Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - KỲ 1

1      2      3      4           6      7      8      Kỳ Cuối
Mở đầu
Tuổi “tuyển-hồi

            Những ngày gần đây, tôi bỗng cảm thấy mình đã già thật rồi. Bẩy mươi sáu tuổi, chả già thì còn trẻ với ai! Không, tôi muốn nói tâm lý người già kia. Đúng thế, gần đây tôi tự thấy có tâm lý người già. Nghĩa là thích nhớ về quá khứ, thích săn sóc đến những kỷ niệm. Có mấy biểu hiện thế này: đầu năm nay, đột nhiên tôi muốn về quê để dự hội làng. Hội làng Thổ Khối quê tôi tổ chức vào đầu xuân. Hội to lắm, có tế lễ, có rước xách linh đình. Làng tôi ở ngay ngoại thành Hà Nội, qua cầu Chương Dương rẽ phải chỉ mấy cây số là tới. Tuy thế, có bao giờ tôi nghĩ đến chuyện về làng xem hội đâu. Thế mà năm nay… Cũng năm nay tôi còn có nhu cầu về thăm lại nơi mình sinh ra (làng Quần Phương Hạ, nay thuộc xã Hải Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định). Ông bố tôi thời Pháp thuộc từng làm lục sự ở Hải Hậu một thời gian. Khi gia đình chuyển đi nơi khác, tôi mới lên chín tuổi. Tính đến nay, đúng 66 năm. 66 năm, bỗng có nhu cầu trở lại! Ngoài ra tôi còn có hứng thú thu thập các tấm ảnh chụp ngày xưa và ngồi cặm cụi cả buổi để phân loại, chọn lọc, sắp xếp theo chủ đề này khác. Nhớ hồi tôi được giao làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, cụ Nguyễn có nói nửa đùa nửa thật với tôi : “Thế là mình đã đến tuổi “tuyển hồi” (tuổi làm tuyển tập và viết hồi ký). Lúc ấy (1980), Nguyễn Tuân mới 70 tuổi. Tôi bây giờ đã 76. Cũng sắp in Tuyển tập và đã có người xui viết hồi ký.

            Viết hồi ký để làm gì nhỉ? Viết hồi ký thì ích gì cho mình và cho người khác? Hình như tỏ bầy hết sự thật của đời mình cũng là một khoái thú riêng của con người ta. Khoái thú được giải toả. Có ai đó nói rằng, mọi khoái cảm trên đời đều là sự trút ra khỏi bản thân mình (décharger) một cái gì đó. Với mình thì thế. Nhưng còn với người? Người ta thích đọc hồi ký của những danh nhân, của những nhà hoạt động chính trị tầm cỡ quốc gia, quốc tế hay của những nhà văn hoá lớn… Biết được bí mật của cuộc đời danh nhân là biết được những thông tin có ý nghĩa quốc gia đại sự, biết được kinh nghiệm của nền văn hoá một dân tộc. Vậy tôi viết hồi ký với tư cách gì? Chỉ để cho mình được giải toả cũng được chứ sao! Ngoài ra, liệu còn có ích cho ai nữa không? Tôi không tin lắm. Cũng có thể có tác dụng trong một phạm vi hẹp, trước hết đối với những người thân, ngoài ra là những ai coi cuộc đời riêng của tôi cũng có một cái gì đó đáng tò mò và sự nghiệp viết lách của tôi không đến nỗi hoàn toàn vô giá trị. Nghĩa là cũng muốn tìm hiểu, cũng muốn giải thích.
Ngoài ra tôi tuy không phải nhân vật lịch sử, nhưng sự tình cờ đã đưa đẩy tôi được chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng như Cách mạng tháng Tám hay Cải cách ruộng đất…vv., và biết được một ít chuyện riêng của một số danh nhân như Hồ Chí Minh, Tố Hữu, và nhiều nhà văn hoá lớn như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyên Hồng…vv.. Tất nhiên những sự kiện này và những nhân vật kia người ta đã nói nhiều, viết nhiều rồi theo cách nhìn quan phương chính thống. Ở đây tôi chỉ nói những hiểu biết trực tiếp của riêng tôi với cách nhìn rất chủ quan của tôi. Nhưng chính vì thế mà, biết đâu đấy, lại có thể đem đến những thông tin riêng, những ý vị riêng.
PHẦN MỘT 
Gia đình. Những ngày thơ ấu. Thời học sinh và quá trình công tác

Chương I. Gia đình – Những ngày thơ ấu
            Giấy khai sinh của tôi ghi sinh ngày 18 – 3 – 1930 tại làng Quần Phương Hạ, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Nguyên quán: làng Thổ Khối, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. (nay thuộc phường Cự Khối, quận Long Biên, Hà Nội).
            Làng Thổ Khôi nằm vắt ngang đê sông Hồng, ruộng ít, dân làng ít người sống bằng nghề nông, chủ yếu đi học, làm quan, làm viên chức, làm thuyền thợ hay buôn bán. Làng chỉ có một nghề truyền thống là làm vàng mã. Gái làng suốt ngày ngồi bẻ nan thoăn thoắt, phết hồ, dán giấy, làm thành những thoi vàng, thoi bạc dùng cho cõi âm. Làng ít ruộng nên dân xuất ngoại rất nhiều, ở đâu cũng có : Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Yên, Nam Định, Thanh, Nghệ, Tĩnh, Sài Gòn…vv.. Khi tôi sinh ra thì bố tôi đang giữ chức lục sự (Coi việc án từ ở các phủ huyện thời Pháp thuộc) ở huyện Hải Hậu. Ông đọc được chữ Hán và biết làm thuốc. Ông có nhiều sách chữ Hán, đều là sách thuốc Tầu. Có lúc tôi thấy ông mời hẳn một thày lang đến nhà để học nghề. Ông cũng thích làm thơ. Nhiều đêm, đã khuya, thấy ông thức dậy, thắp đèn làm thơ. Hồi ấy ông làm việc ở phủ
Thái Ninh, tỉnh Thái Bình. Ở đây có một viên tổng đốc về hưu tên là Nguyễn Năng Quốc. Ông này thường gọi một số viên chức trong phủ đến nhà uống rượu, ngâm thơ. Ông bố tôi xem chừng rất hào hứng chuẩn bị cho những buổi thơ phú thù tạc như thế. Tôi không hiểu thơ phú của ông có hay ho gì không, chỉ thấy tài hoa của ông thể hiện rất rõ ở các thú chơi như trồng hoa, thư pháp, đồ cổ, nuôi gà chọi, chim hoạ mi, các loại chó cảnh, mèo cảnh… Ông đặc biệt sành sỏi về nghệ thuật tỉa thuỷ tiên. Hàng năm cứ đến giáp Tết âm lịch ông lại lên Hà Nội mua về một sọt thuỷ tiên củ. Ông chọn lấy những củ cho là đẹp rồi ngồi cả buổi gọt tỉa bằng một mũi dao trổ. Phải tỉa như thế nào đó để khi thuỷ tiên trổ lá, trổ hoa thì dò hoa mọc thẳng vút trên cái nền lá quấn quýt uốn râu rồng. Lại phải làm sao cho hoa nở theo ý muốn của mình đúng vào đêm giao thừa. Trời lạnh thì áp đèn để thúc. Trời nóng thì lại phải cuốn giò hoa bằng giấy bản dấp nước để hãm. Có lần ông đã đem thuỷ tiên đi thi ở đình Hàng Bạc, Hà Nội và được ăn giải nhì. Lần ấy, tôi có được ông cho đi theo. Tôi nhớ giải là một bức trạm nổi trên gỗ thiếp vàng một đôi chim đậu trên một nhành mai. Ông cũng rất sành sỏi trong nghệ thuật trồng lan. Trên dàn hoa thì treo la liệt phong lan, dưới sân thì bầy hàng trăm chậu địa lan đặt trên đôn sứ hay bệ gạch. Tôi nhớ lõm bõm những cái tên địa lan rất đẹp: Đại Kiều, Tiểu Kiều, Bạch Ngọc, Mặc Lan…vv.. Một trong những kỷ niệm của tôi thời nhỏ là luồn lỏi giữa những chậu lan, tìm bắt những con dế chui dưới chậu lan hay các khe của những bệ gạch. Ông cũng rất mê chim hoạ mi. Trong nhà, ngoài hiên la liệt những lồng chim. Cái to, cái nhỏ, có cái cao hàng vài ba thước, tất cả đều quang dầu. Suốt ngày ríu ran tiếng chim hót. Ông đặc biệt thích thú nuôi chim chọi. Phải biết chọn chim theo hình tướng : đầu thế nào, mắt thế nào, thân thế nào, chân, cựa thế nào…vv… Lại phải nuôi  kèm chim mái để “xuỳ” cho chim đực chọi nhau. Nuôi chim thì hết sức cầu kỳ. Gần đến mùa thi thì nước uống phải là nước sâm, thức ăn là gạo tấm tẩm lòng đỏ trứng gà rồi xấy khô. Tẩm đi tẩm lại đến khi nào hạt tấm có màu nâu xẫm mới thôi. Rồi phải tẩm bổ thêm cào cào, châu chấu, dế, thậm chí cả đông trùng hạ thảo… Hàng năm những cuộc thi chọi chim hoạ mi thường được tổ chức ở đình Ngọc Hà, Hà Nội. Ông bố tôi cũng nhiều lần đưa chim đi thi và được giải. Bố tôi tính lành nhưng ham chơi. Cái gì cũng thích. Trà Tàu, thuốc lào, thuốc phiện, chơi hoa, chơi chim, chọi gà, nuôi mèo, nuôi chó, chơi hoành phi câu đối, đồ cổ, hát ả đào. Trong nhà, trong tủ bầy đủ cả: điếu ống, điếu bát, bàn đèn, các kiểu tẩu hút thuốc phiện, ấm chén cổ, lọ hoa, độc bình, đàn nguyệt, đàn đáy, trống chầu, dùi trống có khắc thơ Đường… Ông mê hát ả đào và mê cả cô đầu nữa. Mẹ tôi có lần nói, ông ấy mê gái đến không biết sợ là gì nữa. Có năm bệnh dịch phát triển ở địa phương. Đường xá vắng tanh, nhất là ban đêm. Người ta sợ quan ôn đi lùng bắt phu xuống âm phủ. Thế mà ông ấy vẫn cứ đi đến xóm hát như thường, không sợ gì cả.
            Mẹ tôi đúng là điển hình của một bà vợ viên chức. Chẳng làm gì cả. Nấu ăn đã có đầy tớ. Bế bồng, chăm bẵm con nhỏ, đã có vú em. Chỉ thỉnh thoảng đi chợ, có con sen cắp rổ đi theo. Thường thường khi bố tôi đi làm thì bà cùng một số vợ viên chức khác họp nhau đánh tổ tôm, tài bàn. Bà rất thích nghe đọc truyện cổ và thuộc rất nhiều truyện nôm như Kiều, Nhị độ mai, Hoàng Trừu, Tống Trân Cúc Hoa, Phan Trần… Cho đến nay tôi vẫn còn nhớ hình ảnh này của bà: Cơm trưa xong, nằm nghiêng trên tấm phản quang dầu, nhai trầu và hút thuốc lá sâu kèn, nghe con gái – Chị cả tôi – đọc tiểu thuyết cổ, hết Chinh Đông, Chinh Tây, lại đếnTam quốc chí, Hán Sở tranh hùng, Phấn trang lâu, Bình Sơn Lãnh yến…vv.. Hàng năm bà thường đưa các con đi chơi các hội chùa: hội Phủ Giầy, Chợ Viềng Hải Lạng, đền Sòng, Phố Cát, hội Trường Yên…vv.. Tôi không thể không nói đến một người trong gia đình rất có ảnh hưởng tới tôi thời thơ ấu: bà chị cả tôi. Bà tên là Nguyễn Kim Hồi, hơn tôi đúng một giáp. Chị tôi thời con gái rất xinh đẹp, nhưng tính cách hết sức táo tợn. Cho đến nay, tôi chưa từng gặp một người con gái nào táo tợn đến mức ấy: dám vào lớp học đang giờ giảng bài, xin phép thầy giáo rồi đi thẳng đến một cậu học trò vừa trêu ghẹo mình, tát trái cho một cái rồi đàng hoàng đi ra; bố đi vắng, mời bạn trai đến nhà, đốt pháo đón mừng; thuê thuyền đi chơi trên sông với bạn trai; con gái mới mười sáu, mười bảy mà rất hách dịch: bắt đầy tớ lớn tuổi hơn mình xoè bàn tay ra, lấy thước kẻ đánh vì tội giặt quần áo, rũ không sạch mùi xà phòng; các em lười học thì phạt bằng cách vẽ vòng tròn dưới đất, bắt đứng đó không được bước ra ngoài khi chưa cho phép. Tính cách như thế khiến các em sợ hơn cả bố mẹ. Đặc biệt, con gái mà đi đánh ghen hộ mẹ: đưa đầy tớ đến nhà hát, đánh chửi cô đầu. Chị tôi rất mê thơ lãng mạn và các loại tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thanh Châu, Ngọc Giao, Lan Khai, Lê Văn Trương…vv.. Hứng lên, ngồi một mình cũng cao giọng ngâm thơ sang sảng… Hồi gia đình tôi chuyển sang phủ Nghĩa Hưng, Nam Định, có thuê một ngôi nhà lầu : chị tôi mua đủ thứ sách báo chất lên một căn buồng trên gác: Ngày nay, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo, Loa, Tri Tân, Thanh Nghị … và các loại thơ ca, tiểu thuyết kể trên. Bố tôi rất quan liêu, tuy cấm con gái không được đọc tiểu thuyết, nhưng không bao giờ lên gác để biết có cả một kho sách báo trên đó. Kho sách báo này đã là một thư viện phong phú và đầy hấp dẫn đối với tôi từ tuổi thiếu niên nhi đồng.
            Tôi học tiểu học ở trường huyện. Học thì lười, chỉ ham chơi. Rất mê truyện kiếm hiệp, truyện cổ Tầu. Thích vẽ tranh phỏng theo những tranh minh hoạ trong các truyện, thích nhất vẽ hiệp sĩ múa gươm, phi thân lên mái nhà, và những ông tướng Tầu: Quan Công, Trương Phi, Lã Bố… ấy thế mà cũng có nhiều thằng bạn rất phục. Chúng phải đổi vài ba tờ giấy trắng để lấy một bức vẽ của tôi.
            Tôi từ nhỏ đã không thích sinh hoạt tập thể. Bố mẹ tôi muốn cho tôi sinh hoạt trong đội Sói con (louveteau) của trường huyện: cắm trại, mặc đồng phục, hát đồng ca, nấu ăn chung, vui chơi tập thể v.v.. Tôi ở với họ nửa buổi rồi thừa lúc họ không để ý, lủi trốn về nhà. Tôi không thích sinh hoạt tập thể, có lẽ một phần vì ít tiếp xúc với người ngoài, nhát, vụng về trong giao tiếp, làm gì cũng lúng túng, chậm chạp. Nhưng quả thực từ nhỏ tôi đã có thói quen sống và chơi
một mình. Mẹ tôi sinh tất cả mười một lần, nhưng chỉ nuôi được 6: hai trai, bốn gái. Anh tôi từ nhỏ đã được gửi cho một ông cậu làm giáo viên ở tỉnh Bắc Ninh kèm cặp cho. ở nhà còn lại toàn con gái, tôi chơi với ai được! Đành chỉ chơi một mình. Nghĩa là ngồi một mình, tưởng tượng ra đủ thứ chuyện phỏng theo những sách vở đọc được, đặc biệt là các truyện võ hiệp, truyện cổ Tầu, truyện tình lãng mạn…Tất nhiên bao giờ cũng biến mình thành một nhân vật chính trong đó. Phải nói rằng tôi từ nhỏ đã có một đầu óc rất giàu tưởng tượng đến mức như là bệnh hoạn, cứ nhắm mắt lại là lập tức như lạc vào một thế giới hoang đường nào.
            Nếu không ngồi chơi một mình thì đi lang thang vớ vẩn ở phố huyện hay trên những cánh đồng, bờ đê, đường làng, ngõ xóm, bắt cào cào, châu chấu, chuồn chuồn, chui vào các đền miếu quanh vùng, trèo cây, hái quả, vừa đi vừa tưởng tượng. Tôi rất thích quả bàng chín. Nó có một vị ngọt ngọt chua chua rất riêng và một hương thơm riêng. Về sau này, ngẫm ra, tôi gọi đấy là hương vị của mùa thu. Ăn một quả bàng chín như nuốt vào trong bụng hương vị của mùa thu. Không hiểu sao tôi cũng rất thích mùi thuốc pháo và mùi hơi ét xăng ô tô. Hễ có xe ô tô đi qua trước nhà, thế nào cũng phải chạy ra hít lấy hít để… Sau này đọc bài Tựa Tây Sương Ký của Thánh Thán, thấy ông kể ra la liệt các thứ khoái trên đời, trong đó có cái khoái ngửi mùi thuốc pháo. Té ra cái khoái của tôi cũng không phải là cá biệt.
            Thấm vào tâm hồn tôi cho đến mãi bây giờ là cái gọi là không khí những phố huyện, phố phủ ngày xưa: ấy là một đoạn đường đất hoặc rải đá khoảng ba bốn trăm mét, hai bên có vài hàng cơm, hàng phở, quán nước, một trạm dây thép, một trạm y tế, vài cửa hiệu tạp hoá, xa xa nơi đầu phố hay cuối phố là một trường tiểu học. To tát oai nghiêm hơn cả là dinh quan huyện, ngoài cổng có lính gác. Ra vào cửa quan là mấy thầy thừa, thầy lục, mấy ông xã, ông lý ở các  làng lên hầu kiện, mấy anh nho lại áo the, khăn xếp, cắp ô. Tỏ ra bận rộn hơn cả là mấy chú lính cơ, lính lệ chạy ra chạy vào. Văn minh nhất huyện là mấy thầy giáo cấp một thường vận Âu phục, đi đứng nghiêm trang. Quan huyện thì dường như là người của một thế giới khác. Đi đâu có trống báo hiệu và chỉ thấy một chiếc xe ô tô hòm kính lướt nhanh qua phố huyện.
            Nói chung phố huyện là một cảnh sống đơn điệu, quẩn quanh, nhạt tẻ. Buồn vắng hơn nữa là về ban đêm. Các cửa hàng đèn dầu leo lét, tù mù giữa cảnh đêm tối thăm thẳm.
            Phố huyện thường xa thành phố, gần nông thôn. Kề ngay phố huyện là đồng ruộng, làng mạc, là bờ tre, nương dâu, là cánh cò, cánh vạc, con trâu kéo cày, là những dân quê lam lũ chân lấm tay bùn… Cho nên từ huyện lên tỉnh thì
cũng coi như là từ nhà quê ra tỉnh.
            Môi trường sống thời thơ ấu có ảnh hưởng rất quan trọng đối với năng lực cảm thụ văn chương của tôi. Từ những thú chơi cổ điển của ông bố tôi, tôi rất dễ cảm nhận được vẻ đẹp “vang bóng một thời” của văn Nguyễn Tuân. Và cảnh làng quê, cảnh phố huyện đã khiến tôi dễ nhập thân ngay vào thế giới nghệ thuật của những Thạch Lam, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Đỗ Đức Thu, Bùi Hiển, Tô Hoài, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm .vv.., thế giới của những phố huyện nghèo, của những nhân vật quan lại, lính tráng, viên chức nhỏ, hương lý, của những cảnh sông dài trời rộng, những bến sông hoang vắng, của linh hồn đồng quê cổ kính, bình dị miền Bắc bàng bạc một chất thơ buồn… Đó cũng là cái buồn của ca dao, của chèo. Đọc một câu ca dao, nghe một làn điệu chèo, bao giờ tôi cũng thấy hiện lên trong trí tưởng tượng của mình cảnh đồng quê heo hút ngày xưa khiến nhiều khi chảy nước mắt.
            Trí nhớ của con người ta có những quy luật riêng của nó mà con người không ý thức được, không làm chủ được. Có những hình ảnh rất xa xưa và không có ý nghĩa gì cả, tự nhiên cứ hiện lên trong trí nhớ của ta, có thể gọi là những hồi ức ngoài ý muốn (mémoires involontaires). Tôi thường có những hồi ức như vậy. Chẳng hạn, bỗng nhớ một ông già tên là Xã An, mặc quần trắng, áo dài trắng, có những cái khuy cài nâu nâu màu hổ phách. Không hiểu sao lại nhớ cụ thể cả tên ông ta, tuy không biết ông là ai. Gần đây hỏi chị tôi, chị tôi cho biết, ông Xã An là chủ ngôi nhà cha mẹ tôi thuê hồi bố tôi làm việc ở huyện Hải Hậu (NamĐịnh). Lúc đó tôi chỉ độ năm, sáu tuổi. Trong trí nhớ của tôi cũng hay hiện lên hình ảnh một khu vườn rau vào mùa thu. Có những luống cải thưa thớt, xác xơ, mấy cái ngồng cải cao vọt lên với những bông hoa nở vàng. Vài con bướm trắng bay chập chờn quanh những bông hoa. Rồi hình ảnh người vú em, tuy đã luống tuổi, nhưng chúng tôi vẫn gọi là Chị – Chị Đại. Chị có một cái nốt ruồi lớn ở dưới mắt phải. Chị vừa quét sân vừa đọc ngân nga mấy câu lục bát để đùa ghẹo tôi:
Nước Hải Lạng vừa trong vừa mát,
Đường Hải Lạng lắm cát dễ đi
Cô Sĩ kia xinh đẹp làm chi
Để cho cậu M. trở đi trở về…
            Lúc này, bố tôi đã chuyển về làm việc ở phủ Nghĩa Hưng (NamĐịnh). Tôi đã hơn 10 tuổi. Vào dịp đầu xuân, Hải Lạng (thuộc phủ Nghĩa Hưng) mở hội, có đấu cờ người. Mỗi quân cờ là một cô gái đồng trinh cầm một cái biển có ghi chữ Tướng, Sĩ, Tượng…vv… Những cô được chọn cầm biển tướng, sĩ là những cô xinh đẹp hơn cả. Hầu như năm nào tôi cũng cùng gia đình đi xem hội làng Hải Lạng. Chúng tôi đi thuyền xuôi từ thị trấn Nghĩa Hưng tới Hải Lạng, kề ngay bến sông. Một hình ảnh khác cũng thường trở đi trở lại trong trí nhớ của tôi: một người đàn bà ăn mày, rách rưới, mắt loà, bước rờ rẫm lên hè nhà tôi trông ra chợ phủ Thái Ninh, vừa bước đi, miệng vừa ngốn một ngọn rau muống. Lúc này bố tôi đã chuyển tới làm việc ở phủ Thái Ninh (Thái Bình). Tôi đã 13, 14 tuổi…vv… Những hình ảnh ấy chẳng có ý nghĩa gì. Chúng chỉ gợi lên không khí của một thời rất xa xưa một đi không trở lại. Và tôi cảm thấy buồn, một nỗi buồn vu vơ. Những cảnh ấy nay còn không? Những con người ấy chắc đã chết cả rồi! Hồn họ đang ở đâu? “Hồn ở đâu bây giờ!” (Vũ Đình Liên) Nhưng có những kỷ niệm cũng rất vụn vặt thôi, và cũng hiện lên trong trí nhớ tôi một cách tự phát, mà sao cứ ám ảnh sâu sắc và có tác động rất lớn, rất lâu dài tới tâm lý, tính cách của tôi. Nói đến những kỷ niệm ấy, tôi thấy nhất thiết phải kể đến chi tiết này- một chi tiết rất nhỏ, có thể nói là chẳng có nghĩa lý gì, vậy mà sao nó cứ theo đuổi tôi đến tận bây giờ và có lẽ cho tới khi nhắm mắt. Một chi tiết thực sự có ảnh hưởng đến cá tính, tính cách của tôi: hồi đó tôi mới khoảng 11, 12 tuổi gì đó, có một lần ông bố tôi sai tôi múc cho ông một thau nước rửa mặt. Tôi múc vài gáo nước vào thau rồi bưng đến cho ông. Nhìn vào thau, thấy ít nước quá, ông nhăn mặt: “Cái thằng, sao bủn xỉn, bần tiện thế!”. Đấy, chi tiết chỉ có thế thôi, thế mà tôi cứ ấm ức, xấu hổ và rất tự ái, thấy mình bị coi là bần tiện, là bo bíu, là tiểu nhân, là không đường hoàng, nói chung là đáng khinh bỉ, chẳng làm nên trò trống gì …Từ đó, có thể nói, mọi hành vi của tôi trong sinh hoạt đời thường hay trong công tác, trong cách ứng xử với người này người khác, trong hoạt động văn học…vv… đều là những cố gắng sao cho người đời đừng khinh mình là keo bẩn, tiểu nhân, không đường hoàng… Dù nghèo túng không bao giờ lèm nhèm trong chuyện tiền bạc. Việc không làm được thì tránh không làm. Phát biểu hay viết lách về cái gì, phải biết đến nơi đến chốn, biết đến đâu, nói đến đấy và phải có ý kiến riêng, không được thế thì thôi, không nói, không viết. Không cầu cạnh người sang, người trên để họ có thể khinh mình. Trời cho cái gì thì hưởng cái đó, không cay cú, cố đấm ăn xôi, không xin xỏ, hay tranh cuớp của ai… Nói chung tôi quan niệm được làm chủ bản thân mình là sướng nhất. Vì thế không làm bất cứ điều gì vượt quá thân phận, tầm vóc, khả năng của mình để rơi vào bị động, mất tự do, tự chủ và bị thiên hạ khinh bỉ. Tôi rất thích dùng hai chữ sang trọng là vì thế. Sang trọng đối lập với nhếch nhác, hèn hạ. Nghèo mà vẫn sang. “Phó thường dân” cũng có thể sang. Thậm chí kém cỏi vẫn có thể sang, nghĩa là tự chủ trong phạm vi khả năng của mình, tránh không bị khinh tức là sang. Và tôi đã viết một bài “Về khái niệm sang trong đánh giá văn học”.
Một kỷ niệm khác cũng có ảnh hưởng lớn tới tâm lý, tính cách của tôi: chuyện tập xe đạp. Không hiểu sao tôi lại khốn khổ đến vậy trong việc tập đi xe đạp. Hồi mười ba, mười bốn tuổi, học cấp II ở thành phốNamĐịnh, tôi đã cùng mấy thằng bạn ở chung một nhà trọ tập đi xe đạp. Trèo lên xe, đạp mấy vòng, nhưng cứ hễ thằng bạn giữ hộ xe buông tay ra là ngã đổ kềnh ra đất. Tập mãi không được, đã thế lại còn bị toạc một mảng thịt ở ống chân, đến nay vẫn còn vết sẹo. Sợ quá không dám tập nữa. Một chuyện ai cũng làm được, kể cả đàn bà con gái hay đứa trẻ sáu bẩy tuổi, vậy mà mình không làm được. Nhục quá! Hèn kém quá! Điều này khiến tôi luôn có tâm lý bi quan về năng lực của mình. Nghĩa là thấy mình bất tài, bất lực, chẳng làm nên trò trống gì. Cho nên bị ai coi thường, tuy cũng tức, nhưng liền đó lại tự thấy: nó khinh mình cũng phải thôi. Mình là thằng hèn kém, nó khinh cũng chẳng oan ức gì.
            Không thể tưởng tượng được cái nhục không biết đi xe đạp của tôi kéo dài cho mãi đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc (1954). Lúc ấy tôi đã 24 tuổi. Trong chiến tranh, mấy ai có xe đạp mà đi. vì thế không biết đi xe đạp, chưa thấy bức xúc lắm, và cũng không ai biết. Nhưng hoà bình rồi. Không biết đi xe đạp thì nguy quá. Mà lộ ra thì xấu hổ chết được! Tôi quyết định, nhất định phải tập, mà phải tập một mình, tập dấu, tập bí mật. Đợi lúc đêm xuống, tôi thuê
một cái xe đạp, dắt đến một chỗ vắng vẻ có đường dốc, rồi ngồi lên xe thả cho nó lao xuống và cứ thế đạp phứa đi. Sau nhiều lần ngã, tôi đi được xe đạp. Sướng quá! Thế là có quyết tâm thì cũng không đến nỗi kém cạnh ai. (Hồi này gia đình tôi ở một vùng ven thị xã Thái Nguyên)
            Có lẽ vì chuyện này mà tôi một mặt vẫn bi quan về năng lực của mình, nhưng mặt khác cho rằng có quyết tâm thì cũng có thể vượt lên được. Đồng thời tôi có tâm lí dễ dị ứng với những người có thái độ tự mãn và rất thông cảm với những người bị đời khinh bỉ. Sau này trong học tập và nghiên cứu khoa học, tôi luôn luôn gắng sức, cố vượt lên bản thân mình một cách âm thầm lặng lẽ. Tuy vậy khi có ai đó đánh giá cao tài trí của mình, tôi tuy cũng thích, nhưng không bao giờ tỏ ra hí hửng, thậm chí vẫn cứ ngờ ngợ: “Chẳng lẽ mình mà cũng có tài thật sao!”
            Xin nói thêm về một nét tính cách này mà tôi tự nhận thấy đã có từ nhỏ: thực chất thì hèn nhát, nhưng lại muốn tỏ ra là dũng cảm. Chẳng hạn, vào các đền miếu bỏ hoang, phá phách các đồ thờ cúng, lấy những cây gươm thờ múa may chơi. Có khi đái cả vào bát hương. Những trò quậy phá ấy chẳng chết ai, vậy mà cũng làm cho một số đàn bà, con gái hoảng sợ và nể phục. Đúng là thứ anh hùng rơm.
            Sau này lớn lên, tôi thích ăn nói ngang ngược, nhưng chỉ dám nói trong phạm vi một công chúng vốn hâm mộ mình hoặc đồng tình với mình hay không có khả năng hại được mình. Viết lách cũng thế. Không muốn nói xuôi chiều, thích gai góc một chút, nhưng cũng chỉ trong giới hạn không nguy hiểm lắm đến bản thân mình và vừa đủ cho một số người yếu bóng vía phải nể trọng.



Chương II. Thời học sinh
            Học xong bậc tiểu học ở phủ Thái Ninh, tôi lên thành phốNamĐịnh học thành chung (trung học cơ sở). Tôi thi vào trường công không đỗ. Đúng là nhà quê ra tỉnh, nghĩ lại thật xấu hổ. Lớ ngớ thế nào đi lạc lung tung rồi nhầm phòng thi. Thành phốNamĐịnh với những toà “nhà Tây”, lúc đó, đối với tôi, sao mà hoành tráng mênh mông thế. Tâm trạng bối rối hoang mang như vậy thì làm bài tất không ra gì. Tôi trượt là phải. Không được học trường công, tôi xin học trường tư. ấy là trường cố đạo Xanh Tô-ma (Saint Thomas d‘Aquin). Thực ra thì tôi học trường ngoại trú Đức Bà (Externat Notre Dame) đặt ở phố Pigneau de Béhaine (nay là phố Bến Ngự). Có lẽ đây là một phân hiệu ngoại trú của trường Xanh Tô-ma chăng? Hiệu trưởng là một cố đạo Tây, người thấp lùn, râu tóc bạc phơ, gọi là cố lùn. (đối lập với một cố đạo khác cũng ở thành phốNamĐịnh gọi là Cố Cao.) Dạy học là những thày dòng (Frères) còn trẻ, mặc áo trùng thâm, cổ cồn trắng. Trường học nuôi cả một đàn dê cung cấp cho các bếp ăn hàng ngày của các cha cố. Nhiều frères rất chải chuốt và có vẻ trai lơ nữa. Sáng thứ hai, học sinh phải xếp hàng chào cờ trước tượng Đức Bà. Vào lớp thì phải đứng dậy cầu kinh vài phút trước khi học bài. Vài tuần lễ lại có một buổi giảng kinh Thánh, giống như ngoại khoá. Nói chung các frères dạy nghiêm túc, chuyên môn vững, nhất là về khoa học tự nhiên. Những học sinh như tôi, không theo đạo, thì được ghi vào danh sách kẻ ngoại đạo, vô đạo (paien). Tuy thế không thấy có sự phân biệt đối xử gì cả.
            Những học sinh thành phố nói chung lanh lẹn, hoạt bát, ăn mặc đẹp và sang hơn học sinh nhà quê như tôi. Chúng thường bắt nạt tôi. Có lần tôi phản ứng lại đã bị chúng đánh cho một trận nên thân ngay giữa sân trường. Tất nhiên uất lắm nhưng chẳng làm gì được chúng, chỉ tự mình khắc sâu thêm cái mặc cảm về thân phận hèn kém, bị khinh bỉ.
            Thời gian học ởNamĐịnh, tôi trọ ở nhà một ông gọi là ông giáo Cầu. Chẳng biết ông dạy học ở đâu, bao giờ, dạy cái gì, chỉ biết ông đã nghỉ hưu lâu rồi. Ông có quen biết bố tôi cũng không biết tự bao giờ. Ông người cao, râu tóc đã bạc, ở với một bà vợ hai. Nhà có một đầy tớ trai tên là Hỵ. Vợ chồng ông giáo hay cãi nhau, diếc móc nhau. Bà giáo khoảng 40 tuổi, người khoẻ mạnh và  khá đáo để. Hàng ngày tôi thường thấy ông giáo khăn áo chỉnh tề, xách ô đi đâu đó. Khi trở về thường bị bà giáo diếc: Lại mò đến nhà thằng con rể ( lấy con gái bà cả ) được nó đãi mấy mẩu kẹo lạc vụn chứ gì? Ông không nói gì, chỉ lừ mắt nghiến răng, đe doạ suông thế thôi. Nhưng bà chẳng sợ gì cả, còn nguýt lại mấy cái. Tôi đoán chừng ông giáo kiếm ăn bằng nghề viết đơn từ thuê cho những người có chuyện kiện cáo gì đó. Hồi này, cuộc đại chiến thế giới thứ hai đang diễn ra ác liệt. Tôi nhớ ông giáo thường gật gù vẻ đắc chí, nhắc đi nhắc lại một câu như sấm ngôn:“Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Nhà ông giáo là một căn hộ ở tầng hai, nằm trong một dãy nhà cho thuê gọi là dãy chín gian, cũng ở đường Pigneau de Béhaine. Cùng ở trọ nhà ông giáo
            Cầu còn có ba học sinh nữa cũng ở vùng quê lên trọ học, hình như đều là dân phố huyện Hải Hậu và bố mẹ cũng có quen biết ông giáo Cầu từ trước.Trong số này, tôi nhớ có một anh rất chăm học. Hồi ấy gọi là học gạo. Nhiều khi tôi thấy anh học bài, mệt quá, gục ngay lên sách ngủ, nước rãi rớt cả ra sách. Còn tôi thì vẫn lười học. Ngoài giờ lên lớp chỉ thích đi lang thang các phố xá, vườn hoa và  ra cả các vùng ngoại ô. Hồi ấy ( từ 1943 đến 1945 ), máy bay Mỹ đánh phá Nam
Định luôn. Mỗi lần có báo động, tôi lại cùng người dân các phố quanh vùng chạy tản ra Bên Đồng ( địa danh của một vùng ngoại ô thành phố, có cái hồ lớn gọi là hồ Rakét, có lẽ vì giống cái vợt bóng bàn – raquette ). Tôi để ý, lần nào chạy báo động cũng có một gia đình Hoa kiều giầu có đi về phía cuối hồ, đến một ngôi biệt thự sang trọng. Gia đình này có một cô gái độ 18, 19 tuổi, xinh đẹp, mặc áo xường xám màu xanh lam, hở vai, xẻ tà, đi giày cao gót. Tôi cứ lẳng lặng lẽo đẽo theo cô ta cho đến tận ngôi biệt thự. Chỉ là một thứ tình cảm lãng mạn trẻ con vớ vẩn thế thôi – một thứ tình cảm mà sau này tôi thấy Hoàng Cầm thường kể lại trong những bài thơ của mình  mối tình Em – Chị…
Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa…
            Ở thành phốNamĐịnh, tôi được chứng kiến cuộc đảo chính 9/3 của quân Nhật. Đêm hôm ấy, đang ngủ bỗng nghe nổ một phát đại bác. Tất cả chỉ có thế thôi. Sáng ra thành phố đã thuộc quân đội Nhật. Chúng chiếm đóng các công sở, hò hét tập thể dục. Một vài Pháp kiều đi lại lén lút, sợ hãi.Tâm lý bọn tôi hồi ấy rất khoái khi nghe chuyện bọn Tây đầm bị lính Nhật đánh đập, hạ nhục ngay trên đường phố hay ở các hàng quán … Ngay sau cái đêm đảo chính ấy, tôi đi xe kéo về Thái Bình (nhà tôi lúc này đã chuyển về ở phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình). Qua cầu Bo, thấy lính khố xanh, khố đỏ nhớn nhác hò nhau chạy trốn. Cuộc đảo chính diễn ra chỉ có thế thôi,. ởNamĐinh bọn Nhật còn phải bắn một phát đại bác, chứ ở Thái Bình nó không tốn một viên đạn.
            Bây giờ tôi không còn nhớ được vì sao lại không học ở trường ngoại trú Đức Bà nữa mà lại có thời gian học ở trường Pôn Dume (Paul Doumer) cũng là một trường tư thục ở thành phố Nam Định, đặt ở phố Pôn Be (Paul Bert) nay là đường Trần Hưng Đạo. Tôi nhớ hiệu trưởng có tật ở lưng, gọi là ông Tiển gù. Trường này học sinh rất táo tợn, thậm chí rất hung hãn. Tôi đã chứng kiến, ngay trong giờ học, học sinh xông lên đánh thầy giáo. Chẳng biết ông giáo này phê vào học bạ của học sinh thế nào mà nó đến trước mặt thầy xé toang cuốn học bạ, sau đấy mấy đứa đồng bọn xô lên đánh thầy. Ông giáo này tên là Hãn, mặc soóc, người cao lớn, sức lực, vậy mà sợ hãi quá phải tuông từ tầng hai xuống, chạy ra ngoài đường, đến đồn cảnh sát cầu cứu.
            Máy bay Mỹ đánh pháNamĐịnh ngày càng ác liệt. Có một trận bom ném vào nhà máy rượu gần dãy nhà tôi ở. Nhà xây đã lâu, trần nhà đã lở lói sẵn, nay  bị hơi bom ép mạnh làm cho rơi xuống từng mảng.
            Bố mẹ tôi sợ quá, chuyển tôi về học tại thị xã Thái Bình. ở thị xã Thái Bình lúc này, không hiểu sao lắm trường tư thục thế: Trường Pascal, trườngPort Royal, trường Gia Long ở Hà Nội sơ tán về. Có thời gian tôi học ở trườngPort Royal.
             Sau này tôi được biết hiệu trưởng tên Giang là một trí thức cấp tiến. Một hôm tôi thấy ông đến lớp tôi, giới thiệu với học sinh một thanh niên đến đọc thơ. Người thanh niên này hình như là một sinh viên đại học gì đó, anh đứng trước lớp, đọc rất hùng hồn, kèm theo điệu bộ, bài Ly rượu thọ của Tố Hữu. Sau này tôi mới biết đó chính là anh Nguyễn Trác có một thời làm tổ trưởng tổ văn học Việt Nam hiện đại của trường Đại học sư phạm Hà Nội mà tôi là một tổ viên.
            Anh người hiền lành, ít nói, vậy mà ngờ đâu đã có một thời trai trẻ hết sức sôi nổi, đầy cảm hứng lãng mạn.
           Ở trường Port Royal một thời gian, tôi lại chuyển sang học trường Gia Long. Tôi nhớ hồi ấy có thầy Trương dạy toán, thầy Nghiêm Toản dạy Pháp văn, thầy Nguyễn Lương Ngọc dạy sinh vật. Thầy Ngọc đẹp trai, hiền hậu, ít nói, thường mặc bộ âu phục màu rêu nhạt, đi bách bộ một mình ở sân trường, có vẻ đăm chiêu suy nghĩ điều gì. Sau này tôi biết hồi đó thầy đang hoạt động trong nhóm Xuân thu nhã tập và thầy có những suy nghĩ về thơ ca, về đạo,về tư cách trí thức… Thầy dạy chúng tôi về con gà, con vịt, con chim bồ câu…vv… Mỗi bài dạy thầy lại kết thúc bằng một chuyện vui, chẳng hạn, có anh đi săn thấy vịt người ta nuôi tưởng vịt giời, bắn chết, bị người ta bắt đền…ý thầy muốn nói vịt nhà và vịt giời giống hệt nhau.
            Ở thị xã Thái Bình, tôi trọ học ở nhà một ông đồ nho. Bố mẹ tôi hồi ấy có nhờ ông dạy thêm cho tôi chữ Hán. Lúc này thuyết Đại đông á của Nhật rất có ảnh hưởng, đã đẻ ra phong trào học chữ Hán. Ông đồ bộ dạng rất hủ lậu. Vẫn búi tó củ hành. Ông rất bẩn. Tôi nhớ ông có một cái tăm rất dài, dùng xong lại dắt lên mái nhà để tiếp tục dùng mãi. Lối dạy của ông rất cổ lỗ “Nhân chi sơ là người chưng xưa, tính bản thiện là tính vốn lành”… Mỗi lần ông giảng bài, tôi rất sợ, vì mồm ông rất hôi. Không hiểu sao người thế mà lại có một bà vợ trẻ, người nhẹ nhõm, lanh lẹn.
            Càng gần đến cách mạng Tháng Tám, không khí xã hội càng khiến cho lòng người không yên. Còi báo động liên miên. Chuyện bọn Nhật thu thóc tạ, bắt dân nhổ lúa trồng đay, chuyện tội ác dã man của chúng. Tin tức hoạt động của Việt Minh các nơi dội về: họp dân diễn thuyết, phát báo chí, truyền đơn, giết Việt gian, phá kho thóc Nhật… vv… Và nạn đói khủng khiếp diễn ra ngay giữa vùng lúa gạo Nam Định, Thái Bình…
            Tôi không học nữa, trở về với gia đình ở phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình. ở đây có một dạo, bố mẹ tôi bắt tôi học tư ông giáo Năng ở làng Thượng Phú, cách nhà tôi ở phố phủ Thái Ninh độ vài cây số. Ông dạy tôi tiếng Pháp. Tôi nhớ ông thường cho tôi dịch ra tiếng Pháp những câu ca dao có nội dung nói về nỗi khổ của người dân nghèo, hoặc châm biếm nhân tình thế thái, chẳng hạn:
Cha đời cái áo rách này
Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi!
            Sau này, nghiên cứu văn thơ cách mạng thời kỳ 1930 – 1945, tôi mới biết ông giáo Năng làng Thượng Phú té ra là Nguyễn Văn Năng, một chiến sĩ cộng sản từng bị bắt giam và đã sáng tác một số bài thơ trong tù, như bài: Đi Hà Giang,Tôi không chết, tôi còn sống mãi…vv…Hồi tôi học ông, chắc ông đang bị  quản thúc ở quê nhà.
            Tôi ở Thái Bình vào đúng thời gian nạn đói ất Dậu (mùa xuân năm 1945). Trong truyện Đôi mắt, Nam Cao từng nói đến nạn đói này mà ông cho là “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình”. Quả là một nạn đói hết sức khủng khiếp. Hồi ấy tôi thường đi xe kéo từNam Định qua bến Tân Đệ sang Thái Bình, đâu đâu cũng thấy xác người chết đói: vệ đường, gốc cây, quán chợ. Sáng sớm, có khi thấy xác người nằm ngang ngay giữa đường.
            Ở Thái Ninh, nhà tôi trông ngay ra chợ phủ. Buổi sáng mở cửa, thế nào cũng có vài xác chết nằm ở vỉa hè. Từ các làng mạc người ta khiêng về bầy bán ở chợ phủ đủ thứ: giường phản, đồ thờ, có khi dỡ cả khung nhà đi bán. Nhưng chẳng có ai mua. Trận đói lại xảy ra đúng vào mùa rét. Bụng đói, cật rét! Hình ảnh phổ biến lúc bấy giờ là đàn ông, đàn bà lấy chiếu khoác quanh mình và buộc túm trên đầu, cứ thế lũ lượt đi ngoài đường, ăn xin hay xúm quanh những đống
rác trong chợ, nhặt nhạnh bòn mót những gì có thể cho vào mồm được. Tất nhiên đói quá thì phải liều lĩnh làm càn: ăn cướp, ăn cắp, cứ xông vào các hàng quà bánh, hàng gạo, hàng cám, bốc trộm nhét luôn vào mồm, mặc cho người ta đánh đấm túi bụi. Hồi ấy bọn tuần phu, lính tráng bắt được trộm, cướp, không mất công, vả lại cũng không có điều kiện giam giữ, họ lấy dao cắt luôn gân chân cho què rồi thả ra.
            Ngày trước cụ Ngô Tất Tố có viết một truyện gọi là Làm no, phát hiện người ta ăn cả đất. Đúng là đói quá, cái gì cũng phải ăn: lá dâm bụt, bánh khô dâu( một thứ phân bón ). Lúc ấy sao mà rau má, rau sam, rau dền đi đâu hết cả. Nhiều người lội xuống ruộng, tìm những bông lúa mới trổ đòng đòng tống vào miệng và gục luôn xuống không bao giờ dậy nữa. Người ta lũ lượt kéo nhau lên    miền ngược, hi vọng kiếm được cái ăn trong rừng như củ mài, củ sắn, rau rừng…, nhưng dọc đường đi đã chết gần hết. Trong bài Phở, ông Nguyễn Tuân có nói, trong nạn đói ất Dậu, ở bến Tân Đệ có hàng phở thịt người. Tôi thì chính mắt đã trông thấy một người mẹ ăn thịt con. Người ta bắt vào phủ, chẳng biết xử thế nào. Trông người đàn bà không còn ra bộ dạng con người nữa, dường như là ma quỷ hiện hình lên vậy.
            Lúc bấy giờ khẩu hiệu của Việt Minh phát ra: “phá kho thóc Nhật, cứu đói!” Đằng nào cũng chết, theo Việt Minh còn có hi vọng được sống. Nông dân các nơi ào ào nổi dậy và cách mạng Tháng Tám thành công.
            Những ngày Cách mạng Tháng Tám, tôi ở cùng với gia đình ở phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình. Một đêm tháng tám, tôi không nhớ là đêm nào, chắc là trước ngày 19, bỗng nghe có tiếng súng nổ và thấy tiếng hô một, hai ngoài phố phủ. Tôi chạy ra xem, thấy có một đoàn người độ vài ba chục xếp hàng đi dọc đường phố, người cầm cờ, người vác súng,người cầm mã tấu, người mang gậy gộc. Họ vừa đi vừa hô khẩu hiệu: Việt nam độc lập đồng minh muôn năm! Đả đảo phát xít Nhật! Đả đảo Việt gian bán nước! Thỉnh thoảng lại bắn một phát súng chỉ thiên. Không khí hết sức căng thẳng. Người hàng phố đóng cửa hết, nhưng chắc đều đứng nép mình nhìn qua khe cửa.
            Tôi thì cứ lần theo đoàn quân Việt Minh, tuy không dám đến sát gần, nhưng không bỏ sót một hành vi nào của họ. Đoàn kéo đến một ngôi hàng tạp hoá và dừng lại. Người chỉ huy gọi tên chủ nhà bắt ra trình diện. Ông này tên là Thuyết, Hai Thuyết. Gọi mãi không thấy mở cửa, họ bèn xông lên đập cửa thình thình. Một lát thấy cửa hé mở và một bà già bước ra. Bà cứ vái lạy đoàn quân: “Lạy các quan, trăm lạy các quan, cháu nó không có nhà” .Người chỉ huy hô to: “ Đả đảo! Đả đảo!” (tôi nghe nói chủ hiệu tạp hoá này hình như có bán thứ hàng hoá gì đó cho Nhật).
            Lúc này, Hai Thuyết đang tụ họp đánh tổ tôm trong một nhà ai đó ở một ngõ ngách nào đấy của phố phủ. Tiếng hô đả đảo dữ dội vang đến hội tổ tôm. Hai Thuyết biết không thể trốn tránh mãi được, bèn nhờ một ông bạn tổ tôm dắt ra nộp mình cho cách mạng. Người chỉ huy ra lệnh điệu Thuyết đến trước hàng quân, rồi lớn tiếng hỏi: “ Các đồng chí, Hai Thuyết đáng xử tội gì?” – “ Xử tử! Xử tử!,” đoàn quân đồng thanh hô vang. Tôi sợ quá! Anh chỉ huy xem chừng tội của Thuyết không đáng chết, nên nói: “ Các đồng chí, cách mạng khoan hồng đối với kẻ biết tội đã ra đầu thú. Vậy hình phạt hạ xuống: “Cắt tai!” Anh chỉ huy chưa nói dứt câu, đã thấy mấy người xô tới Hai Thuyết và hình phạt được thi hành ngay lập tức. Tôi chỉ thấy Hai Thuyết bưng tai cúi lạy đoàn quân. Đoàn quân còn diễu hành mấy vòng trở đi trở lại phố phủ. Họ gọi tên một số người trong phố mà họ cho là có thái độ không tốt như thế nào đó đối với cách mạng cần phải cảnh cáo. Những người bị gọi tên chắc sợ lắm. Thấy đã khuya và không có gì hấp dẫn nữa, tôi trở về nhà và không rõ đoàn quân Việt Minh cuối cùng đã giải tán như thế nào.
            Những ngày Việt Minh cướp chính quyền ở phủ là những ngày rất vui. Họ chiếm phủ đường, dinh quan, các trại lính, trại giam. Tất cả diễn ra trôi chảy, không có xung đột gì cả. Chính quyền cũ rút lui hoàn toàn tự nguyện. Khí thế Việt Minh rất mạnh, các tầng lớp nhân dân đều ủng hộ nhiệt liệt. ở cổng phủ lúc nào cũng có đông người tụ họp. Chẳng có việc gì đâu, chỉ đến để nghe ngóng tin tức thời sự và để xem các chiến sĩ Việt Minh. Tôi cũng thường đến đấy và thấy cách mạng thật là vui. ở đây tôi được chứng kiến một cuộc truy bắt và xử tử Việt gian. Tôi còn nhớ thằng Việt gian này tên là Xập Giắt. Đúng ra nó không phải là người Việt mà là một Hoa Kiều, cũng không phải sinh sống ở phố phủ Thái Ninh. Chắc nó là một thằng thân Nhật có tiếng nên người ở địa phương khác cũng biết. Nó phóng xe đạp ngang qua phố phủ Thái Ninh, hình như đang trên đường chạy trốn. Vô phúc cho nó là ở cổng phủ lại có người biết nó. Họ hô hoán lên và những người có xe đạp hò nhau đuổi theo. Họ bắt được nó và giải trở lại. Nó người cao lớn khoẻ mạnh, mặc áo sơ mi cộc tay, quần soóc. Trông không có vẻ gì sợ hãi cả. Nó bị tống vào nhà giam. Nhưng có đúng là thằng Xập Giắt không chứ? Người ta tìm người biết mặt thằng Xập Giắt đến nhận diện. Một lát sau tôi thấy người ta điệu nó đi xử bắn luôn. Tên tử tội không bị xiềng xích gì cả, người ta chỉ trói chập hai tay nó ra đằng trước và thúc nó đi. Một đoàn người lớn trẻ con kéo theo sau. Trẻ con nhiều hơn. Tất nhiên tôi cũng ở trong đám con nít háo hức này. Đoàn người vừa đi vừa hô đả đảo Việt gian bán nước. Đi hết  phố thì đến cánh đồng, người ta dừng lại, bắt thằng Xập Giắt quay mặt ra ruộng.
            Mấy tay súng mở quy lát lách cách. Nhưng mãi không thấy súng nổ. Chắc mấy anh chiến sĩ chưa quen dùng súng. Xập Giắt lúc đầu có vẻ bình tĩnh, sau vì thời gian đợi chết kéo dài quá, nó đâm hoảng, quay lại vái lậy xin tha tội. Người ta lệnh cho nó quay trở lại. Mấy phát súng nổ. Thằng Xập Giắt ngã lăn ra vệ đường. Ruột xổ ra. Nhưng nó chưa chết, chân tay vẫn cử động và miệng thì rên ồ ồ. Lại bắn mấy phát nữa. Hình như vẫn chưa trúng chỗ hiểm nên nó vẫn chưa chết. Thôi cứ mặc nó nằm đấy, rồi nó cũng chết – chắc họ nghĩ thế nên không bắn nữa và quay về phủ. Về sau tôi nghe nói, người đào huyệt chôn Xập Giắt, vừa lấp đất vừa khấn thằng Hoa kiều: “Thôi thì đằng nào chú cũng chết, chú đừng oán tôi làm gì. Tôi chôn chú cho chú đỡ khổ”.
           Xập Giắt chỉ là một tên vô danh tiểu tốt. Nhưng tôi chắc hồi ấy, những nhân vật có tiếng như Phạm Quỳnh chẳng hạn, người ta cũng xét và xử đơn giản như thế thôi.
            Sau khởi nghĩa ít ngày thì vỡ đê Thái Bình, nước đổ về phố phủ. Năm ấy lụt to. Nhà tôi nước ngập đến hơn một mét. Phải kê giường phản lên cao. Cả nhà sống trên mấy cỗ ghế ngựa ghép lại, thổi nấu, ăn uống, ngủ nghê tất cả ở đấy. Thức ăn thì mua của những người quanh vùng ghé thuyền, ghé mảng vào bán: Tôm cá, cua ốc, chuối xanh, rau cỏ, vừa sẵn vừa rẻ. Người ta ở đâu khổ sở thế nào không biết, chứ riêng bọn trẻ chúng tôi thì rất khoái. Khoái nhất là chặt chuối, đóng bè, chống sào đẩy đi chơi lang thang trên đồng nước hay dọc phố phủ. Tôi cũng bắt đầu biết bơi từ ngày ấy.
Tôi không nhớ bao lâu sau thì nước rút.
            Sau trận lụt, bố mẹ tôi quyết định chuyển hẳn cả gia đình về Bắc Ninh. Bố tôi làm việc cho chính quyền cũ, tất nhiên là bị bãi chức. Rất may là cách mạng ở đây không hề động chạm gì đến cả.
            Quê tôi, như đã nói, ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm, ngày xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh. Đê sông Hồng cắt ngang qua làng. Trong đê thì ruộng ít. Ngoài đê thì chỉ có bãi sông. Người làng có tiền muốn tậu ruộng phải tìm nơi khác. Bố tôi trong thời gian làm lục sự, xem chừng cũng kiếm được. Ông tậu được khoảng 15 mẫu ruộng và một căn nhà ngói ba gian, hai trái, có sân rộng, ở làng Quảng Lãm, huyện Võ Giàng (nay thuộc huyện Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Làng Quảng Lãm ở ngay chân đê bên bờ bắc Sông Đuống, quãng trông sang bên kia là làng Hồ, quê Hoàng Cầm.
            Khi mới chuyển về Bắc Ninh, gia đình tôi ở thị xã, chứ không về nơi có ruộng đất. Đơn giản là vì không biết làm ruộng. Lâu nay, tất cả ruộng nương nhà cửa đều giao cho một ông chú, em út bố tôi, gọi là chú Xã Hột, trông nom. Ông cho phát canh thu tô. Hàng năm bố mẹ tôi cho người về bán thóc lấy tiền. ở thị xã Bắc Ninh, bố tôi thuê một ngôi nhà hai tầng ở phố Ninh Xá, đầu tỉnh phía Nam, nằm trên đường số 1 chạy thẳng từ Hà Nội lên Lạng Sơn. Bố tôi mở hiệu thuốc bắc.
            Tôi tiếp tục đi học cấp II ở trường Hàn Thuyên, lúc đó hiệu       trưởng là ông Hoàng Ngọc Phách. Trường đóng ở đầu tỉnh phía Bắc. Tôi còn nhớ lõm bõm tên một số thầy giáo lúc bấy giờ: thầy Khôi dạy toán, thày Cư dạy Sử, thầy Tuyền dạy tiếng Anh, thầy Khánh dạy sinh vật, thầy Thuyết dạy pháp văn… một hoạ sĩ dạy vẽ, tôi quên tên. Sau Cách mạng Tháng Tám, cấp học phổ thông vẫn theo hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc. Tôi học năm thứ ba thành chung (trung học cơ sở).
            Thời gian này, ở trường Hàn Thuyên, tôi được tham dự một sự kiện rất vui: học sinh biểu tình chống thi cử. Hiệu đoàn trưởng tên là Nguyễn Duy Long ( sau này tham gia bộ đôi, làm thơ trào phúng lấy tên Lê Kim). Anh khởi xướng và lãnh đạo cuộc biểu tình này. Cuộc biểu tình đã được trù bị trong một cuộc họp các cốt cán từ hôm trước – không hiểu sao tôi cũng được tham dự. Tôi nhớ, trong cuộc họp này, có anh tỏ ý e ngại, bàn lùi, liền bị đuổi thẳng cánh.
            Cuộc biểu tình diễn ra như sau:
            Sáng hôm ấy, ở cổng trường, ban chỉ huy biểu tình đã cắt người đứng gác. Học sinh đến trường đều được ngăn lại, phát truyền đơn và tổ chức thành đội ngũ. Khi đã khá đông đủ, cuộc biểu tình bắt đầu. Học sinh xếp hàng đi vòng quanh sân trường, vừa đi vừa hô khẩu hiệu: “Đả đảo thi cử!”, “Đả đảo lối học nhồi sọ!”. Học sinh tỏ ra rất phấn khởi. Bản thân tôi rất khoái. Không phải thi cử thì sướng quá rồi còn gì nữa! ai nấy mặt mày hớn hở, chân bước rầm rập, tay vung cao, miệng hô khẩu hiệu đầy hào hứng. Trong khi đó, mấy thầy giáo tụ tập ở hành lang của văn phòng nhà trường, không biết tâm trạng ra sao, chỉ thấy chụm đầu vào nhau thì thầm gì đấy, chắc là hoang mang lắm. Cuộc diễu hành đi quanh sân trường mấy vòng thì được lệnh dừng lại. Ban trù bị đã kê sẵn ở giữa sân trường một cái bục cao làm nơi diễn thuyết. “Lãnh tụ” Nguyễn Duy Long bước lên diễn đàn lớn tiếng giải thích thi cử là lối học nhồi sọ của đế quốc thực dân, nay phải bãi bỏ. “ Đả đảo thi cử!”, “ Đả đảo thi cử!”, cả khu sân trường lại vang dội tiếng hô của học sinh hưởng ứng khẩu hiệu của Nguyễn Duy Long.
            Hôm ấy việc học coi như bỏ. Học sinh vui vẻ ra về. Sau cuộc biểu tình, hình như Nguyễn Duy Long có gặp ban giám hiệu nhà trường. Nghe nói sau đó một số thầy giáo có bị gọi đi đâu đó. Cho đến nay tôi cũng không rõ thực hư thế nào, chỉ biết sau đó việc dạy và học lại tiếp tục bình thường.
            Trong thời gian gia đình tôi ở thị xã Bắc Ninh, tôi được chứng kiến bọn Tầu Quốc dân đảng sang giải giáp hàng binh Nhật và tiếp đó là những cuộc gây hấn của bọn lính viễn chinh Pháp được phép kéo vào nước ta theo hiệp định sơ bộ 6/3.
            Hồi ấy người ta gọi quân đội Tầu Tưởng là Tàu phù. Có lẽ vì bọn chúng đi đứng thất thểu nhếch nhác, da vàng bủng, như lũ ốm đói, đồng thời chúng thường quấn xà cạp bó chân to và thẳng đuỗn như bị phù. Đúng là loại quân ô hợp chắc là được chiêu mộ từ đám dân nghèo, lưu manh ở những vùng phía Nam Trung Quốc. Là lũ dân nghèo, nhà quê hết sức lạc hậu, chúng rất bẩn, bạ đâu cũng ngồi, bạ hàng quà bánh gì cũng xà vào ăn: khoai luộc, bánh đa, bánh đúc… Có thằng thấy cái bô đi toalét của người ta tráng men sạch sẽ, tưởng là đồ đựng thức ăn bèn lấy múc nước uống hay đựng cơm, canh.
            Gia đình tôi lúc ấy thuê một căn nhà hai tầng rộng rãi ở ngay mặt đường số 1 ( phố Ninh Xá). Chúng đến chiếm luôn tầng lầu cho một sĩ quan ở. Viên sĩ quan này không biết cấp bậc gì mà có kẻ hầu người hạ mà được đem theo cả vợ con. Thằng chồng hàng ngày có xe đón đi đâu đó, còn vợ và đứa con gái thì chẳng đi đâu cả, không bao giờ thấy xuống tầng dưới. Mọi sinh hoạt đều làm trên gác, có lính hầu dọn dẹp, nấu ăn và đổ bô vệ sinh. Hồi ấy, nhà cửa dù sang trọng thế nào cũng không có tiện nghi như bây giờ ( tầng nào cũng có toalét riêng). Chúng ở nhà tôi một thời gian thì rút. Khi chúng đi rồi, chúng tôi lên gác, thấy hết sức bẩn: đờm rãi bầy nhầy khắp sàn nhà lát gỗ. Không hiểu sao, sống như thế mà chúng chịu được. Mà chúng có người hầu hẳn hoi kia mà! Mà sao chúng không chịu xuống nhà dưới đi vệ sinh hay tắm rửa! Có người nói rằng ở bẩn là một đặc điểm có tính dân tộc của người Trung Hoa, có lẽ cũng đúng. Chẳng thế mà dân gian có câu: “ ở bẩn sống lâu, người Tầu bảo thế”. Quân Tầu rút đi thì quân Pháp tới.
            Bọn lính viễn chinh Pháp thì tỏ ra rất hùng hổ. Chúng đội mũ calô đỏ nên người ta gọi là lính mũ đỏ. Chúng thường qua lại trên đường số một bằng xe cơ giới có vũ khí trung liên lòng thòng băng đạn đỏ ối. ở đầu tỉnh phía Nam có một doanh trại quân đội ta và một trạm gác. Lúc đó Nguyễn Duy Long ( tức Lê Kim) đã nhập ngũ. Anh biết tiếng Pháp nên giữ việc giao thiệp với bọn Pháp. Chắc hẳn bọn chúng thường vi phạm những nguyên tắc gì đó đã được quy định ở hiệp định 6/3 nên bị bộ đội ta ngăn lại. Lập tức chúng nổ súng và cứ thế phóng xe đi. Bộ đội ta vì thế luôn luôn phải đối phó, tuy rút cục vẫn phải nhân nhượng chúng. Căn gác nhà tôi có cửa sổ trông xuống đường, trở thành nơi ẩn nấp của bộ đội ta để nếu cần thì nổ súng hay ném lựu đạn. Tuy thế, chưa có lần nào tôi thấy các      anh phải đánh đấm gì, mặc dầu có lúc chúng bắn lên cửa sổ lầu gác mấy phát làm thủng một lá màn. Tôi chắc mình lúc đó có lệnh không được quá “ cứng rắn” với chúng, vì cần kéo dài thời gian hoà bình để chuẩn bị kháng chiến, do đó, dù chúng luôn luôn khiêu khích, cố tình vi phạm hiệp định, thậm chí có lần cho cả máy bay ném bom xuống thành Bắc Ninh, ta vẫn dùng biện pháp thương lượng, cố dàn xếp cho êm chuyện, không để chiến tranh nổ ra. Tình hình Bắc Ninh ngày càng căng thẳng. Ai nấy đều thấy chiến tranh đang tới gần. Đã có lệnh tiêu thổ kháng chiến. Toà thành cổ Bắc Ninh bị san phẳng. Dân chúng kéo nhau tản cư về nông thôn. Gia đình tôi cũng chuyển hẳn về Quảng Lãm và ở đấy cho đến khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. ở Quảng Lãm, trong một thời gian dài, gia đình tôi vẫn sống trong một không khí hết sức yên ổn, ngay cả sau ngày 19-12-1946. Các chị tôi mở một cửa hàng nhỏ ngay tại nhà, bán các thứ hàng tạp phẩm vặt vãnh: diêm, thuốc, dầu Tây, muối, bánh kẹo…vv… Bố mẹ tôi, bà chị cả tôi và ông anh rể hàng ngày vẫn đánh tổ tôm, tài bàn. Bọn trẻ chúng tôi thì đi lang thang dong chơi trong làng, ngoài đồng, thăm các đền miếu quanh vùng, hoặc xa hơn nữa thì đi các chợ Chì, chợ Hồ chơi hay lên tận núi Dạm viếng chùa Hàm Long…

            Cùng tản cư về Quảng Lãm có gia đình người anh con bác ruột của tôi là Nguyễn Đăng Thục. Ông Thục là kỹ sư hoá học, nhưng lại chuyên nghiên cứu triết học cổ phương Đông: Nho, Phật, Lão. Bố vợ ông Thục cũng có nhà đất ở Quảng Lãm. Ông Thục thường đến chơi với ông bố tôi. Có lần tôi nghe lỏm được ông nói với bố tôi thế này: “ Đảng cộng sản Pháp phê bình Đảng cộng sản Việt Nam cướp chính quyền sớm quá”. Ở Quảng Lãm được ít lâu thì gia đình Nguyễn Đăng Thục trở về Hà Nội (lúc ấy gọi là dinh tê – entrer). Một buổi sáng kia, tôi không nhớ là ngày nào, bọn Pháp đánh sang bờ Bắc sông Đuống, sục vào các làng mạc ở ven sông, trong đó có Quảng Lãm. Như thế là chúng đánh tới các vùng phía Nam sông Đuống trước (thuộc các huyện Thuận Thành, Lang Tài gì đó), rồi từ bờ Nam tràn qua bờ Bắc. Tôi nhớ lúc ấy bố mẹ, anh chị tôi đang đánh tổ tôm, vội vàng vơ vét ít của cải, tay xách nách mang, hốt hoảng chạy, cứ men theo bờ ruộng chạy về phía làng mạc cách xa sông Đuống. Tiếng súng tắc bọp nổ ngay đầu xóm. Tàu bay thì cứ lượn trên đầu, thỉnh thoảng lại xả súng xuống. Những lúc ấy chỉ biết nằm rạp xuống bờ ruộng trống trải, hoàn toàn trông vào sự may rủi. Đạn bắn xuống, nhiều khi nước ruộng bắn cả vào người… May mà không ai việc gì.
            Tụi Pháp đánh sang bờ Bắc sông Đuống nhưng không đóng lại mà rút về bờ Nam. Tuy thế gia đình tôi từ đó không dám quay lại Quảng Lãm nữa. Nhưng vẫn chưa chịu đi xa mà chỉ quanh quẩn cách Quảng Lãm mấy cây số thôi, khi ở làng Và, khi ở núi Dạm. Thóc lúa thì cho người về chuyển đi. Đồ đồng, đồ sứ thì đào hố chôn ngay xuống nền nhà.
            Chiến sự ngày càng lan tới, không thể quanh quẩn ở vùng Bắc Ninh được nữa, gia đình tôi quyết định tản cư hẳn lên phía Bắc. Lúc đầu ở Bắc Giang, (làng Vân Cẩm, gần chợ Lữ, chợ Thắng), sau lên Thái Nguyên (Phương Độ – Phú Bình). Nhưng vẫn chưa chịu đi xa hẳn- khi thấy yên yên, lại quay trở lại Vân Cẩm.
            Vợ chồng bà chị cả tôi không chịu được khổ, đến năm 1951 thì bỏ vào Hà Nội. Các chị thứ hai, thứ ba thì xoay ra buôn bán ở các chợ quê ( hàng tấm, hàng xén) Lúc này tiền nong đem theo đã cạn kiệt. May sao tôi có bà chị thứ hai (Nguyễn Thanh Tần ) buôn bán rất giỏi, coi như chỗ dựa về kinh tế của cả gia đình.
Năm 1949, máy bay Pháp bắn phá chợ Thắng ( tên đầy đủ là chợ Đức Thắng thuộc huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang). Chị Tần bị trúng đạn xã hẳn một bên vai. Như thế là chúng đánh đúng vào cây cột trụ về kinh tế của gia đình tôi. Bố mẹ tôi quyết định chaỵ thẳng lên miền Bắc tỉnh Thái Nguyên (ở chân dốc Đình, thuộc huyện Đại Từ) dựa vào gia đình một ông chú (em họ mẹ tôi) có sẵn cơ sở ở đấy. Chị Tần mở một quán nước ở bên đường. Chị thứ ba và em gái tôi thì đi học sư phạm và ra dạy cấp một. Anh tôi thì vào bộ đội. Đây là thời kỳ khổ nhất của gia đình tôi. Một mặt vì người chị đảm đang nhất của gia đình không còn sức khoẻ để xông pha như trước, mặt khác, bọn Pháp vẫn đánh lên. Nhiều khi phải vào ẩn nấp chui rúc trong rừng. Có lúc gia đình tôi phải ăn cháo sắn trừ bữa, thậm chí phải ăn củ chuối thay cơm. Hàng ngay tôi cùng mẹ vào rừng lấy củi và hái măng. Tôi nhớ có lần giường sụt gẫy (giường đan bằng nứa đặt trên mấy cọc gỗ tươi có ngàm chặt trong rừng ngay sau nhà), nồi cháo sắn để trên đó đổ vào chân mẹ tôi khiến người bị bỏng nặng.
            Hoàn cảnh nhà tôi như thế mà vẫn có một anh bạn học của tôi đến ăn và ở nhờ một thời gian. Ngày ngày hai bữa cơm độn ngô, độn sắn. Vì trường học giải          tán mà bố mẹ anh ta lại ở mãi trong nội thành Hà Nội.
            Trong thời gian gia đình tôi về Quảng Lãm hay chạy lên Bắc Giang, Thái Nguyên, tôi vẫn tiếp tục đi học, khi ở trường Hàn Thuyên sơ tán lên Bắc Lý, thuộc Bắc Giang, khi ở trường Lương Ngọc Quyến đóng ở xã Phương Độ huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
            Ở Lương Ngọc Quyến tôi được thấy một vụ án mạng rất khủng khiếp, nạn nhân là bố con thầy Đoàn Hùng, hiệu trưởng của trường. Không biết do thù oán gì mà kẻ hành hung đâm chết một lúc thầy Hùng và con trai cả tên là Hiền. Thầy ùng mất, thầy Dương Xuân Nghiên lên thay.
            Ở Lương Ngọc Quyến tôi học năm thứ tư (tức năm cuối của PTCS). Bạn cùng lớp, tôi chỉ còn nhớ mấy người: Nhân, Nhiệm, Trứ, Viêm, Ngà… Không biết giờ ở đâu, còn hay mất. Hồi này tôi nổi tiếng nghịch ngợm. Viết bích báo ký Spitfire. Bạn bè thì đặt cho cái tên rất dữ: “Mãnh Tăng”.
            Giữa năm 1947, tốt nghiệp cấp II ở Lương Ngọc Quyến, tôi tìm lên Phú Thọ học tiếp cấp III ở trường Trung học Kháng chiến vốn là trường Chu Văn An Hà Nội sơ tán lên. Trường phân ra ba chuyên ban, nên gọi là trung học chuyên khoa, đóng ở Đào Gĩa thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Tôi học ban Toán – Lý – Hoá (hai ban khác là ban Vạn vật và ban Sinh ngữ).
            Trường dựng trên một khu đồi. Người ta làm một ngôi nhà sàn lớn, tầng trên là phòng ngủ, tầng dưới vừa làm nhà ăn vừa làm lớp học, khi cần thì dùng làm hội trường.
            Học sinh hầu hết là dân thành phố ở dưới xuôi lên, cách sinh hoạt rất khác với dân địa phương. Phụ trách ăn uống là một nhà hàng ở thị trấn Thái Ninh (gọi là hàng bủ Tài Lâm) ngày hai bữa gánh cơm canh vào, học sinh ăn xong, lại dọn đi.
            Hồi ấy học đến trung học chuyên khoa ( bậc tú tài) phải là con em những gia đình khá giả. Nhiều cậu đàn nhạc rất giỏi. Chiều thứ bảy họ vào trong làng tổ chức hoà nhạc, gọi là Soirée musicale, đôi khi gây ra những chuyện rắc rối đối với trai gái trong làng, thậm chí dẫn đến xung đột.
            Những ngày Đào Giã (1947, 1948) tính cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ. Trong trí nhớ của tôi chỉ còn thấp thoáng một số ấn tượng về cảnh và người của một vùng đất một thời đã lùi xa.
            Đại khái tôi nhớ ở đấy có những cái giếng nước rất nông, nước trong vắt. Có một cái giếng gọi là giếng Thần, nước dâng cao hơn cả mặt đất, người ta phải ken gỗ cao quanh miệng giếng cho nước khỏi tràn ra. Giếng Thần ở ngay cạnh đường đi. Vậy mà những cô gái làng cứ tắm truồng thoải mái quanh giếng một cách rất hồn nhiên tự nhiên. Có khi phía này giếng, đàn bà tắm, phía bên kia, đàn ông tắm. Có cô gái từ bên này lại còn với tay sang bên kia “xin tý xà phòng”.
            Về món ăn “đặc sản” của địa phương, không hiểu sao tôi cứ nhớ mãi món trám trắng. Người ta giã quả trám cả hột rồi rang mặn (ăn tựa như món sườn lợn băm nhỏ rang muối)- một món ăn nghèo nhưng thường có trên mâm cơm người dân nơi đây, gọi là ăn cho “mặn miệng”.
            Về tiếng địa phương thì “bầm”, “bủ” là tiếng gọi thân tình những bà mẹ- hai tiếng này đã đi vào thơ kháng chiến của Tố Hữu nên trở thành quen thuộc: “Bầm ơi có rét không bầm?”, “Bà bủ nằm ổ chuối khô, Bà bủ không ngủ bà lo bời bời…”.
            Về các bạn học thì dễ nhớ nhất là những người có kèm tên riêng rất nghịch do bạn bè đặt cho dựa theo một đặc điểm nào đấy (dù học những lớp hay chuyên khoa khác nhau) như Minh Khừng, Thịnh Rề, Thịnh Lợn, Xán Còi, Chí Mọi, Nga mẹ nghệ… Một số khác do quan hệ riêng nên sau này tôi hay gặp, như Nguyễn Đình Nghi, đạo diễn sân khấu, Lưu Công Nhân, hoạ sĩ, Phan Ngọc Đức, bác sĩ… có người rất nhớ chỉ vì nổi tiếng hung hăng, hay gây sự đánh nhau, như Ngô Thế Uông (gọi là Uông khùng) Răng Đông ( không hiểu sao lại có cái tên rất lạ như thế?). Ngoài ra, gần đây, có một số bạn tôi thường được gặp nhờ những cuộc hội họp hàng năm do Ban liên lạc trường Trung học kháng chiến Chu Văn An tổ chức, như Đặng Lan Anh, Nguyễn Kiều Nga, Nguyễn Tài Thu, Lê Diễm Tuyết, Đỗ Sâm, Trần Đỗ Trinh, Nguyễn Duy Khoa, Trần Thục Phi…vv…
            Về giáo viên của trường thì tôi cũng chỉ nhớ lõm bõm: dạy toán có thầy Ngô Thúc Lanh, Nguyễn Văn Hoàn, Dương Trọng Bái, dạy văn có thầy Trần Văn Giáp, dạy tiếng Pháp có thầy Bảng, cô Thục Viên, dạy hoá có thầy Cát… Hiệu trưởng là thầy Trần Văn Khang, dạy sử. Thầy rất tốt bụng, thương học trò như con đẻ (vì thế học sinh thường gọi là Ba Khang). Hiệu phó là thầy Nguyễn Văn Chiển, chuyên ngành địa chất. Phụ trách y tế có anh Phạm Khuê (con Phạm Quỳnh), lúc bấy giờ đang là sinh viên đại học y khoa. Ngoài ra có một anh y tá tên là Phi Long, đi đâu cũng dắt theo một con chó lài…
            Tôi tìm đến trường Trung học Kháng chiến Đào Giã một cách khá phiêu lưu: nếu không được cấp học bổng thì lấy gì mà ăn học? Mà đã chắc gì được cấp! Gia đình tôi lúc bấy giờ đang trong tình trạng túng quẫn không thể cấp lương ăn cho tôi được. Nhưng con người ta hồi ấy là thế, rất lạc quan tin tưởng ở lòng tốt của mọi người: cùng đồng bào với nhau, cùng đi kháng chiến với nhau thì phải thương yêu nhau, phải giúp đỡ nhau chứ! Mà quả thực là thế. Hồi ấy đi công tác đường trường, trời tối, có thể vào bất cứ nhà ai bên đường cũng có thể được mời nghỉ lại và cho mượn mọi dụng cụ để nấu ăn. Người ta đều thế cả, huống chi hiệu trưởng Trường Trung học kháng chiến lại là “ ba” Khang, nổi tiếng thương học trò.
            Ở trường Lương Ngọc Quyến, Thái Nguyên, tôi tình cờ làm quen được một anh vừa học xong năm thứ nhất Trung học kháng chiến có cô em gái tên là San học lớp dưới cùng trường với tôi. Anh tên là Bùi Mạnh Sán. Anh trở lại Đào giã, rủ tôi cùng đi. Tôi đi luôn.
            Cuộc đi của tôi vào khoảng mùa thu năm ấy (1947) từ bến Phương Độ, huyện Phú Bình (một huyện thuộc phía Nam tỉnh Thái Nguyên) lên Đào Giã huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, là cuộc đi đầu tiên của tôi từ miền trung du lên iền thượng du Việt Bắc. Nghĩa là từ miền xuôi lên vùng núi cao. Cuộc đi đường thật vui, đúng là “Đường vui”, ông Nguyễn Tuân nói thế, hình như cũng đúng vào thời điểm này. Lần đầu tiên trông thấy rừng núi, cái gì cũng lạ, cái gì cũng đẹp. Tôi rất thích những rừng tre, rừng nứa bên đường với những thân nứa như những cần trúc vươn lên cao rồi uốn cong rủ xuống với những chùm lá xoè ra rất đều từ các đốt, đúng là những sáng tạo hoàn hảo của Tạo hoá; những bờ lau phơ phất như tự cháy sáng lên dưới ánh mặt trời; những bờ hoa cúc dại vàng tươi nở bạt ngàn bên đường; những bông chuối rừng đỏ như son nổi lên như những nụ cười sơn cước rất tươi trên màu xanh thăm thẳm của núi rừng; những dòng suối đầu nguồn trong vắt len lỏi qua những tảng đá, soi bóng những bông hoa dại trăng trắng hay tim tím lả lay theo dòng nước xiết. Đến Phú Thọ thích nhất là những đồi cọ với những tàu lá lớn xoè ra như tàn như lọng, bóng loáng, dập dờn xôn xao trong nắng gió. Đang giữa thẳm rừng, vui nhất là bỗng bắt gặp một bản làng cheo leo nơi sườn núi. Trời đất như sáng hẳn lên với những ngôi nhà sàn dựng giữa những vườn mơ, vườn mận hoa trắng xoá; những cối nước chậm rãi gieo nhịp chày đều đặn vào cái vắng lặng mênh mông của núi rừng; những thửa ruộng bậc thang như cắt, như gọt vào sườn đồi, chân núi những đường nét uốn lượn đều đặn nhịp nhàng… Những cô gái dân tộc áo váy chàm, cổ đeo vòng bạc, cắm cúi làm lụng trên nương, trên rẫy, hoặc gùi măng, gùi củi từ rừng về bản…vv…
            Giữa cảnh núi rừng, nhiều khi, thấy tựa vào vách đá, ẩn dưới gốc cây, một quán nước đơn sơ. Người bán hàng là một cô gái, tuy ăn mặc giản dị nhưng chưa xoá hết vẻ thanh lịch thị thành. Chúng tôi bèn tưởng tượng ra những thiếu nữ từng sống cuộc sống phong lưu nơi thành thị, do cơn binh lửa mà trôi dạt tới nơi âm u heo hút này để sống một cuộc sống lam lũ thiếu thốn. Trong lòng thằng học sinh liền nổi lên một mối tình trắc ẩn, một niềm cảm khái rưng rưng đầy
chất thơ lãng mạn:
Cũng có kẻ màn loan trướng huệ,
những cậy mình cung quế phòng hoa
Một phen thay đổi sơn hà
Tấm thân chiếc lá biết là về đâu!
(Nguyễn Du)
Đến trường Trung học kháng chiến, việc đầu tiên của tôi là đi gặp “ba”Khang để xin học bổng. “ Ba” nói hết suất rồi, nghĩa là từ chối. Được Sán phổ biến kinh nghiệm, tôi cứ kiên trì bám riết lấy ông, không chịu bỏ cuộc. Ông đi    xem xét việc xây dựng các lớp học, tôi cứ lẽo đẽo theo sau. Ông quay lại gắt: “Anh cứ đòi cái người ta không có là nghĩa làm sao! Cụ Hồ không có con gái mà anh cứ đòi làm rể ông Cụ có được không?”
            Gắt gỏng mà lại pha giọng đùa như thế là không phải gắt thật sự rồi. Đúng là như thế. Vì cuối cùng tôi đã được cấp học bổng.
            Hồi ấy, chưa thấy có chuyện lãnh đạo chính trị, lãnh đạo tư tưởng, lãnh đạo văn hoá văn nghệ chặt chẽ như sau này. Vì thế chúng tôi sinh hoạt, ăn nói rất tự do, có thể gọi là “vô chính trị”. Những buổi liên hoan văn nghệ, vẫn thích hát những bài ca lả lướt, tình tứ, vẫn ngâm thơ tình lãng mạn của Xuân Diệu:
Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực .
ãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài…
            Mấy năm sau, khoảng từ 1951, 1952 trở đi, học sinh chỉ cần đọc dấu diếm một bài “ Thơ mới” lãng mạn hay một cuốn tiểu thuyết nào đó của Tự Lực Văn Đoàn, nhà trường bắt được, là có thể bị kỷ luật, thậm chí bị đuổi học. Ta hiểu vì sao, trước năm 1950 có thể ra đời những bài thơ như Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, truyện Chùa Đàn, tập tuỳ bút Đường vui của Nguyễn Tuân…Mấy năm sau, những tác phẩm này đều bị qui kết là “mộng rớt”, “ngắm rớt”, “nhắm rớt”, “buồn rớt” hoặc chủ nghĩa “yêng hùng”, nghĩa là những biểu hiện khác nhau của cái gọi là khuynh hướng “lãng mạn tư sản”. Và tất nhiên những tác phẩm ấy không được phép có chỗ đứng trong sách giáo khoa văn học được biên soạn trước thời kỳ đổi mới (1986).
            Năm 1947, giặc Pháp mở một cuộc tấn công đại qui mô lên Việt Bắc nhưng bị đánh bại. Đó là chiến thắng vang dội đầu tiên của quân dân ta từ ngày toàn quốc kháng chiến.
            Một hôm, hình như vào đầu năm 1948, chúng tôi thấy một sĩ quan quân đội cưỡi ngựa đến trường, có một vệ sĩ đi theo. Trông oai vệ lắm! ( Hồi ấy những sĩ quan quân đội cấp bậc tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, áo bốn túi, đeo súng ngắn, là niềm mơ ước của các cô gái xinh đẹp). Chúng tôi được giới thiệu đó là ông Đào Văn Trường (sau này được phong tướng). Ông đến nói chuyện với giáo viên, học sinh về chiến thắng thu đông 1947. Ông treo bản đồ lên bảng, chỉ vào bản đồ mà thuyết giảng về các trận đánh. Nội dung khá hấp dẫn, chúng tôi vỗ tay luôn luôn. Sau cuộc nói chuyện ít ngày, chúng tôi được biết, ông Trường đã chiếm luôn được trái tim cô Diễm Tuyết, hoa khôi của trường. Chúng tôi ngã ngửa người, nói đùa với nhau một cách cay đắng: “ Hôm trước chúng mình đã hăng hái vỗ tay một cách dại dột”.
Vào khoảng cuối năm 1948, giặc Pháp nhảy dù xuống Việt Trì. Chiến sự có thể lan rộng. Nhà trường quyết định sơ tán các lớp học vào rừng sâu. Nơi sơ tán gọi là Núi Sất, cách Đào Giã khoảng sáu, bảy cây số gì đó. Một vùng rừng núi rất âm u. Đêm nghe tiếng hổ gầm. Sáng dậy, thấy nhiều vết chân hổ ngay chung quanh các lán ở của học sinh. ở đây, có một kỷ niệm tôi không bao giờ quên là đã gặp hổ giữa rừng.
            Hôm ấy, tôi từ núi Sất đi về Đào Giã để lĩnh học bổng. Nhiều phòng ban của trường vẫn làm việc ở cơ sở cũ. Đường đi xuyên rừng phải qua chín con suối, gọi là đường “ chín suối” – cái tên thật dễ sợ. Tôi ngờ rằng đấy chỉ là chín khúc của một con suối chảy vòng vèo quanh đi quanh lại trong rừng. Khởi hành từ sáng nhưng khi trở về thì trời đã ngả về chiều. Đến quãng chỉ còn cách núi Sất khoảng ba cây số, cách hai con suối, tôi trông thấy một con hổ rất lớn đi ngang qua đường. Đúng là một Chúa Sơn lâm oai vệ, thân màu vàng, vằn đen sẫm. Nó đi chậm chạp, ung dung. Tôi sợ quá. Trong tay chỉ có một cái gậy ngắn để khua khoắng phòng khi gặp rắn rết gì đó. Cây cối bên đường thì toàn lau sậy và nứa. Không có cây lớn để leo lên. Đi tới thì sợ, đi lùi thì đường xa và rất có thể lại gặp một chú hổ khác! Thật là tiến thoái lưỡng nan. Nhưng số tôi hình như có quí nhân phù trợ nên đứng tần ngần một lúc bỗng thấy có một đoàn người dân tộc thiểu số đi tới. Tôi nói với họ là vừa thấy hổ đi qua. Họ dừng lại, trao đổi gì đó với nhau bằng tiếng dân tộc rồi quyết định quay trở lại. Hình như họ cho là có dấu hiệu động rừng. Tất nhiên, tôi đi theo họ.
            Vùng núi Sất bây giờ chắc khác hẳn rồi. Nhưng hồi ấy đúng là “ u tì quốc”. Dân ở đây không biết thuộc sắc tộc gì, hình như là Mán Cao Lan, đời sống rất nghèo khổ, lại bị bệnh sốt rét hoành hành, người xanh xao, gầy còm. Những cô gái mười bẩy, mười tám tuổi mà tưởng như cô bé con chỉ có da bọc xương. Đời sống quá cực khổ như thế, có lẽ con gái mất cả tuổi dạy thì.
            Ở núi Sất một thời gian thì trường giải tán. Nhiều bạn gia nhập quân đội. Tôi vì có tật ở chân từ nhỏ, đành phải tìm đường trở về nhà. Tôi đi cùng với hai bạn nữa, cùng về Thái Nguyên. Chúng tôi đi qua Đoan Hùng men theo sông Lô về phía Bình Ca, đáp phà sang Sơn Dương (Châu Tự do) rồi vượt qua đèo Khế về Thái Nguyên. Những vùng chúng tôi đi qua, dân chúng sơ tán hết, làng xóm vắng tanh. Tất nhiên chẳng có hàng quán nào cả suốt dọc đường. Qua Đoan Hùng thấy xác mấy cái tầu chiến Pháp bị bắn đắm còn nổi lập lờ trên sông Lô. Tôi nhớ, lúc ấy đói quá, chúng tôi vào những vườn bưởi: bưởi lúc lỉu trên cây, bưởi rụng đầy đất, những trái bưởi đặc sản nổi tiếng đất Đoan Hùng, Phú Thọ bầy ê hề ra trước mắt. Chúng tôi xà vào, ăn hết quả này đến quả khác, ăn chán rồi, mỗi thằng lại xâu mấy trái đeo vào ba lô làm lương ăn đường. Tất nhiên là chẳng thay cơm được nên vẫn đói, đói cồn cào ruột gan. Qua đèo Khế, thấy ở bên đường thỉnh thoảng có những vạt vườn bỏ hoang. Chắc là nơi ở cũ của đồng bào nào đấy bỏ đi đã lâu. Chúng tôi vào đó kiếm cái ăn. Chẳng có gì cả, chỉ có mấy cây mít, nhưng trái còn non lắm, gọi là dái mít. Mặc, cứ vặt cho vào miệng. Nhưng ăn vào ruột càng cồn cào hơn.
            Gần hai ngày đường, đi mãi đến tận chân đèo Khế thuộc địa phận Thái Nguyên mới thấy có người, có hàng quán. Tất nhiên, chúng tôi “đánh” một bữa ra trò và chưa bao giờ thấy ngon miệng đến thế.
            Tôi về đến nhà giữa lúc gia đình quẫn bách. Chị Tần tuy bị thương tật ở vai, vẫn phải xoay xoả nuôi cả gia đình. Chị Thuý dạy học, người ta trả lương bằng thóc, nhưng hết tháng cũng chẳng có, vì nhà nước nợ lương (!). Đời sống dân tản cư hồi này rất khó khăn. Có một gia đình người Hà Nội cũng tản cư lên chỗ chúng tôi (dốc Đình, Đại Từ), cũng mở một quán nước kiếm ăn lần hồi. Hai vợ chồng còn trẻ có một ông bố già. Không hiểu tình cảnh cùng quẫn thế nào mà ông cụ vào rừng thắt cổ chết.
           Không phải ngẫu nhiên mà khoảng những năm 1949, 1950, 1951 có một phong trào “dinh tê” trong đám dân tản cư. Chị cả tôi cũng “dinh tê” trong dịp này. Mẹ tôi cũng liều lần về Quảng Lãm xem có kiếm được ít thóc lúa nào không. Nhưng chẳng ăn thua gì.
            Cảnh nhà như thế, tôi là một thằng con trai đã lớn, chẳng lẽ cứ ngồi ăn bám gia đình ngày hai bữa, dù chỉ là cơm độn ngô, độn sắn! Mẹ tôi bàn với tôi xin đi dạy cấp một trong làng. Tôi cũng thấy xuôi xuôi. Nhưng giữa lúc ấy, có tin ở Lục Ba (Đại Từ) người ta mở trường cao đẳng mỹ thuật ( khoá Tô Ngọc Vân ). Tôi bèn tìm đến xin học. Từ lâu tôi rất thích vẽ và cũng có chút năng khiếu. Vả lại, thành hoạ sĩ hay không, lúc ấy, chưa quan trọng. Quan trọng là không phải ngày hai bữa ăn bám gia đình.
            Từ nhà tôi đến Lục Ba không xa. Hoạ sĩ Nguyễn Khang phụ trách thường trực. Xem chừng trường rất cần có người học nên ông hoạ sĩ thường trực thấy tôi thì mừng lắm. Ông động viên tôi: “ở đây ta có thể vào rừng lấy măng thêm vào bữa ăn”. ý nói tuy thiếu thốn nhưng vẫn có cách tự cải thiện. Nhưng tôi không trở lại nữa, vì nhiều người khuyên không nên học cái nghề vẽ vạch ấy làm gì. Thời buổi chiến tranh này, vẽ vạch thì sống thế nào, phù phiếm quá!
            Rất may là tôi có một ông cậu em họ mẹ tôi làm phó chủ tịch tỉnh. Ông xin cho tôi vào công tác ở một cơ quan của đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đóng ở Thịnh Đán, thuộc vùng ngoại ô thành phố Thái Nguyên.
            Hồi này đảng chưa ra công khai. Cơ quan tôi đến công tác gọi là “ Ban tài chính tỉnh đảng bộ Thái Nguyên”. Nghĩa là phụ trách cung cấp tài chính cho đảng như kinh phí hoạt động của các cơ quan đảng hay lương của cán bộ
đảng…vv…
            Theo chỗ tôi được biết thì các nguồn thu nhập tài chính của đảng gồm: tịch thu và phát mại hàng hoá buôn lậu từ vùng địch ra vùng kháng chiến, xây dựng một số xí nghiệp nhỏ để kinh doanh, chẳng hạn như làm giấy, chế tạo nông cụ… Tất nhiên là kỹ thuật hết sức thô sơ.
            Ở cơ quan đảng, lúc đầu tôi được giao phụ trách văn thư. Chả có việc gì, hết sức nhàn rỗi. Đây là nơi tập trung nhiều sách báo: sách chính trị, sách triết học Macxít, tạp chí văn nghệ, báo Nhân dân, Cứu quốc…vv… Tôi suốt ngày ngồi đọc, rất mê cuốn Triết học sơ giản của Polizer, cuốn Chính trị kinh tế học của Ségal, rồi sách của Staline, Jdanov, những tiểu luận phê bình của Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, tuỳ bút của Nguyễn Tuân…vv… trên tạp chí Văn nghệ…
            Thấy tôi rỗi việc, suốt ngày đọc sách, thủ trưởng cơ quan nảy ra một ý: nhờ tôi soạn bài nói chuyện với anh chị em cán bộ công nhân của các cơ sở đảng quanh vùng: Xuởng in, xưởng giấy, xưởng chế tạo nông cụ… Dựa vào sách báo đọc được, tôi nói về những vấn đề văn học nghệ thuật mà tôi cho là không đến nỗi khô khan, có thể mua vui cho anh em được. Tôi không nhớ hồi ấy đã ba hoa những gì đối với một đối tượng văn hoá thấp như anh chị em công nhân thời kháng chiến chống Pháp. Hình như tôi nói thiên về những thứ lý luận mới học được thì phải. Vậy mà cũng thấy được hoan nghênh, và tôi lúc ấy cũng tỏ ra tự đắc lắm. Té ra mình cũng có tài ăn nói đấy chứ! Bây giờ nghĩ lại mới thấy vô lý. Người ta vỗ tay hoan nghênh chắc là để lấy lòng mình mà thôi. ở cơ quan này, thỉnh thoảng cấp trên lại cử về một vài cán bộ lý luận huấn luyện cho anh em về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tôi cũng được tham gia. Tôi còn được học điều lệ Đảng cùng với các đảng viên. Nhưng khi chi bộ tuyên truyền tôi vào Đảng thì tôi từ chối. Lúc ấy tôi cho rằng vào Đảng thì mất tự do. Tôi công tác ở cơ quan này chỉ là tạm bợ, học hành dở dang, còn phải tiếp tục học nữa chứ. Vào Đảng để bị trói buộc hẳn ở đây à! Thời gian này (trước 1950), vào đảng rất dễ. Các chi bộ, đảng bộ thi đua phát triển đảng. Hồi ấy trong quan niệm của những người như tôi, đảng không cao giá, không thiêng liêng như mấy năm sau này. Có lẽ một phần vì đảng chưa ra công khai, người ta chưa biết vai trò độc quyền, độc tôn của tổ chức đảng, của người đảng viên trong mọi công việc lớn nhỏ của đất nước và chưa thấy rõ vào đảng thì được lợi những gì.
            Cơ quan đóng ở nhà dân. có dựng thêm nơi làm việc và bếp ăn. Cán bộ, nhân viên không có lương lậu gì cả. Ngoài hai bữa cơm tập thể, mỗi người chỉ được phát một ít tiền, không nhớ là bao nhiêu, chỉ biết đủ để cắt tóc và thỉnh thoảng ăn một tấm bánh, cái kẹo, hút vài điếu thuốc ở quán nước ngoài Thịnh Đán. Vì thế bà chị hai của tôi ở Dốc Đình vẫn phải gửi cho quần áo mặc. Và bà chị cả lúc ấy chưa “dinh tê”, ngày ngày bán hàng xén ở chợ thị xã, thỉnh thoảng lại tạt qua cơ quan, gọi ra, dúi cho một tấm bánh.
            Cán bộ cơ quan phần lớn rất trẻ nên sinh hoạt rất vui. Lâu rồi, không còn nhớ được chi tiết gì nữa. Loáng thoáng chỉ còn mường tượng vài gương mặt: anh Tấn có vẻ trí thức, nói chuyện hay liên hệ đến một vài nhân vật trong tiểu thuyết Pháp, anh Thái phổ biến kinh nghiệm ăn cơm sao cho tránh được sạn: chan nhiều nước rau vào, lấy đũa khuấy cho sạn lắng cả xuống đáy rồi hãy xúc cơm ăn. Cậu Nhân chuyên đánh máy chữ. Một anh không nhớ tên, người to lớn, gốc miền Nam, thường mặc quần áo bà ba đen, chuyên ngồi gác một kho xà phòng không biết tịch thu được ở đâu. Anh nói từng hoạt động thời cách mạng tháng Tám ở Quảng Ninh. ở đấy, người ta chặt đầu người như chặt củ chuối. Cô Phương, cậu Dật hay đùa vui với nhau. Mỗi lần Dật trêu ghẹo gì đó, cô Phương mắng: “chơi kiểu gì đấy?”, Dật trả lời “ Kiểu ban tài chính tỉnh đảng bộ Thái Nguyên”. Mọi chuyện chỉ còn nhớ mang máng thế thôi. Duy có ấn tượng không thể quên được là không khí hết sức ấm áp, thân mật giữa những người trẻ tuổi rất hồn nhiên và lạc quan.

           Trước sau thì cái chí của tôi vẫn là phải tiếp tục đi học. ở cơ quan Ban tài chính tỉnh đảng bộ Thái Nguyên được ít lâu, được tin người ta mở trường Sư phạm trung cấp trung ương ở Tuyên Quang, tôi liền xin phép cơ quan cho đi học.
            Cuộc đi Tuyên Quang lần này cũng không kém phần phiêu lưu. Vì thật ra chưa rõ tiêu chuẩn tuyển sinh thế nào và ngày khai giảng cũng lơ mơ. Nhưng cứ đi, đến đâu hay đó. Tôi không nhớ, trong hoàn cảnh nào mà lại gặp được một anh bạn cùng đi. Anh ta tên là Quang, con một gia đình có quen biết với gia đình tôi hồi còn ở phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Cũng chả thân thiết gì lắm.
            Nhưng hồi chiến tranh là thế, quen ít cũng thành quen nhiều, sơ giao cũng thành thâm giao. Quang cũng đang học hành dở dang và rất hăng hái học tiếp. Anh ta là một đầu óc còn phiêu lưu và lãng mạn hơn tôi nữa kia.
            Đến Tuyên Quang chúng tôi mới biết phải còn một tháng nữa trường mới gọi học sinh nhập học. Một tháng nữa, sống thế nào đây? Rất may, Quang là một tay tháo vát và có phần liều lĩnh. Anh ta gạ gẫm thế nào mà một gia đình ở ngay thị xã nhận cho chúng tôi ở nhờ, nhân tiện kèm cặp một cô con gái đang học cấp II và một cậu con trai đang học lớp một, trả công: Cơm nuôi ngày hai bữa. Tôi còn nhớ gia đình này gọi là gia đình bà Nhuần (có lẽ gọi theo tên cô con gái của
bà).
            Ở thị xã Tuyên Quang ít ngày thì mùa lụt đến. Thị xã Tuyên Quang ở ngay bờ sông Lô, hình như năm nào cũng bị lụt. Tôi thấy người ta ào ào chạy đi nhổ rau trồng ở bãi sông quăng lên đường phố bán chạy một cách rẻ mạt. Quang cảnh những ngày lụt ở Tuyên Quang thật là náo nhiệt. Chúng tôi thì tha hồ được “ cải thiện” bằng món rau luộc rẻ tiền.
            Ngày nhập học đã đến. Chúng tôi lên đường tìm đến trường. Trường đặt ở một khu lán trại của bọn hàng binh Âu Phi vừa rút, gồm mấy dẫy nhà lá, vách đất nhồi rơm ( torchis), một hội trường lớn, một căn nhà sàn mượn của dân dành cho nữ sinh, một sân vận động. Địa điểm trường thuộc thôn Cảm Nhân, xã Mỹ Gia, huyện Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang. Cách trường độ sáu bảy cây số có một thị trấn nhỏ gọi là Chợ Ngọc kề bên bờ sông Chảy. ở đây có chợ búa và nhiều hàng quán, đặc biệt, tôi nhớ có món phở chua. Gần hơn, cách trường chỉ độ hơn cây số là phố Cảm Nhân, thuộc xã Mỹ Gia, cũng có vài hàng phở, quán nước. Ngoài ra là rừng, và rải rác gần xa, có những làng bản người Tày, dân cư thưa thớt, sống trên những ngôi nhà sàn nằm giữa những vườn mơ, vườn mận… ( Ngày nay tất cả đều bị đánh chìm xuống lòng hồ thuỷ điện Thác Bà). Giáo viên của trường hầu hết đều từ trường Trung học kháng chiến Đào Giã chuyển tới, nên có thể coi trường chuyên khoa Đào Giã Phú Thọ là tiền thân của trường Sư phạm trung cấp trung ương Tuyên Quang. Tuy nhiên không thấy có thầy Trần Văn Giáp và “ ba” Khang. Người mới thì có thầy Nguyễn Lương Ngọc, thầy Văn Tân, Vũ Trương Dự, Lê Bá Thảo, Nguyễn Đăng Thiệp… Hiệu trưởng là thầy Nguyễn Văn Chiển, hiệu phó là thầy Nguyễn Lương Ngọc. Từ ngày học cấp hai trường tư thục Gia Long sơ tán về thị xã Thái Bình, nay tôi mới được gặp lại thầy Ngọc. Thầy vẫn rất hiền. Thầy nhận tôi vào lớp 9, vì tôi đã học năm thứ hai trường trung học chuyên khoa .( hồi ấy lớp 9 là lớp cuối cấp của bậc phổ thông trung học.) Còn Quang thì bị loại. Nhưng anh ta cứ nhất quyết bám lấy trường với hi vọng vu vơ là rồi sẽ xin được vào học. Anh ta tìm đến một nhà dân ở gần trường xin làm gia sư để tá túc một thời gian, mãi đến khi hoàn toàn hết hi vọng mới bỏ đi. Đúng là một đầu óc phiêu lưu và lãng mạn.
            Thời gian học ở trường sư phạm trung cấp trung ương, nói về sinh hoạt vật chất, là những ngày cực khổ nhất của đời tôi. Tôi chỉ nói về sinh hoạt vật chất thôi, vì về tinh thần vẫn rất vui. Đây là thời kỳ đùa tếu, nghịch ngợm nhất của tôi. Thời kỳ làm báo, vẽ tranh, diễn kịch vui, phát biểu những câu ngang ngược trong những cuộc họp ( đại khái như đề nghị cho ăn thịt trâu già để trâu non sản xuất, hoặc ăn thịt chó theo quan điểm Mác Lênin…), thời kỳ phá nội quy, trốn ra các hàng quán ăn quà rồi gán luôn áo mặc trên người hay bút máy… Hồi ấy những vật phẩm công nghệ dưới xuôi rất được đồng bào miền núi ưa thích, như bút máy, bật lửa…vv… Tôi có người anh đi bộ đội gửi cho một cái áo chiến lợi phẩm của lính Marốc ( gọi là lính tabor ) rộng thùng thình. Lâu ngày không được ăn uống tử tế, tôi bèn rủ một thằng bạn ra quán đánh một bữa no say rồi cởi áo gán luôn.
            Vui thì có vui, nhưng khổ thì thật khổ. Quần áo có vài bộ, mặc mãi cũng rách, bèn lấy chỉ buộc túm, hoặc lấy hồ dán những chỗ thủng. Mùa rét, chỉ có một chiếc áo trấn thủ bằng vải nâu và một tấm chăn chiên mỏng. Giường thì lấy lá chuối khô làm nệm, đốt củi lấy than cời bên dưới. Giầy dép không có, guốc cũng không, phải lấy gỗ củi đẽo làm guốc. Có anh mùa rét không có áo ấm, cứ      ngang nhiên khoác chăn ngồi trong lớp học. ăn uống thì thường là cơm độn sắn lại ăn với canh sắn… Hàng tuần được một bữa ăn tươi, mỗi người được phát một tảng thịt trâu luộc, ai muốn đẽo, muốn thái thế nào, tuỳ. Để cải thiện thêm, người thì đi đào măng trong rừng, người thì kiếm rau tàu bay về nấu với muối trong ống bơ hay ca nhôm. Thèm ăn quá mà không có tiền, chúng tôi thường đem suất dầu ( dầu chẩu thắp đèn) nhà trường phát ra phố bán lấy tiền đổi lấy tấm bánh, bát phở hay nắm xôi của bủ So ( một bà mẹ người dân tộc thường đem đến bán cho học sinh những gói xôi sắn.) Có người mò ra nhà đồng bào dân tộc gạ gẫm bữa cơm, bữa xôi. Tình cảnh hết sức nhếch nhác, bệ rạc. Cố nhiên không phải ai cũng vậy. Có những học sinh nhận được tiếp tế của gia đình từ vùng xuôi, vùng tề gửi ra. Thường là nữ sinh. Họ vẫn ăn mặc sạch sẽ, giày dép đàng hoàng và vẫn có đồng ra đồng vào. Các cô còn có cả vàng nữa kia. Do xẩy ra một vụ mất cắp trên đường di chuyển của trường mà mọi người biết được. Hồi ấy loại người như chúng tôi không bao giờ dám mơ ước đến họ và nghĩ bụng, chắc họ coi mình như rác. Những cô gái xinh đẹp, lại phong lưu thường rất kiêu ngạo…
Sinh hoạt như thế lại ở nơi rừng núi, nên chúng tôi hầu hết không tránh khỏi sốt rét. Những cơn sốt rung cả giường chiếu mà chẳng có ai săn sóc, chẳng có gì bồi dưỡng. Thường chỉ tự cải thiện bằng bát canh rau rừng nấu với muối cho đỡ háo. Thuốc men thì sốt nhẹ được uống mấy viên quinacrine màu vàng,    sốt nặng thì được tiêm nửa ống quinoforme. Thày Nguyễn Lương Ngọc thường đích thân xuống tiêm cho chúng tôi. Tiêm tĩnh mạch gọi là tiêm ven (veine). Thuốc không sẵn nên một ống thuốc phải chia làm đôi tiêm cho hai người. Nhiều khi mạch chìm quá, thày chọc kim vào rồi mà mò mãi không thấy ven. Những lúc ấy chắc thày thương chúng tôi lắm, và chúng tôi cũng rất thương thày.
            Thầy Ngọc thật hiền. Nội qui của trường cấm không cho học sinh ra khỏi khu vực trường mà không xin phép. Danh giới khu vực trường là một con suối, vượt qua con suối ấy là ra phố Cảm Nhân. Có lần tôi và vài thằng bạn lần ra chơi ở Cảm Nhân, ăn quà xong, sẵn giường chiếu ở quán hàng, bèn làm một giấc. Khi tỉnh dậy thấy thầy Ngọc ngồi ngay bên cạnh. Chà! Mấy thằng vừa sợ vừa xấu hổ. Nhưng thầy Ngọc không hề mắng mỏ gì, chỉ khuyên bảo nhẹ nhàng mấy câu rồi lẳng lặng quay về trường.
            Thầy Ngọc tính điềm đạm, ít nói, vẻ trầm lặng. Bây giờ tôi không còn nhớ rõ thày đã dạy chúng tôi những gì trong giờ văn. Hình như thày có nói về Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông thì phải. Hồi ấy những bài như Tây tiến của Quang Dũng, Màu tím hoa sim của Hữu Loan đã bị phê phán là “mộng rớt”, “buồn rớt”, Đường vui của Nguyễn Tuân thì bị quy là vẫn thể hiện cái máu giang hồ xê dịch, chưa thoát khỏi chủ nghĩa duy mỹ và thói “ ngắm rớt”, “nhắm rớt”. Còn thơ chính trị, thơ viết về công nông binh cuả Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Tố Hữu…vv, chắc thầy chưa thưởng thức được. Trong tâm hồn của thầy, tôi đồ rằng vẫn sinh sống những áng văn chương cũ. Tôi đoán thế, vì năm ấy, ở lại trường ăn Tết âm lịch với chúng tôi, thầy tập hợp chúng tôi lại, kể cho nghe về tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất ( à la recherche du temps perdu) của Marcel Proust. Và có lúc tôi nghe thầy ngâm khe khẽ những vần thơ rất buồn của Vũ Hoàng Chương:
Gió lùa gian gác xép
Đời tàn trong ngõ hẹp…
(…) ôi lòng ta sao buồn không nguôi?
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi…
            Ở Sư phạm trung cấp trung ương hồi ấy, chúng tôi còn được gặp ông Hoài Thanh. Hình như ông công tác ở một cơ quan nào đó thuộc Bộ văn hoá thì phải. Cơ quan này cũng đóng ở thôn Cảm Nhân, Mỹ Gia. Vì tôi thấy loáng thoáng ở đấy có các ông Phan Khôi, Thế Lữ, và một số trí thức khác. Thế Lữ có lần tập cho học sinh sư phạm diễn vở kịch Đề Thám xuất quân và vở “Bõ già” của ông.
            Hoài Thanh ở một ngôi nhà tranh gần khu trường Sư phạm quay lưng ra một con suối nhỏ. Lúc ấy, các anh Nguyễn Đức Dũng (Từ Sơn), Nguyễn Đức Hân (Phan Hồng Giang) còn nhỏ, tôi thấy các cậu thường đùa nghịch bên bờ suối hoặc leo trèo cây cối quanh nhà. Có lần ông Hoài Thanh đến trường nói chuyện với chúng tôi về thơ ca kháng chiến, có bà Phan Thị Nga là vợ ngồi bên. Ông nói nhỏ nhẹ nhưng say sưa. Bà Nga ngồi cạnh, thỉnh thoảng lại giục chúng tôi: “Ghi đi chứ!”, “Ghi đi chứ!”
Học sinh chúng tôi thỉnh thoảng tổ chức liên hoan văn nghệ, chủ yếu là ca hát, hoặc làm trong hội trường, hoặc đốt lửa trại diễn ngoài sân vận động.Tôi nhớ có đóng góp một vở kịch rất tếu, tất nhiên là kịch cương. Kịch tuyên truyền bình dân học vụ. Hồi ấy, để động viên đồng bào đi học chữ quốc ngữ, ngày phiên người ta thường ngăn người lại ở cổng chợ. Ai đọc được chữ thì cho vào cổng chính, ai không đọc được thì phải chui qua một cái lỗ nhỏ và thấp gọi là “cổng mù”. Ca dao kháng chiến thì có những câu rất vui, đại thể như:
Em về anh chẳng cho về
Anh níu vạt áo anh đề câu thơ
Vì anh mới học i tờ…
            Tôi bèn nghĩ ra một vở kịch cũng để phục vụ bình dân học vụ và đã huy động được cả lớp diễn tập thể trong một đêm liên hoan ngoài trời. ấy là vở Sơn Tinh, Thuỷ Tinh. Vua Hùng có một con gái mà có hai thần đến xin làm rể. Cả hai đều tài giỏi, biết chọn ai? Vua Hùng bèn cho hai thần đấu võ với nhau. Lớp chia làm hai phe, mỗi phe làm quân của một thần. Hai thần dùng đến cả những ngón chẳng “anh hùng” tí nào, như cắn nhau, cù nách nhau. (tếu thế cho vui) Nhưng rút cục vẫn bất phân thắng bại.
            Vua đành cho hai thần tạm nghỉ. Ngài mời hai thần ngồi ghế, uống nước, đọc báo. Sơn Tinh đọc báo làu làu, còn Thuỷ Tinh thì cầm báo ngược, té ra là mù chữ. Vua Hùng quyết định gả Mị Nương cho Sơn Tinh và khuyên Thuỷ Tinh trở về cố học bình dân học vụ để thoát nạn mù chữ.
Trong trường Sư phạm trung cấp, lớp 9 chúng tôi được coi là lớp đàn anh, vẻn vẹn chỉ có khoảng mười lăm người. Mấy năm gần đây, những bạn cùng lớp ở quanh Hà Nội thường tổ chức họp mặt luôn: nữ có Diệu Vân, Phạm Thị Tỉnh, Ngọc Dung, Phượng, Hồng (phần lớn đã goá chồng ), nam có Lê Năng An, Mai Bình, Thuần, Tiệp, Lê Mạnh Giao và tôi. Tất cả đều đã trên 70 tuổi. Có người lưng còng gập hẳn xuống, trông rất tội. Những bạn ở xa không có dịp gặp lại nhưng vẫn nhớ: Phú, người nhỏ nhắn, Nhạ, trông như một anh lính nông dân, thường đeo ở thắt lưng chiếc bát ăn cơm bằng gáo dừa; Huy Giao rất giỏi nhạc, em nhạc sĩ Huy Du; Nguyễn Bản một anh chàng có vẻ thích sống khép kín. Bản sau này viết văn: có tài, chịu học, có cá tính, lời văn tinh tế, mượt mà. Truyện ngắn của anh thiên về cảm hứng lãng mạn, thường gợi lại kỷ niệm về những mối tình thơ mộng thời học sinh, sinh viên. Vừa rồi anh cho in tập truyện ngắn Nợ trần gian. Nhà xuất bản nhờ tôi viết lời tựa; Thuỷ Hà, nam mà như nữ, từ tính cách, giọng nói đến cả tên gọi đều rất nữ tính. Kết thúc năm lớp 9 ở chợ Ngọc, Hà “dinh tê” vào Hà Nội rồi vào Nam. Anh sang Pháp học cử nhân toán rồi trở về Sài gòn dạy học. Sau 1975 anh ở lại Sài gòn, một thời gian có hoạt động kinh doanh gì đó. Năm ngoái, anh có ra Hà Nội tìm gặp một số bạn cũ, tình cảm quyến luyến lắm. Già rồi, nhưng tính cách vẫn thế: ăn nói nhỏ nhẹ, bẽn lẽn như con gái. Tôi nhớ ngày xưa, các bạn thường gọi đùa là “Chị Hà”. Thịnh (nữ) lớn tuổi nhất lớp, vợ ông Văn Tân, nhà sử học. Thịnh (nam) trắng trẻo, hiền lành, quá thật thà, hầu như không biết đùa. Không hiểu sao hồi ấy chúng tôi lại gọi là “Thịnh nhà giàu”. Tô Thanh Thúc và Tô Thanh Tùng là hai anh em ruột cùng học một lớp. Thúc tính hiền lành nhưng hơi lẩm cẩm. Anh tự phong là thầy lang và rất nhiệt tình “ bốc” cho chúng tôi những thang thuốc bằng toàn những thứ hoa quả, lá lẩu có thể hái lượm được ở quanh trường, như chanh, ớt, mơ, mận, rau thơm…vv… Anh nói mỗi thứ có chứa một lượng vitamin khác nhau. Tuỳ theo thể trạng của mỗi người, anh “bốc” cho những “vị”khác nhau, nghĩa là “hành nghề” nghiêm chỉnh hệt như một thầy lang chính hiệu vậy. Đúng là một tay có máu gàn. Tùng thì khác, lanh lẹn, thông minh, làm gì cũng hăng hái, sôi nổi… Tùng rất tài hoa, chơi guitare khá lắm. Tôi thường gạ Tùng đánh cho nghe bài “Phiên chợ Ba Tư”…
            Đầu năm 1950, trường sư phạm trung cấp trung ương được lệnh chuyển sang khu học xá Việt Nam ở Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc). Trường di chuyển qua nhiều trạm. Trạm thứ nhất ở một vùng nông thôn cũng thuộc huyện Yên Bình, gần phía thị xã Yên Bái. Chúng tôi ở đây một thời gian khá lâu rồi mới chuyển đi Lạng Sơn. Chúng tôi dừng lại ít lâu ở một địa điểm thuộc huyện Bắc Sơn, kề bên một hang đá lớn, phòng khi có máy bay địch thì chạy vào ẩn. Đây là trạm dừng chân cuối cùng của chúng tôi trước khi vượt biên giới. Từ đây, chúng tôi được phiên chế theo tổ chức quân đội, chuẩn bị một cuộc hành quân sang Trung Quốc. Tôi được phong làm đại đội phó. Sáng sáng cũng đứng nghiêm báo cáo quân số. Tiểu đội báo cáo trung đội. Trung đội báo cáo đại đội. Một trung đội trưởng là Đoàn Trọng Huy, hàng ngày phải đứng
nghiêm, chào theo lối quân sự và báo cáo tôi. Chỉnh đốn xong hàng ngũ, tôi phát biểu một số nhận xét trước “hàng quân”, như một chính trị viên. Thường nhận xét lăng nhăng về tình hình tư tưởng của đại đội được phản ánh qua báo tường. Tôi nhớ trong đại đội có Tô Linh, con ông Tô Dĩ (Lê Giản) vẽ giỏi, được giao minh hoạ bích báo.
            Nghỉ lại một thời gian ở Bắc Sơn, chúng tôi lên đường đi Trung Quốc. Chúng tôi hành quân bộ tới Đồng Đăng, từ Đồng Đăng qua Mục Nam quan sang thị trấn ải Khẩu, từ ải Khẩu đến Bằng Tường. Từ Bằng Tường thì được đi ô tô tới Nam Ninh.
            Cuộc hành quân bộ của chúng tôi phải nói là rất nhếch nhác. Có người đi đất, guốc dép không có. Sợ máy bay nên đi đêm. Mỗi người xách một cái đèn dầu, đặt trong một ống bương có khoét mấy cái khe cho ánh sáng lọt ra một cách hạn chế.
            Từ Bằng Tường tới Nam Ninh, xe ô tô phải đi mất hai ngày. Ngày thứ nhất dừng lại nghỉ ở một địa điểm gọi là Minh Ninh. ở đây chúng tôi được chiêu đãi một bữa tiểu táo hay đặc táo gì đó. Đã lâu không được một bữa như thế, nhiều anh không tiêu hóa được, đứng sắp hàng nối đuôi nhau trước nhà vệ sinh (vẫn có Giải phóng quân đứng gác để bảo vệ).
            Khu học xá Nam Ninh đóng tại một vùng nông thôn gọi là Tâm Khư thuộc tỉnh Quảng Tây, cách thành phố Nam Ninh mấy cây số. Đây chỉ là địa điểm tạm thời. Ngoài một số nhà gạch, chắc mượn của địa phương dùng làm hiệu bộ và nhà ở cho giáo viên và nữ sinh, còn thì là những
nhà lợp lá, cột kèo bằng cây que còn để nguyên cả vỏ buộc vào nhau bằng những nút lạt, dùng làm lớp học và nơi ở của học sinh nam.
           
            Việc ăn uống thì có cấp dưỡng người Trung Quốc lo. Đến bữa, họ gánh cơm canh đến, ăn xong lại dọn đi. Buổi sáng thì ăn bánh bao. Quần áo, trang phục thì mỗi người được phát một bộ quần áo bông, một mũ bông có lưỡi trai, một đôi giày vải, một chăn bông, tất cả đều màu xanh công nhân. Anh nào chị nấy xúng xa xúng xính, lấy làm sung sướng lắm. Đang trong thời chiến tranh, hoàn cảnh vô cùng cực khổ, thiếu thốn, bỗng được sống trong hoà bình, được phục vụ như thế, được cấp phát như thế, thì đúng là một sự hậu đãi quá sức tưởng tượng. Ai nấy đều xúc động biết ơn Bác Mao vô cùng. Tâm Khư cũng có một thị trấn nhỏ gồm nhiều cửa hàng tạp hoá, hàng ăn. ở Tâm Khư, một lần nữa tôi lại thấy một bằng chứng về sự ở bẩn của người Tầu. Nhà ở của dân thường là nhà gạch, nhưng rất thấp và tối tăm. Lợn nuôi ở trong nhà dường như ở chung với người, vì thấy các chú lợn cứ đi ra đi vào rất tự do thoải mái. Lợn thả rông, phóng uế bừa bãi ra sân, ra đường, ra bờ ao. Người cũng bắc cầu phóng uế xuống ao. Nhưng nước ăn, nước uống đều lấy ở đấy cả. Tất nhiên tắm rửa cũng ở đấy.
            Tâm Khư chỉ cách thành phố Nam Ninh độ mươi cây số, vậy mà sao người dân quá lạc hậu. Họ gầy guộc đen đủi, thường mặc quần áo đen. Ra ngoài mỗi người thường trang bị một cái cặp bằng tre để gắp phân. Buổi tối thỉnh thoảng nghe thấy họ hát. Tiếng hát tựa như tiếng hú, nghe vừa thê thảm vừa hoang dã. ở đây người chết người ta cho vào quan tài đặt nổi trên mặt đất. Ngày giỗ, ngày kỵ thì bày cỗ ăn uống ngay chung quanh quan tài… Tôi ở Tâm Khư vào đúng dịp cải cách ruộng đất. Địa chủ, phú nông, những phần tử bị quy là phản động, tất cả đều phải mặc quần đỏ và bị cưỡng bức lao động cải tạo. Những người chắc là tội nặng thì bị trói díu vào nhau phơi ngoài trời suốt ngày suốt đêm.
            Ở khu học xá vào những ngày lễ Tết hay kỷ niệm cách mạng, chúng tôi thường được một bữa ăn tươi, thịt cá ê hề. Thỉnh thoảng lại được ra thành phố Nam Ninh xem chiếu bóng. Chúng tôi sắp hàng đi bộ, có giải phóng quân đi kèm. Thường là phim đề tài cách mạng của Trung Quốc, Liên Xô, như “Cờ hồng trên núi Thuý”, “Công phá Bá Linh”…
            Ở khu học xá Nam Ninh, người lãnh đạo cao nhất là Võ Thuần Nho (em Võ Nguyên Giáp). Thời ấy con người ta dễ phát sinh tâm lý sùng bái cá nhân, một thứ tâm lý bầy đàn rất thích có một thủ lĩnh để tôn thờ. Vì thế Võ Thuần Nho một thời được tôn vinh như một lãnh tụ, một cụ Hồ của khu học xá. Thời ấy một người cũng gây được ấn tượng đậm nét là anh Việt Phương. Thông minh, hoạt bát, nói rất giỏi. Anh thường nói chuyện về lý tưởng thanh niên và được hoan nghênh đặc biệt. Không phải ngẫu nhiên mà có nhiều nữ sinh mê anh. Có cô đã chủ động tỏ tình với anh. Trong số người mê Việt Phương có cả một cán bộ nữ người Trung Quốc.
            Hồi ấy ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, chuyện quan hệ luyến ái nam nữ, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân trong cán bộ, học sinh bị coi là trọng tội, nên ở Tâm Khư, riêng nữ sinh được ở trong một ngôi nhà gạch kiên cố, hai bên cửa ra vào có hai giải phóng quân đứng gác nghiêm chỉnh.
            Nhưng chuyện ấy vẫn xẩy ra. Đời sống đầy đủ, con người béo tốt hồng hào hơn, thì nhu cầu “ấy” càng cao hơn, có khi càng cấm càng gây bức xúc. Cho nên có bà vợ giáo sư nọ, ở tuổi hồi xuân, thông dâm với một anh y tá, có cô gái xinh đẹp nọ mắc bệnh tâm thần nặng, thế mà khi bị một thằng cha liều lĩnh hãm hiếp đã khỏi hẳn bệnh (cả hai đều bị đuổi về nước)…vv…
            Ở khu học xá, tôi và một số bạn học cùng lớp được đề bạt lên làm giáo viên (gọi là giáo sinh) dạy sư phạm sơ cấp. Vì học hết lớp 9 thì coi như đã học xong trung học phổ thông hay sư phạm trung cấp rồi. Học sinh nói chung lớn hơn thầy vì phần nhiều là cán bộ đi học. Chả có sách giáo khoa gì cả. Bài văn giảng lấy luôn trên báo chí một cách rất tuỳ tiện. Bài giảng được soạn tập thể. Cùng nhóm soạn bài với tôi có Đức Minh làm nhóm trưởng (sau này làm viện trưởng Viện khoa học giáo dục), có Lê Năng An, Phạm Thị Tỉnh, Diệu Vân và bà Phan Thị Nga  vợ ông Hoài Thanh…

1      2      3      4           6      7      8      Kỳ Cuối

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét