Tôi bỏ ra nhiều thập niên để nghiên cứu
về Vũ Trụ Học, Thiên Văn Học, Đại Dương Học, Địa Chất Học, và Nhân
Chủng Học. Sau khi đã hoàn toàn thông thiên văn/ đạt địa lý, và hiểu
thấu (hết trơn hết trọi) mọi lẽ cơ trời huyền diệu – cuối đời
– thấy mình vẫn còn rảnh rỗi quá xá nên bèn tìm hiểu thêm
(chút đỉnh) về tiểu sử của những vị lãnh tụ được sùng bái (nhất)
trong khối cộng: Stalin, Lenin, Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật, Hồ Chí
Minh.
Cả năm đều có một điểm này chung: khi họ
chuyển qua từ trần thì dân chúng đều khóc lóc quá trời, quá đất –
đến nỗi có nơi bị lụt lội, thiệt hại đến mùa màng vì dư … nước
mắt!
Họ còn có một điểm chung nữa: không ai
mang dép khi tiếp xúc với quần chúng, trừ ông Hồ Chí Minh. Cuộc đời
của nhân vật huyền thoại này gắn liền với đôi dép như hình với
bóng, ông lê la dép khắp mọi nơi – kể cả khi đi công du ở nước ngoài:
Khi Bác tới thăm 1 ngôi đền lớn và cổ kính của
Ấn Độ thì có một chuyện lạ xảy ra. Lúc Bác bước vào trong đền, để lại đôi dép
bên ngoài thì bất ngờ có hàng trăm phóng viên báo chí, nhiếp ảnh, quay phim ập
đến vây kín đôi dép cao su của Bác.
Họ như phục sẵn từ rất lâu rồi, một số phóng
viên còn cúi xuống dùng tay sờ, nắn đôi dép tỏ vẻ lạ lùng và trịnh trọng. Sau
đó họ vội vàng ghi chép lại những gì mình vừa thấy. Từ những góc độ, cự ly khác
nhau, các phóng viên thi nhau bấm máy, họ chen nhau để có được những vị trí
thuận lợi.
Rồi tiếp theo đó là cảnh đám đông dân chúng kéo
đến từ các ngả, ùa vào để được ngắm nghía đôi dép. Đó chỉ là một cảnh tượng tự
hào và cảm động mà bạn bè quốc tế đã dành cho đôi dép của Bác trong rất nhiều
nơi Bác tới thăm. (“Trăm phóng viên nước ngoài vây kín đôi dép của Bác”
– Tin Ngắn, 19/05/2013).
Cảnh tượng “tự hào và cảm động mà
bạn bè quốc tế đã dành cho đôi dép của Bác” ở New Delhi, thực ra, chả là
cái (đinh) gì nếu so với lòng sùng kính của đồng bào trong nước –
nhất là đối với những người ở vùng xa, vùng sâu, vùng căn cứ cách
mạng:
“Không dối lòng đâu, mỗi lần đi “dép Bác
Hồ” là thấy bụng không nghĩ điều trái, chân không đi hai đường. Chẳng riêng
mình, cả làng này ai cũng vậy. Chiến tranh khỏi nói, hòa bình rồi có biết bao
chuyện khó… Bông Rẫy hồi chiến tranh chỉ có 50 hộ, bây giờ đã lớn lên gần 120
hộ mà không còn ai đói, chỉ còn 10 hộ nghèo. Ai cũng có xe máy, hơn một nửa đã
làm được nhà xây. Không ai nghe lời kẻ xấu vượt biên trái phép… Không nhờ phép
lạ “dép Bác Hồ” sao được thế? Có “dép Bác Hồ” là thắng tất!
Đinh Ngút cất lên một tràng cười sảng khoái.
Ông nâng niu đôi dép mòn vẹt trên tay nói tiếp:
- Bông Rẫy bây giờ hãy còn gần hai chục người
giữ được “dép Bác Hồ” năm sáu chín như mình. Năm ngoái huyện đội vào xin mấy
đôi, nói để làm bảo tàng, dân làng mới cho. Phải để giáo dục bọn trẻ chứ. Mất
“dép Bác Hồ” là giẫm phải vết chân kẻ xấu đấy. Mừng là lũ thanh niên bây giờ
rất biết nghe lời người già. Chúng nó cũng học theo đi “dép Bác Hồ”. Nhất trí
với nhau: Ngày thường không nói, có ngày lễ là phải đi “dép Bác Hồ”. Hôm học
tập đạo đức, tư tưởng Bác mới đây, già trẻ ai cũng lấy “dép Bác Hồ” ra mang, y
như là chuẩn bị lên đường hồi chiến tranh vậy…
(Lê Quang Hồi. “Làng Bông Rẫy Mang Dép Bác
Hồ.” Quân đội Nhân dân 1-6-2009).
Đôi dép lốp của Bác, rõ ràng, không chỉ
đã đi vào trái tim toàn thể nhân loại mà còn đi vào vũ trụ và (sẵn
trớn) đi luôn vào lịch sử văn học nghệ thuật, và danh nhân của dân
tộc Việt:
“… vào năm 1970, một năm sau ngày Bác đi
xa, nhà thơ Nam Yên đã viết một bài thơ lời lẽ dung dị nhưng rất mực thắm
thiết, gợi lên cảm xúc thương mến Bác vô bờ. Bài thơ được nhạc sĩ Vân An phổ
nhạc:
“Dép Bác, đôi dép cao su
Bác đi từ ở chiến khu Bác về
Phố phường trận địa
Nhà máy đồng quê
Đều in dấu dép Bác về, Bác ơi,
Dép này, Bác trải đường dài
Dép này, Bác mở tương lai nước nhà
Đường đi chiến đấu gần xa
Dấu dép cha già dẫn lối con đi.”
Bác Hồ là biểu trưng của tất cả những gì dung
dị, mang một bản sắc dân tộc Việt Nam nhuần nhị, sâu xa nhất. Ngay cả quần áo,
đồ dùng tiện nghi của Bác cũng đơn sơ, mộc mạc trong đó đôi dép của Bác trở
thành một hình tượng thân quen, thắm thiết đối với chúng ta… (Trung Đức.
“Đôi Dép Bác Hồ Đôi Dép Cao Su.” vietnamngayve 23-03-2013).
Hai chữ “chúng ta” trong câu văn thượng
dẫn, tiếc thay, không bao gồm cái đám dân miền Nam – nơi vùng địch tạm
chiếm. Ở đây, trong suốt chiều dài của cuộc chiến vừa qua không ai
được mang dép như Bác, và người dân cũng thiếu vắng hình ảnh của
của lãnh tụ kính yêu (cỡ Bác) để tôn thờ. Và có lẽ vì thế nên có
người đã sinh ra lòng đố kỵ, ganh tị, rồi thốt ra những lời lẽ xúc
phạm đến Bác một cách rất nặng nề:
Nhưng người Hà Nội đến lạ! Họ biết Xã
Hội Chủ Nghĩa là cái bánh vẽ cực kỳ thối tha mà cứ hớn hở ngồi
vào lột lá bóc ăn và xơn xớt khen ngon khen ngọt đến nỗi người ngoài
nhìn vào phát thèm. Họ biết Hồ Chí Minh gian manh xảo trá mà cứ
ngoác miệng ngợi ca lúc ông ta còn sống và khóc khô nước mắt khi ông
chết. (Vũ
Biện Điền. Phiên Bản Tình Yêu, Volume II. Fall Church,Virginia: Tiếng Quê
Hương, 2012.)
Nói thư thế là “vơ đũa cả nắm.” Ở đâu
mà không có kẻ này, kẻ nọ. Ở Hà Nội, cũng có người ngắm đôi dép
bác Hồ với đôi mắt ráo hoảnh:
“Một lần tôi quay cảnh ông thăm đồng bào
nông dân ở Hải Dương, mùa hè năm 1957. Sáng sớm hôm ấy trời mưa to, trên đường
còn lại những vũng nước lớn. Ðến một đoạn đường lầy lội ông tụt dép, cúi xuống
xách lên. Trong ống ngắm của máy quay phim tôi nhìn rõ hai bên vệ cỏ không bị
ngập. Tôi chợt hiểu: ông không đi men vệ đường bởi vì ông muốn chưng đôi dép.” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày, 2nded. Fall
Church, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2008).
Ồ thì ra Bác dùng dép để chưng!
Thảo nào mà đôi dép râu đã được toàn ban Tuyên Giáo Trung Ương cầy
cục, bằng mọi cách, để đặt nó lên … bàn thờ tổ quốc cho bằng được
mới thôi!
Và thế mới biết là cái khái niệm
“chính chủ” của (đương kim) Bộ Trưởng Đinh La Thăng không phải là hoàn
toàn vô lý hay vô cớ. Cùng là đôi dép cao xu, sản xuất hàng loạt,
nhìn thô kệch y hệt như nhau mà Bác thì xử dụng nó như là vật
trang sức cho cuộc đời hoạt động chính trị của mình, và cũng phần
nào nhờ nó mà sự nghiệp cách mạng của Bác có lúc đã lên đến
“đỉnh cao chói lọi,” còn đám thường dân (dấm dớ) mà buộc phải xỏ
chân vào là đời kể như khốn nạn – nếu không bỏ mạng thì cũng bỏ mẹ
như chơi. Coi nè:
12/8/1967- Bù Đốp, miền Nam Việt Nam Tù binh Việt Cộng 15 tuổi… |
Hình ảnh này nếu dùng để minh hoạ cho bài thơ “Vay
Tuổi” của Phùng Cung là (kể như) hết xẩy:
Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Đèn con tiễn đến cổng đình
Quay về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe Sanh – Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghĩa trang mồ giả, nắm xương không mồ…
Dù cũng sinh ra trong thời chinh chiến nhưng vì sống bên
này vỹ tuyến nên tôi may mắn hơn những người cùng tuổi với mình.
Trong khi họ chân đi dép râu, vai đeo ba lô, tay ôm súng đạn vượt Trường
Sơn thì tôi vẫn được ngồi yên lành ở trường trung học công lập
Trần Hưng Đạo – Đà Lạt.
Dù vậy, rất ít khi tôi chịu ngồi yên trong lớp. Một
tuần, ít nhất cũng có đến hai ba hôm tôi bỏ học. Tôi ra ngồi cà phê
Tùng (Đà Lạt) để tập uống cà phê đen, hút thuốc lá Basto, nghe nhạc Beatles
hay đọc Im Lặng Hố Thẳm và Hố Thẳm Tư Tưởng của Phạm Công Thịện
– nếu vào buổi sáng.
Chiều, tôi đi lang thang quanh đồi Cù rồi ngồi dựa gốc
thông hát nhạc vàng (Thu Vàng, Chiều Vàng) nho nhỏ chỉ đủ chính
mình nghe:
- Chiều hôm
qua lang thang trên đường
Hoàng hôn xuống, chiều thắm muôn hương
chiều hôm qua mình tôi bâng khuâng
Có mùa Thu về, tơ vàng vương vương
Hoàng hôn xuống, chiều thắm muôn hương
chiều hôm qua mình tôi bâng khuâng
Có mùa Thu về, tơ vàng vương vương
- Trên đồi
xanh chiều đã xuống dần
Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng.
Riêng mình ta ngồi ngắm quanh trời
Lạnh lùng nghe tiếng chim chiều gọi đàn
Mãi cho đến sau Mùa Hè Đỏ Lửa, khi đã hai mươi tuổi, tôi
mới nhận được giấy mời của Nha Động Viên đi trình diện nhập ngũ “để
sát cánh cùng quân dân cán chính chống cộng sản xâm lược.”
-Ý Trời, cộng sản xâm lược hồi nào vậy cà?
- Sao hồi giờ không nghe ai nói gì hết trơn hết trọi về
cái vụ này há?
- Mà họ xâm lược làm chi mới được chớ? Why and
for what?
Đến khi tôi tìm ra được giải đáp cho những câu hỏi trên
thì mọi sự đã trở nên quá muộn, tôi đã trở thành một kẻ thuộc bên
thua cuộc. Dù sao (nói có thánh thần làm chứng) tôi vẫn cảm ơn Trời
là đã may mắn không sinh ra và lớn lên … ở Bên
Thắng Cuộc, cái bên mà vô số thiếu niên hay thiếu nữ
phải đi dép râu để cùng với Bác hành quân rồi trở thành “những đoá hoa bất tử nơi ngã ba Đồng Lộc”
hay tù binh trên đường Trường Sơn. Hiếm hoạ mới có người vào đến
được Sài Gòn để rồi trở về với con búp bê, hay cái khung xe đạp trên
vai!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét