Tháng 1/1979, Việt Nam mở chiến dịch Tây Nam lật đổ chế độ diệt
chủng Khmer đỏ thân Trung Quốc tại Campuchia, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu
Bình tuyên bố "dạy cho Việt Nam một bài học".
Quan hệ Việt - Trung bắt đầu rạn nứt năm 1968 khi Việt Nam đồng
thời giao hảo với cả Liên Xô và Trung Quốc trong bối cảnh mối quan hệ 2 nước
này xuất hiện nhiều xung đột căng thẳng. Năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon tới thăm
Bắc Kinh và đạt được thỏa thuận với Trung Quốc. Ba năm sau đó, Việt Nam từ chối
tham gia liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc.
Bắc Kinh đã xem đó như mối đe dọa. Tháng 5/1975, Khmer Đỏ
cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu, thọc sâu vào lãnh thổ Việt
Nam, tàn sát hàng nghìn dân thường. Đứng sau viện trợ cho Khmer Đỏ về vũ khí,
khí tài cũng như cố vấn quân sự là Trung Quốc. Tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sa cũng
nổi lên rõ hơn khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền với hai quần đảo.
Ngày 3/11/1978, Việt - Xô ký hiệp ước hữu nghị 25 năm - chính thức
xác nhận Việt Nam đứng về phía Liên Xô. Gần 2 tháng sau, quân đội Việt Nam tổng
phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer
Đỏ. Trung Quốc quyết định dừng viện trợ cho Việt Nam.
Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình khi ấy đã tuyên bố
"phải dạy cho Việt Nam một bài học".
Cuộc chiến 30 ngày
Rạng sáng 17/ 2/1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua biên
giới, đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm
(Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) với chiều dài 1.200 km.
Dù từng tuyên bố về ý định trừng phạt trước đó, cuộc tấn công của
Trung Quốc vẫn bất ngờ với Việt Nam và cả thế giới.
Theo Niên giám châu Á năm 1980, thời điểm Trung Quốc tấn công, tổng
lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ
có khoảng 50.000 quân (xem chi tiết).
Trong khi đó, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư
đoàn bộ binh độc lập; 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn, nhiều trung đoàn pháo
binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa
tiễn. Quân Trung Quốc ước lượng có 600.000 người, gấp hơn 10 lần lực lượng tham
chiến thực tế của Việt Nam.
Trên mặt trận Lạng Sơn, các cánh quân lớn của Trung Quốc
chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chất (Đình Lập), Chi Ma, Ba Sơn (Lộc Bình), Tân
Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng (Lạng Sơn). Dù bị bất
ngờ song chỉ với lực lượng dân quân địa phương, Việt Nam đã quả cảm chặn đánh,
ghìm chân quân Trung Quốc nhiều ngày.
Ngày 20/2, Trung Quốc tăng cường lực lượng chi viện, mở các đường
tấn công mới vào điểm cao nhằm tiến xuống phía nam Đồng Đăng. Quân và dân Lạng
Sơn bám trụ trận địa, đánh trả mạnh mẽ các mũi tấn công phía trước, phía sau của
địch, buộc quân xâm lược phải co về đối phó và bị đẩy lùi ở nhiều mặt trận.
Sau 10 ngày chiến đấu không đạt được mục tiêu, ngày 27/2, Trung
Quốc tung thêm một quân đoàn nhằm vào thị xã Lạng Sơn dùng chiến thuật biển người
hòng xâm chiếm các mục tiêu quan trọng. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt giữa 2
quân đoàn tăng cường của Trung Quốc và lực lượng vũ trang địa phương Việt Nam. Ở
điểm cao 417, đoàn An Lão đã đánh bật hàng chục đợt tấn công, loại khỏi
vòng chiến đấu trung đoàn 850 của Trung Quốc. Đặc biệt, ở khu vực cầu Khánh Khê
trên đường 18, chiến sĩ đoàn Tây Sơn kiên cường đã chặn đứng một sư đoàn
quân và một tiểu đoàn xe tăng Trung Quốc.
|
Ở hướng Cao Bằng, hai quân đoàn tăng cường của Trung
Quốc hình thành hai cánh quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông Nông đánh
xuống và từ phía đông bắc qua Thạch An, Quảng Hòa đánh lên nhằm hợp điểm ở thị
xã Cao Bằng.
Cả hai cánh quân đều
bị bộ đội địa phương và dân quân Cao Bằng đánh chặn. Cánh quân tây bắc dựa
vào sức đột phá của xe tăng bị chặn tại Hòa An. Cánh quân đông bắc cũng bị đánh
quyết liệt ở Thạch An và Quy Thuận, bị chặn đứng trên đường số 4. Mũi đánh vào
Trà Lĩnh, Phục Hòa gồm 2 sư đoàn nhằm chiếm đèo Mã Phục, Khâu Chia cũng bị lực
lượng vũ trang địa phương phản kích xé tan đội hình, bỏ chạy về bên kia biên
giới.
3 ngày đầu, quân Trung
Quốc tại Cao Bằng đã bị thiệt hại 4 tiểu đoàn, bị phá hủy hàng chục xe tăng, xe
bọc thép và buộc phải đưa lực lượng dự bị vào vòng chiến. Trên trận địa phòng
ngự tại đồi Khâu Chia, các lực lượng của Việt Nam đã chặn đứng một sư đoàn
Trung Quốc trong 12 ngày, diệt hơn 4.000 lính. Ngày 12/3, quân Trung Quốc tháo
chạy.
Trên tuyến Hoàng Liên Sơn, mờ sáng 17/2, các sư đoàn
tuyến 1 của hai quân đoàn Trung Quốc ồ ạt tấn công toàn biên giới Hoàng Liên
Sơn từ phía tây bắc đến đông bắc thị xã Lào Cai. Cùng với việc đánh nhiều mũi
vào các huyện Bát Xát, Mường Khương, bắn pháo dữ dội vào thị xã, quân Trung
Quốc đồng thời bắc cầu qua sông Nậm Thi, cho xe tăng và bộ binh tiến vào thị xã
Lao Cai và khu vực Bản Phiệt. Dân quân, tự vệ thị xã cùng các lực lượng vũ
trang ở đây đánh trả quyết liệt. Sau 7 ngày, hai quân đoàn Trung Quốc không qua
nổi trận địa đánh chặn, phục kích của quân và dân Hoàng Liên Sơn.
Trên các hướng Lai
Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh, cùng một lúc quân Trung Quốc chia các hướng đánh
vào nhiều điểm. Hai sư đoàn Trung Quốc tiến công theo đường 10 vào Nậm
Cúm, Phong Thổ (Lai Châu) và đụng độ với lực lượng vũ trang địa phương. Qua hơn
20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn ở Phong Thổ.
Ở Hà Tuyên, một sư đoàn Trung Quốc tấn công vào các
đồn chốt biên phòng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của công an vũ trang,
dân quân, bộ đội các huyện Đồng Văn, Thanh Thủy, Mèo Vạc và đồng bào các dân
tộc. Hơn 1.000 lính Trung Quốc thiệt mạng.
Tại Quảng Ninh, Trung Quốc dùng hai sư đoàn bộ binh
tiến công vào Pò Hèn, Móng Cái, Cao Ba Lanh, huyện Bình Liêu. Trong hai ngày 19
và 20/2, hai trung đoàn Trung Quốc đã bị đánh lui, tháo chạy sát về biên giới.
Trung Quốc rút quân
Ngày 5/3/1979, Chủ
tịch nước Tôn Đức Thắng ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, Trung Quốc
tuyên bố "hoàn thành mục tiêu chiến tranh" và rút quân. Các nhà quan
sát lúc đó cho rằng rút lui là hành động rất khó, có thể gây cho Trung Quốc
nhiều tổn thất nếu bị quân tinh nhuệ Việt Nam phản công.
Ngày 7/3, thể hiện
thiện chí hòa bình, Việt Nam tuyên bố cho phép Trung Quốc rút quân. 18/3, Trung
Quốc hoàn thành việc rút quân.
Trải qua 30 ngày chiến
đấu ác liệt, các lực lượng vũ trang tại chỗ và đồng bào dân tộc 6 tỉnh biên
giới Việt Nam đã dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, lấy ít địch nhiều đánh
bại "chiến thuật biển người, thọc sâu phá hoại" của quân Trung
Quốc.
Theo số liệu công bố,
trong hành động quân sự mưu toan phá hoại, 62.500 lính Trung Quốc (hơn
1/10 tổng số được huy động) bị thiệt mạng, 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn bị tiêu
diệt, thiệt hại; 550 xe quân sự trong đó có 220 xe tăng, xe bọc thép (hơn
một nửa số tham chiến) bị bắn cháy, 115 đại bác và súng cối hạng nặng
bị phá hủy…Giới phân tích nhận định, thay vì dạy cho Việt Nam một bài học,
Trung Quốc đã học được bài học quân sự đắt giá của chính mình.
Tuy nhiên, cuộc xâm
chiếm của Trung Quốc cũng gây ra những tổn thất nặng nề cho Việt Nam: các thị
xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, hàng
chục nghìn người thiệt mạng trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ. Hiện vẫn chưa
có số liệu thống nhất về số thương vong từ phía Việt Nam (thông tin này Tòa
soạn bổ sung sau khi có thắc mắc của độc giả về số liệu những người dân, chiến
sĩ Việt Nam bị thiệt mạng); 400.000 gia súc bị giết và bị cướp; hàng
chục nghìn ha hoa màu bị tàn phá. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân các
tỉnh biên giới phía Bắc bị mất nhà cửa, tài sản.
Từ 18/3/1979 đến cuối
năm 1988, Trung Quốc đã không rút hết quân như tuyên bố. Suốt gần 10 năm đó,
chiến sự vẫn tiếp diễn, cao điểm nhất là năm 1984-1985. Nhiều đơn vị quân đội
của Trung Quốc đã được luân chuyển tới biên giới, biến Việt Nam thành thao
trường.
Việt Nam vì thế buộc
phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự lớn dọc biên giới. Tình trạng
chiến tranh khiến kinh tế Việt Nam thiệt hại nặng nề.
Năm 1992, Việt Nam,
Trung Quốc bình thường hóa quan hệ. Cuộc chiến biên giới phía bắc, vì nhiều lý
do, trong suốt một thời gian dài đã ít được công bố.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét