Nguyễn Quốc Khải - Việc thương thuyết về Hiệp Ước Hợp Tác Xuyên
thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership - TPP) giữa 12 quốc gia
trong đó có Việt Nam, có nhiều triển vọng sẽ kết thúc trong năm 2014. Hoa Kỳ là
quốc gia có nền kinh tế mạnh nhất đang lãnh đạo việc thương thuyết này. Khi
nhiều nước họp lại để trao đổi thương mại với nhau, luôn luôn có một số vấn đề
phải cùng nhau giải quyết. Những vấn đề chính của TPP bao gồm quyền lao động,
đầu tư, thu mua hàng hóa và dịch vụ của chánh phủ, dược phẩm và nông phẩm.
Quyền lao động đứng hàng đầu, một vấn đề giản dị đối với những nước văn minh,
nhưng xem ra gai góc đối với Việt Nam. Giữa một nước giàu và tiên tiến nhất là
Hoa Kỳ và một nước nghèo và chậm tiến nhất là Việt Nam, đương nhiên có sự xung
khắc mạnh mẽ về vấn đề lao động.
Trong phần (I) của bài phân tách này chúng ta
sẽ bàn về quyền lao động ở Việt Nam. Ở phần (II), chúng ta sẽ nói về quyền lao
động và việc gia nhập TPP của Việt Nam.
I. QUYỀN LAO ĐỘNG
Điều 69 của Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định
rằng “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được
thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp
luận.”
Điều 25 của Hiến Pháp Việt Nam 2013 cũng quy định
tương tự: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định.”
Trên thực tế, công dân Việt Nam không có những
quyền như vậy kể cả quyền hội họp và lập hội.
Quyền tập họp
Tại Việt Nam, công dân không có quyền tự do
hội họp. Điều 5.2 của Nghị Định 38/2005/NĐ-CP về biện pháp bảo đảm trật
tự công cộng ký ngày 18-3-2005 ngăn cấm “tập trung đông người
trái với quy định của pháp luật ở lòng đường, vỉa hè, trước trụ sở cơ quan, tổ
chức, tại khu vực đang diễn ra các hội nghị quốc tế, kỳ họp Quốc hội, Hội đồng
nhân dân hoặc các hoạt động chính trị quan trọng khác của Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hoặc nơi công cộng
khác.”
Điều 7 của Nghị Định này quy định
rằng “Việc tập trung đông người ở nơi công cộng phải đăng ký trước với
Ủy ban nhân dân có thẩm quyền nơi diễn ra các hoạt động đó và phải thực hiện
đúng nội dung đã đăng ký. Quy định này không áp dụng đối với các hoạt động do
các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội tổ chức.”
Bộ Công An sau đó quy định thêm rằng tất cả
mọi tập hợp từ năm người trở lên, phải có giấy phép của chánh quyền địa phương.
(1)
Quyền lập hội
Việt Nam có những tổ chức do chánh phủ bảo trợ
(government-sanctioned organization viết tắt là GSO) nhưng không có
một tổ chức phi chánh phủ nào cả (non-government organization viết
tắt là NGO). Tất cả những GSOs tại Việt Nam kể cả những tổ chức tôn giáo -
ngoại trừ một số ít độc lập thường xuyên bị chánh quyền gây khó khăn (2)
phải trực thuộc hoặc liên kết với với chính quyền.
Thực tế là Việt Nam chưa phê chuẩn Công
Ước 1948 của Liên Hiệp Quốc về Quyền Tự Do Lập Hội và Bảo Vệ Quyền Tổ Chức (U.N.
Convention of 1948 concerning Freedom of Association and Protection of the
Right to Organize) bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 4-7-1950, nghĩa là đã hơn nửa
thế kỷ.
Quyền tổ chức và thương lượng tập thể Công nhân Việt Nam không có quyền tổ chức và
thương lượng tập thể. Tất cả mọi cuộc đình công đều tự phát, không có người
lãnh đạo, và đều bị chánh quyền và chủ nhân coi là bất hợp pháp. Những cuộc
đình công này không được hỗ trợ bởi bất cứ nhóm nào hay bởi chánh phủ. Do đó,
sức mạnh thương lượng tập thể rất yếu.
Theo luật lao động hiện hành, công nhân phải
đưa những cuộc tranh chấp ra tòa. Họ chỉ có thể đình công nếu những tranh chấp
không thể giải quyết được bằng thương lượng. Công nhân bắt buộc phải bồi thường
chủ nhân nếu tòa án xét thấy rằng cuộc đình công của công nhân là bất hợp pháp.
(3)
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (TLĐLĐVN) là một
tổ chức công đoàn duy nhất ở Việt Nam. Tất cả những công đoàn địa phương đều
phải gia nhập TLĐLĐVN, một phong trào quần chúng thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ
chức ngoại vi của Đảng CSVN. Tất cả những người lãnh đạo công đoàn ở cấp quốc
gia hay địa phương, đều là đảng viên Cộng Sản.
TS Đỗ Quỳnh Chi, một chuyên gia về
lao động, sáng lập viên và giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Lao Động,
đã viết trong tài liệu nghiên cứu xuất bản vào 2008 rằng không phải là một điều
bất thường khi những quản trị viên của công ty trở thành người lãnh đạo công
đoàn và những chủ công ty tìm cách ảnh hưởng đến cuộc bầu cử công đoàn. Do đó,
những người lãnh đạo công đoàn thường được lãnh lương nhiều hơn những công nhân
khác.
TS Đỗ Quỳnh Chi nhận xét thêm rằng đảng CSVN
tìm mọi cách để tuyển mộ đảng viên trong khu vực tư - một khu vực xảy ra nhiều
vụ đình công nhất. Mục tiêu là để thu nhận đa số các công nhân trong khu vực
này vào đảng vào năm 2020 và thiết lập các tổ đảng viên trong tất cả các công
ty. Điều này cho chúng ta thấy rằng đảng CSVN hi vọng kế hoạch này sẽ giúp CSVN
không những đã nắm được hết các chi nhánh công đoàn ở các công ty, mà còn len
lỏi vào hàng ngũ công nhân hầu chi phối họ và giới hạn những cuộc đình công bất
hợp pháp. Nếu tình trạng hiện tại không thay đổi, TS Chi cho rằng công đoàn
không thể là một công đoàn thực sự. Nó sẽ tiếp tục là một tổ chức của nhà nước
và tiếp tục có những cuộc đình công bất hợp pháp.
TS Võ Trí Hào tại Đại Học Kinh Tế
thành phố HCM nói trắng ra rằng: “Ai cho tiền hoạt động thì bảo vệ
người ấy; Công đoàn thời kỳ Đổi mới chưa bao giờ đứng ra tổ chức đình công để
đấu tranh quyết liệt quyền lợi cho công nhân.” (4)
Ông Tống Văn Công, trong một bài
bình luận đăng trên báo Lao Động, phân tách một số trường hợp đình công đã nhận
xét rằng chủ tịch công đoàn cơ sở ăn lương của chủ nên không dám tập hợp ý kiến
của công nhân, không dám gửi kiến nghị và đối thoại với chủ nhân, và không dám
tổ chức đình công. Sau khi các cuộc đình công xảy ra, cấp trên của công đoàn và
đại diện chính quyền phải đến công ty tiến hành thủ tục làm thỏa ước lao động
tập thể. Ông Công kết luận rằng công đoàn cơ sở hiện nay không đóng một vai trò
nào cả. Theo ông Cống, cần phải để công nhân tự chọn lựa người có tâm huyết
dược công nhân tín nhiệm vào công đoàn cơ sở. (5)
Thật là oái ăm khi giới công nhân lại bị kiềm
chế trong một quốc gia do đảng CSVN lãnh đạo, nhưng chính đảng này tự nhận
là “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội.” (6)
Với tất cả những giới hạn và chế tài như trên,
giới công nhân mất hết tất cả những võ khí để tranh đấu bảo vệ quyền lợi của
mình. TLĐLĐVN không đại diện công nhân mà chỉ là một công cụ của đảng CSVN dùng
để kiểm soát giới công nhân.
Cấm cưỡng bức lao động
Một số phúc trình tiết lộ rằng có vấn đề cưỡng
bức lao động tại Việt Nam. Tù nhân thường xuyên bị cưỡng ép làm việc không được
trả lương hoặc được trả rất ít. Tù nhân sản xuất thực phẩm và những sản phẩm
khác để tiêu thụ trong nhà tù hay bán ở địa phương. Hạt điều là một trường hợp
nổi tiếng. Human Rights Watch tường thuật rằng cưỡng
bức lao động được sử dụng tại các trung tâm phục hồi ma túy trên toàn quốc Việt
Nam. Các tù nhân tại những trung tâm này phải bóc vỏ hạt điều trong sáu đến bẩy
giờ mỗi ngày mà chỉ được lãnh $3 mỗi tháng. Cũng theo bản phúc trình này, trong
thời gian 2000-2010, có trên 309,000 tù nhân đã đi qua 59 trung tâm giam giữ
tại Việt Nam. (7)
Ngoài ra, các tù nhân tại các trại tù khác, kể
cả các tù nhân lương tâm, gần đây đã tố cáo rằng họ bị cưỡng bức tham gia vào
việc chế biến hạt điều. (8) Việc xuất cảng hạt điều mang lại cho Việt Nam 1.5
tỉ Mỹ Kim mỗi năm.
Điều kiện làm việc và lương bổng
Cũng như Hiến Pháp 1992 và 2013 của Nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam bảo đảm mọi quyền căn bản của công dân, luật lao
động Việt Nam bảo đảm trên giấy tờ đầy đủ quyền lợi của công nhân như tại bất
cứ một quốc gia phát triển trên thế giới. Trên thực tế, phần đông những công
nhân Việt Nam phải chịu đựng lương thấp, làm nhiều giờ một ngày, không được trả
lương phụ trội, điều kiện làm việc hại sức khỏe, không có bảo hiểm, và không có
hưu bổng. Đây là những lý do tại ra sự bất ổn về công nhân tại Việt Nam.
Làn sóng đình công dầu tiên xảy ra vào năm
2005 ở Việt Nam ở một mức độ ôn hòa. Con số đình công tăng dần vào những năm kế
tiếp với 400 vụ vào năm 2006, 600 vụ vào năm 2007, và 762 lần vào năm 2008. Các
vụ đình công nhiều hơn và cường độ mạnh hơn do mức lạm pháp gia tăng. Chánh phủ
Việt Nam điều chỉnh lương tối thiểu hàng năm. Tuy nhiên mức lương tối thiểu
tăng không kịp mức lạm phát. Năm 2011 chứng kiến 978 vụ đình công. Đến năm 2013
chỉ còn 400 vụ, phần lớn vì lương tăng và kinh tế trì trệ. Khu vực dệt may và
đặc biệt các công ty đầu tư ngoại quốc là những nơi trải qua nhiều vụ đình công
hơn những nơi khác.
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam chưa hề khởi
xướng, tổ chức, hay yểm trợ một cuộc đình công nhân. Do đó, theo luật, tất cả
những cuộc đình công tại Việt Nam là bất hợp pháp. Và cũng theo luật, công nhân
tham gia những cuộc đình công bất hợp pháp phải bồi thường chủ nhân như trên
đây đã nói. Tuy nhiên cho tới nay, chính quyền Việt Nam chưa giám thi hành các
luật này.
Một công nhân tại một xưởng máy trung bình
phải làm 10 giờ mỗi ngày và sáu ngày mỗi tuần. Tuy nhiên họ chỉ được trả khoảng
28 xu một giờ hay 70 Mỹ kim mỗi tháng. Con số này tương tương với mức lương tối
thiểu hiện nay trong khoảng 1.65 triệu - 2.35 triệu đồng Việt Nam, tức là vào
khoảng 4% lương tối thiểu của Hoa Kỳ. Với thu nhập này công nhân gặp nhiều khó
khăn để nuôi dưỡng gia đình.
II. LAO ĐỘNG và HỢP TÁC XUYÊN THÁI BÌNH
DƯƠNG
Lao động là một vấn đề gai góc trong các hiệp
định thương mại quốc tế, đặc biệt là đối với tổ chức Hợp Tác Xuyên Thái
Bình Dương (Trans-Pacific Partnership - TPP) giữa 12 nước trong đó có
Việt Nam, đang được thành lập. Lý do là lao động là một trong những yếu tố ấn
định giá sản xuất, khả năng tiếp thị, và việc làm.
Tiếng nói từ Hành Pháp và Lập Pháp Hoa
Kỳ
Vào tháng 4 năm vừa qua, Đại Sứ Demetrios
Marantis, Đại diện Văn Phòng Thương Mại Hoa Kỳ, trực thuộc Phủ
Tổng Thống Mỹ, đã đến Việt Nam để thương thuyết về TPP, đặc biệt về vấn đề lao
động. Ông đã nhấn mạnh với ông Đặng Ngọc Tùng, Chủ Tịch
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam về tầm mức quan trọng đối với Hoa Kỳ
của những điều khoản lao động trong TPP, bao gồm năm tiêu chuẩn cốt lõi
của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế thuộc Liên Hiệp Quốc về quyền lao
động. (9)
Năm tiêu chuẩn lao động cốt lỗi được rút tỉa
từ tám Công Ước Lao Động Quốc Tế bao gồm:
- Quyền lập hội.
- Quyền thương lượng tập thể.
- Loại bỏ mọi hình thức cưỡng bách lao
động.
- Loại bỏ lao động trẻ em.
- Loại bỏ kỳ thị việc làm và nghề
nghiệp.
Việt Nam hiện nay chưa thỏa mãn được những tiêu
chuẩn trên. Ba tiêu chuẩn sau cùng có thể được cải thiện với thời gian. Nhưng
đối với tiêu chuẩn (1) và (2), Việt Nam gặp khó khăn vì CSVN muốn độc quyền cai
trị đất nước, không muốn có bất cứ một tổ chức nào đứng độc lập với họ. Tuy
nhiên, nếu làm như vậy, CSVN đặt quyền lợi của Đảng lên trên quyền lợi của đất
nước.
Chính phủ Hoa Kỳ chịu rất nhiều áp lực của
những nhà lập pháp Hoa Kỳ. Quyền lao động là một phần của Quyền của con người
nói chung. Trong một chuyến đi Việt Nam vào cuối năm 2013, Ngoại Trưởng John
Kerry tuyên bố tại Hà Nội rằng “Việt Nam cần chứng tỏ tiếp tục
tiến bộ về nhân quyền và tự do, bao gồm tự do tôn giáo, tự do phát biểu và tự
do hội họp.”
Ông Kerry nói tiếp “không có những cải
tổ như vậy, Quốc Hội Hoa Kỳ sẽ rất có thể chống lại giao ước với Việt Nam, bao
gồm cả việc gia nhập của Việt Nam vào chương trình Hợp Tác Xuyên Thái Bình
Dương và việc thi hành hiệp định năng lượng hạt nhân dân sự.” (10)
DB George Miller, một thành viên cao
cấp của Ủy Ban Giáo Dục và Nhân Lực (Committee on Education
and the Workforce) của Hạ Viện Hoa Kỳ đã gửi thư vào tháng 7, 2013 cho Đại
Sứ Michael Froman, Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳ,
nhân dịp Chủ Tịch Nhà Nước Trương Tấn Sang viếng thăm Hoa Kỳ.
Trong lá thư này Ông Miller tố cáo rằng Việt Nam không tôn trọng quyền tự do
lập hội, quyền thương lượng tập thể, cưỡng bách lao động và sử dụng lao động
trẻ em. Ông cũng yêu cầu Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳ ước
định xem Việt Nam có thể thi hành bổn phận về lao động hay không nếu hiệp định
TPP được ký kết. Nếu quá khó khăn để định lượng một vấn đề còn đang trong vòng
thương thuyết, Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳ làm một
cuộc khảo sát tương tự về việc Việt Nam thi hành những luật lệ về lao động
trong khuôn khổ Hiệp Định Thương Mại Song phương Mỹ Việt ký
ngày 10-5-2007. (11)
Tiếng nói từ những tổ chức lao động Hoa
Kỳ
Hành pháp Hoa Kỳ còn chịu nhiều áp lực của các
tổ chức lao động Hoa Kỳ. Tổng Liên đoàn Lao Động Hoa Kỳ (American
Federation of Labor and Congress of Industrial Organizations viết tắt là
AFL-CIO), một trong những tổ chức lao động lớn nhất ở Hoa Kỳ, bao gồm 56 công
đoàn với 12.5 triệu đoàn viên, tố cáo rằng chương Lao Động của thỏa ước TPP đã
không đề cập tới những tiêu chuẩn lao động cốt lõi của Tổ Chức Lao Động
Quốc Tế và cũng không hề nói những điều lệ lao động có thể buộc thi
hành được hay không. AFL-CIO tuyên bố tiếp rằng AFL-CIO đã tranh đấu cam go để
thiết lập được một chương mạnh mẽ về lao động trong thỏa ước TPP hầu bảo đảm
rằng công nhân của bất cứ một quốc gia nào trong TPP, kể cả Việt Nam, có thể sử
dụng những quyền căn bản như quyền lập hội và quyền thương thuyết tập thể.
(12)
Vào tháng 7 năm vừa qua, trước khi Chủ Tịch
Nhà Nước Việt Nam viếng thăm Hoa Kỳ, ÔngJames P. Hoffa, Tổng Chủ Tịch
của International Brotherhood of Teamsters, một tổ chức công đoàn
tại Hoa Kỳ với 1.4 triệu đoàn viên, nói rằng điều kiện làm việc đã tồi tệ và
lạm dụng tại Việt Nam cần phải được đề cập đến trước khi cộng đồng thế giới
thưởng công cho Việt Nam.
Bản thông cáo báo chí của The
International Brotherhood of Teamsters phổ biến ngày 24-7-2013 nói
rằng một liên minh những nhà hoạt động lao động và nhân quyền đã kêu gọi ngưng
mọi thương thuyết với Việt Nam về TPP cho đến khi Việt Nam có thể chứng tỏ rằng
quốc gia này thỏa mãn được những tiêu chuẩn căn bản về lao động, môi trường, và
nhân quyền. (13)
Communications Workers of America (CWA) tuyên bố rằng
thu nhận Việt Nam vào TPP là thưởng công cho một chế độ vi phạm nhân quyền và
quyền lao động một cách có hệ thống. CWA tố cáo rằng Việt Nam can dự vào việc
buôn lao động trẻ em, điều kiện làm việc không an toàn, trà đạp quyền lao động
được quốc tế công nhận, kỳ thị nữ công nhân mang thai, công nhân không được
hưởng ít nhất bốn ngày nghỉ trong tháng, phải làm nhiều giờ phụ trội mặc dù
không muốn. Như để thách thức Hoa Kỳ, khoảng 10 ngày trước khi Tổng Thống Obama
tiếp Chủ Tịch Nhà Nước Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng vào ngày 15-7-2013, Việt
Nam ban hành một nghị định mới hạn chế tối đa việc sử dụng Internet và quy định
hình phạt nặng nề những ai trao đổi tin tức trên mạng. (14)
Ủy Ban Hoa Kỳ Bảo Vệ Công Nhân Việt Nam (U.S. Committee
to Protect Vietnamese Workers - CPVW-USA) cũng đã đề nghị Chánh Phủ Hoa Kỳ
không chấp thuận cho Việt Nam hưởng quy chế Ưu Đãi Phổ Quát (Generalized
System of Preference - GSP) cho đến khi Việt Nam cho phép công nhân được tự do
thành lập nghiệp đoàn độc lập và được quyền thương lượng tập thể. (15) Mặc dù
Việt Nam được nhiều công ty lớn của Mỹ có vốn đầu tư ở Việt Nam ủng hộ bao gồm
IBM, Ford, etc. nhưng rõ ràng Việt Nam không thỏa mãn điều kiện lao động, do đó
chánh phủ Hoa Kỳ cho tới nay vẫn chưa chấp thuận cho Việt Nam hưởng quy chế
này.
III. KẾT LUẬN
Với sự vắng mặt của Trung Quốc trong TPP, nếu
trở thành một hội viên của TPP, Việt Nam sẽ là một nguồn cung cấp lao động rẻ
tiền nhất trong 12 nước. Giá lao động ở Trung Quốc đã thấp, nhưng lương lao
động ở Việt Nam còn thấp hơn, chỉ bằng khoảng 1/2 của Trung Quốc. Nếu vào được
TPP, Việt Nam sẽ thu hút được thêm nhiều vốn đầu tư ngoại quốc để phát triển.
TPP sẽ vô cùng lợi ích đối với Việt Nam. Với những cải tổ chính trị tương tự
tiếp theo cải tổ về lao động và nhân quyền, Việt Nam sẽ phát triển nhanh chóng
trong mười năm tới và sẽ thu ngắn khoảng cách thua kém những nước Á châu khác
và tăng cường một cách đáng kể khả năng bảo vệ lãnh thổ. Sức mạnh kinh tế mang
lại sức mạnh về quân sự. Nhưng nếu Việt Nam không thay đổi luật lao động cho
phù hợp với luật lao động quốc tế thì Việt Nam khó vào được TPP. Một cơ hội tốt
đẹp lại sẽ bi bỏ lỡ. Việt Nam sẽ tiếp tục thụt hậu. (16) Nếu trường hợp này xảy
ra, thật là bất hạnh cho 90 dân Việt Nam.
February 3, 2014
____________________________________
Chú thích:
1. Thông tư của Bộ Công An số 09/2005/TT-BCA
ngày 5-9-2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị Định số 38/2005/NĐ-CP
ngày 18 tháng 3 năm 2005 của chính phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật
tự công cộng.
2. Một số tổ chức (chính thức hay không chính
thức) được biết đến nhiều là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo Hội
Phật Giáo Hòa Hảo, Khối 8406, Nhóm Thân Hữu Đà Lạt, Đảng Thăng Tiến, Đảng Việt
Tân, Đảng Dân Chủ Nhân Dân, Đảng Dân Chủ Việt Nam, Công Đoàn Độc Lập Việt Nam,
Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam, Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, Hội Bầu Bí Tương
Thân.
3. Nghị Định Số 11/2008/NĐ-CP, 30-1-2008 và
Thông Tư Liên Tịch số 07/2008/TTLT-BLĐTBXH-BTC, ngày 30-5-2008.
4. Võ Trí Hào, “Sửa Hiến Pháp Đừng bít
lối vào TPP: ai cho tiền thì bảo vệ người ấy,”Tuần Việt Nam,
27-9-2013.
5. Tống Văn Công, “Vì sao hơn 5.000
cuộc đình công không do công đoàn lãnh đạo?” Báo Lao Động,
26-7-2013.
6. Điều 4.1 Hiến Pháp 2013.
7. HRW, “The Rehab archipelago, forced
labor and other abuses in drug detention centers in Southern Vietnam,” September
7, 2011.
8. Đỗ Thị Minh Hạnh, “Thư gửi cho cha
từ trại tù,” Xuân Lộc, Đồng Nai, 10-6-2013.
9. American Chamber of Commerce in
Vietnam, “Strong labor standards more investment opportunities: working
in Vietnam to advance TPP,” April 22, 2013.
10. Mathew Lee, “Hoa Kỳ nhắm vào Trung
Quốc, tăng cường trợ giúp Hải Quân Đông Nam Á,” AP, 16-12-2013. Bản
tiếng Việt: Nguyễn Quốc Khải.
11. George Miller, “Letter to
Ambassador Michael Froman, Office of the United States Trade Representative,” July
24, 2013.
12. AFL-CIO, “Trans-Pacific
Partnership Free Trade Agreement (TPP), undated document on
www.aflcio.org.
13. International Brotherhood of
Teamsters, “Labor and Human Rights Coalition Call for Suspension of
Trade Discussion with Vietnam,” July 24, 2013.
14. Nghị Định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15-7-2013
về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
15. Khai Nguyen, “Comment on Vietnam’s
eligibility under the Generalized System of Preferences Program,” U.S.
Committee to Protect Vietnamese Workers August 4, 2008.
16. Nguyễn Quốc Khải, “Việt Nam và
Hiệp Định TPP - Thách Thức và Cơ Hội,” VOA, 30-8-2013.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét