Người ta nhìn thấy một gương mặt âm u trong buổi chiều tà của một vở diễn mà ở đó, sân khấu nhuộm máu khô, rác rến và những bàn tay người chới với kẽm gai… Một cuộc triển lãm xếp đặt nghệ thuật chăng? Không phải thế, đó là hiện thực sinh động, một hiện thực làm rơi nước mắt trên miền Nam Việt Nam hiện tại. Một miền Nam sau ba mươi mấy năm, người Cộng sản đã mang những thứ ấy để trưng bày, chưng diện và sơn phết lên số phận của vài mươi triệu người. Đừng nghĩ rằng đây là một sự hoang tưởng hay một đoạn văn siêu thực!
Sở dĩ tôi dám bạo miệng nói như thế, vì tôi quá đau buồn khi nghĩ đến những người tài xế xe, cũng có lúc họ hầm hố, găng tơ, nhưng đó là những khi họ quá bức bách, căng thẳng bởi cuộc sống thường nhật, bởi những cây dùi cui và màu vàng vừa quen thuộc vừa đe dọa – màu vàng cảnh sát giao thông. Và, đau buồn nhất là giữa con người với con người, chẳng còn tình người, người bóc lột người, người đối xử với người còn tệ hơn cả thú vật, không còn yêu thương, không còn niềm tin, không tôn trọng và cũng không còn nốt lòng tự trọng!
Vì sao? Vì sau ba mươi mấy năm, nhà nước Cộng sản đã mang hai thứ rác kinh hoàng, dị hợm nhất để nhuộm miền Nam Việt Nam, đó là lòng tham và chủ nghĩa Cộng sản. Hai thứ này, tuy hai mà một, tuy một mà hai, nó là hai mặt mâu thuẫn để phát triển của một chủ đích, âm mưu hay là một lý tưởng độc tài!
Lần vứt rác đầu tiên vào miền Nam của người Cộng sản, có thể nhắc đến nền kinh tế tập trung bao cấp. Từ một miền Nam hoa lệ, trù phú và hào sảng, trong chốc lát bỗng tan tác, người thì bỏ chạy, kẻ thì mất trắng, chết chóc, tù đày, những người dân từ chỗ giàu có, tự tin trở nên nghèo khổ và tự ti. Với đời sống tem phiếu, xếp hàng nhận miếng ăn, cái đói luôn đe dọa đã đẩy con người xuống hàng súc vật, làm thí xác để rồi chờ ban phát miếng ăn. Không hơn không kém.
Chính môi trường này cộng với quyền lực của các ông, các bà lương thực, thuế vụ nói riêng và cán bộ mũ cối nói chung đã đẩy con người đến chỗ sợ đói, sợ chết và sợ bị mất phần, phải xuống nước và thậm chí không ít người phải khúm núm trước các ông các bà lương thực, cán bộ mũ cối và cầu cạnh họ với hy vọng mình không bị cắt xén miếng ăn…!
Sau biến cố 30 tháng Tư năm 1975, nạn hôi của bùng phát, “kẻ chiến thắng” đã chẳng ngại ngần lùng sục, lấy bất kì cái gì đang có của “bên chiến bại”, không ngoại trừ vợ con và số phận, mạng sống của đối phương. Nạn hôi của đã biến miền Nam Việt Nam thành một cái chợ hay một bãi tha ma tràn ngập tiếng kêu than và oán hận, cừu thù dậy sóng. Và vết dấu của nạn hôi của kéo dài, loang rộng mãi về sau này, khi nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa xuất hiện.
Chưa xong, đó chỉ là một sọt rác bản năng mà người Cộng sản mang vào miền Nam, sọt rác tư tưởng cũng không kém phần li kì, gay cấn, nó nghiễm nhiên biến sự cướp giật, vô cảm thành một chủ nghĩa, chủ thuyết và đương nhiên, hành vi cướp giật, máu lạnh trở nên vững chãi hơn, có cơ sở lý luận hơn khi chủ nghĩa Cộng sản Mác – Lê nin, Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh chính thức bước qua cửa giảng đường, biến thành “hòn đá tảng tư tưởng” của hàng hàng lớp lớp thế hệ sau này.
Không cần biết đúng sai, không cần biết thế giới đã lên đường, đã bước vào đại lộ văn minh từ lâu, không cần biết học sinh, sinh viên có ưa hay không ưa thứ tư tưởng này, nó được xếp vào môn bắt buộc phải học và được đào tạo theo qui trình học thuộc lòng, đến kỳ thi lại chép những thứ mình đã học thuộc lòng ra giấy để vượt qua kì thi. Bất kì học sinh, sinh viên nào không thuộc lòng nó (đừng hòng giở tài liệu để sao chép, riêng môn học liên quan đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản, giám thị phòng thi hét ra lửa!) thì mới hy vọng có tấm bằng sau này. Và nó nghiễm nhiên nằm lòng, ăn sâu vào não trạng nhiều thế hệ, dù muốn hay không muốn!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét