Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

HỒI KÝ ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN CỦA XUÂN VŨ - KỲ 2

 - 7 -
Nghĩ quanh nghĩ quẩn mãi rồi cũng không thoát khỏi cái cực hình kéo dài không biết bao giờ chấm dứt: đó là ĐI. Phải đi! Và đi tới nghĩa là không thể lùi lại.
Dù sao thì cũng phải đi. Mà đi bằng cặp chân và cây gậy sau những cơn sốt và nằm ngoài mưa, kể ra cũng không phải là chuyện vui.
Nằm mà nhìn cảnh vật thì trông thấy cái cây, sườn núi cái gì cũng nghiêng như sắp đổ. Còn ngồi mà nhìn thì thấy nó xoay vần. Cây cối và sườn núi như cứ chạy quanh như vây chặt lấy mình.
Mắt tôi quen nhìn cái đầu võng của Thu. Ở trên đó có cái chân đau của Thu gác lên với những băng bó trắng xoá. Màu trắng gây thêm cảm giác buồn của thương tật.
Đôi khi Thu nằm nghiêng qua một bên, tóc xoả xuống chấm đất, như một hình ảnh trữ tình gợi ý thơ. Nhưng thú thật là tóc của Thu, hay gì gì đi nữa cũng không có thể kích động trong tôi một thứ tình cảm gì. Cũng như tôi, cái thân xác hiện tại của tôi chán chường ra trước mặt mọi người, nhưng đâu có gợi lên cho ai một thứ xúc động nào, kể cả sự thương hại. Bằng chứng là hôm nọ hai người nào đó đã cho rằng tôi chết, nhưng cuối cùng họ không thèm đến nhìn mặt tôi và bỏ ra đi như rời một tảng đá, một gốc cây mục.
Mấy hôm rày Thu buồn lắm. Thu đặt vấn đề xin trở về Hà Nội hẳn hoi. Tôi biết vậy nhưng tôi không an ủi nàng bởi vì cái gì to lớn nhất đã vỡ tan rồi.. Nỗi buồn lan ra từ đó.
Có lẽ Thu buồn nhất vì thấy sắc đẹp của mình tan biến đi một cách quá chóng vánh.
Tôi càng sợ soi gương bao nhiêu thì Thu lại soi gương thường bấy nhiêu. Tôi để ý lúc nào Thu cũng nâng chiếc gương lên trước mặt hoặc vuốt sửa tóc hoặc nặn một nốt mụn, hoặc xoa xoa những vết thâm vừa xuất hiện trên gương mặt. Tôi biết Thu thở dài luôn. Có một hôm Thu tưởng tôi ngủ cho nên cô xăn quần lên quá hai đầu gối rồi đưa tay vuốt ve đôi đùi của cô. Đôi chân của Thu cũng như đôi chân của Phương, tôi từng nhìn ngắm, là đôi cánh thiên thần của người diễn viên ca múa. Họ bay bổng lên là nhờ đôi chân.
Nhưng giờ đây chân của họ như đôi cánh cụt, lông lá xơ xác không thể cất lên nổi nữa. Huống chi chân Thu bị sưng và mưng mủ ra thế kia. Thu hết mong ngày vinh quang đến với Thu rồi. Một lần Thu đã tỏ sự đau khổ đó ra cho tôi nghe. Thu bảo rằng: vũ nhờ có cái cổ chân để xoay như cái trục vậy, nhưng giờ đây cái máy xoay đã hỏng rồi, có chửa cũng không như cũ được.
Tôi với Thu bây giờ như hai cây sậy đứng giữa mưa gió, không bên nào có thể tựa vào bên nào và chỉ chờ ngày ngã xuống – tệ hơn cả anh mù và anh què trong bài học thuộc lòng lớp đồng ấu. Họ còn có thể “hợp tác” công sức của họ với nhau, người nầy dùng mắt người kia, người kia nhờ chân người nầy. Còn chúng tôi hoàn toàn không nương tựa vào nhau được.
Thấy Thu nằm im lìm, tôi cất tiếng gọi. Cứ như thói quen, Thu nghe tôi gọi thì in như là chỉ để cho Thu hay rằng tôi sắp sửa sốt và sắp sửa nhờ Thu làm một việc gì, cho nên Thu hỏi lại ngay:
- Anh lại sắp sốt phải không?
- Không, chắc qua giờ đó rồi.
- Cha chả! Anh dứt cơn sốt được hôm nay nữa là hai hôm rồi. Như vậy là mai lên đường…
- Chân em như thế nào mà đòi đi?
- Ở mà chờ cho lành có mà hết cuối năm.
- Chân như thế mà đi thế nào? Đường có tráng nhựa như đường Trần Hưng Đạo đâu.
- Đừng có nhắc cái gì của Hà Nội cả, đừng có nhắc. Em van anh nếu anh muốn em đi tiếp đường này thì anh đừng có nhắc cái gì của Hà Nội cả, ngay cả hai tiếng Hà Nội cũng không nhắc. Em không muốn gợi lại những kỷ niệm của Hà Nội, em muốn như Hà Nội là một thành phố không có quan hệ gì với em cả, như Hà Nội không có trong đời sống của em.
- Tại sao vậy?
- Vì nếu nhắc đến Hà Nội, em sẽ quay lại tức khắc! Tức khắc, ngay bây giờ! Em không cần gì tất cả, ngoài Hà Nội.
Rồi Thu ôm mặt khóc nức nở, càng não lòng. Những ý nghĩa và tình cảm của Thu tuy không giống của tôi, nhưng những tình cảm ấy vẫn làm cho tôi suy đồi thêm. Hà Nội đối với tôi không phải là không gắn bó, không kỷ niệm, nhưng có lẽ nó ở lại sau lưng tôi rồi. Trước mặt tôi là Saigon, là Mỹ Tho, là bờ dừa, thửa ruộng thân yêu của tôi.
Dù quê hương tôi có nghèo nàn, hay không có những kỷ niệm tốt đẹp đối với tôi chăng nữa, và tôi ra đi vì những lý do gì đi chăng nữa, thì tôi cũng mong mỏi ngày về. Tôi phải về, tôi không thể nào trở lại. Dù trong lòng tôi có não nề, dù thân xác tôi có rã rời, tôi cũng phải về. Dù có chết tôi phải chết ở nơi gần Saigon nhất.
Tôi gượng gạo nói với Thu, một cách giả dối lộ hẳn ra:
- Em càng yêu Hà Nội thì em càng phải đi Miền Nam. Con đường vinh quang dắt em về Hà Nội là con đường em đang đi đây. Nó sẽ vạch qua Miền Nam Giải Phóng và đưa em về Hà Nội.
Thu phá lên cười quái đản. Giọng cười vừa chế nhạo vừa chán ngán làm cho tôi như bị một cơn gió độc lướt qua. Tôi biết mình nói không thật, không lừa nổi người khác, mong chi lừa được chính mình.
Thu nói:
- Anh có dám lập lại những lời anh vừa nói đó không?
- Để làm gì vậy? Em không nghe rõ sao?
- Em nghe rõ lắm chứ!
- Thế thì anh đâu phải uổng công.
- Anh lập lại để anh nghe.
Tôi lặng thinh, tôi thấy hơi xấu hổ. Tôi nói:
- Đối với anh thì anh phải về Nam em ạ. Anh nghĩ em cũng thế thôi!
- Không! – Thu ngồi bật hẳn dậy – đối với anh khác, đối với em khác chứ! – Thu nhìn quanh quất xem có ai không. Thấy chiếc võng mắc chung quanh đều im lìm, Thu tiếp – Tôi đối với Hà Nội khác anh đối với Hà Nội. Anh với Saigon khác tôi với Saigon. Đành là tổ quốc quê hương, nhưng mỗi con người đều mang trong tim mình một cái gì riêng tư và độc nhất. Tôi ví dụ như ở quê anh có bờ sông, ở quê tôi cũng có, bờ sông Hồng chẳng hạn, nhưng nó không bao giờ giống sông Cửu Long trong anh. Đứng về mặt địa dư, nếu có giống chăng đi nữa, thì dưới mắt anh, dưới mắt tôi, con sông Hồng tuy là một nhưng vẫn cứ là hai vì mắt anh nhìn nó, anh xúc động khác tôi, còn tôi trông thấy nó hằng ngày với phù sa trôi theo sông, với mùa nước lên nước xuống với những kỷ niệm vui buồn của riêng tôi, không giống với ai. Có người nói: “người ta không đi xa quê hương được vì tiếng chim kêu ở đầu rào”.
Chính vì thế, anh ạ, mà anh bôn ba về Nam, còn em thì đến chặng đường này, em có những ý nghĩ kỳ lạ…
Thu ngưng lại một giây rồi tiếp ngay:
- Anh nghĩ lại xem, em xin lỗi anh nhé, có phải vì lý tưởng cao siêu mà anh đi về Nam, hay chỉ vì tiếng chim kêu ở đầu rào? Em không phải là đảng viên, cho nên có thể em suy nghĩ lệch lạc…
Tôi ngồi lặng người ra, càng ngạc nhiên về những tình cảm sâu đậm đối với quê hương và sự thông minh của cô gái.
Tôi hỏi Thu:
- Nhưng bây giờ em định thế nào?
- Định thế nào?
- Nghĩa là…
- Em biết anh muốn hỏi em gì rồi – Thu tiếp – Nghĩa là anh muốn hỏi em có đi Miền Nam không chứ gì? Em thú thật với anh rằng em thấy khổ tâm . Vào đó để làm gì? Để ca múa. Em thì chỉ làm được có mỗi việc múa thôi! Không múa được thì em vào đó để nấu cơm à? Miền Nam có cả chị Ba Định tài giỏi như thế, chẳng lẽ lại thiếu người nấu cơm?
Tôi cười không nói được gì.
Thu tiếp:
- Anh xem cái chân của em đây. Bây giờ nó đã thế này vào đến đó thì nó sẽ ra sao? Em đã thành con chim chỉ còn có một cánh thôi anh ạ!
Mặc dù ngồi hơi xa, nhưng vẫn trông thấy những hạt nước mắt long lanh trên khoé mắt Thu. Thu khóc là phải, bởi sự nghiệp của Thu xem như bắt đầu mỏng manh, xám xịt.
Tôi nói:
- Nhưng em trở về sao được? Em thấy từ hôm mình đi đến nay chỉ thấy người ta toàn vào, chứ có ai trở ra đâu? Thời buổi này ai lại đi ra?
- Người nào cũng có lý do. Em cũng có lý do của em.
- Nhưng không ổn đâu em ạ!
- Sao? Anh nói thế nào?
- Giao liên họ đâu có dẫn em đi trở ra.
- Anh đã thấy vấn đề chân cẳng của Phương và của các em từ khi đi được vài hôm. Hồi còn đi chung, đêm nào anh cũng lén đoàn đi ra suối tìm chỗ vắng và nấu nước đổ xuống một cái trũng đã lót sẵn vải ni-lông để cho Phương ngâm chân, có khi phải ngâm cả giờ đồng hồ. Chân dày chân dép đã quen từ bé đến lớn, giờ bỗng nhiên mang dép râu, leo vách đá, làm sao sống được. Ngâm nước nóng cho máu mau tan ra, chứ không nó sưng vù lên như hai cái bánh bò. Nhờ vậy mà Phương ráng đi tới chỗ rẽ xuống Khu 5.
Đêm nào Phương cũng khóc. Anh cố lờ đi, hoặc đôi khi anh phát cáu la ầm lên. Anh bảo đi làm cách mạng thì phải chịu cực khổ chớ phải ở nhà với má hay sao mà sướng được?
Phương đã trả lời ngay: “Em cũng biết làm cách mạng là khổ thật, nhưng cái khổ nầy là cái khổ vô lý, thà bắt em đi tù, em còn sướng hơn vì ở tù là mất tự do nhưng mình biết trước như thế cho nên khi mình mất tự do thì mình không lấy gì làm khổ. Còn cái này mình đi giải phóng Miền Nam mà rốt cuộc mình không làm gì được hết, thậm chí chỉ thêm gánh nặng cho người ta, thử hỏi cái việc đi vô Nam của mình có ích gì?
Đem cặp chân diễn viên múa mà trèo núi thì em nghĩ không có gì vô lý hơn!
Đêm nào anh nấu nước cho Phương ngâm chân, Phương cũng phàn nàn, càng ngày càng nặng lời và day dứt hơn.
Một hôm Phương nói thẳng ra rằng, nếu dè như thế này thì Phương đã không đi. Phương đã nói rất thực lòng. Và đó chính là nỗi lòng của hằng vạn người trên đường này. Nếu biết thế này thì chắc chắn không ai đi. Thà ở lại miền Bắc làm tên cán bộ mất tinh thần, làm tên lính đào ngũ còn hơn.
Tôi hỏi Thu:
- Nếu người ta không đưa Thu trở lại thì sao?
- Ai biết đâu được!
- Phải dự phòng chứ!
- Ở cái xứ này không thể dự phòng cái gì hết. Đang khi tưởng nắng to, mình đi giặt quần ao, thì ùn ùn trời đổ mưa. Đang khi mình tưởng mình sắp sửa ăn một bữa cơm ngon thì lại đổ kềnh ra sốt rét, cũng như biết đâu chốc nữa máy bay chẳng đến rải chất độc xuống vùng nầy?
- Thôi bây giờ đề nghị thế này nhé.
- Anh cứ nói xem.
- Mình cứ vô trạm.
- Vô thế nào được? Trước nhất mình phải biết đường.
- Cái đó thì không lo. Hai hôm nay anh đã chú ý lối ra vào của nó rồi. Ở phía bờ suối có một tảng đá, bước lên tảng đá thì đụng nhằm một nhánh cây ngã ngang rào đường. Giở nhánh cây đó chui qua sẽ thấy một con đường mòn, cứ theo đường đó thì đến trạm.
Thu hỏi vặn:
- Nhưng vào để làm gì?
- Để kiếm một tí thức ăn, thịt rừng chẳng hạn và một mái nhà để núp mưa!
- Anh không biết là họ rất kỵ khách vô trạm họ sao?
Tôi cười:
- Khách cũng tùy. Có loại khách họ rất kỵ, nhưng cũng có loại chúng nó cầu cạnh rước vào nhà mà nuôi như cu cu!
- Anh giỏi có suy luận thôi!
- Anh thực tế lắm em chớ em! – Tôi nói tiếp – Bây giờ như thế này nhé, vào trạm lúc này thân tàn thì dù có cái giấy “A” cũng bị trạm nó tống ra ngoài như thường. Vậy bây giờ chỉ có em vào được.
- Eo ơi! Em sợ đi một mình lắm! Em sợ những cái gì mới lạ huống chi là giữa rừng núi hoang vu này mà em phải đi một mình.
- Ấy! Em sao hay lo xa quá! Anh không bảo em đi một mình đâu. Em đi trước chừng vài ba bước thôi, rồi anh đi theo liền. Nếu anh đi trước thò cái mặt vàng ẽo của anh ra thì nó xua đi ngay. Cho nên em phải đi trước…Hì hì em rõ chưa?
- Nhưng em đâu có giấy tờ mà trình?
- Cần gì! Em sao ngây ghơ qua vậy? Nó trông thấy em thì nó quên tất cả giấy tờ rồi.
- Em chịu thôi! – Thu phụng phịu – Ai làm kỳ cục vậy.
- Có gì mà kỳ cục? Em cứ vào, nó thấy chân em đau, tự nhiên nó xúc động, nó thương hại cô văn công chân yếu tay mềm mà cũng đi giải phóng Miền Nam, tự nhiên nó thương, nó sẽ cho vào trạm ngay.
Thu nói:
- Thôi, anh muốn làm gì thì làm miễn sao cho chân em mau lành và anh hết sốt rét thì thôi!
- Anh không làm mất cái giá trị của em đâu mà sợ! Gặp nguy hiểm thì phải tùng quyền em hiểu không?
Không biết đang trưa hay đã chiều rồi. Nó cứ âm âm lạnh. Ở bờ suối, đá cũng có vẻ mục, chỉ cần động tới là nó rã ra ngay. Còn người thì cứ gây gây sốt. Cứ mỗi lần gió mạnh thì làn da sởn lên rờn rợn. Con người có vẻ mong manh quá. Lúc nào cũng như sắp sốt tới nơi. Tôi nằm yên trên võng có khi hàng mấy giờ liền chỉ để lắng nghe xem cơn sốt có đến với mình không và lúc nào cũng có cảm giác là nó đang đến.
Chung quanh đây, những bệnh nhân rơi rớt lại từ những đoàn khác nhau, vẫn còn nằm nguyên đó. Có người hôm trước thấy còn ngóc dậy nấu nướng, hôm nay thì nằm bẹp. Có người hôm trước nằm liệt trên võng, nay đã thấy ngóc dậy đi đi lại lại. Không ai nói gì với ai. Dường như họ không cảm thấy sự có mặt của những người đồng loại, đồng bệnh bên cạnh họ có lợi ích gì.
Một chặp sau thì quả nhiên có hai cậu giao liên tới. Một cậu băm sáu băm bảy, còn một cậu chừng mười chín hai mươi. Cả hai đều sốt rét da vàng oách nhưng hơi ngả màu xám. Có lẽ họ chịu đựng sốt rét đã quen và cái chướng khí của rừng núi làm cho nước da họ xạm lại.
Hai người vừa đi ngang qua võng tôi vừa càu nhàu:
- Để cho nó chết!
Người kia gắt:
- Để cho nó chết thì chúng mình tù mọt gông bố à!
Cả hai đều xăm xăm đi lại phía võng của Thu.
Tôi bèn gọi giật hai anh chàng lại. Cả đều do dự nhưng tôi ngoắc thật nhanh, có vẻ quan trọng, cho nên hai anh chàng đều trở lại và đến bên tôi.
Tôi bảo ngay:
- Các anh đưa cô kia vào trạm. Nếu không thì có việc gì Trung Ương sẽ khiển trách đường dây này nhé!
Cả hai cậu cùng có vẻ thú vị, mắt sáng rực lên, chờ đợi tôi nói tiếp. Tôi bảo:
- Cô ta là diễn viên múa của Văn Công Trung Ương đó, đã từng đi Liên Xô, Trung Quốc danh tiếng như cồn. Miền Bắc chỉ có vài cô như vậy. Trung Ương gởi vào Nam để biểu diễn ở Saigon đấy. Saigon giải phóng mà không có cô ta biểu diễn thì nguy to.
Trông cách nai nịt của hai anh chàng tôi quả quyết đúng là giao liên: lựu đạn giắt quanh lưng, vải cao su gói ghém rất gọn, khẩu cạc-bin lấp báng đôi buộc bằng dây thun và nhất là hai ống quần quấn “xà-cạp” trông như lính tẩy. Tôi đưa nốt hai anh chàng vào vòng trách nhiệm:
- Cô ta đau chân, nên đoàn đã gởi cô ta lại đây. Mặt khác đã điện về Trung Ương báo cáo. Nếu Hà Nội hay thì sẽ chỉ thị cho trạm xá nào gần đây nhất đến đem cô ta về điều trị!
Cậu trẻ đáp:
- Gần nhất cũng phải hai ngày đường, đồng chí ạ!
- Vậy thì làm sao?
- Dạ trong trạm em y tá xoàng thôi cũng không có!
Tôi đã mừng thầm rồi nhưng hãy còn kỳ kèo:
- Cậu có thể đi rước bác sĩ ờ cái trạm xá gần đây không? Đi hai ngày mà có được bác sĩ chữa chân cho cô thì cũng đáng cái công. Chân của diễn viên múa – mà là diễn viên ưu tú – là chân ngọc chân ngà các cậu có biết không? Ở Liên Xô mỗi diễn viên múa như vậy có một bác sĩ theo để săn sóc đôi chân.
Cái gì chứ cái nghề bịa đặt tán khoét thì tôi học rất nhiều trên đường Trường Sơn này.
Tôi biết rõ rang sở dĩ hai cậu ta nghe lời tôi một cách ngoan ngoãn và kiên nhẫn như vậy là vì bệnh nhân mà trạm của các cậu sẽ rước về là một người con gái đẹp, chứ nếu ngược lại, thì dù cho tôi có là đại tướng đi nữa cũng không khiển nổi hai gã lính núi này.
Phép vua thua lệ làng. Luật lệ đường dây ở đây còn hơn thế nữa. Giao liên hoạt động độc lập, mỗi trạm tự do hùng cứ một giang sơn, muốn làm gì cũng ai hiểu nổi. Có trạm lấy gạo tiêu chuẩn – mà mỗi hạt là một giọt mồ hôi pha máu – đem bán hoặc nuôi heo v.v….
Cho nên trên đường đây , khách sợ nhất là giao liên, Họ bảo: “nhất trạm, nhì trời”.
Khách đi đường đừng có dại dột mà động tới các ông trời đó. Các ổng mà ghét anh rồi thì các ổng làm đủ thứ trò để trả thù. Mà các ổng trả thù thì chết. Ví dụ đến một khúc đường tốt, đáng lẽ để cho anh đi thong thả lấy sức thì các ổng lại hô là bãi pháo và hét anh chạy vắt giò lên cổ. Các ổng cho anh chạy hộc máu mồm ra và đồ đạc rơi rớt hết. Hoặc đường mòn không cho đi mà các ổng cho anh lội toàn gai góc, đá tai mèo và thay vì đi 20 phút, các ổng cho anh trèo dốc vài tiếng đồng hồ. Cho nên gọi họ là trời cũng không có gì quá đáng.
Tôi quay sang Thu, nói to với giọng cấp chỉ huy:
- Trong lúc chờ đợi bác sĩ và mưa gió lê thê thế này, hai đồng chí giao liên có ý muốn đưa cô về trạm để cho y tá săn sóc cái chân đau của cô. Cô thấy thế nào?
Thu từ từ ngồi dậy, tóc Thu hơi rối. Thu cau mặt và sẻ thòng cái chân đau xuống đất, nhưng hai cậu giao liên đâu có nhìn cái nơi không đẹp đẽ ấy làm chi. Hai cậu sửng sốt trước gương mặt của cô Văn Công Trung Ương, mặc dù đang ốm đau nhưng vẫn cứ đáng nhìn như thường.
Thu biết tôi đã khơi mào nên nàng tiếp thêm:
-Điện gì mà lâu thế? Mọi lần em ở Mạc Tư Khoa, thưa thủ trưởng, em nói thẳng về Hà Nội được cơ mà. Em nói chuyện 4, 5 phút cũng không ai cắt.
- Đó là chuyện thời bình, còn ở đây là chiến tranh. Nhưng đối với em, Trung Ương cho cái đặc ân đó là quá xá rồi. Chứ ở đây có ai mà được như vậy, em cũng phải thông cảm Trung Ương một chút.
Thu lại nhăn nhó:
- Vậy em đề nghị thủ trưởng cứ cho em nằm lại đây chờ người tới rước, bây giờ em không tài nào đi nổi, thủ trưởng cứ trông đây cho rõ.
Thu đưa chân lên.
Tôi cứ xuýt xoa mãi. Tôi nói:
- Đành rằng Trung Ương sẽ có người tới rước, nhưng bây giờ hai đồng chí trạm có nhiệt tình, em cũng không nên từ chối, phải không hai đồng chí?
Tôi đưa hai cậu đến lều của Thu và nói ngay:
- Điện về tới Trung Ương ít nhất là hai ba hôm rồi. Chắc chắn như vậy. Nhưng còn từ Trung Ương điện vào đây phải vòng qua Khu 5 rồi Khu mới cho người tới. Và theo hai đồng chí này nói thì trạm xá gần đây nhất cũng mất hai ngày đường.
Thu lại cau mặt nhẹ nhàng:
- Khổ quá!
- Khổ thật! Nhưng biết làm sao bây giờ. Cũng may là có hai đồng chí đây… Bây giờ một mặt cứ vào trạm nằm, một mặt mình chờ Trung Ương.
Hai cậu giao liên thấy Thu quan trọng đến nỗi chân đau mà phải điện về Trung Ương, mà Thu lại gọi tôi là thủ trưởng thì tôi quan trọng đến chừng nào nữa? Cho nên hai anh chàng nài nỉ xin mời chúng tôi về trạm. Tôi cũng thừa biết rằng sở dĩ tôi quan trọng là vì tôi chỉ huy một cô gái đẹp. Thế thôi!
Cuối cùng Thu “nhận lời” vào trạm.
Những người nằm chung quanh đều nghễnh cổ lên nghe câu chuyện của chúng tôi. Có lẽ họ lấy làm ngạc nhiên về sự quan trọng của cô diễn viên múa, hay lấy làm lạ sự đãi ngộ đặc biệt đối với Thu, một bệnh nhân xoàng trong khi cả bọn họ đã nằm liệt mà có ai thèm để mắt tới cho đâu!
Nhưng ở đây không thể đối xử nhân đạo với ai hết, không thể bỏ qua một cơ hội để chụp lấy những quyền lợi bất ngờ, nhất là quyền lợi về vật chất: một mẩu cơm, một chỗ ngủ hay một viên thuốc. Ở đây người ta quen tàn nhẫn với nhau, quen lấn lướt nhau, quen hơn thua tranh chấp với nhau từng tí một có khi chỉ để được một mẩu cơm cháy. Chao ôi, thế thì tôi và Thu đâu có gì phải nghĩ suy cho mệt đối với những người bệnh đang nằm ngoài mưa kia khi chúng tôi được trân trọng rước vào trạm.
Tôi thú thật rằng tôi cũng chẳng xấu hổ chút nào. Họ có hiểu đâu là múa, đâu là Trung Ương, đâu là Liên Xô gì gì…Tôi thấy cần phải nói dối nhiều hơn nữa, hay hơn nữa để họ tin, để cuối cùng tôi được ngủ yên không ướt, được ăn no, hết sốt rét. Tóm lại trong một chữ: “sống”. Thế thôi! Ai muốn lý tưởng hoá cuộc trường kỳ lội bộ trên con đường kỳ cục này thì hãy cứ nhảy vào, ngay cả người đã lấy xương máu người khác để vạch ra đường này nữa, hãy vào, nhảy vào đi, rồi sẽ thấy.
Rồi sẽ thấy cái lý tưởng mà họ đặt ra cho những người khác tôn thờ sẽ chẳng bằng nắm cơm thiu hay những ngụm nước trong bi-đông trên con đường này.
Chớ ai trách tôi nói dối, tôi lừa gạt. Từ ngày tôi đi lên đường Trường Sơn tôi nói dối tất cả. Bạn tôi hỏi: còn muối không, tôi nói đã hết. Ai hỏi tôi: mệt không, mệt ít tôi nói mệt nhiều. Ai hỏi tôi gì gì tôi cũng tìm cách nói dối, trừ khi nói thật có lợi hơn nói dối thì tôi mới nói thật. Tôi thấy mọi người đều nói dối rất hồn nhiên, ngay cả những người lớn nói những chuyện tày trời, nói lừa nói đảo, thì việc gì mình thẳng ruột ngựa cho thiệt thân.
Một người quảy ba-lô và đồ phụ tùng cho Thu. Họ tỏ ý miễn cưỡng giúp đỡ tôi nhưng tôi lập tức chối từ vì sợ lạm dụng lòng tốt của họ.
Đi được một quãng thì phải qua suối. Chao ôi đó là một vấn đề khó khăn gian khổ (nhưng nhất định thắng lợi!). Tôi gài vấn đề ngay:
- Chân của cô Thu bị ướt có thể bị nhiễm trùng đấy!
Thu chống gậy đứng dừng lại bên bờ suối. Bóng Thu in dưới nước lăng tăng theo những gợn sóng bỗng nhiên làm tôi bồi hồi.
Tôi chợt nghĩ: Nếu không có tôi đề ra chủ trương khiêng Thu đi mấy ngày đầu và nếu bây giờ không có tôi ở đây thì Thu sẽ ra sao. Đêm khuya thân gái dậm trường.
Cậu giao liên trẻ bảo:
- Để tôi chặt cây bắt cầu cho chị qua.
Tôi gạt ngay:
- Đi đất còn không vững nữa là đi cầu!
- Thế thì chặt đòn khiêng.
- Gì mà phải khiêng, có mấy bước thôi, nhảy phốc cái là qua bên kia ngay. Chậc!
Tôi ngắm nghía một lúc rồi hăm hở lột ba-lô cùng thắt lưng ra trao cho cậu trẻ và bảo:
- Cậu mang hộ tôi.
- Chi vậy?
- Để tôi cõng cô ấy sang cho mau.
Cả hai đều nhìn tôi. Tuy không nói ra, nhưng họ đều cho tôi định làm một chuyện không thể làm được.
Tôi giục:
- Lại đây Thu. Anh cõng em qua. Chần chờ ở đây mưa trút xuống ướt như chuột bây giờ.
Thu chần chờ, không nói không rằng, vẻ mặt buồn hiu. Có lẽ Thu ngao ngán đến cực độ con đường vinh quang này. Đường gì mà đường vậy. Đi không được, đứng không có bóng mát. Còn mưa thì nhánh đổ đâm lòi ruột. Đêm ngủ thấp thỏm sợ kẻ gian phi ăn cắp dép và bi-đông.
Thu lắc đầu cương quyết:
- Nhiễm trùng thi nhiễm, em lội qua thôi!
Tôi quát to:
- Tôi ra lệnh cho đồng chí phải để tôi cõng!
Thu rơm rớm nước mắt.
Cậu giao liên trẻ đau khổ ra mặt. Còn anh kia thì nhìn tôi, chắc anh ta biết tôi cái thân còn không muốn nổi, tôi mà cõng Thu thì sẽ dìm Thu ngay xuống nước.
Anh này bảo cậu trẻ:
- Thôi em cõng chị ấy đi!
Cậu trẻ ửng vành tai, ngó xuống.
Thu hất mái tóc ra phía sau như để lấy lại bình tĩnh. Còn tôi thì tôi đã thấy kết quả nắm chắc trong tay rồi. Tôi nói tiếp giọng nhỏ nhẹ:
- Thu không nên e ngại. Thu coi cậu ấy như em của Thu vậy. Vả lại có gì đâu, chân Thu đau, còn cậu ấy thì tự nguyện giúp Thu như giúp một người yếu đuối hoạn nạn.
Thật là khóc hổ người, cười ra nước mắt.
Cậu giao liên trẻ khom lưng xuống và Thu chậm chạp bước tới với chiếc gậy, đôi mắt Thu không rời bàn chân đau đang chọn những chỗ phẳng để đặt xuống một cách vô cùng thận trọng.
Thật là não lòng, chua cay, tủi hận. Đó, phương tiện di chuyển thương binh của bọn tôi như vậy đó, có hơn gì thời Bà Trưng Bà Triệu hay không? Vậy mà phình bụng chơi với phản lực trực thăng. Đánh với thằng giặc nó đi hành quân máy bay, chở cả gà quay và giấy vệ sinh theo. Nó toàn bay trên đầu; còn mình thì cứ ngóng cổ cò lên mà dòm và phản đối bằng mồm, chuyên môn chui rút lén lút, một đóm lửa cũng không dám nhóm, một làn khói cũng phải quạt cho tan. Hỏi chiến thắng lấy đâu mà có?
Thu đang đi bỗng dừng lại. Thu lắc đầu nguầy nguậy:
- Thôi anh à! Để em lội tốt hơn. Chả sao đâu, có ướt thì lát nữa khô!
Cậu giao liên trẻ nhìn Thu. Có lẽ từ lâu nay cậu ta chưa thấy người con gái nào đẹp như vậy. Cậu ta đã tự nguyện cõng Thu qua suối, nhưng dù sao cậu cũng hơi ngượng.
Còn anh kia thì không giục thêm tiếng nào nữa, có lẽ y thấy cũng hơi kỳ kỳ cho Thu.
Tôi không biết làm sao nữa. Đã lỡ đến đây rồi không lẽ lại bảo thôi, nhưng nếu không giục thì chưa chắc Thu đã nhận lời. Chính tôi cũng thấy nó làm sao ấy.
Thu đứng nhìn dòng nước ra dáng suy nghĩ lung lắm. Bỗng Thu kêu lên:
- Em đã có cách rồi anh ạ!
- Làm sao?
Thu làm thinh đi lại chỗ cậu giao liên trẻ đứng, lấy cái ba-lô và mở ra lấy một tấm vải mủ. Xong Thu ngồi xuống xăn quần lên rồi không nói không rằng Thu quấn chặt tấm vải mủ chung quanh bàn chân sưng của Thu.
Vậy là Thu có lối thoát. Hai anh giao liên đều hoan nghênh cái sáng kiến của Thu, nhưng có lẽ cả hai cùng tiếc rẻ … cơ hội để giúp đỡ người ngọc qua suối, để lấy đó làm các nhịp cầu giao cảm về sau.
Cái sáng kiến đó thực hiện xong một cách chậm chạp, nhưng chắc chắn. Thu hỏi tôi, sau khi đã nai nịt kỹ lưỡng bàn chân đau:
- Như thế này nước vô được không anh?
Tôi nói:
- Nếu lội qua nhanh thì nước vô không kịp còn lội chậm thì nhất định nước vô ngay.
Thu không nói gì, nàng chống gậy chậm chạp đi xuống mí nước rồi bước xuống nước.
Tôi cảm thấy tê buốt đến tận tủy. Nhưng Thu cứ từ từ đi ra dòng suối.
Thu từ từ xăn quần cao lên cho khỏi ướt. Làn da trắng nuốt làm cho tôi thấy mà phải chạnh lòng. Trắng quá đi mất từ gót chân trở lên vẫn cứ một màu trắng như tuyết, như bông bưởi.
Có lẽ Thu hơi ngượng nên thu không xăn nhanh mà chờ cho nước đến đâu Thu xăn lên đến đó. Có khi Thu phải dừng lại mà xăn để khỏi trượt ngã . Tôi cũng chờ nàng một cách tự nhiên. Thu không hề biết tôi đã dừng lại để nhìn đôi chân của nàng. Hai cậu giao liên cũng đưa mắt xoáy vào mục tiêu ấy.
Bỗng đùng !… Thu đang lội vụt trợt chân ngã xuống nước. Rõ tai hoạ thật! Hai người giao liên bương bả chạy tới. Tôi cũng cuống lên nhưng không thể đi nhanh được, vì tôi vừa dứt cơn sốt. Người sốt tối kỵ là trầm mình dưới nước. Tôi đã cố gắng hết sức để lội xuống nước. Những lỗ chân lông của tôi hở ra, hút nước vào tận tủy, cả người tôi tê dại, buốt lên, mất hết cảm giác.
Một chàng sốt rét lại muốn nâng đỡ một người bệnh thì làm sao? Cho nên tôi đã trượt chân và ngã xuống nước trước khi tới với Thu. Một cậu giao liên đã tới nơi và đỡ Thu dậy. Thu ướt loi ngoi. Thu nhìn tôi có vẻ buồn nản, trách móc hờn tủi. Tất cả tình cảm của một con người hay một con vật bị hy sinh đổ ra cái nhìn đó.
Cậu giao liên trẻ quàng tay qua lưng Thu, còn một tay thì nắm tay Thu một cách tự nhiên để đưa Thu đi tới. Hình như Thu cũng vui lòng về cái cử chỉ ấy
Thu ướt đẫm. Quần áo dán sát vào người. Bây giờ tôi mới biết rằng trong máu tôi còn nhiều hồng huyết cầu. Bởi vì tôi nhìn Thu, tôi thấy Thu đẹp và dường như tôi thấy hơi tiếc sao tôi không đến kịp để đỡ Thu.
Rồi cuối cùng Thu cũng qua được con suối. Sang đến bờ kia, Thu ngồi phệt xuống đất mà thở dốc. Mặt Thu tái lại trông tội nghiệp hết sức. Tôi vội vã đến mở những lớp ni-lông trên chân Thu ra. Thiệt là khốn nạn. Cái bàn chân thon nhỏ bây giờ tôi mới nhìn tận mắt. Nước lọt qua những kẽ hở ni-lông ướt cả vết thương. Những ngón chân đã quen những mặt phẳng và nhung lụa giờ đã tòe ra, móng xước lên và trầy trụa, tím ngắt.
Thu nhìn tôi săn sóc bàn chân cho Thu với vẻ hài lòng dễ chịu. Hơn tháng nay trên đường đá tai mèo này đâu có ai ngó ngàng tới Thu. Ai lo thân nấy! Còn lũ đàn ông vốn nịnh đầm, nhất là đối với các nữ văn công thì cũng quên bẵng đi cái đức tính thiên phú đó . Lâu nay đi chung với họ (các cô nữ văn công ấy) tôi nhiều lúc hay bực mình về sự yếu đuối, sự chậm chạp, sự nhỏng nhẽo của họ hơn là cảm thấy thơ thới vì sự tươi mát của họ mà ai cũng thích khi còn ở ngoài kia trong cuộc sống bình thường.
—>Chương 8
- 8-
Độ hơn một giờ đi bộ trải qua những đoạn đường vừa lầy lội vừa gồ ghề, chúng tôi đến trạm. Đây cũng là lần đầu tiên tôi được trông thấy cái mà người ta gọi là trạm. Đó là mấy cái nhà lợp bằng những tấm ni-lông rách nát, vá víu, đứng co ro dưới tàng lá rậm rạp của rừng xanh. Ấy vậy mà chủ nhà còn sợ máy bay trông thấy nên họ bẻ nhánh cây xếp trên nóc. Cái điều đặc biệt thứ hai là nhà không có vách.
Hồi ở ngoài Hà Nội chúng tôi tưởng rằng trạm là những dãy nhà như chùa trăm gian ở Hà Đông, trong đó có những sạp nứa tuy ọp ẹp nhưng năm ngã lưng rất thần tiên. Trong những cái trạm đó có những lò rất to nấu cơm cho hằng trăm người ăn một lúc. Khách đến trạm rồi chỉ cần bỏ ba-lô xuống sạp nứa, nằm nghỉ và chờ cơm dọn ra thôi. Cái gì cũng tuần tự, khoa học, thân ái như hồi kháng chiến chống Pháp. Nhưng khi tôi được biết cái trạm đầu tiên ở làng Ho thì tư tưởng và tình cảm của tôi hoàn toàn tan biến.
Trạm có nghĩa là không chó nhà cửa bếp núc. Trạm có nghĩa là một nơi nào đó để cho khách dừng lại nghỉ ngơi hoặc một giờ, hoặc một ngày hoặc một tháng, trong đó xảy ra vô số việc phức tạp kể cả sự ăn cắp và lừa gạt lẫn nhau.
Người ta bảo rằng Miền Nam đã giải phóng ba phần tư đất đai và bốn phần năm dân chúng. Vậy mà đi hằng tháng trời, chúng tôi không gặp một cái nhà, không gặp một người dân. Đúng ra, gặp rất nhiều dân chúng, khoảng vài mươi người nhưng những người này không phải dân Việt Nam và khi gặp mặt chúng tôi thì họ đâm đầu chạy chứ không phải đến gần để biểu lộ tình “cá nước”.
Cho nên chiều nay mà tôi gặp được một cái mái nhà của trạm thật là một hạnh phúc lớn cho tôi.
Tôi và Thu mắc võng gần bên nhau, trên những chỗ cũ người ta vừa đi nên không phải sửa sang nhiều cho lắm. Bên cạnh chúng tôi là một con suối chảy ngoằn ngoèo. Vì trời mưa to liền mấy hôm qua, cho nên con suối cũng to, nước lên lé đé mặt bờ. Tôi định vào trạm hỏi xem y tá có ống tiêm không để nhờ họ tiêm dùm một mũi thuốc quinine 0,40 mà tôi đã mua và mang từ Hà Nội.
Nhưng khi tôi vào trạm để tìm y tá thì tôi lại thất vọng vì anh trạm trưởng cho hay rằng cái ống tiêm 5 phân khối hiệu Ideal của Hoa Kỳ vừa bể xong, cho nên bây giờ nhân viên trong trạm ốm cũng không có ống tiêm, phải đợi ít nhất 5, 6 tháng mới hy vọng có được.
Như vậy tôi đành cất ống thuốc vào ba-lô và nơm nớp chờ những cơn sốt. Mà quả thật như vậy, hôm sau tôi sốt. Tôi sốt 2 ngày thì dứt cơn. Đó là một điều đáng buồn vô cùng. Vì có lẽ là liều lượng ký-ninh mà tôi nuốt vào bụng không đủ sức để chế ngự những ổ vi trùng.
Tôi nằm trên võng thấy rờn rợn thì biết nguy to. Chập sau trán tôi hâm hấp, vành mắt nóng lên và mắt rơm rớm nước mắt, rồi tôi lại ngáp dài. Thôi! Đích thị hắn rồi! Thằng sốt rét lại đến viếng tôi!
Tôi hình dung rõ từng đợt vi trùng. Chúng hình tròn hay hình lưỡi lam theo lời bác sĩ giảng. Chúng xông vào cắt những túi hồng huyết cầu vỡ ra, hoặc quấn lấy những túi ấy và cũng làm cho nó vỡ ra, rồi xoắn lấy từng túi mà tiêu diệt.
Sau cuộc ác chiến, khi hồng huyết cầu chống trả lại có kết quả thì con người cứ eng eng không lên cơn hẳn, còn khi lũ vi trùng lấn lướt hoàn toàn thì bệnh nhân run lên ngay và xác hồng huyết cầu trôi bập bềnh trong máu. Vì thế sau mỗi cơn sốt, hằng triệu hồng huyết cầu bị tiêu diệt và do đó mà bệnh nhân cứ xanh lướt ra.
Tôi rất bình tĩnh nhưng lại vô cùng ngao ngán, bởi vì tôi biết bản thân mình đang lao vào một cuộc chiến đấu mà tôi biết trước kẻ chiến bại sẽ là tôi.
Tôi mơ màng nghĩ: phen này chết thật đây. Sốt gì sốt vậy, vừa ngóc đầu dậy được hai hôm lại ngã sốt. Mà đúng hai hôm. Nghe người ta nó cách nhật hoặc sốt cái kiểm 2, 3 hôm sốt một cơn như thế khó chữa lắm. Người ta ở rừng kinh nghiệm thế chứ không có sự giải thích khoa học nào hết. Tôi rầu rĩ vô cùng. Tuy sốt mà vẫn suy nghĩ lung tung, nào đường đi còn quá dài, nào quê hương, nào sự nghiệp, gia đình…
Nếu mà nằm lại đây trên dãy Trường Sươgn này thì hiu quạnh cho linh hồn và lạnh lùng cho nấm đất quá! Nhưng bây giờ thì biết làm sao bây giờ? Lỡ chân trót đã đi rồi. Đi rồi còn biết trở lại làm sao? Trường Sơn, cái tên đó hùng vĩ thật, nghe thì thích lắm, xem ảnh thì ai cũng mê say cảnh lạ kỳ thú, nhưng than ôi! Trường Sơn xanh bạt ngàn, xanh vô tận mà chẳng bới đâu ra được một lá rau, còn nấm của Trường Sơn nhiều người thèm quá, ăn bừa, ăn xong lỗ chân lông ra máu, một hộc máu ra mà chết. Nước Trường Sơn uống to bụng, phải nấu thật kỹ rồi mới dám nuốt vào. Mưa Trường Sơn thì bất ngờ và dai dẳng thúi đất, thúi cả thịt da.
Trường Sơn đứng về mặt dinh dưỡng thì không có gì đáng ca ngợi cả, ngoại trừ những bầy khỉ, voi và trâu rừng rất nhát, rất nguy hiểm. Tôi biết rằng con đường về là con đường đầu thai một lần nữa. Con đường về là con đường đói khát, con đường sấm sét, con đường đau khổ và gian khổ, con đường dốc, con đường dài, con đường đi không đến mà rồi vẫn phải đi, trên vai phải mang theo những sứ mạng bày đặt, không biết ai trao cho, một thứ vinh quang không có, một thứ tình cảm ái quốc giả tạo nốt, chỉ còn lại có tình cảm gia đình là thực mà thôi!
Bây giờ tôi nằm đây cách Hà Nội hằng ngàn cây số, cách quê hương cũng hằng ngàn cây số, trở ra thì không bao giờ, còn đi vô thì xa quá.
Đột nhiên tôi nhớ tới Lâm. Một chiều nọ trên đường đi mưa lâm râm. Lâm đi sau lưng tôi, Lâm nấc lên và nói mấy lời ngắn ngủi:”Lần đầu tiên tao cảm thấy đi không tới nơi!” — và lần này thì đến phiên tôi phải nói câu đau buồn đó.
Tôi nghe tiếng nói xì xào phía võng của Thu. Tôi nghiêng đầu nhìn sang. Một người đàn ông ngồi quay lưng lại phía tôi. Ồ lạ nhỉ! Sao có thằng nào vừa xấn đến mà lại trò chuyện thân mật với Thu thế kia. Kể ra nếu ở Hà Nội thì tôi không lưu ý đến làm gì, nhưng ở đây thì không phải thế. Tôi đang chỉ huy một người con gái, mà cô ta lại đẹp nữa, thì đâu có phải là chuyện chơi.
Cho nên tôi phải biết sử dụng cái quyền hạn của tôi chứ. Nếu chàng nó là một trong toán giao liên thì hay lắm, còn nếu là một kẻ nào khác mà mình chẳng có xơ múi gì được thì cho hắn lui ngay.
Nghĩ vậy tôi bèn gọi:
- Thu sang anh bảo, em!
Tôi cũng không nhớ là tôi bỏ tiếng “cô” mà dùng tiếng “em” đối với Thu từ bao giờ nữa. Tự nhiên hai bên xưng hô một cách thân mật. Mới nghe và nhìn hai người chúng tôi đi cặp với nhau, người ta có thể nghĩ đây là vợ chồng. Ý nghĩ này mới ban đầu không lấy gì làm cho tôi thú vị! Hơn nữa Phương mới rẻ xuống Khu 5 chưa đầy hai tuần- nhưng lần này sự xuất hiện của hai anh giao liên làm cho tim tôi thỉnh thoảng lại đập nhịp bất thường, cho nên khi trông thấy gã đàn ông kia thân mật với Thu thi chẳng trách gì tôi hơi bồn chồn.
Thu nghe tôi gọi thì quay lại. Trông gương mặt tươi cười của Thu tôi càng không vừa lòng chút nào hết. Tại sao tôi sốt nằm đây mà Thu lại vui được. Thu không chạy đến tôi như mọi lần. Thu chỉ nói vọng sang:
- Anh Việt đây này!
- Việt nào?
- Đoàn mình có mấy Việt?
Nghe nói đến cái tên Việt tôi muốn sỡn da gà. Bây giờ lại nghe hắn còn ở lại trạm này và gặp Thu thì thiệt là… Sự có mặt của chàng Việt ở đây còn hơn cả sốt rét.
Nếu ai muốn viết tiểu thuyết và xây dựng điển hình về một thằng ba que xỏ lá, dở trí thức, dở bần cố nông, dở Nam dở Bắc, quân sự ba rọi, văn chương lèm nhèm, tài ba vay mượn, đạo đức hạng bét thì xin đến gặp anh này. Chỉ trong vài câu chuyện, bạn sẽ nhận ra ngay những nét điển hình, khỏi phải mệt lòng điều nghiên. Nếu bạn là một cán bộ quân sự thì hắn sẽ nói chuyện chiến trường Điện Biên Phủ cho bạn nghe. Trong chiến trận ấy theo hắn kể thì hắn có tham gia tấn công hầm tướng Đờ-Cát-Tri và sau đó thì hắn được thưởng một cây súng ngắn Liên Xô mà người trao tặng là Cụ Hồ! Nếu bạn có chiến đấu ở Lào thì tức khắc hắn sẽ kể cho bạn nghe về thổ phỉ Lào. Nếu bạn là nhà văn thì hắn sẽ hứa đưa cho bạn xấp bản thảo độ 500 trang hắn vừa viết xong và chưa đưa cho nhà xuất bản nào hết, hoặc khoe rằng Nguyễn Tuân vừa mời hắn tới nhà chơi hôm qua để khen hắn về một bài nào đó của hắn sắp sửa “ló ra” trên báo…
Hắn biết Thu đau chân đi sau nên hắn sụt lại ở trạm này để chờ.
Bây giờ thì hắn đang nói chuyện với Thu. Thu nói chuyện một chốc rồi chạy sang tôi. Tôi hơi hờn, chả là mình cũng có hơi khó chịu vì sự thân ái đó mà! Tôi nhắm mắt lại và vờ nằm mê.
Nhưng Thu đã lắc vai tôi gọi rối rít:
- Anh… anh … ngủ à? Anh vừa gọi em có việc gì thế? Anh cần gì không?
Tôi mở mắt ra. Chập chờn trước mắt tôi là một người con gái, chỉ hương tóc thôi cũng đủ làm cho tôi tỉnh hẳn lên rồi. Thu nom sát mặt tôi và chìa ra một vật gì ngon lành.
- Anh có đắng miệng thì ngậm cái này.
Rồi Thu dúi vào tay tôi. Tôi không nhìn cũng biết ngay là một chiếc kẹo.
Trời đất! Ở chốn này mà có một chiếc kẹo cầm trong tay. Đâu phải là chuyện đùa. Mà dám cho người khác một chiếc kẹo như vậy lại là một chuyện phi thường hơn nữa.
- Em vừa móc túi anh Bảy Việt đó.
Thu nói “anh Bảy Việt” với giọng chế diễu và khinh miệt. Thì ra Thu đã thi hành cái chí sách của tôi rất kết quả. Tôi nghe cơn giận hơi nguôi nguôi và thấy mình vô lý.
Thu vui vẻ nói:
- Em đoán anh ta còn nhiều thức ăn trong ba-lô lắm. Anh nằm đấy để em xem nhé. Thế nào em cũng moi cho bằng được.
Rồi Thu vội vã ra đi.
Tôi nhìn Thu đi mà lòng buồn vô hạn. Thu là một người con gái rất đoan trang, tuy ở văn công nhưng không bị tai tiếng gì. Tính tình Thu rất phóng khoáng nhưng rất mực thước, người lạ mới biết Thu tưởng cô gái này bở xơi lắm.
Bây giờ, theo tôi đạo điễn, và có lẽ Thu thấy là có lý, Thu phải đưa những sự độc đáo của Thu ra để câu nhữ bọn đàn ông để lợi dụng chúng từng hạt muối, từng ngụm nước trở đi, để mà sống, để mà đi tới, không biết tới đâu nhưng phải đi tới, tới đâu thì tới.
Kể ra thì cũng hạ mình quá nhưng nếu không như vậy thì khó tìm được những thuận lợi “để phục vụ cách mạng”(!). Nghĩ như vậy mà tôi an tâm và cứ dùng Thu như một món hàng quý đem ra câu người mua cho họ nhìn ngắm, nghiên cứu nhưng không cho cho họ mó đến bao giờ.
Thu nói chuyện với anh Bảy Việt. Còn tôi thì nhìn chiếc kẹo trên tay tôi. Để nhìn cho rõ hơn, tôi đưa chiếc kẹo lên tận mắt mà nhìn. Chiếc kẹo cam to bằng cái đầu vặn trục đàn màu vàng ngậy. Tôi thấy thèm.
Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện kỳ cục là trong một hoàn cảnh nào đó chính mình sẽ phải thèm một chiếc kẹo hạ cấp như thế kia! Ồ cái lý tưởng cao đẹp quá, bây giờ tôi không còn nghĩ tới nữa, không có gì dựng tôi đậy bằng chiếc kẹo con này. Xin mọi người hãy tin đó là sự thật.
Tự nhiên tôi vuốt ve chiếc kẹo, một khối lượng đường ít ỏi chỉ đủ đánh tan chất đắng trong lưỡi tôi thôi. Nhưng tôi đâu ăn chiếc kẹo đó ngay. Tôi phải suy tính xem nên đưa cho nó vào mồm lúc nào, để có thể hưởng thụ cao nhất đứng về mặt tâm lý cũng như về mặt sinh lý.
Nghĩa là trong tôi thoảng qua ý định là sẽ nhai chiếc kẹo đó khi Việt sang thăm tôi. Chắc chắn y sẽ nhận ra đó là tài sản của y bị sang đoạt một cách êm ái và đau đớn.
Và tôi chờ lúc ăn được tí cháo có chất mặn tráng qua môi lưỡi rồi sẽ xơi cái kẹo, lúc đó thì mình mới tiếp thu được vị ngọt một cách đầy đủ nhất.
Cuối cùng tôi mở giấy kẹo đưa lên mắt nhìn. Tôi không hiểu sao bỗng nhiên tôi vứt chiếc kẹo ra rừng.
Tôi nằm lặng người ra, đau khổ, bức rức , nặng nề và thấy nhục. Không phải vì ăn chiếc kẹo của Bảy Việt. Tất cả những người tìm ra con đường xuyên qua hàng ngàn cây số rừng sâu núi thẳm để đưa quân về “giải phóng Miền Nam” thật là giỏi chớ chẳng phải chơi đâu. Nhưng vạch đường là để cho người ta đi. Muốn cho người ta đi một con đường dài 100 ngày thẳng thét, liên tục như vậy và là con đường núi, đường đèo, đường lội, đường trèo, đường đi đêm không đốt đèn, đường đi hai ngày với một bi-đông nước và mấy vắt cơm thiu, con đường vác khổ sai mà không đủ muối gạo ăn, con đường qua sông không thuyền, con đường chưa ai đi và sẽ không ai đi nếu người ta biết trước và v.v…. Muốn cho hằng vạn quân sĩ hành quân trên một con đường nguy hiểm như vậy ít ra phải cho nó ăn nó uống, phải có thuốc có men, có bóng cây, có nhà có trạm nghỉ ngơi thì mới hòng mong nó đi tới nơi được. Đằng này thì không có gì cả, ngoài con đường trơ ra đó với những người dẫn đường bất mãn hà khắc, đôi khi ác nghiệt và lúc nào cũng muốn rời bỏ chức nghiệp của mình. Một con đường đầy những người bệnh liệt võng bên đường (không phải liệt giường vì ở đây không có giường) với bom đạn máy bay không ngớt với những toán đào ngũ trở lui do cả cán bộ tiểu đoàn “lãnh đạo” với những tên bất mãn tự gây thương tích để khỏi đi tới nơi v.v… Một con đường như vậy bảo sao người ta vui vẻ hy sinh mà đi cho được? Trước khi đánh nhau, có lẽ người ta nên nghĩ đến hai chuyện: phương tiện và tinh thần. Phương tiện ảnh hưởng rất lớn đối với tinh thần, nhưng tinh thần không thể thay phương tiện.
Chỉ nội cái sốt rét thôi cũng đủ đánh tan một nửa lực lượng vô Nam rồi.
Vượt Trường Sơn vai đeo ít nhất 30kilô súng đạn mà trong lưng chỉ có mỗi kilô muối và mươi viên quinine. Tôi nghĩ lại mà rùng mình.
Và kia nữa một cái hình tượng làm cho tôi nghĩ ngợi và bị cuốn hút theo: hình ảnh một chiếc xe đạp.
Ở giữa rừng núi đồi dốc đi một bước đã khó khăn mà lại có chiếc xe đạp thì chẳng khác nào như người ta đem lót bộ ván gõ lót giữa chuồng gà. Sang thì cũng có sang thật nhưng một sự sang trọng vô ích không cần thiết cho ai ráo trọi.
Ai đã đem chiếc xe đạp đến đây vậy kìa?
Nó có muốn đi không? Núi rừng này có phải là nơi hoạt động của nó không?
Có lẽ người ta bảo với nó rằng đi đến đây, nhiệm vụ của nó vinh quang và thiêng liêng hơn. Nó không còn là chiếc xe đạp cọc cạch ngày hai buổi chở người chủ đến sở làm nữa, mà nó đã trở thành một con chim đại bàng, một loại linh điểu có sức mạnh xớt cả nàng công chúa bay đi vượt cả đại duơng với đôi cánh lướt trên đầu người.
Cho nên bây giờ trông thấy chiếc xe đạp nằm gục bên bờ suối, tôi chạnh lòng. Nó đã đưa rước hằng trăm chuyến trên đường này, đã từng lướt qua mặt đồng đội một cách kiêu hãnh, nhưng bây giờ nó đã trở thành mớ sắt vô dụng không xê dịch được và cam tâm nằm đây như một thứ trò hề không mất tiền cho người qua lại.
Người ta đã dùng chiếc xe sắt.. như dùng chiếc xe người.
Thật trông thấy mà thảm thương!
Chiếc xe rả bèng ra. Tất cả bộ phận không còn dính vào nhau bằng bất cứ thứ keo nào.
Đời thằng cán bộ, có khác gì chiếc xe đạp kia? Nghĩ cho cùng tất cả những kẻ sống và những kẻ không còn sống trên Trường Sơn kỳ cục này, tất cả những kẻ chết rồi và những kẻ sắp chết trên con đường này đều là những nạn nhân của một người, một vị, một ông, một đấng, một ngày hay một thằng mà thôi.
Ngài ấy, đấng ấy, thằng ấy có tên mà có không tên như mọi người, có mặt mũi nhưng không ai nhận diện ra được nó. Nó khi tên Tâ, khi tên Tàu, khi mũi lõ, khi mũi tẹt, khi nó ngã sang bên này, lúc nó ngã sang bên kia, nó, nó, nó! Nó giết người lên đến số triệu, xương hàng triệu người kết ghế cho nó ngồi.
—>Chương 9
- 9-
Tôì nghễnh cổ nhìn về phía bên kia, mơ hồ nghe tiếng cười của Thu và Việt. Họ đang vui vì chuyện gì? Trên cái không gian Trường Sơn này không có gì đáng cho mình cười cả nếu không là cười ra nước mắt. Tôi đang tơ lơ mơ thì có người đến.
Tôi muốn gọi Thu về hay kêu rên lên tỏ rõ sự cần thiết có Thu bên tôi, nhưng cuối cùng tôi vẫn nằm im. Thì cái con người đến bên tôi tự nãy giờ lên tiếng. Không phải Thu mà là cậu giao liên trẻ lúc nãy đã dìu Thu qua suối. Cậu ta tên Chân. Tôi biết tên cậu ta nhờ lúc qua suối, người giao liên kia gọi cậu ta.
Chân đến bên võng tôi và hỏi:
- Anh sốt à?
Tôi khẽ gật đầu, không muốn cử động nhiều cho mệt xác, bởi vì cái câu hỏi đó thừa, và tôi đã trả lời không biết bao nhiêu lần rồi.
Trên con đường này có ai không sốt mà phải hỏi. Nhìn gương mặt hắn, tôi đoán hắn ra đây không phải tìm tôi, mà tìm người khác để “trao đổi tình cảm”. Nhưng vì tôi là chỉ huy của cái nhân vật mà hắn muốn gặp kia cho nên hắn phải xã giao với tôi.
Nghĩ vậy tôi từ từ nhắm mắt lại với sự rã rời tận cùng của tâm hồn và của thể xác.
- Anh ạ, anh có ăn cái này được không ?
Tôi mở choàng mắt ra ngay. Khốn nạn thân tôi, thú thật vì nghe tiếng “ăn” mà tôi mở mắt ra, chứ tiếng gì khác thì không mang lại được một kết quả như thế đối với tôi, cho dù tiếng đó là tiếng gì đi nữa.
Cái tiếng “ăn” bây giờ nó quan trọng làm sao, nếu không nói nó là trên hết.
Ai đã đi Trường Sơn đều thấy rõ việc ăn là như vậy. Người ta thèm ăn như một con vật. Các bạn đừng nghĩ rằng tôi bôi nhọ ai hay tôi xỉ vả những người vượt Trường Sơn trong đó có tôi. Đó là một sự thật. Bây giờ tôi quay nhìn lại và xác nhận điều đó một lần nữa rằng đó là sự thật hơn cả mọi sự thật.
Có người thèm ăn quá mà ăn cả tai nấm độc rồi chết, có người ăn vỏ khoai mì mà chết, có người sau những cơn đói khủng khiếp đã ăn quá no, tưởng nứt bụng mà chết, làm y tá phải cho uống thuốc ói ra. Tôi có nghe chuyện một người nọ ăn đến nứt bao tử mà chết.
Ngay như tôi nữa, đã có lần tôi nhặt những hạt gạo rơi trên vết xe thồ để nấu cháo loãng húp cho cứng gối.
Tôi nhìn thấy trong tay của cậu Chân có một cái “ca” (đít bi-đông i-nốc Mỹ) bốc khói. Và tôi ngóc đầu dậy ngay.
Chân nói:
- Em đem ra cho anh cái này.
Tôi ngồi bật dây và nhìn thẳng vào cái hiện vật kỳ lạ ấy không chút ngần ngại.
Chân nói:
- Anh ráng mà ăn. Chỉ có ăn thì mới đi được, còn ngoài ra thì thuốc tiên cũng không giúp được chân anh bước đi nổi đâu!
Vừa nói Chân vừa ấn ca cháo vào tay tôi. Sức ấm của nhôm truyền qua tay tôi, làm tôi tỉnh hẳn dậy. Không phải chỉ vì ca cháo, mà còn vì bất ngờ.
Trên vùng ma thiêng nước độc đầy ma quỷ này có ai lại cho ai một vật gì có giá trị đến thế. Đến đổi bạn thân thiết nhất đời cũng chỉ cho nhau được vài hạt đậu phộng rang.
Vậy mà anh giao liên này đã cho tôi cả một ca cháo nóng. Và lại là cháo thịt lợn. Thế mới lạ lùng .
Cậu giao liên ngồi xuống bên võng đợi tôi ăn. Cậu ta nói:
- Anh ăn đi để em lấy cái ca đem về trả lại cho anh trạm trưởng kẻo mất ảnh la em.
Cậu Chân chờ tôi húp hết ca cháo thì lấy cái ca đem xuống suối rửa rồi trở lên ngồi bên cạnh tôi.
Chân nói:
-Hễ anh ăn được thì thấy khoẻ ngay!
Tôi ngồi ngây ra trên võng. Chao ôi, tôi mất hết mọi cảm giác, tôi không thấy ngon, hay có lẽ vì nó quá ngon tôi không còn biết ngon nữa.
- Phải – Tôi khẽ gật đầu.
Mồ hôi tôi rơm rớm trên cổ và thấm ra ướt cả áo. Ca cháo làm tôi sống lại. Tôi có cảm giác như trong đời tôi chưa bao giờ ăn hai món gì ngon đến thế. Đó là món cháo nấu với ngọn rau, một thứ rau rừng giống như lá dừa nước thu nhỏ lại và những đọt non của nó queo lại như con cuốn chiếu. Nấu nó chung với gạo cho đỡ tốn gaọ. Tôi nói có mặt đèn làm chứng, mặt đèn tắt thì tôi tắt theo. Khi tôi vớt một ngọn rau lên thì chỉ có vài hạt gạo dính theo và khi tôi lấy muỗng quậy lên thì dưới đáy ca lồng lên những hạt gạo nở toè loe không múc được vào lòng muỗng . Như vậy cũng đủ đượm tình đồng chí lắm rồi, huống chi lại còn thêm mấy lát thịt heo.
Chao ôi! thịt heo tươi ở giữa rừng không hiểu làm sao lại có được. Nhưng rõ ràng mắt tôi trông thấy và khi nhai nó giữa những chiếc răng của tôi thì tôi biết đó là thịt heo.
Tôi nhỉn cậu Chân mà bàng hoàng hết cả người, không hiểu tại sao mình lại được cái đặc ân trên đời dưới thế không ai có được như vậy?
Tôi bèn chấp tay lại ngữa mặt lên trời cao thăm thẳm và, trong lòng còn bao nhiêu thành kính tôi vét hết ra mà vái lạy về phương Bắc và nói lên một ngàn lẻ một lần cái câu mà xưa nay tôi chưa hề nói:
- Ơn Bác, ơn Đảng!
Bác đã cho con đi vào con đường tối đại vinh quang này để cho con tận hưởng hương vị sốt rét và chịu đói đến tận cùng, rồi Bác mới cho ca cháo loãng này. Ơn ấy con nguyện kết cỏ ngậm vành! Ngày nào con sống con nguyện đền đáp!
Sau khi húp hết ca cháo và niệm xong mấy câu thần chú ấy, tôi khoẻ hẳn lên (!)
Cậu thanh niên tự nhiên xổ bầu tâm sự:
- Em đang học ở đại học anh ạ! Bỗng nhiên nhà trường bảo Đảng cần thanh niên xung phong, thế là chúng em tình nguyện ra đi bỏ cả sách vở và gia đình. Nhà trường hẹn rằng chỉ trong vài tháng đánh Mỹ xong thì em sẽ trở lại…
Chân ngồi im lặng. Có lẽ cậu ta sắp tố khổ đây. Ừ, thì cứ tố, tôi đâu phải đối tượng mà tôi lo. Người nghe không có tội gì, cứ nói!
Tôi hỏi:
- Thanh niên xung phong thì chỉ đi vài tháng rồi về chứ!
- Vâng, xưa nay vẫn thế!
- Nhưng bây giờ thì không phải vậy, phải không?
- Em nằm đây ngót năm rồi.
Tôi nhảy nhổm người lên.
Bây giờ tôi mới nhìn rõ lại người thanh niên. Tôi biết cậu ta là thanh niên bởi vì tất cả những cậu thanh niên trên đường dây này đều giống như cậu.
Nhưng khi nghe nói hai tiếng ĐẠI HỌC thì tôi giựt mình. Hồi nhớ lại cái khung cảnh trường Đại Học rộn rã tiếng nói tiếng cười, phất phơ nếp áo nếp khăn và mơn mởn những khuôn mặt tươi trẻ tràn đầy sinh lực, thì tôi mới thấy rằng cậu Chân sinh viên Đại Học Hà Nội trước đây một năm hiện đang ngồi trước mặt tôi chỉ còn là một con ngợm. Chân tự nhiên giở mũ lên và nói:
- Anh xem đầu em đây!
Trời đất, sao kỳ cục vậy? Tóc cậu bé đã bạc phơ hết, nói bạc gần hết có hơi quá đáng, nhưng nó đã hoa râm, đúng là hoa râm hay muối tiêu cũng thế.
Một mái tóc bạc như thế trên khuôn mặt non nớt vàng ẽo và cái cổ cao nhòng. Đó, hình dáng của một sinh viên lý tưởng của phong trào ba nhất, ba khoan, hai chống, mười tám xây, ba chục đừng và ở đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên!
Tôi hỏi:
- Sao mà dữ vậy?
- Em chỉ sốt có hai cơn thôi anh mà tóc em ra thế đó.
- Trời đất! Sao mà kỳ cục vậy? – Tôi vói tay sờ mái tóc của cậu thanh niên, để xác nhận thêm lần nữa cái sự thực kỳ quái đó.
Rõ ràng tay tôi sờ đụng những sợi tóc bạc trên mái tóc của cậu thanh niên giữa cuộc đời Trường Sơn này chứ đâu phải là trong vở kịch Lu-ba diễn trên sân khấu nhà hát lớn Hà Nội người ta chào một ông giáo sư già mà nhầm tưởng là Các Mác tái sinh!
Cậu thanh niên Hà Nội ngao ngán:
- Hồi đó đi em tưởng chỉ đi vài tháng rồi về học tiếp, không ngờ mới ban đầu thì chỉ đi tới làng Ho vận tải vũ khí, sau đó ít lâu em ngã sốt. Sau cơn sốt em không còn sức khoẻ để thồ nữa cho nên ban chỉ huy chuyển em qua giao liên.. Họ bảo công tác này sướng lắm, không cần sức khoẻ. Em cũng tin như vậy, định làm vài tháng rồi về. Chẳng ngờ sau khi trở thành giao liên, người ta lại thuyên chuyển em từ trạm này sang trạm kia. Bây giờ thì em biết em đã xa Hà Nội lắm rồi, không biết đường về nữa. Vả lại em cũng không thể về vì người ta không cho.
Thì ra trên đường này còn có những trường hợp bất đắc chí kỳ lạ như vậy nữa! Vậy là trên đường này, những con người đi đi lại lại, súng súng gươm gươm hùng hùng hổ hổ đây đâu có phải đều là tự nguyện đi “giải phóng Miền Nam”. Tâm tư của họ vô cùng ly tán, mỗi người một hoàn cảnh, một tư tưởng.
Kiểm điểm lại riêng tôi, từ Hà Nội ra đi, nghe ông Trung Tướng Nguyễn Văn Vịnh, thứ trưởng quốc phòng Chủ Tịch Ủy Ban Thống Nhất và hơn thế nữa, Ủy Viên Trung Ương Đảng nói chuyện, nghe như Giải Phóng Miền Nam sắp dọn mâm dọn bát ra ăn mừng rồi. Lúc đó tôi cũng phấn khởi lắm. Nhưng chỉ được vài ngày thì cái cục phấn khởi đó bị ngọn đồi “Ngàn linh một” xơi tái mất một phần rồi đến cơn sốt này nó gặm gần hết!
Chân nói:
- Khi em sốt, em cũng như anh bây giờ. Cho nên em hiểu những người sốt. Có thế thôi.
Tôi ngồi lặng thinh mà nước mắt tôi tuôn xuống ròng ròng, tôi không ngăn được. Tôi để cho những dòng nước mắt của một thằng đàn ông 15 tuổi đảng rơi chảy tràn trề trên má, trước mặt một cậu bé. Thế mà tôi không thấy chút xấu hổ, nước mắt của một kẻ tưởng sắp thành dã thú và chung quanh mình toàn là dã thú.
Thật vậy, một vị cán bộ cũng đi trên đường này, trình độ chính trị thừa lá mít, kém lá nho, có cây súng lục không biết lượm ở đâu lúc nào cũng đeo lên trên cần cổ, anh cán bộ đó nói một câu có giá trị xem như lời tuyên bố của Lênin trong Cách Mạng Tháng 10, rằng: “Chung quanh đây (tức Trường Sơn) toàn là loài thú, chỉ có tôi (tức anh ta) là người!” Ghê gớm thật!
Tôi không hiểu nổi tại sao Chân lại cho tôi cả một ca cháo như thế ở chốn này.
Thì ra còn có những con người còn là người, chưa đến nỗi nào!
Chân nói tiếp:
- Khi em dứt cơn sốt em thấy khô hết nhựa sống trong người, em đã trở thành một người khác hoàn toàn. Cho đến một hôm em soi gương mới hay mình bạc hết mái tóc.
Chân nói một cách thản nhiên hết sức. Có lẽ giờ cậu đã quen với mái tóc bạc trên đầu rồi. Nỗi buồn đã đi qua chăng?
Thiệt là hiện tượng lạ, hơn 20 tuổi đâu, vài cơn sốt và mái tóc bạc! Thế này thì cổ kim lịch sử ở đâu có? Hoạ chăng Ngũ Tử Tư tái sanh!
Tôi thương Chân quá! Tôi thấy ân hận tràn lòng. Tôi cứ tưởng ra đây là vì có “chất tươi” mà thôi.
Khi Chân từ giã tôi, tôi mới thấy ca cháo đã thấm vào cơ thể tôi một cách trọn vẹn và viên mãn lạ lùng. Tôi thấy khoẻ hẳn lên. Ước chừng có vài tô cháo xoàng xĩnh như vậy thì tôi sẽ đi được ngay.
Tôi không muốn nghe những chuyện mông lung, tôi muốn “lấy cơ sở vật chất quyết định tinh thần” chứ không phải nói một đằng làm một nẻo.
Việt và Thu kéo lại võng tôi. Thấy tôi có mòi tươi hơn chút, Thu cũng vui lây:
- Có thêm anh Việt, mình đi đường có bạn thì hơn anh nhỉ!
- Ừ, Việt cũng bệnh à câu? – Tôi hỏi.
- Tôi thấy hơi yếu, nên nghỉ lại một vài chuyến nhân tiện chờ anh và Thu đến và cùng đi.
Tôi biết Việt không thích gì tôi cả, trái lại Việt rất ghét tôi. Cái ghen ghét tầm thường của một thằng đàn ông bị con gái chê và yêu đối thủ của hắn. Thế thôi! Bây giờ Việt ở trạm này là để chờ Thu.
Việt hỏi tôi:
- Anh cắt cử được mấy hôm rồi?
- Vài hôm! – Tôi hỏi lại – Sao cậu vô đây được?
- Được chứ!
- Làm cách nào?
- Cho nó vài viên đá lửa.
- À ra thế! – Tôi nghĩ thầm – Chỉ bỏ ra vài viên đá lửa mà vào được chỗ đặc biệt này thì cũng không lấy gì làm khó.
- Vài viên là mấy viên? – Tôi hỏi tiếp.
- Hai viên thôi.
Tôi quên lững đi rằng ở chung quanh đây không có mậu dịch Tiền Phong (như người ta nói !) thì làm sao có đá lửa được. Tôi đã từng đổi một viên đá lửa được một nải chuối, một viên đá lửa cho một miếng bí đỏ. Vậy mà tôi còn những 40 viên đá lửa trong túi áo trên. Tôi bắt đầu quí cái hiện vật này từ khi tôi đổi chác được thức ăn với nó.
Việt ngồi gần bên đầu võng của tôi và hỏi:
- Thế nào! Nhà văn có đầy đủ cảm hứng để xây dựng đề tài chưa?
- Thừa rồi!
- Anh định viết gì?
Tôi hỏi lại Việt:
- Cậu thì viết gì?
- Tôi đã làm xong tập thơ “Trường Sơn vinh quang” gồm hơn 20 bài.
- Nhanh thế?
- Chậc ! Hứng mà!
- Tôi thì nguợc lại. Mất mẹ nó hứng!
- Thế anh chưa viết gì à?
- Từ ra đi đến giờ chưa có lấy một chữ. Giấy mang theo để làm bản thảo nhóm lửa hết rồi.
- Trời đất!
- Thư tình tôi còn đốt nữa là.
- Trời đất!
- Tôi thú thật với cậu điều này nhé!
- Vâng!
- Tôi không còn trí tuệ để nghĩ việc gì ngoài sự ăn. Lúc nào tôi cũng nghĩ đến ĂN và ĂN!
- Anh là người có tâm hồn và hoải bảo lớn lắm, theo chỗ tôi biết.
Tôi cười nhạt:
- Những thứ ấy tôi đã mang ra đổi chuối, đổi bí hết từ lúc nào rồi.
- Anh nói vậy chớ an tâm ngẫm một tiểu thuyết vĩ đại.
- Đó là do tài tưởng tượng của cậu chớ hiện giờ bút không mực và tim chỉ rung rinh khi nghe tiếng cơm cháo sôi bốc lên thôi!
- Anh đùa thật kỳ cục.
- Tôi nói rất thật.
Lẩm nhẩm một chốc rồi Việt lại tiếp tục câu chuyện văn học. Nói chuyện văn học với Việt thì chẳng khác gõ một cái mõ điếc., nhưng tôi vẫn không lẩn trốn được. Việt hỏi:
- Anh bất mãn nhà xuất bản Quân Độ Nhân Dân lắm phải không?
- Sao cậu biết?
- Biết chớ sao không biết!
- Biết rồi còn hỏi.
- Hỏi để biết thêm!
- Ừ thì nó vậy đó không hơn không kém nghĩa là tôi suýt độp vào mặt thằng cha trung tá Lữ Giang, giám đốc nhà xuất bản Quân Đội. Có thế thôi! – Tôi tiếp: – Cậu nghĩ coi mình mang tác phẩm mình đến cho nó in là do sự mời mọc cầu khẩn lạy lục của nó chớ đâu phải mình đi ăn mày. Hơn thế nữa khi tôi đến nhà xuất bản, thằng cha giám đốc Lữ Giang nó rót nước mời tôi và khen rằng:”đây là lần đầu tiên nhà xuất bản nhận được tác phẩm hay nhất nói về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Nam Bộ” và hứa sẽ in trong dịp kỷ niệm Nam Bộ kháng chiến 1962. Tôi yên trí như vậy. Vậy mà rồi dằng dai mãi gần hai năm trời nó bắt tôi sửa đi sửa lại mười tám lần, rồi nó vẫn không in.
Nghe tôi kể xong câu chuyện, Việt bèn hỏi tôi:
- Anh biết tại sao nó không chịu in cho anh không?
- Tại sao?
- Vì nó sợ anh trở thành tư bản.
- Nghĩa là sao?
- Anh không hiểu gì hết à?
- Không! Tôi mà trở thành tư bản thì làm sao mà hiểu được?
- Anh có biết quyển tiểu thuyết của HVB không?
- Quyển gì tôi quên rồi.
- Tôi cũng không nhớ, nhưng đại khái với quyển đó, tác giả lãnh trên 2000$, hai ngàn đồng mua được năm chiếc xe đạp Thống Nhất, một lúc. Trong lúc một cán bộ trung bình phải để dành tiền một năm mới mua được một chiếc thì anh ta có thể mua được ngay năm chiếc, như vậy không là tư bản à?
Tôi phì cười:
- Tư bản kếch xù thế giới !
- Vì thế cho nên nó kiếm cách không in sách của anh, tôi nghe nói dày hơn sách của HVB, anh sẽ có nhiều tiền hơn.- Việt cười khè khè – Do đó anh có thể sắm ruộng, nhà lầu, thuê công nhân và bốc lột công nhân và trở thành đối tượng của cách mạng.
Tôi nghe xong cái lý do đó mà bàng hoàng. Tôi lặng người đi một lúc lâu rồi mới khẽ gật đầu và nói:
- Hèn chi!
- Hèn chi cái gì?
Tôi chẫm rãi kể:
- Số là lúc sắp tập trung vô trường đi B, tôi có lãnh tiền bản quyền một quyển sách được một ngàn đồng. Sau khi mua sắm các thứ, tôi còn dư một ít, với lại tôi bán chiếc xe đạp của tôi được 350 đồng. Như vậy là tư bản chưa?
- Tư bản cá kèo được rồi!
- Tôi nghĩ rằng đi đường sức khoẻ là chính yếu, phải bồi dưỡng sức khoẻ để đi. Bằng bất cứ giá nào, mình cũng phải đi cho tới quê hương mình. Mà muốn có sức khoẻ thì phải có thức ăn và thuốc men. Còn ở Hà Nội ăn ngon được ngày nào thì cứ ăn, còn lại bao nhiêu thì mua thuốc mang theo.
Một anh bạn của tôi cũng là nhà văn được gọi tập trung cùng khoá với tôi cũng đồng ý cái lối sống đó của tôi, cho nên hai đứa mới rủ nhau sớm thì cơm rang, chiều cơm tám giò chả, hết phố Huế đến Phú Gia, rồi Hàng Buồm. Rượu gì cũng uống từ bia hơi tới Mao Đài tửu, đến rượu sâm Triều Tiên.
Tôi và ông bạn nhà văn của tôi đang hưởng thú về cuộc sống có vẻ phiêu lưu giang hồ của mình rất là hiện sinh, thì một hôm, cậu chánh văn phòng của cơ quan rỉ tai bọn tôi: Này các cậu ăn xài làm sao mà công an nó theo dõi đấy!
Tôi ngơ ngác không biết họ theo dõi cái gì. Cậu chánh văn phòng cho biết rằng công an theo dõi tụi tôi là ai mà ăn xài tung hê như thế. Tụi tôi đặt nguyên cái bàn thường trực tiệm cơm tám gìò chả ở phố Huế. Tụi tôi quên rằng các cô mặc bờ-lu trắng toàn là nhân viên công an. Cho nên các cô xem số xe đạp của tụi tôi và biết tụi tôi ở hội nhà văn. Cậu chánh văn phòng phải giải thích cho họ nghe rằng tụi tôi là nhà văn độc thân viết được sách báo rất nhiều mà lại chẳng phải nuôi ai cả, cho nên tiêu xài như thế đó! Kể ra họ theo dõi cũng phải thôi vì người cán bộ bình thưòng ăn cơm chỉ 6 hào một ngày mà tụi tôi mỗi đứa ăn 2, 3 đồng một bữa, bảo sao nó không để ý ?…
Tôi kể xong câu chuyện cho Việt nghe rồi kết luận:
- Thì ra người ta không muốn cho mình sung sướng hơn người thường.
Việt nói:
- Cái đó không có văn kiện nào nói công khai hết, tuy nhiên,những sự việc đó làm cho mình nghĩ như vậy.
Việt lại cười và tiếp:
- Anh in được quyển tiểu thuyết đó rồi anh lấy tiền anh mua nhà, tậu ruộng; không phải là anh phá chánh sách hợp tác hoá nông thôn hay sao? Đảng đang chủ trưởng diệt địa chủ, trấn áp phú nông và kiềm chế trung nông cũ, hướng dẫn trung nông mới đi lên sản xuất tập thể mà anh mua nhà, tậu ruộng như vậy anh là địa chủ rồi!
Thấy tôi làm thinh, Việt lại nói tiếp:
- Anh đã thấy trường hợp của nhà văn PT và NCH đó. Cả 2 vị này sau khi xuất bản sách đã mua nhà tậu ruộng. Điều đó gây một luồng dư luận sôi nổi.
- Trong giới nhà văn đâu có dư luận gì xấu?
- Khô….ông! Trong giới lãnh đạo …
- Văn nghệ?
- Tôi nghe trong một cuộc họp Hội Đồng Chánh Phủ khi bàn đến đời sống dân chúng, các ổng có đề cập đến sinh hoạt của văn nghệ sĩ. Các ổng bảo là văn nghệ sĩ đang trên đường tư sản hoá. Các ổng nêu trường hợp của nhà văn NQS và anh là những nhà văn trẻ Miền Nam và cho rằng hai nhà văn nầy có sinh hoạt cao nhất ở Miền Bắc, hơn cả thủ tướng và bộ trưởng, vì hai nhà văn này không vợ con lại viết được nhiều sách, phim v.v… Các ổng bảo rằng đó là một hiện tượng không hay trong sinh hoạt xã hội chủ nghĩa, đại khái là một loại tư sản văn chương…!
Tôi cười nhạt:
- Nói vậy chẳng hoá ra trong chế độ xã hội chủ nghĩa của mình cái thiên đường của thế gian trong đó con người sẽ được ăn ngon mặc đẹp, sự sung sướng cá nhân là một điều tối kỵ hay sao?
Câu chuyện vừa đến đó thì Thu đến.
Thu nói ngay:
- Ở đây có bản, đi đổi đồ ăn được, anh ơi!
- Ai bảo?- Tôi hỏi ngay.
- Cậu Chân bảo mà! – Thu tiếp _ cậu ấy bảo rằng có cả lợn.
Tôi chợt nhớ ra trong ca cháo lúc nãy có mấy miếng thịt lợn.
Việt thêm vào:
- Tôi đã biết chuyện đó rồi. Tôi định chờ anh và Thu đến sẽ hợp tác với nhau đi đổi một chuyến, lớp ăn, lớp làm lương khô đi đường.
- Cậu định bao giờ đi? Đi mau đi mau!
- Anh đi được à?
- Tôi phải đi thôi.
- Tôi trông anh còn yếu lắm!
- Nhưng Thu đau chân, vả lại phụ nữ đi vào bản, có việc gì không đối phó được.
Việt biết ngay ý của tôi là ngăn chặn không cho Thu đi chung với Việt, cho nên y vội vã nói ngay:
- Nếu anh đi được thì còn gì bằng! Vậy Thu ở nhà coi đồ đạc, anh em mình đi, đi ngay đi!
Việt nhanh nhẩu trở về lều soạn đồ và quay lại với một mớ áo quần trên tay. Việt nói:
- Tôi định mang bộ đồ bà ba lụa về tới xứ Nam-Kỳ-Cuốc mặc chơi nhưng bây giờ thì những cái ý tốt như vậy đều nhường chỗ cho thịt heo cả.
Thu về soạn đồ và mang lại. Tôi cũng đem đồ theo rất nhiều, có thể nói là mang đi hầu hết ba-lô, kể cả đá lửa. Với cái lý thuyết phải ăn mới mạnh, tôi có ý định sẽ đổi tất cả số quần áo này với một giá bất cần để có cái ăn. Còn cái mặc thì còn cái quần tiều về tới nơi cũng tốt.
Công việc được quyết định và thực hành chớp nhoáng.
Thế là hai đứa tôi lên đường, y như là một cuộc phiêu lưu. Tôi và Việt đi vào trạm để hỏi đường đi nước bước.
Anh trạm trưởng bảo vắn tắt:
- Các anh cứ đi cặp bờ suối này ngược lên mãi, cứ đi mãi là đụng bản. Ở cái bản này cũng có nhiều đoàn đi qua đây, ghé lại đổi chác cho nên họ khôn lắm mình khó lòng gạt họ được như trước đây.
- Caí áo này đổi được cái gì? – Tôi hỏi.
- Tôi cũng không rõ. Tùy cơ ứng biến thôi, nhưng nên nhớ rằng họ biết hỏi tới đồng hồ Wyler và Printania đấy nhé.
Rồi chúng tôi đi.
—>Chương 10
- 10-
Thiệt là ghê gớm mà lại buồn cười. Bây giờ nhớ lại tôi còn rùng mình. Tôi không còn nhớ rõ hồi đó trạng thái sinh lý của mình ra sao mà lại bị lôi cuốn một cách ghê gớm đến thế. Tôi không nhớ mình đang sốt nữa. Nghe đến tiếng heo, gà, thức ăn là tôi cuống cả lên, không giữ được bình tĩnh.
Tôi cần ăn quá. Các bạn chớ cười. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Tôi cần ăn tới mức độ thấy không cần thiết cái gì nữa cả.
Tôi và Việt đi ven theo bờ suối. Nước đổ ào ào. Nước trong như lọc. Những hòn đá mòn nhẵn đủ thứ hình hài nằm trải dưới chân tôi như những chữ đã gọt giũa của một trang thơ mênh mông.
Có những quãng cát mịn phẳng lặng trên đó in vài dấu chân người thật đẹp như những dấu chân in trên phiến đá của những truyện thần thoại nào, những dấu chân của một vì tiên nữ chẳng hạn, nghe chúng tôi đói rét bèn từ trên cảnh tiên bước xuống đây với chiếc bình vàng đựng cơm trên tay, sẵn sàng bố thí…
Tôi rất mừng vì tôi biết ở đây có sự sống, một cuộc sống hẻo lánh đìu hiu xa cách với mọi cuộc sống. Vậy mà con người vẫn sống, họ không muốn ai đụng tới. Bất cứ sự đụng chạm nào dù hay ho tới đâu cũng sẽ quấy rầy họ.
Đây là lần thứ hai sau hơn một tháng lội rừng vượt suối, tôi khao khát hơn bao giờ hết: gặp người! Hôm trước, khi đi bộ hơn tuần lễ, tôi cảm thấy mình lạc lõng vào chốn quá mông lung không biên giới. Bỗng nhiên tôi gặp giữa đường một cục phân heo và nghe tiếng gà gáy.
Tôi đinh ninh rằng sắp tới xóm làng, sau một thời gian cô đơn, mình sẽ được sưởi lòng với tình người dù những người đó không cùng dân tộc với mình. Nhưng hỡi ơi, càng đi càng thấy mình vẫn đi vào sa mạc.
Thì ra cục phân heo là phân heo rừng và tiếng gà gáy kia là tiếng gà…rừng nốt. Tôi thất vọng hoàn toàn nhưng không dám nói ra vì nếu tỏ ra những điều mình cảm nghĩ về con đường kỳ cục này thì ít nhất các cô gái sẽ oà lên khóc.
May sao sau đó ít lâu, chúng tôi lại gặp được một lũ người không rõ dân tộc nào, ngồi ở vệ đường mòn. Lần đó tôi còn ghi khắc trong lòng tôi như một kỷ niệm vô cùng sâu sắc.
Chúng tôi đổ dốc. Đến dưới chân dốc, cả đoàn chúng tôi tràn tới vây kín lấy họ, những người đi sau thấy không thể chen chân vào được nên bỏ đi.
Toán người thiểu số này có lẽ đã từng đổi đồ của khách qua đây, nên họ nhìn đoàn của tôi vây quanh mà họ không bỡ ngỡ. (Ở nhiều nơi, những người thiểu số trông thấy khách là chạy biến vô rừng.) Tất cả phẩm vật của họ đều do một người đàn bà có con mọn và một đứa con gái giữ trong một cái gùi bằng mây.
Người đàn ông ngồi bên cạnh, trên cái rễ cây đang hút thuốc. Vốn là tay nghiện nên Lâm hỏi anh ta có thuốc không? Anh ta lừ lừ nhìn Lâm. Lâm đưa tay vào miệng bập bập ra dấu. Anh ta gật gật đầu tỏ vẻ hiểu nhu cầu của Lâm.
Tóc anh ta phủ đến cổ, toàn thân trần trụi đen như một khối than hầm, không chỗ nào trắng hơn chỗ nào. Hai trái tai anh ta, hai cái khoen nứa, to bằng miệng chén chung nong ra mỏng dính như sợi chỉ. Lâm cởi ba-lô ném xuống trước mặt anh ta. Anh ta nhìn Lâm bằng cặp mắt trắng dã rồi có lẽ hiểu rằng người khách này muốn tìm thuốc hút, anh ta vội đưa cái ống điếu cho Lâm. Nhìn cái ống điếu, Lâm xua tay lắc đầu lia lịa.
Cái ống điếu to bằng cái bắp tay của Lâm. Nó đúng là một cái gốc tầm vông, chỗ nhét thuốc to bằng nắm tay. Toàn bộ chiếc ống điếu nổi nước láng bóng và khi chủ nó cần, nó có thể trở thành vũ khí.
Thấy Lâm từ chối, anh ta bèn móc ra một mớ thuốc để xuống đất. Lâm nhéo lấy ít sợi đưa lên ngửi. Lâm không nghĩ rằng Lâm có thể hút được thứ thuốc này. Anh ta thọc tay vào túi lấy một nắm khác dồn vào đầu ống điếu rồi cầm lấy một que củi, tưởng là củi thường chẳng ngờ anh ta chỉ gạt qua lớp tro đã thấy hòn than đỏ rực. Anh ta châm vào đầu điếu và kê mồm vào đuôi điếu, miết vào mà rít. Mắt anh ta dần dần nhắm, rồi nhắm nghiền lại. Má anh ta cóp dần, cóp hẳn vào . Gân cổ anh ta căng lên, khói hai bên mép anh ta tuôn ra cuồn cuộn. Một tay anh ta vẫn nâng đầu ống điếu, một tay đưa hòn than chạy quanh châm lửa cho liều thuốc cháy đều. Bỗng que than tuột ra khỏi tay anh ta, hai tay anh ta ghì hẳn vào chiếc ống điếu đang run lên với cái đầu đỏ rực như mòng của con rắn thần. Mồm anh ta vẫn không rời đuôi điếu, má anh ta phùng ra và cóp vào liên tục, càng ngày càng gấp. Mũi anh ta thở ra hai vòi khói cùng một lúc với hai bên mép khói vẫn trào ra. Cả làn khói ấy như bao kín anh ta vào một thế giới kỳ lạ và làm cho người xem sợ rằng máy bay có thể phát hiện mục tiêu. Anh ta vẫn rít liên tục, càng ngày càng nhanh, càng mạnh. Má anh ta cóp hẳn vào, và lần này không phùng ra nữa.”Bậc”! một cái, anh ta ngã quật sang một bên như bị kinh phong giật, nhưng tay vẫn nâng chiếc điếu lên như một dũng sĩ vẫn bám vũ khí trước khi ngã xuống… sa trường và không quên dâng vũ khí lại cho đồng đội. Người đàn bà có lẽ đã quen thuộc cái cử chỉ đó, chị ta thản nhiên đưa tay ra, nhận chiếc điếu và đưa lên mồm, hít một hơi dài, một hơi dài nữa, nhấc mồm ra khỏi đuôi điếu, phun khói ra từng làn ngắn, rồi quay lại chúm mồm miết gọn vào đuôi điếu, rít một hơi tưởng không bao giờ dứt, tưởng chừng đôi vú chảy xuống đến rốn của chị ta cũng run lên trong hơi rít ấy. Thằng nhỏ bị mẹ bỏ rơi nãy giờ tụ tìm lấy vú rúc đầu vào ngực mẹ, trong lúc chị ta vẫn như không hay biết gì, cứ rít mãi, hai tay chị như muốn vặn nát chiếc điếu ra, tóc chị như muốn dựng đứng lên, cặp chân mày xếch ngược lên, và đôi mắt cứ trắng ra như mắt của người sắp nhảy dựng lên mà chết.
Thu cầm nãi chuối cứ nhìn chị trân trối, đợi cho chị tỉnh lại, Thu mới đưa cho chị xem mấy món kim chỉ v.v… Chị gật đầu, chị vồ lấy, chị cầm cây kim với tất cả sự ngạc nhiên thích thú. Chị đưa cây kim lên với tất cả sự cẩn thận mà nhìn. Cả đứa con gái cũng chồm lên nhìn theo mẹ.
Chị ra dấu bảo Thu xỏ chỉ. Thu làm theo ý chị và trao lại cho chị. Chị cầm lấy sợi chỉ để luồng vào đít kim và rút qua rút lại. Hai mẹ con reo lên vì cái hiện tượng lạ lùng này.
Đứa con gái vụt thấy cái kim Tây cài trên túi áo tôi, nó chỉ chỏ vào chiếc kim tỏ ý ham thích. Tôi nhìn thấy trên cổ nó những chiếc kim Tây xâu vào nhau như một sợi dây chuyền.
Tôi lắc đầu, vì tôi chỉ còn có một chiếc. Tôi thấy xót thương nó qua, tôi mở ba lô lấy cho nó một sợi dây chuyền vàng. Đứa con gái reo lên, vồ lấy, nó đặt sợi dây chuyền trên lòng bàn tay rồi lại sang qua bàn tay kia. Mẹ nó chụp lấy đưa lên tận mắt. Hai mẹ con nói líu lo những câu gì không hiểu. Thằng bé con rời vú mẹ quay mặt ra, quơ quơ tay với lấy. Người đàn ông như bị đánh thức dậy bởi những tiếng reo ngạc nhiên vừa rồi. Anh ta ngồi bật đậy và dán mặt vào sợi dây chuyền, anh ta cầm lên tay, để cho sợi dây chảy dài xuống, giơ nó lên cao quá đầu và niểng đầu qua mà nhìn lên. Đoạn anh ta quàng sợi dây chuyền vào cổ đứa con gái. Cả ba cùng nhìn cái vật màu vàng lấp lánh kia và dù chẳng hiểu gì về giá trị của nó, họ vẫn cười, nụ cười vừa sung sướng vừa ngỡ ngàng…
Người đàn ông trỏ cả gùi chuối chín, sắn và gùi thuốc của anh ta, tỏ vẻ ưng thuận đổi cả những thứ ấy với sợi dây chuyền vàng.
Chúng tôi chia nhau kẻ mang, người xách. Xong lại ra đi như vừa thu một món chiến lợi phẩm khổng lồ. Đi đã xa mà tôi còn ngoảnh lại, tôi muốn nhìn lại những nụ cười của những người rừng.
Tôi vừa bóc vỏ một khúc sắn, đưa lên miệng nhai rau ráu và nói:
- Sở dĩ mình biết cái mánh khoé là do một ông bạn từ trong Nam mới ra kể laị. Chậc! Mình tàn nhẫn thật. Đồ giả đem đổi lấy đồ thiệt của người ta. Vậy mà ăn ngon lành!
- Nhưng họ vẫn vui lòng! Điều quan trọng nhất là không ai ép buộc ai. – Lâm đáp và lại bóc vỏ một quả chuối, đưa lên miệng cắn nhai ngồm ngoàm.
Lâm suýt phun ra. Chuối toàn là hột và cay như có lẫn hạt tiêu, nhưng Lâm vui vẻ : nuốt cả không được thì ta nhai nuốt lấy cái nước. Dù sao cũng là vitamin C.
Lâm đang đi bỗng rẽ sang một bên. Lâm kêu to lên:
- Quăng xuống cho mình một nhánh với!
Tôi rẽ vào, thấy một cậu đang leo lên cây bứa và hái những lá non. Lâm không nói không rằng, cởi ba-lô ném xuống đất và leo một mạch lên cây. Rắc rắc rào rào. Lâm bẻ lia lịa quăng xuống đất:
- Tha hồ chiều nay nấu chua nêm bột ngọt!
- Nữa thôi?
- Còn khả năng thì cứ bẻ! Mai ăn!
Lại rắc rắc rào rào. Lâm leo chót vót ngọn cây, bẻ trụi hết những tượt non quăng xuống. Lâm nói:
- Một cái đọt bứa này có thể giúp ta qua cả một bãi sa mạc.
Rồi chúng tôi lại đi.
Tôi vừa đi vừa nhớ cặp vợ chồng anh thiểu số với sợi dây chuyền vàng giả. Tôi tự hỏi: Trang điểm với ai ở giữa rừng này?
Phải chăng con người trong lúc vươn lên muốn trang điểm cho mình một bộ mặt thật đẹp đẽ để hãnh diện vói cỏ cây, nhiều khi chỉ bằng đồ trang sức giả hoặc đồ trang sức giả mà họ không biết. Để đạt được mục đích này họ dùng tất cả những thủ đoạn, kể cả sự chế tạo ra những lý thuyết, những tà thuyết – và họ dùng những thuyết đó như những đồ nữ trang…
Bỗng nhiên tôi sực nhớ ở ngoải miền Xã Hội Chủ Nghĩa có một cặp vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Bà vợ công tác trong cơ quan, nhưng anh chồng thấy chị vợ không “tiến bộ” nghĩa là chưa vô đảng. Một hôm anh chồng trong canh khuya gà gáy mới rỉ tai chị vợ rằng: sao mãi mà chưa thấy em được “chiếu cố”? (!)
Chị vợ đáp: em thấy không cần thiết!
Anh chồng hơi bực mình, nhưng dù sao cũng không thể trấn áp được cô nàng vì đó đâu phải là kẻ phản động, hơn nữa, đó lại là … nàng!
Nàng nói tiếp:
- Anh đừng tưởng ai cũng thích vào đảng!
Tóm tắt câu chuyện là vậy. Có lẽ câu chuyện này nên được viết ra và xuất bản bằng tất cả ngôn ngữ trên thế giới và điều cần yếu nhất là các vị chủ tịch Đảng nên đọc!
Vì thế cho nên trước khi có ý định giải phóng Miền Nam thì những người bày đặt ra cái chuyện đó phải tự hỏi mình: “Miền Nam có cần giải phóng không?” Giải phóng xong họ sẽ mang đến Miền Nam những gì, nếu không là phiếu đường, phiếu vải, nếu không là những cuộc họp liên miên và những nghị quyết, những chỉ thị như những cái nôm sắt chụp vào đầu thiên hạ, nếu không là một cuộc cải cách ruộng đất tái diễn mà kết quả không có gì khác hơn là một cuộc sửa sai, sửa những sai lầm không đời nào sửa được . Các vị ấy đã thua và sẽ thua trận vì bệnh chủ quan. Đó là điều chủ yếu!
—>Chương 11
- 11-
Đang đi bỗng tôi dừng lại lắng tai nghe. Cái gì hình như có tiếng người rên rỉ. Tôi lắng tai nghe kỹ lại rồi nói với Việt:
- Có tiếng người thật cậu ạ!
- Sao tôi không nghe gì hết?
- Đấy …. Cậu phải lắng tai thật kỹ.
- À…à…!
- Có lẽ một người bị thương hay bị nạn gì đó.
Tiếng rên bỗng to lên. Hình như nạn nhân nghe chúng tôi bàn tán với nhau nên kêu to lên để cầu cứu.
Tôi nói:
- Mình đi vào hướng này chừng vài bước thì sẽ thấy ngay.
Nói xong tôi bước về hướng có tiếng rên. Việt bảo:
- Thây kệ nó anh, làm quái gì cho mệt!
- Coi có ai bị thương, bị nạn, mình cứu dùm! Trên đường này toàn là anh em mình chớ ai vô đây!
Nghe tôi nói, Việt bèn đi theo tôi – Quả thật chỉ cách bờ suối vài mươi bước có một cái củi phủ đầy lá, mới nhìn tôi ngỡ rằng đó là cái chuồng lợn. Tiếng người rên rỉ trong cái củi ấy phát ra làm cho tôi sửng sốt. Sao lại có chuyện kỳ cục vậy? Tôi bước tới và nhanh tay giở một cành lá nom sát vào song củi. Tối om, không thấy gì hết chỉ thấy hai chấm sáng phản chiếu về phía tôi, làm cho tôi hơi ái ngại. Tôi lùi lại, thì trong cái bóng mờ mờ đó thấy có sự cử động. Tôi giở tung một cành lá lên, thì trời ơi… đúng là một con người …một thằng người đã hoá thành con vật, hay con vật đang hóa ra người? Hắn chìa tay ra xin tôi nhưng không rõ hắn muốn xin gì. Tôi định thần nhìn kỹ. Và Việt reo lên:
- Mỹ! Mỹ anh ạ!
- Hả… cái gì?
- Thằng Mỹ mà.
- Thế hả… ờ ờ…
- Anh xem mặt mũi râu ria nó kìa …há há…. Mẹ kiếp sao lại chui gọn vào cái củi này mà nằm vậy?
Hắn nằm trong một cái củi trông như một con dã nhơn, tay chân dài lõng thõng, lông lá rậm rì. Hắn lại chìa tay ra xin. Nhưng chúng tôi có cái gì đâu mà cho hắn?
Việt hỏi:
- Anh có biết tiếng Mỹ không, nói với nó vài câu xem tại sao nó lại vô nằm nghỉ mát ở đó vậy?
Tôi bèn ngẫm nghĩ một lúc rồi lục soát lại trong trí tôi lôi ra mấy câu tiếng Ăng-Lê mà tôi đã bỏ lấp trong bụi bặm thời gian mấy chục năm qua…
- Sao anh nằm đây? Anh tên gì?
Nhưng tên Mỹ kia chỉ nhóp nhép miệng thôi, hắn nói không ra tiếng.
Thiệt là khó xử cho bọn tôi. Làm gì bây giờ? Cứu hắn ư? hay đi báo cho anh trạm trưởng?
Chắc chắn có một người nào đó đã bắt được hắn và đã ban cho hắn cuộc sống “vui vẻ” thế này.
Thật tình tôi không thêm không bớt. Cái củi nhốt hắn chẳng khác cái chuồng lợn. Những chấn song to bằng cái cột nhà. Cái nắp chuồng làm bằng những thân cây to hơn và cái chân phải của hắn bị xích vào một gốc cây sống mà người ta dùng làm 1 trong 4 cái cái trụ chuồng. Nếu không bị xích, tên Mỹ kia cũng không thể tung ra nỗi vì cái khối lượng gỗ trên đầu hắn quá nặng, so với sức lực cùng kiệt của hắn.
Tôi nói với Việt:
- Về cho anh trạm trưởng hay đi.
- Làm quái gì! Kệ nó anh ạ! Hơi nào mà nhân đạo.
- Làm thế này coi kỳ quá. Ai lại đối xử với tù binh như vậy.
- Ở cái xứ rừng này mà…
- Rừng thì rừng, cũng phải văn minh một tí chứ.
- Anh toàn lo những việc bao đồng .
Nói xong Việt lôi tôi đi. Tôi còn dùng dằng nửa ở nửa đi thì có tiếng người đi tới rồi tiếng gắt gỏng:
- Ai đó?
- Tôi.. tôi đây!
Tiếng chân dẫm trên nhánh khô nghe răng rắc có vẻ hấp tấp lắm
- Ai? … Tới thả thằng Mỹ hả?
- Không, tôi coi thôi mà!
Tôi vừa dứt thì anh trạm trưởng ló mặt tới:
- Ủa sao không đi đổi thịt đi?
- Thấy chuyện lạ, tôi mới ghé đây xem.
Tôi vừa nói vừa nhìn anh trạm trưởng. Tay anh xách một cái gà-mên và mấy món chi chi khác.
Tôi nghĩ thầm chắc anh ta đem thức ăn cho thằng Mỹ, phải vậy mới được chứ. Dù nó là kẻ thù nhưng bây giờ nó ở trong tay mình rồi, mình phải đối xử tử tế với nó.
Anh trạm trưởng nói ngay:
-Anh xem ngộ không? Khà khà….
Tôi được nghe anh trạm trưởng kể lại về tên Mỹ này và lý do tại sao hắn phải chịu sự trừng phạt như sau:
- Một hôm hai anh chiến sĩ từ quân y về đơn vị đi ngang qua trảng, ở gần đây có một cái trảng lớn lắm. Cả một vùng đất rộng, không có cây mọc. Nó trọc lóc như sân bay vậy. Mà thật, máy bay trực thăng đáp xuống đó nó bắt anh em mình luôn. Bởi vậy cho nên người ta ngán, không dám băng qua cái trảng đó. Mà nếu không đi băng qua trảng thì phải đi vòng. Thay vì mất một tiếng đồng hồ, đi vòng phải mất 3 tiếng.
Thế cho nên hai anh em thương binh mới bàn nhau là băng qua trảng cho khoẻ. Bệnh mới ra viện mà! Thế là hai anh em rủ nhau đi. Xin nói thêm là hai anh có mang cả súng theo. Quả thật cái gì mình sợ thì thường hay xảy đến cho mình.
Hai anh đi được một phần trảng thì có tiếng máy bay. Mà ở đây máy bay trực thăng độc lắm anh ơi! Nó qua trảng trống thì nó bay rất chậm và bay sát mặt đất để xem hể có người thì đáp xuống ngay. Trời đất! Nó bắt người ta như diều xớt gà vậy anh ơi! Nó bắt người ta luôn. Có lần nó xớt một cô y tá.
Ăn quen cho nên chồn đèn mắc bẫy, anh cũng rõ là khi người ta thuộc quy luật thi người ta tìm cách đối phó chớ! Dại gì để cho nó chơi mãi.
Hai anh thương binh lính quýnh không biết làm thế nào, vì bốn phía đều không có lấy một cái bóng cây để núp, mà chiếc trực thăng đã tới nơi rồi. Một anh nhanh trí bèn rút khăn ra vẫy vẫy. Còn anh kia thì giấu súng trong bụi cỏ và ngồi chờ. Quả thật trực thăng thấy khăn trắng thì tưởng có người muốn về chơi bên xứ Mỹ với hắn cho nên đáp xuống ngay không chút ngần ngại. Một tên Mỹ nhảy xuống… chưa kịp làm gì thì đoành đoành… Anh chiến sĩ kia giương súng bắn máy bay. Thằng phi công hoảng quá bèn cất cánh lên, bỏ thằng này lại.
Bỏ mẹ rồi, nó bay lên đâu dám bắn xuống bởi vì nó sợ trúng cái thằng ở dưới này. Nó bay thẳng về báo cáo. Chập sau chúng nó kéo nhau trở lại hàng đàn nhưng không còn ai hết!
Thế là tham thì thâm. Muốn bắt người ta, chẳng dè bị người ta bắt. Cuối cùng thì tôi phải nuôi báo cô cái thằng ôn dịch này.
- Là vì..- Anh trạm trưởng kể tiếp – hai anh thương binh kia giải nó về đơn vị, dọc đường trong lúc nghỉ trưa, nó đã giật súng AK và đập một anh suýt bể đầu, bây giờ loạn thần kinh không chữa được. Hai anh đều chủ quan vì thấy thằng Mỹ hiền lành quá, bảo cái gì cũng làm theo, cho nên hai anh không trói nó lại. May mà nó không biết bắn AK, chứ nếu nó biết bắn thì chết cả rồi. Và bây giờ nó nằm ở đây!
Để đáp lại tấm thạnh tình của ông Mỹ, đơn vị của hai anh chiến sĩ kia đã làm cái củi này… Sau khi đã giã cho mềm xương, họ mới tống vào đây và giao cho tôi … khì … khì…. Họ còn giao cho tôi một ít gạo và bảo cho nó ăn vừa đủ sống, lại còn bảo tôi lâu lâu nhớ xối cho nó vài thùng nước cho nó tắm. Đó, nó cứ tắm theo kiểu đó cho nên quần áo mục hết còn mình mẩy thì ra thế đó!
Anh trạm trưởng nói tiếp, giọng anh rất thản nhiên trước những cực hình mà thằng Mỹ chịu đựng. Anh ta cười khoái chí:
- Tôi như lũ sơn thần thổ địa trong Phong Kiếm Xuân Thu vậy, anh nhớ không?
- Ờ.. ờ… trong Phong Kiếm Xuân Thu…
- Anh nhớ cái hồi Tôn Hành Giả bị Phật tổ nhốt nằm dưới Ngũ Hành Sơn không ? Hàng ngày sơn thần thổ địa vâng lệnh Phật tổ đem đá cục tới cho ăn và đem nước suối đến cho y uống …đó!
- À, tôi nhớ ra rồi!
- Tôi bây giờ cũng vậy – Anh trạm trưởng vui vẻ tiếp – Ngày nào tôi cũng mang cơm tới cho nó ăn đủ sức để ngo ngoe thôi, đừng để nó chết. Đại khái là như vậy. Kể cũng vui vui, nhưng tôi không dám cho anh biết vì anh làm văn nghệ mà, anh biết được thì anh về anh làm văn, anh nói lung tung ra ảnh hưởng không tốt.
Tôi cười:
- Bây giờ tôi biết rồi thì làm sao?
- Tùy anh! Anh cứ nói cho đúng lập trường thì thôi!
Rồi anh giao liên lấy cơm trong gà-mên ra cho tên Mỹ ăn. Trông thiệt thảm hại hết sức, tôi không dám nhìn. Anh trạm trưởng ném vắt cơm vào trong củi. Thằng Mỹ vội chụp lấy, không cần xem đó là vật gì, đút vào mồm nhai ngấu nghiến và thau láu cặp mắt nhìn bọn tôi. Anh trạm trưởng cắt nghĩa:
- Nó ăn như vậy hơn hai tháng rồi đó. Không hiểu các chả nuôi nó làm gì, đem mà “bụp” cho rồi cho khoẻ cái thân nó. Trước sau gì cũng phải chầu trời mà, nhưng các chả muốn hành tội nó để trả thù, cho nó nếm đủ mọi cực hình giữa cái Trường Sơn này, chớ nếu cho nó chết ngay thì nó sướng hơn mình hay sao?
Tôi hỏi tên của tên Mỹ lần nữa, nhưng hắn không đáp. Có lẽ hắn quên mất đi tên tuổi của hắn, hay hắn không muốn xưng hô ra làm gì.
Tên Mỹ ăn cơm xong hồi lâu nhưng anh trạm trưởng cứ dần dà không cho hắn uống nước. Anh trạm trưởng nói:
- Lâu lâu các cha trong đơn vị ra đây. Ối chao! Đó là ngày xấu nhất của hắn. Các cha làm đủ thứ trò. Nào là đem cơm ra ăn trước mặt hắn, nào hút thuốc phà khói vào củi v.v… Thằng này ghiền tợn lắm đồng chí ạ! Nghe khói thuốc là tỉnh dậy ngay. Các chả chơi ác lắm, các chả cho nó điếu thuốc mà không bao giờ cho lửa. Nó cứ cầm trên tay hoài nhưng không biết làm sao hút. Rốt cuộc nó bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến và nuốt luôn.
Có lẽ muốn được xem lại cái cử chỉ đó tái diễn Việt bèn móc thuốc cuộn thành điếu rồi đưa cho hắn. Việt vừa thò tay qua song củi thì hắn chộp lấy ngay. Hắn đưa lên mũi hít hít, cặp mắt hắn sáng lên như cặp mắt của người mới chết được hồi sinh.
Việt lại móc thuốc châm lửa hút. Tôi không thể chịu nổi cái trò chơi như vậy, tôi bảo:
-Cho nó tí lửa đi, tội nghiệp nó! Không biết con cái nhà ai vậy?
Tự nhiên tôi đâm ra thương thằng này. Không biết cha mẹ nó ở đâu, giờ này có hay con mình đang lâm đại nạn…
Chắc chắn thằng này sẽ chết nay mai. Cái chết là đã đành rồi, nhưng còn cha mẹ nó? Ai mà báo tin?
Anh trạm trưởng đi ngoài suối một chốc rồi trở vào với một thùng nước trên tay. Anh cầm thùng nước xối ào lên đầu thằng Mỹ. Thằng này vừa sợ lại vừa mừng. Hắn ngữa hai bàn tay ra hứng lấy và cho vào mồm nuốt ừng ực. Anh trạm trưởng giải thích:
- Vừa tắm vừa cho nó uống nước luôn.
Tôi đột nhiên nghĩ đến tôi. Mình có hơn gì nó? Chỉ khác với nó là mình không bị nhốt trong củi mà thôi.
Hai đứa tiếp tục đi đổi thức ăn. Loài người xâu xé nhau đổ máu chỉ vì ăn. Mới nói qua, nghe hơi thô lỗ nhưng suy cho kỹ quả là đúng như thế. Cái món ăn có khi là một quốc gia, một cái nhà máy, một đồn điền, hay thật sự chỉ là nắm cơm, một mẩu thịt.
Phải chăng dưới mắt một số người, Miền Nam của Tổ Quốc ta là một miếng ăn, một mâm cỗ , người thì muốn giữ, người thì muốn giật lấy tọng vào mồm. Thằng Mỹ kia và tôi đây là nạn nhân thảm khốc của sự tranh giành ấy. Máu đổ ra, người chết vô lý, nhưng ai cũng có lý của mình, cho nên hằng mấy chục năm, người vẫn chết, máu vẫn đổ, không ai ngăn được, không ai chịu ai!
Việt cười thích thú vì cái trò cho thuốc hút mà không cho lửa của anh ta, còn tôi thì càng nghĩ càng buồn. Miền Nam ta quả là mâm cỗ ngon lành. Những kẻ lôi thôi lếch thếch vác súng đeo gươm đi trên đường này chịu nắng mưa mang bệnh mang tật là để chiếm cho được cái mâm cỗ kia theo ý định của một số người. Còn thằng Mỹ kia ở phương trời nào không biết, dẫn xác đến đây là để giữ cái mâm cỗ kia, cũng theo ý định của một số người. Mâm cỗ quá to nên người tranh cũng đông mà người giữ cũng đông.
Cái xã hội loài người trên dãy Trường Sơn này bị ném vào một sự hèn mạt tột cùng của vật chất. Họ chỉ nghĩ tới ăn. Không nên trách cứ, chê bai, khinh bỉ họ, bởi vì ai sa vào cảnh của họ thì cũng sẽ như họ mà thôi. Chắc chắn như thế! Chắc chắn!
—>Chương 12
- 12-
Cuối cùng, chúng tôi đi đến một chỗ quanh của con suối bên một hốc rễ cây. Tôi nhìn thấy những trái bầu khô xếp bên cạnh nhau rất thứ tự. Đó là những quả bầu đựng nước suối, miệng quả bầu nhét nút bằng một loại lá cây cuộn tròn. Bên cạnh quả bầu này là một cái hố con đào trên bờ cát. Nước suối thấm vào đấy và được lọc ra những lớp cát, trở thành nước uống.
Chúng tôi đang lom khom quan sát những quả bầu thì có tiếng chân người.
Tôi quay ra thì thấy một người Mọi trần truồng như nhộng, khi nhìn kỹ thì thấy anh ta có choàng một cái khố đơn sơ tiệp hẳn với màu da của anh ta.
Tôi biết rằng mình đã gặp đối tượng rồi.
Tôi vung tất cả quần áo khăn khíu lên và run run vẫy vẫy. Người Mọi trố mắt ra nhìn, với vẻ ngạc nhiên thèm muốn hậm hực lạ kỳ.
Anh ta xáp lại gần tôi rồi không chút ngần ngại, anh ta cầm lấy một cái áo nâng lên tận mũi hít hít.
Tôi tỏ vẻ muốn vào tận buôn của anh ta để đổi đồ nhiều hơn bằng cách vung mớ đồ đạc lên và trỏ vào cái mồm mà nhai với hai hàm răng trống trơn.
Anh Mọi đi phía trước. Bọn tôi đi theo sau. Anh ta tỏ vẻ ưng chịu một cách tự nguyện. Có lẽ anh ta cũng đang thèm muốn những món đồ này.
Anh ta vừa đi, chốc chốc quay lại nhìn với cặp mắt biểu lộ sự tốt bụng hể hả, không chút nghi ngờ. Có lẽ đây là lần đầu tiên anh ta bắt gặp những món đồ kỳ lạ này.
Tôi bảo Việt:
- Cậu có ngại gì không?
- Không! Ngại cái gì chớ?
- Tôi cũng không ngại, nhưng phải đề phòng.
- Đề phòng cái gì chớ?
- Biết đâu đấy!
- Biết đâu cái khỉ gì. Mình đến đây đồi đồ của nó, chứ mình có giật của nó đâu?
- Mình không giật của ai, chuyện đó đã đành nhưng ngộ người ta giật của mình thì sao?
Việt dẫy nảy :
- Hừm! Tầm bậy!
- Sao tầm bậy?
Việt im lặng, không có câu trả lời. Tôi tiếp:
- Nhất là ở trong vùng hoang này, không có chính quyền. Ai can thiệp được?
Tôi biết Việt hơi chùn bước nhưng Việt làm ra vẻ mạnh dạn.
Việt nói:
- Tôi đoán chắc tụi nó ngán mình lắm. Vì mình đường đường thế này mà.
- Đường đường một con ma sốt rét phải không?
Hai đứa lặng lẽ đi trên bờ suối cát trắng, cát vàng từng mảng, từng vùng có lúc cũng nên thơ, nhưng rồi sự lo sợ đắn đo làm cho tứ thơ vụt bay đi hết. Tôi trỏ con dao rừng đeo lủng lẳng bên hông anh Mọi mà nói với Việt:
- Con dao đó với cái cổ mình gần lắm.
- Anh chỉ việc nói gở !
- Khì… khì…
Tôi cũng hơi ân hận vì đã gợi lên những điều mà chính mình cũng sợ. Thà giữ nó trong lòng.
Tôi càng tức giận hơn cái anh cán bộ trung ương nói chuyện trên trời dưới đất. Nói mười chuyện chưa nghe một, còn chin chuyện kia thì sai hết đủ vừa chin. Nhập vào đường Trường Sơn này, chúng tôi giống in như là những con kiến bị ném vào một cái chảo nước, mạnh con nào con ấy bơi, bơi tới đâu thì tới, càng bơi thì nghe nước càng nóng, và cuối cùng theo qui luật của chảo nước trên lửa là nước sôi. Nước sôi đối với một lũ kiến!
Một thứ tổ chức vô tổ chức, một sự phản khoa học, phản tình cảm của con người, xem mạng người không bằng mạng kiến.
Thà rằng mình đi vào một cuộc phiêu lưu mà mình biết trước rằng đó là cuộc phiêu lưu. Thà rằng mình như cái lá trôi theo dòng, mà mình biết trước thân phận mình như cái lá ấy, nước trôi tới đâu thì trôi, thà như thế mà mình vui lòng. Còn đằng này cái gì nói ra nghe cũng chắc như đinh đóng cột nhà vậy mà khi đi ra rồi thì không có cái đinh nào đóng cột nào cả.
Hành quân chiến đấu gì kỳ cục vậy? Giống y như là chuyện chơi, chuyện bời, chuyện hài, chuyện huớc.
Đang đi mà cứ nghĩ chuyện lung tung thì cũng đỡ lo.
Anh người Mọi đi lóm thóm trước mặt tôi, lưng anh ta hơi còng đầu bỗ tới, hai cái chân gầy như hai que củi và thanh dao rừng đeo bên hông cứ gõ vào cái đít gùi đeo trên lưng như một thứ nhịp trường canh cho anh ta đều bước.
Đang đi bỗng anh ta quay lại:
- Ớ … ớ…. – Anh ta chỉ vào thắt lưng của tôi.
Tôi không hiểu việc gì. Tôi rợn người. Tôi nghĩ là anh ta chỉ vào con dao găm của tôi. Cha chả! Muốn gì mà anh ta chỉ vào con dao găm, con dao mà có lần tôi đã trình diện với độc giả. Nhưng dầu sao nó cũng là cái dao găm.
Tôi nhìn trong đôi mắt anh Mọi. Một tia sáng kỳ quặc ánh lên báo hiệu điềm chẳng lành. Trong lúc anh ta chưa có thêm cử động nào thì tôi rút con dao găm ra cầm tay, thủ thế.
Nhưng anh ta đã sờ lấy chiếc thắt lưng của tôi mà rên rỉ, như tiếng kêu rên của một con vật bị tử thương.
Tôi càng sợ hãi. Có lẽ anh Mọi này còn mang trong mình mối quốc thù của một dân tộc ly tan và không quên mối thù nước đó.
Họ không thể nào rửa hận cho non sông của họ thì họ thoả mãn cá nhân họ: giết vài người Việt Nam trong cái dịp may hiếm có này!
Vì vậy cho nên tôi càng thấy anh Mọi dẫn đường vui vẻ bao nhiêu tôi càng ái ngại bấy nhiêu. Tôi cứ nghĩ rằng anh ta lừa chúng tôi vào một cái bẫy mà đến lúc này dù có muốn thoát cũng khó.
Có thể bọn Mọi cắt cổ tế sống chúng tôi trong một buổi lửa trại huy hoàng để rửa hận cho đất nước chúng. Chúng sẽ nhảy múa suốt sáng bên xác hai thằng Việt Nam.
Đột nhiên tôi bảo Việt:
- Quay lại cậu à!
- Sao?
- Tớ ớn quá, linh tính báo trước thế nào ấy.
- Linh quái gì, đói bỏ mẹ rồi còn linh với tính.
- Nếu có chuyện gì xảy ra thì sao?
- Chết là cùng!
- Lý sự cùn thế!
- Chớ anh muốn làm sao? Rút lui à? Muộn rồi!
Tôi thở dài. Quả thật hai đứa đã đi quá xa trạm, kêu sao thấu được?
Thôi đành nhắm mắt đưa chân.
Đã thấy những mẩu lá giống như rau muống, những ống nứa đen thui dùng nấu cơm nếp và những cái xương còn dính thịt vương vải ở ven bờ suối.
Người Moị bản xứ kêu ré lên. Anh ta giơ cánh tay khẳng khiu lên run run và thét những câu không rõ nghĩa gì. Tôi có cảm giác hắn như một tướng cường sơn gào thét ra lệnh với lâu la.
Người ta ào ào chạy tới, mang theo cùng với họ mùi hôi tanh của những cái khố lâu năm không giặt, những thân hình nhớp nhúa, bệnh tật đến đổi ruồi nhặng cũng không đậu vào.
Họ không ngần ngại xáp lại gần bên tôi và Việt, giật ngay những món hàng trên tay tôi. Tôi không chần chờ giương những món hàng lên vai lên ngực tôi. Nói tóm lại chúng tôi trở thành những con man- nơ- canh (mannequin) sống, quơ múa mặt hàng khêu gợi khách: những cái quần, cái áo lụa Hà Đông, những chiếc áo cổ vuông, những bộ đồ kaki còn mới nguyên, những cái khăn sọc rằn kiểu Nam Bộ….
Họ cầm lấy ướm thử vào mình một cách khoái trá, tự nhiên, như trong đời họ chưa từng thấy những vật này bao giờ.
Một chị đàn bà tay bế con, quơ lấy cái áo lụa trên vai tôi phất lên người chị. Có lẽ chị chưa biết xỏ tay vào áo bao giờ. Chị kêu lên the thé, tỏ vẻ ngạc nhiên thích thú đến cực độ.
Tôi nhìn chiếc áo lụa phủ trên vai chị mà xót xa. Da của chị là một sự tương phản tàn nhẫn đối với màu lụa Hà Đông mịn màng.
Người đàn bà gọi ngay đàn gà của mình lại.
Chúng chạy nhảy dưới sàn nhà. Một con gà mẹ đang xù lông lên gọi đàn con đang chạy chung quanh nhà kiếm ăn.
Lâu quá tôi không trông thấy cảnh gà mẹ túc gọi gà con xúm xít, mổ thóc trên sân. Chúng tôi đang đi trên con đường dẫn chúng tôi vào sự man rợ.
Bỗng anh Mọi khi nãy nhảy xổ đến nắm lấy thắt lưng tôi vừa kêu lên:…Ù ơ ơ…ư….ưvừa ra dấu.
Tôi không rõ anh ta muốn nói gì chỉ biết anh ta thèm sợi thắt lưng của tôi để đeo con dao rừng.
Tôi suy nghĩ mất một phút. Cái thắt lưng này là một loại hàng chiến lược vô cùng quan trọng. Chung quanh nó bám đầy những hàng chiến lược khác như: vải che mưa, bông băng phòng khi bị thương, dao găm, cây rút dép. Nhiều người đeo cả bi- đông vào đấy v.v… . Không có thắt lưng thì đeo các thứ đó vào đâu?
Ví dụ như trời mưa bất ngờ thì vải mủ đấy, lấy ra mà choàng. Dép sút bất ngờ thì cây rút dép lấy ra mà xỏ vào mà đi ngay.
Và còn một tác dụng lớn nhất là…khi đói thì uống nước suối và thắt lưng buộc bụng lại mà đi!
Ấy vậy mà tôi phải gật đầu đồng ý đổi chiếc thắt lưng cho anh Mọi.
Tôi mở ra ngay. Tôi thấy những khó khăn hiện ra trước mắt khi không có cái thắt lưng, nhưng cái thắt lưng đẻ ra bao nhiêu là thịt thà, cơm gạo. Những cái này thì cần thiết hơn cả những gì gì cao quý nữa kia chứ đừng nói là cái thắt lưng.
Cho nên tôi trao cái vật quý đó cho anh Mọi một cách khá tự nguyện. Anh ta nịt ngay và buộc chiếc dao rừng vào đấy, rồi vừa đi, anh vừa ngắm con dao đong đưa bên hông có vẻ hào hứng lắm.
Bỗng Việt vỗ vai tôi:
- Mình làm một con cầy đi anh!
- Cầy gi?
- Cầy chớ cầy gì!
Tôi ngẩn người ra một lúc mới nhớ lại cái tiếng quen thuộc đó. “Cầy”!
Tôi gật đầu. Việt chỉ cho tôi xem một trự mặc “com- lê” đen mướt dưới sàn nhà. Tôi thích quá! Tất cả các món nấu tuyệt ngon trong cái bếp thịt cầy bốc lên mũi tôi.
Chú Mực vẫn nằm im nhìn chúng tôi không tỏ vẻ ngạc nhiên.
Việt vỗ vai anh Mọi và trỏ vào con Mực.
- Đổi cái đó nghe!
Anh ta đang ngắm nghía sợi thắt lưng với cái “búc” bằng đồng sáng loáng và tự ngắm nghía bộ tịch của mình khi được mang sợi thắt lưng ấy. Thấy anh Việt trỏ con chó, anh ta gật ngay, ú ớ mấy tiếng và cười khoe hàm răng dưới vàng ệch khói thuốc còn hàm răng trên thì cưa mài đến sát nớu.
Tôi có kinh nghiệm, khi đổi đồ với họ, họ đòi món gì mình chịu món ấy thì mình đòi lại món gì của họ cũng được. Ví dụ như sợi thắt lưng có đáng giá là bao nhưng mình có thể đổi bắt con chó. Còn nếu họ không thích thì dù mình cho cả bộ đồ mình vẫn không lấy được của họ một trái chuối.
Anh Mọi hăm hở vào nhà rồi trở ra với một vắt cơm trên tay. Anh ném vắt cơm xuống đất, vẫy tay gọi con chó lại. Con chó ngây thơ men đến bên vắt cơm giữa tiếng cười khúc khích của đám người.
Con chó vửa dí mõm vào mớ cơm thì nhanh như sóc, anh Mọi nhảy tới. Như có võ nghệ, anh ta chộp một chân sau của con chó, rồi trong lúc nó chưa ngoái cổ lại kịp để đớp vào tay anh thì anh đã nhoài tới hai tay chận ngang cổ con chó thật chặt và giở hổng nó lên khỏi mặt đất.
Khốn nạn, con vật bị lừa, bị tóm ngang cổ. Cái lưỡi của nó thè ra dài nhằng, cặp mắt nó lòi ra như hai hạt nhãn. Một người khác trẻ tuổi hơn đã thủ sẵn một sợi dây, nhảy tới và trói giật cánh khuỷu hai chân trước của con chó lên trên lưng.
Xong anh Mọi ném con mực xuống đất. Nó nằm kêu ri rỉ bên đống cơm chưa ngửi được hạt nào.
Tội nghiệp! Nó bị chủ nó lừa.
Nó tưởng được ăn ngon, chẳng dè bữa ăn được thay bằng cái chết.
Tôi mừng quá đưa luôn cho anh Mọi cả bộ đồ lụa Hà Đông. Đối với tôi bộ đồ lụa này chỉ là một gánh nặng, chứ không có nghĩa lý gì. Trên đường này không ai mặc đồ lụa, không ai chữa sốt rét bằng lụa, cũng không ai giải quyết cơn đói bằng lụa, và cũng không ai ràng rịt đôi chân rã rời bằng bộ đồ lụa bao giờ.
Một con chó! Từ đó tôi giải quyết được tất cả, kể cả cái mộng tưởng của tôi là về đến tận quê nhà. Bao món ăn, một bữa cỗ giành cho chúng tôi, và ba-lô của chúng tôi sẽ phình ra vì những gói ruốc chà bằng thịt chó.
Nhưng chưa đủ! Một con chó không đủ cho chúng tôi cứng đầu gối suốt con đường đi Ông Cụ. Tôi ngó quanh quất. Tôi lại trỏ vào lũ gà đang chạy lao xao dưới sàn nhà.
Một người đàn bà lấy chiếc quần đùi bằng vải thôi trên tay tôi và gật đầu ngay. Chỉ trong giây lát tất cả đồ đạc của chúng tôi tan biến đi ngay và chúng tôi được một số gà, một con chó và một trái bí đao rất to.
Việt cởi luôn quần áo đang mặc, chỉ chừa lại cái quần tiều, ném cả xuống đất và ra dấu đổi đồ. Tôi bảo:
- Đổi thì đổi luôn một thể!
Tôi thấy số thực phẩm nhiều quá không biết làm cách nào chở chuyên cho hết. Tôi bèn nghĩ cách làm thịt con chó tại chỗ rồi khiêng thịt về nhà cho nhẹ nhưng Việt phản đối. Việt đi chặt một cái đòn dài rồi tất cả gà và chó xỏ qua cây đòn, mỗi đứa khiêng một đầu.
Bỗng nhiên anh Mọi đến đứng trước mặt tôi và xoè một bàn tay ra trợn hai con mắt lên trắng dã trông rất khiếp đảm và quát:
- Đá lửa!
Anh ta nói rất rõ tiếng, và xoè một tay ra như biểu hiện quả quyết bắt tôi phải cho hắn. Đá lửa trong túi tôi còn đến những 40 viên nhưng biết chừng nào đến nơi mà cho được? Đi rừng không thể thiếu lửa!
Vì vậy tôi hơi lưỡng lự nhưng tôi thấy cặp mắt trắng dã của anh ta thì tôi hãi quá. Tôi lấy ra một viên. Chỉ một viên thôi, ruột tôi cũng đã thắt lại. Trông thấy viên đá của tôi đặt trên bàn tay anh Mọi tất cả những người đứng chung quanh reo lên mừng rỡ, bằng thứ tiếng riêng của họ nghe rất đáng sợ.
Rồi tôi và Việt bắt đầu lạch bạch khiêng mớ chiến lợi phẩm về. Vừa đi, tôi cứ nơm nớp lo. Chúng sẽ phục kích ở ven suối. Chúng chỉ cần lẫy tôi và Việt mỗi đứa một mũi tên thuốc độc. Pạch! Không nghe tiếng động, thế là xong đời, chúng tôi ngã gục xuống suối và hồn lìa khỏi xác. Thế là hết về quê!
Tôi cứ thấy trước mặt tôi cái anh Mọi lưng mang gùi lom khom đi như cuốc lủi. Cái bộ mặt anh ta trông hì hợm đáng ngại quá! Và con dao rừng bên hông anh ta nữa, cái lưỡi nó dài và sáng loáng quá đi mất.
Tôi đang nghĩ như thế thì nghe có tiếng chân sột soạt phía sau lưng. Tôi quay lại thì đúng thật anh Mọi đang sải những bước dài đuổi theo chúng tôi.
Tôi bảo Việt:
- Nhanh lên cậu!
- Nặng bỏ mẹ, nhanh gì nổi anh!
- Tớ sốt đây mà còn đi nổi.
Tôi không muốn nói với Việt cái hiện tượng nguy hiểm ở phía sau lưng chúng tôi, sợ truyền sang Việt sự sợ hãi.
Cho nên tôi chỉ giục suông anh ta chớ không nói lý do. Nhưng Việt cũng là người thông minh, có lẽ anh ta nghe trong giọng nói của tôi điều gì bất thường.
Việt quay lại và nói ngay với tôi:
- Làm gì anh ta có vẻ đuổi theo mình dữ vậy anh?
Tôi muốn trấn tĩnh Việt nên chối quanh:
- Có lẽ anh ta vội ra nương rẫy gì đấy thôi.
Nói xong tôi quay lại thì thấy anh Mọi chạy lúp xúp.
À, chết rồi, hắn đuổi theo chặt đầu mình lấy đá lửa và tìm muối. Tôi vụt nhớ chuyện những anh Mọi đổi một cái thủ cấp lấy 1 kí lô muối.
Trong nhà họ có một cái ống tre bộng trong đó chỉ có vài hạt muối. Những lúc bệnh nặng họ mới lấy muối ra ăn. Những buổi giỗ lớn họ ngồi quanh đống lửa chuyền tay nhau một cục muối, mỗi người liếm một cái đến suốt lượt rồi lại bỏ vào ống tre treo lên bếp như một thứ thuốc quí, một vị thần linh.
Anh Mọi này biết chúng tôi có muối nhưng giấu anh ta. Có thể là như thế!
Nghĩa vậy hai đứa chúng tôi bảo nhau bắt đầu chạy nhanh lên. Tôi quay lại thì thấy anh Mọi cũng đuổi theo. Đích thị anh ta định làm thịt chúng tôi rồi. Thế nào sau lưng anh ta cũng có một đoàn chạy theo tay nỏ tay cung.
Qua suối, gặp chỗ nước tràn, Việt vừa lội xuống thì vấp ngã. Tôi cũng ngã theo. Lũ gà và con chó dẫy dụa nước văng trắng xoá và kêu ré ầm lên như một bản nhạc loạn.
Anh Mọi đã đến sát bên tôi khi tôi mới vừa lồm cồm ngồi dậy, chưa kịp thủ thế. Anh ta cười. Anh ta đưa cái nón của Việt bỏ quên.
Tôi thở phào, hú hồn hú vía!
Tôi cầm cái nón đưa cho Việt và gật gù tỏ vẻ cảm ơn anh ta. Anh ta lại xoè bàn tay ra theo cái kiểu lúc nãy.
- Đá lửa!
Ý anh ta muốn đòi trả công.
Mặc kệ, tôi không đắn đo, tôi chỉ biết móc túi đưa cho anh thêm một viên đá nữa. Tôi liếc nhìn, gương mặt anh ta rất hả hê. Có lẽ mục đích mang cái mũ ra là thế.
Tôi và Việt nhấc đòn đặt lên vai. Gà và chó bị nhúng nước ướt mèm. Chúng kêu vang động. Gà đập cánh, chó dẫy dụa nước văng đầy mặt chúng tôi. Thiệt là một pha đặc biệt trong cuộn phim dài Giải Phóng Miền Nam.
Đến vừa đúng chỗ khúc quanh thì gặp một lão chài cá. Trong gùi lão ta có mớ cá to. Tôi bảo Việt ngay:
- Kiếm thêm mớ cá cậu ạ!
- Thịt nhiều quá rồi, ăn ngả nào cho hết?
- Cậu đừng tưởng việc ăn uống trong vài hôm mà nên nghĩ tới cái khả năng vài tháng.
- Ừ, nhưng mà nặng ba-lô quá thì sao?
- Cái gì nặng chớ mang thức ăn thì không nặng.
- Nhưng mà, có cái gì đâu mà đổi.
- Lột quần áo ra mà đổi chớ.
Chúng tôi để gánh thực phẩm xuống và men lại lão già đang chài. Tôi vừa đi vừa cởi áo cởi quần ra. Chỉ còn cái quân xà lỏn dính da. Tôi đưa bộ quần áo vừa lột ra khỏi người tôi và vẫy vẫy . Lão già vứt chài trên phiến đá và đi nhanh về phía tôi ngay.
- U…u…ơ…ơ…
- U…u…ơ…ơ… – Tôi vừa lên tiếng vừa trỏ vào cái gùi cá.
Lão già gật đầu ngay. Không suy tính thiệt hơn gì hết, tôi vứt cả bộ đồ trên phiến đá và mó vào mấy con cá trong gùi.
Chao ôi! Thiệt là mát tay, nhớt cá nhầy nhụa như truyền cho tôi sinh lực mới. Nhớ hôm trước đây cũng có lần đi qua suối có một cậu bất ngờ bắt được một con cá không rõ là cá gì.
Hình thù nó không giống loại cá nào ở đồng bằng hết. Khi đến chỗ nghỉ quân, cậu ta đem con cá ra đánh vảy thì một cậu khác gắt ầm lên:
- Sao lại đánh vảy, hả? Cứ rửa sơ sơ thôi, miễn có chất tanh vô người thì gân cốt khoẻ lên thôi!
Và cậu kia ngoan ngoãn nghe lời. Của đáng tội, con cá chỉ bằng ngón tay cái thôi!
Chất tanh ! Đó là cái chất gì?
Trên đường dây này đã phát minh ra cái “chất tanh” đó. Nó bổ dưỡng vô cùng.
Có biết bao nhiêu chất tanh trong gùi của ông lão chài cá.

Tôi cầm từng con cá ra xem. Mùi tanh của nó phất vào mũi làm tôi khoẻ thật. Mồm tôi ứa ra bao nhiêu là nước dãi.
Tôi cứ tha hồ chọn và bắt. Tôi bắt một con cá chép rõ to. Vảy nó ánh lên như bạc, mắt nó long lanh. Chỉ nội vảy của nó cũng đủ nấu nồi canh chua.
Việt bắt được một con cá chài đuôi đỏ, mình nó thon dài như ống trúc, nung núc những thịt.
Lão chài được cả một bộ đồ hình như không thiết tới gì nữa, để cho hai vị khách quý tha hồ bắt cá của lão.
Lão đang loay hoay có lẽ không biết làm sao để mặc áo quần. Tôi thấy vậy bèn đến chỉ cách cho lão ta. Chỉ một loáng lão ta đã mặc xong bộ áo quần vào người . Lão cứ đứng xoay bên này xoay bên kia, tự ngắm mình mãi với sự ngạc nhiên kỳ lạ.
—>Chương 13

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét