Giờ Phút Cuối Cùng Của Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa - Trần Trung Đạo Lược Dịch
"Thưa chủ tịch, chủ tịch cho gọi tôi
?" Mao Trạch Ðông cố mở mắt và nhấp môi. Mặc dù tôi cố trườn người tới
trước để lắng nghe, nhưng chẳng nghe được gì ngoài tiếng "A a..." đứt
khoảng. Chiếc mặt nạ chuyễn dưỡng khí tuột ra khỏi mặt, Mao đang ráng sức thở.
Ðầu óc ông ta có thể còn tỉnh táo nhưng tiếng nói thì quả thật chẳng còn hy
vọng gì. Với tư cách là bác sĩ riêng của Mao Trạch Ðông, tôi điều hành một y
đội gồm 16 bác sĩ tài giỏi nhất Trung Quốc và được phụ giúp bởi 24 y tá giàu
kinh nghiệm nhất cùng nhau lo một việc chung là cứu mạng Mao Trạch Ðông kể từ
khi ông ta bị chấn động tim lần thứ hai ngày 26 tháng sáu năm 1976. Y đội được
chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm gồm ba bác sĩ và tám y tá để thay phiên nhau
trực suốt ngày đêm bên cạnh Mao. Cá nhân tôi thì phải có mặt 24 trên 24, tôi
chỉ ngủ vài ba tiếng đồng hồ mỗi đêm trong một văn phòng nhỏ sát với phòng bệnh
của Mao Trạch Ðông.
Trong lúc đó thì nhân dân Trung Quốc chẳng
biết một tí gì về tình trạng sức khỏe của lãnh tụ họ ngoài việc đoán mò qua
những tấm hình hoạn hoằn lắm mới xuất hiện trên báo chí. Báo chí Cộng Sản thì
bao giờ cũng lập đi lập lại một giọng điệu cố hữu rằng Chủ Tịch Mao sức khỏe
vẫn dồi dào, mỗi buổi sáng nhiều trăm triệu dân vẫn tiếp tục hát bài "Suy
Tôn Mao Chủ Tịch Sống Lâu Muôn Tuổi" Nhưng với chúng tôi, thì sinh mạng
Mao Trạch Ðông chỉ còn tính bằng giờ và ngay cả thậm chí bằng phút. Bộ Chính
Trị Ðảng Cộng Sản Trung Hoa cũng chia thành từng cặp kèm chế lẫn nhau, dựa theo
cấp bực Ðảng và lập trường chính trị của mỗi cá nhân, để túc trực bên cạnh Mao.
Ví dụ như Hoa Quốc Phong, một ủy viên đứng hàng thứ hai trong Bộ Chính Trị
nhưng có lập trường ôn hòa cặp đôi với Vương Hồng Văn, ủy viên chính trị trẻ
tuổi nhất nhưng lại có lập trường chính trị cực đoan tả khuynh. Hoa Quốc Phong
phải nói là một trong những người trung thành và tận tụy với Mao nhất. Có lần
chúng tôi đề nghị một phương pháp khá mới mẻ so với kỷ thuật y khoa lúc bấy giờ
tại Trung Quốc là chạy một đường ống từ mủi xuống tới dạ dày Mao Trạch Ðông để
có thể theo đó chuyền thức ăn. Trong đám lãnh tụ Cộng Sản chỉ có một mình Hoa
Quốc Phong là dám tình nguyện dùng thân thể chính mình để làm thí nghiệm trước.
Tôi có cảm tình với Hoa Quốc Phong, tư cách và phong độ của ông ta thật hiếm
hoi trong hàng ngũ lảnh tụ Cộng Sản suy thoái và thối nát. Khi chính sách
"Bước Tiến Nhảy Vọt" của Mao thất bại, nền kinh tế vào giai đoạn suy
thoái trầm trọng, các lảnh đạo Cộng Sản địa phương vẫn tiếp tục trò báo cáo láo
rằng năng suât gia tăng, chỉ có mỗi Hoa Quốc Phong đủ can đảm nói "nhân
dân đang sụt cân, gia súc đang sụt cân, và ngay cả đất đai cũng sụt cân".
Mao Trạch Ðông chọn Hoa Quốc Phong thừa kế mình cả vị trí trong đảng lẫn ngoài
chính phủ, ngoài việc nhận thấy đức tính trung thành trong người Hoa Quốc
Phong, còn nhằm mụch đích để cân đối cán cân quyền lực trong hàng ngũ lãnh đạo
Cộng đảng Trung Hoa đang đấu tranh giữa hai phe Giang Thanh và Ðặng Tiểu Bình.
Trở lại với tình trạng sức khỏe của Mao,
khoảng nửa đêm ngày 8 tháng 9 năm 1976, các bác sĩ chích cho Mao một mũi nhân
sâm để kích thích nhịp tim của ông ta. Áp suất máu nhờ vậy đã tăng được chút ít
và mạch cũng bắt đầu đập rõ hơn nhưng tôi biết những cải thiện đó chỉ có tích
cách tạm thời. Hoa Quốc Phong kéo tôi ra ngoài và hỏi "Liệu còn cách nào
khác không ?" Tôi nói là không. Im lặng, tôi nhìn Hoa Quốc Phong. Không
khí dường như ngưng đọng lại. Âm thanh duy nhất trong phòng là tiếng nhịp đều
của chiếc máy bơm dưỡng khí. Tôi lắc đầu và nói nhỏ với họ Hoa "Chúng tôi
đã làm tất cả những gì có thể làm".
Hoa Quốc Phong quay lại phía Uông Ðông Hưng,
ủy viên Bộ Chính Trị, Giám Ðốc Ủy Ban Tổng Lý Quốc Vụ chuyên trách về các vấn
đề Ðảng kiêm chỉ huy trưởng lực lượng anh ninh, chỉ thị: "Mời đồng chí
Giang Thanh và các ủy viên Bộ Chính Trị ở Bắc Kinh đến đây ngay, đồng thời
thông báo cho các ủy viên Bộ Chính Trị các miền trên toàn quốc báo cáo về Bắc Kinh".
Sau khi Uông Ðông Hưng vừa đi ra ngoài thì một y tá chạy ra gặp tôi "Thưa
Bác Sĩ Lý, cô Trương Ngọc Phượng nói rằng Mao Chủ Tịch muốn gặp bác sĩ",
tôi hớt hải chạy vào bên trong.
Trương Ngọc Phượng nguyên là một tiếp viên
trên chiếc xe lửa đặc biệt Mao Trạch Ðông thường dùng đi thanh tra các địa
phương, bây giờ cô ta là thư ký tin cẩn của Mao. Tôi gặp cô ta lần đầu khi bắt
gặp cô ta và Mao Trạch Ðông đang nhảy đầm trong một dạ tiệc do Mao tổ chức ở
Trân Sa. Lúc đó nàng là một cô gái mười tám tuổi ngây thơ vô tội, có đôi mắt
đen tròn và làn da trắng mịn màng. Tôi thấy cô ta cùng Mao Trạch Ðông ôm nhau
nhảy và đêm đó Phượng đã ở lại với Mao. Mặc dù ghiền rượu nặng, Trương Ngọc
Phượng đã xoay xở để giữ được lòng tin cậy ở Mao. Ngoại trừ tôi, bất cứ ai cũng
phải được sự chấp thuận của Phượng trước khi được đến gần Mao. Có một lần
khoảng tháng 6 năm 76, Hoa Quốc Phong đến gặp Mao trong lúc Trương Ngọc Phượng
đang ngủ trưa, không ai dám đánh thức cô ta dậy, mãi hai tiếng đồng hồ cô ta
vẫn chưa thức, thế là hôm đó Hoa Quốc Phong, dù là một nhân vật quyền lực chỉ
xếp sau Mao, đành phải ra về không gặp được Mao Trạch Ðông. Một chuyện khác đã
xảy ra cùng năm khi Ðặng Tiểu Bình bị bịnh và đang bị đối thủ tấn công về mặt
chính trị, cô lập khỏi gia đình ông ta. Con gái của Ðặng viết thư cho Mao để
yêu cầu ông ta can thiệp cho cô ta được ở gần để săn sóc cho cha. Trương Ngọc
Phượng vì lý do gì đó chẳng thèm giao thư cho Mao, và kết quả là con gái của
Ðặng Tiểu Bình không được gần cha. Quyền lực của Trương Ngọc Phượng ngày càng
mạnh một phần cũng nhờ vào năng khiếu đặt biệt của cô ta để hiểu được giọng nói
về già rất khó nghe của Mao. Cả tôi nhiều khi cũng phải nhờ cô ta giải thích.
Trương Ngọc Phượng, lúc đó, nói với tôi
"Thưa bác sĩ, Mao Chủ Tịch muốn biết còn một hy vọng nào không ?".
Với nhiều cố gắng, Mao gật đầu đồng ý với lời dịch của Trương Ngọc Phượng. Mao
trườn tay để nắm lấy tay tôi. Mạch trong người Mao rất yếu và khó tìm. Ðôi má
phính tròn của họ Mao, rất quen thuộc với nhân dân Trung Hoa đã xẹp lép, nước da
đã đổi sang màu xám tro. Ánh mắt Mao nhìn lơ đãng, mất đi sự thu hút bình
thường. Ðồ thị trên chiếc máy đo nhịp tim đã chạy bất thường. Các ủy viên Bộ
Chính Trị như Hoa Quốc Phong, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Uông Ðông
Hưng đã lần lượt đến một cách âm thầm. Thình lình Giang Thanh cũng vừa bước vào
vừa hét "Có ai nói dùm với tôi chuyện gì đang xảy ra không ?". Giang
Thanh là vợ thứ tư của Mao. Hai người kết hôn ở Diên An năm 1938. Sau 1949,
Giang Thanh bắt đầu nhàm chán với đời sống bất động của một phu nhân chủ tịch.
Khi Cách Mạng Văn Hóa do Mao phát động xảy ra, Giang Thanh mới cơ hội xây dựng
quyền lực riêng cho bà ta và được bầu vào Bộ Chính Trị. Cũng từ đó Mao và Giang
Thanh hướng tới hai cuộc sống riêng biệt nhưng Mao chưa bao giờ cảm thấy thích
hợp để ly dị Giang Thanh và cưới vợ khác. Ðối với Giang Thanh, không phải dể
dàng để chấp nhận sự có mặt của Trương Ngọc Phượng, nhưng cuối cùng bà ta cũng
đành đầu hàng hoàn cảnh. Từ đó bà ta lại tỏ ra ve vản Trương Ngọc Phượng để qua
trung gian Trương Ngọc Phượng mà tiếp xúc với Mao. Bịnh trạng của Mao cũng làm
Giang Thanh vừa lo sợ vừa hy vọng, lo sợ vì biết đâu quyền lực của bà tạo dựng
bao năm cũng chết theo Mao, hy vọng vì có thể sau khi Mao chết bà sẽ được chọn
làm người thừa kế. Hoa Quốc Phong ngắt lời Giang Thanh "Ðồng chí Giang
Thanh, Mao Chủ Tịch đang nói chuyện với với Bác Sĩ Lý".
Tôi cố gắng an ủi Mao, dù tôi biết chẳng còn
chút hy vọng gì. Kể từ sau biến cố Lâm Bưu, sức khoẻ Mao đã trở nên sa sút. Mặc
dù bịnh, Mao không cho phép chửa trị mãi cho khoảng 3 tuần trước khi Tổng Thống
Hoa Kỳ Richard Nixon chính thức viếng thăm Trung Quốc, Mao mới ra lịnh cho tôi
bắt đầu chửa trị nhưng lúc đó tim, phổi của Mao đã bị suy yếu trầm trọng. Tôi
đón tiếp Tổng Thống Nixon ở cửa và đưa ông ta vào phòng đọc sách của Mao.
"Thưa chủ tịch, không sao đâu, chúng tôi vẫn còn có thể chửa trị cho chủ
tịch". Bàn tay Mao vẫn còn trong tay tôi. Trong phút chốc ánh mắt Mao có
vẻ hài lòng nhưng sau đó bỗng dưng nhắm lại và đó cũng là lúc trút hơi thở cuối
cùng. Bàn tay ông ta đã vuột khỏi tay tôi. Biểu đồ trên chiếc máy đo nhịp tim
đã chạy thành đường ngang dài. Tôi nhìn đồng hồ, lúc đó là 12 giờ 10 phút sáng,
ngày 9 tháng 9 năm 1976.
Tôi không cảm thấy một chút gì tiếc thương cho
cái chết của Mao mặc dù sau 22 năm kề cận bên ông ta. Hình ảnh của Mao Trạch
Ðông như một vị cứu tinh dân tộc đã chết trong lòng tôi từ lâu lắm. Giấc mơ của
tôi về một Trung Hoa bình đẳng đã tan nát từ nhiều năm trước đó. Tôi chẳng còn
tin ở chủ nghĩa Cộng Sản mặc dù tôi vẫn còn là một đảng viên. Ý nghĩ của tôi
trước cái chết của Mao rằng một kỷ nguyên đã qua, thời đại Mao Trạch Ðông đã
chấm dứt. Giang Thanh nhìn chăm chăm vào mặt tôi và nói "Các người đang
làm gì, các người sẽ phải chịu trách nhiệm cho cái chết của Mao Chủ Tịch".
Tôi chẳng lạ gì con người Giang Thanh, từ năm 1972 bà ta đã từng tố cáo tôi là
gián điệp. Hoa Quốc Phong lại lần nữa can thiệp với sự tán đồng của Vương Hồng
Văn "Chúng tôi đã ở đây từ đầu, các đồng chí bác sĩ đã tận lực".
Giang Thanh là lãnh tụ của nhóm cực đoan tả khuynh được sự ủng hộ của Vương
Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và đứa cháu của Mao là Mao Viễn
Tân. Vương Hồng Văn là thành viên trẻ nhất của Bộ Chính Trị. Vương đã từ một
cán bộ an ninh ở một nhà máy trở nên một ủy viên Bộ Chính Trị trong một thời
gian kỷ lục và không ai hiểu tại sao. Vương cao ráo, đẹp trai, thọat nhìn có vẻ
thông minh nhưng lại là người thiếu học và ngu dốt. Trong thời gian Mao bịnh,
Vương Hồng Văn lại thích đi săn hoặc coi phi chưởng nhập cảng từ Hương Cảng.
Hoa Quốc Phong chỉ thị cho Uông Ðông Hưng "Triệu tập Bộ Chính Trị
ngay". Chúng tôi rời phòng để chờ kết quả từ phiên họp của Bộ Chính Trị.
Một lúc sau, Uông Ðông Hưng bước ra và bảo chúng tôi rằng Bộ Chính Trị muốn
chúng tôi giữ xác Mao hai tuần để nhân dân được bày tỏ lòng kính trọng. Hầu hết
bác sĩ đều đồng ý việc giữ xác Mao trong hai tuần thì không có gì là khó khăn
lắm. Bộ Chính Trị vẫn còn tiếp tục họp thì Thống Chế Diệp Kiếm Anh và Uông Ðông
Hưng cho người tìm tôi. Tôi bước vào phòng nơi 17 ủy viên Bộ Chính Trị khu Bắc
Kinh đang họp và được Uông Ðông Hưng trao cho bản tuyên bố trước toàn đảng,
toàn dân, toàn quân mà Bộ Chính Trị vừa soạn thảo. Tôi sững sốt khi biết Bộ
Chính Trị vừa mới quyết định thi thể của Mao sẽ được giữ vĩnh viễn. Tôi chống
đối vì đây là một chuyện không thể làm được.
Tôi nhớ lại chuyến đi Liên Xô cùng với Mao năm
1957, tôi có ghé thăm xác Lenin và Stalin. Tôi được biết là mũi tai của Lenin
cũng như cơ thịt của Stalin đều rả nát. Kỷ thuật của Liên Xô dĩ nhiên là tối
tân hơn Trung Quốc nhiều. Thống Chế Diệp Kiếm Anh cũng xen vào. Diệp Kiếm Anh
là một trong những đảng viên đầu tiên của đảng Cộng Sản Trung Hoa, một trong
những người thành lập ra quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Diệp Kiếm Anh đề
nghị tôi liên lạc với sở thủ công mỹ nghệ để nhờ họ giúp làm một tượng Mao bằng
sáp để phòng hờ. Tôi cảm thấy nhẹ nhỏm phần nào vì ít nhất cũng có Thống Chế
Diệp Kiếm Anh biểu lộ đồng tình mặc dù chuyện giữ xác Mao vĩnh viễn là chuyện
không thể nào thay đổi được. Sau nhiều giờ sữa soạn, chúng tôi đưa xác Mao đến
quàng ở Nhân Dân Ðại Sảnh, Mao sẽ được giữ ở đó hai tuần. Những đấu tranh quyền
lực trong nội bộ lãnh đạo đảng Cộng Sản Trung Quốc bây giờ tập trung vào việc
tranh giành nhau các tài liệu bí mật của Mao nhất là các tài liệu liên hệ đến
Giang Thanh bà đồng bọn, những người mà sau đó được gọi là "Bọn Bốn
Người" bao gồm Giang Thanh, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều và Diêu Văn
Nguyên. Trong lúc đó thì chúng tôi tập trung nghiên cứu phương pháp để giữ xác
Mao. Chúng tôi điều tra các phương pháp cổ điển ở Trung Quốc. Nhiều khám phá
trong khảo cổ học tìm thấy nhiều xác vẫn còn gần như nguyên vẹn sau khi chôn
dưới đất nhiều trăm năm nhưng khi khai quật lên không bao lâu thì tan rả ngay
vì tiếp xúc với không khí. Chúng tôi muốn biết làm thế nào Liên Xô đã bảo vệ
được xác Lê-nin nhưng quan hệ giữa hai nước quá tệ hại đến nỗi gởi chuyên viên
qua Liên Xô để học kỹ thuật ướp xác là chuyện không thể đặt ra. Thay vì đó,
chúng tôi gởi chuyên viên qua Hà Nội để nghiên cứu xác Hồ Chí Minh. Chuyến đi
là một thất bại vì không ai chịu giãi thích. Hai chuyên viên chúng tôi gởi đi
chưa hề thấy xác Hồ và họ được chính quyền Cộng Sản Việt Nam thông báo là lổ
mũi Hồ đã rớt ra và bộ râu Hồ đã rụng hết rồi. Cuối cùng chỉ còn có cách là sữa
đổi đôi chút phương pháp chúng tôi đang làm. Ngoại trừ óc, tất cả bộ phận bên
trong như tim, gan, phèo phổi.. của Mao đều được lấy ra và được độn vào đó bằng
bông vải chứa chất formaldehyde, một đường ống gắn vào cổ Mao để bôm
formaldehyde sau mỗi gian đoạn thời gian. Công việc được tiến hành trong suốt
một năm trong một bệnh viện bí mật nằm sâu dưới đất. Ngày 18 tháng 9 năm 1977
là ngày khánh thành Lăng Mao Chủ Tịch ở quảng trường Thiên An Môn. Hôm đó xác
Mao được đưa đến từ bịnh viện bí mật. Khoảng nửa triệu người đã tập trung để
làm lễ tưởng niệm Mao.
Ba giờ rưởi chiều, cả nước đều ngưng tất cả
các hoạt động để làm lễ truy điệu Mao. Vương Hồng Văn đọc diễn văn khai mạc, và
sau đó Hoa Quốc Phong đọc bài điếu. Năm giờ rưởi chiều tôi mệt mỏi trở về căn
phòng ở Trung Nam Hải. Chỉ vài phút sau thì Uông Ðông Hưng gọi lại cho tôi biết
bốn ngày nữa tôi phải báo cáo trước Bộ Chính Trị về cái chết của Mao. Sau khi
thức trắng đêm để soạn thảo bản báo cáo, sáng ngày 21 tháng 9 tôi đệ trình lên
Hoa Quốc Phong. Khi tôi và các cộng sự viên đến Nhân Dân Ðại Sảnh đến thì Bộ
Chính Trị đang họp. Tôi nghe tiếng Ðại Tướng Trần Bá Liên đang hăm he từ chức
tư lịnh quân khu Bắc Kinh. Hoa Quốc Phong đề nghị Bộ Chính Trị tạm ngưng để nghe
chúng tôi báo cáo về bệnh trạng đã dẫn đến cái chết của Mao.
Mao Trạch Đông Cuộc Đời Chính Trị Và Tình Dục - Chương 2
Vào Đảng
Lý Chí Thỏa - Trần Trung Đạo Lược Dịch - tvvn.org
Hôm đó là ngày 31 tháng giêng năm 1949. Trong
lúc tôi đang hành nghề Bác Sĩ trên một chiếc tàu buôn ở Sydney thì nghe tin Bắc
Kinh đã rơi vào tay Cộng Sản không tốn một viên đạn. Năm đó tôi 29 tuổi. Nhân
dân Bắc Kinh đổ xô ra đường chào mừng quân "giải phóng". Nước Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa đang được thành lập ở Bắc Kinh. Mặc dầu quân đội Quốc
Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch vẫn còn đang chiến đấu nhưng mọi người đều biết
rằng quân đội Cộng Sản gần như đã nắm chắc phần thắng.
Bắc Kinh là quê hương tôi. Trong suốt 13 năm
của thời thơ ấu tôi đã lớn lên bên trong bốn bức tường kín của một gia đình
thượng lưu trí thức giàu có. Gia trang đồ sộ của gia đình họ Lý chúng tôi tọa
lạc ở phía nam Tử Cấm Thành. Mặc dù ông nội tôi là người giàu có nhưng ông cũng
rất hay giúp đỡ người nghèo khó. Dù sao sự giàu sang của gia đình tôi cũng đã làm
ngăn cách cuộc sống riêng tư của tôi và thế giới bên ngoài. Mẹ tôi thường ngăn
cấm tôi ra ngoài xóm. Tôi được nuôi dưỡng và dạy dỗ để nối nghiệp cha ông làm
nghề thầy thuốc. Chú tôi đã trở nên một bác sĩ và cha tôi thì không chịu đóng
khung trong truyền thống gia đình mà còn đi xa hơn. Năm 1920 ông từ giã mẹ con
tôi để sang Pháp theo học chương trình vừa học vừa làm. Cùng đi trong nhóm với
ông có Chu Ân Lai. Chu Ân Lai là một người Cộng Sản trong lúc cha tôi lại là
một viên chức cao cấp trong chính phủ Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch. Dù
không cùng lý tưởng nhưng cả hai đều giữ được tình bạn mãi cho đến ngày cha tôi
qua đời. Khi cha tôi trở về ông mang theo người vợ Pháp. Mẹ tôi là một người mẹ
truyền thống Trung Hoa, đơn giản, ít học, vẫn giữ tục bó chân và có tấm lòng độ
lượng. Dù sao bà vợ Pháp của cha tôi cũng tỏ ra rất lịch sự, trọng lễ nghĩa và
đối xử với mọi người, nhất là với tôi, rất tử tế. Bà ta dạy tiếng Pháp ở trường
Ðại Học Bắc Kinh. Tánh tình của cha con tôi thì không hợp nhau chút nào. Truyền
thống gia đình chúng tôi là thương yêu và hy sinh cho đồng bào nhưng cha tôi
thì lại thuộc mẫu người tham lam quyền lực và ích kỷ. Không lâu sau khi trở về,
ông ta dắt bà vợ Pháp vào Nam Kinh theo Tưởng Giới Thạch. Tôi cảm thấy xấu hổ
cho tánh tình cha tôi. Sự thiếu thiện cảm của tôi đối với chính quyền Quốc Dân
Ðảng một phần cũng từ những ấn tượng không hay của tôi về cha tôi mà ra.
Giống như hầu hết những thanh niên Trung Hoa
cùng thế hệ, tôi lớn lên mang theo tấm lòng yêu nước, niềm kiêu hãnh về gia tài
văn hóa, thi ca, nghệ thuật đồ sộ tích lũy từ mấy ngàn năm lịch sử Trung Quốc.
Tôi đau lòng khi học về những suy thoái và tủi nhục nước tôi đã chịu đựng trong
suốt thế kỷ qua. Tôi học những thất bại nhục nhã trong chiến tranh nha phiến
chống lại Anh, kế đến là những cuộc xâm lăng của quân đội Pháp, Nhật, Nga. Tôi
cảm thấy vô cùng hổ thẹn khi nghe người ta nhắc đến câu chuyện về cái bảng cấm
đã một thời treo trước cổng công viên Thượng Hải "Cấm người Trung Hoa và
chó". Năm tôi mười một tuổi, quân Nhật chiếm hết miền bắc Mãn Châu, một
chế độ bù nhìn được dựng lên gọi là Mãn Châu Quốc. Mẹ con tôi chạy về phía Nam
lánh giặc và tôi theo học tại một trường đạo Tin Lành thuộc phái Methodist của
Mỹ lập ra. Trong thời gian đó tôi cũng biết đến chủ nghĩa Cộng Sản qua trung
gian của người anh cùng cha khác mẹ đang theo học y khoa ở trường Ðại Học
Thượng Hải. Anh ta gia nhập đảng Cộng Sản từ năm 1935. Anh thường kể tôi nghe
về tội ác của chủ nghĩa tư bản, rao giảng niềm tin về một xã hội bình đẳng và
một thế giới không còn cảnh người bóc lộc người. Anh tố cáo chính phủ Quốc Dân
Ðảng là tham nhũng thối nát và không thực tình muốn đánh Nhật. Anh tặng tôi ba
cuốn sách để đọc: Cuốn truyện "Câu Chuyện về Kế Hoạch Năm Năm Lần Thứ
Nhất", cuốn tiểu thuyết "Thép Ðã Tôi Thế Ðấy" của Ostrovsky và
một cuốn của nhà báo Pháp Henri Barbusse viết về những đóng góp của Stalin đối
với cách mạng. Anh ta dạy tôi rằng chỉ có chủ nghĩa Cộng Sản mới có thể cứu vãn
được Trung Hoa và chỉ có cặp bài trùng Mao Trạch Ðông - Chu Ðức mới đủ khả năng
lãnh đạo nhân dân đạt đến mụch đích đó. Tôi cũng biết Lỗ Tấn, nhà văn mà tôi ưa
chuộng nhất cũng say mê lý tưởng Cộng Sản.
Cũng vào thời gian nầy năm 1936, một người anh
họ giới thiệu tôi một người con gái có tên là Ngô Thận Nhàn hay Ly Liên như tôi
thường gọi và tiếng sét ái tình đã đánh trúng trái tim chúng tôi ngay trong lần
gặp gỡ đầu tiên ấy. Ly Liên cũng theo đạo Tin Lành và sinh trưởng trong một gia
đình giàu có. Dù cả mười năm sau chúng tôi mới cưới nhau và hoàn cảnh chiến
tranh đẩy đưa đây đó nhưng chúng tôi vẫn cố xoay xở để được ở gần nhau. Năm
1939 tôi theo học Y Khoa tại Ðại Học Tây Hoa do một giòng truyền giáo Gia Nã
Ðại thành lập. Sau khi hoàn tất chương trình nội trú vào năm 1945 nhằm lúc Nhật
đầu hàng. Sang năm sau thì tôi và Ly Liên cưới nhau.
Quốc Dân Ðảng và Cộng Sản đang bước vào giai
đoạn nội chiến. Lạm phát đã gia tăng đến mức độ trầm trọng. Trầm trọng đến nỗi
một đống tiền chỉ mua được ba quả trứng gà. Giữa gian đoạn khủng hoảng đó thì
một người bạn học cũ, Danny Hoàng, đang làm ăn khấm khá ở Hồng Kông viết thư
khuyến khích tôi qua phụ với anh một tay . Tôi rời Nam Kinh đi Hồng Kông cuối
1948. Thật ra tôi đã không ở lại Hồng Kông. Ngay khi đến tôi tìm được một chân
y sĩ cho một chiếc tàu buôn của người Úc, thế là tôi lại lên tàu đi Úc. Tình
trạng kỳ thị chủng tộc tại Úc rất là tệ hại nhưng tôi cũng chẳng ưa thích gì
Hồng Kông vì phần đất nầy cũng chỉ là nhượng địa của Anh mà thôi. Vì vậy, khi
nghe tin Bắc Kinh lọt vào tay Cộng Sản tôi lại cảm thấy vui mừng, phấn khởi.
Tôi tin rằng từ nay ngoại bang sẽ không còn đè đầu cưỡi cổ nhân dân Trung Quốc
và nhờ vậy đất nước tôi, một lần nữa sẽ có một vị trí đáng kính trong cộng đồng
nhân loại.
Tháng 4 năm 1949, tôi nhận một lá thư của mẹ
tôi gởi từ Bắc Kinh. Kèm theo lá thư của mẹ tôi là một lá thư của anh tôi. Anh
ta đã trở về như một người giải phóng quê hương và hiện đang làm việc trong cục
Y Tế thuộc Ủy Ban Quân Quản trực thuộc Trung Ương Ðảng. Anh ta vui mừng và muốn
tôi trở về phục vụ đất nước như anh viết trong thư "Nước nhà đang thiếu
bác sĩ giỏi, chính phủ mới sẽ giao cho em công việc làm thích hợp và gia đình
chúng ta một lần nữa lại đoàn viên". Cuộc sống ở Úc dù thoải mái về tiền
bạc nhưng dù sao vẫn là cuộc sống tạm bợ và không có tương lai trong xã hội đầy
tệ nạn phân biệt chủng tộc. Sau khi nhận lá thư thứ hai do Bác Sĩ Phó Liên
Chương hay còn được gọi Nelson Phó, một bác sĩ có uy tín và được kính trọng
nhất tại Trung Hoa lúc bấy giờ, khuyến khích và hứa hẹn, tôi quyết định trở về.
Tôi ghé Hồng Kông để đón Ly Liên và cùng nàng hồi hương sau 17 năm xa cách.
Thành phố Bắc Kinh vẫn còn vui như trong ngày
hội. Sau tám năm bị Nhật chiếm đóng và bốn năm nội chiến, Bắc Kinh vui mừng
được giải phóng. Giữa những hoang tàn đổ nát của chiến tranh, thành phố đang
sống lại trong niềm tin và hy vọng. Tuy nhiên không ít bạn bè cũ đã cho rằng
việc trở về của vợ chồng tôi thật một hành động ngu xuẩn. Sau khi yết kiến Bác
Sĩ Phó Liên Chương, tôi trình diện Ban Sức Khỏe thuộc Ủy Ban Quân Quản. Lúc đó
chính phủ chưa chính thức thành lập nên việc quản trị thành phố thuộc quyền của
Ủy Ban Quân Quản. Tôi được giao việc làm và được vinh dự xếp vào hạng công nhân
viên hạng "được cung cấp tự do" thay vì lãnh lương như một số người
khác. Cái vinh dự nầy, khổ nỗi cũng kèm theo một mối lo là ngoài số lương thực
thực phẩm nhà nước cung cấp theo tiêu chuẩn tôi không có đồng lương nào hết,
làm sao nuôi nỗi gia đình gồm mẹ, hai bà cô, và cả cha mẹ vợ. Nhiệm sở đầu tiên
của tôi là bệnh viện Ðại Học Lao Ðộng ở phía bắc Bắc Kinh nơi chăm sóc sức khỏe
cho các lãnh tụ cao cấp của Ðảng. Ðiều kiện kỹ thuật y tế tại đây trong giai
đoạn đầu thật nghèo nàn. Thuốc thang gần như chỉ có Aspirin, vài hộp thuốc ho
và một ít thuốc chống nhiễm trùng.
Ngày 1 tháng 10 năm 1949, toàn thể dân chúng
thức dậy lúc 5 giờ sáng. Chúng tôi được xe vận tải chở tới quảng trường Thiên
An Môn để tham dự ngày chính thức ra đời của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Khi tôi đến, quảng trường đã bị chen chúc bởi một rừng người và rừng cờ xí đỏ
rực. Mọi người ai cũng hồi hộp và phấn khởi. Mười giờ đúng, Mao Trạch Ðông cùng
các lãnh tụ cao cấp của đảng xuất hiện trên khán đài. Ðối với tôi lúc đó, Mao
thật sự là vị cứu tinh dân tộc. Ông ta năm mươi sáu tuổi, cao, to và mạnh khỏe.
Thay vì mặc quân phục như trong những bức hình mà tôi hay thấy, hôm ấy Mao mặc
âu phục theo kiểu áo Tôn Dật Tiên dường như để chứng tỏ vị trí mới của ông ta
là Chủ Tịch nước hơn là Chủ Tịch Ðảng. Trong số những lãnh tụ xuất hiện bên
cạnh Mao hôm đó có bà Tống Khánh Linh, góa phụ của Bác Sĩ Tôn Dật Tiên. Mao
không nói tiếng phổ thông nhưng nói tiếng Hồ Nam, quê hương của ông ta. Nhưng
giọng Hồ Nam của Mao cũng rất êm dịu và dể nghe. Khi Mao vừa cất tiếng
"Nhân dân Trung Hoa đã đứng lên" thì cả một rừng người cùng hô to
"Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa muôn năm", "Ðảng Cộng Sản
Trung Hoa muôn năm". Tôi cảm động đến phát khóc . Sau bao năm chịu đựng
dưới ách nô lệ của ngoại bang, tổ quốc tôi cuối cùng đã được tự do và độc lập.
Bệnh viện nơi tôi làm việc một thời gian ngắn
sau đó được chia làm hai và được di chuyển đến Trung Nam Hải. Tôi nằm trong số
đó. Lần di chuyển nầy là một bước ngoặc quan trọng đã làm thay đổi cuộc đời
tôi. Bệnh viện đã được hiện đại hóa để đủ khả năng chăm sóc sức khỏe cho các
lãnh tụ tối cao của đảng và nhà nước. Ngoài Mao, các lãnh tụ như Chu Ân Lai, Lưu
Thiếu Kỳ, Chu Ðức, Bành Ðức Hoài, Ðặng Tiểu Bình, Trần Vân v.v đều sống và làm
việc ở Trung Nam Hải. Khu vực bí mật và an ninh đến nỗi không ai có thể nhìn
qua được bức tường dù đứng bất cứ nơi nào trong thành phố. Thời gian nầy, tôi
được bổ nhiệm vào chức vụ Giám Ðốc Bịnh Viện Trung Nam Hải. Trong chức vụ mới
nầy tôi có trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho các lãnh tụ cao cấp nhất của đảng
và nhà nước Trung Quốc và cả gia đình họ. Tôi nạp đơn xin gia nhập đảng nhưng
lý lịch tôi thì lại cả một vấn đề. Cha tôi là viên chức Quốc Dân Ðảng cao cấp
và hẳn nhiên được xếp vào thành phần phản động. Cha vợ tôi thì là đại địa chủ
của tỉnh An Huy nên bị xếp vào thành phần "kẻ thù nhân dân". Nói
chung cả hai vợ chồng lý lịch đều xấu tệ. Thời thanh niên của tôi cũng bị nghi
ngờ vì đã có một thời gian được huấn luyện quân sự dưới sự bảo trợ của Quốc Dân
Ðảng. Ðảng Cộng Sản gởi nhân viên anh ninh đi điều tra lý lịch tôi và dĩ nhiên
trong khi chờ đợi thì hồ sơ xin gia nhập đảng của tôi cũng bị xếp lại.
Mùa xuân năm 1952, lần đầu tiên tôi gặp gỡ gia
đình Mao nhờ việc chữa trị bịnh tâm thần cho con trai Mao là Mao Ngạn Thanh.
Cũng trong lần chữa trị cho Mao Ngạn Thanh tôi được gặp gở Giang Thanh khi bà
ta đến bệnh viện để thăm Mao Ngạn Thanh. Hôm đó bà ta mặc bộ đồ tây giản dị,
mái tóc đen búi cao, thân người không đều đặn vì phần trên thân thể có vẻ dài
hơn phần dưới, đôi mắt hay chớp dấu hiệu của một người hay nghi ngờ. Người ta
đồn đại rằng Giang Thanh đẹp nhưng theo tôi thì Giang Thanh có một chút nhan
sắc nhưng dứt khoát không thể gọi là đẹp mặc dù năm đó bà ta chỉ 38 tuổi. Khi
nói chuyện về trường hợp con trai của Mao, nghe tôi đề nghị việc di chuyển ông
ta đến một bịnh viện chuyên khoa tâm thần thì Giang Thanh nói "Tôi sẽ
trình bày ý kiến của Bác Sĩ đến Chủ Tịch Mao". Giang Thanh bắt tay tôi
trước khi ra về.
Nhờ làm việc hăng say, năm đó tôi được toàn
thể bệnh nhân đánh giá là bác sĩ hạng A. Viêc điều tra lý lịch của tôi cũng
hoàn tất và không có gì đáng nghi ngờ. Tháng 11 năm 1952 tôi được chính thức
trở thành đảng viên đảmg Cộng Sản Trung Quốc. Thực ra tôi chẳng có một căn bản
lý thuyết nào về chủ nghĩa Cộng Sản ngoài việc đọc cuốn "Tuyên Ngôn Ðảng
Cộng Sản" và hai bài báo của Mao. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình là một
người Cộng Sản. Trong lúc hầu hết đảng viên ở Trung Nam Hải là những người đã
từng vào tù ra khám, theo đảng từ khi tóc còn để chỏm, đã chịu đựng gian nan
suốt cuộc trường chinh, còn tôi thì chẳng có gì cả để so sánh. Do đó mặc dù
cũng có sự kính trọng lẫn nhau, khoảng cách giữa tôi và họ không thể nào xóa bỏ
được.
Tối ngày 2 tháng 10 năm 1954, tôi nhận một cú
điện thoại từ Uông Ðông Hưng, một trong những nhân vật cực kỳ quan trọng trong
hàng ngũ lãnh đạo. Họ Uông là Giám Ðốc Cục Bảo Vệ Trung Ương của Ban Chấp Hành
Trung Ương Ðảng, đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm anh ninh cho cá nhân
Mao Trạch Ðông. Uông Ðông Hưng gia nhập phong trào Cộng Sản khi còn là một cậu
bé nhà nông mười tuổi. Bị cảnh sát bắt vì tội đái bậy trên đường phố. Cha ông
ta phải hối lộ để cảnh sát thả về. Tình trạng tham nhũng thối nát đó đã để lại
trong tuổi đầu đời của họ Uông những ấn tượng xấu về thực tế xã hội và chính
trị dưới chế độ Quốc Dân Ðảng. Uông Ðông Hưng bỏ nhà theo cộng sản và hoạt động
bên cạnh Mao Trạch Ðông suốt nhiều năm trước cũng như sau cuộc vạn lý trường chinh
gian khổ. Ðiều đặt biệt là Uông Ðông Hưng luôn dành cho những người trí thức
một sự kính trọng mặc dù hoàn cảnh chính trị đã thay đổi rất nhiều sau 1949.
Sau khi mời tôi ly trà, Uông bắt đầu ngợi khen
tôi về tư cách cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp tôi đã thể hiện trong suốt 5
năm qua tại bệnh viện Trung Nam Hải, và sau đó họ Uông nói "Lâu nay, tôi
đang cố kiếm một bác sĩ riêng cho Mao Chủ Tịch nhưng rất là khó tìm. Tôi có
tham khảo với đồng chí La Thoại Khanh và Dương Gia Khôn, cả hai đều đề nghị bác
sĩ. Sau đó tôi có đệ trình ý kiến lên Thủ Tướng Chu Ân Lai và ông ta cũng đồng
ý. Và mới hôm qua tôi có báo cáo lên Mao Chủ Tịch. Chủ Tịch cũng đồng ý về đại
cương nhưng dĩ nhiên người cũng muốn nói chuyện với Bác Sĩ trước khi quyết
định. Tôi mong rằng Bác Sĩ cũng nên chuẩn bị, có lẽ Mao Chủ Tịch sẽ gặp bác sĩ
một ngày rất gần đây". Tôi thật là ngạc nhiên và xúc động vì đó là điều
tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Nghĩ lại lý lịch đầy rắc rối của tôi, của cha tôi,
của vợ tôi. Không, không thể được. Khi nghe tôi từ chối, Uông bật cười lớn
"chuyện lý lịch của Bác Sĩ đã được thông qua rồi và chúng tôi đã quyết
định, không có chuyện từ chối".
Khoảng 3 giờ chiều, ngày 25 tháng 4 năm 1955,
một chị y tá hớt ha hớt hãi chạy vào báo cáo với tôi "Nhóm Số Một gọi điện
thoại, cần gặp Bác Sĩ ở hồ bơi ". Nhóm Số Một là mật mã ám chỉ Mao Trạch
Ðông và bộ tham mưu của ông ta. Tôi đến hơi trễ và thấy Lý Ngân Kiều đang nóng
ruột đứng chờ. Họ Lý giục "Lè lẹ dùm tôi chút, ông bắt Mao Chủ Tịch phải
chờ". Khi tôi bước vào thì Mao đang nằm trần truồng đọc sách trên giường.
Một chiếc khăn tắm che kín hạ bộ. Tôi vội vàng xin lỗi cho việc tới trễ. Mao
mời tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh và nói "Tôi cũng giống như Trương
Chi Ðông, ăn ngủ chẳng theo giờ giấc gì cả, vừa thức dậy là tôi tới đây, mấy
giờ rồi ?", tôi đáp "Bây giờ 4 giờ rưỡi". Mao hỏi tôi thường khi
thức dậy lúc mấy giờ, tôi trả lời sáu giờ sáng. Mao cười và nói " Bác sĩ
thì hẳn nhiên lo lắng sức khỏe nhiều hơn". Mao vừa phì phà vài hơi hút
thuốc lá 555 có gắn ống lọc vừa giải thích "Tống Khánh Linh đề nghị tôi
xài cái đầu lọc nầy để giảm bớt chất ni-cô-tin. Tôi hút thuốc lâu lắm rồi nhưng
không biết chất ni-cô-tin có ảnh hưởng gì tôi không ?". Nhìn mái tóc bạc
của tôi, Mao hỏi "Anh mới hơn 30, sao tóc lại bạc hơn tóc tôi ?". Sau
khi giải thích chuyện tóc đen tóc trắng là chuyện di truyền, tôi nói "Nếu
chỉ nhìn vào tóc thôi thì tôi quả thật già hơn Mao Chủ Tịch", nghe nói thế
Mao cười to "anh chỉ nói nịnh". Mao hỏi nhiều về lý lịch và con đường
học vấn của tôi. Ông ta có vẻ ưa chuộng người Mỹ "Mỹ giúp Tưởng đánh lại
chúng ta trong chiến tranh Triều Tiên, nhưng tôi vẫn thích những bác sĩ do Mỹ
Anh huấn luyện. Tôi cũng thích học tiếng Anh. Các đồng chí đề nghị tôi nên học
tiếng Nga nhưng tôi vẫn thích học tiếng Anh hơn".
Khi cận vệ dọn cơm chiều Mao Trạch Ðông mời
tôi cùng ăn. Cơm gồm bốn món: Cá, thịt heo xào ớt, một đĩa thịt cừu và một đĩa
rau xào với rất nhiều dầu. Vừa ăn chúng tôi vừa tiếp tục trò chuyện. Mao hỏi
tôi về chuyện triết lý, tôi nói "Hồi còn đi học, ngay cả sách chuyên môn
tôi cũng đọc chưa hết đừng nói chi là chuyện triết lý, nhưng tôi có đọc hai bài
báo của Chủ Tịch "Bàn về thực tiễn" và "Bàn về mâu
thuẫn"". Mao mỉm cười nhắc lại chuyện xưa "Trong chiến tranh
chống Nhật, các đồng chí đề nghị tôi giảng về triết học tại Ðại Học Kháng Nhật
ở Diên An, tôi nghĩ cần thiết phải phối hợp lý thuyết chủ nghĩa Mác và thực
tiễn của Trung Hoa, thế là tôi viết hai bài đó. Tôi dành hai tuần để viết bài
"Bàn về mâu thuẫn" nhưng chỉ tốn hai giờ để trình bày". Trước
khi bắt tay tiễn tôi ra về, Mao khuyên tôi nên đọc thêm sách về triết học và
tặng tôi cuốn "Biện chứng tự nhiên" của Engels.
Ðường phố đông người và lòng tôi như đang mở
hội. Một nền trời xanh đang mở ra trước mắt tôi và cả trái đất dường như đang
ôm lấy tôi. Là bác sĩ riêng của lãnh tụ tối cao của hàng trăm triệu người dân
Trung Hoa, chắc chắn mọi người cũng sẽ phải dành cho tôi một sự kính trọng đặc
biệt. Tôi không còn là một bác sĩ vô danh tầm thường nữa. Ngay cả những lãnh tụ
hàng đầu của đảng cũng phải ve vãn nịnh bợ tôi vì chính bản thân họ cũng ít khi
có cơ hội gặp mặt Mao ngọai trừ những buổi họp quan trọng. Lòng tôi dâng lên
một niềm vui khôn tả.
Sau khi Mao chết, Trung ương đảng Cộng sản mở
cửa cho công chúng vào thăm chỗ ở của Mao. Họ cho chưng bày những bộ đồ rách
rưới cũ mèm để chứng tỏ rằng Mao là một người đã suốt đời hy sinh cho sự nghiệp
của quần chúng và có một đời sống gần gũi với quần chúng. Nhưng nói cho đúng
việc Mao ăn mặt đơn giản chẳng qua vì bản thân Mao là gốc nông dân, chuyện ăn
mặc không phải là chuyện ưu tư nhất chứ chẳng phải là hy sinh, gần gũi gì ráo
trọi. Mao thường một bộ váy dài và hay đi chân đất. Nếu khi nào phải mặc kỹ
lưỡng thì ông ta lại chọn những bộ đồ cũ hơn là đồ mới. Những bức hình chính
thức chụp Mao trong đồng phục kiểu Tôn Dật Tiên chỉ là do dàn dựng mà ra. Mao
cai trị Trung Hoa chẳng phải từ văn phòng, cơ sở nào cả mà là từ phòng ngủ và
hồ bơi của ông ta.
Mao Trạch Đông Cuộc Đời Chính Trị Và Tình Dục - Chương 3
Hoàng Đế Đỏ Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa - Trần Trung Đạo Lược Dịch - tvvn.org
Trên thực tế, Mao có một cuộc sống rất đế
vương. Dinh thự của Mao nằm ngay trung tâm của khu Trung Nam Hải, trong khu vực
hoàng thành cũ. Chỗ ở của Mao có lẽ là nơi an ninh nhất trên thế giới nầy. Có
tới ba lớp hàng rào anh ninh chung quanh Mao. Trước hết và trong cùng là các
nhân viên an ninh đội lốt phục dịch, tiếp tân, rồi đến anh ninh trong khu dinh
thự, và ngoài cùng là lực lượng anh ninh thuộc Cục Bảo Vệ Trung Ương dưới quyền
Uông Ðông Hưng. Việc di chuyển của Mao được giữ kín ngoại trừ vài lãnh tụ cao
cấp của đảng. Hệ thống cung cấp thức ăn cho Mao cũng rất phức tạp, vừa dựa theo
cách tổ chức của Liên Xô vừa dựa theo cách tổ chức trong các triều đình vua
chúa ngày xưa. Một nông trại được xây dựng đặt biệt chỉ để nuôi súc vật và
trồng rau cải cho Mao và các lãnh tụ cao cấp xử dụng. Ðầu bếp chính của Mao,
theo nhu cầu, gởi một danh sách đến Ban Tiếp Tế thuộc Cục Bảo Vệ Anh Ninh để
nơi nầy gởi qua nông trại. Khi thức ăn được gởi đến Ban Tiếp Tế, chúng lại được
chuyển qua hai phòng thí nghiệm. Phòng thứ nhất đo lường mức độ dinh dưỡng và
mức độ tươi của nông phẩm, phòng thứ hai thử nghiệm để đề phòng chất độc trong
thức ăn. Khi thông qua hai phòng thí nghiệm nầy, thức ăn còn phải chuyển đến
phòng nếm mùi vị thức ăn để cho các nhân viên trong phòng nầy ăn trước để thử
có chất độc hay không trước khi dâng lên Mao. Hệ thống ăn uống hết sức xa hoa,
phong kiến và tốn kém nầy được áp dụng không những chỉ cho Mao mà cả cho các
lãnh tụ cao cấp của đảng, quả thật đã phung phí không biết bao nhiêu sức người
sức của. Văn phòng chủ tịch đảng kiêm chủ tịch nước của Mao nhiều khi suốt năm
không hề mở cửa vì như đã nói, Mao trị nước, chăn dân từ trong phòng ngủ.
Buổi chiều trước ngày lễ Lao Ðộng, Mao cho cận
vệ gọi tôi. Tôi tưởng rằng Mao đang có bịnh hoạn gì, nhưng khi tới nơi thì cận
vệ của Mao báo cho biết "Mao Chủ Tịch uống mấy viên thuốc ngủ mà vẫn không
ngủ được nên cho gọi Bác Sĩ vào nói chuyện". Câu đầu tiên Mao thường dùng
để hỏi người đối diện là "Có tin gì không ?" Thoạt đầu thì tôi hơi
ngạc nhiên vì có tin gì mới thì Mao biết hết rồi còn phải hỏi gì nữa. Nhưng Mao
giải thích " chẳng hạn như Bác Sĩ gặp ai trong mấy ngày qua ? Các ông đã
nói về chuyện gì ?". Tôi báo cáo với Mao là tôi có gặp Phó Liên Chương.
Mao nhân tiện kể tôi nghe về chuyện Phó Liên Chương theo ông ta trong cuộc vạn
lý trường chinh mặc dù năm người thân của ông đã bị đảng cộng sản giết hại. Câu
chuyện kéo dài mãi tới khi cơm tối được dọn lên. Lần nữa tôi lại thấy có món
rau xào dầu. Thời gian sau tôi có phê bình cách ăn uống quá nhiều chất dầu của
ông ta nhưng Mao chẳng bao giờ chịu nghe. Mao mời tôi món dưa xào ớt cay, rồi
hỏi ý kiến về món ăn. Tôi trả lời "Nóng và cay". Mao cười "Ai
cũng nên đôi khi nếm mùi cay đắng trong cuộc đời".
Mao có một cuộc sống khép kín. Ít khi gặp
Giang Thanh và không có bạn bè. Khẩu hiệu "Tinh Thần Diên An" biểu
hiện cho tình đồng chí giữa những người sống sót sau cuộc vạn lý trường chinh
thật là một điều huyền bí vì ngay cả Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai cũng ít khi gặp
mặt Mao. Phần lớn công việc được trao đổi qua giấy tờ hoặc qua các phiên họp
của Bộ Chính Trị được Mao triệu tập bất thường trong dinh Trường Thọ. Những
người gần gũi Mao nhất là những cận vệ của Mao. Họ phần lớn thuộc giai cấp nông
dân trẻ tuổi và ít học. Mao thường tán gẫu với đám cận vệ về chuyện gái trai,
cố vấn họ về cách tán tỉnh, và ngay cả còn giúp họ viết thư tình cho bồ bịch.
Mao biết là ngoài chuyện tình cảm lăng nhăng, đám cận vệ ngu dốt không thể nào
hiểu những chuyện khác như triết học hay lịch sử Trung Quốc. Vì vậy ông ta
thường xoay qua tôi như đối tượng để bàn về những vấn đề nầy.
Sau ngày gặp Mao hôm đó là đến ngày lễ lao
động 1 tháng 5. Như thông lệ, ngày 1 tháng 5 được xem là một trong những ngày
lễ lớn nhất. Hôm đó tôi được tháp tùng Mao đi tham dự lễ. Tôi, lần nữa, gặp bà
Tống Khánh Linh. Ðảng cộng sản trong thời gian nầy vẫn còn duy trì một số khuôn
mặt "dân chủ" không cộng sản và bà góa phụ của Bác Sĩ Tôn Dật Tiên là
một trong số đó. Bà Tống đã 60 nhưng trông vẫn còn đẹp và trông rất quí phái.
Buổi tối, sau khi tham dự lễ, là tiệc chiêu đãi quan khách nhân ngày lễ Lao
Ðộng. Tôi nhớ là tới 7 giờ rưỡi Mao vẫn chưa ra xe. Mọi người đều nóng lòng.
Tôi theo chân Uông Ðông Hưng và La Thoại Khanh vào gặp Mao thì thấy ông ta đang
ngồi cho Hoàng Tu Tử hớt tóc. Hòang Tu Tử tên thật là Hoàng Huệ, khoảng 60
tuổi. Ông ta là thợ hớt tóc duy nhất cho Mao từ nhưng năm 1930. Sau nầy có lần
Mao kể cho tôi nghe một mẫu chuyện lý thú về ông thợ hớt tóc Hoàng Tu Tử nầy.
Số là trong năm 1942, đảng Cộng Sản tung ra một chiến dịch gọi là truy nã bọn
nội thù. Ông thợ hớt tóc Hoàng Tu Tử không biết tại sao lại rơi vào danh sách
những đối tượng cần truy tố. Những người bị truy tố bị buột phải thú nhận tội
lỗi và Hoàng Tu Tử thú nhận là đã tìm cách cắt cổ Mao bằng lưởi dao cạo. Mao
nói với tôi "khi nghe Hoàng Huệ khai tôi đã nghi ngờ, nếu ông ta muốn giết
tôi thì lâu nay khối gì cơ hội". Sau đó an ninh đưa ông thợ cạo râu Hoàng
Huệ đến gặp Mao thì vỡ lẻ ra rằng ông ta bị hành hạ và bắt buộc phải khai như
vậy. Nhờ sự can thiệp của Mao mà ông thợ hớt tóc được thả và trở thành một
trong những số ít người gần gũi và trung thành nhất với Mao. Khi chúng tôi vào
thì Hoàng Tu Tử mới xong phần cắt tóc. La Thoại Hương giục ông ta nhưng Uông
Ðông Hưng vội can ngăn "Ðừng hối, rủi ông ta lỡ tay thì thật là tai
hại". Công việc cạo râu cho Mao là cả một chuyện khó khăn vì Mao cứ cặm
cụi cúi đầu đọc sách coi như không có chuyện gì. Hoàng Tu Tử phải quỳ xuống đất
và ngữa mặt lên để cạo hàm râu dưới của Mao. Cuối cùng thì cũng xong và chúng
tôi lại tháp tùng Mao tham dự buổi chiêu đãi.
Trong buổi chiêu đãi đêm đó, tôi cũng gặp Hồ
Chí Minh bên cạnh các quan khách quốc tế khác. Hồ lúc đó đã 65 tuổi, ăn mặc như
một ông nông dân chân mang dép râu. Hồ nói tiếng Trung Hoa thông thạo vì đã
dành nhiều năm ở Trung Quốc. Cận vệ của Hồ Chí Minh kể tôi nghe là họ Hồ thích
mọi thứ ở Trung Quốc, từ món ăn, quần áo cho đến phương tiện di chuyển. Sau
phần tiếp tân là đến phần dạ vũ. Sau cách mạng 1949, việc nhảy đầm đã bị ngăn
cấm vì đảng cộng sản cho rằng nó là sản phẩm của giai cấp trưởng giả, do đó,
tôi rất ngạc nhiên khi thấy Mao đích thân đứng ra tổ chức nhảy đầm. Sàn nhảy là
một căn phòng rộng thênh thang được gọi là Liên Xuân Ðài. Mao tổ chức dạ vũ ở
đó hàng tuần. Ðêm đó là lần đầu tiên tôi tham dự.
Ngay khi vừa bước vào phòng Mao đã tức khắc bị
bao vây ngay bởi một bầy gái đẹp, trẻ măng, hấp dẫn do Cục Bảo Vê tuyển lựa từ
các đoàn Văn Công. Các cô lần lượt đến mơn trớn rủ rê Mao Chủ Tịch ra sàn nhảy
trong lúc ban nhạc chơi toàn là nhạc tây phương với những điệu Fox, Walt và
Tango. Mao không từ chối cô nào cả. Mao nhảy rất chậm chạp, gần như đi bộ. Cứ
sau khi nhảy xong với một cô, Mao lại kéo cô ta ngồi lại gần và tâm tình đôi ba
phút cho đến khi một cô khác tới mời Mao. Và cứ thế Mao nhảy với từng cô, từ cô
nầy đến cô khác. Tôi để ý chỉ thấy có Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ðức nhưng không thấy
Giang Thanh. Bởi vì tôi thuộc thành phần thiểu số đàn ông trong đám nhảy, nên
tôi cũng được các cô mời nhảy đôi ba bản. Ngoài âm nhạc tây phương, thỉnh
thoảng ban nhạc lại chơi xen kẽ vài bài nhạc Trung Hoa. Những đoàn văn công
thường do Cục Bảo Vệ an ninh tuyển lựa và tổ chức để phục vụ Mao và những lãnh
đạo cao cấp. Ða số các đoàn viên là thiếu nữ trẻ đẹp, có tài ca múa và thấm
nhuần tư tưởng chính trị. Mao mê gái và mê nhảy đầm đến nỗi sau nầy, vào năm
1961, ông ta hạ lệnh di chuyển cả phòng ngủ của ông ta tới sát vách phòng nhảy
để "nghỉ xả hơi" khi nhảy mệt. Tôi thường thấy Mao dắt tay các vũ
công vào phòng ngủ của ông ta và rồi vói tay gài then cửa.
Trong hàng lãnh đạo cao cấp chỉ có Thống Chế
Bành Ðức Hoài, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương là có gan phê bình đời sống trụy
lạc sa đọa của Mao. Thống Chế Bành phê bình Mao hai lần, lần thứ nhất vào năm
1953 và lần thứ hai trước cuộc họp của Bộ Chính Trị. Bành Ðức Hoài là người
thẳng thắng, bộc trực và chân thật. Ông ta tố cáo Mao đã có lối sống như một
ông Hoàmg bên cạnh ba ngàn cung nữ. Thống Chế họ Bành cũng phê bình cả Bộ
Trưởng La Thoại Khanh và Uông Ðông Hưng. Những đoàn văn công vì vậy mà phải
giải tán nhưng Mao vẫn tiếp tục được cung cấp đầy đủ gái đẹp từ các đoàn văn
công từ các tỉnh và từ các quân binh chủng.
Mao Trạch Đông Cuộc Đời Chính Trị Và Tình Dục - Chương 4
Mao Trạch Đông Và Khrushchev
Lý Chí Thỏa - Trần Trung Đạo Lược Dịch - tvvn.org
Mùa hè 1956, tôi tháp tùng Mao và Bộ Chính Trị
đi thị sát thành phố Quảng Châu và ở lại nơi đó một thời gian. Thành phố Quảng
Châu vào mùa hè, trời rất là oi bức. Mao sống trong Dinh Thự số 3 với những căn
phòng rộng thênh thang. Mỗi ngày các nhân viên phục dịch phải mang vào chỗ Mao
ở năm thùng nước đá để làm dịu bớt không khí nóng nực của mùa hè Quảng Châu.
Chúng tôi thì không có tiêu chuẩn nước đá, chỉ được xài quạt điện. Ðêm xuống
thì muỗi ơi là muỗi. Muỗi tràn ngập khắp nơi, không những chúng tôi chịu không
nỗi mà ngay cả Mao cũng trách mắng nhân viên hầu cận mỗi khi ông ta bị muỗi
cắn. Mãi đến sau nầy khi Bộ Y Tế nhập cảng được ít thuốc diệt muỗi DDT từ Hồng
Kông thì tình trạng mới bớt căng thẳng. Tôi cố thuyết phục Mao không nên ở lại
Quảng Châu quá lâu nhưng Mao lại có ý định chính trị khác nên cứ chần chừ không
muốn trở lại Bắc Kinh. Trong thời gian vắng bóng Mao, ở Bắc Kinh đã xuất hiện
một làn sóng dư luận và báo chí phê bình "Chủ nghĩa phiêu lưu". Những
bài báo nầy lần lượt xuất hiện trên Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận chính
thức của Ðảng và Nhà nước Trung Hoa. Nội dung các bài báo đề nghị việc phát
triển công nghiệp và nông nghiệp phải nên được tiến hành song phương và đều
đặn. Không ai có thể ngờ những màn phê bình chỉ trích chính sách của Mao là do
chính Mao đạo diễn để gài bẫy các thành phần chống đối.
Vài hôm sau khi tôi thất bại trong việc thuyết
phục Mao trở về Bắc Kinh, Uông Ðông Hương và La Thoại Khanh tới gặp tôi để hỏi
ý kiến về mức độ trong sạch của nước trên sông Trân Hà. Mao Trạch Ðông quyết
định sẽ bơi qua 3 con sông lớn nhất Trung Hoa: Trân Hà ở Quảng Châu, Trường
Giang ở Hồ Nam và Dương Tử ở Hồ Bắc. Nói chung thì không ai muốn cho Mao bơi
trên bất cứ con sông nào trong số ba con sông kể trên vì cả ba đều là những con
sông rất lớn và rất nguy hiểm. Tuy nhiên công việc thử nghiệm chưa kịp thực
hiện thì Mao đã quyết định bơi. Sáng hôm đó Mao từ phòng ngủ bước ra trong bộ
áo tắm dài màu trắng. Tôi, Uông Ðông Hưng, Dương Thượng Côn v.v vội vã chạy
theo sau. Từ khi Mao quyết định cho đến khi ông ta nhảy xuống sông quá nhanh
chóng đến nỗi ngoại trừ Mao không ai kịp thay đồ tắm cho đàng hoàng, tất cả đều
mặc đồ lót hì hục bơi theo Mao.
Mao bơi rất nghề và thoải mái trong khi tôi
thì ráng hết sức chỉ mong khỏi bị chết chìm. Mao như hiểu sự khó khăn của tôi
nên gọi tôi bơi lại gần để dặn dò "Bác Sĩ có vẻ sợ chìm, đừng nghĩ về
chuyện đó. Nếu nghĩ mình sẽ chết chìm, có khi chìm thật đấy". Chúng tôi
bơi dọc sông Trân Hà chừng hai tiếng đồng hồ thì nghĩ để tắm rửa và ăn trưa.
Giang Thanh cũng đến cùng ăn trưa với chúng tôi. Mao vui vẻ như vừa thắng trận,
vừa cười vừa nói "Mấy người nói rằng nước sông Trân Hà dơ dáy, nhưng chỉ
cho tôi coi có cái gì là thuần túy trong sạch đâu ? Mọi thứ đều có chất dơ. Nếu
các người nuôi cá bằng nước chưng cất, chúng sẽ chết ngay".
Tối hôm đó Mao nói với tôi "Tôi muốn bơi
trên cả ba con sông, La Thoại Khanh và Uông Ðông Hưng thì cứ ngăn ngăn cản cản
mặc dù sáng nay họ đã thấy không có chuyện gì xảy ra cả".
Liên Xô đang chuẩn bị tổ chức bốn mươi năm
thành lập Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết vào tháng 11 năm 1957 và Khrushchev đã gởi
thư mời các lãnh tụ Cộng đảng trên khắp thế giới đến tham dự, trong dó dĩ nhiên
có cả Mao Trạch Ðông. Mao năm đó 63 tuổi và chỉ đến Liên Xô một lần trước đó
nhân dịp đàm phán các hiệp ước hữu nghị với Stalin. Tình hình Trung Quốc đã ổn
định, chiến dịch chống hữu khuynh đã thành công rực rở. Theo lời Bộ Trưởng
Ngoại Giao Trần Di kể lại với tôi thì có hơn nửa triệu trí thức đã bị phân loại
là phần tử hữu khuynh và bị gởi đến các trại tập trung.
Chủ nghĩa xã hội tại Trung Quốc đang trên đà
chiến thắng. Cách mạng được thực hiện một cách khẩn trương ráo riết từ thôn quê
cho đến thành thị. Mao muốn đi Liên Xô. Trong thâm tâm Mao muốn đi Liên Xô
không phải chỉ để tham dự ngày hội nhưng đến như một kẻ chiến thắng, đến để
thách thức Khrushchev. Ngày 2 tháng 11 năm 1957, Mao cầm đầu một phái đoàn hùng
hậu lên đường thăm Liên Xô. Ngoài tôi ra còn có Bác Sĩ Hoàng Thụ Tất, Phó Giám
Ðốc Cục Y Tế Trung Ương cũng tháp tùng Mao để lo lắng sức khỏe cho đoàn đại
biểu. Giang Thanh sau đó lại đề nghị thêm Bác Sĩ Lý Huệ Dân gia nhập ban y tế
chúng tôi. Việc chuẩn bị sức khỏe của Mao trong chuyến đi cũng rất là phiền
toái vì Bác Sĩ Lý Huệ Dân là Ðông Y Bác Sĩ. Ở Liên Xô chắc chắc không thể tìm
đâu ra những món thuốc tàu mà ông ta có thể sẽ cần dùng trong việc chăm sóc sức
khỏe cho Mao. Ngoài các bác sĩ ra, ban y tế còn có sự phụ giúp của bà Ngô Húc
Quân, với tư cách là y tá trưởng ở Trung Nam Hải. Liên Xô cũng gởi đến trước
một bác sĩ để giúp đỡ khi chúng tôi cần đến.
Liên Xô gởi hai chiếc máy bay sang để đón Mao
và phái đoàn. Cả hai đều thuộc loại TU-104s. Mao, Tống Khánh Linh, Bác Sĩ Liên
Xô và tôi cùng ngồi trong một chiếc. Phần còn lại của đoàn tùy tùng ngồi trên
chiếc sau. Trong suốt hành trình từ Bắc Kinh qua Mạc Tư Khoa, Mao chẳng hề đá
động gì đến thức ăn do các tiếp viên phi hành chuẩn bị trong lúc thì viên bác
sĩ Liên Xô thì lợi dụng cơ hội để uống vài ly Vodka miễn phí ngay từ khi máy
bay vừa cất cánh.
Nikita Khrushchev chào đón Mao và đoàn tùy tùng
ngay tại phi trường. Cùng ra tiếp đón Mao tôi cũng nhận thấy cả nhân vật số hai
Nikolai Bulganin và ông bạn cũ của tôi là Anastas Mikoyan. Mikoyan tay bắt mặt
mừng khi gặp lại tôi, tuy nhiên vì chúng tôi không có thông dịch viên riêng nên
cả hai chúng tôi mạnh ai nấy nói mà chẳng ai hiểu ai đã nói gì. Tôi đoán mò là
ông ta nhắc lại căn bịnh mà tôi đã giúp để chữa trị mấy năm trước đây.
Khrushchev rất kính trọng và tỏ ra niềm nở với Mao. Y đích thân tháp tùng Mao
đến tận dinh thự nơi Mao và phái đoàn ở lại. Dinh thự nguy nga là nơi cư ngụ
trước đây của Nữ Hoàng Nga Catherina. Về phần Mao, ông ta lại tỏ thái độ hơi
lạnh nhạt với Khrushchev. Trên đường từ phi trường về nơi cư ngụ, Mao lưu ý
thái độ thờ ơ của người dân Liên Xô không giống như tinh thần "hồ hỡi phấn
khởi" ở Trung Quốc sau cách mạng. Mao thố lộ nhận xét của ông ta với chúng
tôi ngay trong ngày đầu tiên đến Mạc Tư Khoa "Khrushchev không có sự ủng
hộ của nhân dân kể từ khi ông ta bắt đầu chiến dịch hạ bệ Stalin".
Tôi, Diệp Tử Long, Hoàng Kính Tiên, Lý Ngân
Kiều, Lâm Khắc và bộ tham mưu riêng của Mao ở chung một dinh thự. Ðoàn đại biểu
đảng và nhà nước Trung Quốc do Mao lãnh đạo gồm Tống Khánh Linh, Ðặng Tiểu
Bình, Bành Chân, Bành Ðức Hoài, Lục Ðịnh Nhất, Dương Thượng Côn, Trần Bá Ðạt,
Hồ Kiều Mộc cũng ở trong dinh thự nầy. Mao tỏ ra đắc ý và phấn khởi về sự tiếp
đón đã dành cho ông ta và phái đoàn hoàn toàn khác với chuyến đi phó hội năm
1949. Mao nhận xét cách đối xử của Liên Xô với một giọng điệu bén nhọn và chấm
dứt với một nụ cười mỉa mai "Hãy nhìn sự vào sự đối xử hoàn toàn khác mà
họ đang dành cho chúng ta. Ngay cả khi đứng trên đất Cộng sản của chính họ, họ
cũng phải biết rằng ai mạnh ai yếu, thật là đồ đáng khinh". Chưa bao giờ
tôi nghe từ cửa miệng Mao thoát ra một giọng điệu đầy miệt thị và chua chát như
thế.
Chúng tôi thăm viếng và đặt vòng hoa trước
chiếc quan tài bọc kính của Lê Nin và Stalin. Thi hài của hai lãnh tụ Cộng Sản
Liên Xô nằm co rút và khô cứng. Tôi biết nhiều phần thân thể của họ đã bị rã
nát và được thay thế bằng sáp. Lúc đó tôi chưa nghĩ gì đến hai chục năm sau lại
tới phiên tôi phải lo lắng việc lưu trữ xác Mao. Mao chẳng quan tâm hay tò mò
gì mấy đến sinh hoạt văn hóa Nga. Ông ta ăn uống một mình. Mặc dù trong mỗi bữa
ăn đều gồm cả hai loại thức ăn, Nga và Tàu nhưng Mao chỉ ăn những món Hồ Nam do
chính đầu bếp của ông ta nấu mà thôi. Giống Mao, tôi cũng không hợp với đồ ăn
Nga cho nên trong một tối Mao rủ tôi cùng ăn, tôi không ngần ngại ngồi xuống ăn
uống ngon lành ngay. Mao nhìn tôi ăn mà cười "Tôi biết ngay là Bác Sĩ chưa
ăn tối mà".
Một đêm, Khrushev mời Mao tham dự buổi trình
diễn vũ khúc Swan Lake nổi tiếng thế giới do của đoàn vũ Ba-Lê Liên Xô thực
hiện. Chưa xong phần hai, Mao đã tỏ vẻ chán nản ngay. Ông ta quay sang Khrushev
nói "Cả đời tôi cũng không thể nào nhảy như thế được, còn đồng chí thì
sao". Khrushev gật đầu "Tôi cũng vậy". Cuối màn hai, Mao quay
sang tôi "Họ nhảy kiểu gì kỳ quặc vậy ? Tại sao lại phải nhảy bằng đầu
ngón chân, tôi cảm thấy thật khó chịu, tại sao lại không múa bình thường
?". Tôi không nghĩ là Mao không biết một tí gì về vũ Ba-Lê nhưng Mao chỉ
chứng tỏ rằng mình chẳng thèm quan tâm đến văn hóa Nga mà thôi. Trong những
buổi chiêu đãi mà Mao tham dự trong thời gian thăm viếng Liên Xô, chỉ có hôm
thăm viếng sinh viên Trung Quốc đang du học tại Liên Xô là Mao tỏ ra vui vẻ
thật tình.
Diễn hành kỷ niệm bốn mươi năm thành lập nhà
nước Liên Bang Xô Viết được tổ chức vào ngày 7 tháng 11. Tất cả chúng tôi được
đưa tới quảng đường đỏ để xem diễn hành. Mao và Khrushev đứng trên hành lang
của Lăng Lê Nin. Tôi đứng bên cạnh lãnh tụ Cộng Ðảng Estionia. Ông ta bằng một
tiếng Anh thông thạo nói với tôi rằng hy vọng một ngày ông ta sẽ viếng thăm
Trung Quốc, một nơi mà ông ta gọi là xa xôi và huyền bí.
Mặc dù nhiều khác biệt vẫn còn tồn tại giữa
Mao và Khrushchev, Mao đã tỏ ra hài lòng với nội dung của bản thông cáo chung
được công bố như kết quả của chuyến viếng thăm Liên Xô. Mao nói "Vào năm
1984, khi Mark và Engels công bố Tuyên Ngôn Ðảng Cộng Sản và phát động phong
trào Cộng Sản trên toàn thế giới. Bây giờ 100 năm sau bản Tuyên Bố Mạc Tư Khoa
đã tóm tắt lại phong trào đó và phát họa ra tương lai của chủ nghĩa Cộng
Sản". Mao tiên đoán trong vòng 15 năm, Xô Viết sẽ bỏ xa Hoa Kỳ trong tổng
sản xuất sắt thép và Trung Quốc sẽ qua mặt Anh Quốc. Nói chung trong vòng 15 năm,
thế giới Cộng Sản sẽ mạnh hơn thế giới tư bản. Trong điều kiện đó, nhân loại sẽ
chín mùi cho một cuộc cách mạng Cộng Sản trên phạm vi toàn thế giới. Trong đầu
óc của Mao hôm đó đã thai nghén chương trình kinh tế sau đó được Mao gọi là
"bước tiến nhảy vọt". Sau nầy trong hồi ký của Khrushchev, ông ta có
nhắc lại diễn văn của Mao và ví Mao như là con cóc nằm đáy giếng thấy trời bằng
vung. Mao không có một cơ sở nào để quả quyết rằng chủ nghĩa Cộng Sản có thể
vượt qua được chủ nghĩa Tư Bản. Tuy nhiên mầm mống của chính sách điên rồ
"Bước Tiến Nhảy Vọt" đã bắt đầu nhen nhúm từ dạo đó.
Mao Trạch Đông Cuộc Đời Chính Trị Và Tình Dục - Chương 5
Mao Trạch Đông Và Công Xã Nhân Dân
Lý Chí Thỏa - Trần Trung Đạo Lược Dịch - tvvn.org
Ngay sau khi trở lại Trung Quốc, Mao bắt đầu
chiến dịch toàn diện để gia tăng năng suất. Trước hết Mao và Giang Thanh ở lại
Hàng Châu hai tuần rồi bay qua Nam Ninh, thuộc khu tự trị Quảng Tây để tham dự
hội nghị Trung Ương đảng. Nhân lúc Bí Thư Hồ Nam là Châu Tiểu Châu đến yết kiến
Mao, Mao vặn hỏi ông ta "Tại sao Hồ Nam lại không thể gia tăng năng suất
lúa gạo ? Tại sao nông dân Hồ Nam lại không thể sản xuất hai vụ mùa một năm
?". Họ Châu đáp rằng tại vì thời tiết Hồ Nam chỉ cho phép sản xuất một mùa
mỗi năm. Mao không đồng ý, cho rằng tại sao tỉnh Triết Giang, nơi có thành phố
Hàng Châu nổi tiếng, lại có thể sản xuất hai mùa được mặc dù điều kiện tự nhiên
tương tự với Hồ Nam. Mao phê bình họ Châu "Vấn đề là đồng chí ngay cả
không chịu học tập kinh nghiệm". Châu Tiểu Châu đáp một cách lễ độ "Chúng
tôi hứa sẽ nghiên cứu". Mao gắt gỏng "Cái việc nghiên cứu của đồng
chí rồi cũng chẳng được gì đâu, đi ra ngay". Tiểu Châu bị sỉ nhục cúi đầu
đi ra nhưng nửa đường quay đầu khép nép thưa "Mao Chủ Tịch, chúng tôi sẽ
bắt đầu hai vụ mùa ngay". Mao chán nản than "Thật là vô dụng".
Phiên họp của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng ở
Nam Ninh là một trong những nỗ lực đầu tiên của Mao lôi kéo toàn đảng vào chiến
dịch. Nam Ninh là thành phố cổ, đầy màu sắc và sạch sẽ. Dân Nam Ninh đơn giản
và thật thà. Các viên chức địa phương rất hãnh diện được tiếp đón Mao. Bộ máy
tuyên truyền Cộng Sản mô tả vợ chồng Mao như là những con người đơn giản và
tiện tặn. Các viên chức Nam Ninh nghe riết nên tưởng vợ chồng Mao là những con
người đơn giản thiệt. Nên sau khi đến Nam Ninh, Mao và Giang Thanh, thay vì
được ở trong các dinh thự nguy nga, lại được mời ở trong hai chỗ được trang bị
đơn giản. Mao thì không nói gì vì bản chất nông dân của y nhưng Giang Thanh thì
phàn nàn đủ thứ chuyện trên đời. Ngày thì nóng nhưng đêm xuống thì trời trở
lạnh. Cái máy sưởi bằng điện lại không có bộ phận tự điều chỉnh nên khi mở lại
quá nóng mà tắt đi thì lại lạnh. Nhà khách tỉnh thì không có buồng tắm nhưng
Giang Thanh thì có thói quen tắm trước khi ngủ. Cán bộ phục vụ của bà ta phải
nấu cả chục thùng nước nóng để dành để Giang Thanh tắm. Khổ nỗi những thùng đầu
thì đủ ấm nhưng càng tắm thì những thùng sau lạnh dần. Giang Thanh đổ thừa các
bà phục dịch cố tình làm cho bà ta bị bịnh. Giang Thanh hết đổ thừa các cán bộ
phục vụ rồi lại đổ thừa tôi vì tôi có trách nhiệm toàn bộ y đội. Chịu hết nỗi
tôi đem chuyện nầy trình lên Mao, Mao bảo tôi "Giang Thanh là con cọp
giấy, đừng thèm để ý làm gì".
Hội Nghị Nam Ninh được tham dự từ cấp Trung
Ương cho đến địa phương. Ngay từ ngày đầu không khí đã bắt đầu căng thẳng vì
hầu hết các nhà kế hoạch kinh tế đều không thể chia xẻ quan điểm "đuổi kịp
Anh Quốc trong mười lăm năm" của Mao. Mao dành suốt mười một ngày để tấn
công các thành phần do dự, ngay cả Chu Ân Lai, Trần Vân cũng không tránh khỏi
bị phê bình. Bốn ngày sau khi Hội Nghị khai mạc, Ủy Viên Dự Khuyết Bộ Chính Trị
Trần Bá Ðạt gọi tôi vào phòng. Ông ta bị cảm và cần được chữa trị. Họ Trần bị
bịnh thật và muốn trở lại Bắc Kinh nhưng y đang bị Mao phê bình, không dám bỏ
họp vì sợ Mao tố cáo là trốn tránh trách nhiệm. Suốt đêm Trần Bá Ðạt ngủ không
được nằm dán mắt trên trần trong lúc một người khác là Phù Nhất Bá, Chủ Tịch Ủy
Ban Kinh Tế Nhà Nước, cũng không thể ngủ và đang đi lang thang ngoài hành lang
hẳn nhiên y cũng đang bị Mao phê bình thậm tệ. Chồng cũ của Giang Thanh là
Hoàng Kính, Chủ Tịch Ủy Ban Kỷ Thuật Nhà Nước cũng đang lo sốt vó. Mao tấn công
họ Hoàng nặng nề. Khi Hội Nghị căng thẳng tột độ, Thị Trưởng Thượng Hải Kha
Khánh Thi nhờ tôi khám giùm sức khỏe của Hoàng Kính vì ông ta có nhiều hành vi
điên điên khùng khùng rất kỳ lạ. Hoàng Kính nằm trên giường, mắt mở trân tráo
và miệng thì lẩm bẩm những gì không ai hiểu nỗi. Khi thấy tôi bước vào thì y
nói như cầu khẩn van xin "Cứu tôi với , cứu tôi với". Dương Thượng
Côn nhờ Lý Phú Xuân, Phó Thủ Tướng kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước đồng
đưa Hoàng Kính, bằng máy bay, qua bịnh viện quân đội ở Quảng Châu để tìm cách
chữa trị. Trên máy bay, họ Hoàng cứ quỳ gối xin họ Lý tha mạng. Tới bịnh viện
thì y nhảy lầu chạy trốn bị gãy một chân. Tôi nghe rằng y đã chết vào năm 1958.
Hội nghị Nam Ninh chỉ là thứ nhất trong hàng loạt hội nghị Mao triệu tập trong
những tháng sau đó. Cứ mỗi cuối phiên họp, năng suất nông nghiệp và kỹ nghệ
phải được gia tăng.
Ðầu năm 1958, lần đầu tiên tôi cảm nhận sự
thay đổi ở Mao. Những nghi ngờ mới và cũ dồn nén trong người ông ta nhiều năm
mãi đến Cách Mạng Văn Hóa. Sau cuộc đấu tranh chống hữu khuynh đã tạm ngưng vài
tháng, giờ thì Mao chuẩn bị cuộc đấu tranh mới, lần nầy thì chống nội bộ đảng.
Ðầu tháng 3 chúng tôi đáp máy bay bay xuống Thành Ðô, thủ phủ Tỉnh Tứ Xuyên,
vựa lúa chính của Trung Quốc. Ở đó Mao đang tổ chức một phiên họp khác. Tôi rất
vui mừng khi trở lại Thành Ðô sau 14 năm xa cách. Ngay khi trở lại, tôi hối hả
tìm cách viếng thăm Trường Ðại Học Y Khoa Hoa Tây và vườn bách thảo đẹp tuyệt
vời. Không lâu lắm sau khi chúng tôi đến. Bí Thư tỉnh mời Mao đi coi đoàn văn
công Tứ Xuyên trình diễn. Mao thì thích coi đoàn Bắc Kinh diễn hơn nhưng ngạc
nhiên sau đó Mao gần như bị cuốn hút vào âm nhạc đến nỗi ông ta thắp thuốc ngồi
giữa rạp phì phà một cách đắc ý. Phiên họp đảng được tổ chức từ ngày 3 đến 28
tháng 3. Mao, trong hội nghị nầy, đã phê bình các cấp lãnh đạo về các chính
sách kinh tế. Mao thường nói "Chủ nghĩa Cộng Sản không phải là của trời
cho. Chúng ta không nên chỉ làm theo một cách cứng ngắc những điều trong sách
vở". Mao phê bình sự nô lệ trí thức của cán bộ đảng tương tự việc mấy ông
đồ nho sùng bái Ðức Khổng Tử như bậc Thánh. Cái gì Ðức Khổng Tử nói cũng là
khuôn vàng thước ngọc, không thể nào sữa đổi. Ðiều mỉa mai ở đây là dù Mao tấn
công vào việc sùng bái Ðức Khổng Tử thì chính bản thân Mao cũng là Thánh. Những
gì thoát ra khỏi cửa miệng ông ta cũng là chân lý. Theo Mao, chủ nghĩa Mác, một
thứ chủ nghĩa Khổng Nho hiện đại cũng đang làm què quặt sức sáng tạo của con
người Trung Quốc. Mao hối thúc các nhà kinh tế giống như giục ngựa "nhanh
hơn, cao hơn, mạnh hơn, tốt hơn". Theo quan điểm của Mao, hội nghị Tứ
Xuyên là một thành công. Năng suất nông nghiệp đã tăng so với trước đó. Tiếng
nói của Mao mạnh đến nỗi không muốn đồng ý cũng không được. Nói trái ý Mao là
bị chụp mũ là hữu khuynh ngay. Những chống đối dần dần bị im lặng và thay vào
đó là sự lừa dối.
Mùa hè 1958, cả nước bị động viên để xây dựng
hệ thống trữ nước khổng lồ. Ðề án không chỉ đơn giản về kinh tế mà còn, qua hệ
thống dự trữ nước, để cải thiện hệ thống thủy lợi và mục đích tối hậu là tăng
năng suất lúa gạo. Mao cũng muốn xử dụng đề án để sản xuất ra một số anh hùng
lao động làm gương mẫu trong việc thi đua sản xuất. Tại Bắc Kinh, hàng trăm ngàn
người xung phong đi làm việc trong đề án nầy. Tất cả viên chức chính phủ các
ngành các cấp, từ trung ương đến địa phương đều có bổn phận phải tham gia đề
án. Sau đó thì các nhà lãnh đạo tối cao cũng bắt đầu tham gia. Buổi chiều ngày
25 tháng 5 năm 1958, sáu chiếc xe buýt chở đầy các lãnh tụ cao cấp của đảng và
chính phủ rời Trung Nam Hải đi làm công tác thủy lợi, xe buýt của Mao dẫn đầu.
Mao vui mừng và hớn hở ra mặt. Ông ta ngồi trong băng ghế gần chót, nói chuyện
thoải mái với mọi người chung quanh. Mao nói "Thường thì việc nặng nhọc
chúng ta dành cho những người khác, bây giờ tới phiên chúng ta phải làm. Ai
cũng nói công việc chân ta là việc nên làm nhưng khi thực sự làm thì họ lại
thoái thoát. Nhiều người đang làm việc trong đề án nầy nghĩ là họ bị bắt buộc,
nhiều người khác thì cho là cơ hội tốt. Nói chung thì làm chân tay vẫn còn hơn
không làm gì cả". Mao vừa bước chân xuống khu thủy lợi là cả rừng người
tung hô như sấm động. Tướng Dương Thành Vũ, Tư Lịnh Quân Khu Bắc Kinh kiêm Giám
Ðốc đề án nầy chào mừng Mao khi ông ta vừa bước xuống xe. Trước mặt chúng tôi
là một biển người. Hàng hàng lớp lớp người đang đào đất bằng những dụng cụ thô
sơ như cuốc, xẻng. Mao đi trước, các cấp lãnh đạo theo sau. Mao đào đất chừng
nửa tiếng đồng hồ thì mặt y bắt đâu đỏ gay và mồ hôi bắt đầu nhỏ giọt. Tướng
Dương Thành Vũ khẩn khoản xin Mao dừng tay. Mao dừng tay và đi về trại chỉ huy
ngồi nhâm nhi tách trà nóng. Sau đó, Mao hạ lệnh cho tôi và những viên chức
trong bộ tham mưu của ông ta phải đến làm việc trong đề án nầy một tháng. Nhưng
may mắn là chỉ mười lăm ngày thì chúng tôi được viên tướng họ Dương cho về. Dù
sao trong dịp lao động nầy tôi được bầu làm cá nhân xuất sắc nhất trong toàn
đội.
Vào 31 tháng 7 năm 58, Khrushchev bất ngờ
viếng thăm Trung Quốc một cách bí mật. Thay vì đáp lại sự tiếp đón long trọng
Khrushchev đã dành cho Mao trước đây, cách đón tiếp của Mao chẳng khác gì tát
vào mặt Khrushchev. Mao đón tiếp Khrushchev một cách đơn giản bên cạnh hồ bơi
của ông ta. Ðáp ứng lời mời của Mao cùng ông ta bơi, Khrushchev thay đồ và nhảy
xuống hồ, mặc dù ông ta không biết bơi chút nào. Cuộc thảo luận trong hồ bơi
giữa hai lãnh tụ Cộng Sản chẳng có kết quả gì khả quan. Thay vì ở lại một tuần,
Khrushchev chỉ ở lại ba ngày rồi trở về Liên Xô. Những bất đồng giữa hai nước
ngày càng sâu đậm. Trên đường trở lại Bắc Ðái Hà, Mao nói với tôi "Mục
đích tối hậu của Liên Xô là kiểm soát chúng ta, trói tay trói chân chúng
ta". Mao tố cáo Khrushchev đã xử dụng Trung Quốc như một con cờ để cải
thiện mối quan hệ giữa họ và Hoa Kỳ. Khrushchev muốn Trung Quốc cùng với Liên
Xô thành lập một một hạm đội Hải quân hỗn hợp, muốn Mao chính thức cam kết rằng
sẽ không tấn công Ðài Loan và cũng không quên phê bình chính sách kinh tế của
Mao qua việc tập trung lực lượng sản xuất nông nghiệp thành các công xã khổng
lồ. Mao kể "Tôi nói với Khrushchev rằng chúng ta có khả năng thành lập các
đài viễn thanh nhưng Liên Xô phải cung cấp kỹ thuật để chúng ta tự làm lấy,
chúng ta cũng có thể thành lập hạm đội liên hợp nhưng Liên Xô chỉ có bổn phận
cung cấp tàu bè còn thuyền trưởng phải là người Trung Quốc. Còn chuyện Ðài Loan
là chuyện riêng của Trung Quốc không dính dáng gì tới Liên Xô". Những xung
đột trầm trọng giữa hai nước từ đó đã bắt đầu. Trên đường trở lại Bắc Ðái Hà,
Mao trình bày với chúng tôi quan điểm của ông ta đối với vấn đề Ðài Loan
"Một vài đồng chí của chúng ta không hiểu tình hình, cứ muốn vượt biển
chiếm Ðài Loan. Ðó là sai, cứ để Ðài Loan như vậy. Ðài Loan tạo áp lực và nhờ
vậy tạo nên sự đoàn kết trong nội bộ chúng ta".
Lúc 3 giờ sáng ngày 2 tháng 8 năm 1958, cận vệ
của Mao đánh thức tôi dậy để dạy Mao học Anh Ngữ. Tôi hối hả chạy vào trình
diện Mao thì ông ta đang nằm trên giường đọc sách. Mao thật sự chẳng bao giờ
chịu học Anh Ngữ một cách nghiêm túc. Cái học đối với Mao chỉ là cách giải trí.
Thông thường những lớp học như vậy là chỉ để nói chuyện. Tôi ở lại với Mao tới
sáu giờ sáng. Mao dặn tôi ở lại dùng cơm sáng với ông ta. Trong bữa ăn Mao cho
phép tôi đọc những bản tin mật được gọi là Tư Liệu Lưu Hành Nội Bộ. Những tài
liệu bí mật nầy chỉ được phép lưu hành trong hàng ngũ tối cao của Ðảng. Trước
đây thì tài liệu nầy tổng kết ghi những phản ảnh từ dân chúng, từ các nhà báo,
nhà văn về những sai lầm của Ðảng. Nhưng từ sau chiến dịch chống hữu khuynh
tong tầng lớp trí thức và sau đó thì trong hàng ngũ đảng viên thì chẳng còn ai
dám phê bình đảng nữa. Tài liệu chỉ còn là những lời nịnh hót khoe khoang. Hôm
đó, Mao cho đưa tôi đọc một bản tin về sự hình thành của Công Xã Nhân Dân. Mao
cho rằng "đây là một biến cố đặc biệt. Danh từ Công Xã Nhân Dân thật là vĩ
đại. Các hợp tác xã nhỏ đã tập trung lại thành một hợp tác xã khổng lồ gọi là
Công Xã Nhân Dân. Theo Mao, Công Xã Nhân Dân là chiếc cầu nối liền chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản". Nhưng Mao cũng thú nhận "Còn rất nhiều
điều chúng ta không biết, hoạt động của nó thế nào ? Cách tổ chức thế nào ?
Phân phối lợi tức thế nào ?". Mao muốn tôi cùng với Diệp Tử Long đi điều
tra hoạt động của vài Công Xã Nhân Dân và về báo cáo lại cho ông ta. Kiến thức
về nông thông của tôi còn rất là giới hạn nhưng lịnh của Mao là tuyệt đối,
chúng tôi phải chuẩn bị khăn gói lên đường. Bảy giờ sáng hôm sau thì Mao lại
cho cận vệ đến gọi tôi. Mao đổi ý. Thay vì để chúng tôi đi coi về báo cáo lại,
Mao quyết định đích thân đi thăm các Công Xã Nhân Dân. Hai ngày sau chúng tôi
tháp tùng Mao đáp xe lửa xuôi nam.
Trạm dừng chân của Mao và đoàn tùy tùng là
tỉnh Hà Bắc, nơi có hàng loạt Công Xã Nhân Dân mới thành lập. Nhân dân Trung
Quốc chưa biết công xã nhân dân là gì nên còn có vẻ lạc quan trước những lời
hứa hẹn vinh quang về tổ chức mới mẻ nầy. Rời Hồ Bắc, Mao tiếp tục viếng thăm
tỉnh Hà Nam. Ngô Di Phố, Bí Thư Thứ Nhất Ðảng Ủy Hà Nam tháp tùng Mao xuyên qua
những con đường không tráng nhựa gồ ghề của tỉnh ông ta. Vì thời tiết mùa hè
rất oi bức nên đảng ủy địa phương chở thêm đàng sau một xe dưa hấu để chúng tôi
giải khát. Mao không thích dưa hấu nhưng chúng tôi thì là rất thích. Mao gốc
nông dân nên rất dễ hòa đồng với khung cảnh nông thôn. Ngay cả khi Mao lỡ chân
bước vào đống phân trâu, ông cũng không cần phải bận tâm lau sạch nó đi, Mao
nói "Đó là phân bón, tại sao phải lau đi chứ".
Ngày 6 tháng 8, Ngô Di Phố hướng dẫn chúng tôi
đi thăm làng Thất Ly. Dọc hai bên đường là cây sợi cao tới ngực với những bông
to như nắm tay đang tới mùa gặt. Ðầu làng là một tấm khẩu hiệu dài "Công
Xã Nhân Dân Thất Ly". Mao tán thưởng ngay "Danh từ Công Xã Nhân Dân
thật là vĩ đại. Công nhân Pháp tạo nên công xã Paris khi họ chiếm được quyền
lực. Nhân dân chúng ta đang tạo nên công xã nhân dân như một tổ chức chính trị
và kinh tế đang trên đường dẫn tới chủ nghĩa Cộng Sản. Ba ngày sau, Mao lại lần
nữa lập lại lời tán thưởng "Công Xã Nhân Dân thật vĩ đại". Một thông
tín viên của Tân Hoa Xã nghe được câu nầy và tức khắc ngày hôm đó các báo Ðảng
đều chạy tám cột dài to lớn trên trang đầu câu nói của Mao như một khẩu hiệu
chung cho cả nước từ đó.
Trở lại Bắc Ðái Hà, Mao vẫn còn hồi hộp. Tôi
chưa bao giờ thấy Mao vui mừng như thế. Trong đầu Mao, Công Xã Nhân Dân là đáp
số cho bài toán khan hiếm thực phẩm từ lâu ở Trung Quốc. Bốn ngày sau, Mao
triệu tập một phiên họp của Bộ Chính Trị. Câu trả lời cho Khrushchev của Mao đã
trở nên rõ ràng và dứt khoát khi Mao ra lịnh pháo kích vào đảo Kim Môn và Mả
Ðảo của Ðài Loan. Ðó là thách thức của Mao để tạo ra sự căng thẳng quốc tế
trong lúc Khrushchev đang cố tình làm hòa dịu. Mao đang chứng tỏ vai trò quan
trọng của Trung Quốc trong quan hệ giữa Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Quốc. Mao tiếp
tục pháo kích một tuần lễ trước khi đơn phương ra lịnh ngừng bắn. Khi hải quân
Hoa Kỳ di chuyển đến khu vực để bảo vệ eo biển Ðài Loan thì Mao lại ra lịnh tái
pháo kích. Thật ra, việc chiếm Ðài Loan chưa bao giờ là ý định của Mao. Việc
pháo kích Kim Môn và Mả Ðảo chỉ một thách thức, một trò chơi để chứng tỏ cho
Eisenhower và Khrushchev thấy rằng Trung Quốc không dễ dàng gì để bị kiểm soát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét