Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

JOHN KERRY VÀ HỘI CỰU CHIẾN BINH PHẢN CHIẾN: NHỮNG CON RỐI TRONG TAY HÀ NỘI?


Jerome R. Corsi and Scott Swett

Biên dịch: Nguyễn Thu Trâm
Những tài liệu mới được phát hiện cho thấy có sự liên kết giữa các Cựu chiến binh phản chiến với Cộng Sản Việt Nam
Hai tài liệu tịch thu được từ những cán binh cộng sản Bắc Việt trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh Việt Nam, vừa mới được phát hiện gần đây đã hổ trợ mạnh mẽ cho quan điểm cho rằng có một sự liên kết chặt chẽ tồn tại giữa các chế độ cộng sản Hà Nội và Hội Cựu chiến binh phản chiến (VVAW) trong thời gian John Kerry từng làm phát ngôn viên hàng đầu của nhóm phản chiến toàn quốc.
Thông tư: Phối hợp quốc tế, tuyên truyền chống chiến tranh
Các tài liệu đầu tiên là “Thông Tư 1971” được phân phối bởi những người cộng sản tại Việt Nam. Nội dung “Thông Tư” là thảo luận về các chiến lược để phối hợp nỗ lực tuyên truyền trong nước thông qua các hoạt động văn công nhằm tạo ra sự đồng cảm của các đối tác trong phong trào chống chiến tranh Việt Nam của người Mỹ. Cụ thể, các tài liệu ghi nhận rằng Việt Cộng và các đoàn đại biểu của phía Bắc Việt đến Pará để tham dự cuộc hòa đàm đã được sử dụng như một nối kết thông tin liên lạc nhằm chỉ đạo và điều hướng các hoạt động của các nhà phản chiến đến gặp gỡ họ tại Paris.
Dưới đây là một số trích dẫn từ tài liệu:
Các phong trào chống chiến tranh tự phát tại Mỹ đã nhận được sự hỗ trợ và hướng dẫn từ đoàn “Thân Hữu Bắc Việt” tại hòa đàm Paris.
- Thông tư về các Phong Trào Phản Chiến ở Mỹ. Tham chiếu đến “VC” biểu thị Việt Cộng; “NVN” biểu thị chính phủ Bắc Việt.
Câu này là đặc biệt quan trọng trong sự thừa nhận của John Kerry rằng ông ta đã gặp gỡ với các nhà lãnh đạo của cả hai phái đoàn cộng sản vào hòa đàm Paris vào tháng Sáu năm 1970, trong đó có bà Bình, bộ trưởng ngoại giao của Chính phủ cách mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (PRG), còn được gọi là Việt Cộng. Hồ sơ của FBI từng ghi nhận rằng Kerry sau đó đã trở lại Paris để gặp gỡ với phái đoàn cộng sản Bắc Việt vào tháng Tám năm 1971, và cũng đã từng lên kế hoạch cho một chuyến đi thứ ba vào tháng Mười Một.
Trước khi phát hiện ra Thông tư này, thì không có bằng chứng trực tiếp rằng Hà Nội đã thực sự chỉ đạo các hoạt động của Phong Trào Phản Chiến ở Mỹ bằng cách truyền đạt các mục tiêu và mong muốn của Hà Nội đến các lãnh đạo phong trào phản chiến thông qua các chuyến thăm thường xuyên của họ đến Paris, mặc dù nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định điều đó là xác thực. Những Phân tích sâu hơn về các tài liệu này đã chứng minh tính đúng đắn của quan điểm cho rằng bà Nguyễn Thị Bình đã sử dụng các cuộc gặp gỡ của y thị với John Kerry ở Paris để hướng dẫn cho Kerry về phương cách mà ông và Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến của Mỹ có thể làm tốt nhất vai trò của người đại diện cho Hà Nội tại Hoa Kỳ. Vào mùa Xuân và mùa Hè năm 1971, một chiến lược quan trọng của Hà Nội đã được xúc tiến gọi là Kế hoạch hòa bình Bảy điểm của Nguyễn Thị Bình.
Kế hoạch này được xây dựng khéo léo để buộc Tổng thống Nixon phải đưa ra một thời hạn để kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam và rút hết quân đôi Mỹ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Theo kế hoạch hòa bình 7 điểm của bà Bình, trở ngại duy nhất để Hà Nội đưa ra thời hiệu phóng thích các tù nhân chiến tranh của Mỹ ấy là Tổng Thống Nixon đã không sẵn sang đưa ra ngày giờ cụ thể cho việc rút quân. Tất nhiên, việc chấp nhận một cách đầy đủ các điều khoản của Kế hoạch hòa bình 7 điểm sẽ buộc chính phủ Hoa Kỳ phải thừa nhận bại trận và đầu hàng, một sự đầu hàng nhục nhã bao gồm việc bồi thường chiến tranh cho phía cộng sản Việt Nam như một là một sự thừa nhận trước công luận quốc tế rằng Hoa Kỳ là kẻ xâm lược sai trái trong một cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Một phần của Thông tư có tiêu đề “CHUẨN BỊ CHO PHONG TRÀO PHẢN CHIẾN MÙA THU 1971” đã làm rõ ràng tầm quan trọng của sự phát triển kế hoạch hòa bình 7 điểm của bà Nguyễn Thị Bình mà cộng sản Việt Nam đặt để trên phạm vi nước Mỹ đó là:
Đề nghị hòa bình bảy điểm của Chính phủ cách mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam không chỉ giải quyết vấn đề liên quan đến việc phóng thích các tù binh Mỹ mà còn thúc đẩy người dân của tất cả các tầng lớp xã hội và thậm chí cả thân nhân của phi công Mỹ bị giam giữ tại Miền Bắc Việt Nam tham gia phong trào chống chiến tranh.
- Thông tư về các phong trào phản chiến ở Mỹ cho thấy Chính phủ cách mạng lâm Nam Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam “SVN”, tức là Việt Cộng còn Chính Phủ Bắc Việt, “NVN” tức là đề cập đến miền Bắc Việt Nam.
Và một lần nữa, đã nhấn mạnh việc cộng sản Việt Nam xem sự nối kết các hoạt động của phong trào phản chiến Mỹ, nền chính trị Hoa Kỳ và nền chính trị tại Nam Việt Nam với nhau, như là mục tiêu tổng quát của Kế hoạch hòa bình 7 điểm của Thị Bình có một tầm quan trọng như thế nào:
Bè lũ Nixon - Thiệu bè lũ sẽ vô cùng lúng túng vì đề nghị hòa bình bảy điểm được ủng hộ bởi các phong trào đấu tranh trên mặt trận chính trị của các chính trị gia thuộc Chính Phủ Cách Mạnh Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và các phong trào phản chiến ở Mỹ. Vì vậy, tất cả các địa phương, các đơn vị, các phân khu phải phổ biến rộng rãi đề nghị hòa bình bảy điểm này, phải đẩy mạnh phong đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân cả ở các thành phố cũng như ở các vùng nông thôn, tận dụng lợi thế của các rối loạn và chia rẽ trong của phía đối phương (Việt Nam Cộng Hòa) trong cuộc bầu cử Quốc hội và bầu cử Tổng thống sắp tới. Các cơ quan đoàn thể phải phối hợp thành công hơn với các phong trào phản chiến ở Mỹ để cô lập các phe nhóm Nixon - Thiệu.
- Thông tư về các phong trào phản chiến ở Mỹ. “RVN” nghĩa là Việt Nam Cộng Hòa, tức là chính quyền Miền Nam do Hoa Kỳ hậu thuẩn.
Các gia đình có con em là tù binh chiến tranh: Mục tiêu của Cộng Sản Việt Nam
Cuối năm 1970, một Việt Cộng chiêu hồi đã mô tả lại một kế hoạch mà cộng sản sử dụng những thành phần thân cộng ở Mỹ để vận động các thành viên gia đình của tù binh Mỹ bị giam giữ ở Miền Bắc Việt Nam cùng tham gia trong các phong trào phản chiến. Bản tóm tắt sau đây của cuộc phỏng vấn các cán binh cộng sản hồi chánh đã được cung cấp cho Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện:
Việt Cộng đã hoạch đinh một kế hoạch tiếp tục những nỗ lực tuyên truyền, vận động của họ để giành sự đồng tình của thế giới đối với họ và để thu hút càng nhiều những sự hỗ trợ cho cuộc đấu tranh từ các nước khác của cộng sản càng tốt để tạo ra một môi trường thuận lợi cho cộng sản Bắc Việt tại Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình cho Việt Nam.
Việt Cộng sẽ tiếp tục tăng cường các hoạt động phản chiến ở Mỹ, gây tình trạng bất ổn trong nước, bằng các phong trào phản đối sự can thiệp của Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam để tăng nhanh tiến trình triệt thoái quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam và tạo ra áp lực sớm chấm dứt chiến tranh.
Nỗ lực này sẽ được hướng trực tiếp đến các binh sỹ Hoa Kỳ Mỹ tại Việt Nam để họ yêu sách với chính phủ Hoa Kỳ rằng họ phải được trở về nước và được đoàn tụ với gia đình và vợ của của họ .
Việt Cộng sẽ nổ lực để tạo ra các dự thảo chống chiến tranh và thái độ chống chiến tranh ở Mỹ bằng cách tổ chức các nhóm thân cộng tại Hoa Kỳ để các nhóm đó liên lạc với các gia đình có con em đang chiến đấu ở Việt Nam và xúi giục họ gọi con em bỏ ngủ về nước. Đồng thời, các băng nhóm thân cộng tại Hoa Kỳ cũng sẽ được tổ chức để phân phối các dự thảo và truyền đơn chống chiến tranh cho sinh viên và thanh niên Mỹ.
Vào ngày 01 tháng hai năm 1971, tại buổi điều tra của Winter Soldier ở Detroit, các Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã đưa ra lời tuyên bố của bà Virginia Warner, mẹ của tù binh chiến tranh Jim Warner, đôn đốc Tổng thống Nixon phải “kết thúc chiến tranh để các tù nhân chiến tranh có thể trở về nhà.” Jim Warner đã cáo buộc chính John Kerry đã khai thác nỗi sợ hãi của mẹ mình để có được lời tuyên bố đó.
Vào ngày 22 tháng bảy năm 1971, John Kerry đã tổ chức một cuộc họp báo ở Washington DC, kêu gọi Tổng thống Nixon chấp nhận kế hoạch hòa bình 7 điểm của Thị Bình. Tại cuộc họp báo đó, bao quanh Kerry là vô sô vợ con các tù binh chiến tranh cùng cha mẹ và anh chị em của họ được mời tham dự để quảng bá thông điệp của mình. Sự kiện này được tường trình trên tờ Thời Báo New York vào ngày 23 Tháng Bảy năm 1971 và trên tờ Thế Giới Cộng Sản Hàng Ngày vào hôm 24 tháng 7 năm 1971. Mỗi bài viết được đăng kè bức ảnh của Kerry được bao quanh bởi các thành viên gia đình tù binh chiến tranh.
Việc John Kerry sử dụng các gia đình tù binh chiến tranh trong hoạt động phản chiến đã trực tiếp tạo ưu thế cộng sản Bắc Việt trong chương trình nghị sự tại Hòa Đàm Paris như mô tả của cán binh cộng sản hồi chánh cũng như trong Thông tư mới được phát hiện, cho thấy thị Bình đã đề nghị cùng một kế hoạch hành động cho các nhà hoạt động phản chiến mà y thị đã từng gặp gỡ ở Paris.
[Lưu ý: Một số gia đình tù binh chiến tranh đã được liên lạc bởi một nhóm “giao liên” do Cora Weiss, con gái của tài nhà hổ trợ tài chính cho đảng cộng sản, Samuel Rubin, lãnh đạo với những đề xuất là sẽ giúp chuyển thư tín và các thông tin về người chồng tù binh của họ nếu gia đình đồng ý công khai lên án cuộc chiến tranh. Hầu hết các thành viên gia đình tù binh từ chối hợp tác với hành vi tống tiền này, ngay cả khi họ được hứa hẹn sẽ đối xử tốt hơn với chồng hoặc con của họ tại các nhà tù ở Hà Nội. Bốn người vợ tù binh tức giận phản đối tại cuộc họp báo của John Kerry vào tháng bảy, một trong số đó cáo buộc Kerry tội “thường xuyên sử dụng đau khổ và đau buồn của chúng tôi” để xiễn dương tham vọng chính trị của mình.]
Chỉ Thị: Hỗ Trợ Các Cuộc Biểu Tình, Bạo Lọan Trong Nước Mỹ
Tài liệu thứ hai, lực lượng quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam vào ngày 12 tháng năm 1972, đã bắt giữ một điệp báo cộng sản với chỉ thị được soạn thảo để thúc đẩy các cuộc thảo luận tại Việt Nam về việc thúc đẩy các hoạt động phản chiến đang diễn ra tại Hoa Kỳ. Đoạn thứ năm của tài liệu này đã tường giải rằng những người cộng sản Việt Nam đã được sử dụng cho mục đích tuyên truyền về các hoạt động của Hội Cựu chiến binh Hoa Kỳ chống chiến tranh Việt Nam. Cuộc biểu tình được mô tả là diễn ra từ ngày 19 đến ngày 22 tháng 4 năm 1971tại Washington DC trùng hợp trực tiếp với các ngày khởi đầu chiến dịch hành quân Lam Sơn 719, là một cuộc biểu tình do John Kerry đầu têu, trong đó John Kerry làm chứng nhân của cuộc chiến tranh trước Ủy ban Đối ngoại của Thượng nghị sĩ Fulbright là một trung tâm truyền hình. Các mô tả về các hoạt động phản chiến theo Chỉ thị thậm chí bao gồm cả việc “trả lại huy chương” tại chính buổi lễ đó, chính John Kerry và các thành viên khác của nhóm Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã ném bỏ các huy chương và/hoặc ruy băng danh dự của họ xuống các bậc tam cấp của Điện Capitol Hoa Kỳ, cùng với hành động đó là nhiều tiếng la hét đe dọa bạo lực đối với chính phủ.
Các Kết Nối: Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ)
Một luận cứ quan trọng trong các tài liệu cho thấy mức độ mà những người cộng sản Việt Nam đã làm việc với và thông qua các Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý. Thông tư, ngay lập tức tiết lộ các Phái Đoàn Cộng tham dự cuộc đàm phán hòa bình Paris đã được sử dụng để hướng dẫn phong trào phản chiến Mỹ, đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) như thế nào đối với những nỗ lực này:
Đối với các phong trào phản chiến ở Mỹ, thì hai thực thể quan trọng hơn cả là: Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) và Ủy Ban Quốc Gia Hành Động Vì Hòa Bình (NPAC). Hai phong trào này đã tập [jpđược nhiều sức mạnh quần chúng và tổ chức nhiều cuộc biểu tình tuần hành. Trong đó, Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) là quan trọng nhất. Ủy Ban này vẫn duy trì mối quan hệ với chúng tôi.
- Thông tư về các phong trào phản chiến ở Mỹ (Nhấn Mạnh Bổ Sung).
Trong báo cáo thường niên 1971 của Cục Nội An đã mô tả Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) là một tổ chức đặt dưới quyền kiểm soát của cộng sản Mỹ: “Vấn đề đáng quan tâm ở đây là các đảng viên đảng Cộng sản đã tạo ra những ảnh hưởng lớn, và những hướng dẫn có tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển các chính sách của Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ)”.
Những tường trình về kết quả giám sát của FBI vừa công bố gần đây đã chứng tỏ một mối liên kết mạnh mẽ giữa John Kerry, Al Hubbard, các Cựu Chiến Binh Phản Chiến, Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) và các chuyến đi của họ đến Paris để gặp gỡ với thị Bình. Như những tranh luận được trình bày trong cuốn Unfit For Command, về Hubbard, trưởng ban điều hành của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến và một đường lối cứng rắn cực đoan có quan hệ với các thế lực đen Black Panthers và Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ), đã trực tiếp tuyển dụng John Kerry vào Ban Chấp hành Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến, bỏ qua quá trình bầu cử của tổ chức. Tuyên bố của Al Hubbard rằng bản thân từng là một phi công vận tải, từng bị thương tích trong chiến đấu, đã trở nên bất khả tín khi Bộ Quốc phòng công bố các tài liệu chứng minh rằng, mặc dù Hubbard đã ở trong không lực lượng Không quân, nhưng ông không phải là phi công cũng chẳng phải là sĩ quan, và chưa bao giờ phục vụ tại chiến trường Việt Nam và cũng đã chưa từng tham gia chiến đấu ở bất cứ nơi đâu. Chính ông John Kerry chia sẻ câu chuyện tham chiến của mình với Al Hubbard trong cuộc biểu tình Phản Đối Cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 tại Washington, DC, và Kerry đã xuất hiện cùng với Hubbard trên chương trình Gặp Gỡ Báo Chí trên kênh truyền hình NBC vào ngày 18 Tháng Tư năm 1971. Hubbard cũng đã ký Hiệp ước Hòa Bình Dân Tộc People's Peace Treaty (Giữa Người Mỹ, Người Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam và người Việt Nam Cộng Sản ở Miền Bắc), một tài liệu của Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) mà đã tái khẳng định vị trí của Bắc Việt Nam và Việt Cộng, nhân danh Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến.
Một tường trình của FBI ấn ký ngày 11 tháng 11 năm 1971 báo cáo rằng FBI đã nắm bắt  được thông tin tại Hội nghị Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến khu vực Norman Oklahoma, vào ngày 5-
 Tháng 7, năm 1971, rằng John Kerry và Al Hubbard đã hoạch định chuyến đi đến Paris trong tháng 7 để tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình với các đoàn đại biểu cộng Sản Việt Nam. Trong khi tài liệu này đang được phối kiểm từ nhiều nguồn khác nhau, thì một báo cáo khác của FBI khác đã tường minh rằng Đảng Cộng sản Mỹ lo liệu mọi chi phí cho chuyến đi của Al Hubbard đến Paris.
Cần lưu ý rằng “ĐẢNG  CỘNG SẢN” ĐƯỢC ĐỀ CẬP ĐẾN TRÊN RETEL là Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, VÌ AL HUBBARD LÀ THÀNH VIÊN phối hợp của Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ), CŨNG NHƯ GIL GREEN LÀ THÀNH VIÊN CỦA ỦY BAN QUỐC GIA CỦA CỘNG SẢN Hoa Kỳ và Jarvis TYNER LÀ GIÁM ĐỐC LIÊN ĐOÀN THANH NIÊN CÔNG NHÂN GIẢI PHÓNG DÂN TỘC. HUBBARD, GREEN VÀ TYNER ĐÃ TỪNG CÙNG THAM DỰ CÁC CUỘC HỌP CỦA LIÊN MINH DÂN TỘC VÌ HÒA BÌNH VÀ CÔNG LÝ (PCPJ).
-Trong một báo cáo về giám sát thực địa của Cục Điều Tra Liên Bang FBI, nộp ngày 11 tháng 11 năm 1971, gồm một bản sao của báo cáo này được gởi đến văn phòng FBI ở Boston bằng đường hàng không yêu cầu Văn Phòng lưu tâm đặc biệt đến John Kerry .
Một báo cáo khác của Cục Điều Tra Liên Bang FBI trong lĩnh vực giám sát thực địa ngày 24 Tháng 11 năm 19 đã tường trình chi tiết về phần trình bày của Al Hubbard cho các ủy ban điều hành và chỉ đạo Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến trong một cuộc họp tại thành phố Kansas, Missouri, trong suốt những ngày cuối tuần từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11 năm 1971. Tại cuộc họp này các Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã xem xét, và sau đó đã từ chối kế hoạch ám sát một số thượng nghị sĩ Hoa Kỳ ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam. John Kerry được ghi nhận là có hiện diện trong cuộc họp. Một lần nữa, Al Hubbard đã làm sáng tỏ thêm sự phối hợp của cộng sản có liên quan đến chuyến đi gần đây của ông đến Paris:
[BLACK OUT] Xin được thông báo rằng Hubbard đã cung cấp các thông tin sau về chuyến đi Paris của mình như sau:
Có hai thực thể nước ngoài, một là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, đã mời đại diện của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến  cùng đại diện Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, và một nhóm cánh tả tại Paris, cùng tham dự cuộc họp của họ ở Paris. Hubbard khai là ông được bầu chọn để đại diện cho Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến. Một người đàn ông khác, không rõ danh tính đã được mời đại diện cho đảng cộng sản Hoa Kỳ và một cá nhân không rõ danh tính khác đã được tuyển chọn để đại diện cho các nhóm cánh tả ở Paris. Tại cuộc họp, Hubbard cũng đã trình bày rằng chuyến đi của ông được tài trợ bởi Đảng Cộng Sản Mỹ.
- Báo cáo giám sát thực địa của Cục Điều Tra Liên Bang, nộp 24 Tháng 11 năm 1971.
Một lá thư do Al Hubbard viết vào ngày 20 tháng 4 năm 1971 đã xóa tan mọi nghi ngờ về sự phối hợp chặt chẽ giữa Hội Cựu chiến binh chống chiến tranh Việt Nam và Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý. Địa chỉ nơi gửi đi là từ các văn phòng Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến ở Washington, DC, bức thư đưa ra lời kêu gọi cho các thành viên của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến hãy dành sự hỗ trợ cho Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ). Nội dung bức thư cũng bàn thảo về một số phương cách mà hai tổ chức đó đã làm việc chặt chẽ với nhau:
Đây là một lời kêu gọi giúp đỡ cho Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ). Trong những tháng qua, Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ).  đã hỗ trợ Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến bằng nhiều cách. Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ) đã cung cấp miễn phí văn phòng làm việc cho Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến, và Liên Minh cũng cho phép Hội được sử dụng tất cả các thiết bị văn phòng cần thiết như máy máy quay rô nê ô, máy làm stencil thư mục và máy đánh chữ. Họ cho chúng tôi mượn chiếc xe hơi, phương tiện thông tin, và thiết bị địa chỉ công cộng. Nhân viên của họ đã tiếp nhận thông tin báo chí cho chúng tôi và giúp chúng tôi tham gia cùng chúng tôi trong tình đồng chí để giúp đỡ cho chúng tôi cùng tiến bộ của chúng tôi. Bây giờ là lúc mà chúng ta có thể  đáp trả lại bằng sự hỗ trợ này.
Vào ngày thứ bảy, 24 Tháng Tư, Liên minh cần sự giúp đỡ quyên góp tiền và bán các nút bấm tại cuộc diễu hành tuyệt và cuộc biểu tình lớn. Những người làm công việc quyên góp và bán hàng phải tràn đầy hang hái và quyết tâm. Sẽ có vấn đề rắc rối về an ninh trong việc mang số tiền lớn đến các ngân hàng. Liên minh cần quyền lực của nhân dân, và cần hàng trăm người tham gia trợ giúp.
Tôi tha thiết mong các bạn sẽ tiến lên để hỗ trợ cho bạn bè của chúng tôi trong trường hợp khẩn cấp này.
- Al Hubbard đã ký tên dưới bức thư,  từ Văn Phòng Hội Cựu Chiến Binh Phản chiến tại phòng 900, 1029 Đại Lộ Vermont. N.W. Washington, DC, ngày ngày 20 tháng 4 năm 1971. Bức thư dược tìm thấy trong hồ sơ đối tượng tại Ủy Ban An Ninh Nội Địa, Washington, DC
Hai ngày sau khi bức thư được viết ra, John Kerry đã thực hiện một buổi làm chứng nổi tiếng của mình trước Thượng nghị sĩ Fulbright của Ủy ban Đối ngoại, trong đó ông so sánh quân đội Mỹ tại Việt Nam với quân đội của Thành Cát Tư Hãn. Cuộc tuần hành và biểu tình mà Hubbard đã được kêu gọi sự hỗ trợ của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã trở thành cuộc biểu tình với quy mô lớn của Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ) vào ngày 24 tháng 4 ở Washington, DC mà ngay lập tức theo sau là một cuộc biểu tình của Hội Cựu Chiến Binh Phản chiến phản đối cuộc hành quân Lam Sơn 719 kéo dài một tuần. Tờ Thế Giới Cộng Sản hàng ngày đã tường thuật vào ngày 27 tháng 4 rằng “Cống vật đặc biệt đã được dùng để trả công cho vai trò đặc biệt của Cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam” đã tham gia vào cuộc biểu tình của Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ), và chương trình tường thuật được tiếp nối bằng phần trích dẫn bài phát biểu dài lê thê của John Kerry tại sự kiện đó.
Đối Tác Sẵn Sàng: Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến và Cộng Sản Việt Nam
Có vô số những ví dụ khác về sự vận động của Hội Cựu Chiến Binh Phản chiến cho vị thế của cộng sản Việt Nam trong thời gian John Kerry lãnh đạo hội. Nhóm Phản Chiến đã ban hành một tuyên bố vào tháng Hai năm 1971 kêu gọi đại chúng bất tuân dân sự và binh biến quân sự nếu các lực lượng Mỹ hành quân vào Lào. Sau chiến tranh, các nhà lãnh đạo quân sự Bắc Việt đã thừa nhận rằng một trong những lo ngại lớn nhất của họ là Mỹ sẽ di chuyển lực lượng đáng kể vào Lào để ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh. Sự háo hức của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến trong việc tuân thủ các nguyện vọng của cộng sản Việt Nam thậm chí còn mở rộng sự lựa chọn của danh mục. Ban Chấp hành Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã nói trong một cuộc họp tháng 7 năm 1971 rằng các thuật ngữ như “Việt Cộng” và “Cộng Sản Bắc Việt” đã không được sử dụng trong các thông cáo báo chí của truyền thông và của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến. Thay vào đó, chúng ta chỉ sử dụng nhóm từ “Chính Phủ Cách Mạnh Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (Tức Cộng Sản Bắc Việt) để phản ánh sự chấp nhận của chúng ta đối với các chỉ định của họ. Và Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến vẫn không ngớt nhấn mạnh rằng các lực lượng Mỹ đã thảm sát hàng loạt thường dân Việt Nam, là hành động lặp lại một cách hoàn hảo những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc sự thật do chính bọn cộng sản Việt Nam đưa ra và được các đồng minh cộng sản quốc tế của họ hà hơi tiếp sức tuyên truyền, gồm cả  mẫu quốc Liên Xô của cộng sản Bắc Việt.
Kết luận
Các tài liệu mới được phát hiện giúp làm rõ sự liên minh ma quỷ giữa của Bắc Việt, Việt Cộng , Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ), Đảng Cộng sản Mỹ, và Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến của John Kerry. Những cứ liệu đó đã chỉ ra rằng các tổ chức này đã làm việc chặt chẽ với nhau, bằng cách sử dụng hòa đàm Paris như một trung tâm thông tin liên lạc, để sử dụng các chiến lược và chiến thuật do cộng sản Bắc Việt hoạch định nhằm đạt được mục tiêu chính của họ là đánh bại Hoa Kỳ tại Việt Nam.
- Jerome R. Corsi và Scott Swett
Biên dịch: Nguyễn Thu Trâm

Nguyên Văn: JOHN KERRY AND THE VVAW: HANOI'S AMERICAN PUPPETS?



Newly discovered documents link Vietnam Veterans Against the War to Vietnamese communists

Two recently discovered documents captured from the Vietnamese communists during the Vietnam War strongly support the contention that a close link existed between the Hanoi regime and the Vietnam Veterans Against the War (VVAW) while John Kerry served as the group's leading national spokesman.

The Circular: International Coordination of Antiwar Propaganda

The first document is a 1971 "Circular" distributed by the Vietnamese communists within Vietnam. It discusses strategies to coordinate their national propaganda effort with their orchestration of the activities of sympathetic counterparts in the American anti-war movement. Specifically, the document notes that the Vietcong and North Vietnamese delegations to the Paris Peace talks were being used as the communications link to direct the activities of anti-war activists meeting with them in Paris. To quote from the document:
The spontaneous antiwar movements in the US have received assistance and guidance from the friendly ((VC/NVN)) delegations at the Paris Peace Talks.
-- Circular on Antiwar Movements in the US. The reference to "VC" indicates the Vietcong; "NVN" is the North Vietnamese government.
This sentence is particularly important in light of John Kerry's admission that he met with leaders of both communist delegations to the Paris Peace Talks in June 1970, including Madame Binh, foreign minister of the Provisional Revolutionary Government (PRG) of South Vietnam, also known as the Vietcong. FBI files record that Kerry returned to Paris to meet with the North Vietnamese delegation in August of 1971, and planned a third trip in November.
Prior to the discovery of the Circular, there was no direct evidence that Hanoi was actually steering the U.S. antiwar movement's activities by conveying Hanoi's goals and wishes to movement leaders during their frequent visits to Paris, though many investigators had assumed that to be the case. Further analysis of this document supports the contention that Madame Binh used her Paris meeting with John Kerry to instruct him on how he and the VVAW might best serve as Hanoi's surrogates in the United States. In the spring and summer of 1971, a key strategy of Hanoi was to advance what was known as Madame Binh's Seven Point Peace Plan.
The plan was cleverly constructed to force President Nixon to set a date to end the Vietnam War and withdraw American troops. According to the 7-Point Peace Plan of Madame Binh, the only barrier to Hanoi setting a date to release American Prisoners of War was President Nixon's unwillingness to set a specific date for military withdrawal. Of course, accepting the full terms of the 7-Point Peace Plan would have amounted to an American capitulation, a virtual surrender that included the payment of reparations to the Vietnam communists as an admission that America was the wrongful aggressor in an immoral war.
A section of the Circular titled "PREPARATION FOR THE FALL ((1971)) ANTIWAR MOVEMENT" makes clear the importance the Vietnamese Communists placed on advancing Madame Binh's 7-Point Peace Plan within the United States:
The seven-point peace proposal ((of the SVN Provisional Revolutionary Government)) not only solved problems concerning the release of US prisoners but also motivated the people of all walks of life and even relatives of US pilots detained in NVN to participate in the antiwar movement.
-- Circular on Antiwar Movements in the US. "SVN" indicates the South Vietnam Provisional Revolutionary Government, i.e., the Vietcong. "NVN" refers to North Vietnam.
And again, highlighting how the Vietnamese communists viewed the activities of the US antiwar movement, US politics, and politics in South Vietnam as interconnected; all to be targeted by Madame Binh's 7-Point Peace Plan:
The Nixon-Thieu clique is very embarrassed because the seven-point peace proposal is supported by the SVN people's (( political struggle)) movement and the antiwar movements in the US. Therefore, all local areas, units, and branches must widely disseminate the seven-point peace proposal, step up the people's ((political struggle)) movements both in cities and rural areas, taking advantage of disturbances and dissensions in the enemy's forthcoming (RVN) Congressional and Presidential elections. They must coordinate more successfully with the antiwar movements in the US so as to isolate the Nixon-Thieu clique.
-- Circular on Antiwar Movements in the US. "RVN" refers to the Republic of Vietnam, the government in South Vietnam supported by the US.
POW Families: Targets of the Vietnamese Communists
Late in 1970, a defecting Vietcong organizer described a communist plan to use Vietcong sympathizers in the US to recruit family members of American POWs held captive in North Vietnam. The following summary of his interview was provided to the House Foreign Affairs Committee:
The Viet Cong plan to continue their efforts to win worldwide opinion to their side and to solicit as much material support for the VC struggle as possible from other countries in order to create a favorable climate for the VC at the Paris Peace Conference.
The Viet Cong will continue to promote domestic unrest against the war in the United States in order to speed withdrawal of US troops and create pressure for an end to the war.
Efforts will be directed toward the US soldier in Vietnam to demand that they be returned to the US and be reunited with their families and wives.
The VC will strive to create anti-draft and anti-war attitudes in the US by organizing VC sympathizers in the US to contact families with sons in Vietnam and urge them to call their sons home. Also VC sympathizers in the US will be organized to distribute anti-draft leaflets to students and young people.
On February 1, 1971, at their Winter Soldier Investigation in Detroit, the VVAW released a statement by Virginia Warner, mother of American POW Jim Warner, urging President Nixon to "end the war so the prisoners of war can come home." Jim Warner has accused John Kerry of exploiting his mother's fears to obtain this statement.
On July 22, 1971, John Kerry held a press conference in Washington, DC, to call upon President Nixon to accept Madame Binh's 7-Point Peace Plan. Kerry surrounded himself at the press conference with POW wives, parents and sisters who had been recruited to promote his message. The event was reported in The New York Times of July 23, 1971 and the communist Daily World of July 24, 1971. Each article included a photograph of Kerry surrounded by POW family members.
Kerry's use of POW families directly advanced the North Vietnamese communist agenda as described by enemy defectors and in the newly discovered Circular, which suggests that Madame Binh had recommended the same course of action to antiwar activists meeting with her in Paris.
[Note: A number of POW families were contacted by a "liason" group headed by Cora Weiss, the daughter of Communist Party financier Samuel Rubin, with offers to provide mail and information about their husbands if the families agreed to publicly denounce the war. Most POW family members refused to cooperate with this extortion, even when promised better treatment for their husbands or sons in Hanoi. Four angry POW wives protested at Kerry's July press conference, one of whom accused Kerry of "constantly using our own suffering and grief" to advance his political ambitions.]
The Directive: Supporting the US Domestic Insurgency
The second document, captured by US military forces in South Vietnam on May 12, 1972, is a communist Directive designed to motivate discussions within Vietnam about promoting the ongoing antiwar activities in the United States. The fifth paragraph of this document makes clear that the Vietnamese communists were utilizing for their propaganda purposes the activities of the Vietnam Veterans Against the War. The protest described as occurring from April 19 through April 22, 1971 coincides directly with the dates of Dewey Canyon III, the Washington, DC, protest led by John Kerry, during which John Kerry's testimony before Senator Fulbright's Foreign Relations Committee was a televised centerpiece. The description of the protest activities in the Directive even include the "return their medals" ceremony in which John Kerry and other VVAW members threw their medals and/or ribbons toward the steps of the US Capitol, with several shouting threats of violence against their government as they did so.
The Connection: The People's Committee for Peace and Justice
Another key discussion in the documents reveals the degree to which the Vietnamese communists were working with and through the PCPJ (People's Coalition for Peace and Justice. The Circular, immediately after disclosing how the communist delegations to the Paris Peace talks were being used to guide the US antiwar movement, stresses the importance of the PCPJ to these efforts:
Of the US antiwar movements, the two most important ones are: The PCPJ ((the People's Committee for Peace and Justice)) and the NPAC ((National Peace Action Committee)). These two movements have gathered much strength and staged many demonstrations. The PCPJ is the most important. It maintains relations with us.
-- Circular on Antiwar Movements in the US (emphasis added).
The House Internal Security Committee in its 1971 Annual Report described the PCPJ as an organization strongly controlled by US communists: "There is no question but what members of the Communist Party have provided a very strong degree of influence, even a guiding influence, in the evolution and formation of policies of the Peoples' Coalition for Peace and Justice."
Recently released FBI surveillance reports establish a strong link between John Kerry, Al Hubbard, the VVAW, the PCPJ, and their trips to Paris to meet with Madame Binh. As discussed in Unfit for Command, Hubbard, the Executive Secretary of the VVAW and a hard-line radical with ties to the Black Panthers and the PCPJ, had directly recruited John Kerry into the VVAW's Executive Committee, bypassing the organization's election process. Al Hubbard's own claim to have been a transport pilot wounded in combat was discredited when the Department of Defense released documents demonstrating that, though Hubbard had been in the Air Force, he was neither a pilot nor an officer, had never served in Vietnam and had never been in combat. John Kerry shared the stage with Al Hubbard during the Dewey Canyon III protest in Washington, D.C., and he appeared together with Hubbard on NBC's Meet the Press on April 18, 1971. Hubbard also signed the People's Peace Treaty, a PCPJ document that reiterated the positions of North Vietnam and the Vietcong, on behalf of the VVAW.
An FBI field surveillance report stamped November 11, 1971 reported that the FBI had learned at the Regional VVAW Convention in Norman Oklahoma, on November 5-7, 1971, that John Kerry and Al Hubbard were planning to travel to Paris later in the month to engage in talks with the Vietnamese communist peace delegations. While this document is heavily redacted, other FBI reports make it clear that the Communist Party of the USA was paying for Al Hubbard's trips to Paris.
IT IS NOTED THAT THE "COMMUNIST PARTY" REFERRED IN RETEL IS PROBABLY THE COMMUNIST PARTY, USA, BECAUSE AL HUBBARD IS A MEMBER OF COORDINATING OF PEOPLES COALITION FOR PEACE AND JUSTICE (PCPJ), AS ARE GIL GREEN, MEMBER OF NATIONAL COMMITTEE, COMMUNIST PARTY, USA AND JARVIS TYNER, NATIONAL DIRECTOR, YOUNG WORKERS LIBERATION LEAGUE. HUBBARD, GREEN AND TYNER HAVE ATTENDED SAME NATIONAL MEETINGS OF PCPJ.
-- Federal Bureau of Investigations, Field Surveillance Report, filed November 11, 1971. A copy of this report was air-mailed to the Boston FBI office in reference to John Kerry.
An FBI field surveillance report dated November 24, 1971 details Al Hubbard's presentation to a VVAW meeting of the Executive and Steering committees in Kansas City, Missouri, during the weekend of November 12-15, 1971 -- the same meeting at which the VVAW considered, then rejected a plan to assassinate several pro-war US Senators. John Kerry is listed as present. Once again, Al Hubbard made clear the communist coordination involved in his recent trip to Paris:
[BLACK OUT] advised that Hubbard gave the following information regarding his Paris trip:
Two foreign groups, which are Democratic Republic of Vietnam (DRV) and Peoples Republic Government (PRG) (phonetic), invited representatives of the VVAW, Communist Party USA (CP USA), and a Left Wing group in Paris, to attend meeting of the above inviting groups in Paris. Hubbard advised he was elected to represent the VVAW. An unknown male was invited to represent the CP USA and an unknown individual was elected to represent the Left Wing group from Paris. He advised at the meeting that his trip was financed by CP USA.
-- Federal Bureau of Investigations, Field Surveillance Report, filed November 24, 1971.
A letter written by Al Hubbard on April 20, 1971 leaves no doubt about the strong coordination between the Vietnam Veterans Against the War and the People's Coalition for Peace and Justice. Addressed from the offices of the VVAW in Washington, D.C., the letter is an appeal to VVAW members to provide assistance to the PCPJ. It discusses several ways in which the two organizations have worked closely together:
This is an appeal for help for the Peoples Coalition for Peace and Justice. Over the past months the Peoples Coalition has supported the Vietnam Vets Against the War in many ways. The Coalition has made office space available at no charge, and permitted the use of all necessary office equipment such as mimeograph machines, stencil-making machines, folders and typewriters. They have loaned us cars, bullhorns, and public address equipment. Their staff has taken messages for us and joined fraternally in building our progress. Now we can return this support.
Saturday, April 24, the Coalition needs help collecting money and selling buttons at the great march and rally. Collectors and sellers must be energetic and determined. Theree will be security problems in taking large amounts of money to banks. The Coalition needs people power, hundreds of workers.
I earnestly hope that you will come forward to support our friends in this emergency.
-- Letter signed by Al Hubbard, addressed from the Vietnam Veterans Against the War office at Room 900, 1029 Vermont Ave. N.W., Washington, D.C., dated April 20, 1971. Found in the House Internal Security Committee subject files, Washington, D.C.
Two days after the letter was written, John Kerry gave his famous testimony to Senator Fulbright's Foreign Relations Committee in which he likened the American military in Vietnam to the army of Ghengis Khan. The march and rally for which Hubbard was recruiting VVAW assistance was the PCPJ's massive April 24 demonstration in Washington, which immediately followed the VVAW's week-long Dewey Canyon III protest. The communist Daily world reported on April 27 that "Tributes were paid to the special role of the Vietnam Veterans" at the PCPJ rally, and went on to quote at length from John Kerry's speech at that event.
Willing Partners: the VVAW and the Vietnamese Communists
Other examples of the VVAW's advocacy of Vietnamese communist positions during the period of John Kerry's leadership abound. The group issued a proclamation in February 1971 calling for mass civil disobedience and military mutiny if American forces entered Laos. After the war, North Vietnamese military leaders acknowledged that one of their greatest fears was that America would move significant forces into Laos to interdict the Ho Chi Minh Trail. The VVAW's eagerness to comply with the wishes of the Vietnamese communists even extended to its choice of nomenclature. The VVAW's Executive Committee stated in a July 1971 meeting that the terms "Vietcong" and "North Vietnamese" were not to be used in VVAW press releases and communications. Instead, "PRG (Provisional Revolutionary Government)" and "DRV (Democratic Republic of Vietnam)"... "are to be used by us to reflect our acceptance of their designations." And the VVAW's unremitting insistence that American forces were mass-murdering Vietnamese civilians perfectly echoed the primary propaganda theme put forth by the Vietnamese communists, their international communist allies, and their Soviet sponsors.
Conclusion
The newly uncovered documents help clarify the relationship of the North Vietnamese, the Vietcong, the PCPJ, the Communist Party of the USA, and John Kerry's VVAW. They indicate that these organizations worked closely together, using the Paris Peace Talks as a central point of communication, to employ the strategy and tactics devised by the Vietnamese communists to achieve their primary objective: the defeat of the United States of America in Vietnam.
-- by Jerome R. Corsi and Scott Swett
----------
[Note 1: On October 22, 2004, Swift Veterans and POWs for Truth researchers Troy Jenkins and Tom Wyld located the two Vietnamese communist documents referenced above in the archives of the Vietnam Center at Texas Tech University, in the Douglas Pike Collection. Douglas Pike was a leading authority on the Vietnam War who collected over 2 million pages of original documents now archived at the Vietnam Center. James Reckner, Ph.D., Director of the Vietnam Center at Texas Tech, verifies that the documents in the Pike collection are original and authentic. The Circular and the Directive are listed as items numbered 2150901039b and 2150901041 respectively.]
[Note 2: The authors wish to thank Max Friedman for making available two additional documents, first, Al Hubbard's April 20, 1971 letter to the VVAW membership. The full citation is: National Peace Action Coalition (NPAC) and Peoples Coalition for Peace & Justice (PCPJ) Part I, hearings before the Committee on Internal Security, House of Representatives, 92nd Congress, First Session, May 18-21, 1971, p. 1796. The second document, "Extracts from an interview with a Viet Cong returnee" comes from the American Prisoners of War in Southeast Asia 1971 hearings before the Subcommittee on National Security Policy and Scientific Development, House Foreign Affairs Committee, 92nd Congress First Congress, March 23-25, 30-31, April 1, 6 & 20, 1971, Testimony of Max P. Friedman, pg 299.]

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét