Khu văn phòng trại trong, nghĩa là Tổng trại,
nơi ông thiếu tá, chánh giám thị làm việc, ở cách trại của hắn khá xa. Đường đi
quanh co sâu mãi vào rừng. Hắn chỉ nhớ được rằng toàn cây cối. Nhà lá ẩn trong
những lùm cây. Một ông cán bộ trả lời khi hắn hỏi thăm đường:
- Các anh được về hở. Đi qua cái nhà kia
khoảng trăm mét thì rẽ phải. Rồi đi thẳng hơn cây số nữa là đến.
"Cái nhà kia" nhô ra từ một ngoẹo
núi. Hai người đi về phía ấy. Hắn giật mình khi trông thấy con béc-giê đầu tiên
từ một ngách núi đi ra. Nó như một điềm gở Như báo trước một tai hoạ. Con
béc-giê to lớn, ướt át, thè lưỡi đỏ đọc, đuôi cúp, theo sau là một ông công an
cầm dây xích. Rồi bốn con béc-giê khác cũng ướt át, cũng to lớn lần lượt hiện
ra cùng với một đoàn áo vàng, áo xanh, tất cả ướt đẫm. Một anh tù quần áo xám
rách tơi tả bị trói hai tay quặt về phía sau đi ở giữa. Chỉ nhìn lướt qua
(không dám nhìn kỹ, dù đã được tự do) hắn cũng nhận ngay ra Sáng. Anh tù trốn
trại đêm qua! Anh tù ấy là Sáng. Và Sáng đã bị bắt lại.
Hiển vội xuống xe. Hai người sợ hãi nép vào
một bên đường. Lúc Sáng đi qua, hắn liều nhìn thẳng vào Sáng. Vẫn là cái nhìn
của Sáng. Nhìn đấy nhưng chẳng nhìn thấy gì. Cái nhìn vô hồn vô cảm trên khuôn
mặt nhẫn nhục, cam chịu.
Hiển bảo hắn khi đoàn người đi qua:
- Tay này quản chế đây mà.
- Toán lò rèn. Tên là Sáng. Người cùng huyện
mình đấy. Bốn lần trốn trại rồi.
Hiển tròn mắt:
- Lần này là năm à?
- Năm. Lần nào cũng bị bắt lại.
- Tay ấy án hay bọp?
- Bọp.
Hiển ra chiều thông cảm:
- Bọp thì gay thật. Trông hắn gầy quá. Về cùm
xà lim chỉ có chết. Trốn thế qué nào được mà trốn. Chắc lần này cạch rồi.
Hắn không biết Sáng đã cạch chưa. Bởi vì cái
khát vọng tự do của Sáng ghê gớm lắm. Cùng giam ở 75, cùng từ bê dê (buồng D)
chuyển lên Q.N, ngồi cùng một chiếc ô-tô với hắn, chân ướt chân ráo tới QN một
ngày, Sáng đã chuẩn bị trốn trại ngay, nhưng chẳng hiểu vì sao bị lộ. Ông Thanh
cán bộ ban giáo dục, tạm thời phụ trách toán hắn, gọi Sáng ra. Ông kê một cái
bàn ngay chỗ toán hắn làm, ngoài trời, đầu hội trường, quát tháo ầm ĩ. Tất cả
bọn hắn xanh le mắt.
Sáng bị cùm ngay. Xà lim ngay. ăn cháo loãng
ngay. Mười ngày sau mới được ra. Sáng vào toán quản chế. Toán mộc. Cùng với
Giang.
Mười ngày xà lim ăn chảo loãng, cùm đủ dể thay
đổi vóc dáng Sáng. Không như Lê Bá Di phải mất nhiều năm nhai sắn mới có bộ mặt
hổ mang bành, Sáng thay đổi rất nhanh. Từ mặt tròn, Sáng trở thành mặt dài.
Nước da Sáng vốn rất trắng khi ra có màu xanh cớm nắng, thiếu hồng cầu. Người
thon hơn. Thế mà chỉ mười hôm trước Sáng còn là một cậu bé nông thôn tầm thước,
đẹp trai, trắng trẻo, có khuôn màt tròn trĩnh, má phính, tóc mượt mà. Đó chỉ là
vết nắn lại con người Sáng, vết nắn nhẹ nhàng đầu tiên. Sáng còn được nắn lại
nhiều lần nữa.
Là một thanh niên nông thôn đi tù, Sáng không
có bạn. Sáng sợ bọn Triều Phỉ, Lập Ba Tai, Ba Đen. Vốn đã xa lánh anh em trong
toán, Sáng lại càng cô đơn. Chiều chiều, trước lúc khoá buồng, Sáng đứng một
mình, dựa vào gốc cây ở sân trại, hoặc ngồi lên tảng đá cuội to, lối vào trạm
xá, nhìn ngắm những người tù khác đi lại vật vờ với đôi mắt trong trẻo và sầu
thảm.
Chỉ hơn một tháng sau Sáng lại trốn trại. Trốn
ban ngày. Ngay ở chỗ làm. Khi các ông công an phát hiện và bổ vây thì Sáng đã
đi xa rồi. Lần ấy Sáng đi nhanh vì Sáng yểm được bộ quần áo trong lúc đóng số
tù. áo sơ-mi trắng, quần ka-ki, bộ quần áo diện Sáng vẫn mặc sang P xem diễu
hành, xem bắn pháo hoa ngày 2 tháng 9, bộ quần áo ấy không bị đóng số. Vượt
khỏi hàng rào khu quản chế, Sáng trút bộ quản áo tù, mặc vào người bộ xi-vin.
Nhưng Sáng đi đâu được. Là một cậu bé nông
thôn, nơi xa nhất Sáng đến là thành phố P. Họ hàng Sáng toàn ở quê. Sáng chỉ có
thể về làng. Các ông công an cũng phán đoán như vậy. Các ông về làng Sáng, bắt
được Sáng đang ăn cơm với mắm cáy, rau muống luộc dưới bếp cùng với bố mẹ và
chị Dậu. Sáng bị đưa lên ô-tô về trại. Chẳng lẽ lại trói Sáng, còng Sáng ngay
trước mặt bố mẹ Sáng. Và hình như các ông ấy cũng cho rằng Sáng chỉ nhớ nhà,
đói mà trốn về thôi. Lúc đó cả trại chưa ai hiểu được khát vọng tự do của cậu
bé nông thôn mới mười tám, mười chín tuổi kia.
Xe đi, tới một thị trấn miền rừng thì dừng
lại. Đã trưa. Các ông ấy phải ăn cơm. Sáng ngồi uống nước ngay cạnh. Thế mà chỉ
thoắt một cái Sáng biến mất. Các ông bỏ dở bữa cơm. Tìm. Huy động cả dân phố
tìm.
Sáng vẫn biến mất, không một dấu vết. Cuối
cùng một ông công an tìm thấy Sáng trong hố phân sầu. Đó là một thùng phân
người, phân súc vật ngâm với nước giải, súc vật chết. Sáng lặn xuống dưới, mồm
ngậm một ống- đu đủ thò lên xuyên qua lớp phân nổi đóng thành bánh dày cứng ở
bên trên để thở. Sáng bị đưa về trại. ông Lâm tập trung bọn hắn lại nghe ông
nói về đường lối cải tạo con người, về Sáng:
- Những anh nào có ý định trốn trại? Trốn đi
đâu? Tôi đố các anh trốn đi đâu được đấy. Chạy ra nước ngoài à? Nước ngoài nó
không thèm dùng bọn các anh. Hay vào Nam? Với Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ?
Được đấy nhỉ. Anh nào có giỏi cứ đi.
Đúng là không trốn đi đâu được! Ngày xưa các
cán bộ cộng sản có thể ở nhà một cơ sở hàng tháng. Giờ đây ai nuôi anh được một
tuần.
- Chúng tôi đã bắt được anh Sáng, nhưng dọc
đường anh Sáng lại nhảy vào hố phân sầu trốn lần nữa. Cơm không muốn ăn, ăn
cứt.
Mặt ông đanh lại, khinh khỉnh, khinh khỉnh.
Ông tiếp:
- Làm người không muốn lại muốn làm con vật.
Con vật biết suy nghĩ cũng không hành động như vậy Có tội mới phải vào đây. Vào
đây chỉ có một con đường duy nhất: Chịu sự cải tạo. Chính sách cải tạo nhân đạo
của Nhà nước ta rõ như ban ngày: Đưa các anh trở lại làm người, đưa các anh trở
lại con đường ngay thẳng. Hiểu rõ tội lỗi của mình. Hiểu rõ giá trị của lao
động...
Sáng không được nghe bài nói chuyện của ông
Lâm. Sáng đang nằm trong xà lim. Cùm. Mười lăm ngày cháo loãng cầm hơi. Lần này
Sáng được nắn lại mặt mũi một cách căn bản. Đầu cắt trọc. Trên cái mặt choắt
lai, trông đầu Sáng to ra một cách kỳ dị. Mũi tự nhiên to ta. Mồm như vẩu. Toàn
răng là răng. Xanh bóng. Gió thổi cũng bay. Lướt đi. Trong bộ quần áo xám đóng
số đỏ rộng thùng thình. Nhưng không có gì dập tắt được khát vọng tự do của
Sáng. Hai tháng sau Sáng lại trốn trại. Lần này Sáng cáo ốm. Tù ốm, khi bị dồn
vào một buồng, khi được ở lại buồng mình (tất nhiên là đều khoá). Trong một lần
ở lại buồng toán mộc - toán Sáng, Sáng đã thủ sẵn một lưỡi cưa. Sáng cưa chấn
song cửa sổ (chấn song gỗ to bằng cổ tay). Cưa đứt xong Sáng gắn lại bằng vôi.
Khi chuyển buồng Sáng nhận chỗ nằm ngay cạnh cửa sổ là vì mục đích ấy. Sáng
chờ. Sáng chờ một đêm mưa bão. Vẫn để nguyên màn mắc chui ra. Vượt qua giao
thông hào. Trèo qua hàng rào cao. Vào rừng. Mãi đến sáng, trại mới biết Sáng
trốn. Báo động toàn trại. áo vàng. áo xanh. Và chó. Vào rừng sâu. Trèo lên
những đỉnh rừng cao nhất. Xuống thung lũng. Phục kích đón lõng. Cả ngày. Cả
đêm. Các ông dắt chó qua chỗ hãn làm tỉnh táo, khoẻ khoắn và khô ráo. Khi trở
về ướt đẫm người, ướt đẫm chó, mệt mỏi bơ phờ tức giận.
Sáng bị bắt lại sau năm hôm chui lủi trong
rừng.
Lần trốn trại thứ tư phải đến nửa năm sau.
Sáng trốn theo lối nhà mét. Nhưng lần ấy Sáng bị lộ. Các ông để Sáng trèo qua
mái buồng giam, trèo qua hàng rào cao vây quanh trại mới thả chó ra. Sáng vừa
tiếp đất thì lũ chó chồm lên. Các ông để chó làm việc với Sáng. Năm con chó cắn
xé một anh tù kiệt sừc như một cái giẻ vật vã dưới đất. Không còn mảnh quần áo
nào lành. Ngực, mông, đùi Sáng đầy những vết răng chó. Sáng tắm máu. Lại xà
lim. Mức xà lim tăng dần lên. Lần thứ ba một tháng. Lần này hai tháng. Phải đè
bẹp ý chí của Sáng. Phải để cho những ai có ý định trốn trại nhìn vào Sáng. Hết
hạn phạt ra khỏi xà lim,
Sáng không thể gầy hơn được nửa. Đã định hình
rồi, Sáng chỉ khác trước có đôi mắt. Đôi màt lờ đờ. Sáng như không nhìn thấy
gì. Không nhìn thấy ai. Như người đang sống ở đâu đâu. Đôi mắt Sáng chỉ nhìn
thấy chập chờn định mệnh.
Hắn kính trọng khát vọng tự do của Sáng, con
người hành động của Sáng, nhưng hắn cũng nghĩ như Lượng, như ông Lâm, chánh
giám thị trại Q.N: Không thể trốn đi đâu được trong xã hội quản lý tuyệt vời
hoàn chỉnh này: Sổ gạo, phiếu thực phẩm, sổ hộ khẩu, phiếu chất đốt. Đúng là
chỉ có một con đường: Chịu đựng. Chịu đựng cho đến bao giờ là tuỳ ở ý thích của
các ông ấy. Bởi thế lại càng phải giữ mình, giữ mồm. giữ miệng, cẩn thận từng
li từng tý. Không tin một ai. Giữ kín lòng mình. Không cởi mở với một ai. Không
phàn nàn kêu ca điều gì. Dù như vậy là quá sức mình. Nhưng đó là cách duy nhất
để còn có ngày về. Hắn đã làm được như vậy. Cả trại đã làm được như vậy, trừ
một số ít anh em cánh trẻ.
Ngồi trên cái xe đạp Hiển đèo đi lấy giấy tờ
để thoát khỏi trại, hắn cứ nhìn về phía trại, cứ nhìn theo đoàn cán bộ cùng với
chó dong Sáng về trại, về cái vòng tròn hàng rào những cột cọc gỗ nứa vây ba
phần tư quả đồi nằm lọt trong lòng chảo, bốn chung quanh núi cao rừng rậm. Dù
đã khuất sau ngoẹo núi, hắn như vẫn nhìn thấy đoàn người dẫn Sáng đi ngược lại ấy.
Hai vec-tơ ngược chiều. Hắn đến với ánh sáng. Còn Sáng đi vào bóng tối. Buổi
sáng này là tuyệt vời với hắn. Buổi sáng này là tuyệt vọng với Sáng, là đổ sụp
với Sáng. Đời. Bày ra lắm trò chơi đến thế. Lại một lần nữa hắn cảm thấy tất cả
chặng đường ghê rợn hắn vừa bỏ lại sau lưng. Và hắn muốn mau mau thoát khỏi nơi
này, mau mau về với tự do, về với bố mẹ, vợ con, bè bạn.
CHƯƠNG 11
Từ hai căn nhà lợp lá cọ hình thước thợ lẩn
dưới tán lá những cây to vọng ra tiếng cười nói làm Hiển và hắn tin rằng mình
đã đến nơi định đến. Hiển dựng xe ở vách. Hai người rụt rè bước vào. Trước mặt
hắn là một khung cảnh quen thuộc. Đó là nơi làm việc văn phòng, mà từ khi đi
công tác hắn đã sống và trưởng thành, vì thế hắn còn thấy gần gũi nữa. . Là nơi
cán bộ công nhân viên ngày ngày đến với sổ sách giấy tờ và được công nhận cái
danh hiệu vẻ vang là người nhà nước. Tủ đứng mậu dịch xếp liền nhau. Bàn mậu
dịch cùng đánh một mầu dầu bóng. Những người công an nam nừ mặc sắc phực ngồi
trước bàn. Một cái bàn chỉ dể ấm chén, phích, gầm bàn có sọt để điếu cầy.
Thấy hắn vào, tất cả im câu chuyện. Hắn và
Hiển đưa giấy tờ cho một cô thượng sĩ:
- Báo cáo bà. Chúng tôi đến lấy giấy tờ.
Người này chỉ sang bàn bên. Một cô trung sĩ
trẻ da ngăm ngăm, xấu xí, quê mùa cầm lấy tờ giấy.
- Anh chờ một tý.
Đã lâu lắm hắn mới nghe thấy âm thanh của phái
đẹp. Nó trong. Vang. Ngân nga. Nó lăn vào lòng người êm dịu.
Cô trung sĩ vào sổ và giở một cái cặp ba dây.
Cô bảo Hiển sang bàn bên (chắc hồ sơ tù án để riêng). Bên ấy cũng là một trung
sĩ. Tiếng máy chữ bỗng rộ lên rào rào, giòn tan, vui vẻ. Cô trung sĩ đứng lên
mở tủ. Cô quá béo. Hàng cúc áo quân phực chật căng, tóc xoã xuống vai mềm mại.
Hắn cảm thấy cô xinh đẹp, uyển chuyển nữa. Hãy thông cảm với hắn. Hắn là người
có thẩm mỹ. Nhưng hắn đã nhìn những khuôn mặt sát khí đằng đằng của các ông
quản giáo súng lục trễ hông, các ông vũ trang lạnh lùng, súng trường lệch vai
quá lâu rồi. Ngày đêm, chung quanh hắn chỉ là những người tù, toàn đàn ông quần
áo xám một màu, những số tù di động, những nước da bờn bợt, sưng sưng, cử động
chậm chạp, nhìn xuống, miệng mím, đôi mắt mệt mỏi lờ đờ. Thấy những người không
thuộc đối tượng quen thuộc ấy, hắn đều thích thú.
Như hôm chuyển trại từ Q.N lên dây, cùng già
Đô "hai ba nào" nhảy xuống đái, hắn bỗng nhiên nhìn thấy đồng bằng. Những
bà mẹ ngồi ở vệ đường với quang gánh cải bắp. Những đứa bé cởi truồng, thò cả
chim chạy theo người lớn, vừa chạy vừa khóc trong tiếng vọng về của một phiên
chợ gần đâu đó. Hắn như tỉnh lại. Lúc này hắn thấy các cô sao mà uyển chuyển và
duyên dáng, nhất là mái tóc. Những mái tóc mềm mại óng ả chảy xuống vai. Thì ra
cuộc đời vẫn tồn tại những mái tóc như vậy.
Cô trung sĩ đưa cho hắn một tờ giấy nhận tiền:
- Anh chờ một tý, chị thủ qũi sắp về.
Hắn bảo Hiển:
- Khéo muộn mất. Sắp trưa rồi. Cô trung sĩ
thông cảm với hắn:
- Ô-tô có đến ba giờ chiều cơ. Anh tranh thủ
nhận quần áo và thay, trả quần áo cho trại.
Cô mở một tủ khác, đưa cho hắn bộ quần áo nâu.
Hắn biết ai về cũng được phát bộ quần áo nâu này. Bộ quần áo của tự do đấy. Mặc
bộ quần áo ấy anh là người tự do. Đó là bộ quần áo khao khát ước mơ. Hắn cầm bộ
quần áo gụ, mới tinh, hỏi lối và đi sang phòng thay quần áo. Chỉ một mình hắn.
Hiển không nhận quần áo nâu. Hiển đã có bộ cánh người nhà đem lên, Hiển không
cần. Phòng thay quần áo liền bên, hơi tối, vì các cửa đều đóng. Những cây luồng
buộc từ cột nọ sang cột kia, chạy bốn chung quanh. Rất nhiều quần áo tù cũ vắt
ở đây. Muỗi đói vo ve bay lên, rồi lại đậu xuống những chữ số đỏ đen lòi ra ở
những chiếc quần ảo mốc hôi hám, dấu vết trút lại của những người thoát khỏi tù
đày, về với tự do.
Hắn thay nhanh. Hắn ngắm nghía bộ quần áo nâu
mặc trên mình, vuốt vuốt nếp áo, kéo cái ống quần, hớn hở và sung sướng như hồi
còn bé, mẹ hắn may cho hắn bộ quần áo nâu khi hắn ở vùng giáp ranh về từ biệt
mẹ, đi lên Thái Nguyên. Lần ấy, chính mẹ hắn vuốt tà áo, kéo gấu quần cho hắn.
Từ xám chuyển sang nâu, hắn đã đổi màu. Hắn không vắt bộ quần áo tù của hắn lên
cây luồng để trả trại. Hắn gấp và cuộn tròn bộ quần áo cũ, lấy dây dải rút ở
cái quần dài quấn lại như bó giò thật chặt, rồi đút vào ca, cho ca vào túi. Cái
túi nom chẳng phồng ra bao nhiêu. Cái trò yểm hắn thạo. Hắn muốn đem bộ quần áo
tù CR 880 của hắn về nhà, cho vợ hắn, bạn bè nom thấy màu tù, cái đã khoác lên
người hắn cả quãng đời vô tận vừa qua. Hắn muốn đem về làm kỷ niệm.
Hắn nghe thấy tiếng người rộ lên bên văn
phòng. Tiếng các cô thánh thót, ríu rít, tiếng đàn ông cười vui. Hắn hiện ra ở
cửa văn phòng với bộ quần áo nâu.
Và hắn lại nhìn thấy ông Thanh Vân. Ông đang
kiễng chân giơ một tệp sách lên cao giữa gần chục bàn tay trắng trẻo của các cô
công an từ hạ sĩ đến thượng sĩ.
Một cô kéo tay ông Thanh Vân xuống:
- Đưa đây xem nào.
Một cô khác:
- Hay không đấy?
Cô trung sĩ béo tin tưởng: .
- Truyện Thanh Vân chọn thì nhất rồi.
Người ta đang giải lao. Người ta đang nô đùa
một tý.
Ông Thanh Vân đặt mấy quyển sách xuống bàn.
Các cô mỗi người một quyển. Hắn thấy một quyển truyện của người bạn hắn. Và kìa
Quyển “Người gác đèn biển". Quyển truyện của hắn. Quyển truyện hắn viết.
Hắn đã là người viết văn. Tên hắn in trên bìa sách chứng tỏ điều đó.
Như có một ma lực, hắn bước đến chỗ ấy. Hắn
buột kêu to như gặp lại con mình:
- Thưa các ông các bà, đây là sách tôi viết.
Mọi người ngơ ngác. Cả Hiển cũng không hiểu
câu hắn vừa nói.
- Cái gì? Anh nói gì?
Đấy là câu hỏi của ông Thanh Vân. Han cầm lấy
quyển truyện. Bìa có đóng dấu của trại. Hắn nhìn mãi vào những chữ tên hắn in
trên bìa sách. Thật không tin được. Bề thế, trang trọng như nhiều tên tác giả
khác, như mọi người làm văn hoá khác. Mọi người đáng được kính trọng khác. Tôi
đã quên tên tôi dưới mặt trời. Hắn choáng váng muốn ngã. Hắn lật trang trong”.
Mùa hè đã về trên biển. Câu mở đầu quyển truyện của hắn. Bỗng nhiên hắn đối mặt
với tuổi trẻ của hắn. Tuổi trẻ phơi phới và tin tưởng. Coi thường mọi vất vả
khó khăn. Buổi gặp gỡ với độc giả do Thư viện Hà Nội tổ chức khi hắn tròn ba
mươi tuổi. Những độc giả trẻ đáng yêu tuyệt vời. Những giờ phút trí tuệ thăng
hoa. Nhưng đêm khuya, như một con ngựa kéo cày, đánh vật với ngôn ngử. Và những
chuyến ra khơi mê hoặc. Sóng cứ to lên mãi. Nước cứ xanh lên mãi. Biển đó. Loà
nắng. Sóng dào dạt. Gió dào dạt. Hắn từ tàu xuống xuồng. Tàu chỉ đu đưa. Còn
xuồng thì tung lên hạ xuống. Hắn nắm chắc thang dây ướt và bẩn. Chở sóng hút
xuồng xuống, hắn nhảy. Những người khác nhảy. Sóng bắn lên mặt. Lên môi. Mặn.
Xuồng vọt lèn, vào đảo. Con đường trên đảo rải toàn san hô. Hắn bám vách núi đá
lên Bàn Cờ Tiên. Mồ hôi dính áo. Những cây bòng bòng héo nẫu đứng im phăng
phắc. Tay bám vào những thớ đá. Chân bám vào những thớ đá. Mạt úp vào đá. Hơi
đá nóng phả ra. Thở cả mang tai. Hầm hập. Hầm hập. Và bỗng nhiên tóc bay tung.
Gió tới tấp Mát lạnh khuôn mặt. Đã lên đến đỉnh: Bốn phía chân trời.
Hắn lắp bắp như người nghẹn thở:
- Quyển sách của tôi!
Cô trung sĩ nhìn giấy tờ của hắn. Rồi lại nhìn
tên hắn in trên bìa sách. Cô đưa tờ lệnh tha cho ông Thanh Vân đọc. ông ngẩng
lên nhìn hắn chàm chú từ đầu đến chân. Rồi với giọng hiểu biết:
- Anh lại Nhân văn Giai phẩm chứ gì?
Hắn lắc đầu:
- Báo cáo ông. Nhân văn Giai phẩm có từ năm
1956, tôi bị bắt năm 1968.
- Thế anh bị bắt về tội gì?
Đúng như hắn nghĩ: Trại chỉ là cái kho. Có
lệnh nhập thì nhập. Có lệnh xuất thì xuất. Ban giám thị, ban giáo dục, ban quản
giáo chỉ là người giữ kho. Ông Thanh Vân, thuộc ban giáo dục, còn hỏi hắn: Anh
bị bắt về tội gì?
Đối thoại sao được với ông Thanh Vân. Mỗi
người một mặt bằng khác nhau. Làm sao có thể hiểu được tiếng nói của nhau. Làm
sao ông có thể dịch nghĩa tội tuyên truyền phản cách mạng của hắn như anh em tù
à! Tội nói sụ hật".
Hắn chỉ cười mà không trả lời ông Thanh Vân.
Hắn cầm tờ lệnh tha từ tay cô trung sĩ. Hắn đi đến bàn thủ quĩ lĩnh tiền. Biết
nói gì với ông Thanh Vân. Ông có biết Nhân văn Giai phẩm" là gì không. Hay
ông chỉ nghe nói đến như một tên tội chung cho tất cả những người làm vàn nghệ.
Hẳn ông xuất thân từ một gia đình cốt cán ở nông thôn, được số phận nuông
chiều, khi bé chăn trâu cắt cỏ. Lớn lên đi học, rồi đi công tác thoát ly, vào
đây làm quản giáo. Đến bây giờ hắn mới thấy ỏng còn trẻ quá. ông chỉ mười tám,
mười chín tuổi.
CHƯƠNG 12
Bữa cơm tự do đầu tiên của hắn là bữa cơm hắn
ăn ở quán án cạnh quốc lộ. Hắn không nhớ hắn ăn những món gì. Hắn chỉ nhớ dấy
là quán cơm bán cho những người lao động. Một quán bên đường. Hắn cũng nhớ được
là hắn vừa ăn vừa nhìn sang hàng bán bánh cuốn ngay bên cạnh. Hắn nhớ thế, vì
khái niệm bánh cuốn đã quên đi bỗng sống lại trong đầu hắn: ở mãi trong tù hẳn
hắn quên đttt món ăn thuở bé hắn rất thích này. Mẹ gọi là bánh tráng. Thế mà
hắn suýt quên.
Hắn ăn cơm một mình, chẳng thấy ngon miệng.
Bữa ăn ấy chẳng làm sao nhớ được. Hắn vừa ăn vừa sẵn sàng vửt bát đũa xuống
chạy ra, nếu có ô-tô đến. Hắn đợi ô-tô một mình. Hiển đã đi ra trước bằng xe
đạp với cả một đàn tháp tùng. Hiển đã dắt hắn đi mua chè ở nhà dân. Hắn nghiện
chè, chưa bao giờ hắn có nhiểu chè như thế.
Hắn có tiền. Hắn được trại phát mười tám đồng.
Đó là tiền trả công cho năm năm tù của hắn. Cầm món tiền. hắn nghĩ ngay đến
việc tiêu. Mua chè. Chè ở đây nhiều, rẻ và ngon. Ai ở đây về cũng mua chè.
Hắn cũng mua. Hai ki-lô.
Hắn chỉ để lại số tiền vừa đủ về tới Hà Nội.
Cái bọc của hắn bây giờ phồng căng. Hoá ra bộ quần áo nâu là bộ quần áo có một
phẩm trật tột cùng trong trại, ra đến đây lại là bộ quần áo chỉ cái thứ hạng
thấp nhất trong xã hội. Nó nói với mọi người rằng hắn là một tên tù mới được
tha. Ai cũng hiểu hắn là một tên tù vừa mãn hạn, một tên tội phạm bị pháp luật
trừng trị, cải tạo nay được trở về, bắt đầu học lại cách sống lương thiện. Dân
ở đây đã quá quen với những người mặc quần áo nâu như hắn.
Bà chủ quán hỏi hắn:
- Chú có uống chén rượu không? Tôi rót nhé.
Tôi không tính tiền đâu.
Rõ ràng bà biết hắn vừa ở đâu ra. Nhưng không
hỏi: "Chú bị có lâu không? " Hay “Chú về tận đâu? "
Và bà muốn thết hắn chén rượu mừng. Tuyệt vời
làm sao. Cái tình người đầu tiên hắn hưởng khi trở lại với thế giới này.
Cứ ngồi đây, ô-tô qua luôn. Từ giờ đến tối còn
nhiều ô-tô.
Hắn ngồi nép vào một góc quán, tay ôm cái bọc,
nhìn trời, nhìn nắng và sốt ruột. Mặt trời đã chênh chếch trên đầu cây đa Tân
Trào xa xa rồi”. Cây đa Tân Trào đồng chí Giáp ra quân, Trần Dần đã viết như
vậy về cây đa này đấy.
Mãi mới có tiếng xe từ xa”. Xe đến đấy! "
Bà chủ quán bảo hắn. Hắn đứng bật lên, tay cầm cái nón chóp cũ vẫy vẫy chiếc xe
ca đang tới. Xe đông người vút qua trước mặt hắn. Người đứng lèn nhau cả ở bậc
lên xuống. Hắn hoảng hốt và tuyệt vọng. Nhưng bộ quần áo nâu đã cứu hắn.
Hắn nghe tiếng một phụ nữ trên xe hét to:
- Ông tài, dừng lại cho người ta lên. Người ta
vừa ở trại ra. Cho người ta lên.
Đó là tiếng nói của thiên thần, của người mẹ
Việt Nam lúc nào cũng hiểu được khổ đau của người khác.
Hắn vứt cái nón chóp xuống vệ đường, trèo lên
lách vào phía trong. Xe chuyển bánh về Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét