Lời
Mở Đầu
Sự sụp
đổ của khối Cộng Sản do Liên Bang Sô Viết dẫn đầu vào đầu thập niên 90 đã đánh
dấu sự thất bại cho các cuộc vận động của Cộng Sản quốc tế sau gần một thế kỷ.
Tuy nhiên, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ ) không ngờ đã sống sót và vẫn khống
chế Trung Quốc, một quốc gia với 1/5 dân số thế giới. Một vấn đề không thể né
tránh được chính là: ' Đảng Cộng Sản ngày nay có còn là Đảng Cộng Sản thật sự
hay không?'
Không
ai ở Trung Quốc ngày nay, bao gồm cả các đảng viên, còn tin vào chủ nghĩa Cộng
Sản. Sau 50 năm đi theo chủ nghĩa Xã Hội, ĐCSTQ bây giờ đã chấp nhận quyền tư hữu
và ngay cả còn có thị trường cổ phiếu. ĐCSTQ còn tìm kiếm đầu tư của ngoại quốc
để thành lập các doanh nghiệp mới, trong khi vẫn bóc lột công nhân và nông dân
đến mức độ tối đa. Điều này hoàn toàn trái ngược với lý tưởng của chủ nghĩa cộng
sản. Mặc dù thỏa hiệp với chủ nghĩa tư bản, ĐCSTQ vẫn duy trì quyền lãnh đạo
tuyệt đối với người dân Trung Quốc. Hiến pháp sửa đổi năm 2004 vẫn cứng ngắc
quy định rằng “Nhân dân Trung Quốc gồm các giống dân khác nhau sẽ tiếp tục kiên
trì theo chế độ chuyên chính Dân chủ Nhân dân và đường lối Xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và sự dẫn lối của chủ nghĩa
Mácxít-Lêninít, tư tưởng của Mao Trạch Đông, lý luận của Đặng Tiểu Bình và tư
tưởng chủ yếu trong ‘Tam đại biểu’…”
“Con
báo đã chết, vẫn còn lưu lại bộ da” [1]. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ngày
nay chỉ còn lại “bộ da” của Đảng Cộng Sản. ĐCSTQ kế thừa bộ da này và dùng nó để
duy trì quyền thống trị của Đảng Cộng Sản.
Như vậy,
'bộ da' của Đảng Cộng Sản, tức là tổ chức của Đảng Cộng Sản mà Đảng Cộng Sản
Trung Quốc kế thừa, bản chất của nó là gì đây?
I. Các
đặc trưng của Tà giáo Đảng Cộng Sản
Bản chất
của Đảng Cộng Sản, kỳ thực là một tà giáo làm hại nhân loại
Mặc dù
Đảng Cộng Sản chưa bao giờ tự gọi mình là một tôn giáo nhưng nó có tất cả các sắc
thái của một tôn giáo. Xem Bảng 1. Khi mới bắt đầu thành lập, nó coi chủ nghĩa
Mác-xít là chân lý tuyệt đối trên thế giới. Nó sùng bái tôn thờ Marx như vị
thánh tinh thần của mình, và hô hào nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh suốt đời
với mục đích để xây dựng một “thiên đường nhân gian” của chủ nghĩa cộng sản.
Bảng
1. Các sắc thái tôn giáo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc:
Các
hình thức cơ bản của một tôn giáo
Các
hình thức tương ứng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
1.
Nhà thờ
hay giảng-đàn.
Tất cả
các cấp Đảng ủy; các diễn thuyết gồm từ các buổi họp Đảng cho đến các phương tiện
thông tin đều bị khống chế bởi Đảng Cộng Sản.
2.
Giáo
nghĩa.
Chủ
nghĩa Mácxít-Lêninnít, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận của Đặng Tiểu Bình và
tư tưởng ‘Tam Đại biểu’ của Giang Trạch Dân và Hiến chương của Đảng.
3.
Nghi
thức nhập giáo.
Buổi lễ
tuyên thệ trung thành vĩnh viễn với Đảng Cộng Sản
4.
Chuyên
nhất với một tôn giáo.
Đảng
viên phải tuyệt đối tin theo Đảng Cộng Sản.
5.
Giáo
sĩ, linh mục, thượng toạ, …
Các bí
thư và nhân viên phụ trách các công tác Đảng ở các cấp.
6.
Thờ Thần,
Phật, Thượng đế…
Chửi rủa
tất cả chư Thần và sau đó tự tôn mình làm một vị "Thần” vô danh.
7.
Chết
được gọi là “lên thiên đường hoặc xuống địa ngục”.
Chết
được gọi là “đi gặp Karl Marx”.
8.
Kinh
sách.
Lý
thuyết và các bài viết của các lãnh tụ Đảng.
9.
Giảng
đạo.
Các thể
loại họp hành và phát biểu của lãnh đạo.
10.
Đọc
kinh; học và trau dồi kinh sách.
Học
chính trị, họp nhóm thường kỳ hoặc các hoạt động của các đảng viên.
11.
Thánh
ca.
Các
bài hát ca ngợi Đảng.
12.
Tự
nguyện đóng chi phí.
Đảng
phí bắt buộc; phân bổ ngân sách nhà nước bắt buộc phải cho Đảng là tiền từ mồ
hôi và máu của dân.
13.
Giới
luật, kỷ luật.
Kỷ luật
Đảng bao gồm “quản thúc tại nhà”, điều tra, và “khai trừ khỏi Đảng” cho đến các
thủ đoạn tra tấn chết người và ngay cả trừng phạt người thân và bạn bè.
Đảng Cộng
Sản rất khác biệt với bất cứ chính giáo nào. Bởi vì các tôn giáo chính thống đều
tin vào Thần, tin vào từ bi, và lấy sự giáo hóa đạo đức con người và cứu rỗi
linh hồn người ta làm mục đích. Tuy nhiên Đảng Cộng Sản không tin vào thần
linh, mà còn đi ngược lại đạo đức truyền thống.
Những
việc Đảng Cộng Sản làm, đã chứng minh rằng nó là một tà giáo. Trung tâm cho các
giáo điều của Đảng Cộng Sản là đấu tranh giai cấp, cách mạng bạo lực và sự
chuyên chính của giai cấp vô sản, đã tạo ra cái gọi là “Cách mạng của Cộng Sản”
đầy tàn sát và bạo lực đẫm máu. Khủng bố nhuộm Đỏ dưới chính quyền của Đảng Cộng
sản đã kéo dài khoảng một thế kỷ, đem đến thảm họa cho hàng chục quốc gia trên
thế giới và cướp đi hàng chục triệu sinh mạng con người. Tín ngưỡng của Đảng cộng
sản mà đã tạo ra địa ngục nhân gian như thế thì thực ra là một tà giáo to lớn số
một của thế gian con người.
Từ các
đặc trưng của tà giáo Đảng Cộng Sản, chúng ta có thể tóm tắt chúng dưới sáu mục
như sau:
1. Sự
bịa đặt giáo điều -- tiêu diệt những người không giống mình
Đảng Cộng
Sản lấy chủ nghĩa Karl Marx làm giáo điều và khoe trương nó như là “chân lý
không thể phá vỡ.” Giáo điều của Đảng Cộng Sản thiếu nhân ái và khoan dung.
Thay vào đó, nó chứa đầy cuồng vọng tự cao tự đại. Chủ nghĩa Mác-xít là một sản
phẩm thời ban đầu của chủ nghĩa tư bản khi sự sản xuất thấp và khoa học vẫn còn
kém phát triển. Nó không có nhận thức chính đáng về mối quan hệ căn bản giữa
con người và xã hội, giữa con người và tự nhiên. Rủi thay, một tà thuyết dị
đoan như thế đã phát triển thành một phong trào cộng sản quốc tế và đã làm hại
thế gian con người hơn một thế kỷ, cho mãi đến khi bị chứng minh là hoàn toàn
sai lầm trong thực tiễn, rồi bị thế nhân ruồng bỏ.
Các
lãnh tụ Đảng từ thời Lê-nin đã liên tục thêm vào nội dung mới trong giáo điều của
tà giáo cộng sản. Từ lý luận cách mạng bạo lực của Lê-nin cho đến lý luận về
cách mạng liên tục dưới chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản của Mao Trạch
Đông, đến “Tam đại biểu” của Giang Trạch Dân, lịch sử của Đảng Cộng Sản đầy rẫy
những loại tà thuyết mà có lý luận sai lệch như thế. Mặc dù những tà thuyết này
đã liên tục gây ra những thảm họa trong thực tiễn và tự mâu thuẫn với nhau, Đảng
Cộng Sản vẫn tự cho rằng nó giải thích đúng và bắt buộc nhân dân phải học tà
thuyết của nó.
Tiêu
diệt những người mà khác với mình là thủ đoạn truyền giáo hữu hiệu nhất của tà
giáo cộng sản. Bởi vì giáo điều và hành vi của tà giáo cộng sản này cực kỳ sai
lầm, cho nên Đảng Cộng Sản chỉ dựa vào bạo lực để tiêu diệt những người khác với
mình thì mới có thể cưỡng ép người dân chấp nhận nó. Sau khi Đảng Cộng Sản
Trung Quốc (ĐCSTQ) chiếm đoạt chính quyền ở Trung Quốc, nó bắt đầu việc thực hiện
“cải cách ruộng đất” để tiêu diệt giai cấp địa chủ, “cải tạo chủ nghĩa xã hội”
trong công nghiệp và thương nghiệp để tiêu diệt các nhà tư bản, “phong trào
tiêu diệt phản động” để tiêu diệt những tôn giáo truyền thống và những nhân sĩ
trong chính quyền trước , “phong trào chống cánh Hữu” để bịt miệng những người
trí thức và “Đại Cách mạng Văn hóa” để tiêu diệt văn hóa truyền thống của Trung
Quốc. ĐCSTQ đã có thể thống nhất Trung Quốc dưới tà giáo cộng sản và đạt được một
tình thế mà tất cả mọi người phải đọc Sách Đỏ, nhảy “điệu trung thành”[2] và
“xin chỉ thị của Đảng buổi sáng và báo cáo lên Đảng vào buổi tối.” Vào thời kỳ
sau chế độ của Mao Trạch Đông và của Đặng Tiểu Bình, ĐCSTQ đánh giá rằng Pháp
Luân Công, một phương pháp tu luyện truyền thống tin vào “Chân, Thiện, và Nhẫn”
sẽ cạnh tranh với nó để thu hút quần chúng, và do đó có ý định tiêu diệt Pháp
Luân Công, vì vậy nó bắt đầu một cuộc đàn áp mang tính cách diệt tuyệt đối với
Pháp Luân Công cho đến tận bây giờ.
2.
Sùng bái Giáo chủ --- Chỉ có ta là nhất
Từ
Karl Marx đến Giang Trạch Dân, bức hình của các lãnh tụ Đảng cộng sản được treo
lên rõ ràng để cho người ta quỳ lạy. Quyền lực tuyệt đối của các lãnh tụ Đảng cộng
sản là không dung tha kẻ khiêu chiến. Mao Trạch Đông được dựng lên làm “mặt trời
đỏ” và là người “đại cứu tinh”. Đảng cộng sản tán dương một cách thái quá những
câu nói của Mao rằng là “một câu nêu cao bằng 10 ngàn câu bình thường”. Với tư
cách là một “đảng viên phổ thông”, Đặng Tiểu Bình đã từng làm chúa tể nền chính
trị Trung Quốc dưới hình thức 'thái thượng hoàng'. Lý thuyết “Tam đại biểu” của
Giang Trạch Dân chỉ dài có hơn 40 chữ một chút bao gồm cả dấu chấm, nhưng Đại hội
kỳ 4 của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã thổi phồng lên là “đem đến câu trả
lời sáng tạo cho những vấn đề như chủ nghĩa xã hội là gì, làm thế nào để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chúng ta xây dựng loại Đảng nào và xây dựng Đảng như thế
nào.” ĐCSTQ cũng tán dương thái quá về tư tưởng của “Tam đại biểu”, mặc
dù khi nói rằng nó là sự tiếp nối và phát triển của chủ nghĩa Marxít-Leninnít,
tư tưởng Mao Trạch Đông và lý luận Đặng Tiểu Bình thì thực ra là chế nhạo nó.
Việc
giết người vô tội một cách vô nhân đạo của Stalin, tai kiếp từ phong trào
“Đại Cách mạng Văn hóa” của Mao Trạch Đông, lệnh thảm sát Thiên An Môn của Đặng
Tiểu Bình và cuộc đàn áp Pháp Luân Công vẫn đang tiếp diễn của Giang Trạch Dân
là những kết quả tàn ác của loại giáo chủ độc tài này.
Một mặt,
Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong Hiến Pháp quy định rằng, “Tất cả
quyền lực trong Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa thuộc về nhân dân. Các cơ quan
mà nhân dân thi hành quyền lực quốc gia là Quốc hội đại diện nhân dân và các Hội
đồng địa phương các cấp”. “Không một tổ chức hay cá nhân nào có đặc quyền vượt
trên Hiến pháp và pháp luật”[3]. Nhưng mặt khác, trong "Đảng chương"
của ĐCSTQ quy định rằng ĐCSTQ là "trung tâm lãnh đạo cho sự nghiệp của xã
hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc", làm cho Đảng vượt trên cả quốc gia
và nhân dân. Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội có “những bài phát biểu quan trọng”
trên khắp cả nước nói rằng Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia,
phải tuân theo "sự kiên trì lãnh đạo của Đảng". Theo nguyên tắc của
“chế độ tập trung dân chủ” của ĐCSTQ, toàn Đảng phải phục tùng Ban chấp hành
Trung ương Đảng. Nói thực ra, điều mà Quốc hội thực sự nhấn mạnh là "sự độc
tài của Tổng bí thư", mà dùng hình thức luật pháp để bảo vệ "sự
độc tài của Tổng bí thư".
3. Tẩy
não bằng bạo lực, khống chế tinh thần, tổ chức nghiêm ngặt, và có thể vào Đảng
nhưng không thể ra khỏi Đảng
Tổ chức
của Đảng cộng sản rất là nghiêm ngặt: người ta phải có giới thiệu của 2 đảng
viên trước khi được nhận vào Đảng; vào Đảng phải thề trung thành vĩnh viễn với
Đảng ; đảng viên phải đóng đảng phí, phải tham dự các hoạt động của tổ chức, và
tham gia học chính trị tập thể. Các tổ chức của Đảng thâm nhập tất cả các cấp
chính quyền. Tổ chức cơ tầng của Đảng có mặt ở mỗi một làng, thị trấn, chỗ láng
giềng… Đảng cộng sản khống chế không chỉ các đảng viên và các công tác của Đảng
mà cả những dân chúng không phải là đảng viên bởi vì toàn bộ chính quyền phải
“kiên trì theo sự lãnh đạo của Đảng”. Tuy nhiên trong những năm, khi các chiến
dịch đấu tranh giai cấp đang diễn ra, các “thần giao”(người giảng bài) của giáo
hội Đảng cộng sản, gọi là các "bí thư Đảng" trong tổ chức ở mọi cấp,
thường là không biết làm gì khác hơn ngoài việc ép người ta theo kỷ luật.
“Phê
bình và tự phê bình mình” trong các buổi sinh hoạt của Đảng là một loại thủ đoạn
phổ biến và trường kỳ để khống chế tinh thần của đảng viên. Trong lịch sử, Đảng
Cộng Sản đã phát động nhiều lần các phong trào chính trị để "thanh lọc đảng
viên", “chỉnh đốn không khí trong Đảng”, “bắt kẻ phản bội”, “giết 'tập
đoàn chống Bolshevik' (AB Đoàn) và “chỉnh đốn Đảng”, thỉnh thoảng lợi dụng khủng
bố bằng bạo lực để bồi dưỡng "Đảng tính” của các đảng viên, khiến cho họ
phải trung thành mãi mãi với Đảng.
Gia nhập
Đảng cộng sản như là ký một hợp đồng bán thân xác và linh hồn mà không thể hủy
bỏ. Gia pháp của Đảng luôn luôn ở trên luật pháp của quốc gia, Đảng có thể khai
trừ cá nhân đảng viên, trong khi các đảng viên không thể thoát ly khỏi Đảng cộng
sản mà không bị trừng phạt nghiêm trọng. Nếu như thoái Đảng thì bị coi là kẻ phản
bội và sẽ đưa đến những hậu quả tệ hại. Trong thời kỳ Cách Mạng dưới sự thống
trị tuyệt đối của tà giáo Đảng cộng sản, nếu Đảng muốn người nào chết thì người
đó không thể sống, nếu Đảng muốn người nào sống thì người đó không thể chết. Nếu
như tự sát thì người đó sẽ bị dán cái nhãn hiệu là “sợ bị nhân dân trừng phạt
vì tội lỗi của mình” và người nhà của họ cũng sẽ bị liên lụy và bị trừng phạt.
Quyết
định sách lược bên trong Đảng hoạt động như một cái hộp đen và đấu tranh trong
nội bộ Đảng phải tuyệt đối giữ bí mật. Tất cả các tài liệu của Đảng đều là văn
kiện cơ mật. Làm chuyện xấu thì sợ nhất bị vạch trần, cho nên Đảng cộng sản thường
xuyên xử lý những người khác với mình bằng cách gán cho họ tội danh “tiết lộ cơ
mật quốc gia”.
4. Xúi
giục bạo lực, tôn sùng máu tanh, và khích lệ hy sinh cho tà giáo Cộng Sản
Mao Trạch
Đông nói: “Cách mạng không phải là một bữa tiệc buổi tối, hoặc viết một bài
văn, hoặc vẽ một bức tranh, hoặc là làm công việc thêu thùa; nó không thể tao
nhã như vậy, nhẹ nhàng và nhàn hạ như vậy, ôn hòa, tử tế, lịch thiệp, cần kiệm
và nhượng bộ như vậy. Cách mạng là bạo lực, là hành động bạo lực mãnh liệt của
một giai cấp dùng để lật đổ một giai cấp khác.”[4]
Đặng
Tiểu Bình nói: “Giết chết 200 ngàn người để đổi lấy 20 năm ổn định”.
Giang
Trạch Dân ra lệnh: “Tiêu diệt thân xác (các học viên Pháp Luân Công), bôi nhọ
thanh danh, vắt kiệt tài chính.”
Đảng cộng
sản xúi giục bạo lực và đã giết vô số người trong lịch sử các lần vận động
chính trị trước kia của nó. Nó giáo dục người dân đối xử "với kẻ thù phải
lạnh lẽo vô tình”. Lá cờ đỏ được hiểu là màu đỏ tượng trưng cho “máu tươi của
những liệt sĩ.” Đảng cộng sản sùng bái màu đỏ, trên thực tế là nó sùng bái máu
tươi.
Đảng cộng
sản trưng bày những ví dụ "anh hùng" để khuyến khích người ta hy sinh
cho Đảng. Khi Trương Tư Đức chết trong lúc đang làm việc tại lò sản xuất thuốc
phiện, Mao Trạch Đông đã ca ngợi cái chết của anh ta là “nặng như Núi Thái sơn
[5].” Trong những năm điên cuồng đó, những lời như “Một không sợ khổ, hai không
sợ chết” và “Vì có hy sinh mạnh mẽ quyết tâm bao nhiêu, nên chúng ta dám làm mặt
trời và mặt trăng chiếu sáng những khung trời mới” chứa đầy cuồng vọng, và thiếu
thốn trầm trọng về vật chất.
Vào cuối
thập niên 70, Việt Cộng mang quân đi lật đổ chính quyền Khờ me Đỏ mà Đảng cộng
sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ủng hộ, gây ra các tội ác tầy trời. Mặc dù ĐCSTQ rất tức
giận nhưng không thể đưa quân đến hỗ trợ Khờ me Đỏ bởi vì Trung Quốc và
Cam-pu-chia không có chung đường biên giới. Thay vào đó, ĐCSTQ bắt đầu một cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam dọc theo biên giới Trung-Việt để trừng phạt Việt
Cộng dưới chiêu bài “tự vệ”. Hàng chục ngàn lính Trung Quốc vì đó đã hy sinh cả
máu và mạng sống cho cuộc chiến tranh giữa các Đảng cộng sản. Cái chết của họ
thực ra không liên quan gì đến lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Tuy vậy vài năm
sau, ĐCSTQ trâng tráo gợi nhớ lại sự hy sinh vô nghĩa của bao nhiêu sanh mạng
trẻ tươi sáng khờ dại mà làm thành “tinh thần anh hùng cách mạng”, mượn từ bài
hát “cử chỉ đẹp đẽ nhuộm máu”. Mặc dù 154 binh sĩ Trung Hoa đã chết năm 1981
trong khi chiếm lại núi Pháp Ca ở tỉnh Quảng Tây, ĐCSTQ đã tùy tiện trả nó lại
cho Việt Nam sau khi hai bên phân chia lại biên giới.
Khi sự
lan rộng hoành hành của bệnh dịch SARS đã đe dọa tánh mạng người dân vào đầu
năm 2003, ĐCSTQ sẵn sàng nhận vào các nữ y tá trẻ. Sau đó những phụ nữ này
nhanh chóng bị ép ở trong bệnh viện để chăm sóc các bệnh nhân SARS. ĐCSTQ đã đẩy
những người trẻ tuổi vào nơi tiền tuyến nguy hiểm nhất để tạo dựng “hình ảnh
vinh quang” trong khẩu hiệu “không sợ gian khổ , không sợ cái chết” của Đảng cộng
sản. Tuy nhiên những người còn lại trong số 65 triệu đảng viên hiện có thì đang
ở đâu và đã đem lại hình ảnh như thế nào cho Đảng, thì ĐCSTQ không có lời giải
thích.
5. Phủ
nhận đức tin vào thần thánh và bóp chết nhân tính
Đảng cộng
sản tuyên truyền lý luận vô Thần, nói rằng tôn giáo là “thuốc phiện tinh thần”
có thể đầu độc người dân. Nó dùng quyền lực của nó để tiêu diệt hoặc đè bẹp tất
cả các tôn giáo ở Trung Quốc, và sau đó thần thánh hóa chính mình, thực hiện sự
thống trị tuyệt đối của tà giáo Cộng Sản.
Cùng
lúc với việc Đảng cộng sản đàn áp tôn giáo, nó cũng phá hoại văn hóa truyền thống.
Nó nói rằng truyền thống, đạo đức và luân lý là phong kiến, mê tín và phản động,
rồi dùng danh nghĩa cách mạng để diệt trừ tất cả. Trong thời kỳ Đại Cách mạng
Văn hóa, xuất hiện các hiện tượng xấu tràn lan đi ngược lại truyền thống Trung
Quốc, như vợ chồng tố cáo lẫn nhau, học trò đánh đập thầy cô, cha con thành thù
địch với nhau, Hồng vệ binh giết bừa bãi những người vô tội, và quân nổi loạn
đánh đập, đập phá và cướp bóc. Đây chính là kết quả sự việc bóp chết nhân tính
của ĐCSTQ.
Sau
khi thành lập chế độ, ĐCSTQ đã cưỡng bức các dân tộc thiểu số phải theo sự lãnh
đạo của cộng sản, làm tổn hại đến nền văn hóa dân tộc mà họ đã tạo dựng rất
phong phú và đầy màu sắc.
Ngày
4/6/1989, cái gọi là “Quân đội Giải phóng của Nhân dân” đã thảm sát rất nhiều
sinh viên ở Bắc Kinh. Việc này đã làm cho người dân Trung Quốc hoàn toàn mất hy
vọng vào tương lai chính trị của Trung Quốc. Từ đó trở đi, toàn thể dân chúng tập
trung vào việc kiếm tiền. Từ năm 1999 cho đến nay, ĐCSTQ đã đàn áp tàn khốc
Pháp Luân Công, và đi ngược lại với “Chân, Thiện và Nhẫn” , vì vậy tăng thêm sự
suy đồi nhanh chóng về chuẩn mực đạo đức.
Từ đầu
thế kỷ này, một chiến dịch chia đất[6], chiếm giữ tiền bạc và tài nguyên vật chất
một cách bất hợp pháp của các viên chức chính quyền tham nhũng mà thông đồng với
kẻ kiếm lợi đã làm cho rất nhiều người dân trở thành bần cùng và vô gia cư. Số
người kháng cáo lên chính quyền để đòi hỏi giải quyết bất công, đã tăng lên rất
cao, và mâu thuẫn xã hội cũng phát triển mạnh mẽ. Các cuộc phản kháng trên diện
rộng diễn ra thường xuyên, và đã bị cảnh sát và quân đội đàn áp dã man. Bản chất
phát-xít của “nuớc Cộng hòa” đã trở nên rõ rệt, và xã hội lại càng mất đi chuẩn
mực đạo đức.
Trước
kia, một kẻ ác không bao giờ làm hại hàng xóm láng giềng, hoặc như câu nói
"cáo chỉ săn mồi xa nhà". Bây giờ, khi người ta muốn lừa gạt người
nào, họ càng muốn nhắm vào họ hàng và bạn bè của chính mình và gọi đó là “giết
người quen thuộc”.
Trong
quá khứ, người dân Trung Quốc quý trọng chữ trinh tiết lên hàng đầu, còn ngày
nay người ta khinh người nghèo, chứ không khinh kẻ bán dâm. Lịch sử phá hoại
nhân tính và đạo đức của dân tộc Trung Hoa được mô tả sống động trong các câu
sau:
“Trong
thập niên 50 người ta giúp đỡ nhau,
Trong
thập niên 60 người ta chỉnh lý nhau,
Trong
thập niên 70 người ta lừa đảo lẫn nhau,
Trong
thập niên 80 người ta chỉ lo cho chính mình,
Trong
thập niên 90 người ta lợi dụng bất kể ai mà họ gặp”.
6.
Dùng quân đội để chiếm quyền lực, độc quyền hóa nền kinh tế và các tham vọng
điên cuồng về chính trị và kinh tế
Tôn chỉ
thành lập của Đảng cộng sản là cướp chính quyền bằng bạo lực và sau đó tạo ra một
hệ thống quốc doanh trong đó nhà nước nắm giữ độc quyền nền kinh tế thiết kế.
Tham vọng điên cuồng của Đảng cộng sản vượt xa các tà giáo thông thường khác là
họ chỉ có mục đích gom tiền.
Trong
một quốc gia với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản thống trị,
các tổ chức của Đảng mà quyền lực rất lớn (có nghĩa là các Đảng ủy và các chi bộ
Đảng ở mọi cấp) nắm quyền hoặc sở hữu các cơ cấu thông thường của quốc gia. Các
tổ chức "phụ thể Đảng" khống chế bộ máy quốc gia, và rút tiền trực tiếp
từ ngân sách chính phủ ở các cấp khác nhau. Đảng cộng sản như một con quỷ hút
máu, không hiểu đã hút biết bao nhiêu của cải xã hội của quốc gia.
II. Những
nguy hại mà tà giáo Đảng Cộng Sản gây ra
Khi những
sự việc như giết người bằng khí độc hủy hoại thần kinh 'sarin' của giáo phái
Aum Shinri Kyo, tự sát để lên thiên đường của giáo phái " Thái
Dương", hoặc vụ tự sát tập thể của hơn 900 người theo giáo phái “Nhân dân”
do Jim Jones lập ra được nhắc đến, tất cả mọi người run lên vì sợ và căm phẫn.
Nhưng Đảng cộng sản là một tà giáo với tội ác rùng rợn hơn hàng ngàn lần, làm hại
tính mạng của không biết bao nhiêu người. Điều này là bởi vì Đảng cộng sản có
những chỗ độc đáo sau đây mà một tà giáo bình thường không có:
Tà
giáo Đảng Cộng Sản được quốc giáo hóa
Trong
một quốc gia bình thường, nếu quý vị không tin theo một tôn giáo nào đó thì quý
vị vẫn có thể sống vui vẻ mà không phải đọc sách hay nghe những lý luận của tôn
giáo đó. Tuy nhiên sinh sống ở Trung Hoa Đại Lục, quý vị không thể không học tập
thường xuyên những giáo điều của tà giáo Đảng cộng sản, không thể không nghe tà
giáo tuyên truyền, bởi vì chính quyền cướp đoạt của Đảng cộng sản đã biến tà
giáo Cộng Sản thành quốc giáo rồi.
Đảng cộng
sản nhồi nhét những thuyết giáo chính trị của nó vào đầu ngay từ khi bắt đầu mẫu
giáo và trường tiểu học. Người ta không được học cao hơn hay được thăng chức mà
không thi đậu kỳ thi chính trị. Không một câu hỏi nào trong kỳ thi chính trị
cho phép học sinh được suy nghĩ độc lập. Thí sinh ép buộc phải ghi nhớ câu trả
lời mẫu của Đảng cộng sản thì mới có thể thi đậu. Những người dân Trung Quốc
đáng thương kia bị bắt buộc phải nhắc lại những thuyết giáo của Đảng cộng sản từ
khi còn nhỏ, phải tự tẩy não chính mình lần này tới lần khác. Khi một cán bộ được
thăng chức trong chính quyền, bất kể người đó là đảng viên Cộng sản Trung Quốc
hay không, họ bắt buộc phải theo học trường Đảng. Người đó sẽ không được thăng
chức nếu không hội đủ điều kiện tốt nghiệp của trường Đảng.
Ở
Trung Quốc, nơi Đảng cộng sản là quốc giáo, các đoàn thể khác ý kiến không được
dung tha. Ngay cả các “đảng phái dân chủ” được dựng lên bởi Đảng cộng sản để
làm bình phong chính trị, và giáo hội bị cải tạo “TamTự” (có nghĩa là tự quản,
tự lực và tự phát triển) cũng phải chính thức tiếp nhận sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản. Trung thành với Đảng cộng sản là điều kiện đầu tiên trước khi muốn theo bất
cứ tín ngưỡng nào, đây là lối suy nghĩ của tà giáo Đảng cộng sản.
Khống
chế xã hội một cách cực đoan
Cơ sở
tà giáo này có thể trở thành quốc giáo là vì Đảng cộng sản khống chế nhân dân
và cướp đi quyền tự do của con người. Loại khống chế này là vô tiền khoáng hậu,
bởi vì Đảng cộng sản đã cướp đoạt quyền tư hữu tài sản của người dân, mà quyền
tư hữu tài sản là nền tảng của tự do. Trước thập niên 80, người dân thành thị
chỉ có thể kiếm sống bằng cách làm việc trong các doanh nghiệp Đảng cộng sản khống
chế. Nông dân ở nông thôn phải sống dựa vào đất ruộng thuộc công xã nông nghiệp
của Đảng. Không ai có thể thoát khỏi sự khống chế của Đảng cộng sản. Trong một
quốc gia theo chủ nghĩa xã hội như Trung Quốc, các tổ chức của Đảng cộng sản có
mặt ở khắp nơi – từ chính quyền trung ương cho đến các đơn vị xã hội nhỏ nhất
bao gồm cả làng, xã và láng giềng. Thông qua các Đảng uỷ, các chi bộ, các tổ chức
của Đảng ở mọi cấp, Đảng cộng sản khống chế xã hội thật vững chắc. Kết quả của
sự khống chế nghiêm ngặt như vậy đã hoàn toàn bóp nghẹt quyền tự do cá nhân –
quyền tự do đi lại (hệ thống đăng ký hộ tịch), quyền tự do ngôn luận (500 ngàn
người thuộc cánh Hữu bị đàn áp bởi ĐCSTQ vì họ thực thi quyền tự do ngôn luận),
quyền tự do tư tưởng (Lâm Chiêu[7] và Trương Chí Tân[8] bị tử hình vì nghi ngờ
ĐCSTQ) và quyền tự do về thông tin (đọc sách cấm hoặc nghe đài “địch” là bất hợp
pháp; xem Internet cũng bị theo dõi).
Người
ta có thể nói rằng hiện nay Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã cho phép chế độ
tư hữu nhưng chúng ta không nên quên rằng chính sách cải cách khai phóng này chỉ
được đưa ra khi chủ nghĩa xã hội đi đến mức mà người dân đã không còn đủ ăn và
nền kinh tế của quốc gia đang bên bờ sụp đổ. Đảng cộng sản phải lùi một bước để
tự cứu mình khỏi bị diệt vong. Tuy nhiên, ngay cả sau khi cải cách và khai
phóng, ĐCSTQ chưa bao giờ nới lỏng việc khống chế người dân. Cuộc đàn áp tàn khốc
đối với các học viên Pháp Luân Công đang diễn ra chỉ có thể xảy ra ở một quốc
gia bị thống trị bởi Đảng cộng sản. Nếu như ĐCSTQ thực sự trở thành một
thế lực kinh tế to lớn như ý nguyện của nó, điều có thể chắc chắn là sự khống
chế nhân dân của Đảng cộng sản chỉ có tăng gia càng ngày càng mạnh.
Tôn
sùng bạo lực và coi thường mạng sống
Gần
như tất cả các tà giáo khống chế tín đồ hoặc chống lại áp lực bên ngoài, đều
dùng bạo lực. Tuy nhiên, rất ít tà giáo đã từng sử dụng đến những thủ đoạn bạo
lực tới mức độ như Đảng cộng sản đã từng làm một cách không hối hận. Ngay cả tổng
số người chết vì tất cả các tà giáo khác trên thế giới cũng không thể so sánh
được với số người bị tà giáo Đảng cộng sản giết hại. Theo cái nhìn của tà giáo
Đảng cộng sản, thì con người chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích, và giết
người cũng chỉ là một thủ đoạn. Do đó, Đảng cộng sản không đắn đo ngần ngại gì
trong việc đàn áp người dân. Bất cứ người nào, kể cả những người ủng hộ, đảng
viên và người lãnh đạo của Đảng đều có thể trở thành đối tượng của sự đàn áp.
Đảng cộng
sản Trung Quốc(ĐCSTQ) ủng hộ Khờ me Đỏ, một trường hợp điển hình cho sự tàn bạo
và coi rẻ nhân mạng của tà giáo cộng sản. Trong vòng 3 năm 8 tháng cầm quyền, Đảng
Cộng sản Campuchia do Pol Pot cầm đầu, cảm hứng bởi tư tưởng của Mao Trạch Đông,
đã giết chết 2 triệu người – khoảng một phần tư dân số của quốc gia nhỏ bé này
– nhằm “tiêu diệt chế độ tư hữu”. Trong tổng số người chết, hơn 200 ngàn người
thuộc gốc Hoa.
Để ghi
lại những tội ác của Đảng Cộng sản và tưởng niệm các nạn nhân, Cam-pu-chia đã
thành lập một viện bảo tàng để ghi lại và trưng bày sự tàn bạo của Khờ me Đỏ.
Viện bảo tàng này được đặt tại một nhà tù cũ của Khờ me Đỏ. Đầu tiên đó là một
trường học do Pol Pot dùng làm Nhà tù S-21 để đối phó đặc biệt với các tù nhân
bất khuất. Rất nhiều người trí thức đã bị giam cầm ở đó và bị tra tấn đến chết.
Trưng bày dọc theo các bức tường nhà tù và các loại dụng cụ tra tấn là các bức ảnh
đen trắng của những nạn nhân trước khi họ bị giết chết. Có rất nhiều cách tra tấn
tàn khốc đã được ghi lại như cắt cổ, khoan sọ, trẻ em bị ném xuống đất và bị giết
chết v.v… Được biết là tất cả các lối tra tấn này đều được các “chuyên gia và kỹ
thuật viên chuyên nghiệp” do ĐCSTQ gửi đến để hỗ trợ Khờ me Đỏ truyền dạy.
ĐCSTQ ngay cả còn đào tạo những người chụp hình để chuyên chụp hình các tù nhân
trước khi họ bị giết chết để lưu lại làm tài liệu hoặc là để giải trí.
Chính
tại nhà tù S-21 này, một chiếc máy khoan đầu người đã được đặc chế để lấy óc
người làm thức ăn bổ dưỡng cho các người lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia. Những
tù nhân bất khuất bị trói vào một chiếc ghế đặt trước máy khoan đầu người. Nạn
nhân sẽ phải chịu nỗi sợ hãi cùng cực khi chiếc mũi khoan quay nhanh chọc thủng
đầu từ phía đằng sau và lấy óc ra một cách mau lẹ và hiệu lực trước khi nạn nhân
chết.
III. Bản
chất tà giáo của Đảng Cộng sản
Điều
gì đã khiến cho Đảng Cộng sản tàn bạo như vậy, và tà ác như vậy? Khi âm hồn của
Đảng Cộng sản đến thế giới này, nó mang theo một sứ mạng đáng sợ. Bản Tuyên
ngôncủa Đảng Cộng sản phần cuối cùng có một đoạn rất nổi tiếng là:
"
Người Cộng sản chẳng thèm che đậy quan điểm và ý đồ của bọn họ. Họ công khai
tuyên bố rằng các mục đích của bọn họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực
để lật đổ toàn bộ chế độ xã hội hiện tại. Hãy để cho giai cấp thống trị run sợ
vì cách mạng của chủ nghĩa cộng sản. Trong cách mạng này, những người vô sản
không có gì để mất ngoài xiềng xích của mình. Họ có cả thế giới để chinh phục."
Sứ mạng
của âm hồn này là dùng bạo lực để công khai khiêu chiến xã hội loài người, để đập
nát thế giới cũ, để “tiêu diệt chế độ tư hữu”, “tiêu diệt cá tính, tính độc lập
và tự do của các nhà tư bản”, tiêu diệt sự bóc lột, tiêu diệt gia đình, và để
những người vô sản thống trị thế giới.
Đảng
phái chính trị này, mà công khai tuyên bố ước muốn “đánh đập, đập phá và cướp
bóc”của nó, không những không thừa nhận quan điểm tà ác của chính mình mà còn tự
tuyên cáo trong Bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng “Cách mạng của chủ nghĩa
cộng sản là cùng phá tan sự thực hành mối quan hệ truyền thống một cách triệt để
nhất; không ngạc nhiên rằng trong tiến trình phát triển của chính nó phải cùng
dứt bỏ khỏi sự thực hành quan niệm truyền thống một cách triệt để nhất.”
Các
quan niệm truyền thống của xã hội là từ đâu đến? Chiếu theo luật tự nhiên của
lý luận vô Thần mà nói, các quan niệm truyền thống là điều tất nhiên giữa qui
luật tự nhiên với qui luật xã hội. Chúng là kết quả của qui luật vận động của
vũ trụ. Tuy nhiên, chiếu theo quan điểm hữu Thần mà nói, truyền thống và luân
lý đạo đức của nhân loại là do thần thánh truyền cho con người. Bất kể là đến
như thế nào, luân lý đạo đức căn bản nhất của con nqười, khuôn mẫu quy định
hành vi, và tiêu chuẩn Thiện Ác đều tương đối có tính chất không biến đổi ; là
nền tảng cho cách cư xử của loài người và để duy trì trật tự xã hội trong hàng
ngàn năm qua. Nếu nhân loại không có các khuôn mẫu quy định đạo đức và chuẩn mực
Thiện và Ác, thì chẳng phải con người sẽ thoái hóa trở thành con vật hay sao?
Khi bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản tuyên bố rằng nó sẽ “dứt bỏ tận gốc sự thực
hành các quan niệm truyền thống”, nó đã đe dọa đến nền tảng của sự tồn tại bình
thường trong xã hội nhân loại, Đảng cộng sản chủ định là một tà giáo phá hoại
nhân loại.
Toàn bộ
văn kiện của bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, mà đặt ra các nguyên tắc chỉ đạo
cho Đảng cộng sản, tràn đầy những tuyên bố cực đoan, không một chút nhân ái và
khoan dung nào cả. Marx và Engels nghĩ rằng họ đã tìm ra quy luật phát triển xã
hội thông qua chủ nghĩa duy vật. Do đó, với “chân lý” trong tay, họ đặt câu hỏi
cho tất cả và phủ nhận tất cả. Họ khăng khăng áp đặt ảo tưởng chủ nghĩa Cộng sản
lên con người và không ngần ngại chủ trương dùng bạo lực để huỷ diệt các cấu
trúc xã hội và nền tảng văn hóa hiện có. Bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
có hiệu quả là tiêm nhiễm vào Đảng Cộng sản mới sinh, một tà linh mà phản
lại Trời Đất, hủy diệt nhân tính, cuồng vọng tự cao tự đại, cực kỳ ích kỷ và
hoàn toàn hành động theo dục vọng.
IV. Lý
thuyết về ngày tận thế của Đảng Cộng Sản – Nỗi lo sợ về ngày "Đảng bị diệt
mất"
Marx
và Engels đã tiêm nhiễm một tà linh vào Đảng Cộng sản. Lenin thành lập Đảng Cộng
sản ở Nga, và thông qua bạo lực của những kẻ vô lại, ông ta đã lật đổ chính phủ
chuyển tiếp được thành lập sau Cách mạng tháng Hai[9], rồi bóp chết cách mạng
giai cấp tư sản ở Nga, cướp đoạt chính quyền, và chiếm được một chỗ đứng cho tà
giáo Cộng sản ở thế gới con người. Tuy nhiên, sự thành công cách mạng của
Lê-nin đã không giúp được những người vô sản chinh phục thế giới. Mà trái lại,
như trong đoạn đầu của bảnTuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói, “Tất cả mọi quyền lực
của cựu Âu châu đã vào tay một liên minh thần thánh để xua đuổi âm hồn này…”
Sau khi sinh ra, Đảng Cộng sản đã lập tức phải đối mặt với nguy cơ về sự
sinh tồn của nó và lo sợ bị diệt trừ bất cứ lúc nào.
Sau
Cách mạng tháng Mười[10], bọn Cộng sản Nga hay còn gọi là bọn Bôn-sê-vích, đã
không đem lại hòa bình hay bánh mì cho người dân, mà chỉ có giết người bừa bãi.
Tiền tuyến thì đang thua trận còn sự khó khăn của kinh tế hậu phương thì càng
vì cuộc cách mạng mà trở nên tồi tệ thêm. Do đó, dân chúng bắt đầu nổi dậy. Nội
chiến lan nhanh ra toàn bộ đất nước và nông dân từ chối cung cấp lương thực cho
các thành phố. Bạo loạn xảy ra ở khắp nơi, khởi đầu giữa những người Cossacks ở
gần sông Don; cuộc chiến của họ với Hồng quân đã gây ra đổ máu tàn khốc. Bản chất
man rợ và tàn khốc của cuộc tàn sát xảy ra trong cuộc chiến này có thể được
nhìn thấy qua các tác phẩm văn học như “Sông Đông êm đềm” của Sholokhov và các
tuyển tập truyện Sông Don khác của ông. Đội quân do nguyên đô đốc của Bạch quân
Aleksandr Vailiyevich Kolchak và tướng Anton Denikin cầm đầu có lúc gần như đã
lật đổ Đảng Cộng sản Nga. Ngay cả khi còn là một chính quyền sơ sinh, Đảng Cộng
sản đã kích động sự phản đối của hầu hết toàn bộ dân chúng, có thể bởi vì tà
giáo cộng sản quá tà ác nên không thể đạt được lòng dân.
Cảnh
ngộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) cũng tương tự như Đảng Cộng sản Nga. Từ
“Sự kiện Mari” và “Vụ thảm sát ngày 12 tháng Tư”[11], cho đến việc bị trấn áp
năm lần ở những khu vực do cộng sản Trung Quốc kiểm soát, và cuối cùng là việc
bị bắt buộc phải thực hiện một cuộc “trường chinh” dài 25 ngàn cây số - ĐCSTQ
đã luôn luôn phải đối mặt với nguy cơ bị tiêu diệt.
Đảng Cộng
sản được thành lập với một quyết tâm phá hủy thế giới cũ bằng tất cả mọi thủ đoạn.
Sau đó chính nó đã phải đối mặt với một vấn đề hiện thực: làm sao tiếp tục sinh
tồn mà không bị tiêu diệt. Như vậy Đảng Cộng sản phải sống trong một hoàn
cảnh luôn luôn lo sợ bị tiêu diệt. Sinh tồn đã trở thành mối lo ngại hàng đầu,
luôn luôn ám ảnh tà giáo Đảng cộng sản. Dưới tình huống mà Liên minh Cộng sản
Quốc tế toàn bộ tan rã, nguy cơ sống còn của Đảng cộng sản Trung Quốc càng thêm
nghiêm trọng. Từ năm 1989, lý luận về kiếp nạn "Đảng bị diệt vong"
càng ngày càng trở nên hiện thực .
V. Vũ
khí bửu bối cho sự sống còn của Tà giáo Cộng sản – Đấu tranh tàn bạo
Đảng Cộng
sản luôn luôn nhấn mạnh kỷ luật sắt thép, trung thành tuyệt đối và các nguyên tắc
của tổ chức. Đảng viên của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) khi gia nhập
Đảng bắt buộc phải tuyên thệ:
“Tôi
muốn gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, ủng hộ cương lĩnh của Đảng, tuân theo
điều lệ của Đảng, hoàn thành các nghĩa vụ của đảng viên, thi hành các quyết định
của Đảng, nghiêm chỉnh tuân theo các kỷ luật của Đảng, giữ gìn các bí mật của Đảng,
trung thành với Đảng, làm việc chăm chỉ, cống hiến toàn bộ cuộc đời mình cho chủ
nghĩa Cộng sản, sẵn sàng hy sinh tất cả cho Đảng và nhân dân, và không bao giờ
phản bội Đảng.”[12]
Đảng cộng
sản gọi loại tinh thần hiến thân này khi gia nhập giáo phái là “Đảng
tính”. Nó yêu cầu một đảng viên cộng sản phải sẵn sàng vứt bỏ tất cả niềm tin
và nguyên tắc cá nhân bất cứ lúc nào để tuyệt đối phục tùng ý muốn của Đảng và
ý muốn của người lãnh đạo. Nếu Đảng muốn quý vị làm người tốt thì quý vị làm
người tốt; nếu muốn làm chuyện ác thì quý vị làm chuyện ác. Nếu không làm thì
không đạt tiêu chuẩn của đảng viên, và không biểu hiện Đảng tính được mạnh mẽ.
Mao Trạch
Đông nói, “Triết học của chủ nghĩa Marx là triết học đấu tranh”. Để nuôi dưỡng
và duy trì Đảng tính, Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) dựa vào cơ chế đấu tranh
có tính cách chu kỳ bên trong Đảng. Thông qua việc phát động liên tục các cuộc
đấu tranh tàn khốc ở trong và ngoài Đảng, một mặt Đảng cộng sản tiêu diệt những
người không giống nó, tạo ra sự khủng bố đầy màu đỏ, mặt khác Đảng liên tục
khai trừ đảng viên, làm cho các nội quy luật lệ của tà giáo cộng sản chặt chẽ
hơn, và bồi dưỡng Đảng tính của đảng viên, để tăng cường sức lực chiến đấu cho
các tổ chức Đảng. Điều này trở thành một vũ khí bửu bối mà Đảng cộng sản dùng để
bảo trì sự sống còn của nó.
Trong
số các lãnh tụ của ĐCSTQ, Mao Trạch Đông là người lão luyện nhất trong việc
dùng thứ vũ khí bửu bối này cho các cuộc đấu tranh tàn bạo trong Đảng. Thủ đoạn
tàn bạo của cuộc đấu tranh như thế và sự độc ác của các phương thức nó dùng đã
bắt đầu từ những năm 1930 trong những khu vực do Cộng sản Trung Quốc khống chế,
gọi là “Khu vực Sô-viết”.
Năm
1930, Mao Trạch Đông khởi xướng một cuộc khủng bố cách mạng toàn diện trong Khu
vực Sô viết ở tỉnh Giang Tây, được biết đến như một cuộc truy quét những người
thuộc đoàn thể chống Bôn-sê-vích (Anti-Bolshevik Corps, gọi là đoàn AB). Hàng
ngàn lính Hồng quân, Đảng viên và Đoàn viên và thường dân ở trong những căn cứ
Cộng sản đã bị giết chết một cách dã man. Sự kiện đó xảy ra là do sự khống chế
độc tài của Mao. Sau khi Mao thành lập Khu vực Sô viết ở Giang Tây, không lâu
sau đó ông ta đã bị thách thức bởi các tổ chức Đảng và Hồng quân địa phương ở
khu vực tây nam tỉnh Giang Tây do Lý Văn Lâm cầm đầu. Mao không thể chấp nhận bất
cứ một lực lượng đối lập có tổ chúc nào ở ngay trước mũi, nên ông ta đã dùng
các thủ đoạn cực đoan nhất để đàn áp các đồng chí trong Đảng mà thuộc lực lượng
đối lập. Để tạo ra một bầu không khí cứng rắn cho cuộc tiêu diệt, Mao không ngần
ngại khởi đầu đội quân dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông ta. Từ cuối tháng
11 cho đến giữa tháng 12, Hồng quân tiền tuyến đã đi qua một cuộc "chỉnh đốn
quân đội nhanh chóng”. Các tổ chức chuyên diệt trừ những người phản cách mạng
được thành lập tại mỗi một cấp trong quân đội bao gồm sư đoàn, trung đoàn, tiểu
đoàn, đại đội, và trung đội, bắt bớ và giết chết những đảng viên xuất thân từ
những gia đình địa chủ hay phú nông và những người dám phàn nàn. Trong vòng chưa
đầy một tháng, trong số hơn 40 ngàn lính Hồng quân, có 4400 người bị cho là các
phần tử của đoàn AB bao gồm cả hơn 10 đoàn trưởng (đoàn trưởng của đoàn AB); tất
cả đã bị tử hình.
Trong
thời kỳ tiếp theo, Mao bắt đầu trừng phạt những người khác ý kiến đó ở Khu vực
Sô-viết. Vào tháng 12/1930, ông ta ra lệnh cho Lý Thiều Cửu, Tổng bí thư
của Tổng cục Chính trị của Hồng quân tiền tuyến và Chủ tịch của Ủy ban Thanh trừng
đại diện cho Tổng Ủy Biên giới và đi đến thị trấn Phú Điền ở tỉnh Giang Tây nơi
chính quyền cộng sản đặt trụ sở. Lý Thiều Cửu bắt giữ các thành viên của Ủy ban
Hành động tỉnh và 8 chỉ huy trưởng của Hồng quân thuộc đoàn 20, bao gồm Đoàn
Lương Bật và Lý Bạch phương. Ông ta dùng nhiều thủ đoạn tra tấn dã man như đánh
đập và đốt thân thể - những người bị tra tấn như vậy có thương tích khắp thân
thể, các ngón tay bị rạn nứt, bị bỏng toàn thân và không thể di chuyển. Theo
các chứng cớ tài liệu, thì lúc đó các nạn nhân gào khóc to như xé trời; các thủ
đoạn tra tấn tàn khốc cực kỳ vô nhân đạo.
Ngày
8/12, các bà vợ của Bạch Phương, Mã Minh và Chu Miện đến thăm các ông chồng bị
giam giữ, nhưng họ cũng bị bắt như các thành viên của đoàn AB và bị tra tấn tàn
bạo. Họ bị đánh đập nghiêm trọng, thân thể và âm hộ của họ bị đốt và phần vú bị
cắt bằng dao. Trong khi bị tra tấn dã man, Đoàn Lương Bật đã thú nhận rằng Lý
Văn Lâm, Kim Vạn Bang, Lưu Địch, Chu Miện, Mã Minh và những người khác là lãnh
đạo của đoàn AB và rằng có nhiều thành viên của đoàn AB trong các trường học của
Hồng quân.
Từ
7/12 cho đến tối 12/12, chỉ trong 5 ngày, Lý Thiều Cửu và những người khác đã bắt
giữ hơn 120 người bị cho là các thành viên của đoàn AB và hàng chục người chủ
chốt chống cách mạng trong cuộc càn quét tận cùng đoàn AB ở Phú Điền; hơn 40
người đã bị tử hình. Hành động tàn bạo của Lý Thiều Cửu cuối cùng đã kích động
thành “Sự kiện Phú Điền” [13] ngày 12/12/1930 làm kinh hoàng Khu vực Sô-viết.
Từ Khu
vực Sô-viết cho đến Diên An, Mao dựa vào học thuyết của ông ta và thực hành đấu
tranh , dần dần tìm kiếm và thiết lập địa vị lãnh đạo tuyệt đối của mình ở
trong Đảng. Sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đoạt được chính quyền năm
1949, Mao tiếp tục dựa vào hình thức đấu tranh trong nội bộ Đảng này. Ví dụ,
trong cuộc họp hội nghị toàn thể lần thứ 8 của Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản,
tổ chức ở Lư sơn năm 1959, Mao Trạch Đông bất ngờ tấn công tướng Bành Đức Hoài
và bãi chức ông ta [14]. Tất cả các lãnh đạo trung ương tham dự cuộc họp được
yêu cầu phải bày tỏ quan điểm của mình; một vài người dám bày tỏ những quan điểm
khác biệt đều bị dán một nhãn hiệu là thuộc nhóm 'Bành Đức Hoài chống Đảng'.
Trong Cách mạng Văn hóa, các cán bộ lâu năm trong Ủy ban Trung ương ĐCSTQ lần
lượt bị trừng phạt, nhưng tất cả họ đều nhượng bộ mà không tranh đấu gì cả. Có
ai dám nói một chữ chống lại Mao Trạch Đông? Đảng cộng sản luôn luôn nhấn mạnh
trung thành với Đảng, nhấn mạnh tính cách tổ chức và kỷ luật sắt thép, nhấn
mạnh phải tuyệt đối phục tùng giáo chủ lãnh tụ . Loại Đảng tính này đã được khắc
sâu vào đầu óc qua các cuộc đấu tranh chính trị không ngừng nghỉ.
Lý Lập
Tam, đã từng là một lãnh tụ của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ),trong thời
Cách mạng Văn hóa đã bị dồn vào chân tường. Ở tuổi 68, ông bị hỏi cung trung
bình 7 lần một tháng. Vợ ông, Lý Sa bị coi là một gián điệp của “nhóm Sô viết
xét lại”, cũng bị bỏ tù và bị mất tích. Không còn lựa chọn nào khác, trong nỗi
tuyệt vọng tột cùng ông Lý đã tự tử bằng cách uống một lượng lớn thuốc ngủ. Trước
khi chết, Lý Lập Tam viết một lá thư cho Mao Trạch Đông, thật sự phản ảnh Đảng
tính, có nghĩa là một đảng viên cộng sản không dám đầu hàng ngay cả khi gần kề
cái chết:
Chủ tịch,
Tôi
đang bước vào con đường phản bội Đảng bằng cách tự sát và không có cách nào để
bào chữa cho tội lỗi của mình. Chỉ có một điều, rằng toàn thể gia đình tôi và
tôi chưa bao giờ hợp tác với các quốc gia thù địch. Chỉ riêng về vấn đề này,
tôi đề nghị chính quyền trung ương cho điều tra và nghiên cứu thực tế và kết luận
dựa trên sự thực…
Lý Lập
Tam
22/06/1967
[15]
Trong
khi triết lý đấu tranh của Mao Trạch Đông cuối cùng đã kéo Trung Quốc vào một đại
tai kiếp chưa từng có, loại vận động chính trị "cứ 7 hay 8 năm một lần"
và cuộc đấu tranh trong Đảng diễn ra tràn lan đã bảo đảm sự sống còn của Đảng cộng
sản. Mỗi lần có cuộc vận động, một thiểu số 5% sẽ bị đàn áp, và đa số
còn lại 95% sẽ phải ngoan ngoãn thống nhất theo đường lối của Đảng, bởi đó tăng
cường sức tập trung và sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Những cuộc đấu tranh này
cũng tiêu diệt những phần tử “không kiên định” mà không sẵn lòng từ bỏ lương
tri của họ, và tấn công bất cứ lực lượng nào dám chống lại. Thông qua cơ chế đấu
tranh như vậy, những người có nhiều tinh thần đấu tranh nhất và giỏi nhất trong
việc sử dụng các thủ đoạn lưu manh bên trong Đảng cộng sản thì mới chiếm được sự
khống chế. Nói một cách khác, các giáo chủ của tà giáo Đảng cộng sản bảo đảm đều
là những phần tử không biết sợ, đầy kinh nghiệm đấu tranh và đầy Đảng tính. Loại
đấu tranh tàn khốc này cũng đem lại cho những người từng trải qua một “bài học
bằng xương máu”, và tẩy não bằng bạo lực. Đồng thời, đấu tranh liên tục đem đến
sức sống cho Đảng cộng sản, làm mạnh mẽ thêm tinh thần đấu tranh của Đảng, bảo
đảm Đảng không bị tiêu diệt, và ngăn không cho Đảng trở thành một tập thể ôn
hòa mà buông bỏ đấu tranh.
Loại Đảng
tính mà Đảng cộng sản đòi hỏi chính là từ bản chất tà giáo của Đảng cộng sản diễn
biến mà ra . Để thực hiện mục đích của chính mình, Đảng cộng sản quyết tâm vứt
bỏ tất cả các nguyên tắc truyền thống, quyết tâm sử dụng tất cả các thủ đoạn để
chiến đấu không do dự với bất cứ lực lượng nào cản trở nó. Do đó, nó cần phải
đào tạo và nô lệ hóa các đảng viên để họ trở thành công cụ vô tình vô nghĩa vô
tín ngưỡng của Đảng. Bản chất này của Đảng cộng sản bắt nguồn từ sự thù hận của
nó đối với xã hội và truyền thống loài người, từ cái ảo tưởng tự hào của nó, và
tính cực kỳ ích kỷ và coi thường mạng sống người khác của nó. Để đạt được cái gọi
là lý tưởng của chính mình, Đảng cộng sản đã sử dụng bạo lực bằng mọi giá để đập
tan thế giới và tiêu diệt tất cả những người khác ý kiến. Một tà giáo độc ác
như vậy sẽ phải đối diện với sự phản đối của những người có lương tri, nên nó
phải tiêu diệt lương tri và ý niệm thiện lành của mọi người thì mới có thể làm
cho người ta tin vào tà thuyết của nó. Do đó, để bảo đảm cho sự sống còn của
nó, Đảng cộng sản trước hết phải tiêu diệt lương tri, ý niệm thiện lành và tiêu
chuẩn đạo đức của con người, biến người ta thành công cụ và nô lệ thuần phục.
Theo lý luận của Đảng cộng sản, sinh mạng của Đảng và lợi ích của Đảng vượt lên
trên tất cả mọi thứ khác; ngay cả vượt lên trên lợi ích tập thể của tất cả các
đảng viên, do đó bất cứ đảng viên nào cũng phải sẵn sàng hy sinh cho Đảng.
Nhìn
vào lịch sử của Đảng cộng sản Trung Quốc, những người vẫn còn giữ được lối nghĩ
của những nhà trí thức truyền thống như Trần Độc Tú và Cù Thu bạch, hoặc những
người vẫn còn quan tâm đến quyền lợi của nhân dân như Hồ Diệu Bang và Triệu Tử
Dương, hoặc những người kiên quyết làm cán bộ trong sạch và thực sự phục vụ
nhân dân như Chu Dung Cơ – cho dù họ đã đóng góp cho Đảng cộng sản nhiều như thế
nào, và cho dù họ không quan tâm đến tham vọng cá nhân như thế nào, họ cũng
không tránh khỏi bị khai trừ, bị ném sang một bên, hoặc bị giới hạn bởi lợi ích
và kỷ luật của Đảng.
Qua
nhiều năm đấu tranh, Đảng tính đã được bồi dưỡng ăn sâu vào xương tủy của họ,
làm cho họ thường thường thỏa hiệp và đầu hàng vào những giây phút nguy kịch, bởi
vì trong tiềm thức của họ, sự sống còn của Đảng là lợi ích lớn nhất. Họ chẳng
thà hy sinh chính mình và nhìn lực lượng tà ác trong Đảng giết người, họ cũng
không dám vì lương tri và ý niệm thiện lành mà ảnh hưởng đến sự sống còn của Đảng.
Đây chính là kết quả cơ chế đấu tranh của Đảng cộng sản: nó biến người tốt
thành công cụ để sử dụng, và dùng Đảng tính để giới hạn và ngay cả tiêu diệt
lương tri con người đến mức độ tối đa. Hàng chục cuộc "đấu tranh đường lối"
của Đảng cộng sản Trung Quốc đã đánh hạ hơn 10 lãnh tụ cao cấp nhất của Đảng hoặc
là những người được chỉ định làm người kế nhiệm; không một lãnh tụ cao nhất nào
của Đảng cộng sản có một kết cục tốt đẹp. Mặc dù Mao Trạch Đông đã làm vua 43
năm, ngay sau khi ông ta chết, vợ và cháu trai của ông ta đã bị bỏ tù, và điều
này được toàn bộ Đảng ăn mừng như là một thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa Mao.
Đây có phải là trò hề chăng? Là hài kịch chăng?
Sau
khi Đảng cộng sản cướp đoạt chính quyền, các cuộc vận động chính trị diễn ra
liên tục, từ đấu tranh trong Đảng đến đấu tranh ngoài Đảng. Giống như dưới thời
Mao Trạch Đông, và giống hệt như trong thời “cải cách và khai phóng” sau đó.
Trong thập niên 80, khi người dân vừa mới bắt đầu được tự do suy nghĩ một chút
thì Đảng cộng sản khởi xướng một chiến dịch “phản đối sự tự do hóa của giai cấp
tư sản”, và đề xuất “Bốn nguyên tắc cơ bản”[16], bởi vì Đảng cộng sản cần giữ
quyền lãnh đạo tuyệt đối. Năm 1989, những sinh viên yêu cầu dân chủ một cách
hòa bình đã bị đàn áp đẫm máu bởi vì Đảng cộng sản không dung tha các trào lưu
tư tưởng về dân chủ. Thập niên 90 chứng kiến một sự tăng nhanh về số lượng các
học viên Pháp Luân Công tin vào Chân, Thiện, Nhẫn, và họ đã phải chịu một cuộc
bức hại có tính cách diệt tuyệt bắt đầu năm 1999, bởi vì Đảng cộng sản không thể
chấp nhận nhân tính và ý niệm thiện lành, mà nhất định dùng bạo lực để hủy diệt
lương tri trong tâm của người ta thì mới có thể bảo đảm quyền lực của chính nó.
Từ khi bước vào thế kỷ 21, Internet đã nối liền thế giới với nhau nhưng Đảng cộng
sản Trung Quốc đã tiêu một số tiền khổng lồ để dựng nên những trạm kiểm soát
trên mạng điện toán để đánh bẫy những nhân sĩ tự do trên mạng lưới, bởi vì Đảng
cộng sản rất sợ sự việc người dân được tự do thông tin .
VI. Sự
biến đổi thành ác của tà giáo Đảng Cộng Sản
Tà
giáo Đảng cộng sản trên bản chất là phủ nhận đạo lý của Trời, và bóp chết nhân
tính. Bản tính của Đảng cộng sản là cuồng vọng, tự cao tự đại, cực kỳ ích kỷ,
và có các hành động dã man, không còn kiêng nể gì nữa. Tuy rằng trên thực tế, Đảng
cộng sản không ngừng phạm tội ác đem lại tai họa cho quốc gia và dân chúng,
nhưng nó vĩnh viễn không thừa nhận những tội ác của chính mình, cũng vĩnh viễn
không dám để cho người dân nhìn thấy rõ bản chất của chính nó . Mặt khác Đảng cộng
sản từ trước đến nay cũng không ngần ngại thay đổi khẩu hiệu và chiêu bài của
nó, bởi vì theo Đảng cộng sản nhìn thì tất cả những sự việc này đều là thủ đoạn
để duy trì quyền lực; chỉ cần có lợi cho sự sinh tồn của Đảng cộng sản, thì nó
sẽ làm bất cứ việc gì mà không màng đến nguyên tắc đạo nghĩa, công lý và nhân mạng.
Một tà
giáo mà chế độ hóa và xã hội hóa như vậy, theo phương hướng phát triển, thì chỉ
có hướng đến sụp đổ hoàn toàn. Bởi vì sự tập trung cao độ về quyền lực, và vì
các cơ chế có thể giám sát và đốc thúc dư luận xã hội đã bị bóp chết, nên không
có bất cứ lực lượng nào để ngăn chặn Đảng cộng sản đi vào sa đọa và thối nát.
Đảng cộng
sản Trung Quốc(ĐCSTQ) ngày nay đã sa đọa đến trở thành “Đảng tham ô" và
"Đảng thối nát” lớn nhất trên thế giới. Theo thống kê chính thức ở Trung
Quốc, trong số 20 triệu viên chức, hoặc cán bộ trong chính quyền thuộc ĐCSTQ suốt
20 năm qua, có 8 triệu người đã phạm tội tham nhũng, thối nát và bị trừng phạt
hoặc khai trừ theo kỷ luật của Đảng hoặc luật pháp chính quyền. Nếu những phần
tử thối nát tham nhũng chưa bị phát hiện cũng được tính đến thì các quan viên
thối nát trong chính quyền của Đảng ước khoảng hơn 2 phần 3, nhưng chỉ có một
phần nhỏ trong số đó đã bị điều tra và phanh phui.
Tham ô
thối nát, vì mình mà tống tiền kẻ khác, vơ vét chỗ tốt, loại vật chất này chính
là lực tập trung lớn nhất của một đoàn thể mà Đảng cộng sản Trung Quốc ngày nay
ôm giữ. Bọn tham nhũng biết rằng, không có Đảng cộng sản, thì không có cơ hội cho
bọn họ làm chuyện thối nát, và nếu như Đảng cộng sản sụp đổ, bọn họ không những
chỉ mất quyền lực và địa vị mà còn phải đối diện với sự nguy hiểm bị điều tra.
Trong "Sự phẫn nộ của Trời", một tiểu thuyết vạch trần những sự việc
đằng sau của các viên chức ĐCSTQ, tác giả Trần Phương đã chỉ ra điều tối mật của
'một Đảng' qua miệng của Hác Tương Thọ, một phó giám đốc văn phòng thành phố của
ĐCSTQ rằng “tham nhũng thối nát khiến cho chính quyền của chúng ta càng thêm ổn
định”.
Dân
chúng thấy rất rõ điều đó, “nếu chúng ta chống tham nhũng thối nát, Đảng sẽ diệt
vong; nếu chúng ta không chống tham nhũng thối nát, thì quốc gia sẽ diệt vong.”
Tuy nhiên Đảng cộng sản sẽ không liều lĩnh chống tham nhũng thối nát để rồi phải
đối diện với nguy hiểm bị mất Đảng. Cái mà Đảng sẽ làm, là giết một số cá nhân
tham nhũng làm vật hy sinh tượng trưng nhằm bảo vệ hình ảnh của nó, điều này sẽ
kéo dài sự tồn tại của nó thêm vài năm nữa. Tà giáo Đảng cộng sản cho đến hôm
nay, tôn chỉ duy nhất chính là bảo vệ quyền lực và ngăn ngừa Đảng bị diệt vong.
Ở
Trung Quốc ngày nay, đạo đức luân lý đã bị phá hoại đến mức cực kỳ nghiêm trọng
thê thảm. Hàng hóa giả mạo, mãi dâm, ma túy, thông đồng giữa các viên chức và
băng đảng, bọn băng đảng hung hăng ngang ngược, cờ bạc, hối lộ, tham nhũng thối
nát đủ loại diễn ra tràn lan. Đảng cộng sản đã phớt lờ những bại hoại về mặt đạo
đức như thế, trong khi nhiều viên chức cao cấp cũng là những tên trùm đằng sau
đang moi móc tiền bảo vệ cho những người dân yếu đuối. Sài Thiếu Khánh, một
chuyên gia nghiên cứu về xã hội đen và các tổ chức tội phạm ở trường Đại học Tổng
hợp Nam Kinh, ước tính rằng tổng số bọn tội phạm băng đảng ở Trung Quốc là khoảng
1 triệu. Mỗi một tên tội phạm trong băng đảng, khi bị bắt luôn luôn khai ra những
phần tử thối nát của Đảng cộng sản ở đằng sau là các viên chức chính quyền,
quan tòa hoặc cảnh sát.
Đảng cộng
sản Trung Quốc(ĐCSTQ) sợ rằng người dân có lương tri và ý niệm thiện lành, cho
nên nó không dám để cho dân chúng có tự do tín ngưỡng. Nó sử dụng tất cả những
nguồn lực của nó để đàn áp những người tốt có tín ngưỡng, như là những người bí
mật theo Thiên Chúa Giáo mà tin vào Chúa Giê-su và Thượng Đế và những học viên
Pháp Luân Công muốn trở nên Chân, Thiện và Nhẫn. ĐCSTQ sợ rằng chính trị dân chủ
sẽ kết liễu chế độ chuyên chính một Đảng của nó nên nó không dám để cho nhân
dân có tự do chính trị. Nó hành động mau lẹ và bắt giam những nhân sĩ có
tư tưởng độc lập tự do và những người hoạt động đề cao nhân quyền. Tuy nhiên,
nó cho người dân Trung Quốc một loại tự do khác, là chỉ cần người ta không quan
tâm đến chính trị và không phản đối sự lãnh đạo của Đảng, thì họ có thể muốn
làm gì thì làm, thậm chí người ta có thể làm những điều tà ác hoặc những sự việc
tàn nhẫn, vô nhân đạo. Kết quả là ĐCSTQ sa đọa rất nhanh và đạo đức xã hội ở
Trung Quốc đang xuống dốc nhanh chóng ở mức báo động.
“Bịt lấp
đường lên thiên đàng và mở cửa xuống địa ngục” là câu mô tả rõ nhất việc tà
giáo Đảng cộng sản Trung Quốc đã phá hủy xã hội Trung Quốc ngày nay như thế nào.
VII.
Kiểm lại sự thống trị của tà giáo Đảng Cộng Sản
Đảng Cộng
sản là gì?
Vấn đề
nhìn có vẻ đơn giản này lại không có cách trả lời đơn giản. Dưới chiêu bài “vì
công chúng” và dùng danh nghĩa một đảng phái chính trị để xuất hiện, Đảng Cộng
sản trên thực tế đã lừa dối hàng triệu người. Hơn nữa Đảng cộng sản không phải
là một đảng phái chính trị theo ý nghĩa thông thường, mà là một tà giáo hại người,
và bị phụ thể tà linh điều khiển. Đảng Cộng sản là một sanh mạng sống: tổ chức
của Đảng, tức là biểu tượng của tà giáo trên thế gian, là cơ thể của sinh mạng
đó. Trên căn bản, chủ tể của Đảng Cộng sản chính là tà linh đó mà đã nhập vào Đảng
ngay từ đầu, và tà linh đó quyết định bản chất tà giáo của Đảng Cộng sản.
Bọn
lãnh tụ của Đảng Cộng sản, với thân phận giáo chủ của tà giáo Cộng sản, chỉ là
cái miệng lưỡi của tà linh và của Đảng. Khi mục đích và ý chí của bọn chúng nhất
trí với Đảng và có thể dùng cho Đảng, thì bọn chúng sẽ được chọn là người
lãnh đạo. Nhưng khi bọn chúng không thể thỏa mãn đòi hỏi của Đảng nữa thì bọn
chúng sẽ bị lật đổ một cách vô tình. Cơ chế đấu tranh của Đảng bảo đảm rằng chỉ
những phần tử nào giảo hoạt, dối trá nhất, tà ác nhất và hung hãn man rợ nhất mới
có thể trụ vững được ở địa vị giáo chủ của Đảng Cộng sản. Trong lịsh sử của Đảng
cộng sản Trung Quốc, khoảng hơn một chục lãnh tụ Đảng bị hạ bệ đã chứng minh cho
vấn đề này. Lãnh đạo cao nhất của Đảng, kỳ thực đang đi trên một sợi dây thừng
rất hạn hẹp. Họ có thể hoặc là bứt ra khỏi giáo phái Đảng và để lại tiếng tốt
trong lịch sử như Gorbachev đã làm, hoặc là trở thành nạn nhân của Đảng giống
như nhiều Tổng bí thư Đảng.
Quần
chúng là đối tượng bị biến thành nô lệ và đàn áp của Đảng cộng sản. Bên trong
phạm vi khống chế của Đảng cộng sản, dân chúng không có quyền cự tuyệt Đảng cộng
sản. Thay vào đó, họ bị cưỡng ép phải chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng và phải
gánh vác việc duy trì (sự cúng bái) nghĩa vụ của Đảng cộng sản. Dân chúng, dưới
sự đe dọa cưỡng bức sắt máu của Đảng, phải chấp nhận sự tẩy não thường xuyên
theo hình thức tà giáo. Đảng cộng sản ở tại Trung Quốc cưỡng ép toàn dân phải
tin vào tà giáo, cúng bái tà giáo; điều này là hiếm thấy trên thế giới ngày
nay, thậm chí có thể nói rằng đây là kỹ thuật vô địch của Đảng cộng sản trong
những áp bức như vậy.
Đảng
viên được dùng để lấp đầy cơ thể nhân quần của Đảng cộng sản. Có những người
trong số đó là người trung thực và lương thiện, thậm chí có thể là rất thành đạt
trong sự nghiệp của mình. Càng là những người như thế thì Đảng cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) càng thích chiêu dụ bởi vì thanh danh và năng lực của họ đã
bị lợi dụng để phục vụ cho Đảng. Nhiều người khác, vì muốn trở thành quan chức
hoặc thụ hưởng lợi ích riêng tư , sẽ cố gắng gia nhập Đảng cộng sản và giúp đỡ
sinh mạng tà ác đó. Cũng có người vì muốn làm được điều gì đó trong đời và nhận
ra rằng, dưới sự thống trị của Đảng cộng sản, họ sẽ không có cơ hội phát triển
như vậy trừ khi họ gia nhập Đảng. Một số người vào Đảng là vì họ muốn được chia
cho một chỗ ở hay chỉ đơn giản là vì muốn có một hình ảnh tốt hơn. Do đó, trong
số hàng chục triệu đảng viên có cả người tốt lẫn người xấu. Nhưng cho dù gia nhập
Đảng với động cơ gì đi nữa, một khi họ thề trung thành trước cờ Đảng, tự nguyện
hay không, thì nghĩa là họ đã tự nguyện hiến thân cho Đảng. Sau đó họ sẽ phải
đi qua một quá trình tẩy não liên tục bằng cách tham gia sinh hoạt của tổ chức
và học tập chính trị hàng tuần. Phần lớn đảng viên có rất ít ý chí của chính
mình, nếu có, và bị mê hoặc bởi Đảng tính "thống nhất tư tưởng" mà
hoàn toàn bị chủ tể tà linh điều khiển . Những người như vậy sẽ hoạt động ở
trong Đảng giống như những tế bào của cơ thể con người, và sẽ làm việc không
ngưng nghỉ vì sự tồn tại của Đảng, mặc dù chính họ cũng là một phần của quần
chúng bị biến thành nô lệ bởi Đảng cộng sản. Còn đáng buồn hơn là, sau khi sự
bó buộc của “Đảng tính” được áp đặt trên đầu thì rất khó vứt bỏ nó đi. Một khi
người ta biểu hiện phần "nhân tính" của mình, thì sẽ bị loại trừ hoặc
bị bức hại. Người ta không thể tự ra khỏi Đảng, ngay cả nếu họ muốn thế,
bởi vì chính sách 'vào-được ra-không' của tà giáo Đảng cộng sản sẽ coi họ
như là kẻ phản bội. Vì vậy người ta thường thấy hai nhân cách trên thân đảng
viên của Đảng cộng sản Trung Quốc: một mặt là "Đảng tính" trong trường
hợp chính trị , còn mặt kia là "nhân tính" trong sinh hoạt thường
ngày.
Các
cán bộ đảng là nhóm người nắm quyền trong số những đảng viên. Mặc dù họ có thể
biểu hiện giữa thiện và ác hoặc làm ra quyết định cá nhân trong những hoàn cảnh
riêng biệt, vào những thời gian riêng biệt và những sự kiện riêng biệt, toàn thể
bọn họ phải đi theo ý chí của Đảng, đó gọi là “toàn Đảng phục tùng Ban chấp
hành Trung ương”. Các cán bộ Đảng, nhận lệnh từ bên trên và thi hành ở dưới, là
lực lượng trung kiên của Đảng cộng sản, nhưng bọn họ cũng chỉ là công cụ cho Đảng.
Họ cũng bị lừa đảo, lợi dụng và trở thành nạn nhân trong các phong trào chính
trị trước kia. Qui tắc tiêu chuẩn đằng sau này là xem người ta có một lòng đi
theo giáo chủ hay không.
Tại
sao người dân vẫn không giác ngộ?
Đảng cộng
sản Trung Quốc(ĐCSTQ) thống trị Trung Quốc trong suốt hơn 50 năm, làm rất nhiều
chuyện ác, tà ác không gì sánh bằng. Nhưng tại sao toàn dân Trung Quốc thiếu nhận
thức thực tế về bản chất tà giáo của Đảng cộng sản? Có phải vì người Trung Quốc
ngu ngốc chăng? Không phải. Người Trung Quốc là một trong những dân tộc
thông minh nhất trên thế giới, mà lại có một nền văn hóa truyền thống lâu dài
5000 năm. Nhưng người Trung Quốc vẫn đang phải sống dưới sự thống trị của Đảng
cộng sản, mà hoàn toàn không dám nói lên sự bất mãn. Nguyên nhân chủ chốt là tư
tưởng của người dân đã chịu sự trói buộc của tà linh Đảng cộng sản.
Nếu
như người dân Trung Quốc có được tự do ngôn luận và có thể công khai thảo luận
về giá trị và tội lỗi của Đảng cộng sản, thì chúng ta cũng không khó tưởng tượng
rằng người Trung Quốc từ lâu đã có thể thấy rõ được bản chất tội ác của Đảng cộng
sản và giải phóng cho chính mình thoát khỏi tà giáo Đảng cộng sản. Không may
là, dưới sự thống trị của Đảng cộng sản Trung Quốc trong hơn nửa thế kỷ, nhân
dân Trung Quốc đã bị mất đi quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận. Mục đích đằng
sau việc đàn áp những người cánh Hữu trong số những phần tử trí thức năm 1957
là để kiềm chế quyền tự do ngôn luận và để trói buộc tư tưởng của người dân.
Trong một xã hội mà không có những quyền tự do căn bản như vậy, đối với những
thanh niên đã thành tâm nghiên cứu các tác phẩm của Karl Marx và Engels trong
suốt thời kỳ Cách mạng Văn hóa, phần lớn họ cũng bị dán cái mác trớ trêu là “tập
đoàn phản Đảng”, và sau đó bị đàn áp. Việc thảo luận về đúng hay sai của Đảng cộng
sản lại càng không được đặt ra.
Không
mấy người Trung Quốc dám nghĩ đến việc gọi Đảng cộng sản là tà giáo. Tuy nhiên,
nhưng một khi theo lập luận, những người đã từng sống ở Trung Quốc sẽ thấy
không khó khăn gì trong việc tìm ra đầy đủ chứng cớ lý luận để chứng minh cho
nhận định đó, từ cảnh ngộ của bản thân, của gia đình và bạn bè.
Người
dân Trung Quốc không những chỉ bị tước đi quyền tự do tư tưởng, mà họ còn bị
rót vào đầu đầy những văn hóa Đảng và tà thuyết của Đảng cộng sản. Do đó, tất cả
những gì mà người dân có thể nghe thấy là những lời ca tụng 'công đức' của Đảng
và đầu óc của họ đã bị nghèo nàn đáng thương đến mức chỉ còn lại những thứ của
Đảng cộng sản. Hãy lấy vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn làm ví dụ.
Khi súng bắt đầu nổ hôm 4/6/1989, nhiều người theo bản năng chạy trốn. Một lúc
sau, bất chấp rủi ro, họ dũng cảm bước ra khỏi chỗ ẩn náu và cùng nhau hát bài
“Quốc tế ca”. Những người Trung Quốc này thực sự dũng cảm, vô tội và đáng kính
trọng, nhưng tại sao họ lại hát bài “Quốc tế ca” của Đảng cộng sản, khi phải đối
diện với sự tàn sát do Đảng cộng sản gây ra? Nguyên nhân cũng rất đơn giản: bị
giáo dục trong văn hóa của Đảng, tất cả những điều mà các người đáng thương đó
biết chỉ là chủ nghĩa cộng sản. Những người ở trên quảng trường Thiên An Môn
lúc đó không biết bất cứ một bài hát nào khác hơn là bài “Quốc tế ca” và một số
bài hát ca tụng Đảng cộng sản.
Đâu là
lối thoát?
Đảng cộng
sản Trung Quốc(ĐCSTQ) đang tiến đến một sụp đổ hoàn toàn của nó. Đáng buồn là,
trước khi tà giáo này diệt vong, nó đang còn cố gắng trói buộc số phận của nó với
dân tộc Trung Quốc.
Đảng cộng
sản Trung Quốc đang giãy chết, rõ ràng nó đang yếu dần; sự kiềm chế tư tưởng của
người dân cũng bắt đầu càng ngày càng không linh nghiệm nữa. Với sự phát triển
của viễn thông và Internet, ĐCSTQ thấy khó mà kiểm soát thông tin và áp bức quyền
tự do ngôn luận. Khi các viên chức tham nhũng thối nát ngày càng cướp bóc và áp
bức nhân dân, dân chúng đã bắt đầu thức tỉnh từ những ảo tưởng của mình về
ĐCSTQ, và nhiều người trong dân gian đã bắt đầu con đường tranh đấu kháng cự.
ĐCSTQ không những đã thất bại trong các cố gắng gia tăng sự kiềm chế tư tưởng
trong sự việc đàn áp Pháp Luân Công, mà trái lại càng làm tiêu nhanh nguyên khí
của ĐCSTQ, bộc lộ rõ ràng sự tàn bạo của ĐCSTQ. Một hoàn cảnh như vậy đã làm
cho dân chúng suy xét lại Đảng cộng sản, mở đường cho dân tộc Trung Hoa tự giải
phóng, trừ sạch sự kiềm chế tư tưởng và hoàn toàn thoát khỏi sự khống chế của
tà linh Đảng cộng sản.
Sau
khi đã sống dưới sự thống trị của tà giáo Đảng cộng sản Trung Quốc hơn 50 năm
qua, người Trung Quốc không cần 'Cách mạng bạo lực'; mà họ cần cứu giúp đòi lại
linh hồn của mình. Điều này có thể đạt được bằng cách tự cứu mình, và bước đầu
tiên tiến tới mục đích đó là việc phải nhận ra bản chất tà giáo của Đảng cộng sản.
Ngày
đó sẽ đến khi nhân dân vứt ra từng tổ chức của Đảng cộng sản mà đang gắn liền với
hệ thống hành chính quốc gia, để cho các hệ thống xã hội hoạt động một cách độc
lập, và được trợ giúp bởi các lực lượng nòng cốt của xã hội. Với sự ra đi của
các tổ chức độc tài của Đảng, hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan chính
quyền sẽ được cải thiện và đề cao. Và ngày đó đang đến gần. Thực ra, từ hồi đầu
thập niên 80, những người theo đường lối cải cách ở trong Đảng ủng hộ ý tưởng
“tách Đảng ra khỏi chính quyền”, trong một nỗ lực để loại trừ Đảng cộng sản ra
khỏi chính phủ. Nhưng nếu không thể phủ nhận ý thức về "sự lãnh đạo tuyệt
đối của Đảng", thì các nỗ lực cải cách bên trong thể hệ tà giáo này, sự thực
đã chứng minh là không đủ và cũng khó tiến hành.
Văn
hóa Đảng là tổ chức của tà giáo Đảng cộng sản mà cần thiết cho hoàn cảnh tồn tại
của nó. Trừ sạch văn hóa Đảng và dấu vết của tà giáo Đảng cộng sản trong tư tưởng,
tức là trừ sạch phụ thể Đảng trong trí óc, có thể nhiều khó khăn hơn việc gỡ bỏ
sự khống chế của Đảng cộng sản trong các cơ cấu hành chính quốc gia, nhưng đó
là cách duy nhất để thực sự trừ sạch tà giáo Đảng cộng sản. Điều này chỉ có thể
đạt được bằng nỗ lực của chính người dân Trung Quốc. Với tư tưởng của họ được
điều chỉnh lại cho ngay chánh như ban đầu, nhân tính của họ trở về với trạng
thái chân thật vốn có ban đầu, thì mới có thể thực hiện sự xây dựng một xã hội
đạo đức và thành công trong việc chuyển tiếp thành một xã hội lương thiện mà
không có Đảng cộng sản. Cách tốt nhất để giải trừ phụ thể khống chế này là việc
nhận ra bản chất và sự độc hại của tà linh đó, rồi quyết liệt quét sạch nó ra
khỏi trí óc, để cho phụ thể tà linh đó không còn chỗ để trốn. Đảng Cộng sản nhấn
mạnh việc khống chế "hình thái ý thức" bởi vì Đảng cộng sản không gì
khác hơn là một loại hình thái ý thức. Khi tất cả nhân dân Trung Quốc, trong
tâm linh, phủ nhận các tà thuyết trong lý luận sai lệch của Đảng cộng sản, chủ
động trừ sạch văn hóa Đảng, trừ sạch mọi ảnh hưởng của tà giáo Đảng cộng sản
trong quan niệm và cuộc sống của chính mình, thì hình thái ý thức của Đảng cộng
sản phải kề cận sự tan vỡ. Khi người dân tự cứu mình, thì Đảng cộng sản sẽ tan
rã.
Các quốc
gia dưới quyền thống trị của Đảng cộng sản, phần nhiều đi kèm với nghèo đói, độc
tài, và áp bức. Chỉ còn lại vài nước như vậy bao gồm Trung Quốc, Bắc Triều
Tiên, Việt nam, và Cuba. Những chế độ đó đang sống những ngày còn lại cuối cùng.
Với
trí tuệ của người Trung Quốc, chiếu sáng trên lịch sử huy hoàng của dân tộc
Trung Hoa, một Trung Quốc được giải thoát khỏi sự khống chế của phụ thể tà linh
Đảng cộng sản sẽ trở thành một xã hội đầy hứa hẹn.
Lời kết
Đảng cộng
sản không còn tin vào chủ nghĩa cộng sản nữa. Linh hồn của nó đã chết, nhưng
cái bóng âm hồn của nó vẫn còn. Đảng cộng sản Trung Quốc đã kế thừa “bộ da” của
Đảng cộng sản, nhưng vẫn tràn đầy bản tính của một tà giáo: cuồng vọng, tự cao
tự đại, cực kỳ ích kỷ, và hành động theo dục vọng. Đảng cộng sản Trung Quốc, ở
trong cái tà giáo mà truyền nhau sự phủ nhận đạo lý Trời và bóp chết nhân tính
của Đảng cộng sản, thì vẫn không hề thay đổi.
Ngày
nay, Đảng cộng sản Trung Quốc tiếp tục thống trị Trung Quốc với các thủ đoạn đấu
tranh tích lũy được qua nhiều năm của Đảng cộng sản, sử dụng hệ thống tổ chức
chặt chẽ của chế độ, cộng với hình thức thống trị “phụ thể Đảng”, để tuyên truyền
cho cái tà giáo mà được quốc giáo hóa này. Sáu đặc trưng tà giáo của Đảng Cộng
sản được nêu ra trên đây, đã đặt Đảng cộng sản Trung Quốc ngày nay chặt chẽ
trong định nghĩa của một “tà giáo”: nó không làm gì tốt lành cả, chỉ toàn làm
những việc tà ác.
Khi tà
giáo Đảng cộng sản này, trên con đường cùng, càng gần với sự diệt vong, thì lại
gia tăng tốc độ thối nát và sa đọa của nó. Một điểm đáng sợ nhất chính là nó
không cam chịu tà giáo bị diệt vong, mà vẫn cố làm những gì mà nó có thể làm,
để đưa xã hội Trung Quốc rơi cùng xuống một vực thẳm của thối nát và sa đọa.
Người
Trung Quốc cần phải tự cứu chính mình, cần phải kiểm điểm lại những gì đã qua,
cần phải thoát khỏi Đảng Cộng Sản.
Chú
thích:
[1]
“Con báo đã chết, vẫn còn lưu lại bộ da” được trích từ một quyển sách tiên tri
cổ của Trung Quốc, bài thơ Hoa Mai của Shao Yong (1011-1077). Con báo ở đây là
để nói đến lãnh thổ của Liên xô cũ trên thực tế trông giống như hình một con
báo đang chạy. Với sự sụp đổ của Liên xô cũ, cốt lõi của hệ thống cộng sản đã
tan rã, chỉ còn để lại “bộ da” (hình thức) mà Đảng Cộng sản Trung Quốc thừa kế.
[2] Một
lối hợp vũ rất phổ thông trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hoá để bày tỏ lòng trung
thành với Mao và với Đảng. Xin xem hình về màn vũ trêm mạng lưới
http://www.shm.com.cn/yantai/2004-05/13/content_3717.htm,
hay
http://www.chinaphotocenter.com/pop-photo/2004-2/2004-2p40-4.jpg.
[3] Hiến
pháp của nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (bản dịch chính thức, 1999).
[4]
Trích từ “Báo cáo về việc điều tra phong trào nông dân ở Hồ Nam” của Mao (1927).
[5]
Trích từ một bài thơ của Tư Mã Thiên ( khoảng 140-87 trước Tây Lịch), một Sử
Gia và là một Học Giả vào thời Tây Hán. Bài thơ nổi tiếng của ông ta nói: “Mọi
người đều phải chết; có người xem cái chết nhẹ như lông hồng hay nặng hơn núi
Thái Sơn.” Núi Thái Sơn là một trong những ngọn núi chính ở Trung Quốc.
[6]
Phong Trào Thu Hồi Đất liên quan đến mặt đen tối của cải cách kinh tế của Trung
Quốc. Tương tự như cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh (1760-1850), đất nông nghiệp
ở Trung Quốc ngày nay đã bị phân bổ để xây dựng các khu vực kinh tế khác nhau ở
tất cả các cấp (huyện, thành phố, tỉnh và quốc gia). Kết quả của thu hồi đất là
nông dân Trung Quốc đã bị mất đất canh tác. Ở các thành phố, dân cư ở các quận
của thị trấn và thành phố cổ thường xuyên bị bắt buộc di dời để lấy đất cho việc
phát triển các khu thương mại với đền bù tối thiểu cho dân cư. Muốn tin chi tiết
hơn có tại:
http://www.uglychinese.org/enclosure.htm.
[7]
Liz Zhao, một sinh viên theo học về nghành báo chí, đã bị chụp mũ là người
thiên Hữu trong năm 1957 về sự suy nghĩ độc lập và công khai chỉ trích đảng cộng
sản của cô. Cô đã bị buộc tội âm mưu lật đổ chế độ Cộng Hòa nhân dân độc tài và
bị giam giữ năm 1960. Vào năm 1962, cô đã bị xử án 20 năm tù đày.
Ngày 29 tháng 4 năm 1968, cô đã bị ĐCSTQ tử hình về tội phản cách mạng.
[8]
Trương Chí Tân là một người trí thức bị ĐCSTQ tra tấn đến chết trong thời kỳ
Cách Mạng Văn Hóa vì cô chỉ trích Mao Trạch Đông đã thất bại trong phong trào
“- Đại Nhảy Vọt” và cô đã nói thẳng sự thật. Bọn canh tù đã lột quần áo cô
nhiều lần, còng tay cô sau lưng và quăng vào tù của nam giới để cô bị hãm hiếp
tập thể cho đến khi cô trở nên điên loạn. Nhà giam đã cắt cổ cô trước khi
xử tử vì sợ cô la lên những khẩu hiệu phản đối.
[9]
Nói đến cách mạng tư sản Nga tháng 2/1917 lật đổ ngai vàng của Sa hoàng.
[10]
Cách mạng tháng Mười, hay Cách mạng Bôn-sê-vích do Lênin lãnh đạo xảy ra tháng
10/1917. Cuộc cách mạng đã giết chết những người cách mạng của giai cấp tư sản
mà đã lật đổ Sa hoàng, bởi đó đã bóp chết cách mạng tư sản Nga.
[11] Cả
hai “Sự kiện Mari” và “Vụ thảm sát 12/4” nói đến các vụ tấn công ĐCSTQ của Quốc
Dân Đảng. “Sự kiện Mari” xảy ra ngày 21/5/1927 ở thành phố Trường sa của tỉnh Hồ
Nam. “Vụ thảm sát 12/4” xảy ra ngày 12/4/1927 ở Thượng Hải. Trong cả hai trường
hợp, một số đảng viên ĐCSTQ và những người hoạt động ủng hộ ĐCSTQ bị tấn công,
bị bắt hoặc bị giết chết.
[12]
Xin xem Hiến Pháp của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Chương Một, Điều Sáu.
[13]
Lưu Địch, một chính trị viên của Hồng quân thứ 20 bị buộc tội là thành viên của
“AB Đoàn”, lãnh đạo một cuộc cuộc nổi dậy ở Phú Điền buộc tội Lý Thiều Cửu là một
người phản cách mạng. Họ cướp quyền kiểm soát thành phố Phú Điền và thả hơn 100
người bị bắt vì “AB Đoàn”, và hô khẩu hiệu “Đả đảo Mao Trạch Đông”.
[14]
Bành Đức Hoài (1898-1974): một tướng và lãnh đạo chính trị cộng sản Trung Quốc.
Bành là Tư lệnh trưởng trong chiến tranh Triều Tiên, Phó thủ tướng của Hội đồng
Quốc Gia, ủy viên Bộ chính trị, và Bộ trưởng quốc phòng từ 1954-1959. Ông ta bị
sa thải khỏi các chức vụ của mình sau khi bất đồng với cách tiếp cận kiểu cánh
Tả của Mao tại Hội nghị toàn thể Lộc sơn của ĐCSTQ năm 1959.
[15] Từ
“Lý Lập Tam: Người được truy điệu bốn lần”.
[16] Bốn
nguyên tắc là: con đường xã hội chủ nghĩa, độc tài vô sản, sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, và chủ nghĩa Mác-xít – Lê-nin-nít và tư tưởng Mao Trạch Đông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét