Chương 5
Trong
chùa Long Giáng kẻ tới, người lui, có vẻ tấp nập nhộn nhịp.Dưới nhà ngang đối diện với nhà trai, ông Hộ và ba, bốn người làng đến giúp việc đứng bên chiếc bàn dài, kẻ lau lá mít kẻ đóng oản, tiếng kêu chí chát. Chốc chốc lại thấy có người đội voi giấy, ngựa giấy và những hình nhân đến.
Ngọc tuy lần đầu được mục kích quang cảnh ấy
ở chùa, nhưng cũng chẳng lưu ý tới. Lòng chàng đương băn khoăn về câu chuyện tối hôm qua, nên nhớt nhác chàng đi tìm Lan để dò cho ra bí mật.
Lên trên chùa chàng gặp chú Lan đương cầm phất trần phẩy bụi ở các pho tượng, còn chú Mộc thì lúi húi lau các cây đèn nến và bình hương, ống hoa. Ngọc lại gần hỏi:
- Chùa ta sắp có việc gì mà có vẻ náo nhiệt thế?
Chú Mộc quay lại trả lời:
- Hôm nay bắt đầu làm chay cho vong linh ông Hàn.
- Thảo nào ở nhà tổ thấy nhiều đồ mã thế.
Ngọc chỉ hỏi, chỉ nói cho qua quýt, nhưng bao tinh thần đều chăm chú cả vào Lan, mong cho chú Mộc bỏ đi để được ở lại một mình với Lan. Im một lúc lâu, chàng lại vơ vẫn hỏi Mộc:
- Chú không xuống nhà giúp việc đóng ỏan?
- Không phải việc của tôi.
Câu trả lời cộc lốc khiến Ngọc khó chịu. May sao, chú Lan như giúp nguyện vọng của chàng, bỗng bảo chú Mộc chạy qua xuống nhà tổ xem sư cụ có truyền điều gì không, vì hai người cắm cúi suốt từ sáng sớm đến giờ ở trên chùa. Ngọc nghĩ thầm: "Hắn vô tình hay hắn muốn ở lại một mình với ta? " Song tuy được như lòng ước mong mà chàng cũng chẳng biết hỏi câu gì? Quái lạ, trước chàng mới ngờ bạn là gái thì đứng trước mặt bạn, cử chỉ ngôn ngữ còn được tự nhiên. Nay đoán chắc bạn là gái rồi thì lại thấy mình bẽn lẽn, ngượng nghịu. Có lẽ đó là tính nhút nhát của con người có giáo dục, có lương tâm. Hay đó chính là ái tình?
Ngọc mủm mỉm cười. Trong lòng sung sướng, chàng đương tìm cách khai mào câu chuyện. Bỗng có tiếng guốc lộp cộp. Ngoảnh lại, thì sư cụ đã đến gần, cười bảo Ngọc:
- Cháu lên đây để nghỉ ngơi, cần được yên tĩnh mà gặp tuần chay thế này chắc phiền cho cháu lắm nhỉ?
- Bạch cụ, cũng không sao ạ. Nhưng cháu ở chùa làm phiền cụ và làm khó nhọc cho các chú tiểu, tới nay đã hơn nửa tháng, nên cháu muốn xin phép cụ mai cháu về Hà Nội.
Ngọc vừa nói vừa nhìn Lan xem Lan có tỏ ra vẻ mặt vui, buồn chăng, nhưng vẫn thấy Lan điềm nhiên đứng cầm phất trần phẩy bụi, không hề lưu ý đến mình.
Sư cụ ngẫm nghĩ một lát, rồi trả lời:
- Nếu cháu sợ chuông trống làm ầm ỹ thì bác chả dám giữ.
- Bạch cụ, không phải thế.
- Hay cháu sợ ngăn trở việc học của cháu. Nếu chỉ có thế thì cháu cứ kê các tên sách cháu cần dùng, vài hôm nữa bác bảo chú Lan về Hà Nội lấy lên cho cháu.
Ngọc ngỏ lời xin về là chỉ để dò ý tứ Lan, nên thấy sư cụ giữ thì đứng im. Sư cụ biết Ngọc thuận ở lại quay ra bảo Lan:
- Xong việc làm chay, chú về Hà Nội...
Ngọc vội đỡ lời:
- Bạch cụ, cháu đã đem đủ các sách rồi.
- Thế thì càng hay. À, này cháu, bác nghe nói Tây người ta cũng dịch kinh Phật, có phải không?
- Bạch cụ, vâng. Nhất là một quyển của người Đức, cháu nghe nói có giá trị lắm, nhưng cháu chưa đọc.
- Cháu biết tiếng Đức à?
- Bạch cụ không, nhưng sách ấy có bản dịch chữ Pháp.
- Vậy thì cháu nên mua mà xem để biết qua đạo Phật.
Ngọc nhìn Lan mỉn cười:
- Bạch cụ, để rồi cháu nhờ chú Lan giảng cho cũng đủ.
- Chú ấy đã biết gì. Nhưng cháu còn bận bao nhiêu thứ. Khi nào thi đỗ đã rồi hãy khảo cứu về đạo Phật cũng được. Cháu chỉ nên biết rằng đạo Phật huyền bí lắm, chứ những điều trông thấy ở trước mắt không phải là điều cốt yếu của đạo Phật đâu. Cho chí những việc lễ bái, đàn chay cũng là phải có để khuyên đàn bà và những kẻ vô học làm điều thiện đó thôi.
Sư cụ đứng nhìn quanh một lượt rồi hỏi chú Lan:
- Chú Mộc đâu?
- Bạch cụ, chú Mộc vừa xuống nhà Tổ.
- Chú ấy chưa đi mời các sư ông chùa Long Vân, Hàm Long đến dự lễ à?
- Bạch cụ, chưa.
- Thôi chú ở lại sửa soạn, quét tước để ta bảo chú Mộc đi ngay kẻo muộn.
Sư cụ vội vàng đi ra.
Ngọc đứng ngắm chú Lan làm việc, cố tìm cách gợi câu chuyện bí mật. Chàng đến gần nói:
- Tôi xin về, cụ chưa cho về, chán quá!
Lan không quay lại, trả lời:
- Ông quen ở nơi đô hội náo nhiệt, lên đây thấy cảnh chùa chiền tịch mịch chắc buồn lắm.
- Không phải thế. Tôi chỉ sợ tôi ở đây lâu làm phiền chú, mà lại phiền cả cho tôi.
- Sao lại phiền đến tôi được, thưa ông? Còn như ở đây có ai làm phiền ông thì ông cứ lên bạch cụ.
Nghe câu trả lời gióng giẳng. Ngọc mủm mỉm cười, rồi bạo dạn nhìn thẳng vào mắt chú Lan và nói:
- Có gì phiền đâu, chỉ vì trước kia tôi yêu một người hình dung, diện mạo như hệt chú...
Chú Lan điềm nhiên nói tiếp:
- Nên nay ông gặp tôi lại nhớ tới, A di đà Phật, người tình nhân của ông, phải không?
- Chính thế! Tình nhân của tôi tên là Thi.
Lan khẽ hỏi:
- Tên là Thi?
Chú mặt ngẫm nghĩ, rồi ngẩng phắt lên mạnh bạo nhắc lại:
- Tên là Thi, thưa ông?
- Phải, tên là Thi, Chú là lạ chăng?
- Cũng hơi lạ.
Lan chỉ mỉm cười không trả lời. Ngọc càng ngờ lắm giả vờ kể lể chuyện riêng:
- Tôi yêu cô Thi, sắp sửa hỏi làm vợ thì bỗng cô ấy đi đâu mất. Dáng chừng chú cũng quen biết cô ta nên cho là một sự lạ chứ gì? Có người bảo tôi rằng cô ấy đi tu, nên tôi cứ lần mò các chùa chiền để đi tìm...
Lan nghe tới đó cười khanh khách nói tiếp theo:
- Vậy ra ông tới chùa Long Giáng chỉ có một mục đích ấy? Nhưng cô Thi tôi quen biết chắc không phải là cô Thi của ông đâu, xin ông đừng vội mừng. Đáng lẽ ở trước cửa từ bi chẳng nên nói tới câu chuyện nhăng nhít, nhưng xin Ngài cũng thấu nỗi khổ tâm của kẻ tu hành này mà tha thứ cho. Ông nghe câu chuyện của tôi sắp kể đây xin giữ bí mật cho, nhé!
- Được, tôi xin giữ bí mật.
- Có gì đâu! Gần đây, một người thiếu nữ hơi có chút nhan sắc, hễ gặp tôi là thả lời chòng ghẹo, tôi van thế nào cũng không được. Tên cô ấy là Thi. Vì thế thường thường đêm khuya tôi vẫn lên Chùa cầu nguyện đức Thích ca phù hộ và giáng phép mầu nhiệm cho cô ta tỉnh ngộ mà buông tha cho kẻ tu hành này ra.
Ngọc nghe câu chuyện, ngẫm nghĩ: "Có lẽ nào lại thế? Hay hắn biết ta đã khám phá được sự bí mật của hắn nên hắn bịa ra câu chuyện ấy? " Đã toan hỏi căn vặn, thì bỗng chú Lan nói một mình:
- Chết chửa! Chưa bảo ông Hộ đi mượn bàn.
Rồi chú hấp tấp chạy xuống nhà.
Lan tưởng làm thế để đánh trống lảng, nhưng ngờ đâu càng khiến Ngọc đoán chắc chú là gái. Vì Ngọc nhận ra rằng hễ khi nào câu chuyện đến chỗ nguy hiểm là Lan tìm cớ nọ cớ kia để xa lánh. Ngọc mừng thầm nói một mình: "Có tài thánh cũng không giấu nổi ta".
Vừa nói rứt câu đã thấy Lan ở dưới chạy lên, nét mặt thản nhiên tươi cười. Ngọc ỡm ờ hỏi:
- Chắc tối hôm nay làm chay có chạy đàn, thì thế nào cô Thi cũng đến xem nhỉ?
Lan vô tình không hiểu:
- Cô Thi nào?
- Cô Thi của chú, chú đã quên rồi.
- Nam vô A di đà Phật! Ông chớ nói đùa, nhỡ đến tay cụ thì còn ra sao?
- Nhưng chuyện có thực đâu mà chú sợ... Chú ạ, cô Thi của chú yêu chú, mà chú không thể yêu được, còn cô Thi của tôi, thì tôi yêu mà cô lại không thể yêu được tôi, hay cô không muốn yêu tôi.
Chú Lan nghiêm sắc mặt trả lời:
- Nếu ông còn muốn tôi nói chuyện với ông thì xin từ nay ông đừng đem những chuyện bậy bạ kể cho tôi nghe nữa.
- Xin vâng. Chỉ vì tôi coi chú là người bạn thân của tôi nên mới dám ngỏ tâm sự với chú. Nhưng chú không muốn nghe thì thôi, can chi mà chú phải giận.
Lan, mặt đỏ bừng, trách Ngọc:
- Xin ông biết cho rằng vì tôi thấy ông là người có lễ độ, có học vấn nên thỉnh thỏang muốn đem đạo Phật ra bàn cùng ông, cho rộng kiến thức. Nhưng nếu chỉ là câu chuyện bất chính, phạm tới tám điều răn thì xin từ nay ông tha cho.
Ngọc cười gượng:
- Thôi, xin lỗi chú.
Chương 6
Luôn hai tối các nhà sư ở những chùa lân cận tiếp được giấy mời của sư cụ Long Giáng về tề tựu đến dự lễ rất đông.
Ngoài sân chùa, ở giữa bày ba tầng án thư chồng lên nhau theo hình bậc thang. Hai bên cũng đều có án thư. Nến thắp linh tinh, ánh sáng phản chiếu vào những mặt kính tròn ở các mũ giấy bày la liệt, trong lấp lánh tựa những ngôi sao.
Đêm nào các nhà sư cũng cắt lượt nhau tụng kinh đến tận hai, ba giờ sáng, hoặc ngồi ở chiếu giữa, hoặc đứng sát các án thư bên. Cứ xong một lần tụng niệm lại có đánh trống lớn, trống con, thanh la, não bạt, nghe rất là inh ỏi.
Đêm thứ ba vào đàn giải kết.
Sư cụ chùa Long Giáng vì già yếu, mà việc đàn chay lại khó nhọc, nên một đồ đệ của cụ là sư ông chùa Long Vân đứng chủ trương. Sư ông ngồi ở chiếu giữa, tụng kinh một lúc lại chạy vòng quanh đàn vài vòng, nhanh hay chậm tùy theo nhịp trống. Sau lưng sư ông gần hai chục người chạy theo, nào tiểu, nào vãi, nào thiện nam, tín nữ cùng là những người nhà sự chủ.
Đứng ngắm một tràng người, tay chấp ngực chạy lượn quanh co, khi tiến, khi lui rất nhẹ nhàng, ăn nhịp, như lăn trên đôi bánh xe nhỏ, Ngọc tưởng tượng đến những người bằng giấy trong chiếc đèn kéo quân đêm hôm rằm tháng tám.
Chạy xong một tuần, sư ông lại vào chiếu giữa múa mênh quyết ấn trông rất dẻo tay, rồi cầm kéo cắt những đồng tiền kết giấy thành hình người và treo lủng lẳng ở ba hàng giây chăng quanh bàn. Mỗi lần cắt bốn, năm đồng kỳ cho hết là tan đàn.
Trong khi ấy thì những người tì tùng hoặc ngồi lễ ở sau lưng sư ông, hoặc đứng sang một bên, lẩn vào chỗ người đi xem.
Ngọc đứng chờ ở một xó, hễ thấy chạy xong một lần lại vẫy gọi chú Lan nhờ giảng nghĩa hộ. Đến lần thứ ba, thứ tư, Ngọc chỉ gật sẽ một cái, Lan đã vội chạy lại.
Ngọc cười, hỏi Lan:
- Này chú, sau lại có cả hai người kia cũng chạy đàn?
- Hai người nào?
- Một người gánh một gánh cỏ và một người buộc con ngựa giấy vào mình trông như cưỡi ngựa vậy, nhất nghe tiếng nhạc kêu càng thấy hệt lắm.
- Đấy là người giữ ngựa và người cắt cỏ cho ngựa ăn, đi theo hầu thầy Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh. Đàn này tức là ôn những sự tích đi lấy kinh.
Bấy giờ có tiếng ai the thé trả lời ở sau lưng:
- Sự tích ấy tôi cũng biết, chép trong chuyện Tây Du chứ gì?
Ngọc quay lại thấy một cô xinh xắn, nước da bánh mật, con mắt ti hí, vận gọn gàng như phần nhiều các cô gái quê vùng Bắc. Chàng nói đùa một câu:
- Cô bảo cô biết sự tích thì cô thử kể lại cho tôi nghe xem nào?
Cô kia cho là Ngọc chế nhạo, cúi đầu không trả lời. Ngọc đoán ngay là cô con gái phải lòng chú, liền lại hỏi:
- Có phải cô Thi của chú đây không?
- Nam mô A di đà Phật!
Ngọc chưa kịp hỏi câu thứ ba, chú Lan đã vội vã trông đàn, vì lúc bấy giờ cắt kết xong, sư ông đã trở ra sân để chạy. Ngọc nhìn theo thấy người con gái ban nảy cũng chạy, liền ngay đằng sau chú Lan, nét mặt hớn hở, khiến chàng không thể nhịn cười được.
Đàn vừa tạm nghỉ, Ngọc lại ngay chỗ hai người, mỉm cười và khen ngợi:
- Chú chạy đẹp quá, nhất có cô... Cô gì, à cô Thi, chạy theo sau càng đẹp lắm.
Người con gái nghe gọi đến tên Thi thì ngơ ngác nhìn Ngọc rồi lại nhìn chú Lan. Ngọc thấy thế nhớ ngay đến câu chuyện khấn khứa đêm hôm nào. Chàng nghĩ thầm: "Thôi đích rồi, hắn bịa ra câu chuyện để chống chế chứ gì." Tuy biết vậy chàng vẫn vờ như không lưu ý đến vẻ mặt ngạc nhiên của cô gái quê. Không những thế, chàng còn cố làm lạc hẳn câu chuyện đi và vẫn vơ hỏi cô kia:
- Cô biết chuyện Tây Du à?
- Vâng, tôi biết! Em tôi vẫn mượn sách của con ông Bá về nhà đọc, tôi được nghe... Truyện vui lắm kia... nhỉ, chú Lan nhỉ?
Lan nghiêm nghị trả lời:
- Tôi không biết mà tôi xin cô đừng nói chuyện với tôi nữa, tôi nghe chuyện cô đâu.
Cô ả cười, ngả nghiêng cái đầu và cất giọng nủng nịu:
- Không nghe tôi cũng cứ nói.
Chú tiểu càng giận:
- Mà tôi bảo cho cô hay, cô không được phép vào trong đàn. Chỉ các sư, các tiểu, các vãi, cùng người nhà sự chủ là được phép chạy đàn mà thôi.
Cô kia vẫn nhoẻn cặp môi đỏ thắm quết trầu:
- Tôi cứ chạy...Tôi sắp xin làm vãi kia.
Ngọc thấy cô ả đỏng đảnh quá cũng phải gượng và đâm cáu:
- Rõ khéo cô này, người ta đã xuất gia tu hành lại còn cứ trêu chọc người ta mãi.
Cô gái quê xấu hổ đứmg im. Lan mỉm cười nhìn Ngọc như để cảm ơn, rồi nói luôn:
- Phải không, ông? Người ta đã xuất gia tu hành thì không nên trêu ghẹo người ta nữa chứ?
- Phải lắm.
Ngọc trả lới ngớ ngẩn như vậy vì trí chàng đương bận tới câu hỏi của Lan. Chàng cho câu hỏi rất đáng ngờ và có một ý nghĩa trực tiếp đối với mình, chứ không liên can gì đến cô kia. Tuy đoán chắc thế, chàng vẫn tảng lờ như không biết gì hết, vì chàng đã nghĩ ra được một kế rất diệu sắp đem thi hành.
Đến đàn thứ năm, chú Lan mỉm cười gật chào Ngọc ở lại để vào chạy đàn. Nhưng Ngọc giữ vẻ mặt lãnh đạm, rồi quay sang phía cô gái quê, ghé mồm vào tận tai, thì thầm:
- Cô ở lại, đừng vào trong đàn nữa, tôi nói cho cô nghe một câu chuyện hay.
Cô ả đỏ bừng mặt không trả lời, nhìn theo Lan. Còn chú tiểu thì có dáng tức giận lắm.
Trong khi chạy đàn, hễ chú Lan đến gần chỗ hai người đứng thì Ngọc lại làm bộ ghé gần vào cô láng giềng chuyện trò thân mật. Ngọc hỏi:
- Tên cô là Thi, phải không?
- Không, tên em có là Thi đâu? Em là Vân kia mà. Ban nãy em thấy ông gọi em là Thi, em buồn cười quá....
- À, ra là cô Vân. Nhưng cô chớ nói với chú Lan rằng tôi biết tên cô là Vân nhé, chú ấy ghen đấy. Vậy, này cô Vân, sao chú Lan tu hành mà cô cứ trêu ghẹo chú ấy thế?
Vân giả vờ không nghe rõ, nhìn đi nơi khác.
Ngọc nói lại:
- Quyến rũ người tu hành, tội chết!
Câu chuyện đến đấy thì chú Lan ở trong đàn đi ra, mặt hầm hầm, đứng gần lại chỗ hai người. Ngọc làm bộ như không trông thấy chú, vẫn cứ nghiễm nhiên thì thầm với Vân.
Lan cười gằn:
- Này cô...kia, khuya rồi đi về chứ, chẳng mai bà cô chửi chết.
Ngọc không để Vân kịp trả lời, nói đỡ ngay:
- Thì việc gì đến chú đấy, để mặc cô ấy xem chứ.
Nhưng Vân nói sẽ với Ngọc:
- Thôi để em về, không chú Lan giận.
Ngọc cũng hỏi sẽ:
- Cô sợ chú Lan giận à?
Rồi chàng nói to cốt để Lan nghe tiếng:
- Chốc nữa, có sợ tối thì tôi đưa về tận nhà.
Lan nguẩy một cái quay đi nơi khác. Vân tưởng chú giận mình đứng nói chuyện với trai, liền từ biệt ra về.
Nàng vừa đi khỏi, Ngọc đã thấy Lan lại gần, ôn tồn bảo bạn:
- Tính ông trai lơ lắm.
- Việc gì đến chú đấy.
- Nhỡ cụ biết, cụ quở chết.
- Ai dám mách mà cụ biết? Vả cụ biết cũng chẳng sao. Cụ đi tu chứ tôi có đi tu đâu. Nhưng chú thì chú vô ơn lắm.
- Thế nào là vô ơn?
- Cô Thi phải lòng chú, tôi có ý giúp việc tu hành của chú thành chánh quả, nên vì chú tôi muốn quyến rủ cô ta để cô ta buông tha chú ra...
Lan đỏ mặt:
- Đứng trước người tu hành mà ông ăn nói tự do quá.
Ngọc lạnh lùng đáp:
- Xin chú đại xá cho.
Nói xong quay lưng đi thẳng. Lan gọi với:
- Ông đi đâu đấy?
Ngọc ngoái cổ lại, cười gằn:
- Tôi đi đâu thì can gì đến chú?
- Lại đi...
Lan như tắc họng không nói được, hai giọt nước mắt long lanh dưới cặp mi đen quầng.
Chương 7
Sáng hôm sau cảnh chùa Long Giáng trở lại yên lặng như mọi ngày thường, vì việc đàn chay đã kết liễu.
Mãi hơn bảy giờ, Ngọc mới thức giấc, mắt nhắm mắt mở nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy ngổn ngang các án thư bỏ lổng chổng ở giữa sân. Gần tường hoa, một đống tro tàn cao ngất, đó là đồ mã đốt tối hôm qua.
Sau mấy buổi huyên náo, sự tĩnh mịch của nơi tam thanh càng thấy rõ rệt hơn trước.
Ngắm cảnh tẻ ngắt, Ngọc có cảm tưởng buồn rầu, như sau mấy ngày tết Nguyên Đán. Chùa Long Giáng ủ rũ chẳng khác một cô con gái thôn quê trong ba hôm tết thắng bộ cánh đẹp, rồi hết tết lại cởi ra mà mặc bộ quần áo nâu sồng.
Ngọc ngồi nghĩ vơ nghĩ vẫn, hồi nhớ đến câu chuyện tối hôm qua. Sau khi rời chỗ đàn chay, chàng ra đường, đi lang thang mãi đến một hai giờ sáng mới trở về chùa. Đi đâu? Chàng cũng chẳng biết đi đâu, và cũng chẳng định đi đâu, chí cốt vắng chùa trong một thời gian khá lâu để chú Lan ngờ vực mà thôi. Vì nay chàng đã yên trí, chàng đã chắc chắn rằng chú là gái cải nam trang.
Ôn lại các việc xảy ra, những sự mắt thấy tai nghe, từ dáng điệu, nước da, lời nói, cho tới những ý tứ giữ gìn, khép nép, Ngọc không còn thể nào cho rằng chú tiểu xinh xắn kia là trai được nữa. Chàng mừng thầm sung sướng, và hi vọng.
Cánh cửa khẽ đẩy, chú Lan rón rén bước vào phòng, nét mặt nghiêm trang. Chú đặt một bao chè tàu xuống bàn, nói:
- Cụ truyền biếu ống bao chè để ông xơi nước. Chè này của bà Hàn cúng cụ hôm qua.
- Chú bạch cụ hộ tôi rằng tôi xin đa tạ cụ nhé. Ý hẳn cụ cũng biết tôi có cái ấm cồn.
- Ông để chúng tôi hầu cũng được, can chi lại phải đun nước lấy.
Ngọc mỉm cười nhìn Lan:
- Ấy vì tôi sợ làm phiền chú, nên tôi viết giấy về nhà xin gửi lên cho đủ thứ.
- À, ra bữa nọ anh người nhà mang lên ở trong bồ đấy?
- Chính phải.
- Tôi thấy có cả quyển Kiều và quyển Phật Giáo Đại Quan nữa.
Ngọc mừng rỡ vội hỏi:
- Chú biết quốc ngữ?
Lan điềm nhiên:
- Vâng. Chữ quốc ngữ học dễ, học chỉ độ mươi hôm là đọc được. Làm gì mà không biết.
- Ồ, thế thì hay quá nhỉ?
Ngọc nghĩ đến việc đương dự định, buột miệng nói ra câu ấy, nhưng Lan lại hiểu theo một cách khác, nên trả lời:
- Đời bây giờ, ai không biết quốc ngữ? Lạ! Sao ông cứ nhìn tôi, ông cười vậy?
- Chú ạ, tôi đương nghĩ đến chú thì thấy chú vào. Tôi cho rằng tư tưởng chúng ta có liên lạc với nhau nên chúng ta mới có thể viễn cảm tới nhau như vậy. Vì thế nên tôi cười, chú đừng vội giận.
- Ông nói những gì, tôi không hiểu.
Lan đứng đưa mắt nhìn quanh phòng, rồi mỉm cười khen:
- Cái buồng này ông mới bài trí lại trông đẹp nhỉ.
- Phải, tôi trang hoàng thế để khi chú có bước chân vào trông đỡ bề bộn, chướng mắt.
Lan, hai má đỏ bừng, cúi mặt trả lời.
- Ông cứ dạy quá lời, tôi chỉ đáng là đầy tớ ông.
Ngọc nói đùa: "A di đà phật!". Rồi cười khanh khách, khiến Lan xấu hổ cắm đầu chạy thẳng.
Rửa mặt xong, Ngọc đem ấm cồn ra đun nước. Ngắm lại phòng một lượt, và nhớ tới câu khen ngợi của Lan, Ngọc lại mỉm mỉm ngồi cười.
- Thực ra cái phòng của ta giống như phòng riêng của một sinh viên trường Đại học.
Mà thực vậy, cái giường mắc màn ren, cái bàn thờ dùng làm án sách, cái án thư trên phủ lá cờ dạ xanh dùng làm bàn viết trông đều sáng sủa, sạch sẽ. Khác hẳn hôm mới tới, trong phòng trơ trọi cái giường buông chiếc màn nâu. Các tranh ảnh cùng những bức thủy họa của chàng treo ở tường càng tôn vẻ nhã nhặn, âu yếm của gian nhà trai con con.
Ngọc tự hỏi: Trang hoàng như thế để làm gì?
Chàng tự hỏi rồi nhách một nụ cười: Thôi, ta yêu mất rồi!
Mà chính thế. Phải tay thần Ái tình mới có cho bày trí một cảnh u ám, buồn rầu nên cảnh dịu dàng ngộ nghĩnh thật, lên ở chùa mới biết yêu, mới biết yêu là có thú vị... Song chẳng lẽ ta cứ yêu cuồng, yêu bóng mãi? Thế thì cũng uổng, thà chả yêu cho xong.
Liên tưởng của ý nghĩa tự nhiên nhắc Ngọc ôn lại một câu Kiều, chàng buột miệng ngâm nga:
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau.
Ừ phải, người ta tu hành. Tội nghiệp!
Muốn cố giữ cho khỏi nghĩ vơ vẫn, Ngọc lấy quyển sách bàn về đạo Phật của David mà chàng vừa mua tuần lễ trước ra coi. Nhưng mới đọc được vài trang đã chán ngắt, chàng lại gấp sách lại. Bỗng chàng giật mình, mấy giọt nước nóng bắn vào tay. Thì ra ấm nước đặt trên bếp cồn sôi từ bao giờ mà chàng vẫn không biết. Đến cả tiếng nước reo, chàng cũng không nghe thấy.
Ngọc xoa tay mỉm cười, lấy ấm ra pha chè. Uống mấy chén liên tâm, chàng thấy tinh thần tỉnh táo, tâm trí hớn hở và ngắm cuộc đời, chàng có rất nhiều tư tưởng lạc quan. Rồi nghĩ chuyện nọ nhảy sang chuyện kia, lẩn mẩn chàng tự đặt mình vào địa vị Từ Thức sống trong cảnh động Phi Lai.
Bấy giờ nhìn qua cửa sổ, ngắm cảnh đồi thoai thoải sau chùa, chàng thấy hiện ra nhiều vẻ xinh đẹp, những vẻ xinh đẹp huyền bí. Chàng tưởng tượng dưới đám lá chè lấp lánh, rung động bởi ngọn gió dịu dàng mơn trớn, một cô tiên yểu điệu đương ngồi mơ màng thầm nhớ tới ai.
Chàng mỉm cười, mỉm cười với cảnh vật, mỉm cười với làn không khí bao bọc người yêu...
Cúi nhìn xuống cái vườn con bên cạnh cửa sổ, bỗng chàng chú ý, và mắt chàng đăm đăm không chớp: Trong hai khỏang tròn đất mới xới, bên cây đại cành khô khan, da mốc thếch, có hai cây ngọc lan nhỏ mềm mại, ai vừa trồng, mỗi cây ngọn nở một bông hoa trắng muốt.
Chàng chú ý đến là vì tâm trí đương bị cái tên Lan đẹp đẽ ám ảnh... Chàng ngây ngất người ngẫm nghĩ:
"Ngọc Lan! Có lẽ thế chăng? Âu yếm mà kín đáo lắm!
Chàng thấy lòng phấn khởi, mạnh bạo, và chàng chép miệng nói một mình: Chà, thì ta cứ thử liều một chuyến xem nào! Không vào hang hổ sao bắt được hổ con?
Câu nói có vẻ "tuồng" khiến chàng cũng phải phì cười. Mà vào hang hổ thì đã lấy gì làm nguy hiểm. Chỉ có việc đem giấy bút ra viết một bức thư.
Bức thư ấy, trước kia, đã ba bốn lần Ngọc viết rồi, nhưng mỗi lần viết xong, chàng lại xé nhỏ vứt đi, vì một là chàng sợ Lan không biết quốc ngữ, hai là chàng sợ bị cự tuyệt. Lần này thì chàng nhất định quả quyết. Liền mở hộp giấy viết thư màu tím lấy một tờ ngồi viết:
Chú Lan mới được hai chữ, Ngọc đã chau mày tắc lưỡi xóa đi.
- Không được. Chẳng chú nữa.
Chàng liền lấy tờ giấy khác viết lại:
Cô Thi Nam vô A di đà Phật! Tôi bắt đầu bức thư của tôi bằng một câu niệm Phật, để xin Phật độ trì cho kẻ khổ sở này, như Phật đã độ trì cho hết thảy các chúng sinh. Vì tôi chỉ là một người lạc lối trong rừng người, như một hạt cát bị vùi trong bãi cát sông Hằng Hà.
Nhưng cô cũng là một người, cũng chỉ là một người. Dù cô muốn xa lánh cõi tục, rứt bỏ trần duyên, song cái bản tính của con người dễ một lúc mà cô xóa bỏ nổi được. Cái bản tính ấy là Tình, là... A di đà Phật! Là Ái tình.
Ái tình là bản tính của loài người, mà là hạnh phúc của chúng ta. Tôi yêu cô, và nếu tôi đoán không lầm thì cô cũng chẳng ghét tôi, vậy can chi ta lại làm trái hạnh phúc của ta?
Đức Thích Ca Mâu ni xuất thế để đưa linh hồn chúng sinh tới cõi Nát bàn mà hưởng hạnh phúc bất vong bất diệt.
... Nhưng hạnh phúc của chúng ta chỉ ở ái tình. Đó là... A di đà Phật! đó là Nát bàn của chúng ta.
Mấy hôm nay tôi đọc quyển Phật giáo, tôi thấy tôi yêu đạo Phật. Tôi yêu đạo Phật thì tôi lại càng yêu cô, tôi yêu một cách chân thành, tôi yêu trong linh hồn, trong lý tưởng. Cô tha thứ cho tôi, tôi không thể cứ yêu mãi chú Lan, phải cho phép tôi yêu cái linh hồn thực của chú Lan mới được: cái linh hồn ấy, là cô Thi.
Cô xem thư mà xét thấu lòng này, thì tức là cô vâng ý Phật cứu vớt được một linh hồn đương bị đắm đuối ở cõi nhân gian.
Ngọc y phục chỉnh tề, rồi gấp thư cho vào phong bì, bỏ túi ra đi. Lên chùa trên, gặp chú Mộc, Ngọc đột nhiên hỏi:
- Chú Lan đâu?
Chú Mộc thấy Ngọc ngơ ngác, tưởng mới xảy ra sự gì:
- Chú Lan ở vườn sắn sau chùa. Có chuyện gì đấy ông?
Ngọc chỉ kịp trả lời một tiếng: "không", rồi lật đật đi thẳng, khiến chú Mộc ngạc nhiên đứng nhìn theo.
Ra tới vườn sắn, vì sắn lá cao mà lại trồng bên sườn đồi, chỗ hiện, chỗ khuất, nên đến năm phút sau, Ngọc lại nghe rõ tiếng sột sạt, mới tìm thấy nơi Lan đứng. Bên cạnh chú ngổn ngang một đống cây sắn nhổ lên còn để nguyên củ, cành và lá.
Ý chừng Lan làm việc nhiều mệt nhọc, đứng thở, một tay để vào ngực. Ngọc rón rén đến sau lưng, ỡm ờ chào:
- Kìa, cô Thi!
Lan thong thả quay mặt lại, điềm nhiên trả lời:
- Không, tôi đây mà. Cô Thi nào dám vào vườn sắn của nhà chùa?
Nói xong chú cười rũ rượi, chảy cả nước mắt, đỏ ửng cả hai má. Rồi lại nói tiếp:
- A di đà Phật! ông muốn gặp cô Thi thời ra nhà cô ấy chứ.
- Không, cô Thi khác, cô Thi của tôi kia.
Lan không để ý đến câu trả lời của Ngọc, nhìn trời, nói:
- Mặt giời đã lên cao, phải mang sắn về mới được, chẳng cụ quở.
Chú liền lấy dây lạt buộc qua quýt lại bó sắn. Còn Ngọc thì thò tay vào túi rút bức thư ra, lại ấn bức thư vào, như thế đến ba bốn lượt.
Lan vác bó sắn lên vai chào:
- Thôi ông ở lại, tôi về chùa.
Ngọc nói lúng túng: Được... này... tôi... à! Sao chú không bẻ lấy sắn đem về, còn cành lá thì bỏ đi có nhẹ việc không?
- Cành để giồng và đun chứ.
Lan vừa trả lời, vừa bước xuống đồi.
Ngọc đi theo như toan níu lại: Thì hãy ở lại, chờ tôi rồi cùng về một thể.
Lan sợ hãi, đặt vội bó sắn xuống đất:
- Vâng, thì ở lại. Nhưng ở lại làm gì mới được chứ?
- Ở lại ngắm cảnh.
- Giời nắng còn ngắm cảnh gì?
- Nắng thì ta ngồi xuống dưới bóng lá sắn. Này cô... Ngọc vừa nói vừa rút bức thư, này chú...
- Ông dạy?
- Hôm nay chắc mát giời...
- Vâng, chắc mát giời...
Hai người lại nhìn vớ vẫn. Ngọc toan đưa bức thư.
6
- Chú... ạ.
- Dạ.
- Sắn ăn ngon đấy chứ?
- Vâng ngon. Nhưng ông để tôi đội về chẳng cụ kêu.
- Chú để tôi mang đỡ.
Lan không trả lời, đội bó sắn chạy vùn vụt xuống đồi, để trơ Ngọc đứng lại một mình, bâng khuâng.
Ngọc chép miệng thở dài. Rồi quả quyết lấy bức thư ra xé làm tư, vứt xuống đất.
Về đến cổng chùa, Ngọc gặp chú Lan đi ra, có dáng vội vàng, hấp tấp. Chàng buồn rầu, chẳng thèm chào hỏi.
Lan chạy một mạch lên đồi sắn. Đến chỗ ban nãy, chú vui cười, nói:
- Đây rồi!
Thì ra chú bỏ quên con dao nhọn dùng để đào và chặt sắn. Bỗng chú đâm đâm cúi nhìn, nói một mình: "Không biết giấy gì của ông ấy thế này? "
Ngắm kỹ Lan nhận ra cái phong bì bì xé làm bốn mảnh. Trên một mảnh thấy có hai chữ:
Cô Thi thốt nhiên Lan buột ra câu hỏi: "Cô Thi nào? "
Lan ngồi cặm cụi chắp lại các mảnh thư ở trong phong bì.
Bên mình gió thổi xô xát lá sắn, tiếng kêu lạt sạt. Những mảnh giấy tím chỉ chực bay. Lan phải lấy những viên gạch chặn lên trên.
Một lát sau, khi đã đọc xong bức thư, Lan còn thơ thẩn trên đồi.
Gió càng thổi dữ, các tà áo Lan bay phấp phới mà tim Lan đập mạnh như cũng bị sức gió làm xao xuyến.
Lan buồn rầu nghĩ ngợi, hai má có ngấn hai hàng lệ.
Bỗng tiếng mõ tụng kinh ở chùa đưa tới. Một nụ cười kín đáo nở trên môi, Lan thong thả trở về.
Qua dãy phòng nhà trai, Lan liếc mắt thấy Ngọc ngồi ngưỡng cửa tay tì vào má có dáng tư lự. Thoáng thấy Lan, Ngọc khẽ gật chào, nhưng Lan yên lặng, rảo bước đi thẳng lên chùa trên.
Lan khẽ ẩy cửa rón rén đến gần bàn thờ nhìn trước nhìn sau, như người mới phạm một trọng tội mà có kẻ biết sắp đem tố giác.
Ngửi thấy mùi trầm ngào ngạt, nghe thấy tiếng tụng kinh dịu dàng, Lan tươi cười thở dài, như kẻ ngã xuống sông vừa ngoi lên được mặt nước.
Làn không khí êm đềm tịch mịch bao bọc những pho bụt khổng lồ, nét mặt thản nhiên. Trên bụt gỗ, sư cụ khoác áo cà sa ngồi ngay thẳng như một pho tượng, chỉ hơi mấp máy cặp môi, và động đậy cánh tay gõ mõ.
Lan đứng sững hồi lâu, mắt nhắm lim dim hai tay chắp ngực, rồi thong thả, nhẹ nhành như cái bóng, mon men lại sau lưng sư cụ, ngồi xệp xuống đất lâm râm khấn...
Trưa hôm ấy sư cụ gọi chú Lan bảo:
- Thôi, chú đừng đi hái chè nữa, ta nhờ mang bánh vớt chè sang tạ sư ông bên chùa Long Vân.
Ngọc tiến lên nói:
- Bạch cụ, cho phép cháu cùng đi với chú Lan sang Long Vân. Cháu nghe nói chùa Long Vân có cái giếng thờ, nước uống mát lắm.
Sư cụ ngần ngại: đường nhiều dốc, sợ cháu đi mệt nhọc.
Ngọc cười:
- Bạch cụ, cháu học ở trường Canh nông, cày ruộng còn được nữa là trèo dốc, đã lấy gì làm khó nhọc.
- Cái đó tùy cháu.
Khi xuống nhà trai, Ngọc vui sướng chạy lại hỏi chú Lan:
- Chú có bằng lòng để tôi cùng đi không?
Lan cười gượng:
- Càng hay cho tôi, đi đường xa đỡ buồn chứ sao?
Rồi chú lẳng lặng xếp các thức vào trong chiếc tay nải nâu, thắt miệng lại. Ngọc đứng sát gần khiến Lan né người xích ra. Ngọc nhắc cái tay nải vắt lên vai một cách gọn gàng.
Lan cười nói:
- Ông vác nhẹn, nhỉ!
Ngọc nói đùa: đi làm phu gạo mãi lại chẳng vác nhẹn.
Lan cố giữ nét mặt lãnh đạm, cắn môi, chau mày, ngỏanh nhìn ra ngoài sân. Nhưng lần nào chỉ giữ nghiêm klhắc được một lúc, rồi thấy Ngọc vui vẻ nói bông đùa, chú lại quên baÜng đi mà cùng cười, cũng nói bông đùa với bạn:
- Ông phu gạo này, nghe chừng yếu ớt lắm. Hôm mới đến chùa xách có cái va li còn thở hồng hộc, leo lên dốc khó khăn nặng nhọc là thế, nữa là vai vác bao gạo.
- Chú nhớ lâu nhỉ? Ngọc, nét mặt tươi cười sung sướng, hồi tưởng lại hôm mới tới chùa. Chàng nghĩ thầm: "Hắn không có cảm tình với ta thì sao hắn nhớ kỹ càng cái buổi mới gặp nhau như thế? "
Chàng chợt nhớ đến hai cây ngọc lan, liền quay lại hỏi:
- Hai cây ngọc lan, ở bên cửa sổ buồng tôi, chú giồng đấy, phải không?
Lan luống cuống, không trả lời. Ngọc lại nói:
- Cảm ơn chú nhé! Tên cái cây ấy hay nhỉ, chú nhỉ? Mà có ý nghĩa lắm.
Lan đáp:
- Vâng, rất có ý nghĩa: sắc trắng như Ngọc, hương thơm như Lan.
Ngọc cười:
- Còn ý nghĩa khác nữa kia. Chắc chú cũng biết chuyện Nhị Độ Mai?
Lan quay nhìn ra sân đáp:
- Không.
- Chú ạ, đối với hai cây ngọc lan của chú, tôi sẽ là chàng Mai Sinh trong truyện Nhị Độ Mai, sáng chiều nào cũng xin chăm nom vun tưới, cho chóng nẩy nở hoa thơm.
Lan hai má hồng hồng, ngượng nghịu vắt tay nải lên vai giục bạn:
- Thưa ông, ta đi thôi.
Hai người lẳng lặng cùng đi, không ai nói năng chi nữa...
Ở một ngọn đồi xuống phía bên kia, phong cảnh khác hẳn, không còn thấy cánh đồng chân rạ, mà chỉ nhan nhản thấy nương khoai, cùng vườn mía. Hai người không bảo nhau mà cùng đứng lại ngắm cảnh, vì gặp chỗ có bóng mát.
Đi một quãng nữa, bỗng phải dừng lại ở trước một cái suối, dưới có vạch nước chảy róc rách trong veo, giữa lòng cát trắng. Bên bờ suối mấy gốc cây thông già gió chiều hiu hắt, lá thông khô lác đác rơi xuống suối rồi theo giòng nước trong trôi đi.
Lan bảo bạn:
- Thôi nguy rồi. Ta đi nhầm đường rồi.
Ngọc ngơ ngác hỏi:
- Bây giờ làm thế nào?
-Chỉ có một cách là đi vòng lại, chứ qua sao được cái suối này?
Ngọc vừa nói, vừa nhảy sang bờ bên kia, rất nhẹ nhàng. Lan cười:
- Ông nhảy giỏi quá!
Nói chưa dứt lời thì Ngọc lại đã nhảy sang bờ bên này. Ngọc bảo Lan:
- Chú đưa tay nải cho tôi.
- Đưa làm gì?
- Chú cứ đưa đây.
- Thì đây.
Ngọc đỡ tay nải nhảy ngoắt sang bên kia đặt xuống, đứng nhìn Lan, cười. Lan ngạc nhiên hỏi:
- Thế còn tôi?
Ngọc cố nhịn cười:
- Hay chú để tôi cõng.
Lan giẫy nẩy:
- Ấy chết, sao lại thế?
Ngọc nghiễm nhiên:
- Được mà, không hề gì mà.
Lan làm mặt điềm tĩnh:
- Thôi ông đợi đấy, nghỉ chân, để tôi đi vòng sang đồi kia.
Lan miệng nói, chân bước. Ngọc vội nhảy sang, giữ lại:
- Tôi nghĩ ra cách này rồi.
- Cách gì?
- Tôi sang bên kia đưa tay cho chú nắm, để kéo chú sang.
Lan ngẫm nghĩ một lát rồi tắc lưỡi:
- Thôi cũng liều, ngã chết thôi.
- Không hề gì đâu chú đừng sợ.
Ngọc nhảy sang bên kia, nghiêng mình trên dòng nước. Lan ngần ngừ một lúc mới nắm tay chàng. Ngọc nói:
- Chú giữ chặt... Nào, ...hấp!...
Lan nhắm mắt nhảy liều. Ngọc kéo mạnh quá khiến chú tiểu mất thăng bằng ôm lấy chàng, Lan bẽn lẽn vội cuối xuống cầm tay nải đặt lên vai đi liền. Ngọc cười mủm mỉm, như nói một mình:
- Tay chú xinh quá, nhỏ và mát như tay con gái.
Lan không trả lời, giơ tay trỏ về phía trái bảo Ngọc:
- Chùa Long Vân kia rồi.
Hai người đi quanh co, vòng hai đồi cỏ nữa và nửa giờ sau trèo tới chùa. Lan thuộc lối đưa Ngọc đi thẳng vào nhà trai, mời chàng ngồi ở trường kỷ, bày các phẩm vật lên bàn, rồi vội vàng xuống nhà tổ. Một lát, Lan theo sư ông đi lên. Sư ông đã gặp Ngọc ở Long Giáng hôm đàn chay nên vui mừng chào hỏi:
- Nam mô A di đà Phật! Quý hóa quá. Xa xôi thế mà quan tham cũng chịu khó sang thăm.
Nói chuyện một lát, sư ông quay lại hỏi Lan:
- Chú xuống nhà xem cơm nước chú Quì chú ấy làm có ăn được không.
Ngọc đỡ lời:
- Thôi, sư cho chúng tôi về kẻo tối.
- Không được. Chả mấy khi quan đến văn cảnh bản am, thế nào cũng phải mời quan xơi bữa cơm chay. Lúc khác thì thực không dám giữ quan ở lại vì cơm nhà chùa muối dưa thanh đạm chả có gì. Nhưng hôm nay vừa có bà Cửu biếu mâm cổ chay, nên mới dám mời quan...
Ngọc nhìn Lan, hỏi:
- Sư ông cho ăn cơm, chú nghĩ sao?
Lan ngượng nghịu mãi mới ấp úng trả lời:
- Thưa quan, sư ông tôi đã có lòng quý mến giữ quan xơi cơm thì quan nên nhận lời, giời hãy còn sớm.
Ngọc thấy Lan gọi mình là quan thì không nhịn cười được, khiến sư ông ngơ ngác nhìn không hiểu. Rồi sư ông cũng cười, cho rằng cánh tây học họ vẫn trẻ con như thế.
Một lúc lâu chú Quì bưng lên một mâm gỗ vuông sơn son, trong có hai cái bát nấu có giò, nem chay, trông rất long trọng.
Ngọc và sư ông ngồi xuống ghế ngựa sắp sửa cầm đũa thì bỗng trời tối sập lại, gió thổi dữ dội, mây đen kéo đến rất mau, cát sỏi bay tứ tung, ầm ầm như phá phách. Sư ông vội vàng đứng dậy cùng hai chú tiểu đóng hết các cửa lại, rồi thắp đèn lên: Nhà trai như đương ở vào trong cảnh ban đêm vậy.
Bên ngoài gió thổi càng mạnh, rồi mưa đổ xuống như trút nước, sấm sét vang động tựa hồ trời long đất lở, làm át hẳn câu chuyện của Ngọc, và sư ông. Chú Lan đứng hầu cơm, ngắm hai người chuyện trò, tưởng tượng họ nói thầm với nhau.
Cơm nước xong, thì trời đã nhá nhem tối. Mưa vẫn không ngớt. Lúc bấy giờ sư ông ở nhà tổ đi vòng hiên, đem lên một cây đèn dầu hỏa, và nói với Ngọc:
- Chả mấy khi quan tham đến chơi trời lại đổ mưa xuống để giữ hộ, thực là may mắn cho bần tăng quá. Thôi, xin mời quan đi nghỉ để mai dậy sớm về Long Giáng cho mát.
Rồi quay lại bảo Lan:
- Chú Lan làm ơn sang phòng khách bên cạnh giải chiếu, buông màn để quan tham đi nghỉ.
Lan vâng lời vào buồng sửa soạn, trong khi Ngọc thở dài, đứng nhìn trời.
Mãi khuya mưa mới tạnh.
Cả chùa đã yên giấc, mà Ngọc và Lan vẫn ngồi thơ thẩn ở hiên trai, buồn rầu nghĩ ngợi.
Da trời như giội lượt nước, trong vắt một màu. Trăng thượng tuần tươi sáng trên đỉnh đồi. Những vũng nước đọng ở sân phản chiếu ánh trăng lấp lánh như những mảnh gương lớn vỡ vứt rải rác.
Thốt nhiên, Ngọc hỏi Lan: Chú có buồn không?
- Thưa ông, không.
- Còn tôi thì tôi buồn lắm, buồn vơ buồn vẫn như nhớ ai. Cũng nhớ vơ nhớ vẫn. Có lẽ vì tôi xa cách chùa của chúng ta chăng?
Dưới ánh trăng, hai người ngồi cạnh nhau... Lan rùng mình. Ngọc lại nói:
- Chú ạ, cái cảnh xa lạ gợi trong tâm trí tới những tư tưởng từ biệt, chia rẽ... khiến tôi nghĩ tới ngày tôi rời chân, phải xa chú.
Lan im lặng, hé cặp môi cười với bóng trăng trong. Một con cóc nhảy vào vũng nước, Lan giật mình đứng dậy bảo Ngọc:
- Thôi, mời ông đi nghỉ.
Ngọc cũng đứng dậy. Nhìn quanh mình cũng không thấy ai, từ nhà trai đến nhà tổ im phắc. Chàng liền như điên cuồng, nắm lấy tay Lan: Ừ, phải đấy. Chúng ta đi ngủ, mai dậy sớm chắc hết buồn.
Lan tuy sợ hãi, nhưng cố làm ra bình tĩnh, thong thả nói:
- Vâng mời ông vào buồng, an nghỉ. Tôi xin ngủ ở ngoài nhà trai này.
- Vẽ! đi có hai người, ở nơi xa lạ, nằm cả một giường nói chuyện cho vui, ngủ ở ngoài muỗi nó tha đi.
- Thưa ông, không tiện, sư ông biết, ngài quở chết.
Lúc ấy hai người tới chỗ có ánh trăng. Liếc nhìn nét mặt Ngọc thấy dữ tợn, Lan kinh hỏang giật tay toan chạy. Chẳng may Ngọc nắm chặt quá, vì thế người lôi đi kẻ lôi lại, áo dài, áo ngắn của Lan đều tuột cúc, trễ vạt ra. Ngọc bỗng kêu rú lên một tiếng, buông tay Lan ra. Chàng thoáng trông thấy ngực Lan quấn vải nâu.
Lan đứng lại thở, cười gượng:
- Gớm quan trẻ con quá. Làm gì mà lôi kéo kẻ tu hành này thế?
Ngọc hối hận cố trấn tĩnh. Chàng vờ như không biết gì, trả lời:
- Chú cũng trẻ con quá. Cứ gọi mãi người ta là quan. Nhưng thôi, đừng đùa nữa, ta đi ngủ chẳng khuya quá rồi.
- Vâng, xin mời ông đi ngủ trước, tôi xuống dưới nhà dặn chú Quì điều này đã.
Miệng nói, chân đi, Lan vùn vụt qua sân.
Ngọc ngồi chờ Lan, băn khoăn mong ngóng. Vào khỏang mười lăm phút sau, vẫn không thấy Lan trở lại, Ngọc liền cũng xuống sân theo lối Lan đi ban nãy, lang thang tới một cái cổng chống. Nghĩ ngợi thế nào, chàng cúi xuống nhìn, thì cái chốt có dây buột rời ra ngoài mà cả cây tre dùng để chống cũng không đặt vào cọc. Ngắm kỹ cánh cổng rào khô thì quả ai vừa lách để ra ngoài.
Ngọc không còn ngờ gì nữa: Lan sợ hãi vừa đi trốn. Lúc bấy giờ chàng hối hận vô cùng, nói một mình: "Đó, cố tìm cho biết hắn là gái, phỏng có ích lợi gì? Để vậy còn thú, chứ thế này thì không biết chừng.... Không biết sao lúc ấy mình lại hung tợn đến thế? Thôi mỗi cái ta theo giữ hắn ở lại, thề với hắn rằng giữ bí mật cho hắn rồi mai về Hà Nội, cố quên câu chuyện, câu chuyện cảm động...đau đớn."
Bóng trăng đã xế về tây, chiếu ánh lờ mờ.
Các cây cỏ hãy còn đầm đìa nước mưa ban chiều. Những đồi xa, trông như đàn rùa khổng lồ nằm vọng nguyệt. Nhưng Ngọc chẳng nghĩ gì tới phong cảnh, cứ cắm cổ bước mau như một tên ăn trộm sợ có người đuổi chạy trốn.
Đi một quãng dài, Ngọc nhìn đằng trước mặt ngay trên đỉnh một trái đồi, thấp thoáng có bóng người in lên nền trời. Chàng chắc chắn lắm rồi, cắm đầu chạy một mạch tới nơi. Quả cái bóng ấy là Lan. Nghe có tiếng người chạy thình thịch sau lưng. Lan ngoái cổ lại. Gặp Ngọc chú kêu rú lên một tiếng, rồi ngất nguời ngã gục xuống gốc cây thông bên đường. Ngọc vội quì xuống nâng dậy và ngọt ngào nói:
- Lan không sợ, tôi xin viện lòng từ bi của đức Quan Âm, tôi thề với Lan rằng tôi không phải là hạng gió trăng bậy bạ. Lan tỉnh dậy, tôi nói câu chuyện, rồi mai tôi xin từ biệt Lan, tôi về Hà Nội.
Lan mở bừng mắt nhìn, rơm rớm hai giọt lệ lấp lánh dưới ánh trăng. Ngọc lại nói đùa:
- Thôi, xin ni cô tha cho.
Lan lúc ấy đã tỉnh hẳn, ngồi dậy lau nước mắt nói:
- Vâng, tôi là gái. Tôi biết thế nào chẳng giấu nổi ông. Nhưng còn câu chuyện vì sao tôi phải cải trang, thì tôi chưa thể thổ lộ cùng ông được. Chỉ xin ông buông tha kẻ tu hành này, kẻ tu hành khốn khổ này ra mà thôi.
Ngọc thở dài:
- Thưa ni cô, ni cô không ngại. Tôi xin thú thật với ni cô rằng tôi yêu ni cô, tôi yêu ngay từ lúc còn tưởng ni cô là trai. Ni cô là một người thông minh đĩnh ngộ, xinh đẹp như thế thì ai lại không yêu được... Mà lạy Phật tha tội cho, có lẽ ni cô cũng đôi lần cảm động.
Ngọc vừa nói vừa nhìn Lan. Lan nức nở:
- Tôi chỉ còn... có một cái chết. Nếu tôi có thể thổ lộ can trường cho ông biết vì sao tôi phải cải trang, vì sao tôi phải quy y đầu Phật... Nhưng sự bí mật ấy, tôi nhất định sống để dạ, chết mang theo.
- Ni cô chả nên nghĩ ngợi, ni cô nên coi tôi như một người bạn thành thực có thể vì ni cô hy sinh hết mọi sự, cho đến cả hạnh phúc của tôi, cho đến cả ái tình của tôi, ái tình có lẽ tuyệt vọng của tôi.
- Vâng, nếu ông có lòng quân tử như thế thì còn gì sung sướng cho tôi hơn nữa. Phải biết hy sinh thì đời ta mới có ý nghĩa cao thượng.
- Thưa, ni cô...
- Thưa ông, xin ông cứ gọi tôi là chú như trước, vì tôi đã thưa cùng ông nhiều lần rằng người xuất gia đầu Phật chỉ là một kẻ tu hành, dù là gái hay trai cũng vậy. Vả nếu ông cứ gọi đùa tôi là ni cô như thế, sợ khi trở về Long Giáng ông quen mồm đi... Ông đã hứarằng đối với kẻ tu hành này, ông chỉ là một người bạn từ bi, thì xin ông giữ lời cho, đừng để xảy ra sự không may cho....
Ngọc nói luôn:
- Cho đôi ta.
Lan trau mày, trách:
- Ấy đấy, ông lại cợt nhả rồi, thưa ông bạn từ bi.
- Thưa ni cô, thưa chú... Xin chú tha thứ cho, tôi sung sướng quá, nên tôi lỡ lời. Hạnh phúc của tôi....Nếu mục đích đời người là tìm hạnh phúc thì tôi đã tới mục đích rồi.
- Nhưng đã tới rồi thì nên dừng lại, chờ bước thêm một bước nữa.
- Mà nếu đức Thích Ca xuất thế để tìm hạnh phúc cho nhân loại và đưa linh hồn chúng sinh tới cõi Nát bàn, thì tôi cũng xin dừng chân ở gốc cây thông này, chứ chẳng muốn đi đến Nát bàn làm gì.
Lan đứng phắt dậy, nghiêm trang đáp lại:
- Người quân tử phải giữ lời hứa, nhất khi lời hứa ấy lại là một lời thề.
Ngọc cũng đứng dậy. Hai người nhìn nhau. Bóng trăng khuyết rọi đầu cành, lá không thưa nhặt, cỏ xơ xác mặt đồi lấp lánh giọt sương. Hai người nhìn nhau....
Dưới chân đồi làng mạc ngủ yên. Cây cối lờ mờ đen, giòng sông con thấp thoáng dưới bóng trăng như một vải lụa trắng, rồi ra xa lẩn trong sương mù. Bỗng có tiếng gà gáy nửa đêm dưới xóm. Lan giật mình lẩm bẩm:
- Giá gặp nhau hai năm trước...
- Vậy bây giờ muộn quá rồi hay sao?
- Muộn quá rồi. Vì tôi thề trước Phật tổ thì đến chết tôi cũng phải giữ lới thề. Đời còn chả tiếc, tiếc gì một sự cỏn con... nhỏ nhen.
- Nhỏ nhen, nếu đem lòng ví với lòng bác ái. Vì lòng bác ái mà Phật tổ xa vợ, xa con, xa cha, xa mẹ, lang thang khắp bốn phương giời đã tìm phương giải thoát cho chúng sinh. Vậy xin ông cũng vì bác ái mà xóa bỏ trong lòng những tên chú Lan, cô Thi, như thế, ông sẽ cứu sống một nhân mạng, cứu vớt được một linh hồn. Trên đời chỉ có lòng bác ái là đáng kể.
Ngọc ngẫm nghĩ rồi quả quyết nói:
- Vâng, tôi xin thuận theo những lời vàng ngọc của chú. Vậy bây giờ muốn tránh khỏi sự ngờ vực thì ta trở lại Long Vân. Tôi xin cam đoan rằng ngoài tôi ra không ai biết rõ được sự bí mật của chú.
Hai người yên lặng cùng trở lại chùa. Đêm khuya trăng lặn, gió réo cành thông, vạn vật chìm đắm trong cõi hư vô tịch mịch.
Tiếng côn trùng rì rì dưới cỏ liên miên không dứt càng làm rõ rệt sự yên lặng của một cảnh đồi hoang vắng.
Ngọc bỗng giật mình quay lại. Chàng vừa nghe thấy một tiếng thở dài, mà trong lúc mơ màng, chàng tưởng tượng ra một làn hơi nhẹ ở sườn đồi sương ướt bốc lên. Nhưng sau lưng chàng Lan vẫn dịu dàng đều đều đặt bước, như bộ máy êm lặng nhẹ nhàng.
Về tới chùa, Ngọc rón rén vào buồng, còn Lan thì ngồi tựa án phòng trai, băn khoăn suốt đêm không ngủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét