CHƯƠNG 1
Có những điều hắn tưởng không bao giờ quên. Thế
rồi hắn quên. Dù lúc xảy ra sự việc, hắn tự bảo: Mình sẽ nhớ suốt đời. Làm sao
quên được những điều đáng nhớ như thế. Đó là những niềm vui hiếm hoi. Là những
sự đau khổ đến tê dại. Không. Không thể nào quên được. Thế mà hắn quên. Thỉnh
thoảng hắn muốn ôn lại quá khứ. Hắn không sao nhớ được. Kinh nhất là những đau
khổ tột cùng mà cũng quên luôn. Tất cả không hằn được một đường vào nếp nhăn
đại não. Có lẽ những nếp nhăn ấy đã bị lấp đầy rồi. Nên nó nhoè. Nó mang máng.
Não hắn cứ bi những nhát búa dội vào đều đặn, liên tục. Nó lỳ.
Thế mà hắn vốn là người có trí nhớ tốt. Hắn
buồn rầu hiểu rằng đầu óc hắn hỏng mất rồi. Nghĩa là chính hắn hỏng mất rồi.
Có người viết rằng con người ta có thể quên cả
ngày sinh tháng đẻ của mình, quên cả cái hôn đầu tiên. Ngày sinh tháng đẻ hắn,
hắn không quên. Hắn sinh ngày 3-7- 1934. Đó là ngày ta hay tây, hắn không biết.
Mẹ hắn bảo hình như là ngày ta. Nếu vậy hắn sinh vào khoảng tháng 8 dương. Còn
năm ta là năm Tuất. Năm con chó.
Cái hôn đầu tiên hắn cũng quên. Làm sao nhớ
được. Nghĩ về năm tháng tuổi trẻ và đi ngược lên nữa về tuổi ấu thơ, hắn chỉ
thấy một dòng thời gian tươi đẹp đến thắt lòng.
Tóm lại hắn quên nhiều thứ. Nhưng hắn không bao
giờ quên cái ngày hắn được ra tù. Đó là một buổi sáng xuân. Chính xác hơn là
ngày 3 tháng 4 dương lịch.
Năm đó cũng mưa dầm ghê gớm. Mưa bụi, thứ mưa
mịn màng trắng rừng, trắng núi, mịt mở nổi trôi, bồng bềnh tiền sử. Chỉ có
những hạt bụi rất nhỏ bay lượn, nhưng tất cả sũng nước. Đụng đến cái gì cũng ẩm
kinh người. Đôi giày vải đi rừng của hắn chỉ ba ngày không nhìn đến đã mọc nấm.
Thứ mưa trắng những đồi trẩu trên đường bọn hắn đi từ trại đến chỗ làm và ngược
lại. Những cây trẩu lá non mềm nhiễm xạ mùa xuân, chỉ một đêm là đồng loạt trổ
bạt ngàn những chùm nụ nhỏ hồng hồng.
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn cây, hắn hiểu rằng
sắp đến mùa chim tu hú kêu đây. Sắp đến mùa hoa gạo nở đỏ rực đây. Hắn nhớ đến
một khoảng trời xuân nào đó trong quá khứ. Những luống đỗ mềm trên đất tơi và
ẩm. Những vạt cỏ chăng đầy mạng nhện, trĩu những hạt nước. Cành xoan ngoài cửa
sổ. Dây tã trắng vợ hắn phơi trong nắng mới. Đó là cuộc sống ở thế giới bên
kia. Hắn đi làm cùng anh em tù, mệt mỏi, buồn bã và không nghĩ tới ngày về. Họ
là những tù không án. Họ đi tập trung cải tạo. Người một lệnh, người hai lệnh,
người ba lệnh. Nhiều người tới sáu, bảy lệnh. Mỗi lệnh ba năm. Theo pháp luật
họ chưa tới mức phải xử, chưa tới mức phải truy tố, ra toà. Họ chỉ bị tập trung
cải tạo, nghĩa là nhẹ hơn án tù nhiều lắm. Nhưng chưa ai tù một lệnh (ba năm)
mà được trở về. Chưa hết bọp này đã được gí thêm bọp khác . Cái án cao-su. Cái
án tù mù. Cha mẹ ơi, đừng đợi. Em ơi, dù mùa xuân về, dù mùa xuân đi, em ơi
đừng đợi Anh còn chờ dê đực đẻ con như ông Tô Vũ ngày xưa. Một anh tù đã làm
bài hát về mình như vậy.
Ngày về của anh tù tập trung cải tạo nào ai
biết được. Năm năm sống trong tù, hắn thấy nhiều người thuộc diện được tha,
nhưng chỉ vài người tập trung cải tạo và đó là những sự kiện xôn xao cả trại.
Còn toàn là tù nặng, tù có án. Năm năm tù hắn không dám kêu lâu, vì ở đây toàn
những người kỳ cựu, những xê-ri AM, BM...
Một lính đánh nghẽo bị kết án tù sáu tháng vào
trại, được một người tù già bĩu môi:
- Không bằng thời gian tao đi đái, đi ỉa trong
tù.
Thời gian của bọn tù tập trung cải tạo được tính
bằng lệnh. Họ hỏi nhau:
- Mấy lệnh rồi?
Hắn đã lê chân hết nhà tù này đến nhà tù khác.
Hắn mụ mi đi. Nhưng sao mùa xuân vẫn hấp dẫn người ta thế. Hắn lẩm nhẩm một
đoạn thơ cứ luẩn quẩn trong óc hắn mấy hôm nay, khi những cây trẩu đồng loạt
trổ bông.
Tôi đã quên tên tôi dưới mặt trời
Quên tuổi tôi
Cắm sâu lưỡi dao năm tháng
Thời gian băng hà sọ não tôi
Cuộc đời trước hoang đường tiền sử
Từ thế giới này đã mất thói quen dùng lửa
Tôi hoá đá dần nỗi nhớ về thế giới bên kia...
Trong gần hai ngàn ngày tù dài dằng dặc thành
một khúc đông cứng giữa cái sền sệt, đặc quánh của năm tháng cuộc đời hắn,
ngoài ngày được tha, hắn côn nhớ rõ cả ngày trước đó, cái ngày cuối cùng hắn ở
trong tù.
Chiều hôm trước khi được tha, hắn còn bị lôi
thôi. Hắn bị trực trại khám nội vụ
Nội vụ của hắn khá tươm. Nghĩa là đủ mọi thứ.
Nó chứng tỏ công lao, sự chăm sóc của vợ hắn. Rất nhiều người khác - đạc biệt
là đám tù trẻ - không có được một tài sản như hàn. Một cái hòm gỗ thông sơn
xám, nẹp sắt, nguyên là hòm đựng đạn mà một bạn đọc cho vợ hắn để vợ hắn gửi
vào cho hắn. Hòm có khoá, một cái khoá Trung Quốc. Khi được gọi ra gặp mặt vợ,
trông thấy cái hòm để cạnh chỗ vợ ngồi, mắt hắn sáng lên. Hắn chỉ sợ người ta
không cho nhận cái hòm ấy. Cái hòm, đó là một thứ tổng kho, là sự giàu có, đầy
đủ tiện nghi trong tù, lại là sự quan tâm của gia đình. Điều đó nâng cao vị trí
của hắn ở trong tù, vị trí của hắn trước các bạn tù. Không gì đau khổ và bị xem
thường bằng những người quanh năm không được gia đình lên gặp mặt như Nguyên
Văn Dự, như Lê Bá Di chẳng hạn. Cái cảm giác bị bỏ rơi và không có một chút gì
đáng giá trước mặt người khác thật là cụ thể. Anh chỉ là thứ tù hạng bét. Vả
lại những người tù kỳ cựu, cơ chỉ đều có hòm. Điều đó còn nói rằng anh ta đã
xác định được, đã chuẩn bị đầy đủ để sống lâu dài trong tù, khi anh ta không có
án mà chỉ có lệnh tập trung cải tạo.
Tất cả những gì giá trị, hắn đều cho vào hòm.
Mà những cái đáng giá nhất trong tù là thức ăn: muối vừng, ruốc thịt, đường,
kẹo bánh, chè, thuốc lá. Chuột hết nhằm. Bọn đểu hết ăn cắp. Hắn đã bị mất hai
gói kẹo mà hắn chắt chiu, chỉ khi nào mệt lắm, đói lắm mới dám ngậm, mút một
chiếc. Đi làm về hắn thấy cái túi lòi ra phía cửa sổ, cái chiếu xộc xệch, hắn
giật mình, lao vội đến, thò tay vào trong túi. Hai gói kẹo không còn nữa. Hắn
chết lặng, lường hết được tổn thất. Một nhà buôn mất sạch gia tài cũng không
đau khổ bằng hắn.
Khi vợ hắn lên tiếp tế, cái hòm ấy đầy ắp những
xôi, bánh mì và thức ăn mặn. Nhưng đã bốn, năm tháng nay vợ hắn không lên. Chỉ
còn lại một ít đường. Bù lại hắn có một túi ni-lông to cơm khô. Vừa cơm vừa
cháy. Cơm độn ngô vàng vàng, trắng trắng.
Hắn dành dụm được bằng nhiều cách. Nhét được
cái gì vào bụng trong lúc đi làm, đến bữa hắn lại bớt một ít ra phơi. Có nắm
cơm khô, yên tâm. Cái lệ là: Chủ nhật không đi làm, bị cắt bữa sáng. Nhịn thông
từ chiều hôm trước đến trưa hôm sau, dạ dày nhớ bữa. Đói. Bình thường đã đói,
lại cắt bữa. Hoa cả mắt. Sáng chủ nhật, hắn bốc một nắm cơm khô cho vào cái ca,
bung lên. Thế là có thể cầm cự được đến bữa trưa. Nếu chiều thứ bảy tạt được
nắm rau cải hay củ su hào, lại có thêm quả ớt xanh nữa thì cứ gọi là đại tiệc.
Cay cay, mặn mặn, mát mát, bùi bùi, nóng bỏng môi, xụp xoạp vã mồ hôi. Phở Hói,
phở Tư Lùn Hà Nội cũng chẳng thú bằng.
Cái ca của hắn bằng nhôm đúc, nửa lít, lợi hại
lắm. Cái ca theo hắn vào xà lim ngay từ ngày đầu tiên. Hắn kiếm được một cái
đinh gỉ cùn trong khi đi đổ bô, đem về xà lim mài nhọn, sáng loáng và khắc vào
đít ca, chung quanh ca bao nhiêu chữ số. Đại loại như: 8-12-1968 (ý hắn muốn kỷ
niệm tròn một tháng bị bắt), 3-7 (ý nói ngày sinh của hắn và ngày hắn cùng vợ
hắn yêu nhau lần đầu tiên), 8-3-69 (ý hắn nói đã hết lệnh tạm giam bốn tháng
đầu tiên, hắn hy vọng sẽ được tha)v. . v. . Cái ca dày có thể làm cối giã. Hắn
đã giã cành rau sắng nấu canh (lá là thịt, cành là xương, ngọt nước lắm), giã
lạc giống ăn cắp được trong khi gieo ở Đồng Mít, cho nước, muối vào, đun lên
xăm xắp làm thức ăn mặn, kéo dài cuộc sống được một tuần.
Lỷ Xìn Cắm, dân lò bát Móng Cái, người Hoa mãi
võ đã từng thí võ ở Hà Nội, tù trước hắn hai lệnh, suốt mùa hè cởi trần, lưng
cánh phản nâu cháy, thích cái ca lắm:
- Ca này của A Tuấn tốt lắm đấy.
Xìn Cắm ngắm nghía cái ca rồi hỏi:
- Không có năp à?
- Không.
Thế rồi một hôm hắn thấy Xìn Cắm chân khuỳnh
khuỳnh chữ bát đi lại chỗ hắn, mặt mũi râu tóc bạc trắng như Hemingway cầm
trong tay cái nắp ca bằng sắt tráng men mất núm. Xìn Cắm bảo hắn:
- A Tuấn đưa ca đây.
Xìn Cắm cầm ca, ấp cái nắp vào, vừa khít. Đưa
trả lại hắn cái ca có nắp, Xìn Cắm nở nụ cười trẻ thơ, nụ cười Hemingway, rồi
lại khuỳnh khuỳnh chữ bát về chỗ mình nằm. Thật là một người đôn hậu và tuyệt
diệu.
Nhược điểm của cái nắp là sứt núm. Dễ thôi,
cuộn giấy lại nút vào là xong. Cương, toán lâm sản, mượn cái ca đi rừng. Khi
trả lại, ca đã dược quấn mấy vòng dây điện bọc nhựa, để cách nhiệt, cầm đỡ
nóng. Thật là hoàn chỉnh. Cái ca có nắp càng thêm lợi hại. Gọn, xếp được ba
khúc sắn nục nạc. Một ngón tay đỡ nắp, rồi dốc ngược, quay đít ca lên trên, vung
vẩy đi thì trông hệt cái ca rỗng. Cứ thế mà qua mắt quản giáo, trực trại, mang
sắn vào buồng giam.
Nội vụ của hắn còn có cái cặp lồng. Một cái cặp
lồng ác chiến. Cặp lồng trong tù giống xe đạp của cán bộ công nhân viên thời
đó. Vừa là phương tiện đi làm, kiếm sống, vừa là tài sản. Có cái cặp lồng đi
làm tha hồ sột sệt . Đốt đống lửa lên, ninh lá sắn non, luộc mấy cái ngồng cải,
nếu tốt số tạt được một con cải bắp nữa thì bành
Có cái cặp lồng, nhiều khi không tạt được gì
cũng bành. Bạn tù kiếm được củ khoai, nắm rau sắng, túi hạt gắm, chục con nhái,
cần sột sệt mà không có gì dể nấu, thì cặp lồng của mình đây, cứ lấy mà dùng.
Tất nhiên người chủ cạp lồng sẽ là khách mời trong danh dự (miếng ăn thật quí,
nhưng hắn vốn rất trọng danh dự).
Ngoài việc sột sệt cho mình và cho thuê dịch vụ
như cách nói hiện nay, cái cặp lồng còn để đựng nước, một thứ luôn luôn thiếu.
Và cuối cùng, khi bí lắm thì chác . Cả một tài sản đấy. Được nhiều thứ lắm. Chỉ
những anh có máu mặt, anh em toán lâm sản, toán chăn nuôi, toán nhà bếp mới đủ
lực chác cặp lồng.
Cái cặp lồng của hắn lại là ngăn dưới cái cặp
lồng Liên Xô. Có nắp, có quai xách. To, cao thành, dày. Rang không sợ cháy. Nấu
xong bị nhọ, lấy cát đánh bóng loáng, không sợ mòn thủng. Đúng là loại Pơgiô đờ
luých! Đờ luých mante!
Hắn còn có cả một cái bi-đông nhựa. Tất nhiên
bi-đông nhôm nhiều công dụng hơn. Cấu búp chè xanh, nhét đầy bi-đông nhôm, cho
nước vào, cời than ở đống lửa ra, đặt bi-đông lên. Chóng sôi lắm. Quản giáo cứ
tưởng mình đun nước trắng thôi. Chè búp nấu nước uống ngon hơn chè già nhiều.
Nước xanh ngắt. Anh em Cầu Giát, Ba Làng cũng gọi là "nạc chạt". Chất
lừ đấy. Ngon hơn bất kỳ thứ chè xanh nào.
Nhưng bi đông nhựa cũng có công dụng. Nhất là
loại bi-đông nhựa trắng mờ, sần sần như của hắn. Kín kín hở hở rất hay. Hắn đã
yểm lạc ở đấy, bồng về. Lần ấy toán gieo lạc. Mỗi người ra lồ xúc một bát men
lạc giống rồi đi theo từng luống. Hắn mặc hai quần dài. Quần dài bên trong được
chít hai ống vào cổ chân. Chít chặt. Tím cả chân. Thế rồi vừa gieo vừa thót
bụng, đổ lạc vào bụng.
Lạc tuồn qua bụng, qua đùi, xuống cái quần bên
trong đã bị chít, giống như cách dân mình lấy gạo trong kho của Nhật năm đói
1945 mà hắn đã viết trong một tập sách.
Lần ấy, anh nào cũng kiếm được một hai ki-lô
lạc giống. Nhưng tất cả đều bị thu khi về đến cổng trại.
Ai cũng bị khám. Khám cẩn thận, tỉ mỉ. Nắn cả
người. Có lẽ anh em đánh hăng quá. Hoặc có ai bẩm . Giắt vào người: mất. Buộc
vào khoeo chân: mất. Cho vào ống điếu: mất. Nhiều lạc quá. Đến nỗi ông Quân
phải bảo nhà bếp lấy thêm lồ ra đựng lạc.
Hắn yểm lạc trong bi-đông nhựa, khoác tòn ten
bên vai. Nhìn kỹ thì thấy bóng hột lạc nâu nâu qua lần nhựa mờ đấy. Nhưng các
ông ấy không thể ngờ hắn lại có thể yểm một cách hớ hênh như thế. Các ông ấy
không chú ý tới cái bi-đông nhựa, mà lại lục cặp lồng. lục bị của hắn, rồi nắn
người hắn.
Hắn thoát. Mang được vào trại một bi-đông lạc
giống, hột nào hột ấy tròn căng.
Sau lần ấy anh em khợp lạc ngay tại chỗ làm.
Không nghĩ đến chuyện bồng về nữa. Nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Ông quản
giáo cho ngâm lạc giống vào nước phân loãng. Đành chịu.
Nội vụ của hắn còn có bộ đồ trà. Nói cho đúng
cái ca con pha trà là của già Đô. Hắn chỉ có hai cái chén mắt trâu.
Khác với anh em trong tù toàn đắp chăn sợi, rét
thì hai người đắp chung hai chăn, hắn có cái chăn bông to sù. Có lẽ đó là cái
chăn bông duy nhất ở trại trung ương. Vợ hắn sợ hắn rét. Cũng phải kể thêm cái
áo bông của hắn. Hai ki-lô! Gấp lại to gần bằng cái chăn bông. Thứ áo bông
Trung Quốc chính hiệu. Cổ lông. Lần ngoài ka-ki xanh. Bông chần ngay vào lượt
vải lót Anh Văn, anh ruột hắn, đi học thủy điện ở Vũ Hán, Trung Quốc, cho hắn.
Dạo còn làm báo hắn đã mặc. Hắn gọi là áo ngự hàn. Mặc vào gió mùa đông bắc chỉ
có khóc. Những ngày đại hàn chi cực, đi cơ sở lấy tin xong, trở về cơ quan đứng
giữa đám phóng viên tím tái vì rét, hắn kéo phía sau áo bông lên bảo Bình:
- Kiếm cái quạt quạt hộ vào lưng với. Nóng quá.
Rôm đốt. Ngứa hết cả người.
Cái áo bông vào xà lim với hắn một ngày. Chả là
hắn bị bắt vào đầu mùa rét. Khi hắn từ xà lim chuyển sang BD cái áo bông được
cả B mến.
Cứ chín giờ tối, kẻng cấm, đi nằm, cái áo bông
ấy biến thành của công. Mỗi ca hai tiếng, hai người thức gác, họ mượn cái áo
bông của hắn. Ngồi thu lu giữa sàn xi-măng lạnh lẽo, cửa gióng sắt trống hốc,
gió thốc vào, khoác cái áo bông của hắn ấm hẳn lên. Cứ thế ca trước chuyền cho
ca sau.
Khi lên các trại trung ương, mặc cái áo to rộng
ấy, yểm thứ gì vào người cũng dễ. Hắn còn nghĩ được cả cách yểm cải bắp vào áo
bông. Chọn cái cải bắp chặt, xinh, to bằng đầu người, xắt đôi ra, đút mỗi nửa
vừa khít một tay áo bông. Rồi khoác lên vai (khoác chứ đừng mặc), đi qua trạm
gác ngon lành.
Chẳng ai đi tù lỉnh kỉnh như hắn.
Khi nhìn thấy ông trực trại đi vào, theo sau là
Chắt, một người tù chuyên làm việc khoá cửa, mở cửa các buồng giam, mọi người
dừng tất cả các công việc. Lúc ấy cả toán vừa đi làm về. Hắn cất cặp lồng nước,
phơi xong bộ quần áo ướt và nằm ngửa trên giường mệt nhọc. Hắn nhìn lên mái
nhà, mắt trống không. Cạnh hắn, già Đô với bộ râu rễ tre dài tới ngực, lốm đốm
hoa râm, người nhỏ thó, đang ngồi xổm soạn những ca, những ống bương đựng nước,
những gói, những quần áo ướt mới giặt.
Anh em trong buồng giam, người đang phơi quần
áo, người quay vào vách, về phía đặt nội vụ, soạn những thứ tạt được hoặc kiếm
được trong lúc đi làm, chí ít cũng là vài lít nước múc ở ngoài suối. Người
nhanh hơn đã nằm duỗi dài trên sàn. Tiếng lục cục của những phản gỗ kênh, tiếng
giũ quần áo ướt, tiếng một anh thử cái nõ điếu mới khoét chóp chóp và cả vài
tiếng rì rầm.
Họ đến.
Tất cả im lặng. Những người đã nằm, ngồi nhỏm
dậy. Hơn trăm con mắt nhìn người công an áo vàng và Chắt, người tù số một của
trại, nghĩa là người tù “thơm" nhất trại.
Hai người đi về phía hắn. Già Đô giấu vội ca
rau, làm đổ cả bi-đông nước. Hắn và già Đô cùng quê nên bao giờ cũng nằm cạnh
nhau và bao giờ cũng nằm tầng trên, chỗ sát cửa sổ, gần cửa ra vào. Nằm ở những
chỗ như vậy, thoáng sạch hơn, lại xa nhà mét Có chuyển buồng bao giờ hắn cũng
nhanh chân nhảy lên chiếm chỗ trước cho mình và cho già Đô. Rất nhanh hắn đã
kịp ấn con dao mảnh, rộng bằng ngón tay và chiều dài cũng như vậy, xuống cái
khe giữa vách và sạp gỗ. Nó rơi xuống tầng sàn dưới không một tiếng động kim
loại, bởi vì chỗ ấy cũng lủng củng những nội vụ của Voòng Kỷ Mình, một anh tù
tập trung cải tạo, đã ở đến lệnh thứ tư.
Ông trực trại và Chắt nhảy phắt lên tầng trên.
- Vừa giấu cái gì đấy?
Ông ta quát to, nhưng giọng không nhiệt tình.
Hắn lễ phép:
Thưa ông, không.
Mặt hắn tỉnh bơ. Hăn nói dối thần tình. Vào tù
hắn đã học được hai điều: ăn cắp và nói dối. Không ăn cắp vẫn sống được đấy.
Nhưng khổ. Và buồn nữa.
Nếu không có cái lo lắng hồi hộp của việc ăn
cắp và bồng của ăn cắp được về trại, thì buồn lắm, buồn không chịu nổi. Sung
sướng biết bao khi mình vẫn lấy cắp và mang được về trại tất cả, vượt qua vòng
kiểm soát nghiêm ngặt của các ông quản giáo. Ăn cắp với hắn còn có nghĩa phản
kháng, tuy sự phản kháng đó hơi nguy hiểm. Nó dẫn tới kỷ luật, cùm xà lim, ăn
cháo loãng.
Và nếu ăn cắp, nếu vi phạm nội qui, họ không
bắt được quả tang thì chối. Chối phắt. Con dao, đó là sự vi phạm nội qui nặng
đấy, dù chỉ lâ một mảnh sắt tây được mài sắc, dể cắt một cây rau cải nhổ trộm
được, hay gọt vỏ một mẩu sắn chạy nhựa xanh lè vớ được trong rừng, chuột, sóc
ăn nham nhở.
Ông quản giáo đứng trên tầng trên, đầu gần chạm
cái giá dài làm bằng những cây nứa, một kiểu xích-đông chạy suốt phòng giam,
trên ấy anh em tù để một phần nội vụ.
Chắt
làm nhiệm vụ của mình. Chắt bắt đầu lục, giở tung nội vụ của hắn. ông quản giáo
đứng nhìn, mặt nghiêm khắc. Không biết ông quản giáo có nhớ hắn không. Chứ hắn
thì nhớ ông. Bởi thế nên hắn rất sợ ông. Với ông mọi việc đều có thể xảy ra
CHƯƠNG 2
Cách đây khoảng nửa năm, nghĩa là cuối năm
1972, một buổi sáng hắn cùng tất cả anh em tù xếp hàng đi làm thì ông quản giáo
gọi tên hắn. Tên hắn và tên một số người khác.
Ngơ ngác, không biết có việc gì, hắn đứng tách
riêng ra. Những người tù khác cũng đứng tách ra. Khoảng sáu bảy người. Ai cũng
cầm một cái túi hoặc một mảnh ni-lông.
Khi sân trại đã vắng ngắt, hắn cùng những người
tù còn lại đến sát phòng trực, ngay cổng trại.
Những người tù kia đi ra khỏi cổng. Hắn nhìn
Chắt ngơ ngác. Chắt bảo:
- Vợ lên. Vợ lên hôm qua, không biết à?
Hắn đến đứng trước mặt ông trực trại, lễ phép:
- Báo cáo ông cho tôi về buồng lấy cái túi.
Ông trực trại - vẫn ông hôm nay đến khám nội vụ
hắn, tên ông là Thanh Vân, đeo lon hạ sĩ, có nước da ngăm ngăm - nhìn hắn:
- Nhanh lên!
Hắn băng qua cái sân rộng về phòng, nhún mình
đu lên sàn trên, cầm mảnh ni-lông và lao ra. Những người tù được gặp người nhà
đã ra hết. Hắn thở hổn hển, cố nén niềm vui, giữ cho mình vẻ mặt kính cẩn và
đau khổ:
- Báo cáo ông, cho tôi ra.
Hắn nhận được câu trả lời làm hắn choáng váng:
- Quay về buồng.
- Thưa ông...
- Về! Anh không được gặp nữa. Đến vợ con anh,
anh cũng còn không thiết, còn nói gì nữa.
Hắn chết lặng và biết tội của hắn: Sự chậm trễ.
- Thưa ông, tôi đã xin phép ông cho tôi về lấy
mảnh ni-lông.
- Sao anh không mang ra ngay từ đầu?
- Báo cáo ông, tôi không biết người nhà tôi
lên.
- Sao những phạm khác lại biết? . -
Cái ấy thì hắn chịu. Hắn ngớ ra. Đúng là những
người khác biết được gia đình lên. Còn hắn không biết. Nhưng hắn có phải là tù
chuyên nghiệp đâu mà có lắm bạn bè ở mọi toán, mọi chỗ, thông tin cho hắn.
Dù đã năm năm tù, hắn vẫn cứ là hắn, rụt rè,
cẩn trọng, không muốn mở rộng quan hệ với anh em tù. Hắn chỉ có thể cởi mở
trong giới của hắn, những người viết văn, những người làm báo.
- Báo cáo ông, không ai bảo cho tôi cả.
Ông quản giáo tỏ vẻ thương hại hắn:
- Thôi, về buồng! Anh được nghỉ làm ngày hôm
nay.
Với ông, được nghỉ làm là một đặc ân rồi.
Hán hiểu. Những ngày sống trong tù hắn hiểu
ràng không thể và không nên nài nỉ điều gì khi người ta đã quyết định. Cái đó
chỉ có hại cho mình. Vì người ta muốn tỏ cho anh biết người ta có quyền lực, có
quyền quyết định về anh, dù quyết định ấy thế nào chăng nữa. Rằng anh là một
con số không, hơn nữa, một con số âm. Anh không có một chút quyền cơ bản nào,
hoàn toàn nằm trong bàn tay sắt của chính quyền và phải tuyệt đối chấp hành nó.
Hắn mang miếng ni-lông gấp gọn trở về buồng
gíam. Cửa buồng vẫn mở. Anh em đi làm hết. Nội vụ xếp ngay ngắn, vuông thành
sắc cạnh, đặt sát vách san sát tầng trên tầng dưới, bên này bên kia, ô cao ô
thấp, ô dày ô mỏng, ô cộm lên hòm xiểng, ô chỉ một mảnh chăn sợi mỏng tang. Mỗi
ô nội vụ là một cuộc đời.
Hắn ngồi, rót một ca nước từ bi-đông của già
Đô. Uống. Hắn nghĩ đến vợ hắn đang ở ngoài kia. Vợ hắn ở sát biển, xa lắm, lên
tận chốn rừng sâu này với hắn.
Bây giờ vợ hắn gần lắm, ngay ngoài kia thôi mà
hắn không được gặp. Hắn không ngờ vợ hắn lại đi tiếp tế cho hắn trong hoàn cảnh
gay go như thế này. Máy bay Mỹ bắn phá khắp nơi. Máy bay Mỹ cháy ngay trên
trời, hắn nhìn rõ. Phi công Mỹ nhảy dù rơi xuống trại trong, các ông cán bộ
đuổi bắt được đưa về tỉnh. Ôi! Vợ hắn! Hắn đã viết thư cho vợ nói bóng nói gió
rằng: Ngày về của hắn không biết đến bao giờ. Hẳn khuyên vợ hắn nên suy nghĩ
kỹ, kẻo không lỡ dở. Điều đó chỉ làm cho hắn thêm yên tâm sống trong tù. Hắn
càng đau khổ gấp đôi khi vợ hắn vì hắn mà huỷ hoại cuộc đời.
Thế nhưng vợ hắn không bỏ hắn. Lại còn lên thăm
hắn. Hắn thương và yêu vợ thêm nhiều lần. Giờ đây càng thương. Càng đau. Người
ta sẽ trả lời vợ hắn là hắn cải tạo không tốt, nên lãnh dạo trại không cho gặp.
Tât cả những người không được gặp mặt đều chung một lý do như vậy.
Vợ hắn, một cô gái nhỏ xíu, một cô nữ sinh Hà
Nội, cơn gió thổi cũng bay, bước vào giữa trận bão cuộc đời này mà không được
chuẩn bị gì hết. Thoắt một cái, từ bình minh của cuộc đời, của tình yêu hạnh
phúc, của niềm tin, nàng đã ở ngay tâm bão.
Chiều hôm qua cơn bão đã cuốn nàng từ biển đến
đây Một thung lũng giữa rừng già Việt Bắc. Từ P. tàu xe lên Hà Nội, ăn đợi, nằm
chở, ngủ vạ vật ở ga Hàng Cỏ... Rồi đi tàu, rồi đạp xe ba chục cây số đường
rừng dến dây với niềm tin sẽ được gặp chồng.
Hắn nghĩ đến cảnh vợ hắn trở về, mang theo cả
đồ tiếp tế. Lại ngần ấy đường dất. Bom đạn, cầu đò. Tàu hoả phải tăng bo. B52
bắn phá... Hắn hình dung ra được vì hắn cũng trải qua cảnh ấy trong chiến
tranh.
Hắn ngồi uống nước một mình, muốn khóc mà không
khóc được. Hắn thương vợ đến đứt lòng. Hắn hình dung rất rõ vợ hắn, người nhỏ
nhắn, dáng đi hơi ngả ngả về phía trước. Không biết nàng có phi-dê tóc nữa
không. Lâu quá rồi hắn không được gặp vợ. Kể từ khi chuyển lên trại này gần một
năm rồi, vợ hắn lên thăm hắn lần này là một. Xa xôi quá. Đi thuận tàu xe cũng
phải mất ba ngày. Lại đang bắn phá. Nguy hiểm lắm. Lại còn một điều nữa. Hắn đã
tù lâu. ừ thì so với Nguỵ Như Cần hơn 20 năm, Nguyễn Văn Phố 18 năm với rất
đông anh em Cầu Giát, Ba Làng từ năm 1956 tới nay, thì hắn còn là mới. Nhưng
năm năm cũng lâu. ừ, năm năm đã gọi là lâu được chưa?
Giá hắn tù đến chín năm thì có thể nói là lâu
được.
Ba lệnh như bọn Hỉn Sán, Xìn Cắm mới được nói
về mình là người tù lâu. Năm năm tù không lâu, nhưng cũng đủ làm kiệt sức vợ
hắn, cạn dần những cố gắng của vợ hắn.
Hắn bình tĩnh đón nhận sự cạn kiệt ấy, như mọi
người tù lâu khác, như mọi người tập trung cải tạo khâc. Không thể bắt vợ phải
khổ mãi về mình. Phải để cho vợ con bình thường hoá cuộc sống. Đó là sự chia sẻ
trở lại của người tù với gia đình bên ngoài.
Lâu không gặp vợ, hắn yên tâm tù, bởi lẽ hắn
nghĩ vợ hắn không vất vả vì hắn. Không có hắn, nàng đã khổ cực lắm rồi. Hắn
quyết hoàn toàn đơn độc thích nghi với đời sống trong trại. Không mơ ước ngày
về. Chịu được đói. Đói: dạ dày vơi và đói chất. Và tạt tốt Tạt nhanh như sóc.
ăn được mọi thứ. Nhái, lá sắn, củ ráy đã ăn được. Tốt. Phấn đấu ăn những thứ
khác mình vẫn còn sợ chưa dám ăn. Đừng hướng về những quả tắc của vợ mà hướng
về trại. Như rất nhiều người tù lâu đã làm vậy.
Hắn đã xác định được thì vợ hắn lên.
Hắn hình dung vợ hắn như những lần hắn gặp
trước ở trại QN. Đôi mắt nhìn hắn thương xót và đau dớn như chính nàng đang bi
hành hạ. Khuôn mặt ấy đã chết hẳn nụ cười. Khuôn mặt của những người chịu đựng
tai họa, gắng hết sức mình chịu đựng, đứng vững. Khuôn mặt của những người
không nghĩ gì đến bản thân, sẵn sàng làm tất cả cho người mình yêu thương.
Nhìn khuôn mặt nàng, hắn hiểu hết những gì nàng
đang gánh chịu ngoài đời. Hắn uống một ngụm nước lạnh nữa, vì hắn cảm thấy lồng
ngực nóng bỏng. Và hắn nằm. Dù sao hôm nay cũng được nghỉ buổi làm. Hắn tự động
viên.
Một lúc sau có tiếng chân người đi đến. Hắn vẫn
nằm, bắp tay che mặt. Ai thì ai, hắn không cần. Hắn dang muốn chết.
Tiếng Chắt:
- Buồng này còn ai không nhỉ?
Chắt đến khoá cửa buồng. Hắn nhỏm dậy:
- Tôi! Có tôi ở nhà!
Chắt hai tay nắm hai cánh cửa đang định đóng
lại, bước vào:
- Sao, ông ấy không cho gặp à?
Chắt đứng dưới đất, ngước mặt lên, nói chuyện
với hắn, giọng thông cảm. Hắn vẫn ngồi trên sàn trên. Hắn lắc đầu:
- Vào lấy miếng ni-lông ra thì anh em đã đi hết
rồi ông ấy không cho ra nữa.
- Vợ lên từ chiều hôm qua cơ mà. Lên với một
người nữa.
Lại một thông tin mới. Ai? Ai lên thăm hắn nhỉ?
- Già hay trẻ?
- Khoảng ba mươi. Đàn ông.
Giọng Chắt vô tình, thản nhiên. Chắt với hai má
hóp, giọng nói khàn khàn, vung vung chùm chìa khoá khổng lồ:
- Thế không có đứa nào bảo cho biết à?
- Không. Anh có trông thấy nhà tôi không?
- Có. Hôm qua bà ấy đến từ sớm. Hôm qua lên
đông. Người nhà Phố, toán 12, mãi tối mịt mới đến. Gần hai mươi người cơ mà.
Chắt đi ra cửa:
- Anh ở nhà, khỏi phải khoá nhé?
- Anh bảo nhà bếp bớt lại suất cơm tôi.
Chắt bước ra. Một lúc sau thấy anh em tù nhà
bếp gánh nước sôi lên đổ vào các phuy ùm ùm. Nước sôi hay nước nóng? Nước nóng
thì chắc chắn hơn.
Hắn mang các thứ dụng cụ đựng nước của hắn và
già Đô ra vợi vào ca, cặp lồng, bi-đông, ống bương, bát men... Hắn dặt tất cả
lên sàn trên. Rồi hắn đu lên, xếp gọn vào đầ n giường. Hắn rửa mặt bằng cả một
cặp lồng nước. Một cặp lồng khác vò lại khăn mặt.
Nghỉ ở nhà chỉ thích nhất khoản nước. Không
phải tranh nhau, chậm chân là hết, hoặc có nghiêng thùng đi mà vét cũng chỉ
được vài ca.
Khoảng mười giờ, hắn mang bát xuống nhà bếp.
Anh em mang cơm các toán đã tề tựu.
Trong sân bếp gần trăm con vịt non, có con đã
cắt tiết nhưng vẫn vẫy cánh lết ra một nơi, quét theo một vệt máu, những con đã
nhúng nước sôi vứt riêng một góc. Một cái thùng to đầy vịt đã cắt tiết ở nách,
ở gáy, ở chân, chớp chớp mắt long lanh. Nước trong thùng đỏ như máu. Một anh ấn
hai tay vào quẫy lộn lũ vịt ấy. Đó là anh ta vò nước lã trước khi nhúng nước
sôi.
Những con còn khoẻ vẫy cánh bắn tung toé nước
máu lên mặt, lên tóc, lên người anh ta. ở trong lồng những con vịt nhép kêu hếp
hếp, hếp hếp. Vịt bé quá, còn đang mọc lông. Chắc người ta bị nhỡ lứa, bị cấm
đồng.
Thì ra món thịt vit ông chánh giám thị hứa hẹn
là vậy.
Một anh nhà bếp rên lên:
- Thui thôi, không nhổ được đâu.
Người ta thui. Lông cháy, da ám khói. Đen xì.
khét lẹt.
- Này ngồi xuống, hộ cánh này một tay.
Một anh nói với hắn. Chắt thông cảm:
- Đang buồn, vợ lên không được gặp.
Hắn nhận suất cơm. Cơm nhận riêng thế này
thường được nhiều. Đầy bát hai mươi Mùi cơm trộn mì thơm ngào ngạt. Nhưng hắn
không thấy đói. Hắn vẫn còn thương vợ hắn. Hắn vẫn còn đau, còn tê dại.
Ôi sao người ta lại có thể độc ác đến như vậy.
Hắn không hiểu nổi. Hắn vẫn không quên ông Thanh Vân.
Chiều chiều, khi anh em tù đã bị khoá trong các
buồng, ông thường đi bách bộ ngoài sân. Hai tay khoanh, ấp một quyển sách vào
ngực, ông đi tư lự, nhiều khi mỉm cười một mình như một nhà thơ hay nhà triết
học.
Nằm sấp trong buồng giam, nhìn qua cửa sổ ra
sân, hắn thấy ông Thanh Vân thật buồn cười: ông ta cố làm cho mình thành một
nhà tư tưởng. Một lần ông chậm rãi, đếm bước ngay sát cửa sổ, hắn ngã người:
Qnyển sách áp vào ngực ông Thanh Vân là quyển Hoá học lớp 10. Ông ta lại đang
làm ra mình là một nhà trí thức. Ông có thể là một người hiền lành, chất phác,
cày ruộng giỏi, thương người, nhưng ông cố tỏ ra từng trải, có quyền lực. Chưa
đủ, ông còn muốn mọi người biết là mình có tri thức, phải phục tùng mình tuyệt
đối.
Hắn đã phục tùng ông Thanh Vân. Nhưng phục ông
thì không. Không bao giờ. Hắn thương hại sự nghèo nàn của ông. căm giận sự độc
ác của ông. Sau này khi được tự do, hắn nghĩ về ông có độ lượng hơn: ông ta
cũng chỉ là nạn nhân, là sản phẩm của một hoàn cảnh, một chính sách, đang hoàn
thiện mình để sống trong những điều kiện mới.
Buổi chiều, giữa lúc hắn đang nghĩ đến vợ hắn,
đến đoạn đường vợ hắn đã đi được để về nhà, thì Chắt vào gọi:
- Ra, cán bộ gặp.
Lóe lên hy vọng. Hắn vội giắt vào bụng mảnh vải
nhựa.
Không phải ông Thanh Vân ngồi trong phòng trực.
Một ông quản giáo già, người miền Trung, da mặt thiết bì, cao lớn. Chưa một
người tù nào một lần thấy ông cười. Tên ông là Quân.
- Báo cáo ông, tôi là Tuấn, có mặt.
Ông Quân nói nhạt nhẽo:
- Anh ra gặp gia đình.
Hạnh phúc bất ngờ quá. Hắn nói với ông Quân
giọng lễ phép:
- Cám ơn ông. Báo cáo ông, tôi đi.
Ông Quân quay đi nhìn chỗ khác. Với ông, hắn
không còn đứng đấy nữa.
Hắn đi ra, rảo bước về khu gặp mặt. Một căn nhà
lưng chừng đồi, cách cổng trại hai trăm mét, lẩn trong các lùm cây, người đứng
lố nhố. Hắn vừa đi vừa nhìn xem có thấy vợ hắn đang đứng đó không? Buổi chiều,
nhưng còn đông, vì có những người đã được gặp mặt rồi, nhưng vẫn phải ngủ lại
sáng hôm sau mới về.
Kia rồi! Vợ hắn! Đúng vợ hắn. Không phải trong suy
nghĩ, trong tưởng tượng nữa mà vợ hắn bằng xương bằng thịt. Cái dáng của vợ hắn
dù có lẫn trong hàng nghìn vạn con người hắn vẫn nhận ra được ngay. Hắn vấp một
cái điếng người.
Tim hắn đập rộn lên. Một người đứng cạnh vợ
hắn, nam giới, cao, giơ tay vẫy hắn. Bình. Người bạn thân nhất của hắn.
Hắn đi chậm lại. Hắn muốn kéo dài phút giây
hạnh phúc của thời gian chờ đợi này, thời gian vượt qua quãng đường ngắn ngủi
này. Anh em tù đang làm dưới ruộng khoai. Những bộ quần áo xám bạc phếch. Họ
đang đứng nhìn về phía hắn, thèm khát được như hắn.
Lúc hắn bước tới chân đồi. có tiếng gọi vợ hắn
và Bình vào trong nhà.
Hắn bước lên bậc cấp. Người đầu tiên hắn nhìn
thấy là ông Thanh Vân. Vợ hắn và Bình ngồi ở phía cuối chiếc bàn hình chữ nhật
to dài. Ông Thanh Vân ngồi đầu này.
- Báo cáo ông, tôi có mặt.
Ông Thanh Vân chỉ tay vào một cái ghế ở giữa:
- Anh ngồi xuống. Trại giải quyết cho anh được
gặp chị ấy, nhưng anh không được nhận đồ tiếp tế.
Lại thế nữa. Nhưng thôi. Không đề nghị, không
van xin. Đồ tiếp tế là những thứ cứu sống mình nhưng cũng không là gì cả. Điều
quan trọng là được gặp vợ, hai vợ chồng đôí thoại. Được nhìn nhau. Được nhìn
Bình, người bạn không bao giờ bỏ hắn.
Những câu đối thoại không biết bắt đầu từ đâu,
luôn bị ám ảnh bởi sợ hết giờ. Những câu đối thoại có sự hiện diện của ông quản
giáo, chỉ là những điều dối trá. Thì thôi, hãy nói cho nhau nghe những điều dối
trá. Chúng ta đã học cách nghe những lời dối trá để qua đấy biết được sự thật.
Ông Thanh Vân đã lại lúi húi vào quyển sách giáo khoa. Lần này là quyển Vật lý
lớp 10. ông là một người vừa thâm canh, vừa quảng canh trí tuệ.
Vợ hắn lên tiếng trước:
- Anh có khoẻ không?
Hắn nhìn vợ. Nhìn thẳng vào mắt vợ. Vợ hắn cũng
nhìn vào mắt hắn. Hai người nhìn nhau. Họ đọc trong mắt nhau tình yêu thương,
nỗi khổ cực, sự đau đớn, niềm tin, sự phẫn uất. nỗi tuyệt vọng, lòng xót thương
không bờ bến, sự khao khát bên nhau và nỗi hận không làm được cả vũ trụ nổ tung
lên.
Im lặng khá lâu. Ông Thanh Vân ngẩng lên. Không
nhìn lại, hắn vẫn cảm thấy cái ngẩng lên ấy.
Có lẽ ông ngẩng lên vì không thấy hắn trả lời.
- Em có khoẻ không?
- Em khoẻ, thầy mẹ khoẻ, các con khoẻ.
Ai cũng khoẻ cả, điều ấy hắn không tin.
- Sắp rét rồi, nhớ quàng khăn cho các con, kẻo
chúng nó viêm họng.
- Bé Dương hay ốm lắm. Ba ngày khoẻ, bảy ngày
ốm.
Dương là đứa con út. Vợ hắn đẻ khi hắn đã bị
bắt, hắn chưa biết mặt.
- Em có vất vả lắm không?
Vất vả. Em phải làm thêm. Tối các con ngủ, rửa
bát, giặt giũ xong, em lại lấy bàn là ra là quần áo cho mậu dịch. Anh Thân xin
cho. Mỗi tháng cũng thêm được 15 đồng.
Hắn chẳng biết khuyên vợ thế nào, động viên vợ
thế nào. Hắn cam chịu bất lực. Sự bất lực của một người từng làm chủ gia đình,
đứng mũi chịu sào, cáng đáng mọi việc, kiếm đủ tiền nuôi vợ, nuôi con. Công
việc trong nhà hắn cũng chẳng nề hà, kể cả nấu cơm rửa bát để vợ được nghỉ
trong khi nuôi con mọn.
Hắn thở dài.
Hắn không muốn thở dài trước những ông quản
giáo, vì hắn cho rằng tiếng thở dài của người tù sẽ đem lại niềm vui cho họ.
Hắn không muốn tỏ ra mềm yếu trước mặt người khác. Nhưng lúc này tiếng thở dài
là cái van xả xúp-páp an toàn. Nếu không người hắn sẽ nổ tung lên mất. Cả người
hắn như một quả núi lửa, nghẹn ngào.
Họ nói chuyện về bố mẹ. về sự học hành của các
con. Ôi, bố mẹ hắn giờ dây gánh vác tất cả gánh nặng con cái của hắn. Hắn thật
là một thằng bất hiếu, một thằng khốn nạn. Và lũ trẻ, bao giờ gặp lại. Những
đứa con gần như không bố...
- Anh đã viết đơn đi các nơi...
Bình bây giờ mới lên tiếng:
- Ngọc vẫn viết, nhưng không ai trả lời.
Hắn lặng im một lúc:
- Anh vẫn đi làm bình thường. Lên trại này có
dễ chịu hơn. Thôi, em không phải lên thăm anh nữa. Còn bao việc em phải lo.
Ngọc giàn giụa nước mắt, những dòng nước mắt
lặng lẽ. Hắn nhìn vợ không bằng lòng. Cái nhìn ấy muốn nói: Đừng khóc em. Có ai
thương chúng mình đâu. Những giọt nước mắt của em anh không trả được.
Ông Thanh Vân rời quyển sách Vật lý lớp 10,
đứng lên:
- Thôi. Hết giờ gặp. Anh Tnấn chuẩn bị về trại.
Bình cúi xnóng xách cái bọc to vẫn để dưới ghế,
đặt lên bà n:
- Báo cáo đồng chí...
Đã lâu lắm mới nghe thấy tiếng "đồng chí”
hắn giật mình. sợ hãi về tiếng đồng chí lạc lõng, phạm thượng ấy. . Nhưng hắn
trấn tĩnh ngay. Bình không bị đi tù, Bình chỉ là người nhà tủa người tù. Bình
vẫn là phóng viên báo Đảng và vần có quyền gọi ông Thanh Vân là đồng chí. Nhưng
hắn vẫn sợ ông Thanh Vân xúc phạm Bình, hoặc sau này sẽ có hành động trù dập
hắn...
- Báo cáo đồng chí, xin đồng chí cho anh Tuấn
dược nhận chút quà gia đình đem lên.
Không được. Chúng tôi chiếu cố lắm mới cho anh
Tuấn được gặp mặt hôm nay.
Vợ hắn nài nỉ. Bình nài nỉ. Hắn chưa bao giờ
thấy vợ và người bạn thân thiết của hắn nài nỉ ai như vậy.
Cả hai vốn là những người tự trọng, rất tự
trọng. Ông Thanh Vân cười tươi động viên:
- Thôi, chị với anh cứ mang về. Lần sau lên
chúng tôi cho nhận.
Giả dối đến thế là cùng. Hắn cắn chặt răng,
người run lên vì buộc phải im lặng. Hắn ghê tởm nhất thói đạo đức giả.
Bình đứng dậy. Hắn sợ Bình không giữ được bình
tĩnh. Hắn nhìn Bình van vỉ. Bình hiểu cái nhìn ấy.
- Thưa đồng chí, đang lúc chiến tranh, chúng
tôi vượt bao đường đất mới lên được đến đây. Cả nhà cố gắng chắt bóp dành cho
anh Tuấn ít quà để anh ấy có thêm sức khoẻ cải tạo. Kẹo, bánh, vừng, ruốc, thì
để làm sao được đến chuyến thăm sau. Với lại chưa biết đến bao giờ chúng tôi
mới lạí lên thăm anh ấy được.
Hắn nhăn mặt. Nhăn mặt vì chữ cải tạo Bình nói.
Hắn không làm gì để phải cải tạo. Hắn không có
tội gì hết. Chưa một người công an nào nói hắn mắc tội gì. Lệnh bắt hắn: tuyên
truyền phản cách mạng. Hắn đã bác bỏ trong hỏi cung và không ai buộc tội hắn.
Người ta ấn cho hắn cái lệnh tập trung cải tạo
với tội: Phần tử nguy hiểm cho cách mạng. Thật là biến hoá ảo thuật khôn lường.
Bình ơi! Mày không hiểu gì hết. Nếu có tội thật
thì vào đây cũng không cải tạo được gì đâu. Trước đây tao cũng nghĩ như mày,
nhưng bây giờ tao tin chắc như vậy. Đây chỉ là một địa ngục rợn người, với mục
đích rõ ràng: làm cho người ta khiếp sợ.
Hắn vẫn ngồi, nói với Bình, trước khi ông Thanh
Vân có ý kiến:
- Thôi, Bình ạ! Đừng nói nữa, vô ích. Mình ở
đây mình biết: ỡ đây các ông ấy đã quyết định thì cứ vậy mà làm. Đề nghị cũng
không được đâu. ở dây rất nghiêm khắc. .
Hình như mấy tiếng cuối làm ông Thanh Vân bằng
lòng. ông cười, khuôn mặt bầu bĩnh, ngăm ngăm, chất phác và thoả mãn.
Ngọc đặt tay lên bọc quà, im lặng. Hắn nhìn hai
người. Chưa bao giờ hắn gặp mặt mà phải ngồi xa vợ như vậy. Phải đến hơn hai
mét. Chỉ vì trại này đóng cái bàn to quá. Thật sự, lúc đó hắn không cần gói quà
to tướng đặt trên bàn kia. Hắn không muốn vợ hắn và Bình phải cúi mình vì hắn.
Cả bốn người vẫn ngồi.
Hắn lại cảm thấy ông Thanh Vân cúi xuống quyển
Vật lý. Hắn nhìn gò má đã khô nước mắt của vợ:
- Đi có vất vả lắm không?
- Có anh Bình đi cùng, ctĩng đỡ.
Hắn nhìn Bình:
- Mình chỉ còn có cậu.
Bình nói:
- Tuấn biết đấy, mình cũng chỉ có cậu...
Hai người không dám mày tao với nhau trước
người cán bộ thay mặt chính quyền. Một quãng đời đã chết thấp thoáng hiện ra.
Chợt ông Thanh Vân ngẩng lên nhìn Ngọc:
- Thôi. Chị có thể để lại cho anh Tuấn một ít
quà.
Một ít thôi. Khoảng một phần ba chỗ ấy.
Cả ba người dứng lên. Ngọc nhanh nhẹn giở túi
vải, nhấc từng thứ để ra bàn như sợ người công an thay đổi ý định.
Hắn cầm tấm ni-lông bước lại gần vợ. Hắn nhìn
bàn tay nổi gân của vợ đang xếp. Hắn lại nhìn trộm rất nhanh mái tóc của vợ
hắn, rõ từng sợi tóc. Cả những chân tóc ở đường ngôi, da dầu trăng trắng.
Năm cái bánh mì. Một gói to cơm nếp (nấu sáng
nay ở dây đấy. Em mượn nồi của trại), ruốc thịt (em giã ở phố), vừng (thầy mẹ
giã ở quê cho anh dây). Đường (gói đường này của anh Chân), súp bò (súp bò này
của anh chị Thân). Bánh quy kem (của thằng cháu Côn). Bàn chải. Thuốc đánh
răng.
- Nhiều quá rồi dấy.
Ông Thanh Vân chỉ vào từng gói: " Cái này,
cái này. Thế thôi". Vợ hắn vẫn rút trong túi ra những đồ tiếp tế Và bây
giờ mới là những thứ quan trọng nhất, giá trị nhất: một gói to thuốc lào, một
tút thuốc lá Tam Đảo, và bốn gói chè (hai gói loại 1, hai gói loại 2).
Mắt hắn sáng lên. Chỉ những người trong tù mới
biết giá trị của những thứ đó. Gói thuốc lào này (nhìn sợi thuốc hắn biết của
bố hắn giồng) có thể hút thoải mái nửa năm, kể cả cho đi chút ít và hút chung
với già Đô. Còn thuốc lá, chè. Đó là chìa khoá vạn năng để có tất cả. Đó là
ngoại tệ mạnh, là đô-la. Mọi thứ đều tính ra đơn vị "biêu" (bao thuốc
lá) và “lệnh” (lạng chè). Hắn nhặt những thứ quan trọng nhất để riêng ra.
Chè, thuốc lào, thuốc lá, vừng, ruốc, đường...
Những thứ gọn nhẹ nhưng giá trị, chiến đấu lâu dài được, để dành được. Gói xôi
tú hụ, hắn nhìn mà buốt ruột. Bớt được mấy bữa cơm. Tha hồ phơi. Mà lâu lắm rồi
không dược ăn của nếp. Từ Tết đến giờ. Mười tháng rồi. Nhưng thôi. Vợ hắn cúi
gằm xuống (để tránh cái nhìn của ông quản giáo):
- Xin anh cho chồng tôi nhận mấy cái bánh mì ăn
sáng.
Ông quản giáo lặng im. Vợ hắn đưa gói cơm nếp
sang đống của hắn, trên mảnh ni-lông trải rộng.
- Gói xôi nữa, xin anh cho nhà tôi được nhận
gói xôi.
Ông Thanh Vân lặng im. Gói xôi nằm trên mảnh
ni-lông.
- Còn gói bánh kem anh cho nhà tôi được nhận
nốt.
Thấy ông quản giáo im lặng, Bình tươi tắn:
- Còn mỗi hai gói kẹo cầm về nó chảy nước ra
mất.
Đó là hai gói kẹo lạc xốp. Đã tưởng hết, Ngọc
lại lôi từ dâu ra gói kẹo cứng nữa.
- Cái này chúng tôi định để ăn dường. Nhưng
thôi, anh cho gửi nốt. Cám ơn anh.
Chưa hết. Bây giờ mới thật sự là món cuối cùng.
Ngọc giở ví, lấy ra năm đồng:
- Anh cho nhà tôi nhận để chi tiêu.
Ông Thanh Vân cười hồn nhiên. Đó là nụ cười của
cậu bé nhà quê chất phác, hồn hậu, đáng yêu, độ lượng trước những trò ma lanh,
vặt vãnh:
- Anh có phiếu lưu ký không?
- Dạ, có.
- Đưa đây.
Hắn móc trong túi ra tờ giấy biên nhận của
trại.
Phiếu của hắn chỉ còn mỗi đồng, đã tiêu hết
tháng trước: Trại phân phối mỗi người một gói chè Hà Giang và mười điếu Nhị
Thanh. Hắn mua cả tiêu chuẩn của già Đô. Chả là già Đô không có tiền âm phủ .
Ông Thanh Vân nhận tiền, ghi và ký phiếu.
Thế là hắn được nhận tất cả. Từ chỗ không có
dược gặp vợ, đến chỗ được gặp nhưng không được nhận quà, rồi nhận một tí quà và
cuối cùng được nhận tất cả. Thật là kỳ diệu. Hắn không ngờ câu nói của hắn với
Bình: "ở đây các ông ấy quyết định là cứ thế mà làm. Đề nghị không được
đâu. ở đây rất nghiêm khắc” lại có tác dụng quan trọng thế.
- Anh Tuấn về trại!
Mệnh lệnh nghe cũng không đến nỗi gắt gỏng.
Hắn túm bốn góc miếng ni-lông, đứng lên. Vợ hắn
đứng lên. Bình đứng lên. Vợ hắn lặng người nhìn như muốn nuốt lấy hắn.
Hắn vác quả tắc bước nhanh ra cửa, xuống các
bậc cấp. Hình như Ngọc nhớ ra là mình đã quên điều quan trọng nhất. Nàng vội chạy
theo mấy bước. Hắn nghe thấy vợ hắn nói phía sau:
- Anh giữ gìn sức khoẻ nhé. Em ở đây, mai mới
về. Bây giờ muộn rồi. Tết này em không lên nữa đâu.
Hắn
quay lại nhìn vợ lần nữa và đi về trại.
CHƯƠNG 3
Đã hơn bốn tháng kể từ ngày Ngọc lên thăm hắn.
Hắn vừa cảm thấy như mới gặp Ngọc hôm qua, lại vừa như thấy lâu
quá rồi, một thời gian đằng đẵng. .
Tất cả mọi thứ Ngọc đem lên đã gần hết. Khi Chắt mở hòm của hắn,
trong hòm chỉ còn chừng vài lạng đường chảy nước, một bọc các túi ni-lông giặt
sạch cuộn bó vào nhau và một túi cơm khô, thứ cơm độn ngô vàng vàng, trăng
trắng.
Nhưng trong hòm hắn lại có một cái bếp than. Đó là một cái ống
bơ sữa bò có mấy que thép làm ghi chia đôi hộp. Phía dưới đục làm lỗ thông gió.
Cái bếp được để sang một bên.
Chắt cùng hắn giũ tung cái chăn bông to sù, vỏ bằng vải ka-ki
vụn đã sờn thủng ở những gân cạnh đường may cộm lên. Không có gì đặc biệt. Bị.
Đấy mới là cái cần xem. Hắn khoác bị đi làm và khoác bị về. Một túm rau thơm
ướt dẫm nước gói trong một mảnh ni-lông. Một củ su hào bánh xe đã vặt trụi lá
hắn tạt được ở một vườn rau bên kia suối. Lúc rửa chân tay đi về hắn tót sang,
hai tay quơ hai cái là xong...
Ông Thanh Vân gật gù hài lòng.
Quả tớm " rồi! Hắn bình tĩnh nghĩ. Chắt đặt nắm rau thơm,
củ su hào ra một chỗ. Ông Thanh Vân lấy chân đá đá vào cái hòm ra hiệu. Chắt
kéo cái hòm ra phía ngoài. ở giữa hòm gỗ và bức vách là một cái ống quần tù
rách một đầu đã được khâu liền, đầu kia buộc túm phồng phồng như một con chuột
cống. Đó là một túi đựng than củi. Chắt nhấc cái túi ra. Hắn ấp úng:
- Báo cáo ông. Tô; bị ốm quá, mạn phép ông mang tí than về nấu
cháo...
Không thèm nghe, không thèm nói nửa lời, ông Thanh Vân đá vào
các thứ phạm qui và đá cả vào cái hòm. Rồi ông tụt xuống dất. Hắn nhấc vội túi
đường, túm ni-lông trong hòm. Chắt xếp các tang vật vào hòm, cắp mang ra.
Còn lại những người tù im lặng. Rồi mỗi người một câu, ầm lên”.
Thế là mất sột sệt rồi", “ông ấy làm căng quá nhỉ", "Tôi giả A
Tuấn con dao đây”. , "Mẻ to rồi" "Chắc có thằng nào bẩm".
Một anh tù trẻ măng nhảy từ sàn bên kia sang chỗ hắn. Đó là Cân, giáo dân phát
Diệm, mới vào tù mấy tháng nay. Nước da Cân vẫn sáng, săn và thấy rõ hồng cầu.
Không giống nước da tù ngăm ngăm tai tái, bờn bợt, sưng sưng kín mít nỗi lòng,
khuôn mặt Cân vẫn còn nét riêng, đó là cái linh hoạt, cái biểu hiện tình cảm ra
bên ngoài. Từ con người Cân vẫn còn bóng dáng uyển chuyển của Tự do, của đồng
ruộng, của luỹ tre gió thổi.
- "Hẳn có một thằng chó nào bẩm đây.! !
Hắn nói và nhìn vào một anh tù ngồi ở sàn bên kia, cũng tầng
trên, chênh chếch chỗ hắn ngồi. Già Đô tiếp: Đó là cái chắc". Già cũng
nhìn vào người đó.
Trong tù cũng như ngoài đời, hắn căm thù nhất sự phản bội.
Rất nhiều cái nhìn hướng về anh tù sàn bên kia.
Đó là Hợp, một anh lính ngụy quê ở Bắc Ninh đã tập rung cải tạo
tới năm thứ chin. Vẫn bình thản chữa cái bẫy chuột, anh ta chép miệng:
- Đã khổ thế này rồi mà còn hành hạ lẫn nhau. Chó lại đi giết
chó.
Nhìn Hợp, nghe Hợp nói, hắn lại phân vân, không biết có phải Hợp
bẩm không. Anh ta mới ở trại Phú Sơn chuyển về. Cũng như hắn ở trại Q.N chuyển
lên.
Sau 16 tháng 4, số lẻ các nơi nườm nượp về đây. Xe chạy đi chạy
lại và nhả ra bao nhiêu tù mặt lạ hoắc.
Anh em ở Phú Sơn cho biết: Hợp thích bẩm, sớ để lập công, sớm
được trở về. Muốn gì hắn cũng phải tổ chức bữa uống chè tối nay. Vẫn phải sột
sệt. Để cho kẻ nào làm li-cai-tơ thấy rõ họ đã thất bại. Thực lòng hắn rất đau.
Nhìn vào chỗ để nội vụ trống một khoảng, hắn xót. Cái hòm. Cái hòm không thể
thiếu được của hắn. Hắn đã viết thư cho vợ xin cái hòm sau vụ mất cắp hai gói
kẹo. Và vợ hắn đã đèo bằng xe đạp đi gần trăm cây số lên cho hắn. Hắn đã mang
cái hòm vào trại trước bao cặp mắt thèm thuồng của các bạn tù. Cái hòm đã gắn
với hắn đi bao toán. Từ Q.N đến V.Q. Cái hòm với bao nhiêu công dụng. Cái hòm
gia sản, tổng kho. Cái hòm ấy mà chác, giá trị không kém cái cặp lồng tốt nhất.
Hắn tiếc túi than. Đây là một túi than đặc biệt. Không phải loại
than củi thông thường. Đi làm, việc đầu tiên là phát hoả cái đã. Kiếm cây que
đốt lửa đùng đùng. Mùa rét thì sưởi. Mùa hè thì hút thuốc lào. Dúi ngầm vào đó
củ khoai, cái bắp ngô nếu tốt số tạt được. Anh nào thích than thì đi tìm củi
chắc vứt vào, rồi nhặt than ra, lấp đất lên. (Tất nhiên là phải rình lúc quản
giáo không có mặt). Rồi liệu mà bồng về. Đó chỉ là thứ than hoa thường thấy.
Mẻ than vừa mất của hắn là một mẻ than đặc biệt. Lâu rồi toán
hắn đốt lửa trên một gốc cây to. Lửa cháy ngún xuống rễ sâu dưới lòng đất. Phải
đến tuần lễ sau hắn mới lang thang ra đấy bới đống tro, xem còn ít than sót lại
không và phát hiện ra những cái rễ cháy âm ỉ trong đất từ bao giờ. Chúng đã
tắt, còn lại than.
Hắn bới đất. Nậy một khúc than nguyên hình rễ cây. Một khúc nữa.
Hắn đào. Im lặng đào. Lưng một bị than. Thỏi nào thỏi ấy như than đá, nặng, óng
ánh, rơi vào nhau kêu thành tiếng sang sảng. Hắn đã bồng về trại trót lọt, mặc
dù hôm ấy ai đi qua cổng trại cũng bị khám. Hắn đã chuẩn bị. Hắn cho than vào
cái ống quần tù để dưới đáy bị. Hắn để bộ quần áo ướt lên trên. Và cái ca rỗng
nằm nghiêng ở phía trên nữa, cạnh cái khăn mặt ướt. Sau cùng là cái điếu cày nằm
chênh chếch từ đáy bị tới miệng bị.
Thấy khám xét: nhiều người sợ hãi. Hắn rướn lên đứng trên cùng.
Chờ khám xong một toán, hắn hớn hở bước lên, tay chành sẵn miệng bị. Ông quản
giáo không nhìn, phẩy tay ra hiệu cho hắn vào.
Hắn bước qua bao nhiêu của cải quí như vàng vất dưới đất, ngay
cạnh lối đi, sát bốt gác: nắm lá khoai, túm lá sắn non, túi than, những bó đóm.
Có cả những mẩu sắn và mấy củ khoai, chẳng biết của ai mà sao không khợp ngay ở
chỗ làm đi, bồng về đến đây để mất.
Mẻ than đã nằm gọn trên giá, sau cái hòm. Mẻ than nặng, đượm,
chắc, bỏ mấy hòn cháy suốt cả tối, không phải thêm than. Hắn mới sột sệt mấy
bữa, còn đun được mươi ngày nữa mới phải lo.
Thế là bây giờ tay trắng.
Hắn ra sân đi bách bộ cho khuây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét