Lời mở đầu
Nói về
“bạo chính”, hầu hết những người Trung Hoa sẽ liên tưởng đến Tần Thủy Hoàng
(259-210 B.C.), hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Tần, người đã ra lệnh đốt
sách và chôn sống nho sĩ. Chính sách hà khắc bạo ngược của Tần Thủy Hoàng đối với
dân chúng là: “dùng tất cả tài nguyên trong thiên hạ để phụng sự cho sự cai trị
của vua” [1]. Chính sách này bao gồm bốn phương diện: đánh thuế thật nặng; lạm
dụng nhân lực cho các dự án để tuyên dương hoàng đế; dùng luật lệ tàn bạo tra tấn
tội nhân và trừng phạt ngay cả thân nhân và láng giềng của họ; kiềm chế tư tưởng
và áp bức bằng cách đốt sách và ngay cả chôn sống nho sĩ. Dưới sự thống
trị của Tần Thủy Hoàng, dân số của Trung Quốc có khoảng mười triệu; nhưng triều
đình nhà Tần đã bắt hơn hai triệu người làm nô lệ. Tần Thủy Hoàng cũng áp
dụng chính sách hà khắc tàn bạo này cho giới trí thức, bằng cách cấm tự do tư
tưởng trên mọi lãnh vực. Dưới sự cai trị của Tần Thủy Hoàng, hàng ngàn
nho sĩ và các quan lại mà phê phán triều đình đều bị giết chết.
Ngày
nay, so với triều đại hổ lang của Tần Thủy Hoàng, sự bạo ngược của Đảng Cộng Sản
còn mãnh liệt hơn rất nhiều. Triết lý của Đảng Cộng Sản là "đấu
tranh”, và sự thống trị của Đảng Cộng Sản xây dựng trên một loạt đấu
tranh: “đấu tranh giai cấp”, “đấu tranh đường lối”, “đấu tranh tư tưởng” ở
trong Trung Quốc và ở các quốc gia khác. Mao Trạch Đông, lãnh tụ Ðảng Cộng
Sản Trung Quốc đầu tiên của Cộng hòa Nhân Dân Trung Quốc, huỵch toẹt tuyên bố rằng,
“Tần Thủy Hoàng đáng kể gì? Ông ta chỉ giết có 460 nho sĩ, còn chúng ta
thì thủ tiêu đến 46 ngàn tên trí thức. Có người cho chúng ta là kẻ độc
tài thống trị, giống như Tần Thủy Hoàng, chúng ta thừa nhận tất cả. Nó
phù hợp với thực tế. Tiếc thay họ nói thế còn chưa đủ, cho nên chúng ta cần
phải gia tăng để bổ sung.” [2]
Chúng
ta hãy nhìn lại 55 năm khốn khổ của Trung Quốc dưới sự thống trị của Đảng Cộng
Sản. Vì lý luận nền tảng của Đảng cộng sản là “đấu tranh giai cấp”, cho nên Đảng
Cộng Sản Trung Quốc từ khi nắm chính quyền đã thẳng tay diệt tuyệt từng giai cấp,
và chúng đã lấy học thuyết cách mạng bạo lực mà thực hành chính trị khủng bố.
Giết người và tẩy não đã được sử dụng đi đôi với nhau để đàn áp bất cứ
tín ngưỡng nào khác, ngoại trừ lý thuyết của Đảng cộng sản. Đảng Cộng Sản Trung
Quốc đưa ra vận động này đến vận động khác để tạo hình ảnh thần thánh cho
chúng. Theo sau lý luận của đấu tranh giai cấp và cách mạng bạo lực, Đảng Cộng
Sản Trung Quốc không ngừng tiêu diệt những phần tử không giống mình ở trong quần
chúng và những người không cùng phạm vi. Đồng thời dùng các thủ đoạn lừa dối đã
gia tăng trong đấu tranh để cưỡng ép tất cả người dân Trung Quốc trở thành những
tên đầy tớ trung thành ngoan ngoãn dưới sự thống trị bạo ngược của chúng.
I. Cải
Cách Ruộng Đất — "Tiêu Diệt Giai Cấp Địa Chủ"
Chưa
được ba tháng sau khi thành lập Trung Quốc cộng sản, Đảng Cộng Sản hô hào tiêu
diệt giai cấp địa chủ, như một trong những dẫn đầu cho chương trình cải cách ruộng
đất trên toàn quốc. Khẩu hiệu của Đảng là “dân cày có ruộng”, đã nuôi dưỡng
cái tâm ích kỷ của tá điền, khuyến khích họ đấu tranh với địa chủ bằng bất cứ
phương kế nào và bất chấp hành động của họ có đạo đức hay không. Chiến dịch
cải cách ruộng đất qui định rõ ràng: tiêu diệt giai cấp địa chủ, phân loại dân
chúng ở vùng nông thôn thành các nhóm xã hội khác nhau. Hai mươi triệu
dân ở vùng nông thôn trên toàn quốc đã bị gắn nhãn là “địa chủ, phú nông, phản
cách mạng, hay là phần tử xấu”. Những người thuộc loại này, bị khinh miệt,
bị làm nhục, bị mất tất cả quyền lợi công dân. Khi chiến dịch cải cách ruộng
đất lan rộng ra đến các vùng xa xôi hẻo lánh và làng mạc của dân tộc thiểu số,
thì các tổ chức Đảng của Đảng Cộng Sản cũng phát triển rất nhanh. Các chi bộ
làng xã của Đảng phát triển khắp nơi trên Trung Quốc. Các chi bộ địa
phương là miệng lưỡi để truyền chỉ thị từ Ban Trung Ương của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc và cũng là tuyến đầu của đấu tranh giai cấp, đã kích động tá điền
vùng lên chống lại địa chủ. Gần 100 ngàn địa chủ đã bị giết chết trong chiến dịch
này. Trong một số vùng, Đảng Cộng Sản và tá điền đã giết toàn bộ gia đình của
các địa chủ, bất kể già hay trẻ, coi như là cách thức để hoàn toàn nhổ tận gốc
giai cấp địa chủ.
Cùng
lúc ấy, Đảng Cộng Sản Trung Quốc phát động làn sóng tuyên truyền đầu tiên của
chúng, tuyên bố rằng “Chủ tịch Mao là cứu tinh vĩ đại của nhân dân” và rằng “chỉ
có Đảng Cộng Sản mới có thể cứu được Trung Quốc”. Trong giai đoạn cải
cách đất đai, qua chính sách cưỡng đoạt của Đảng Cộng Sản, tá điền đạt được những
gì họ muốn mà không cần phải lao động, họ cướp bóc bằng bất cứ cách nào.
Nông dân nghèo mang ơn Đảng Cộng Sản đã cải thiện đời sống cho họ và vì vậy
chấp nhận tuyên truyền của Đảng Cộng Sản rằng Ðảng phục vụ lợi ích của nhân dân.
Đối với
chủ nhân mới của đất chiếm được, những ngày tươi đẹp của “dân cày có ruộng”
cũng ngắn ngủi. Trong vòng hai năm, Đảng Cộng Sản bắt đầu áp dụng một số chính
sách ép buộc nông dân gia nhập các tổ chức như tổ hỗ trợ, hợp tác xã sơ cấp, hợp
tác xã cao cấp, và công xã nhân dân. Dùng khẩu hiệu mà đả kích “phụ nữ bó
bàn chân” — là những người theo chậm — Đảng Cộng Sản Trung Quốc, từ năm này đến
năm khác, điều động và thúc đẩy nông dân “xông vào” chủ nghĩa xã hội. Với
thóc lúa, bông, và dầu nấu ăn được đặt dưới một hệ thống thu mua thống nhất
trên toàn quốc, các sản phẩm nông nghiệp chính không được trao đổi trên thị trường.
Thêm vào đó Đảng Cộng Sản Trung Quốc còn thiết lập một hệ thống đăng ký cư trú
(hộ khẩu), ngăn chận không cho nông dân ra thành thị để tìm việc hay cư trú.
Những ai đăng ký ở nông thôn thì không được phép mua thóc lúa tại các cửa
hàng quốc doanh và con cái của họ bị cấm không được đi học ở thành phố.
Con cái của nông dân chỉ là nông dân, như vậy đã biến 360 triệu dân nông
thôn vào đầu thập niên 50 trở thành những công dân hạng nhì.
Bắt đầu
vào năm 1978, trong 5 năm đầu sau khi chuyển từ hệ thống làm việc tập thể sang
hệ thống khoán hộ, một số người trong 900 triệu nông dân có tình trạng khá hơn,
lợi tức thu hoạch khá hơn và địa vị xã hội tương đối cũng khá hơn. Tuy
nhiên lợi ích nhỏ nhoi đó mấy chốc cũng mất luôn bởi vì cơ cấu giá cả ưu đãi
hàng hóa công nghiệp hơn là hàng nông nghiệp; một lần nữa các nông dân lại phải
lâm vào cảnh bần cùng. Lợi tức giữa dân thành phố và dân nông thôn cách nhau rất
xa, sự chênh lệch về kinh tế càng ngày càng lan rộng ra. Các địa chủ và
phú nông mới đã xuất hiện trở lại trong các vùng nông thôn. Tài liệu từ
Tân Hoa Xã, miệng lưỡi của Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, cho thấy rằng từ năm 1997,
thu hoạch từ các vùng sản xuất thóc lúa chính và lợi tức của hầu hết các gia
đình nông thôn vẫn giữ nguyên, thậm chí trong một số trường hợp lại còn giảm
đi. Nói cách khác, thu hoạch của nông dân từ sản xuất nông nghiệp kỳ thực
không tăng. Tỷ lệ lợi tức giữa thành phố và nông thôn tăng lên từ 1.8 / 1 vào
giữa thập niên 80 cho đến ngày nay là 3.1 / 1.
II.
Cải tạo công nghiệp và thương mại — Tiêu diệt giai cấp tư sản
Một
giai cấp khác mà Đảng Cộng Sản muốn tiêu diệt là giai cấp tư sản trong nước, là
những người có tài sản ở các đô thị và các thị trấn nông thôn. Trong khi
cải cách công nghiệp và thương mại ở Trung Quốc, Đảng Cộng Sản cho rằng bản
nguyên của giai cấp tư sản và giai cấp công nhân là khác nhau: giai cấp thứ nhất
là giai cấp bóc lột, trong khi giai cấp thứ hai là giai cấp không bóc lột và chống
bóc lột. Theo cái lô-gic này, giai cấp tư sản đã được tạo ra để bóc lột
và sẽ không ngừng bóc lột cho đến khi bị diệt vong; nên phải bị tiêu diệt chứ
không cải tạo được. Với cái tiền đề ấy, Đảng Cộng Sản dùng cả hai cách,
giết và tẩy não, để cải tạo các nhà tư bản và thương gia. Đảng Cộng Sản sử
dụng phương pháp đã được kiểm nghiệm lâu dài của nó: thuận theo thì sống, nghịch
thì bị tiêu diệt. Nếu ai cống hiến tài sản cho quốc gia và ủng hộ Đảng Cộng
Sản, thì chỉ coi là mâu thuẫn nội bộ của nhân dân. Trái lại, nếu bất đồng
ý kiến hay phàn nàn về chính sách của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, thì bị liệt vào
phần tử phản cách mạng và sẽ thành đối tượng của chính quyền độc tài tàn bạo của
Đảng Cộng Sản.
Trong
giai đoạn gió tanh mưa máu của các cuộc cải tạo này, các nhà tư bản và chủ
doanh nghiệp đều dâng nạp tài sản của họ. Nhiều người trong bọn họ tự tử vì
không chịu được sự sỉ nhục. Trần Nghị, lúc đó là thị trưởng của Thượng Hải,
đã hỏi mỗi ngày rằng, “Hôm nay có bao nhiêu người nhảy dù?”, nghĩa là hỏi số
người trong nhóm tư bản tự tử bằng cách nhảy xuống từ nóc tòa nhà trong ngày
đó. Chỉ có vài năm, mà Đảng Cộng Sản đã hoàn toàn tiêu diệt chế độ tư hữu
ở Trung Quốc.
Trong
khi thực hiện các chương trình cải cách đất đai và cải tạo công thương, Đảng Cộng
Sản cũng phát động nhiều cuộc vận động qui mô để đàn áp người dân Trung Quốc.
Những cuộc vận động này gồm có: đàn áp “phản cách mạng”, chiến dịch cải tạo tư
tưởng, trừ sạch tập đoàn chống Đảng do Cao Cương và Nhiêu Sấu Thạch[3] cầm đầu,
và thanh trừ nhóm “phản cách mạng” Hồ Phong [4], chiến dịch Tam Phản, Ngũ Phản,
và trừ sạch hơn nữa các phần tử phản cách mạng. Đảng Công Sản dùng những
cuộc vận động này để nhắm vào và đàn áp tàn nhẫn vô số người dân vô tội.
Trong mỗi cuộc vận động chính trị, Đảng Cộng Sản cùng với với các đảng ủy,
tổng chi, chi bộ, tận dụng toàn bộ sự khống chế tài nguyên của chính phủ.
Cứ ba đảng viên là hình thành một nhóm chiến đấu nhỏ, thâm nhập các làng
xóm và các nẻo đường. Các nhóm chiến đấu này ở đâu cũng có, không việc gì
là không quản lý đến. Trong những năm chiến tranh, kết cấu khống chế
kiểu mạch lưới đan xéo chặt của Đảng là từ mạng lưới “chi bộ Đảng đặt trong
quân đội” của Ðảng Cộng Sản, đã đóng một vai trò then chốt trong các cuộc vận động
chính trị sau này.
III.
Đàn Áp Tôn Giáo và Cấm chỉ các Môn phái Đạo
Đảng Cộng
Sản còn phạm một điều gian ác nữa trong cuộc đàn áp tôn giáo tàn bạo và cấm chỉ
hoàn toàn các Đạo môn cội rễ sau khi thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc.
Vào năm 1950, Đảng Cộng Sản Trung Quốc ra lệnh cho chính quyền địa phương
phải cấm ngặt tất cả các Đạo môn và bang hội nào không chánh thức. Đảng Cộng
Sản tuyên bố rằng các tổ chức “phong kiến” bí mật này chỉ là công cụ trong tay
của các địa chủ, phú nông, phần tử phản cách mạng, và đặc vụ của Quốc Dân Đảng.
Trong chiến dịnh thẳng tay đàn áp trên toàn quốc, chính phủ động viên các giai
cấp mà chúng tin cậy để nhận diện và đàn áp hội viên của các môn phái Đạo.
Chính quyền trong các cấp khác nhau trực tiếp giải tán các nhóm gọi là
“nhóm mê tín” như là nhóm Cơ Đốc Giáo, Thiên Chúa Giáo, Đạo Giáo (đặc biệt những
người tin tưởng Nhất Quán Ðạo), và Phật Giáo. Chúng ra lệnh cho tất cả
các thành viên của nhà thờ, chùa, và các môn phái phải đăng ký với chính quyền
và phải hối lỗi vì đã tham dự các hoạt động này. Không đăng ký thì sẽ bị
trừng phạt nặng nề. Vào năm 1951, chính quyền [của Ðảng] chính thức ban
hành luật cấm: những ai tiếp tục hoạt động trong các môn phái không chính thức
sẽ bị tù chung thân hay bị tử hình.
Cuộc vận
động này đã đàn áp một số đông tín đồ tin tưởng Thượng Ðế, Thần linh, là những
người lương thiện và tuân theo luật pháp. Thống kê chưa đầy đủ, cho thấy rằng
trong thập niên 50 Đảng Cộng Sản đã đàn áp ít nhất 3 triệu tín đồ tôn giáo và hội
viên của các bang hội bí mật, một số trong nhóm người này đã bị giết chết.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc khám xét hầu hết mỗi một gia đình trên toàn quốc
và thẩm vấn mọi người trong gia đình, thậm chí còn đập nát các tượng thờ ông
Táo, ông Địa mà các nông dân Trung Quốc theo truyền thống vẫn thờ cúng. Đồng
thời việc giết người lại càng củng cố thông điệp của Đảng Cộng Sản rằng chỉ có
thể hệ tư tưởng của Đảng cộng sản mới là thể hệ tư tưởng hợp pháp duy nhất, và
chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới là tín ngưỡng hợp pháp duy nhất. Vì vậy có
những người mà gọi là tín đồ “ái quốc” xuất hiện ngay sau đó. Hiến pháp
quốc gia chỉ bảo vệ các tín đồ “ái quốc”. Trên thực tế, cho dù tin vào bất cứ
tín ngưỡng nào mọi người chỉ có một tiêu chuẩn: mọi hành vi phải tuân theo sự
chỉ huy của Đảng Cộng Sản, và phải thừa nhận rằng Đảng Cộng Sản là trên hết,
trên tất cả các giáo hội. Nếu là một tín đồ Cơ Ðốc Giáo, thì Đảng Cộng Sản
là Thượng đế của Thượng đế trong Cơ Ðốc Giáo. Nếu là một Phật tử, Đảng Cộng
Sản là Phật Tổ của Phật Tổ. Nếu ở trong Hồi Giáo, thì Đảng Cộng Sản là Allah của
Allah. Còn đối với Phật sống trong Phật Giáo Tây Tạng, thì Đảng Cộng Sản
sẽ xen vào, và Ðảng sẽ chọn ai làm vị Phật sống này. Hễ Đảng cần người ta nói
cái gì thì người ta phải nói cái đó, và hễ Đảng cần người ta làm cái gì thì họ
phải làm cái đó. Tất cả tín đồ bị bắt phải thực thi mục tiêu của Đảng Cộng
Sản, trong khi tín ngưỡng của họ thì chỉ là trên danh nghĩa mà thôi. Nếu không
làm như vậy thì sẽ là đối tượng để đả kích của Ðảng Cộng Sản độc tài .
Theo
báo cáo ngày 22 tháng 2 năm 2002 của báo Nhân Loại và Nhân Quyền trên Internet,
20 ngàn tín đồ Cơ Ðốc Giáo thực hiện một cuộc kiểm kê với 560 ngàn tín đồ Cơ đốc
Giáo thuộc các giáo hội gia đình trong 207 thành phố thuộc 22 tỉnh ở Trung Quốc.
Cuộc kiểm kê cho thấy rằng trong số các tín đồ của giáo hội gia đình, 130
ngàn người đã bị chính quyền theo dõi. Trong quyển sách Đảng Cộng Sản Trung Quốc
Ðàn Áp Tín Ðồ Cơ Ðốc Giáo như thế nào (1958)[5] đã viết rằng đến năm 1957, Đảng
Cộng Sản Trung Quốc đã giết chết hơn 11 ngàn tín đồ tôn giáo và ngang nhiên
giam giữ và tống tiền nhiều người hơn nữa.
Bằng
cách tiêu diệt giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản, và bằng cách đàn áp quảng đại
quần chúng là các tín đồ tôn giáo và những người tôn trọng luật pháp, Đảng Cộng
Sản đã dọn đường cho chủ nghĩa Cộng Sản trở thành một giáo phái bao trùm mọi
người ở Trung Quốc.
IV. Vận
Động Chống Cánh Hữu — Tẩy Não Toàn Quốc để mà Thâu Dùng
Vào
năm 1956, một nhóm trí thức Hungary thành lập câu lạc bộ Vòng Petofi, để tổ chức
hội thảo và tranh luận về chính phủ Hungary. Nhóm người này đã
khích động một cuộc cách mạng toàn quốc ở Hungary, nhưng sau đó thì bị lính của
Liên Sô dẹp tắt. Mao Trạch Đông đã lấy “Sự kiện Hungary” này làm một bài
học. Vào năm 1957, Mao kêu gọi các phần tử trí thức và dân chúng ở Trung
Quốc “giúp Đảng Cộng Sản chấn chỉnh”. Cuộc vận động này, vắn tắt là “Vận
Ðộng Trăm Hoa”, mang khẩu hiệu “trăm hoa đua nở, trăm phái tranh hót”. Mục
đích của Mao là để dụ dỗ, lừa bịp mà lôi ra các “phần tử chống Đảng” trong dân
chúng. Trong bức thư gửi cho các lãnh đạo Đảng cấp tỉnh vào năm 1957, Mao
Trạch Đông nói ra ý định “dụ rắn ra khỏi hang” của mình bằng cách để cho họ tự
do phô bày quan điểm của họ dưới danh nghĩa tự do tư tưởng và chỉnh đốn Đảng cộng
sản.
Vào thời
đó, Ðảng hô hào khuyến khích dân chúng bày tỏ quan điểm và hứa hẹn không trả
thù — Đảng sẽ không túm tóc, không lấy gậy đập, không chụp mũ, và quyết không
thanh toán sau khi mọi chuyện đã qua — ý rằng Ðảng sẽ không tìm lỗi, tấn công,
vu khống, hay trả đũa. Nhưng sau đó không lâu, Đảng Cộng Sản bắt đầu một
cuộc vận động “chống cánh Hữu”, tuyên bố rằng 540 ngàn người dám bày tỏ quan điểm
như là “ thuộc cánh Hữu”. Trong số này có 270 ngàn người đã bị mất việc
và 230 ngàn người đã bị gán nhãn là “phần tử trung Hữu”, hay là “phần tử chống
Đảng, chống chủ nghĩa xã hội”. Sau đó có người tổng kết chiến lược chính
trị của Đảng cộng sản cho sự đàn áp, thành 4 loại: “dụ rắn ra khỏi hang";
"bịa đặt tội trạng, đột nhiên tập kích, trừng phạt với một lời buộc tội";
"tấn công không thương xót dưới danh nghĩa cứu dân"; "ép người
phải tự phê phán mình, rồi gán cho nhãn hiệu xấu xa nhất”.
Như vậy
cái gọi là “ngôn luận phản động” lúc đó, đã khiến cho rất nhiều người trong
cánh Hữu và những phần tử chống Đảng cộng sản phải bị đi đày gần 30 năm ở những
nơi vô cùng xa xôi hẻo lánh trong nước. Lúc đó Đảng sử dụng " vạn mũi tên
cùng bắn ra" để phê phán chặt chẽ đối với những người cánh Hữu. Ba lý luận
chính về cách mạng mà gọi là “Ba lý luận đại phản động”, là mục tiêu công kích
chung, mạnh mẽ vào thời đó bao gồm vài bài diễn văn của La Long Cơ, Chương Bá
Quân và Chư An Bình. Nhưng xét kỹ hơn thì điều mà họ nêu ra và đề nghị cho thấy
rằng mong ước của họ cũng không hại gì cả.
La
Long Cơ đề nghị thành lập một ủy ban liên hợp Đảng cộng sản và các đảng “dân chủ”
đủ loại để kiểm tra những điều sai lệch trong công tác của chiến dịch “Tam Phản”,
“Ngũ Phản” và các cuộc vận động thanh trừ phản cách mạng. Thông thường Hội Đồng
Quốc Gia cũng đệ trình những văn thư lên Ban Cố Vấn Chính Trị và Quốc Hội Nhân
Dân để xem xét và bình luận, cho nên Chương Bá Quân đã đề nghị Hội Ðồng Cố Vấn
Chính Trị và Quốc Hội Nhân Dân nên tham gia vào các quá trình hình thành chính
sách.
Chư An
Bình đề nghị rằng, bởi vì những người không phải là đảng viên cũng có ý kiến
hay, tự trọng, có trách nhiệm đối với quốc gia, do đó trên toàn quốc không cần
phải giao cho đảng viên phụ trách lãnh đạo các đơn vị, dù to hay nhỏ, hoặc ngay
cả các đội trong mỗi đơn vị. Cũng không cần thiết là mọi việc, dù to hay nhỏ,
phải được thực hiện theo cách mà Đảng viên đề nghị. Cả ba đã bày tỏ ý định
sẵn lòng đi theo Đảng cộng sản, và không một đề nghị nào của họ vượt quá phạm
vi đã định, như là lời của nhà văn và nhà phê bình Lỗ Tấn [6]. “Thưa lão gia,
áo choàng của ông đã bị bẩn. Xin cởi ra để con giặt cho ông.”. Giống như Lỗ Tấn,
những người “cánh Hữu” này đã thể hiện sự ngoan ngoãn, phục tùng và kính trọng.
Không
ai trong số những người bị kết tội thuộc “cánh Hữu” đã đề nghị rằng Đảng Cộng Sản
nên bị lật đổ; tất cả những gì mà họ đề nghị đều là phê bình xây dựng. Nhưng
chính vì những đề nghị này, mà hàng chục ngàn người dân mất tự do, hàng triệu
gia đình đau khổ. Tiếp theo đó là các cuộc vận động như là “giao phó cho Đảng
”, nhổ cờ trắng tức là lôi ra những người có lập trường kiên định, chiến dịch mới
“Tân Tam Phản”, đẩy giới trí thức ra các vùng nông thôn làm lao động nặng nhọc,
lùng bắt các phần tử cánh Hữu mà bị sót lại trong lần đầu. Hễ ai phản đối
người lãnh đạo trong đơn vị, nhất là bí thư Đảng, thì sẽ bị gán nhãn hiệu là phản
Đảng. Thông thường là bắt họ phải chịu những phê phán liên tục, hoặc gửi
họ vào các trại lao động để cưỡng ép cải tạo. Đôi khi Đảng còn chuyển cả
gia đình của họ đến các vùng nông thôn, cấm không cho con em của họ vào đại học
hay gia nhập quân đội. Họ cũng không thể xin việc làm ở thành phố hoặc tỉnh, và
mất luôn quyền lợi về y tế công cộng. Họ trở thành những người thấp kém
trong hạng nông dân và bị ruồng bỏ, ngay cả ở giữa đám công dân hạng nhì.
Sau cuộc
đàn áp giới trí thức, một số học giả đã hình thành loại nhân cách hai mặt, và
ngả theo chiều gió. Họ theo sát “Mặt trời Đỏ” và trở thành “phần tử trí
thức ngự dụng”(là trí thức được toà chỉ định) của Đảng Cộng Sản, thi hành hoặc
nói bất cứ điều gì Đảng muốn. Còn một số phần tử thanh cao khác trở nên
xa vời, tách mình ra khỏi vấn đề chính sách, và câm như hến. Các phần tử trí thức
Trung Quốc, mà có ý thức trách nhiệm với quốc gia theo truyền thống, lúc đó
cũng giống như Từ Thứ đã bị nhốt vào ngục của Tào Doanh, lại càng câm lặng hơn
từ đó.
V. Đại
Nhảy Vọt — Tạo Sai Lầm để Thử Lòng Trung Thành
Sau cuộc
vận động Chống Cánh Hữu, Trung Quốc tiến vào trạng thái sợ hãi sự thật. Mọi
người đều tham gia vào nghe những lời giả dối, kể lại chuyện bịa đặt, nói dối,
trốn tránh và che dấu sự thật bằng dối trá và tin đồn. Đại Nhảy Vọt là một
lần bùng nổ của bài thực hành tập thể về dối trá, lừa bịp trên toàn quốc.
Người dân trên toàn quốc, dưới sự lãnh đạo của tà linh Đảng Cộng Sản làm
rất nhiều điều ngu xuẩn. Từ kẻ nói dối đến những người bị lừa dối cả hai
đều lừa dối mình và lừa dối người như nhau. Trong chiến dịch dối trá và hành động
ngu đần này, Đảng Cộng Sản đã khắc sâu cái tà khí bạo ngược của chúng vào trong
cảnh giới tinh thần của toàn dân Trung Quốc. Có lúc, nhiều người lại còn
cao giọng hát những bài ca tụng Đại Nhảy Vọt như “Tôi là Ngọc Hoàng, tôi là
Long Vương. Tôi ra lệnh cho tam sơn ngũ núi mở đường, tôi đến đây!”[7]. Các
chính sách như là “đạt sản lượng thóc lúa 75 tấn trên mỗi héc-ta”, “gấp đôi sản
lượng thép”, và “vượt qua Anh quốc trong 10 năm và đuổi kịp Mỹ trong 15 năm” đã
diễn ra từ năm này đến năm khác. Các chính sách này dẫn tới vụ Đại mất
mùa làm thành nạn đói khủng khiếp trên toàn quốc, trầm trọng cướp đi hàng
triệu sinh mạng.
Trong
phiên họp toàn thể lần thứ Tám của Hội Nghị ban Trung Ương Đảng Cộng Sản ở Lư
Sơn vào năm 1959, có ai trong những người tham dự đã không đồng ý với quan điểm
của tướng Bành Đức Hoài [8] rằng Đại Nhảy Vọt do Mao Trạch Đông đề ra là ngu xuẩn?
Tuy nhiên, ủng hộ chính sách của Mao hay không đã biểu hiện giữa trung
thành và phản bội, hoặc là vạch một ranh giới giữa sống và chết. Trong một
câu chuyện từ lịch sử Trung Quốc, khi Triệu Cao[9] tuyên bố rằng con nai là con
ngựa, ông ta thừa biết sự khác biệt giữa nai và ngựa, nhưng ông cố ý gọi con
nai là con ngựa vì để kiểm soát dư luận, kiểm soát tranh cãi ngầm, và mở rộng
quyền lực của ông ta. Kết quả của phiên họp toàn thể Lư Sơn là ngay cả
Bành Đức Hoài cũng bị bắt buộc phải ký một nghị quyết tự kết tội và bị đào thải
khỏi chính quyền trung ương. Tương tự như thế, trong thời kỳ sau của Đại
Cách Mạng Văn Hóa, Đặng Tiểu Bình cũng bị bắt buộc phải hứa rằng ông ta sẽ
không bao giờ "lật lại bản án” mà chống lại quyết định của chính quyền đã
cách chức ông.
Xã hội
của nhân loại phải dựa trên những kinh nghiệm đã có để hiểu biết thế giới và
phát triển phạm vi kiến thức. Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đã khiến cho người ta mất
đi cơ hội học hỏi từ các bài học và kinh nghiệm trong lịch sử. Thêm vào đó, các
cơ quan kiểm duyệt truyền thông chỉ giúp cho càng ngày càng hạ thấp khả năng nhận
định tốt hay xấu của người dân. Sau mỗi cuộc vận động chính trị, thế hệ trẻ chỉ
được biết những báo cáo đã bị sửa đổi của Ðảng, và bị tước đoạt những phân
tích, lý tưởng, và kinh nghiệm sâu sắc từ các thế hệ trước. Kết quả là
người dân chỉ thu thập được các tin tức rải rác làm nền tảng để hiểu biết lịch
sử và phán đoán những sự kiện mới, họ nghĩ rằng mình đã thấy chính xác nhưng kỳ
thực đã chệch khỏi sự thật hằng ngàn dặm. Như thế chính sách làm cho dân ngu dốt
của Đảng Cộng Sản đã dựa vào loại phương thức này mà thực hành rộng rãi và có hệ
thống.
VI.
Đại Cách Mạng Văn Hóa — Tà Linh Phụ Thể, Đảo Ngược Càn Khôn
Nói đến
chính quyền bạo ngược thì không thể nào không nói đến Đại Cách Mạng Văn Hóa, là
một cuộc biểu diễn to lớn của tà linh cộng sản khi nó chiếm hữu toàn bộ Trung
Quốc. Năm 1966, một trào lưu ngông cuồng bạo ngược mới tràn vào Trung Quốc
đại lục, cuồng phong gầm thét của khủng bố Đỏ, như một con rồng yêu nghiệt điên
loạn đã thoát khỏi dây xích trói, làm chấn động núi non và đóng băng sông ngòi.
Nhà văn Tần Mục miêu tả Đại Cách Mạng Văn Hóa trong những lời ảm đạm như
sau:
“Đây
thực sự là một trường tai kiếp chưa từng xảy ra. Biết bao nhiêu triệu người bị
tống giam vì có liên hệ với một người trong gia đình [là đối tượng phải diệt trừ
của Đảng], biết bao nhiêu triệu người đã ôm hận kết thúc cuộc sống, hơn nữa biết
bao gia đình bị tan vỡ, biến trẻ em thành lưu manh ác độc, bao nhiêu sách bị đốt,
đập phá các ngôi nhà cổ xưa, tàn phá mộ phần của các bậc tiền hiền, dựa vào
danh nghĩa cách mạng mà phạm đủ loại tội ác.”[10]
Theo
thống kê bảo thủ, số người chết mờ ám ở Trung Quốc trong cuộc Đại Cách Mạng Văn
Hóa là 7.73 triệu.
Người
ta thường hiểu lầm rằng bạo lực và tàn sát trong Đại Cách Mạng Văn Hóa hầu hết
xảy ra dưới trạng thái vô chính phủ, do các cuộc vận động tạo phản và Hồng Vệ
Binh[11] tham gia trong việc giết người. Tuy nhiên, hàng ngàn tư liệu được
xuất bản chính thức hàng năm tại các huyện ở Trung Quốc chứng tỏ rằng cao điểm
của những cái chết mờ ám trong thời kỳ Đại Cách Mạng Văn Hóa không phải là vào
năm 1966, khi Hồng Vệ Binh nắm giữ hầu hết các văn phòng chính phủ, cũng không
phải vào năm 1967 khi những bọn tạo phản đấu tranh với các nhóm khác bằng võ
trang, mà là vào năm 1968 khi Mao Trạch Ðông nắm quyền thống trị trên toàn quốc.
Các hung thủ chém giết đẫm máu tanh trong những trường hợp ô nhục nhất, hầu hết
là các sĩ quan quân đội và binh lính, lực lượng dân quân, và các đảng viên của
Ðảng Cộng Sản thuộc mọi cấp của chính quyền.
Trong
các ví dụ sau đây chúng ta có thể thấy các hành vi bạo ngược xảy ra trong thời
kỳ Đại Cách Mạng Văn Hóa là từ chính sách của Đảng Cộng Sản và chính quyền địa
phương, chứ không phải là hành vi quá khích của Hồng Vệ Binh và phe tạo phản.
Đảng Cộng Sản đã che đậy chủ mưu trực tiếp và che đậy sự liên hệ trong cuộc
tàn sát bạo ngược của các đảng viên lãnh đạo và các viên chức chính phủ.
Vào
tháng tám năm 1966, Hồng Vệ Binh trục xuất các dân cư trú ở Bắc Kinh, là những
người bị phân loại trong các cuộc vận động quá khứ là “địa chủ, phú nông, phản
cách mạng, phần tử xấu, và cánh Hữu”, và bắt họ phải về nông thôn. Các thống
kê chính thức nhưng chưa đầy đủ cho thấy rằng 33.695 ngôi nhà đã bị lục soát và
85.196 dân cư tại Bắc Kinh bị trục xuất ra khỏi thành phố và đuổi về nguyên
quán của cha mẹ họ. Hồng Vệ Binh trên toàn quốc cũng theo cùng một chính sách,
trục xuất trên 400 ngàn dân cư ở thành thị về nông thôn. Ngay cả các viên
chức cao cấp, những người mà cha mẹ là địa chủ, cũng không tránh khỏi bị đày ải
về nông thôn.
Trên
thực tế Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã sắp đặt sẵn cho chiến dịch 'đuổi về nông
thôn' này, ngay cả trước khi Cách Mạng Văn Hóa bắt đầu. Bành Chân, cựu thị
trưởng Bắc Kinh, tuyên bố rằng dân cư ở Bắc Kinh phải là thành phần trong sạch
như các “tấm thủy tinh, đá pha lê”, tức là tất cả dân cư không tốt thuộc thành
phần giàu có phải bị trục xuất khỏi thành phố. Vào tháng 5 năm 1966, Mao
Trạch Ðông đã ra lệnh cho thuộc hạ “bảo vệ thủ đô”. Một tổ công tác thủ
đô được thành lập, do Diệp Kiếm Anh, Dương Thành Vũ và Tạ Phú Trị chỉ huy.
Một nhiệm vụ của tổ công tác này là dùng công an trục xuất những dân cư Bắc
Kinh thuộc về thành phần giàu có không tốt.
Lịch sử
này giúp làm sáng tỏ vấn đề vì sao chính phủ và các sở công an đã không can thiệp,
mà còn hỗ trợ Hồng Vệ Binh lục soát nhà cửa và trục xuất cả hơn 2% dân cư Bắc
Kinh. Bộ trưởng Bộ Công An, Tạ Phú Trị, ra lệnh cho công an không được
can thiệp vào các hành động của Hồng Vệ Binh, và còn phải cố vấn và cung cấp
tin tức cho bọn chúng. Hồng Vệ Binh chẳng qua chỉ là một quân cờ cho Đảng
cộng sản dùng để thi hành kế hoạch đã sắp đặt, rồi sau đó, vào cuối năm 1966, bọn
Hồng Vệ Binh này đã bị Đảng Cộng Sản vứt bỏ; hơn nữa nhiều người trong bọn đã bị
gán tội là phản cách mạng và còn bị bỏ tù, một số khác bị đuổi về nông thôn,
cùng với các thanh niên thành thị khác, để lao động và cải tạo tư tưởng. Tổ chức
Tây Thành của Hồng Vệ Binh, mà dẫn đầu cuộc trục xuất dân cư thành phố lúc đó,
đã được thành lập dưới sự "quan tâm thương mến” của các lãnh đạo Đảng Cộng
Sản. Lệnh buộc tội bọn Hồng Vệ Binh này cũng được phát ra sau khi được Bí thư
trưởng của Hội Đồng Nhà Nước lúc đó duyệt lại.
Theo
sau cuộc trục xuất dân cư Bắc Kinh mà bị cho là thuộc thành phần giàu không tốt,
các vùng nông thôn lại bắt đầu một cuộc đàn áp khác tới các thành phần giàu
không tốt. Vào ngày 26 tháng 8 năm 1966, một bài nói chuyện của Tạ Phú Trị đã
được chuyển xuống phiên họp của Cục Công An Ðại Hưng. Tạ Phú Trị ra lệnh
cho công an hỗ trợ Hồng Vệ Binh lục soát nhà cửa của các gia đình thuộc“năm
giai cấp đen” (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phần tử xấu, và cánh Hữu) bằng
cách cố vấn và cung cấp tin tức để đột kích. Cuộc Tàn Sát Đại Hưng[12] ô
nhục xảy ra là kết quả của mệnh lệnh trực tiếp từ Cục Công An huyện; những người
tổ chức là giám đốc và bí thư Đảng ủy của Cục Công An huyện, và bọn giết người
đa số là dân quân, ngay cả trẻ em chúng cũng không tha.
Trong
cách mạng, rất nhiều người vì các “biểu hiện tốt” trong những cuộc tàn sát
tương tự, mà được kết nạp vào Ðảng Cộng Sản. Theo thống kê chưa hoàn toàn
của tỉnh Quảng Tây, khoảng 50 ngàn Ðảng viên đã tham dự giết người. Trong
số đó có hơn 9 ngàn người được kết nạp vào Đảng sau khi sát nhân; hơn 20 ngàn
người sau khi gia nhập Ðảng thì tham dự giết người, và hơn 19 ngàn Đảng viên
khác đã tham dự vào việc giết người bằng cách này hay cách khác.
Trong
thời Cách Mạng Văn Hóa, "đánh đập người ta" cũng phải phân tích theo
giai cấp: "Người tốt đánh người xấu là đích đáng. Người xấu đánh người
xấu là vinh dự. Người tốt đánh người tốt là vì hiểu lầm.” Câu nói
này của Mao Trạch Ðông đã được truyền rộng ra trong các cuộc vận động tạo phản.
Nếu quả nhiên bạo lực đối với giai cấp kẻ thù là bởi vì bọn họ "đáng kiếp",
như vậy bạo lực và tàn sát bừa bãi sẽ lan rộng ra.
Từ
ngày 13 tháng 8 đến ngày 7 tháng 10 năm 1967, dân quân ở huyện Đạo, thuộc tỉnh
Hồ Nam đã tàn sát các thành viên của tổ chức “Tương Giang Phong Lôi”, và những
người thuộc “năm giai cấp đen”. Cuộc tàn sát kéo dài 66 ngày; hơn 4.519
người trong 2.778 gia đình đã bị giết chết thuộc 468 đại đội nằm trong 36 công
xã trong 10 khu. Trong tổng số 9.093 người đã bị giết chết thuộc 10 huyện của địa
khu, có 38% dân là thuộc vào “năm giai cấp đen” và 44% là con cái của họ.
Người già nhất bị giết là 78 tuổi, người trẻ nhất tuổi chỉ có 10 ngày.
Đây mới
chỉ là một sự kiện của một vùng nhỏ trong Cách Mạng Văn Hóa bạo hành. Ở Nội
Mông, sau khi thiết lập “ủy ban cách mạng” vào đầu năm 1968, cuộc thanh trừ hạng
giai cấp và diệt trừ “Đảng Nhân Dân Nội Mông” dưới danh nghĩa chế tạo là thanh
tra, đã giết hơn 350 ngàn người. Vào năm 1968, hàng chục ngàn dân cư ở tỉnh
Quảng Tây tham dự vào một cuộc Đại tàn sát đã được hóa trang để tiêu diệt một tập
thể quần chúng của “4.22”, đã giết hơn 110 ngàn người.
Những
sự kiện này đã cho thấy rằng tất cả hành động tàn bạo giết người chủ yếu trong
thời Cách Mạng Văn Hóa là ở dưới sự xúi giục và điều khiển trực tiếp của các
lãnh đạo của Ðảng cộng sản, họ đã dung túng và lợi dụng bạo lực để đàn áp và
tàn sát dân chúng. Những kẻ giết người tham dự trực tiếp vào việc chỉ huy
và tàn sát hầu hết là quân đội, cảnh sát, dân quân võ trang, và các đoàn viên,
đảng viên cốt cán của Ðảng cộng sản.
Nếu
nói rằng, trong sự Cải cách Ruộng đất, Đảng Cộng Sản đã lợi dụng nông dân
đạp đổ địa chủ mà cướp đất; trong sự Cải tạo Công nghiệp và Thương mại, Đảng Cộng
Sản đã lợi dụng giai cấp công nhân đạp đổ các nhà tư bản để cướp đoạt tài sản,
và trong cuộc Vận động Chống cánh Hữu, Đảng Cộng Sản đã loại trừ tất cả giới
trí thức mà có tư tưởng đối lập, khiến cho các phần tử trí thức phải câm miệng,
vậy thì mục đích giết người trong thời Cách Mạng Văn Hóa là gì? Đảng Cộng
Sản sử dụng nhóm này để giết nhóm khác, và không một giai cấp nào được tin cậy.
Ngay cả những ai thuộc giai cấp công nhân và nông dân, hai giai cấp mà Đảng tin
cậy trong quá khứ, nếu quan điểm của họ mà khác với quan điểm của Đảng, thì mạng
sống sẽ bị hiểm nguy. Như vậy mục đích chủ yếu rốt cuộc là gì?
Mục
đích là tạo dựng hình thế to lớn cho Đảng Cộng Sản trở thành một tôn giáo duy
nhất thống trị thiên hạ, không những thống trị quốc gia mà còn phải thống trị cả
tư tưởng của mỗi một người dân.
Cách Mạng
Văn Hóa đẩy Đảng Cộng Sản và cuộc vận động "thần thánh hóa" cá nhân
Mao Trạch Đông lên đến tột đỉnh. Lý luận độc tài của Mao Trạch Ðông nhất định
phải được sử dụng cho tất cả mọi thứ, và phải sắp đặt cho lý tưởng của một cá
nhân (của Mao) được in sâu vào đầu óc của hàng chục triệu người. Cách Mạng
Văn Hóa, trong một cách chưa từng xảy ra và không bao giờ so sánh được, đã
không quy định những sự tình gì mà không thể làm. Thay vào đó Đảng nhấn mạnh “sự
việc gì có thể làm, và phải làm như thế nào". Còn những gì khác thì
không thể làm, cũng không được nghĩ tới.
Trong
thời Cách Mạng Văn Hóa, mọi người trên toàn quốc thực hành nghi lễ giống như
tôn giáo là: “sáng nghe chỉ thị của Đảng, chiều báo cáo với Đảng”, chúc Mao Chủ
Tịch được sống lâu mãi mãi nhiều lần trong ngày, tổ chức hai buổi cầu nguyện
chính trị sáng chiều mỗi ngày. Hầu hết mỗi cá nhân biết đọc, biết viết đều
có kinh nghiệm viết các bài tự phê bình mình và bài báo cáo tư tưởng.
Trích dẫn lời của Mao Trạch Ðông được ngâm nga thường xuyên, chẳng hạn
như : “chống trả mãnh liệt bất cứ ý niệm ích kỷ nào thoáng qua”, hoặc “hiểu thì
phải chấp hành, không hiểu cũng phải chấp hành, trong khi chấp hành sẽ tăng
thêm sự hiểu biết”.
Trong
cách mạng, chỉ có một vị " Thần linh"(Mao) được phép sùng bái; chỉ được
ngâm và đọc một bản kinh sách duy nhất--ngữ lục của Mao chủ tịch. Không
bao lâu quá trình “tạo Thần” đã phát triển đến mức độ mà người dân không được
mua thức ăn ở các căng tin nếu không ngâm lời của Mao hoặc chúc mừng Mao Chủ Tịch.
Khi mua hàng, đi xe buýt, ngay cả lúc gọi điện thoại, người ta cũng phải đọc
lên lời của Mao chủ tịch, cả những lúc hoàn toàn không thích hợp cũng phải đọc.
Trong các nghi thức sùng bái này, người ta hoặc là cuồng nhiệt phấn khởi,
hoặc là tê liệt, chai cứng như gỗ, đều đã bị tà linh Đảng cộng sản bao trùm lại.
Chế tạo lời dối trá, dung túng chịu đựng sự dối trá, và nhờ dựa vào nghề
dối trá đã trở thành cách thức sinh hoạt của người dân Trung Quốc.
VII. Cải
Cách và Khai Phá — “Bạo Ngược” không đổi mà còn tiến triển theo thời gian
Cách Mạng
Văn Hóa là một thời đại đẫm máu, giết chóc, oan hồn bất hạnh oán trách, mất hết
lương tri, trắng đen điên đảo. Sau thời Cách Mạng Văn Hóa, chính quyền
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đã thường xuyên thay đổi biểu ngữ của nó, tương ứng
với sự thay đổi 6 người lãnh đạo trong vòng 20 năm. Chế độ tư hữu lại trở lại ở
Trung Quốc, sự chêch lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn đã mở rộng thêm,
các vùng sa mạc nhanh chóng mở rộng, sông hồ khô cạn dần, ma túy mãi dâm gia
tăng. Tất cả “tội ác” mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã từng chống lại thì
bây giờ lại được phép xảy ra lần nữa.
Tâm địa
sài lang man rợ, bản tính lươn lẹo rắn rết, hành động quỷ quái tà ác, khả năng
mang tai họa cho quốc gia của Đảng cộng sản chỉ có tăng chứ không giảm. Trong
cuộc Tàn Sát Thiên An Môn vào năm 1989, Đảng đã điều động quân đội và xe tăng
giết chết các sinh viên đang kháng cáo tại Quảng Trường Thiên An Môn. Cuộc bức
hại tàn bạo nhắm vào những người tu luyện Pháp Luân Công còn tồi tệ hơn nữa,
không lời nào có thể diễn tả được. Vào tháng 10 năm 2004, để chiếm đất của nông
dân, chính quyền thành phố Du Lâm tỉnh Thiểm Tây đã điều động hơn 1600 cảnh sát
chống bạo loạn để bắt và bắn hơn 50 nông dân. Hiện nay sự thống trị nền chính
trị của Trung Quốc vẫn tiếp tục dựa trên triết học đấu tranh và sùng bái bạo lực
của Đảng Cộng Sản. So với quá khứ, điểm khác biệt duy nhất là Đảng càng
tăng thêm tính dối trá, lường gạt hơn nữa.
Làm Luật
Pháp: Đảng Cộng Sản chưa bao giờ ngưng chế tạo xung đột giữa người dân. Bọn
chúng đã đàn áp một số lớn dân chúng với tội danh gán cho như là phản cách mạng,
chống chủ nghĩa xã hội, phần tử xấu, hoặc theo tà giáo. Tập đoàn chuyên
chế độc tài của Đảng Cộng Sản vẫn tiếp tục xung đột với tất cả các nhóm và đoàn
thể nhân dân. Dưới danh nghĩa “duy trì trật tự và ổn định xã hội”, Đảng cộng
sản liên tục thay đổi hiến pháp, luật lệ và điều khoản, và đàn áp bất cứ người
nào không đồng ý với chính quyền như là những kẻ phản cách mạng.
Vào
tháng 7 năm 1999, chống lại ý muốn của đa số các thành viên trong Bộ Chính Trị,
Giang Trạch Dân đã tự mình quyết định loại trừ Pháp Luân Công trong vòng ba
tháng; lời vu khống và tin đồn nhảm nhí nhanh chóng lan truyền ra toàn quốc.
Sau khi Giang Trạch Dân tự ý lên án Pháp Luân Công là “tà giáo” trong một
cuộc phỏng vấn với tờ báo Pháp La Figaro, tuyên truyền chính thức của Trung Quốc
theo sau bằng cách nhanh chóng xuất bản những bài báo làm áp lực cho mọi người
dân trên toàn quốc chống lại Pháp Luân Công. Đại hội Đại Biểu Nhân Dân bị
ép buộc phải thông qua một “quyết định” vô luân và không thuộc loại nào để đối
phó với tà giáo này; ngay sau đó Tối Cao Pháp Viện và Viện Kiểm Sát Tối Cao đã
cùng phát hành một văn kiện “giải thích” về “quyết định” này.
Vào
ngày 22 tháng 7 năm 1999, Tân Hoa Xã xuất bản các bài diễn văn của lãnh đạo
trong Bộ Tổ Chức Trung Ương và Bộ Tuyên Truyền Trung Ương của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, công khai ủng hộ cuộc đàn áp Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân.
Người dân Trung Quốc vì vậy bị vướng vào một cuộc đàn áp mà người và Thần linh
đều phẫn nộ, chỉ vì nó là quyết định của " Trung Ương Đảng". Họ
chỉ có thể tuân theo mệnh lệnh, và không dám đưa ra bất cứ phản đối nào.
Cả hơn
5 năm qua, chính quyền đã dùng một phần tư tài chính quốc gia để đàn áp Pháp
Luân Công. Mọi người trên toàn quốc phải trải qua một cuộc khảo nghiệm; hầu
hết những người thừa nhận rằng họ tu luyện Pháp Luân Công và từ chối không bỏ
thì bị mất việc; một số bị kết án đi lao động cưỡng bách. Những học viên Pháp
Luân Công không vi phạm luật lệ nào cả, cũng không phản bội quốc gia, hoặc chống
đối chính quyền; họ chỉ tin tưởng vào “Chân, Thiện, Nhẫn”. Nhưng hàng
trăm ngàn người đã bị bỏ tù. Trong khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc cố gắng
phong tỏa tin tức rất chặt chẽ, cả hơn 1143 người[13] đã được gia đình của họ
xác nhận là bị tra tấn đến chết. Số người chết thực sự là cao hơn nhiều.
Báo
cáo tin tức: Vào ngày 15 tháng 10 năm 2004, tờ báo Hồng Kông Văn Hối Báo tường
trình rằng vệ tinh thứ 20 của Trung Quốc đã bay trở về trái đất, rơi xuống và
phá hủy căn nhà của Hoắc Tích Ngọc ở thị trấn Bồng Lai thuộc huyện Đại Anh tỉnh
Tứ Xuyên. Bài tường trình đã trích dẫn lời của Ngải Dụ Khánh giám đốc văn
phòng chính phủ huyện Đại Anh xác nhận cái “cục đen” đó là vệ tinh. Ngải Dụ
Khánh là phó Tổng chỉ huy hiện trường dự án thu hồi vệ tinh. Tuy nhiên,
Tân Hoa Xã chỉ báo cáo về thời gian phục hồi vệ tinh này, còn nhấn mạnh rằng
đây là vệ tinh thí nghiệm kỹ thuật và khoa học thứ 20 được Trung Quốc thu hồi lại.
Tân Hoa Xã không hề đề cập một lời nào việc vệ tinh phá hủy một căn nhà.
Đây là một ví dụ điển hình về hệ thống thông tin mà thực hành nhất trí của
Trung Quốc, là chỉ tường thuật tin tức tốt và che đậy tin tức xấu, như đã được
Đảng chỉ dẫn.
Báo
chí và tin tức truyền hình tuyên truyền những lời dối trá và vu khống, trợ giúp
rất nhiều cho việc thực thi chính sách của Ðảng Cộng Sản trong tất cả các cuộc
vận động chính trị trong quá khứ. Chỉ thị của Đảng cộng sản được các hệ thống
truyền tin thực hành ngay lập tức trên toàn quốc. Khi Đảng muốn bắt đầu cuộc “Vận
Ðộng Chống Cánh Hữu”, tất cả hệ thống thông tin trên toàn Trung Quốc liền
tường thuật cùng một giọng điệu, những tội ác của các phần tử cánh Hữu.
Khi Đảng muốn thành lập công xã nhân dân, tất cả báo chí trong nước bắt đầu
tán dương các ưu điểm của công xã nhân dân. Trong tháng đầu tiên của cuộc đàn
áp Pháp Luân Công, tất cả các đài truyền hình và phát thanh, trong giờ chánh yếu
thông tin, đã liên tục vu khống Pháp Luân Công để tẩy não người dân. Từ
đó Giang Trạch Dân đã liên tục huy động toàn bộ hệ thống truyền thông để chế tạo
và tuyên truyền những lời dối trá vu khống về Pháp Luân Công, khiến cho dân
chúng thù ghét Pháp Luân Công, bằng cách tường thuật các tin tức giả tạo về những
người tu luyện Pháp Luân Công đang phạm tội giết người và tự tử. Một ví dụ
về những tường thuật giả dối như vậy là sự kiện dàn dựng “Tự Thiêu ở Thiên An
Môn", mà đã bị Tổ Chức Phát Triển Giáo Dục Quốc Tế NGO chỉ trích đó là
hành động của chính quyền dàn dựng lên để lừa dối người dân. Trong 5 năm qua,
không một báo chí hay một đài truyền hình nào ở Trung Hoa Lục Ðịa đã tường thuật
tình huống chân thật về Pháp Luân Công.
Người
dân Trung Quốc đã quen với các tường thuật tin tức bịa đặt. Một ký giả
tư, lão thành của Tân Hoa Xã có lần tuyên bố rằng: “Làm sao mà tin tưởng Tân
Hoa Xã được?” Dân gian thậm chí còn hình dung các cơ quan báo chí Trung Quốc
như những con chó của Đảng cộng sản. Có bài dân ca rằng: “Nó là con chó Đảng
nuôi, giữ cổng cho Đảng. Ðảng kêu nó cắn ai là nó cắn người đó, Ðảng muốn nó cắn
bao nhiêu lần là nó cắn bấy nhiêu lần”.
Giáo dục:
Ở Trung Quốc, giáo dục đã trở thành một cái gông xiềng khác dùng để thống trị
người dân. Mục đích nguyên thủy của giáo dục là đào tạo các phần tử trí
thức. Mà trí thức là do hai phần "tri" (hiểu biết) và "thức"(
suy xét) hợp thành. "Tri" là nói về hiểu biết tin tức, tư liệu, và sự
kiện lịch sử; "Thức" là nói về những thứ đã biết mà tiến hành phân
tích, nghiên cứu, phê phán và tái sáng tạo, tức là một quá trình phát triển về
tinh thần. Những ai có "tri" mà không có "thức" thì
được xem như là mọt sách, không phải là người trí thức thực sự có lương tâm xã
hội. Ðây là nguyên nhân tại sao trong lịch sử Trung Quốc người ta đặt nhiều
kính trọng đối với các học giả có thức, là có khả năng suy xét chân chánh, chứ
không phải là các học giả chỉ có tri ( biết) mà thôi. Tuy nhiên, dưới sự
thống trị của Đảng Cộng Sản, các phần tử trí thức Trung Quốc là những người
có tri(biết) mà không có thức (khả năng suy xét), những người có tri mà không
dám rèn luyện thức. Giáo dục trong trường học chỉ tập trung vào việc dạy
học sinh không làm những gì mà Đảng không muốn chúng làm. Những năm gần đây, tất
cả các trường học đã bắt đầu dạy về chính trị và lịch sử của Đảng Cộng Sản bằng
sách giáo khoa thống nhất. Giáo viên dù không tin vào nội dung của sách,
nhưng bởi “kỷ luật” của Đảng, họ bắt buộc phải căn cứ vào đó mà dạy dù trái với
tâm của họ. Các học sinh dù không tin vào sách vở hoặc thầy cô của chúng,
nhưng chúng phải nhớ tất cả những gì trong sách để thi đậu. Gần đây, những
câu hỏi về Pháp Luân Công được bỏ vào trong các bài thi học kỳ và các bài thi để
vào trường trung học và đại học. Những học sinh nào không biết các câu trả
lời mẫu thì không được điểm cao để vào được các trường trung học hay đại học tốt.
Nếu học sinh nào dám nói lên sự thật, thì sẽ bị trục xuất khỏi trường ngay lập
tức, và mất bất cứ cơ hội được giáo dục một cách chính thức.
Trong
hệ thống giáo dục công cộng, vì ảnh hưởng báo chí và tài liệu của chính quyền,
nhiều câu nói nổi tiếng đã được truyền ra như là chân lý, như là lời của Mao Trạch
Ðông “Chúng ta nên ủng hộ những gì mà kẻ thù chống đối và chống lại những gì kẻ
thù ủng hộ”. Hậu quả không tốt lan rộng: nó đã đầu độc lòng dân, thay thế
lòng hướng thiện, và phá hủy luân lý đạo đức để sống hòa bình và hòa đồng.
Vào
năm 2004, Trung Tâm Thông Tin Trung Quốc đã phân tích một cuộc kiểm kê do Mạng
Internet Sina Trung Quốc thực hiện, kết quả cho thấy rằng 82.6% thanh niên
Trung Quốc đã đồng ý rằng trong thời chiến người ta có thể ngược đãi phụ nữ, trẻ
em và tù nhân. Kết quả này gây ra một chấn động; nhưng nó đã phản ảnh tâm
ý của dân chúng Trung Quốc, đặc biệt là của thế hệ trẻ, là những người
không có hiểu biết căn bản về chính quyền nhân từ trong văn hóa truyền thống hoặc
không có khái niệm tối thiểu về nhân tính căn bản.
Vào
ngày 11 tháng 9 năm 2004, một người đàn ông điên cuồng dùng dao chém 28 đứa trẻ
ở thành phố Tô Châu. Vào ngày 20 cùng tháng, một người đàn ông ở tỉnh Sơn
Đông dùng dao chém 25 em học sinh tiểu học bị thương. Một số giáo viên tiểu
học bắt ép học sinh nắn tay làm pháo để gây quỹ cho trường, kết quả gây ra một
vụ nổ làm chết một số học sinh.
Thực
thi chính sách: Lãnh đạo của Đảng Cộng Sản thường thường hăm dọa và ép buộc
người dân để bảo đảm rằng chính sách của chúng được thực thi. Một trong
những thủ đoạn mà chúng dùng là biểu ngữ chính trị. Trong một thời gian dài,
chính quyền Đảng Cộng Sản đã trưng lên một số biểu ngữ làm tiêu chuẩn để
đánh giá thành tích chính trị của một cá nhân. Trong thời kỳ Cách Mạng
Văn Hóa, chỉ qua một đêm Bắc Kinh đã trở thành “biển đỏ”, với biểu ngữ giăng đầy
khắp mọi nơi “Đả đảo phe cầm quyền theo chủ nghĩa tư bản trong Đảng”. Ở
nông thôn thì trớ trêu thay, các biểu ngữ được viết ngắn gọn là “Đả đảo bọn cầm
quyền”.
Gần
đây để tuyên truyền "Luật rừng rậm", Cục Lâm Nghiệp Quốc Gia và tất cả
các trạm và văn phòng bảo vệ rừng nghiêm khắc ra lệnh rằng một số biểu ngữ phải
được treo lên theo đúng chỉ tiêu. Không đạt đúng chỉ tiêu thì xem như
không hoàn thành công tác. Kết quả là các văn phòng chính quyền địa phương treo
lên một số lượng lớn biểu ngữ, như là “Ai đốt núi sẽ bị tù”. Trong việc
kiểm soát sinh đẻ những năm gần đây, có các biểu ngữ còn rùng rợn hơn nữa, như
là “Một người phạm luật đẻ, cả làng sẽ bị cột (không cho đẻ)”, hoặc “Thà thêm một
ngôi mộ còn hơn thêm một đứa con”, hay là “Phải cột mà không cột (ống dẫn tinh)
thì nhà anh sẽ bị đập phá; Phải phá mà không phá thai thì bò và ruộng lúa của
chị sẽ bị tịch thu”. Có rất nhiều biểu ngữ vi phạm nhân quyền và Hiến pháp, như
là “không đóng thuế hôm nay, ngày mai sẽ ngủ trong tù”.
Trên
căn bản biểu ngữ là cách thức để truyền bá, nhưng trong tính cách quan sát trực
tiếp và lặp đi lặp lại. Vì thế chính quyền Trung Quốc thường dùng biểu ngữ để
tuyên truyền quan điểm chính trị, ý chí và địa vị. Biểu ngữ chính trị cũng được
xem như là những lời mà chính quyền nói với người dân. Tuy nhiên trong
các biểu ngữ tuyên truyền chính sách của Ðảng Cộng Sản, cũng không khó để người
ta nhìn ra khuynh hướng bạo lực với máu tanh khí tức ở đằng sau.
******************
VIII.
Tẩy Não Toàn Quốc và Vòng Đất lại Làm “Nhà Tù”
Vũ khí
hiệu quả nhất mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc dùng để duy trì sự thống trị của nó
là hệ thống (hình thức võng lưới) khống chế của nó. Đảng Cộng Sản Trung
Quốc dựa trên lý luận "chó vâng lời chủ" mà sử dụng hình thức của các
tổ chức Đảng để bắt buộc mỗi một người dân phải tuân phục mệnh lệnh của chúng.
Cho dù Ðảng có trước-sau mâu thuẫn hoặc liên tục thay đổi chính sách thì cũng
không thành vấn đề, miễn là Ðảng phải dùng các tổ chức Đảng để cướp đoạt quyền
lợi làm người mà mỗi người đều sanh ra cùng. Các vòi tiếp xúc thám thính
chính trị của chính quyền ở khắp mọi nơi. Bất kể là ở thành thị hay nông
thôn, người dân đều bị quản lý bởi cái gọi là Ủy ban Đường phố hoặc Ủy hội Nông
thôn. Đến tận gần đây, lập gia đình, ly dị, sinh con, tất cả đều phải thông qua
sự đồng ý của các ủy ban này. Hình thái ý thức của Đảng, cách suy nghĩ,
phương thức tổ chức, cấu trúc xã hội, hệ thống tuyên truyền và hệ thống quản lý
chỉ là để phục vụ sự thống trị độc tài, cường quyền của Đảng. Đảng cộng sản, phải
thông qua hệ thống chính quyền, khống chế lối suy nghĩ của mỗi một người dân
cho đến hành động của mỗi một cá nhân.
Sự tàn
khốc trong cách khống chế của Đảng Cộng Sản không chỉ giới hạn ở chỗ tra tấn và
hành hạ thân thể, mà Đảng còn bắt ép người ta biến đổi trở thành không còn khả
năng suy xét một cách độc lập, tức là làm cho họ khiếp sợ, khiến cho họ nhát
gan co rúm không dám nói lên sự thật. Mục đích thống trị của Đảng Cộng Sản,
trong sự tẩy não từng người, là khiến cho người ta phải nghĩ những gì Đảng cộng
sản nghĩ, nói những gì mà Ðảng Cộng Sản nói, và phải làm bất cứ sự việc gì mà Đảng
cộng sản đề xướng.
Có câu
nói rằng, “Chính sách của Đảng giống như mặt trăng: ngày rằm và mồng một thì
không giống nhau”. Nhưng bất kể Đảng cộng sản có thay đổi chính sách thường
xuyên như thế nào, mọi người dân trên toàn quốc phải tuân theo một cách chặt chẽ.
Khi một cá nhân bị dùng như một công cụ để công kích người khác, thì cá
nhân ấy phải cám ơn Ðảng vì Ðảng cộng sản hiểu biết giá trị của cá nhân ấy; khi
bị đả kích, thì phải cám ơn Đảng Cộng Sản đã “dạy cho một bài học”; khi nhầm lẫn
bị kết tội, rồi sau đó Đảng khôi phục lại thanh danh thì phải cám ơn Đảng
Cộng Sản đã khoan dung, cởi mở và có khả năng sửa sai. Chính sách bạo ngược của
Ðảng Cộng Sản là được thực thi trong sự không ngừng đả kích với sửa sai.
Sau 55
năm thống trị bạo ngược, tư tưởng của người dân trên toàn quốc đã bị Đảng Cộng
Sản vẽ lối cho theo, vào một nhà tù, và nhốt nó bên trong phạm vi tư tưởng mà Đảng
Cộng Sản cho phép. Hễ ai có ý tưởng ngoài phạm vi này thì bị tội phải chết .
Qua nhiều lần đấu tranh lặp đi lặp lại, ngu đần được đề cao là trí tuệ;
nhát gan được xem là cách để sinh tồn. Trong xã hội hiện đại với mạng lưới
thông tin Internet là phương tiện chủ yếu để trao đổi tin tức, Đảng Cộng Sản
Trung Quốc thậm chí còn đòi hỏi người dân phải thực hành tự kỷ luật, và không đọc
tin tức từ bên ngoài, hay là xem, tìm kiếm các mạng lưới website với những danh
từ như là “nhân quyền” và “dân chủ”.
Cuộc vận
động tẩy não người dân của Đảng Cộng Sản như là hoang đường, tàn bạo, hèn hạ, ở
khắp mọi nơi. Chúng đã thay đổi giá trị giữ được từ luân lý đạo đức của xã hội
Trung Quốc, hoàn toàn đặt lại chuẩn mực hành vi cư xử và lối sinh hoạt của dân
tộc Trung Hoa. Đảng Cộng Sản liên tục sử dụng sự tra tấn thể xác và tinh
thần của người dân để gia tăng quyền hành tuyệt đối của một giáo phái Đảng Cộng
Sản mà thống trị thiên hạ.
Lời Kết
Tại
sao Đảng Cộng Sản phải đấu tranh không ngừng để giữ quyền lực của nó? Năm nào
cũng đấu tranh, tháng nào cũng đấu tranh, ngày nào cũng đấu tranh. Tại sao Đảng
cộng sản tin rằng chừng nào đời sống tồn tại thì đấu tranh vẫn không bao giờ hết?
Để đạt được mục đích của nó, Đảng cộng sản không do dự khi giết người hoặc phá
hủy môi trường sinh thái, cũng như không quan tâm rằng đa số nông dân và dân
thành thị đang sống trong cảnh bần cùng.
Điều
này có phải vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản chăng? Câu trả lời là “Không”. Một
trong những nguyên tắc của Đảng Cộng Sản là loại trừ tất cả chế độ tư hữu, bởi
vì Đảng cộng sản cho rằng chế độ sở hữu tư nhân là nguồn gốc gây ra tất cả tội
ác. Đảng cộng sản, sau khi chiếm đoạt chính quyền, đã cố gắng loại trừ chế độ
tư hữu trên mọi phương diện. Tuy nhiên, sau cải cách kinh tế vào thập niên
1980, sở hữu tư nhân lại một lần nữa được phép tồn tại ở Trung Quốc Hiến
pháp cũng quy định bảo vệ tài sản tư hữu. Xuyên qua những lời nói dối của Đảng
cộng sản, người ta đã thấy rõ ràng trong 55 năm cầm quyền, sự thống trị của
Đảng cộng sản chẳng qua chỉ là đạo diễn một màn kịch phân phối lại tài sản. Sau
nhiều lần phân phối như vậy, rốt cuộc Đảng cộng sản chuyển tài sản của người
khác thành tài sản riêng tư của chính nó.
Đảng cộng
sản tự tuyên bố nó là “người tiên phong của giai cấp công nhân”. Nhiệm vụ của
nó là tiêu diệt giai cấp tư sản. Tuy nhiên, bây giờ trong Đảng chương của Đảng
cộng sản rõ ràng quy định là những nhà tư bản có thể gia nhập Đảng. Không còn
người nào trong nội bộ của Đảng cộng sản tin vào Đảng cộng sản và Chủ nghĩa Cộng
sản nữa. " Danh bất chính, thì ngôn bất thuận". Những gì còn lại của
Đảng Cộng Sản chỉ là cái vỏ bề ngoài mà rỗng ruột, có thể nói rằng tự nó là vô
thực chất.
Vậy
thì, đấu tranh trường kỳ như thế sẽ giữ cho các thành viên Đảng cộng sản thanh
liêm, không bị thối nát chăng? Không phải. Trong 55 năm Đảng cộng sản nắm chính
quyền, những sự việc tham ô, thối nát, hối lộ, làm xằng bậy không theo pháp luật,
và những hành động phá hoại đất nước và nhân dân vẫn lan rộng trong các cán bộ
của Đảng cộng sản trên toàn quốc. Trong những năm gần đây, trong tổng số gần 20
triệu viên chức Đảng cộng sản ở Trung Quốc, 8 triệu viên chức thối nát đã bị trừng
trị vì những tội ác liên quan đến tham ô. Mỗi năm, khoảng 1 triệu người tố cáo
với các cấp chính quyền cao hơn về những viên chức thối nát chưa bị điều tra. Từ
tháng 1 đến tháng 9 năm 2004, Cục Quản lý Ngoại hối Trung Quốc đã điều tra các
trường hợp thanh toán trao đổi tiền bất hợp pháp trong 35 ngân hàng và 41 xí
nghiệp, và đã tìm thấy 120 triệu đô la Mỹ trong các giao dịch bất hợp pháp.
Theo thống kê những năm gần đây, không ít hơn 4.000 cán bộ trong chính quyền Đảng
cộng sản đã trốn ra khỏi Trung Quốc cùng với tiền biển thủ, và tiền của trộm cắp
từ quốc gia đã lên tới hàng chục tỉ đô la Mỹ.
Vậy
thì, đấu tranh như thế là nhằm mục đích nâng cao tố chất và giác ngộ của dân và
để cho mọi người quan tâm tới các việc quốc gia đại sự chăng? Câu trả lời cũng
là một chữ “Không” vang rền khác. Ở Trung Quốc ngày nay, sự kiện theo đuổi vật
chất đang bành trướng, và người ta đang mất đi đức hạnh truyền thống của lòng
chân thật. Một tính phổ biến của mọi người là lừa dối người thân thuộc và bịp bợm
bạn bè. Nhiều người Trung Quốc hoặc không quan tâm hoặc từ chối không nói đến
nhiều vấn đề quan trọng như nhân quyền hoặc cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Giữ lại
nhận thức cho riêng mình, và lựa chọn không nói sự thật đã trở thành một phương
thức sinh tồn cơ bản ở Trung Quốc. Trong lúc đó, Đảng cộng sản liên tục kích động
tình cảm quần chúng về chủ nghĩa dân tộc khi có cơ hội. Đảng cộng sản Trung Quốc
có thể, ví dụ như, tổ chức cho người dân Trung Quốc ném đá vào tòa đại sứ Hoa Kỳ
và đốt cờ Mỹ. Người dân Trung Quốc có thể được đối xử như là "dân phục
tùng" hoặc là "dân bạo lực", nhưng không bao giờ là những công
dân mà có nhân quyền được bảo đảm. Tu dưỡng văn hóa là nâng cao căn bản tố
chất. Trong hàng ngàn năm các kỷ cương về đạo đức của Khổng Tử và Mạnh Tử đã
thiết lập các tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức. “Nếu tất cả những nguyên tắc [đạo
đức] này bị bỏ đi, thì lúc đó con người đều là vô chủ (không có luật cho dân
noi theo), và dân không nhận thức được tốt và xấu. Họ sẽ lạc hướng… là Đạo
đại loạn” [14]
Mục
đích đấu tranh giai cấp của Đảng cộng sản là liên tục tạo ra đại loạn, qua đó
nó có thể vững vàng tự xây dựng mình trở thành địa vị giáo chủ của "một và
chỉ một Đảng" thống trị thiên hạ ở Trung Quốc, sử dụng tư tưởng chính trị
của độc (một) Đảng để khống chế toàn dân Trung Quốc. Các cơ cấu chính phủ, quân
đội và các phương tiện thông tin là tất cả các công cụ được sử dụng bởi Đảng cộng
sản để thực hành nền chuyên chính bạo lực của nó. Đảng cộng sản, mang các bệnh
tật không thể chữa được tới Trung Quốc, chính nó đang đứng trên bờ diệt vong,
và sự sụp đổ của nó là không thể tránh khỏi.
Có người
cho rằng đất nước sẽ hỗn loạn nếu Đảng cộng sản tan rã. Ai có thể thay thế vai
trò của Đảng cộng sản để lãnh đạo Trung Quốc? Trong 5.000 năm lịch sử của Trung
Quốc, chỉ 55 năm bị thống trị bởi Đảng cộng sản ngắn như là đám mây lướt nhanh.
Tuy nhiên, bất hạnh thay, trong khoảng thời gian 55 năm ngắn ngủi này, Đảng cộng
sản đã làm tiêu tan các tín ngưỡng và tiêu chuẩn truyền thống; phá hủy các
nguyên tắc đạo đức truyền thống và cấu trúc xã hội; biến đổi sự quan tâm và yêu
thương giữa con người thành đấu tranh và hận thù; và đã thay thế sự kính ngưỡng
Trời, Đất và Tự Nhiên bằng sự ngông cuồng, xem Trời bằng vung, như là “nhân định
thắng thiên”. Với hành động phá hủy hết cái này đến cái khác Đảng đã tàn phá
các hệ thống sinh thái, và hệ thống đạo đức xã hội, để lại một quốc gia Trung
Hoa chìm sâu trong nguy cơ.
Trong
lịch sử Trung Quốc, các triều đại có chính quyền nhân đức đều xem yêu thương,
nuôi dưỡng và giáo dục dân chúng là trách nhiệm của chính phủ. Bản năng của con
người là hướng Thiện, và vai trò của chính phủ là hỗ trợ người dân thực
hiện bản năng này. Mạnh Tử đã nói, “Đây là đạo của dân: có kế lâu bền thì sẽ bền
lòng, không có kế lâu bền thì sẽ không bền lòng”. (dân chi vi đạo dã, hữu hằng
sản giả hữu hằng tâm, vô hằng sản giả vô hằng tâm). Giáo dục mà không có thịnh
vượng thì không có hiệu quả tốt; những kẻ lãnh đạo hung tàn, bạo ngược, không
có tình thương dân mà lại giết những người vô tội, những kẻ lãnh đạo đó đáng bị
nhân dân Trung Quốc khinh miệt.
Trong
5.000 năm lịch sử Trung Quốc, có nhiều nhà lãnh đạo nhân đức, như là vua Nghiêu
vua Thuấn vào thời cổ, triều nhà Chu có vua Vũ, triều nhà Hán có hoàng đế Văn
và hoàng đế Cảnh, hoàng đế Đường Thái Tông triều nhà Đường, hoàng đế Khang Hy
và hoàng đế Càn Long triều nhà Thanh. Sự thịnh vượng trong những triều đại này
tất cả đều là kết quả mà những nhà lãnh đạo đã thực thi theo đạo Trời, theo học
thuyết Trung Dung, và phấn đấu cho hòa bình và ổn định. Đặc điểm của một nhà
lãnh đạo nhân từ là chiêu dùng người có Đức và có Tài, lắng nghe và suy xét những
ý kiến khác nhau, đề cao công lý và hòa bình, và cho dân những gì người dân cần.
Theo cách này, dân chúng sẽ tuân theo luật pháp, giữ gìn lễ nghĩa, an cư lạc
nghiệp.
Quan
sát các vấn đề của thế giới, chúng ta thường hỏi ai quyết định một nước thịnh
vượng hay suy vong, mặc dù chúng ta biết rằng sự thăng hay trầm của một quốc
gia có những lý do của nó. Khi Đảng cộng sản biến mất, chúng ta có thể hy vọng
hòa bình và hòa khí sẽ trở lại với Trung Quốc. Dân gian sẽ lại chân thành, thiện
lương, khiêm tốn, khoan dung, và quốc gia sẽ một lần nữa quan tâm đến các nhu cầu
căn bản của người dân, và mọi nghề nghiệp đều sẽ thịnh vượng.
Chú
thích:
[1] Từ
“Biên niên sử về thực phẩm và hàng hóa” trong cuốn Hán Sử.
[2]
Qian Bocheng, Văn hóa Phương Đông, ấn bản thứ tư, 2000.
[3]
Cao Cương và Nhiêu Sấu Thạch đều là các thành viên của Ban Trung Ương. Sau thất
bại tranh giành quyền lực vào năm 1954, họ bị buộc tội âm mưu chia rẽ Đảng và
sau đó bị khai trừ khỏi Đảng.
[4] Hồ
Phong, học giả và phê bình văn học, đã chống lại chính sách văn chưong cằn cỗi
của ĐCSTQ. Ông bị khai trừ khỏi Đảng năm 1954 và bị kết án 14 năm tù. Từ năm
1951 đến 1952, ĐCSTQ khởi xướng các chiến dịch “Tam Phản” và “Ngũ Phản”, các cuộc
vận động có mục tiêu được nói rõ là loại bỏ tham ô, lãng phí và quan liêu trong
Đảng, chính phủ, quân đội và các tổ chức lớn.
[5] Những
Cách Đảng Cộng Sản Trung Quốc dùng để đàn áp tín đồ Thiên Chúa Giáo (1958) (bằng
chữ Hán)
[6] Lỗ
Tấn (25/9/1881 –19/10/1936) thường được coi là người sáng lập ra văn học Trung
Quốc bản xứ hiện đại. Ông cũng là một dịch giả nổi tiếng. Là một nhà văn cánh tả,
Lỗ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Sách của ông
đã ảnh hưởng lớn lên nhiều thanh niên Trung Quốc. Trở lại Trung Quốc sau khi học
y ở Sendai, Nhật bản vào năm 1909, ông đã trở thành một giảng viên tại Đại Học
Bắc Kinh và bắt đầu viết từ đó. Sách của ông đã ảnh hưởng đến rất nhiều người
trẻ Trung Quốc hiện đại.
[7] Ngọc
Hoàng và Long Vương cả hai đều là nhân vật thần thoại. Ngọc Hoàng, còn được mệnh
danh là Ngọc Nhân Tháng Tám cũng như được người thường và trẻ em gọi là ông trời,
là vua ở thiên đình và là một trong những bậc thần tiên quan trọng nhất của Đạo
Giáo. Long Vương là vua của bốn biển. Mỗi biển định theo bốn hướng (đông, tây,
nam, bắc) đều có một Long Vương. Long Vương sống ở trong lâu đài bằng pha lê
canh gác bởi các tướng cua và lính tôm. Ngoài việc trị vì các hải vật, Long
Vương còn làm ra mây mưa. Đông Hải Long Vương được nói rằng là có lãnh thổ to
nhất.
[8]
Bành Đức Hoài (1898-1974): Nhà lãnh đạo chính trị và tướng cộng sản Trung Quốc.
Bành là tổng tư lệnh trong chiến tranh Triều Tiên, phó chủ tịch Hội đồng nhà nước,
ủy viên Bộ Chính Trị, Bộ trưởng Bộ quốc phòng từ 1954-1959. Ông đã bị phế truất
khỏi vị trí của mình sau bất đồng với các giải pháp cánh tả của Mao tại phiên họp
toàn thể Lư Sơn của ĐCSTQ năm 1959.
[9]
Triệu Cao (? - 210 trước CN): Tổng thái giám trong triều đại nhà Tần. Vào năm
210 trước CN, sau khi Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng chết, Triệu Cao, thừa tướng Lý Tư
và con thứ hai của Hoàng Đế là Hồ Hợi đã làm giả chúc thư của Hoàng Đế, đưa Hồ
Hợi lên làm Hoàng Đế mới và ra lệnh cho hoàng thái tử Phù Tô phải tự tử. Sau đó
xung đột xảy ra giữa Triệu Cao và Hồ Hợi (Nhị Thế Hoàng Đế), Cao đã mang vào
hoàng cung một con nai và nói nó là một con ngựa. Chỉ một số ít quan lại dám
không đồng ý và nói nó là một con nai. Triệu Cao tin rằng những viên quan gọi
con vật là nai chống lại mình và tìm cách bãi chức của họ.
[10] Dịch
từ http://www.boxum.com/hero/dings/39_1.shtml.
[11] Vệ
Binh Đỏ là những người dân sự đã thực thi chính sách của Cách Mạng Văn Hóa ở
các địa phương.
[12]
Cuộc Tàn Sát Đại Hưng xảy ra vào tháng 8 năm 1966 trong khi thay đổi lãnh đạo Đảng
ở Bắc Kinh. Vào lúc đó Tạ Phú Trì, bộ trưởng Bộ Công an, đã có một bài diễn văn
tại một cuộc họp Cục Công an tại Bắc Kinh, đã khuyến khích không can thiệp vào các
hành động của Hồng Vệ binh chống lại “năm giai cấp đen”. Bài diễn văn này chẳng
mấy chốc được chuyển tới cuộc họp Ủy Ban Lâm Thời của Cục Công an Đại Hưng.
Sau cuộc họp, Cục Công An Đại Hưng ngay lập tức đã hành động là lên kế hoạch
kích động những đám đông ở huyện Đại Hưng giết “năm giai cấp đen”.
[13]
Thuộc về ngày 19 tháng 12 năm 2004.
[14] Từ
Kang Youwei, Tuyển tập các bài viết chính trị (1981). Zhonghua Zhuju. Kang
Youwei (1858-1927) là một nhà tư tưởng cải cách quan trọng vào cuối đờiThanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét