Người Việt
hay người Kinh là một dân tộc hình thành tại khu vực địa lý mà ngày nay là miền
Bắc Việt Nam và miền namTrung Quốc. Đây là dân tộc chính, chiếm khoảng 86,2%
dân số Việt Nam và được gọi chính thức là dân tộc Kinh để phân biệt với những
dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính sử dụng là tiếng Việt theo nhóm
Việt-Mường. Người Kinh sinh sống trên khắp toàn thể nước Việt Nam và một số nước
khác nhưng đông nhất vẫn là các vùng đồng bằng và thành thị trong nước. Còn
nếu tính theo kiều bào ở ngoài nước thì người Việt định cư ở Hoa Kỳ là đông nhất.
Truyền thuyết
Theo truyền thuyết dân tộc Kinh, những người Việt đầu tiên là con cháu của một
thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người này lấy
nhau và đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra
cùng một bọc gọi là "cùng bọc" (hay còn gọi là Đồng bào) và "đồng
bào" là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng
có chung một nguồn gốc.
Có hai luồng quan điểm về nguồn gốc của người Việt. Một số học giả tin rằng người
Việt đầu tiên dần dần chuyển từ quần đảo Indonesia thông qua bán đảo Mã Lai và
Thái Lan cho đến khi họ định cư trên các cạnh của sông Hồng ở Đồng bằng Bắc Bộ[cần
dẫn nguồn] bằng cách lần theo con đường của các công cụ đá từ cuối Thế
Pleistocen (600,000-12,000 trước Công nguyên), trên Java, Malaysia, Thái Lan và
phía bắc Miến Điện. Những công cụ bằng đá được cho là các công cụ con người đầu
tiên được sử dụng trong khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ tin rằng vào thời
điểm này Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi ở miền bắc Miến Điện và Trung Quốc, tạo ra
một rào cản băng giá mà cô lập người dân Đông Nam Á. Một số khác cho rằng người
Việt đầu tiên vốn là một bộ tộc gốc Mông Cổ ở Tây Tạng, di cư xuống phía nam từ
thời đồ đá cũ[cần dẫn nguồn]Nhóm dân tộc này định cư tại vùng Bắc Bộ, thượng
nguồn sông Hồng ngày nay và tạo nên nền văn minh Đông Sơn. Nhóm bộ tộc này cung
có sự tương đồng rất lớn về nhân chủng, văn hóa với các tộc người ở phía Nam
Trung Quốc - mà sử Trung Quốc còn gọi là cộng đồng Bách Việt.
Nguồn gốc
Vào năm 257 TCN An Dương Vương thành lập vương quốc Âu Lạc, tại miền Bắc Việt
Nam bây giờ. Vào năm 208 TCN vua nước Nam Việt là Triệu Đà tiến đánh Âu Lạc,
tiêu diệt An Dương Vương. Triệu Đà hợp nhất Âu Lạc với các lãnh thổ tại miền cực
nam Trung Quốc thành vương quốc Nam Việt.
Phân bố
Trên thế giới
Vào thế kỷ 16, một số người Việt di cư về phía bắc vào Trung Quốc. Tuy đã bị ảnh
hưởng Trung Hoa nhiều hơn, con cháu những người này vẫn còn nói tiếng Việt và
được công nhận là một dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. (Xem thêm bài Người Kinh
(Trung Quốc).
Trong thời Pháp thuộc, một số người Việt làm công nhân đồn điền, khai mỏ tại
Tân Đảo[22] (nay là Nouvelle-Calédonie và Vanuatu)... Ngoài ra còn một số cộng
đồng người Việt ở Réunion, Haiti... thành lập từ những chí sĩ yêu nước bị đày ải.
TạiXiêm, Trung Quốc, Lào, Cao Miên cũng có khá nhiều người Việt sinh sống. Cũng
trong thời kỳ này, một số người Việt yêu nước đã sang Xiêm, Trung Quốc, Liên
Xô... thành lập các tổ chức cách mạng nhằm tránh sự bắt bớ của chính quyền thuộc
địa tại Việt Nam.
Khi thực dân Pháp rời khỏi Việt Nam vào năm 1954, một số người Việt di cư sang
Pháp, gần 900.000 người từ miền Bắcdi cư vào miền nam.
Sau Chiến tranh Việt Nam, gần 1 triệu người Việt di tản và vượt biên. Phần lớn
những người này tái định cư tại Bắc Mỹ,Tây Âu và Úc. Tại Hoa Kỳ có một cộng đồng
người Mỹ gốc Việt khá lớn.
Tại Việt Nam
Tuy gốc từ miền Bắc Việt Nam, người Việt đã Nam tiến và chiếm đất đai của vương
quốc Chiêm Thành qua thời gian. Hiện nay họ là dân tộc chính trong phần lớn các
tỉnh tại Việt Nam.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Kinh ở Việt Nam có dân số
73.594.427 người, chiếm 85,7% dân số cả nước, cư trú tại tất cả 63 tỉnh, thành
phố. Các tỉnh, thành phố có số lượng người Kinh lớn nhất là: Thành phố Hồ Chí
Minh (6.699.124 người), Hà Nội (6.370.244 người), Thanh Hóa (2.801.321 người),
Nghệ An (2.489.952 người), Đồng Nai(2.311.315 người), An Giang (2.029.888 người)[1].
Người Kinh là dân tộc đa số tại Việt Nam, tuy nhiên tại một số tỉnh miền núi
phía Bắc, người Kinh lại là dân tộc thiểu số: Lào Cai (212.528 người, chiếm
34,6% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số), Hòa Bình (207.569 người,
chiếm 26,4% dân số toàn tỉnh, người Mường là dân tộc đa số ở Hòa Bình, chiếm
63,9%), Sơn La (189.461 người, chiếm 17,6% dân số toàn tỉnh, người Thái là dân
tộc đa số ở Sơn La), Lạng Sơn (124.433 người, chiếm 17,0% dân số toàn tỉnh, tỉnh
này không có dân tộc đa số), Hà Giang (95.969 người, chiếm 13,2% dân số toàn tỉnh,
tỉnh này không có dân tộc đa số), Điện Biên (90.323 người, chiếm 18,4% dân số
toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số), Lai Châu (56.630 người, chiến 15,3
dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số), Bắc Kạn (39.280 người, chiếm
13,4% dân số toàn tỉnh, người Tày là dân tộc đa số ở tỉnh này), Cao Bằng
(29.189 người, chỉ chiếm 5,76% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số).[1]
Đặc điểm kinh tế
Có thể nói nền kinh tế mạnh nhất là nền nông nghiệp lúa nước. Nền văn minh lúa
nước đã được khai sinh từ rất ngàn đời xưa và đạt được trình độ nhất định. Nền
nông nghiệp phát triển cũng nhờ một phần vào sự đào đê, đào nương. Ngoài nghề
nông nghiệp, người Kinh cũng làm một số các nghề khác ví dụ như chăn nuôi gia
súc, làm đồ thủ công... Là những nghề đòi hỏi sự khéo léo cao![21]
Món ăn yêu thích
Người Kinh có truyền thống ăn trầu cau, hút thuốc lá, nước vối, nước chè, hút
thuốc lào, các loại cơm, cháo, xôi, mắm tôm, trứng vịt lộn.[21]
Tổ chức cộng đồng
Theo truyền thống ngàn đời thì người Kinh sống theo làng. Nhiều làng họp lại
thì thành một xã. Mỗi làng có thể có nhiều xóm. Nếu tính ra một thôn của miền Bắc
thì bằng với một ấp của miền Nam. Trong các làng và xã đều có luật lệ riêng mà
mọi người đều phải thi hánh. Các làng thường được che chắn bằng cách trồng tre
hoặc xây cổng kiên cố. Mỗi làng đều có nơi hội tụ và thờ lạy chung. Một số làng
có đình thờ thành hoàng làng, là người được coi là thần bảo hộ của làng. Vào thời
xưa thì phụ nữ bị cấm không được đến đình làng.
Văn hóa
Văn học của người Kinh đã đừng tồn tại từ ngàn đời và được truyền miệng qua
truyển cổ, ca dao, tục ngữ... Nghệ thuật phong phú như ca hát, âm nhạc, điêu khắc,
hội họa, múa, diễn xướng... Hàng năm thì theo truyền thống các làng đều tổ chức
hội làng với các sinh hoạt cộng đồng. Từ ngàn xưa thì người Kinh do chuyện ảnh
hưởng từ Trung Quốc nên đã dùng chữ Hán nhưng sau này tự tạo chữ viết riêng là
chữ Nôm Bắt đầu từ khoảng thế kỷ thứ 16 với sự truyền giáo từ phương Tây,
các giáo sĩ thấy việc cần dùng chữ cái Latin để ghi lại âm giọng tiếng Việt là
cần thiết. Rồi từ đó đã xuất hiện chữ Quốc Ngữ và được sử dụng rộng rãi ngày
nay. Ngoài các giá trị vật chất, người Việt còn có những giá trị tâm linh
như việc thờ cúng tổ tiên, giỗ và các lễ hội như Tết. Các tôn giáo phổ biến như
Phật giáo, Công giáo Rôma, đạo Cao Đài...
Nhà cửa
Phong cách và hình dạng nhà cửa tùy theo từng vùng và miền. Hầu như nhà nào
cũng có phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn và nhà bếp (đôi khi phòng ăn và nhà bếp
là một).
Trang phục
Trang phục Việt Nam đa dạng và muôn màu qua khăn áo, váy, quần, khố, mũ, nón,
trang sức...
Trang phục nam
Nói chung người Việt Nam dù ở Bắc, Trung hay Nam đều có cách mặc gần giống
nhau. Các loại quần áo như áo ngắn mặc với quần lá tọa ống rộng, quần có cạp hoặc
dùng dây rút. Thời xưa thì đàn ông để tóc dài, búi tó, hoặc thắt khăn đầu
rìu,... Vào các lễ hội đặc biệt thì mặc áo dài khăn đống, mùa áo đơn giản không
có văn hoa. Chân thì đi guốc mộc.
Trang phục nữ
Vào thời xưa thì phụ nữ người Kinh ai cũng mặc yếm. Váy thì váy dài với dây thắt
lưng. Các loại nón thông thường như thúng, ba tầm... Trong những ngày hội thì
người phụ nữ thường mặc áo dài. Các thiếu nữ thì hay làm búi tóc đuôi gà. Các đồ
trang sức truyền thống như trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong
cách tùy theo từng vùng. Phụ nữ Nam Bộ thường mặc áo bà ba với các kiểu cổ như
tròn, trái tim, bà lai với các khăn trùm đầu. Nón lá có thể nói là nón được sử
dụng rộng rãi nhất cho phụ nữ thời xưa do nó có thể tự làm và che nắng rất tốt.
Trang phục truyền thống trong đám cưới của người Việt
Hôn nhân gia đình
Theo truyền thống thì người đàn ông là trụ cột gia đình. Các đứa con đều lấy họ
cha và được coi là nối nghiệp tông đường. Dòng họ của bố là "họ nội"
còn dòng họ bên mẹ là "họ ngoại". Đứa con trai đầu thường là người
giao cho trọng trách nhiều nhất trong gia đình. Mỗi họ đều có chỗ thờ họ và người
trưởng họ sẽ lo việc chung. Cháu trai của đời con trai đầu được gọi là
"cháu đích tôn". Hôn nhân chỉ được chấp nhận dưới dạng một chồng một
vợ. Quan hệ đồng tính hiện chưa được chính phủ chấp nhận tại Việt
Nam.[24][25] Việc cưới xin thì thưởng phải đi qua các nghi thức truyền thống của
người Việt. Người Kinh coi trong sự trinh trắng và đức hạnh của người con gái
và còn quan tâm đến gia thế của họ.
Đánh giá
Bài chi tiết: Đánh giá đặc điểm của người Việt
Những đánh giá về người Việt Nam hiện đại (thế kỷ 20-21) đã được một số học giả
trong và ngoài nước đưa ra trong các tác phẩm báo chí, tác phẩm văn học, các tiểu
luận hay các công trình nghiên cứu xã hội học và dân tộc học. Các đánh giá này
được nêu tại những thời điểm lịch sử khác nhau, bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, trong
đó có một phần đáng kể về vai trò và tính hai mặt, ưu và nhược điểm trong tư
duy, tính cách, tâm lý và tập quán người Việt trong tiến trình phát triển của
dân tộc. Các tổng kết dựa trên các nghiên cứu còn một số khác là nhận định cá
nhân hay suy diễn logic của các học giả nổi tiếng. Tính hai mặt của người Việt
Nam đã được đa số các học giả thừa nhận và khẳng định trong các công trình
nghiên cứu về tâm lý, văn hóa, xã hội và lịch sử dân tộc. Những đặc điểm phổ biến
trong tư duy, tính cách, tâm lý và tập quán của người Việt mà các tác giả đã chỉ
ra cũng không bất biến mà thay đổi theo sự thay đổi của những điều kiện xã hội
cùng với sự giao lưu kinh tế, văn hóa, tư tưởng, học thuật với thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét