nét riêng của đứa
con gái út (khi đó con Nguyệt là út). Tám tháng đã hai tay xách hai quả dứa đi
lẫm chẫm quanh nhà. Thời gian sơ tán về quê, mới bốn tuổi, nó đã tự động sáng
tác ra thư của mẹ gửi cho nó và cầm tờ giấy đọc cho ông bà nghe: "Con ớ
nhà đừng tuấy (quâý) ông bà. Mẹ hôn con rồi". Ông bà quý nhất nó vì nó là
bé nhất. Ông bà ra làm vườn, con Nguyệt cũng lon ton ở vườn nghịch ngợm đất
cát. Có lần máy bay Mỹ vụt qua, hốt hoảng vì tiếng động cơ sát ngay mang tai,
ông xô cháu xuống rãnh và nằm che lên cháu. Mẹ hắn bảo:
- Hai ông cháu lấm bê lấm bết từ đầu đến chân,
tắm cạn giếng nước. .
Chủ nhật hắn về nhà. Con Nguyệt cứ chuyền từ
tay hắn sang tay Ngọc.
Mẹ lại bảo:
- Mỗi sáng một quả trứng gà đấy. ăn thế gà đẻ
không kịp. Rát đít nó.
Và:
- Cái mắt cứ loang loáng, loang loáng. Sáng
như đên pha ô-tô.
Đúng là con Nguyệt có cặp mắt rất đẹp. To.
Sáng. Trong. Thông minh.
Cô đơn trong xà lim 76, hắn nhớ lại tất cả.
Hắn thấy tê dại đi khi nghĩ đến đôi mắt con. Giờ đây con nhìn đời ra sao, con
gái tôi sáu tuổi? Và không có người để trút nỗi niềm. hắn lại lẩm nhẩm mấy câu
thơ:
ôi con tôi cái nhìn con sáu tuối
Chào con bên kia trời vời vợi
Dưới mắt con trời đục có trong không?
Trong tù, hắn rất sợ việc hắn bị bắt sẽ ảnh
hưởng đến tâm hồn các con hắn, làm thui chột chúng. Đó là điều không thể nào
tránh được, nó là một trong những nỗi đau của hắn. Ngọc bảo:
- Con Nguyệt cũng thi học sinh giỏi đấy, anh
ạ.
Hắn muốn bế con Nguyệt lên, nhưng nó đã lớn
rồi. Giá ở nhà thì hắn đã bế.
- Bốn con gà mẹ mua cho chúng con, hai con đẻ
rồi.
- Nhớ bố không?
- Có.
Nó nép vào bố. Đi một quãng, bỗng nó đưng lại
hỏi bố.
- Bố ơi, cho con đạp xe một tý, bố nhá?
- ừ con biết đi rồi à
- Con biết đi rồi.
Con bé sung sướng dắt xe, rồi vắt chân qua
gióng chéo. Nó đạp mấy vòng. Thỉnh thoảng nó cố ngồi lên yên. Rồi nó lại tụt
xuống, vừa đứng vừa đạp. Đi một quãng. nó quành trở lại chỗ bố mẹ. rồi lại đạp
đi. Nó đi khá, tay lái chắc, không đảo, hắn yên tâm. Hắn đã rẽ qua cầu, đi trên
con đường đất đỏ có hai hàng bạch đàn. Qua thửa ruộng vợ chồng hắn để sổng con
vịt mua phiếu. Con Nguyệt đạp xe mất hút sau lối ngoẹo ở trạm xá. Nó về nhà báo
cho ông bà, các bác biết cái tin quan trọng: Bố nó sắp về tới nơi.
Cả nhà dừng mọi công việc ra cổng đón. Nó quay
lại chỗ bố mẹ dang đi ở bờ đầm. Và nó xuống xe, đi cùng bố mẹ.
CHƯƠNG 32
Trong tù hắn nghĩ tới căn buồng ở Ngã Bảy của
hắn, như nghĩ tới một tổ ấm đã bị phá tan và hắn nghĩ tới căn nhà lá, mảnh vườn
của bố mẹ như nghĩ tới một thiên đường đã mất.
Đúng là hắn có cảm giác trở lại thiên đường,
khi cùng với bố mẹ, anh em, vợ con bước qua cái cổng tre, đi trên lối hẹp vào
sân. Một bên là cây chay đầu ngõ xòe bóng mát. Một bên là cây bưởi đỏ vươn cành
ra khỏi hàng rào, quệt lá vào tay hắn. Cây cối nhận ra hắn. Mỗi tấc đất nhận ra
hắn. Mảnh sân, cây bưởi trắng cạnh sân, cái giếng nước, cây mắc coọc. Hai cây
cau lão lang cạnh giếng. Cây đào đầu nhà (thất trảm thanh đào), con chó vàng
già. Tất cả nhận ra hắn. Hắn cũng nhận ra tất cả.
Hắn đã mơ ước, khát vọng được thấy lại, được
sống giữa mảnh vườn này, mái nhà này, với bố mẹ, với các anh chị, với con chó
vàng già... Hắn đang đi vào thiên đường, đi vào mơ ước, đi vào khát vọng.
Bố. Mẹ. Anh chị Chân. Anh chị Văn. Các cháu
đều lớn cả. Cả những đứa mới xuất hiện khi hắn đi tù. Những thàng Téng, thằng
Đường con anh Văn. (Anh Văn lớn hơn hắn hai tuổi, nhưng lấy vợ muộn. Ngoài ba
mươi mới xây dựng gia đình. Anh Văn cưới vợ đầu năm thì cuối năm hắn bị bắt).
Hắn lại được nghe tiếng nói của bố. Được nhìn
mẹ. Mái tóc bố bạc trắng. Mái tóc mẹ dỡ hơn. Bố mẹ già đi nhiều. Hắn cảm thấy
mình là người có lỗi. Là một thằng con gây quá nhiều đau khổ cho bố mẹ. Trút
quá nhiều gánh nặng lên bố mẹ.
Hắn đâm mất tự tin khi nói chuyện với bố mẹ,
anh chị. Đây là lần đầu tiên hắn cảm thấy mất tự tin, cái cảm giác sau này sẽ
còn trở về với hắn nhiều lần.
Hắn nghĩ chỉ vì hắn nên bao nhiêu người khổ.
Tiếng cuốc trên đồi sỏi Thái Nguyên của bố mẹ vang lên trong bao đêm xà lim lại
rõ ràng bên tai hắn. Những nhát cuốc tóe lửa "bắt sỏi đá thành sắn"
để nuôi hắn đi học, hy vọng ở hắn, tin tưởng ở hắn. Đã có thời hắn là niềm tin
của cả nhà, là ngôi sao nổi nhất trong bốn anh em, đem lại cho bố mẹ niềm kiêu
hãnh. vì những bài báo của hắn. Vì những sáng tác của hắn được in nhiều, được
phát động đọc trong cả nước.
- Thế sao không cho cháu nào về chơi? - ông
Chân hỏi. Ngọc thưa:
- Dạ. Các cháu còn mắc học. Chúng con lại
không có xe đạp.
Ông Chân pha trà. Biết hắn thích uống đặc, ông
cho vào ấm thêm một ít trà nữa. ông và ba con trai ngồi trên sập. Phái phụ nữ
xuống bếp sắp bữa. Chỉ còn thiếu anh chị Thân là hoàn toàn đông dủ.
Đó là toàn bộ hương vị gia đình mà hắn vẫn nhớ
tới, vẫn khao khát.
Thịt gà. Rượu. Rau thơm nhiều vô kể. Bữa cơm
vui, nhưng không ai nhắc đến chuyện hắn ở đâu về. Vì có lũ trẻ. Buổi chiều, anh
Văn, chị Thảo về cơ quan ở Hà Bắc. Anh Văn là kỹ sư thủy lợi đang xây dựng một
công trình lớn ở Hà Bắc. Nhận điện của anh Thân báo tin hắn được tự do, anh
tranh thủ về một ngày gặp hắn. Công trình đang ở giai đoạn không thể vắng mặt
anh. Ngọc cũng một mình đạp xe ra phố. Không thể để lũ trẻ ở ngoài ấy mà không
có người lớn.
Buổi tối cả nhà, nghĩa là ông bà Chân, anh chị
Chân và hắn giải chiếu ở hè ngồi nói chuyện. Bây giờ mới là những chuyện về
hắn. Về những ngày hắn đi xa.
Con Nguyệt vừa ra hạ cái cổng tre xuống và cài
chốt, trở vào ngồi học bài, thì có tiếng gọi:
- Mợ Cổn ơi
Mợ Cổn là tiếng gọi chị Chân. Đứa con lớn anh
chị tên là Cổn, hiện đang đi làm ở mỏ. Nông thôn có cách gọi như vậy. Lấy tên
con lớn để gọi bố mẹ. Ông Chân bà Chân là tiếng gọi bố mẹ hắn. Bác Cổn, mợ Cổn,
chú thím Cổn là tiếng gọi anh chị Chân.
- Ai đấy nhỉ?
- Ra sân đội nhé.
- Cô Xoan đấy phải không?
- Làm gì đới?
- Chia chỉ.
- Cứ chia đi. Tí nữa cô nhận cho tôi, cho hai
cụ với nhé.
- Mợ đem cho tôi cái bìa theo dõi.
Hắn giật mình. Sao nhà mình lại bị theo dõi
nhỉ. Chắc là vì mình đi tù. Thật khốn khổ, nhục nhã. Chị Chân tìm lục và cầm ra
cổng một mảnh giấy bìa gì đó Hắn hỏi, khi chị trở về:
- Theo dõi gì hở chị?
- à. Theo dõi mua công nghệ phẩm.
Hắn nhẹ cả người. Sân đội sản xuất ở sát ngay
lũy tre nhà bố mẹ hắn, bên kia con đường đất nhỏ hoắm đầy những lốt chân trâu.
Suốt buổi ngồi nói chuyện ở hiên, hắn nhìn thấy ánh đèn lập lòe sau lũy tre
thưa, tiếng người cười nói, gọi nhau chào hỏi, bàn cãi, gắt gỏng.
- Một trăm mười bảy suất. Bốn mươi cuộn tất
cả. Hai nhăm cuộn đen, mười lăm cuộn trắng.
- Thế thì cứ bốn người một cuộn. Bốn bốn mười
sáu. Được một trăm mười sáu suất. Thiến một suất.
- Tính sau.
- Ai chịu cái suất thịếu ấy. Ông nhé!
- Lại còn chỉ đen, chỉ trắng. Ai lấy chỉ trắng
cho.
- Mỗi cuộn này bao nhiêu mét nhỉ?
- Cứ đóng hai cái cọc cách nhau muời mét. Mỗi
đường chỉ là mười mét.
- ở dưới Si thật tiện. Nhà nào cũng có cau. Cứ
mắc vào gốc cau. Khỏi phải đóng cọc.
- Chia chỉ đen trước. Chia chỉ trắng sau.
- Giá hai mươi cuộn chỉ đen, hai mươi cuộn chỉ
trắng thì còn dễ. Đằng này hai nhăm cuộn chỉ đen, mười lăm cuộn chỉ trắng.
Anh Chân châm một điếu thuốc, bảo hắn:
- Chú tù sao khổ bằng tôi. Cho chân vào cùm.
Loại cùm gỗ lim to. Nằm lên bảy cây róc.
Anh giải thích thêm:
- Tức là giát giường nằm. Đặt ngay xuống đất.
Chỉ có bảy cây róc thôi. Mỗi thằng một lều. Nằm bên này thấy bên kia đồi, ông
Sương kêu rống như bò, góc dưới rừng, cụ Bảo bị đánh kêu oai oái. Đang họp chi
bộ, cứ thấy họ mời từng người một ra. Rồi không thấy quay lại nữa. Chỉ còn ba
người thì họ vào bảo: Đồng chí Nguyễn Ngọc Chân. Ra gặp cấp trên. Họ dẫn mình
vào một cái hang. Vừa bước vào đã thấy hai mũi súng gí vào ngực: "Giơ tay
lên”. Lúc bấy giờ tôi còn nghĩ: Để quay phim đây. Thì "bốp, bốp”. Mấy quả
đấm nổ đom đốm mắt. Hộc máu mũi ra. Trói nghiến lại ngay. Mình vẫn không hiểu
ra sao cả. Cứ thế là đi. Rồi cùm. Hôm sau, ông lãnh đạo đến gặp: "Các anh
phải khai hết. Đây là thành khẩn với Đảng". Biết cái gì mà khai. Không
khai thì đánh. Đánh dữ. Đấm. Đá. Cùi tay đánh vào ngực. Đá vào mạng mỡ. Kêu
váng cả rừng. Thằng nọ nghe tiếng thẳng kia kêu mà lạnh cả người. Nghĩ sắp đến
lượt mình.
Ngừng một lát, anh tiếp:
- Cái lúc chuyển tù mới sợ chứ. Mỗi thằng một
xiềng. Đi đêm. Xiềng kêu loảng xoảng vang cả rừng. Như cả một đoàn ngựa đang
hành quân thời Trần Quốc Toản. Mười tám tháng sau, Trung ương về bảo: “Sai hết
rồi, các đồng chí ơi! ". Tất cả chạy ra vặn cây chuối rừng non ăn đã. Chỉ
thương ông An tự tử. Cụ Bảo bị thủ tiêu. Chết mất.
Chị Chân hỏi:
- Nhưng sau này ông có gặp lại những thằng nó
đánh ông không?
- Có chứ. Nó bảo: "Anh thông cảm” ố
“Thông cảm cái gì mà đánh tao thừa sống thiếu chết? " ố “Em không đánh các
anh, mà đánh bọn gián điệp phá hoại cách mạng. Em không đánh vì tư thù. Em đánh
vì cách mạng. Đặt địa vị anh, anh có làm thế không? "
Anh cười:
- Nó nói đúng. Nó làm hoàn toàn vì động cơ
trong sáng. Vì cách mạng cả thôi. Anh Chân bị mười tám tháng. Hắn năm mươi nhăm
tháng. Bố thì chỉ bị mấy tháng trong cải cách ruộng đất. Lâu rồi, bố nói: Nó
trói giật cánh khuỷu. Lúc bấy giờ lại nghĩ: Mình vẫn nói trói giật cánh khuỷu.
Thì ra trói giật cánh khuỷu là thế này đây.
Chín nám tản cư ở Thái Nguyên vừa về đến làng
làm một túp lều trên nền nhà bị Tây đốt từ năm 1947, gặp ngay cải cách ruộng
đất đợt 5. Ông Chân bị bắt. Bà Chân lang thang, ngủ ở lều chăn vịt giữa đồng,
bới trộm khoai lang ăn. Anh Chân đập đá ở công trường đường sắt. Anh Thân không
dám về nhà. Anh Văn đang học ở nước ngoài. Còn hắn ở báo T về Kẻ Sặt viết bài
ca ngợi cải cách ruộng đất đợt 5, đợt Điện Biên Phủ chống phong kiến. Khi còn ở
Thái Nguyên, ông Chân đã biết cải cách ruộng đất. ông không bao giờ nghĩ rằng
ông là địa chủ. Hơn nữa nhà ông tham gia cách mạng từ trước Cách mạng tháng
Tám. Suốt thời gian kháng chiến, ông ở Thái Ngưyên. Các con ông tham gia kháng
chiến. Ta xem ra thời nào cũng vậy thôi, các anh ạ. Quan bênh quan. Là người
dân thời nào cung khổ.
Chị Chân chép miệng:
- Cách mạng gì mà thế.
Anh Chân nổi cáu:
- Không thể nói thế được. Cách mạng không chủ
trương như vậy. Đấy là sai lầm của những cá nhân. Sai lầm trong quá trình thực
hiện.
- Sao không kỷ luật. bỏ tù những cá nhân làm
sai ấy đi?
- Có kỷ luật. Kiểm điểm rút kinh nghiệm chử.
Bà không biết thì thôi. Kỷ luật rồi lại đề bạt. Tôi còn lạ gì.
- Vấn đề cơ bản là xét cái động cơ của người
ta. Người ta phạm sai lầm cũng chỉ vì muốn cách mạng thắng lợi. Phạm sai lầm vì
cách mạng là chuyện đáng được tha thứ. Tôi đã tha thứ cho bọn hành hạ tôi.
Câu chuyện giữa anh chị Chân thường là như
thế. Hai anh chị rất thương quý nhau. Anh bị Pháp bắt khi đang là huyện ủy
viên, trưởng ban quân sự huyện. Có tin đồn anh đã bị chúng bắn, cho vào bao ném
xuống sông Cầu. Chị Chân giết gà đem xuống đình Đổng Lý cúng, rồi đi xem chân
giò. Người xem bảo: “Chân giò tốt lắm. Nguời này không thể chết được".
Chúng giam anh ở căng Máy Chai. Anh theo đờng cống nhà xí chui ra, bơi qua sông
Đằng. Lúc ấy nước đang lên to. Anh bơi đến kiệt sức mà vẫn thấy nước mênh mông.
Anh gọi tổ tiên và buông người để chết thì chân chạm bãi sa bồi. Về được ít
lâu, anh bị ta bắt cùng với gần trăm người nữa. Chị Chân lại lo tiếp tế cho
chồng. Lần này khủng khiếp hơn.
Là một người sát với thực tế, chị luôn đưa ra
những dẫn chứng và nhận xét khác suy nghĩ của anh. Như vấn đề vào hợp tác xã,
chị không vào. Anh quát: Không vào để người ta bôi gio trát trấu vào mặt tôi à?
Không vào thì ly dị!
- Không vào, làm sao tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Cứ định con trâu đi trước cái cày đi sau đến bao giờ?
Chị vào hợp tác xã. Chị đi nhận thóc chia của
đội. Họ được nhận trước. Chị và một số ít người nữa cứ chờ. Đến mười một giờ
đêm. Hết thóc. Chị quẩy quanh gánh không về nhà. Ba lần liền như vậy. Chủ nhật
anh ở nơi công tác về. Chị kể lại chuyện ấy và cằn nhằn với anh. Thế là anh lại
gắt um lên: “Hợp tác xã là con đường tất yếu”...
Hắn biết cuộc tranh cãi tối nay giữa hai anh
chị là vì hắn. Hắn thấy anh có lý. Chị cũng có lý. Hãy đứng về phía những người
gây ra sai lầm mà xem xét. Vấn đề sẽ được sáng tỏ. Trừ một số những trường hợp
lồng cá nhân vào đó, người mắc sai lầm phần lớn đều có động cơ trong sámg. Vì
cách mạng họ làm. Dù có thê thảm: Chết người, oan khuất... Cách mạng là thiêng
liêng, là kết quả xương máu của bao thế hệ. Không thể buông lơi cảnh giác. Nếu
có hơi quá đi một tý với nhân dân cũng là vì quyền lợi, vì hạnh phúc của nhân
dân.
Nhưng chị cũng có lý. Cứ nhìn vào thực tế như
chị nhìn, những cái đó gây ra bao tổn thất cho cách mạng, cho nhân dân. Hợp tác
xã làm sao vững mạnh được khi cả một sân thóc mồ hôi nước mắt ấy lại trao cho
ba người: đội trưởng, đội phó, thư ký đội quản lý. Biết bao nhiêu gánh thóc
chạy ngoan ngoèo, lắt léo về nhà họ. Biết bao nhiêu xã viên phải ngồi chờ phát
chẩn đến gần nửa đêm để nhận được một cân trả lời: “Hết thóc" và quẩy
quanh gánh về không? Còn như cái vụ nhìn các đồng chí thành gián điệp mà anh
Chân bị bắt đấy, đối với những người bị chết như ông An, cụ Bảo thì nói làm
sao?
Chị Chân lại thở dài:
- Nhà mình đi theo cách mạng từ thời bóng tối.
Ông đi đệ tứ chiến khu Đông Triều. Nhà có hai cụ, bốn ông con giai đều đi theo
cách mạng. Ba người bị cách mạng bắt.
Anh Chân cười vô tư nhất đời:
- ừ nhỉ? Không tính các bà con dâu thì tỷ lệ
bị bắt nhà này là năm mươi phần trăm cơ đấy. Nhưng đã bảo đấy là sai lầm. Có
làm có sai. Sai thì sửa. Cụ không được sửa sai à? Tôi không được sửa sai à?
- Còn chú Tuấn?
- Chú Tuấn rồi cũng được sửa.
Hắn cũng tin như anh Chân. Hắn nghĩ: Khách
quan mà nói, ông Trần bắt hắn có thể là để lập thành tích, hưởng ứng phong
trào. Nhưng cũng có thể do ông Trần nhìn hắn qua lăng kính trung gian. Nếu vậy
phải làm cho ông Trần hiểu. Gặp được ông Trần là việc khó. Nhưng phải gặp bằng
được. Kỳ này ra phải làm đơn gửi từng vị lãnh đạo thành phố. Tất nhiên là có
chủ tịch, bí thư thành ủy. Một cá nhân có thể có những điều này nọ với mình.
Nhưng một tập thể thì không. Nhất là một tập thể thường vụ Thành ủy, Một tập
thể những người có thành tích, có quá trình cống hiến, đạo đức cách mạng, luôn
tập hợp mọi người bàng tác phong nêu gương. Chế độ ta là chế độ công bằng. Chân
lý sẽ được sáng tỏ. Ông Chân bảo:
- Những chuyện các anh chị nói chỉ nói trong
nhà thôi. Nói ra ngoài không có lợi, nhất là nhà mình bây giờ. Bố Tuấn lại càng
phải giữ gìn mồm miệng. Cần nói, nói có nơi có chốn. Bao giờ cũng thế. Bệnh từ
mồm vào. Họa từ miệng ra. Thời nào thì thời, ngu si hưởng thái bình, các anh
chị ạ.
Rồi ông tiếp:
- Bây giờ bố Tuấn về là mừng rồi. Lo quá. Chỉ
sợ bố con, mẹ con không được gặp nhau nữa. Bố mẹ già như ngọn đèn trước gió,
như quả chín trên cành. Cũng may giời còn để cho mạnh khỏe. Còn người, thế là
tốt rồi. Người ta đi chiến đấu năm bảy năm, không tin tức gì thì sao.
Chị Chân hỏi:
- Thế sao chú lại không có tên trong danh sách
ở 75?
Hắn ngớ ra:
- Sao cơ hả chị?
- Chú bị bắt được ít lâu. chú Thân xin Sở Công
an giấy giới thiệu đến 75 để thăm và tiếp tế cho chú. Họ cho giấy. Tôi với con
Thương sang phố, tìm đén trại giam vào gặp tay công an ấy, nó cũng tốt lắm. Nó
kéo ghế mới ngổi cẩn thận. Nó tra sổ. Không có tên chú. Tra đi tra lại. Không
có Nguyễn Văn Tuấn nhà báo nào giam ở đấy.
- Có lẽ em ở bên 76.
- 76 thì cũng có tên chứ. Đằng này nó tra hết
tập này đến tập khác đều không có. Tôi bảo con Thương: “Bác cháu mình về thôi,
con ạ".
Anh Chân cả quyết:
- Chủ trương nó không cho gặp thì nó làm ra
như thế. Nó cấp giấy, nhưng nó lại gọi điện xuống trại giam nói: Chúng tôi cấp
giấy, nhưng anh không được cho gặp. Nó đang muốn đè bẹp tư tưởng mình mà lại.
Tù chính trị, tưởng chơi à!
Phải rồi. Có lẽ là như vậy. Sau đó chính ông
Lan bảo hắn: Con anh ra thăm anh, hình như là con bé thứ hai. Nhưng chúng tôi
bảo cháu hãy về, lần sau đến gặp bố. Ông Lan đã đạt mục đích khi thông báo cho
hắn tin ấy: Làm hắn đau đớn. Hắn đã ghi vào một trang trong tập Anna: “Biết con
Thương ra tìm bố, nhưng không gặp. Con”.
Hắn nghĩ đến con Thương năm đó lên tám tuổi,
ngồi nem nép bên cạnh bác trong trại giam tìm bố, rồi lủi thủi ra về, không
được gặp! ấn tượng ấy sẽ tồn tại suốt đời nó như thằng Hiệp sẽ tồn tại suốt đời
ấn tượng được xuống ao bắt cá ngày Tết năm nào.
Bà Chân cũng nhớ đến hồi con mình mới bị bắt:
- Đang hái lá chè thì có tiếng xe ô-tô. Mấy
đứa nhà này kêu lên: "Bố, Bố về". Thằng Hiệp, con Thương, con Nguyệt
ra cổng đón mới khổ chứ. Rồi hỏi: "Bố cháu về không, chú? "
Ông Chân nói tiếp:
- Đến tôi cũng còn tưởng là bạn của bố Tuấn.
Hai người vào. Tôi bảo: Em nó có về không anh. Mãi sau mới biết họ đã bắt con
mình. Họ về khám nhà.
- Có phải một người mặt dài dài? - Đúng, ta
còn nhớ môi mỏng dính. "Lan mặt ngựa". - Hắn nghĩ. - Họ nói:
"Thưa cụ, anh Tuấn có nhiều biểu hiện chống đối cách mạng. Chúng tôi đã
bắt giữ". Nghe rụng rời cả chân tay. Không còn hiểu ra sao nữa. Sợ quá.
Hồi cải cách cũng không sợ bằng. Nó lại bảo: "Gia đình ta là gia đình cách
mạng. Để xảy ra việc này thật đáng tiếc. Nhưng cách mạng không thể nương nhẹ
với những phần tử chống đối. Anh Tuấn khai có để một số bản thảo, tài liệu ở
nhà. Chúng tôi yêu cầu cụ trao cho cơ quan an ninh".
- Hôm ấy là thứ mấy, hở thầy?
- Buổi chiều hôm anh bị bắt.
- Thừ sáu.
- Đúng. Nghe tiếng ô-tô, ta cứ nghĩ: Sao bố
Tuấn về sớm thế. Còn hai hôm nữa mới chủ nhật cơ mà. Họ còn bảo: "Cụ cứ
yên tâm. Chúng tôi bắt anh Tuấn không ngoài mục đích giúp đỡ anh Tuấn tiến bộ”.
Thôi, bây giờ sự việc đã xảy ra. Bố Tuấn đã về. Lại tính kế làm ăn. Tương lai
còn dài. Ta nghĩ khổ nhất là mẹ Ngọc.
- Khổ!
Anh Chân chép miệng xác nhận:
- Khổ nhất thím ấy đấy.
- Bố mẹ thấy con cái thế mà không làm sao
được. Chỉ biết cầu mong tổ tiên phù hộ cho tai qua nạn khỏi, gia đình đoàn tụ,
thế thôi.
Hắn im lặng. Vợ hắn khổ. Hắn biết. Và hắn biết
sau vợ hắn là bố mẹ. Lo làng cho hắn. Thương hắn.
Xót xa cho hắn, cho vợ con hắn.
Bốn đứa con hắn có đứa nào không qua tay ông
bà nuôi, được ông bà chăm bẵm, yêu chiều, nâng niu. Đứa thì cai sữa gửi về ông
bà. Đứa sơ tán chống Mỹ thời Jhonson. Đưa thời Nixon. Có lúc cả ba đứa và rồi
cả bốn đứa. Có đứa nào không được ông dạy những chữ cái đầu tiên, dạy hết vỡ
lòng.
Công ơn cha mẹ như núi Thái Sơn, hắn lấy gì
đền đáp được. Bình thường đã khó rồi. Giờ đây lại tụt xuống đáy như hắn.
Hắn muốn nói một câu gì với bố mẹ, nhưng lưỡi
cứ cứng lại.
Đám chia chỉ ngoài sân đội đã van vãn. Những
đốm lửa lập loè tản vào các ngõ. Có tiếng gọi:
- Mợ Cổn ơi!
Chị Chân ra mở cổng. Một phụ nữ ngoài năm mươi
gầy sắt lại đi vào:
- Ông! Bà Cậu Cổn! Ai thế này nhỉ? Cậu Văn đấy
à.
- Không phải. Tuấn đấy
- Cậu Tuấn đấy hở? Về bao giờ đấy?
Hắn chào người đàn bà, nghĩ: Không biết cô
Xoan nói "về”! là ý nghĩa gì? Về quê bao giờ đấy, hay ra tù bao giờ đấy?
Cô Xoan chìa ra gần chục cuộn chl, vừa đen vừa
trắng:
- Chia xong, thiếu mấy đường. Lại đóng cọc
lại. Chia lần thứ hai, thừa ra ba cuộn. Lại phải chia thêm. Đến khổ. Có tý chỉ
mà hết đêm. Mợ Cổn cho tôi đổi cuộn chỉ trắng lấy suất chỉ đen nhé. Nhà mợ, các
cậu ấy với các cháu vận quần áo trắng. Nhà tôi toàn quần áo nâu, quần áo đen
thôi. Mỗi cuộn mười một mét đây. à, mà đen mười một mét. Còn trắng gần bảy mét.
Anh Chân gạt đi:
Thôi, biếu cô cả. Thật đấy. Tôi đi cửa hàng
nào mà không mua được một hai cuộn.
Cô Xoan bị bất ngờ trước món quà tặng giá trị
ấy:
- Ai lại thế. Ai có tiêu chuẩn của người ấy
chứ. Đội lại trừ công điểm của mợ rồi.
Anh Chân phải nói mãi, cô Xoan mới tin ràng cô
là chủ mấy cuộn chỉ ấy mà không phải bỏ ra công điểrn. Cô cứ ngớ người:
- Thế cậu mợ lấy gì mà khâu? Nhà tôi được thế
này thì sộp quá. Khâu được đến cuối năm. Chúng nó mặc quần áo hại lắm. Hôm nay
vá mai đã rách rồi. Mí bảo cứ chạy chỉ vá quần áo cho chúng mày cũng chết mất
thôi. à mà nói khâu mới nhớ ra. Ba người hai cái kim. Nhà cụ hai người, hơn một
cái. Nhà mợ bốn người hơn hai cái. Hai nhà là bốn cái đấy.
Chị Chân nhận bốn cái kim cho hai nhà cùng cái
bìa theo dõi (cái bìa theo dõi làm hắn hết hồn). Chị mách cô Xoan cách nhnộm
chỉ trắng: Vuốt vào lá giầu không. Rồi đem nhấn bùn. Đen lắm.
CHƯƠNG 33
Cả nhà đã ngủ. Ngọn đèn trên bàn thờ leo lét.
Hàn vén màn nhìn mẹ nằm cạnh con Nguyệt ngủ lăn ngủ lóc. Rồi lại vạch màn nhìn
bố đang ngủ trên sập. Hắn nhìn mái tóc bạc càt ngắn của bố. Sao mà giống đầu Lỷ
Xìn Cắm thế. Bình thường khi nhìn Lỷ Xìn Cắm, hắn không nghĩ đến bố. Nhưng đến
khi đứng ở gốc cây mào gà chỗ cửa trạm xá nhìn vào, khi ông Chắn, công an y tá,
vén tấm vải trắng che cửa lên, thấy xác Lỷ Xìn Cắm đắp chăn trên giường đầu
quay ra phía ngoài. Nhìn đầu Lỷ Xìn Cắm từ phía đỉnh, vuông vức, cắt ngắn, bạc
trắng, hắn tưởng như bố đang nằm.
Già Đô sợ chết trong tù. Còn hắn, hắn sợ bố mẹ
chết mà hắn vẫn ở trong tù, không được gặp mặt, thì thật khốn nạn quá. bất hiến
quá, nhục nhã quá.
May sao bố mẹ vẫn còn khỏe mạnh, chờ hắn trở
về Bố mẹ thương hắn, vẫn sống, tránh cho hắn cái tội bất hiếu ấy.
Hắn nghe tiếng thở đều đều của bố mẹ và con
gái, mà chưa biết được rằng đã lâu lắm rồi cả nhà mới có một giấc ngủ bình yên
như đêm nay. Sau này, khi bố mẹ đã mất, con Nguyệt đã lấy chồng, nhân một
chuyện gì đó, nó bỗng kể lại thời gian còn bé ở với ông bà, thời gian bố còn
trong tù, đêm đêm lên giường đi ngủ với bà, nó thấy ông đứng trước bàn thờ,
thắp hương khấn vái. Nằm nghiêng trong lòng bà, nó quay ra nhìn bàn thờ, chỉ
thấy ngọn đèn vặn nhỏ, đầu ba nén hương mới thắp đỏ hồng và bóng ông đứng im
bất động. Nó biết ông đang khấn trời phật tổ tiên, ông đang cầu xin cho bố. Hơn
một ngàn đêm, đêm nào cũng vậy...
Hắn khẽ khàng tém lại màn cho bố. Đi ra sân.
Một mình hắn đứng giữa sân. Dưới ánh sao, cây cối trong vườn hình như cũng ngủ.
Bên nhà anh Chân cũng tắt đèn từ lâu rồi.
Trên đầu hắn là bầu trời yên tĩnh. Hắn lắng
nghe sương xuống. Và hắn nhìn sao. Đọc những dòng chữ ghi trong sổ tay của vợ,
hắn biết Ngọc cũng nhiều đêm nhìn sao và nói thầm với sao:
“Sao có biêt anh ta đã ngủ chưa? Hẳn sao nhìn
thấy anh ta ở một vùng rừng xa lắm... ”
“Không Ngọc ơi. Sao trời không nhìn thấy anh
đâu. Anh cũng chẳng thấy sao. Tối đến bọn anh chỉ quanh quẩn trong buồng giam
hoặc đi vào nhà mét”
Hắn bỗng nhớ đến một tối cả trại được xem
phim, hắn đã không xem. Ngồi giữa sân ở cái chỗ mọi khi vẫn xếp hàng đi làm,
hắn cứ ngửa mặt nhìn trời. Hắn tìm những ngôi sao thân thuộc. Hắn nhìn những
chỏm cây rừng chung quanh đu đưa trên nền trời mịn như nhung. Muôn vì sao lấp
lánh ánh sáng yếu ớt và huyền bí. Ông Thần Nông đâu? Hai mắt con vịt nữa. Không
thấy. Và chòm sao gì như một hình tứ giác. Cái gầu sòng. Ngôi Bắc Đẩu. Sao Hôm
đâu? Không nhìn thấy. Khuất rừng chàng? Hay đã lặn mất rồi? Những ngôi sao bè
bạn suốt tuổi ấu thơ. Mảnh sân nhà hắn. Hắn và anh Văn đuổi bắt đom đóm. Hắn
muốn đứng lên tìm hai ngôi sao ở phía Đông, thấp gần đường chân trời. Dạo hành
quân từ Thái Nguyên về tiếp quản Hà Nội, hắn luôn gặp hai ngôi sao ấy. Trong
ánh chiều tà, nó sáng và chênh chếch như hai ngọn đèn pha ô-tô vừa nhô lên ở
một đoạn đường dốc và cua lượn.
Hắn nhìn sao và thỉnh thoảng lại liếc nhìn ông
quản giáo. ắn nhìn sao vụng trộm. Sợ bị quy là chống đối, không xem phim. Mặc
cho anh em thỉnh thoảng lại ồ lên vì mọt cảnh gì đó, hắn cứ bí mật nhìn trời.
Không có nghệ thuật nào hấp dẫn được hắn (cái
thứ nghệ thuật mà hắn biết quá rõ), rứt hắn khỏi trời sao mà hắn đã phải xa
cách mấy năm. Và có lẽ cũng không ai nhìn sao như hắn nhìn hôm ấy. Nhìn và tự
hỏi: Biết bao giờ mới lại được một đêm nữa ngắm sao. Điều kỳ diệu là đang độ
mưa dầm, đêm ấy bỗng quang mây. Cả một trời sao mênh mông trên đầu hắn.
Hắn nhìn sao như người nhìn lần cuối. Hắn
không dám nghĩ mình sẽ còn được hưởng hạnh phúc lớn lao này một lần nữa. Cũng
bởi vì dạo ấy hắn mới từ 75 trở lại trại Q.N lần thứ hai, thực sự ngấm đòn của
ba từ cửa miệng: án cao-su.
Từ trên xà lim lưu động com-măng-ca Rumani đít
vuông đã được cải tiến, hắn khoác nội vụ vào nhà bếp. Đang giữa trưa. Ông Lâm
chánh giám thị đứng trong bếp, đang đọc cái bảng ghi tên từng mâm cơm, số người
ăn, mức ăn của từng mâm. ông lẩm bẩm:
- Mâm Tuấn. Tuấn nó về rồi, còn cứ để mâm
Tuấn.
Hắn lặng lẽ đứng phía sau ông mà ông không
biết. Hắn lại trở về toán cũ. Toán tăng gia. Lại nằm cạnh già Đô. Lại gặp
Giang, Lê Bá Di, Dự, Kỷ Mình. Nhưng hắn được nhận công việc mới. Được là tù tự
giác. Được gia nhập nhóm tù quý tộc. Như Thắng nuôi ong, Thuận sứt chăn trâu.
Như Cần trại cá. Như Quý nhà bò. Hắn được coi vườn trong, một mảnh đất bằng
phẳng giữa ba bề núi cao, ba bề rừng cây vây quanh mà bọn hắn khiêng đá đắp đập
ở con suối đầu vườn.
Cảm nhận bằng từng tế bào cái sự thật không có
ngày về, hắn không biết gì cuộc sống. Người rũ xuống như tên cướp trẻ bị trói
vào cột bắn nằm nào. Đó là sự kinh hoàng trước cái chết. Nỗi niềm càng đau khi
vừa trở về trại Q.N thì đã có một bức thư của Ngọc chờ sẵn. Thư viết gần hai
tháng trước. Khi hắn còn ở QN đợt một, khi hắn chưa về 75, hắn và Ngọc chưa gặp
nhau trong những ngày giáp Tết. Nếu không đi tù, tăng hai, hẳn hắn không phải
nhận bức thư này
Anh thương yêu. Hôm qua Nôen, em về quê thăm
bố mẹ, các con và đón con Thương ra chơi.
... Không. Không thể nào đọc nổi lá thư. Nó
như dao cứa vào lòng. Bởi vì cứ nghĩ rằng lẽ ra mình đã về với con là mắt lại
nhòa đi, tim co thắt và lòng tan nát. Bức thư bình thường như mọi bức thư tù
khác mà cho mãi đến về sau hắn cũng không dám đọc lại. Nó đè nặng lên hắn trong
những ngày ở lại Q.N. Nhất là những ngày ấy lại đang độ mưa dầm, ướt sũng núi
rừng. Mà ở vườn trong lại càng hoang vàng.
Chỉ có một điều kích thích hắn là nghe anh em
tù thì thào mảnh vườn này có ma. Một anh chăn bò nằm ngủ trưa trong vườn cứ có
người đến ngoáy mũi, choàng mắt dậy chẳng thấy ai. Nhắ m mắt thiu thiu lại thấy
tiéng cười khinh khích và tiếng chân chạy thình thịch. đến đời anh chản bò sau
cũng vậy. Hai con bò đã buộc vào gốc cây núc nác, không biết ai cởi ra, đi giữa
luống rau, đầu cử nghênh lên như có người dắt, hết luống này sang luống khác,
tịnh không ăn một ngọn rau nào. Anh em bảo đó là hồn ma của hai anh tù đầu tiên
chết chôn ở đây trước khi có khu Gò Thằng Công (tên anh em đặt cho mảnh đất ven
rừng chôn những xác tù). Hy vọng càng âm ỉ khi hắn tìm thấy hai cái mả sau nhà
ủ phân đã đổ, giáp với bìa rừng. Hai cái mả chỉ còn là hai mô đất con con mọc
um tùm những cây cứt lợn.
Một buổi chiều, anh em trong toán đã về hết,
một mình ở lại với rừng, hắn lê tới đầu vườn, vịn vào một gốc cây to xù xì, rêu
phong ẩm ướt, ngước mắt nhìn trời, nhìn cây, nhìn hai nấm đất hoang thì thàm
van vỉ:
- Ma ơi. Hai anh tù đã chết ở đây ơi. Hãy
thương tôi! Giúp tôi. Ra đây trò chuyện cùng tôi. Các anh muốn làm gì tôi cũng
được.
Hắn ngồi xuống, khoanh tay gục đầu trên gối
rất lâu. Bởi phải nhắm mắt lại thì ma mới tới. ý nghĩ một bàn tay xương xẩu
lạnh buốt đặt trên vai, một người đã chết tự bao giờ đứng bên hắn, chờ hắn
ngẩng đầu lên làm hắn ớn lạnh. Nhưng vẫn nhắm mắt chờ. Vẫn cứ nhắm mắt chờ một
khi đã quyết dấn thân vào một thế giới chưa hề biết mà nay hay nghĩ đến và mong
ước. Lâu. Lâu lắm. Như có một cái gì tê lạnh trên vai, thế mà khi ngẩng đầu lên
vẫn là một mình giữa rừng già với bóng tối đang trườn rất nhanh trên thảm lá
mục, quấn quanh những gốc cây. Những giọt nước đọng trên tán rừng đều đều nhỏ
giọt. Một tiếng chim còn khổ rất trầm. Chỉ một tiếng còn khổ duy nhất buồn bã,
mệt mỏi cất lên. Rồi đến tiếng thở dài của rừng sâu.
Còn hơn cả sự cô đơn. Còn hơn cả sự tuyệt
vọng. “Không ngờ đời mình lại trải qua những phút như vậy" Đứng giữa sân
nhà bố mẹ với bao kỷ niệm của tuổi ấu thơ, trong im lặng sương rơi, hắn nghe rõ
tiếng thở dài của rừng lúc ấy. Một tiếng rên trong lòng hắn đáp lại tiếng thở
dài của quá khứ.
Mà cái sân này, mảnh vườn này, cây cối trời
sao này đẹp biết bao! Bố mẹ, con gái đang ngủ trong nhà êm đềm, xót thương biết
bao. Sáng hôm sau ngủ dậy, hắn đã thấy bố đứng sân tập thể dục. Từ lúc lớn lên
đến giờ hắn thấy bố tập thể dục rất đều đặn. Mẹ thì ngồi ở cửa bếp băm rau
khoai cho lợn. Và con Nguyệt ăn cơm nguội với cá kho xong: “Cháu chào ông bà,
con chào bố, con đi học”. Hắn nhìn theo đứa con gái nhảy chân sáo đi trong bóng
mát hàng cây, áo hoa bạc, quần đen vải phíp ngắn, tay xách túi đựng sách vở,
món tóc duôi gà với cái cặp ba lá i-nốc trắng đập đập sau gáy, Hắn nghĩ: Con bé
lớn quá rồi. Không có bố mẹ, Ngọc xoay xở ra sao?
Sau khi uống trà, hắn cùng ông bà Chân ra
vườn.
Làm vườn là một thứ lao động dễ chịu. Mệt thì
nghỉ. Khát thì uống. Nắng thì vào nhà. Tất nhiên với một điều kiện: Làm vườn
nhà mình, chứ không phải làm vườn của trại.
Vườn ông bà Chân thuộc loại đẹp nhất làng.
Quất, cam, bưởi, chanh, cau... giồng thành hàng thành lối, chia thành từng mảnh
nhỏ. Phân chia từng mảnh ấy là những rãnh sâu dẫn nước từ ao ngoài, tận phía
nhà anh Chân. Những luống thuốc lào lá dày dặn, ngọn nào ngọn ấy đều tàm tắp.
Thứ thuốc lào bố vẫn trồng và gửi vào trại cho hắn. Để hắn hút, hắn cho già Đô,
Lê Bá Di hút, cho Dự bắt tóp... Để hắn trở thành người có máu mặt trong tù,
được anh em vì nể.
Hàng na anh Văn vãi hột ngày hắn chưa đi tù
nay đã cao, đang xòe lá, chĩa những nụ hoa cứng xuống phía dưới ngào ngạt hương
thơm. Bà Chân bảo:
- Na tơ. Sai lắm. Đến mùa ăn không xuể. Con
Nguyệt ngày ăn mấy quả.
Mùi lá quất hắc. Mùi hoa cau nhè nhẹ. Mùi gió
thổi qua cánh đồng rộng, thoáng đãng. Tiếng những người đi trên đường làng trò
chuyện với cách phát âm rất riêng biệt của quê hương ngay bên ngoài bờ tre.
Đúng là thế giới của hắn, vương quốc của hắn. Hắn giẫy cỏ. Ông Chân đi ra cái
rãnh to ở giáp bờ tre nhấc đó. Được mọt đĩa con vừa tôm tép, vừa cá mại đòng
đong. Vẫn nhỉ xưa. Vấn như xưa dù nông thôn thay đổi rất nhiều, con người thay
đổi rất nhiều.
Thế nhưng chẳng làm sao tìm được cái làng ngày
xưa của hắn. Làng hồi hắn đi thả diều. Hắn lấy lá tre làm thuyền. Có khi làm
thuyền bằng cái mo cau, trên đó thả những con cào cào châu chấu đã bẻ càng để
chúng khỏi nhảy, khỏi bay, giả làm những thủy thủ. Làng hồi hắn ở Nhi đồng cứu
vong hội, đánh trận giả tới tối mịt mới về nhà, sà vào mâm cơm.
Mảnh đất có hàng rào tre bao bọc bốn chung
quanh, phía Nam là nhà anh Chân, phía Bắc là nhà bố mẹ, nơi hắn đã lớn lên cũng
không như trước nữa. Không phải vì Tây đã đốt mất căn nhà gạch, cây mít ở sau nhà
đã chết. Cái chính là cuộc đời đã đổi khác rồi. Hắn đổi khác rồi. ứớc ao một
lần thấy lại ngày xưa, hắn nằm ngửa ở sân, nhìn trăng lên sau ngọn tre, lấp
lánh trên đầm, đổ bóng cây dừa và bụi tre xuống lối đi từ cổng vào. ở đó tối
om, đom đóm lập lòe. Trong mảnh vườn này, hắn đã chui vào vạt áo đoạn của bố
tránh rét, đi quanh vườn những sáng mùa đông, nghe bố đọc thơ:
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi
Cái chết của hắn là ở đây. Là cứ nhớ mãi, nhớ
đến tuyệt vọng những cái đó. Cứ nhìn thấy mãi những chiếc thuyền bằng lá tre
của hắn trên bờ đầm dào dạt nước, nhìn thấy mãi những đêm trăng thuở nhỏ, nghe
vọng mãi tiếng cha ngâm thơ ngày trước. Vì thế hắn mới đi viết văn. Hắn mới
được giải thưởng. Rồi nghĩ rằng mình có tài, hắn mới về P, lao vào cuộc sống để
viết tác phẩm của đời mình. Vì thế hắn mới bị bắt. Không viết văn, không về P
làm sao hắn bị đi tù.
Trong tù hắn đã nghíền ngẫm những điều ấy. Thì
ra từ lúc còn bé tý, từ lúc nghe mẹ kể Thạch Sanh, Tấm Cám, nghe bố đọc xuân du
phương thảo địa và sau này là hoàn quân minh châu song lệ thùy cuộc đời đã
chuẩn bị cho việc bắt hắn mấy chục nằm sau đó âu cũng là cái số hắn phải như
thế.
Con Nguyệt chiều chiều bới tóc sâu cho bố.
Hạnh phúc thật ngọt ngào. Nó thủ thỉ kể chuyện trường, lớp:
- Tổ con học ở nhà bà Vách bán bún riêu, bố ạ.
Đi xa lắm. Mãi tận Bến Nải. Bốn tổ học bốn nơi. Tổ con tổ một là tổ Giỏi. Tổ hai
là tổ Khá. Tổ ba kém hơn là tổ Chăm. Tổ bốn kém nhất là tổ Ngoan. Thầy giáo là
bác Minh. Đến lớp là cắm cờ lên bàn. Thầy giáo dạy tổ này xong đi sang tổ khác.
Chúng con lại chơi. Nói chuyện. Nhảy. Hát. Xem bà Vách làm bún ngon lắm. Thèm
lắm, bố ạ. Bà ấy cứ khoanh khoanh thành từng lá. Rồi bà ấy nấu riêu cá mũn,
gánh đi bán. Thỉnh thoảng bà lại cho con năm xu được một bát chiết yêu...
Nó khoe nó học nhất lớp, thầy giáo nào cũng
tranh nó về lớp mình (chắc là để lấy thành tích), không được thì dỗi. Nó kể chuyện
nó đi dỡ sắn cho thầy hiệu trưởng, cả bọn ăn hết nhẵn nồi cơm to của thầy mà
chẳng dỡ được bao nhiêu sắn. Nó đã học lớp Ba. Sách giáo khoa của nó có cả một
bài trích của hắn. Sao thế nhỉ? Sao người ta vẫn còn in của hắn?
Có lẽ Sở Công an chưa kịp tư giấy đi các nơi
chăng? Lại một lần nữa hắn nghĩ hắn đã đánh một đòn nặng vào gia đình. Đi tù
quả là một điều xấu xa ghê tởm, đáng để mọi người khinh bỉ.
Gia đình hắn là gia đình cách mạng thời tiền
khởi nghĩa, được tặng bằng Có công với nước, một gia đình nề nếp gia giáo. Ông
Chân lại là người cao tuổi trong họ. Từ việc ma chay, cưới xin đến việc đắp
đường, người ta đều hỏi ý kiến ông. Ông làm chủ tịch xã ngay sau Tổng khởi
nghĩa và làm chủ tịch Mặt trận huyện cho tới năm 1947. Bốn người con trai đều
đi làm cán bộ, đều đi thoát ly từ hồi chống Pháp.
Thế mà lại có một đứa con bị bắt đi tù. Ô-tô
công an về tận quê khám nhà. Thật đau khổ nhục nhã cho bố. Câu chuyện hắn đi tù
hẳn là ầm ĩ lắm, nên mới xảy ra vụ thằng Hiệp đánh nhau. Dạo ấy cu Hiệp học lớp
Bốn (nghĩa là hắn đi tù được hai năm, đã chuyển lên trại Q.N). Trong lúc ra
chơi, một thằng bé học sinh người thôn Nội vừa nhảy lò cò vừa đânh vần: Tờ. Tờ
u tu. Tất cả bọn trẻ cười rộ và nhìn vào thằng Hiệp. Thằng Hiệp ức lắm, nhưng
vẫn yên lặng, giả cách không nghe tiếng. Đến lúc thằng bé thôn Nội quay lại
nhặt mảnh ngói vỡ để chơi tiếp, nó vòng qua mặt thằng Hiệp và được kích thích
bởi tiếng cười của các bạn, nó lại chõ vào mặt thằng Hiệp. Lần này thì: Tờ, Tờ
u tu huyền tù.
Thằng Hiệp lấy hết sức bình sinh đấm vào mặt
thằng bé thôn Nội đã xúc phạm đến bố nó. Thằng kia ngã xuống đất. Hai cái răng
cửa bị gãy. Máu đầy mặt. Nó khóc. Nó lăn lộn dưới đất. Cả trường náo động. Cả
hai thôn náo động.
- Cái thằng bình thường lành thế mà hóa ra
cục. Ông Chân bảo hắn như vậy. Hắn hình dung được hoàn cảnh bố lúc đó. Nhà thì
có người đi tù, mà bố mẹ anh em, chú bác thằng bé kéo đến chật ngõ, chật sân,
đòi đưa thằng bé đi bệnh viện, đòi bồi thường. Thầy hiệu trưởng, thầy chủ nhiệm
đến nhà bàn bạc, dàn xếp. Thằng Hiệp mặt tái xanh trốn xuống bếp. Cái khổ là có
người muốn lợi dụng hai cái răng gẫy của đứa trẻ ấy. Thôn Nội toàn họ Đào. Thôn
Ngoại toàn họ Nguyễn. Bí thư họ Nguyễn thôn Ngoại. Chủ tích họ Đào thôn Nội. Bí
thư tóc đã bạc, nhưng về họ hàng dây mơ rễ má còn là cháu hắn, gọi hắn bằng
chú, gọi ông Chân bằng ông. Về chuyện vai lứa ở làng phải nghe anh Văn kể. Anh
Vản học ở nước ngoài, nên ít khi về làng. Gặp một thanh niên, anh chào:
- Anh đi chơi đấy hở?
Anh thanh niên tươi cười:
- Anh là con ông Chân? Ta là chú anh đây.
Đến khi gặp một cụ già râu tóc trắng như cước,
anh Văn lễ phép:
- Chào cụ ạ
- Bác Văn phải không? Em đây mà.
Chẳng biết đâu mà lần. Thành ra đi đường gặp
ai anh cũng "vở vở "vở vở” trong họng, nửa như chào hỏi, nửa như vâng
đáp lại lời chào. Ông bí thư quyết tâm giúp em Hiệp, nhưng ông chủ tịch lại làm
cho ra nhẽ. Mâu thuẫn giữa hai thôn, hai dòng họ. Tranh giành quyền lực mà. Chủ
tịch xă đưa giấy mời ông Chân ra trụ sở. Dù sao ông chủ tịch họ Đào cũng chứng
tỏ mình là người biết điều, kính trọng ông Chân, kính trọng công lao gia đình
ông, tuổi tác ông và thái độ ăn ở, chấp hành chính sách của ông. Nhưng vẫn phải
mất một số tiền bồi dưỡng, thuốc men cho cháu. Ông Chân phải đưa cho bố thằng
bé thôn Nội hai mươi lăm đồng.
- Thật là phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí.
- Không biết nó đấm thế nào mà gẫy răng con người ta. Cái thằng gớm thế. Ông
Chân vừa vun gốc chanh vừa nói. Hắn cười. Hắn yêu thằng Hiệp. Con cả anh nào
cũng chậm chạp, ít nói, mà anh này gớm thế. Hắn nhìn ra cái ao, Tết năm nào hắn
cho thằng Hiệp xuống bắt cá. Rồi hắn chống cuốc đứng nhìn bố đang bỏ phân mục
vào gốc chanh. Nhìn mẹ hái chè xanh.
Không phải chống cuốc đứng ở vườn trại Q.N,
vườn trại V.Q nhìn a Thềnh, Chống Xường, Kỷ Mình, Vũ Lượng, già Đô nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét