… Một buổi sáng chúng tôi đang vui cơm nước bỗng có tiếng máy bay tới. Tôi có cảm giác là máy bay sẽ bỏ bom xuống đầu mình. Thì quả thật vậy. Ba chiếc phản lực kiểu gì không rõ rà xuống thật thấp, cánh to bè ra như những tấm phản đen ngòm, ném một lúc năm, sáu quả bom.
Rồi một đợt khác nữa tiếp tục. Tôi và Năm Cà Dom chỉ ngồi nép vào gốc cây chờ dứt trận bom. Chúng tôi vừa hé mắt nhìn ra thì lại nghe máy bay tới, ù… ù… tiếng động cơ quen thuộc của một chiếc L19. Rồi tiếng người cất lên từ trên máy bay nghe oang oang. Có lẽ tiếng người khi phát ra bị tốc lực của phi cơ làm cho méo mó đi cho nên ở dưới này nghe không rõ là người đó nói cái gì.
Mặc dù không biết trên đó người ta nói cái gì nhưng tâm linh tôi nghe buốt lạnh. Tôi ngước cổ nhìn lên.
Chiếc L19 lắc lư như con diều giấy chao nhẹ trong gió và những tiếng nói như những tràng đá sỏi rơi xuống đầu tôi.
“Hỡi anh em cán binh cộng sản. Các anh chịu đựng đóí khát để làm gì. Miền Nam không cần cộng sản giải phóng. Các anh hãy tìm về với chánh nghĩa quốc gia để khỏi phí xương máu!”
Chao ôi ! Tôi bỗng thấy cả người mọc ốc lên sần sượng. Cái giọng nói của ai nghe chừng quen quen.
Tiếng nói kia lại tiếp tục rắc xuống đầu lũ người ở dưới này.
“Tôi là thủ kho bị các anh xử tử đây. Các anh đã hành động mù quáng vì quá đói khát. Thử hỏi các anh luôn luôn húp cháo loãng, uống nước suối vì đâu. Kho gạo sẵn đó nhưng tôi không được lệnh phát cho các anh. Cấp lãnh đạo để dành số gạo dự trử để mở chiến dịch ở xứ Lào. Vì gạo đó là gạo nếp lấy ở Lào.”
Tôi bàng hoàng tưởng như mình đang sống một cảnh không thực, nhưng đây là sự thực giữa ban ngày. Cái giọng nói ấy chính là cái “giọng gào thét” dưới mái nhà bừng bừng khói lửa và giữa cơn giận sôi lên của hàng trăm người.
Trói anh thủ kho vào cột để thiêu sống anh ta. Có lẽ vì thế mà xảy ra việc này.
Chiếc máy bay lấp loáng ánh bạc cứ bay lượn. Anh thủ kho đang ngồi trên chiếc máy bay đó. Có lẽ anh ta dòm xuống thấy đám ma đói này lúc nhúc nấu cơm khói lên xanh um từng cụm. Có lẽ anh ta muốn khạc cho vài phát đạn lửa để trả thù, nhưng anh ta lại thấy thương lũ ma đói này chăng.
“Chiêu hồi hoặc tử thần! Hãy hồi chánh ngay! Chiêu hồi hoặc tử thần!”
Tôi càng rùng mình khi nghe tiếng gọi sắc gọn như một nhát dao chém vào tâm tư tôi. Tôi nói với Năm Cà Dom đang đứng bên cạnh cũng nghểnh cổ lên nhìn máy bay:
- Này, cậu có nghe rõ không ?
- Có điếc mới không nghe.
- Có đúng thằng giữ kho không ?
- Chớ còn ai vô về đó. Nó tự giới thiệu rõ ràng mà.
- Nhưng tại sao nó làm thế nhỉ ?
- Giết nó thì nó phải tìm đường sống chớ sao !
Năm Cà Dom nhìn tôi và liếc sang ông Chín. Ông Chín ra miệng ngay:
- Này các chú đứng nép vô !
Tôi nhìn mãi mà không thấy ông Chín đứng ở đâu. Chỉ nghe tiếng nói ông phát ra từ một bụi cây thì biết là ông ta đang đứng trong đó. Khi máy bay phát hiện ra địa điểm đóng quân và tuyên truyền bằng loa phóng thanh như vậy thì phải dời đi. Đi đâu bây giờ ? Toàn vùng này chỗ nào thằng thủ kho không biết ? Tuy vậy cũng phải dời cho sớm.
Chúng tôi thấy chiếc máy bay vừa biến dạng thì có một đoàn máy bay phóng pháo tới. Không đánh chúng tôi mà ném bom và bắn đạn lửa xuống kho gạo. Lửa bốc lên mù mịt đen kịt một khu rừng. Gạo ở đó còn nhiều quá. Có những bao nếp. Đứa nào cũng định để đó, chừng nào hết gạo thì vô đó xúc bươi tìm cả nếp ăn chơi, chẳng ngờ nó tới ném bom hủy diệt ngay. Thế là hỏng hết rồi. Mạt kiếp lại hoàn mạt kiếp. Của phi nghĩa quả không lâu bền.
Chúng tôi lại đi, nhưng không đến đâu cả, cứ lẩn lút trong rừng và lúc nào cũng nơm nớp sợ máy bay theo ném bom. Tiếng máy bay đối với chúng tôi là tử thần. Cái tiếng gọi của anh thủ kho ban đầu nghe tưởng như nước đổ lá môn, nhưng sự thực thì tác động quá mạnh. Cứ nằm im lại nghe thấy nó vang lên trong tâm não mình. Lại nghe nó nhói lên như một mũi dao dưới võng mình nằm. Chiêu hồi hoặc tử thần. Chỉ có mấy tiếng, nhưng là một loạt súng bắn thẳng vào tường lũy vốn đã lung lay của chúng tôi.
Chúng tôi treo võng bên bờ suối. Thói thường giao liên không cho ai ăn ở như vậy vì sợ máy bay phát hiện. Nhưng vì ở phía trên không có chỗ tốt, vả lại nếu đóng ở trên thì phải đi lên đi xuống múc nước mệt cái thân ốm o gầy mòn, mà sức khỏe lúc này thì có thể tính bằng từng ly một. Đâu có dám xa xí nó như mọi lần. Ngay cả tiếng cười tiếng nói cũng làm cho chúng tôi nhọc xác.
Tôi và Năm đều im lặng, vì bên cạnh chúng tôi cũng có hai người ở một đoàn khác đang kể chuyện quê hương.
Mới biết là những người đi trên con đường quái gở này đều mang một tâm tư nặng nề về quê hương. Quê hương, quê hương ! Đầu đội vai mang, thấm sâu trong máu.
Một người nói, giọng hơi ồ ề nhưng rất ấm áp:
- Nhà mình ở gần đình làng. Ông nội mình làm Hương Cả trong làng cho nên mỗi lần có hát Kỳ Yên trong làng thì mình được ngồi ghế thượng hạng xem hát bội. Vì thế tuồng tích nào mình cũng thuộc. Mãi cho tới bây giờ vẫn còn nhớ. Nào Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu Thành, nào Phàn Lê Huê phá Hồng Thủy trận v.v. . . Chao ôi ! Hồi đó, mình còn con nít mà thấy Phàn Lê Huê ra tuồng mình biết mê. Cái miệng nhỏ xíu, cái càm núng có duyên hết sức.
Anh bạn kia cười.
- Đồ con nít quỉ he!
- Thiệt mà! Nhiều cậu thanh niên mê mệt vì Phàn Lê Huê, đêm nào cũng đi xem cho đến vãn hát mới thôi.
- Có cậu nào bỏ nhà đi theo không ?
- Cái sự bỏ nhà có xảy ra nhưng lần đó là một gánh hát Thổ tới hát ba đêm…
Tôi không ngờ một trong hai người đó là bạn đồng hương quê ngoại của tôi. Tôi tìm đến anh.
Những kỷ niệm ấy rất vô tư nó không đượm một thứ màu sắc chính trị lem nhem nào cả, nó không thiên vị ai cả, mà nó rất con người.
Tôi hối tiếc vì tôi đã đi xa quê hương tôi để không có ngày trở lại. Bài học khôn của tôi rút được trên con đường đi kỳ này: “Dù quê hương mình có thế nào đi nữa cũng không nên xa rời nó. Từ nay tới chết tôi sẽ không đi khỏi xứ Nam Kỳ! ” Lạy Chúa, con là dân Nam Kỳ, xin Chúa hãy ban cho con cái ân huệ nhỏ bé nhất là cho con được trở về sống trên xứ sở của con. Không phải xứ của con đẹp hơn tất cả giang sơn khác nhưng đối với con, nó là tất cả, nó đẹp hơn tất cả.
Tôi còn mong gì hơn ? Tôi muốn về, về tới ngay. Cứ mỗi một ngày qua, tình cảm giữa tôi và anh bạn đồng hương càng phong phú và thắm thiết, đôi khi bằng một mẩu chuyện vui, nhiều lúc chỉ vài câu đơn sơ để xác định một tên người, một địa danh… nhưng bao giờ cũng gây thêm mối thông cảm giữa hai đứa và cả hai đều cảm thấy quê hương gần lại mình hơn.
Bỗng chiều hôm đó, tôi nhận thấy anh bạn tôi không còn hào hứng trong câu chuyện đồ lại những chuyện quê hương. Tại sao anh ta lại mất hứng ngang như vậy. Tôi cố động viên tình cảm anh ta, nhưng không có kết quả.
Anh ta nằm dàu dàu, tay gác lên trán, thở dài từng chập tỏ vẻ chán ngán cực độ…
Tôi buông một câu thăm dò:
- Nếu mình cứ đi bình thường thì đúng sáu mươi ngày nữa có lẽ chúng mình tới đất Nam Kỳ.
- Ông bạn thì tới, còn chúng tôi thì chẳng bao giờ !
- Ô kìa ! Tại sao bi quan vậy nhà quân sự ?
- Tôi đang nghe phong thanh là bộ tư lệnh khu sáu đang xin bộ Tổng giữ chúng tôi lại khu sáu để ráp vào một sư đoàn mới thành lập.
Tôi ngồi bật dậy:
- Hả, hả, cậu nói gì tớ không nghe rõ ?
- Ở khu sáu vừa thành lập một sư đoàn mới nhưng chưa có cán bộ, cho nên tiện dịp bọn mình đi qua đây, Bộ tư lệnh xin bắt lại hết. . . Anh ta nghẹn ngào. Nghĩa là bọn này phải nằm lại đây cả, chẳng có thằng nào được về Nam Bộ cả !
Rồi anh ta bật lên tiếng khóc hu hu. Tiếng khóc nức nở hận đời. Sao thế nhỉ ? Tôi tự hỏi. Sao cho về tới đây rồi chặn lại. Về cái nơi người ta muốn thì không cho, còn cái nơi người ta không có lấy một chút tình cảm thì lại ép.
Tôi thở dài như để chia xẻ nỗi buồn như trời giáng xuống anh bạn đồng hương. Một chập tôi hỏi:
- Có chắc không ? Hay đó chỉ là tin đồn nhảm ?
- Chắc quá rồi chứ.
- Ngoài Trung ương cho các cậu đi thì cứ đi thẳng một lèo, chứ ai cản được ? Có chứng minh thư trong mình mà.
- Thì phải rồi, nhưng Bộ tư lệnh khu sáu nó điện ra Trung ương nó xin đích danh cái đoàn này mà.
- Chịp! Thế chết còn sướng hơn.
- Chúng tớ sẽ không ở lại thử xem họ có giữ lại được không ?
- Ừ thì làm đi ! Tụi tớ cũng xin giơ một chân đồng ý.
Số là đoàn của anh ta là một đoàn gồm toàn các bộ từ cấp úy trở lên thiếu tá. Tất cả tổ chức thành hai tiểu đoàn dưới sự lãnh đạo của một ban chỉ huy thống nhất trên đường vào Nam. Tất cả đều là người Nam Bộ. Ai nấy đều phấn khởi như rồng gặp mây. Họ đinh ninh phen này sẽ về tới quê hương của họ.
Nhưng bây giờ đùng một cái họ bị nắm tóc xoay ngược lại, thế là họ bất mãn và quay lại chống đối ngay.
Chúng tôi đang trao đổi tâm sự với nhau thì vị trưởng đoàn xuất hiện. Và cả đoàn vây quanh anh ta ngay để hỏi tin tức. Anh ta vốn đã gầy ốm, bị đói khát càng gầy tọp đi và cái khuôn mặt rậm bi rậm bít râu ria, làm cho anh ta giống một con dã nhơn.
Anh ta giữ sắc mặt lạnh như tiền trong lúc hằng chục câu hỏi câu nói nôn nóng, gay gắt, bực tức ném ra chung quanh anh ta.
- Chắc bỏ mạng tại khu sáu rồi hả đồng chí?
- Ai ở lại ở, tớ cứ đi!
Anh chàng trưởng đoàn tìm một gốc cây ngồi phệt xuống vừa đưa tay áo quệt qua vầng trán bủn xỉn đầy những nếp nhăn chứa ứ mồ hôi, rồi mới chậm rãi cất giọng:
- Vấn đề đặt ra bây giờ là tuân lệnh cấp trên.
- Tuân lệnh, đồng ý rồi, nhưng đồng chí cứ cho chúng tôi biết lệnh cấp trên như thế nào đã…
Anh trưởng đoàn trợn mắt nhìn mọi người và nói:
- Tất nhiên tôi phải cho biết , nhưng các đồng chí ta phải nghĩ: dù cái lệnh đó có như thề nào đi nữa, chúng ta là cấp dưới, chúng ta cũng vẫn phải thi hành, không được do dự.
Một người vọt miệng nói ngay:
- Thì đúng rồi. Lũ chốt trên bàn cờ chưa qua sông thì đem nướng lúc nào chẳng được.
- Đồng chí nói vậy sao phải. Anh tưởng đoàn bình tĩnh đáp.
- Nhưng đồng chí đã nhận được lệnh của Bộ tư lệnh khu sáu giữ chúng ta lại đây chưa ?
Anh trưởng đoàn ngơ ngác:
- Ai nói chuyện đó ? Lệnh gì đâu ?
- Đồng chí cứ giấu mãi, không tốt đâu. Cứ nói thẳng ra. Chúng tôi không phải con nít.
Tuy chưa có lệnh dứt khoát nhưng sự bàn tán càng xôn xao. Tư tưởng và tình cảm của mọi người chia ra làm ba khối. Khối thứ nhất là rên rẩm, bất mãn, kêu trời kêu đất, nhưng không nói năng thái quá. Khối thứ hai thì bất mãn nhưng đành phải nghe theo lệnh cấp trên tới đâu thì tới. Khối thứ ba thì ra mặt chống đối và tuyên bố nhất đinh sẽ phản kháng tới cùng vì nếu có một quyết định như họ sợ xảy ra cho họ, thì đó là một quyết định vô nhân đạo.
Anh bạn đồng hương của tôi càng ủ dột héo xào. Anh ta thuộc khối thứ nhất. Cho nên anh ta cứ rên rẩm, bực tức và xem tất cả mọi sự đối xử của Trung ương đối với anh ta đều bất công.
Anh ta tâm sự dằng dặc với tôi:
- Ông bạn mình nghĩ coi. Mình kháng chiến chống Pháp chín năm không được cái gì hết ngoài mấy vết sẹo trên người chắc ông bạn mình rõ chớ !
- Rõ… chớ sao không !
- Chúng mình là những hòn đất vô tri, ai muốn ném đâu cũng được .
Hôm sau thì có lệnh của Bộ tổng đánh vào. Bảo rằng đã đồng ý cho cái đoàn cán bộ này ở lại khu sáu. Cái tin đó làm tất cả mọi người khóc rầm lên như cha chết mẹ chết.
Dù là người gốc ở Nam Bộ hay Bắc Kỳ thì khu sáu đối với họ cũng không phải là mảnh đất dung thân. Đó là cái khu chết đói, bệnh tật và là một mảnh đất vô danh xưa nay không có ai làm nên cơm nên cháo gì.
Nhìn những sĩ quan khóc mùi mẫn, tôi đau xót, cảm thấy như một mảnh tim của mình cắt để lại đây cùng với những người bất hạnh.
Con không đẻ không thương, người có quê hương không biết thương xót người xa xứ. Con của họ, đứa đi Tây, đứa đi Tàu…
Vị trưởng đoàn như một cái xác không hồn, anh ta nói những lời không phải của anh ta, nhưng bắt buộc phải nói ra:
- Các đồng chí thân mến ! Tôi xin phổ biến cho toàn đoàn nghe một cái lịnh mới. Xin các đồng chí hãy bình tĩnh nghe với tư thế kẻ chiến thắng, và với thái độ của một đảng viên tiền phong của giai cấp vô sản.
Anh ta cứ nói vòng quanh mãi mà không chịu vào đề, làm cho ai nấy đều bực dọc. Có người nói ngay:
- Thì cái việc ở lại khu sáu chứ gì mà đồng chí cứ rào đón mãi. Ai ở lại thì xin vái cả mũ. Chúng ta không phải là khỉ hát xiệc của gánh Tạ Duy Hiển mà lúc nào muốn đem chúng ta làm trò chỉ cần cho ta một vắt cơm thì đem ra. Tôi thấy ông Tạ Duy Hiển tuy chỉ là người chuyên môn giáo dục thú vật để làm trò vui cho thiên hạ nhưng tôi tiếp xúc với ông ta, tôi thấy ông ta rất thận trọng trong việc luyện tập và sử dụng từng loại thú một. Ông ta nói với tôi về tâm lý của từng con thú một, rất xác đáng chứng tỏ ông ta là một nhà tâm lý sành sõi. Ví dụ như loại khỉ là loại lóc chóc , rất thông minh nhưng lại rất chóng quên, và hay bắt chước, muốn giáo dục nó phải vừa dỗ ngọt vừa dùng roi vọt, con gấu là con vật lầm lì, hung dữ và táo bạo, muốn dùng nó không nên bao giờ dùng roi vọt với nó. Đại khái, ông ta kể lại rằng có một lần nọ một chú gấu sút chuồng…
Anh bạn nói có vẻ thao thao bất tuyệt những điều chất chứa trong lòng lâu nay chưa có dịp xổ tung ra. Mọi người ngồi im, vừa bực bội vừa chua xót. Có người muốn phản đối nhưng đành im, vì cái ông bạn kia tuy nói ác khẩu thật nhưng lại rất chí lý.
Còn vị đoàn trưởng muốn lãnh đạo cái đoàn của mình. Anh ta ấp úng mãi mới tìm ra câu trả lời, anh ta nói rất gượng gạo:
- Đây là lệnh. Chúng ta là cấp dưới, chúng ta phải thi hành.
Lập tức cả đoàn lại nhao nhao lên. Một người nói:
- Đồng ý là lệnh Ai không biết phàm con nhà lính là phải coi lệnh cấp trên như chính là bộ óc của mình, còn mình chỉ là tay chân. Nhưng muốn được vậy cấp trên phải sáng suốt, mỗi cái lệnh ban ra phải cho hợp với nhân tâm, phải hợp với hoàn cảnh, lệnh ban ra cấp dưới đều thi hành dù có chết cũng vui. Đó mới là lệnh của cấp trên.
Vị đoàn trưởng nói ngay:
- Chúng ta là chiến sĩ cách mạng, chúng ta hy sinh vô điều kiện cho sự nghiệp cách mạng như các đồng chí trung ương đã dạy chúng ta. Đòi hỏi cách mạng phải theo nguyện vọng của chúng ta tức là chúng ta hy sinh có điều kiện.
Anh bạn vừa ngồi xuống lại đứng lên ngay:
- Con c… Con c… tao đây, chẳng có thằng đếch nào hy sinh cho cách mạng vô điều kiện cả. Đồ láo toét. Đồ bịp người. Tôi chỉ thấy những thằng nói hy sinh vô điều kiện thôi, nhưng thực ra thì họ đều hy sinh có điều kiện cả, nhà lầu, ô-tô, cơm gà cá gỏi, vợ con phủ phê. Còn muốn gì nữa ? Năm mươi tuổi lấy con gái mười tám uống sâm Triều Tiên như nước vối, nay tiệc mai tiệc, còn muốn gì nữa ? Tôi mà được như thế tôi “hy sinh cho cách mạng suốt đời và tôi sẽ bắt con tôi hy sinh suốt đời nó luôn ! ” Tôi hỏi các đồng chí bà vợ nhỏ của đồng chí D. là bà N. trước kia là mèo của ông T. Tư lệnh miền Tây, bà ta làm chức gì mà được đi tàu lặn vô Nam ? Và vô trong Nam bà ta làm chức gì ? Có phải để trốn ghen ? Tôi thấy lũ chúng ta bị lợi dụng lòng cương trực và nhiệt tình cách mạng. Nhưng những kẻ lợi dụng nên nhớ rằng cái gì cũng có mức độ. Đi quá mức sẽ đổ vỡ. Tôi là một thằng kháng chiến chín năm, ra Bắc mười hai năm, cuộc đời tôi coi như hết rồi. Tôi được cái gì ? Cái cấp thượng úy tôi không cần… tao đếch cần, tao chỉ muốn làm dân.
Anh bạn cởi quân phục ra (cố nhiên không có gắn quân hàm) vứt xuống đất và cởi khẩu súng ngắn ném luôn xuống đất. Rồi anh ta quày quả ra về giữa sự ngơ ngác của cả đoàn Nhưng đi được vài bước, anh ta cười hắc hắc và trở lại, nói giọng rất mỉa mai.
- Ý quên, còn cái quần cởi trả luôn cho đủ bộ ! Rồi anh ta cởi quần ném thành đống trên chiếc áo phủ lên khẩu súng lục K54. – Thôi nhé, chào các đồng chí, kể từ giờ này tôi là phó thường dân. Tôi đi, tôi đứng tôi ở tôi nằm đều do lệnh của tôi.
Từ đó trở đi, cuộc họp không tiếp tục được. Anh đoàn trưởng rút lui còn những người khác thì lảng đi dần không ra cái sự hội họp gì nữa.
Anh đoàn trưởng đi vô Bộ tư lệnh suốt buổi chiều hôm đó. Đến sáng hôm sau mới trở về. Đi cùng với anh ta có một ông vẻ mặt quan trọng và một anh cần vụ quảy một cái bòng sữa hộp và đường cát (để làm công tác chánh trị chắc) .
Tôi đã từng đọc một dòng chữ như những vết sẹo trên da một cây cổ thụ: “Thà chết không quay lại cuộc đời đất Bắc bạc bẽo.”
Thế mới biết người Nam Bộ vượt Trường Sơn trở về miền Nam với vô số ý nghĩ phức tạp nhất là ý nghĩ oán hận chớ không phải “đi giải phóng Miền Nam” như những kẻ lãnh đạo nhầm tưởng.
Đứng ở đây tôi nhìn thấy cuối dãy Trường Sơn thu nhỏ lại như một hòn non bộ trước tư dinh của ông Phó vương Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải nơi mà tôi đã giam thân học lấy học để những bài học của Trung ương đảng ban ra để làm vũ khí chống lại Nhân Văn Giai Phẩm năm xưa.
Đó, xương đồng chí của các ông đó, hãy chịu khó đi nhặt lấy để mà bán cho các viện giải phẫu với giá hời, các ông sẽ được lãi to trong canh bạc “giải phóng” miền Nam này! Đó là điều chắc chắn!
Hãy đi nhặt những ống xương ấy về kết làm ghế ngồi, làm bàn buya-rô, và khắc chạm thành những chiếc ống điếu đùng để các ông hút thuốc giải khuây !
Vâng! Xương trên Trường Sơn nhiều quá. Xương lộ thiên như những vỉ than ở Hồng Gai đã làm giàu cho miền Bắc.
Vậy mà các vị cứ ở ngoài Hà Nội chạm cốc với nhau chúc mừng chiến thắng. Và có lẽ nhà thơ “vĩ đại” nhất của Hà Nội cũng sẽ lại có thêm cơ hội để mà viết một câu thơ tương tự như sau. “Rượu cúc ấy, các ông, là rượu…!”
Ít hôm sau Thu đau. Theo sự chẩn đoán của ông bác sĩ Cà Dom thì Thu bị thương hàn. Theo lời khuyên của Năm Cà Dom thì nên đưa Thu vào một cái bệnh xá ở gần đó.
Hồng và Năm Cà Dom thì khiêng Thu còn tôi quảy tất cả bốn cái ba lô đi sau hộ tống . Đến bệnh xá xong, Năm Cà Dom quay trở ra ngay. Còn tôi ở lại với Hồng.
Thu mê man suốt đêm. Còn Hồng thì nói chuyện qua loa với tôi một chập rồi biến mất.
Sáng hôm sau, Thu vẫn còn sốt vùi. Tôi nói với Hồng:
- Em ở lại với chị nhé, anh trở lại trạm.
Tôi đắp chăn kỹ lưỡng cho Thu rồi quay đi.
Hồng lặng thinh không buồn không vui. Cậu ta đưa tôi đi một quãng. Khi sắp quay lại thì cậu ta dúi vào tay tôi một hộp sữa. Chao ôi! Cái vật kỳ lạ này bỗng nhiên lại xuất hiện ở giữa rừng này, một kỳ quan có lẽ!
- Ở đâu cậu có vậy ?
- Ở đâu em có thì thôi. Em biếu anh đấy.
- Thôi cậu để lại cho Thu đi. Tôi không cần.
- Em còn nhiều mà !
- Trời đất… Em…
- Thôi anh cất đi. Không cần biết ở đâu em có.
Rồi Hồng quay ngoắc trở lại.
Tôi cầm hộp sữa trong tay. Sữa hộp “Nestlé” bên ngoài có hình cái tổ chim mà tôi quen thuộc từ thuở bé !
Trời đất ! Ở đâu mà có cái hộp sữa này, mà tôi lại là chủ ? Tôi biết chắc chắn Hồng đã giở ngón sở trường của cậu ta rồi. Có lẽ tất cả cái kho của bệnh xá này bị anh ta moi ruột.
Tôi để Thu nằm lại với đứa em trai, nghĩ cũng tàn nhẫn và ích kỷ quá, nhưng ai đứng trong hoàn cảnh của tôi thì chắc cũng xử thế như tôi mà thôi !
Tôi lủi thủi đi trên đường về trạm, tâm sự ngổn ngang. Trong lúc Thu mê man tôi đi mà không nói được lời từ giã. Tôi cảm thấy mình hèn hèn thế nào ấy, thấy mình không được hài lòng về mình. Tuy thế tôi vẫn cứ mạnh bước, tôi biết trước rằng nếu tôi quay trở lại ở săn sóc Thu thì khi Thu khỏi bệnh, chúng tôi cũng chia tay, chừng đó tôi sẽ ân hận.
May mắn cho tôi vô cùng, khi tôi về tới nơi tất cả đều có ở nguyên vị, không vắng ai. Năm Cà Dom, Hoàng Việt…
Chúng tôi nằm thoi thóp trên võng, không muốn đi đâu không muốn làm gì. Có lẽ cái chết, duy nhất có thể giúp chúng tôi giải quyết tất cả
Một buổi trưa, chúng tôi nằm im. Năm Cà Dom thì thở dài thườn thượt, còn Hoàng Việt thì cứ chốc chốc lại kêu lên “cách mạng cái gì kỳ cục vậy he ? ” và đưa những ngón tay lên quàu trên mái tóc trắng xóa như để bới tìm phương cách giải quyết khó khăn. Nhưng đâu có cách gì ngoài gạo ?
Chung quanh đây đâu còn cái kho nào nữa để mà ăn cướp ? Các đồng chí trung ương đã xua chúng tôi vào đây như xua một đàn vịt mạnh con nào con ấy rút rỉa, đói no sống chết cũng mặc.
Bỗng Roánh xuất hiện. Roánh nắm một mớ lá trong tay, vừa đi vừa rứt tung mớ bỏ vào mồm nhai có vẻ thú vi lắm. Tôi hỏi ngay:
- Gì đấy?
- Lá cây.
- Lá cây gì mới được chứ?
- Lá bép.
- Đâu đưa đây coi
Roánh tạt vào lều chúng tôi, đưa mớ lá cho chúng tôi xem.
Những chiếc lá láng mướt như thoa mỡ hình bầu dục và nhỏ như lá
ô-môi. Roánh nói:
- Ở vùng này có một tiểu đoàn ăn lá bép sáu tháng.
- Ai nói đó ? Năm Cà Dom hỏi.
- Nghe người ta nói chớ ai.
- Nói dóc! Người ta chớ phải trâu bò đâu mà ăn lá sống được.
- Đây các anh ăn thử xem. Béo lắm.
Năm Cà Dom bứt mấy chiếc cho vào mồm và nhai thử. Năm Cà Dom phun ra và lắc đầu:
- Không ăn được đâu.
- Các anh rồi phải ăn như tôi. Đói quá mà.
Hoàng Việt phát cáu:
- Ai mà ăn kỳ cục vậy!
Roánh biến vụt đi với mớ lá trong tay.
Tôi đã nhận diện cái giống lá đó và bắt đầu đi tìm.
Tôi đi bẻ được ngay một mớ nhưng lòng buồn nản vô cùng, không thiết gì đến việc nấu nó mà ăn. Năm Cà Dom gợi ý:
- Hay là mình lội trở lại cái kho gạo bị thiều hủy tìm những hạt gạo còn sót chung quanh kho.
- Đúng rồi ! Hoàng Việt đồng ý. Bây giờ mình phải đi ăn mót.
Tôi nói ngay:
- Nhưng bây giờ ai biết đường trở lại đó. Và ai dám đi ?
Vấn đề của tôi đặt ra làm cho mọi người thất vọng. Dù có nhớ vị trí cái kho gạo cũng không ai dám đi.
Tôi nghĩ lại mà tiếc ngơ tiếc ngẩn.
Một hôm tôi đi quanh quẩn trong khu vực đóng quân tôi gặp Ngân. Té ra nàng vẫn đi gần bên tôi và Thu mà chúng tôi không hay. Trông nàng cũng không khác trước là mấy. Cô kỹ sư nông lâm có vẻ bình thường trước vấn đề gạo. Hơn thế nữa Ngân đang nấu cháo. Lúc này mà có gạo để nấu cháo là một việc vô lý hoặc là một việc làm mà người ta phải giấu đi để khỏi phiền phức cho mình.
Thấy tôi đến, Ngân mừng lắm, nhưng nàng cố giữ vẻ bình thản. Tôi hỏi:
- Lâu nay sao không thấy Ngân tới chơi… với Thu ?
- Mệt quá anh ạ. Đâu có lúc nào rỗi rảnh mà đi.
- Nhưng tôi cứ nghĩ là Ngân đã giận tôi.
- Em giận gì anh ?
- Tôi biết mà, giận tôi chi !
Ngân đang ngồi nấu bếp ngẩng lên đối đáp với tôi nhưng khi tôi nói đến câu đó thì Ngân cúi mặt xuống, tay khẽ bẻ những que củi nghe răng rắc, ném vào lửa một cách sững sờ.
Tôi thấy đứng lâu không tiện cho nên tôi vội vã ra về. Ngân nói ngay:
-Anh ở chơi ăn cháo ?
Đàn bà có phép mầu nhiệm. Mỗi khi họ mời mọc thì khó chối từ. Tôi đành phải ở lại.
- Ngân mời tôi ăn cháo, tôi lấy gì mà đáp lại.
Tôi vừa nói vừa nhìn hai hàn tay của Ngân. Chúng vẫn như xưa hai bàn tay ấy, với nước da trắng nõn và những ngón tay thon như búp cây rừng, những ngón tay đã từng giữ nhánh tre khi đi ngang qua một lạch suối, và những ngón tay đã giở những trang sách của tôi ở dãy rừng núi này.
Trước đây Ngân rất hồn nhiên với tôi khi bên cạnh Ngân có cả Thu . Hay ít ra Ngân cũng đã tạo ra được sự hồn nhiên đó, còn bây giờ Ngân hơi luống cuống.
Tôi cũng lấy làm lạ rằng sự luống cuống đó lại tác động vào tâm hồn tôi một cách sâu xa. Cái nhánh tre xanh tươi bên ven suối trở nên mát mẻ trong lòng tôi lạ thường. Tôi cảm thấy hình như những ngón tay của Ngân vẫn còn giữ nó để cho khỏi quất vào mặt người phía sau đang đi tới, vì thế mà, anh ta nhìn thấy và yêu những ngón tay đó.
- Anh ở đâu? Ngân đột nhiên hỏi tôi.
-Ở đây bên em. Tôi đáp.
- Không em muốn hỏi bây giờ anh đang ở gần đây không ?
Tôi vui vẻ:
- Thì ở đây ngay bên em. Em không thấy điều đó hay sao ?
Ngân dẫy nẩy phụng phịu:
- Anh kỳ quá. Em muốn hỏi chỗ đóng quân của anh.
- Anh cũng lấy làm lạ quá ! Anh đang đóng quân ở đây, hay nói rõ hơn là đang đóng đô trong lòng…
Tôi vui vẻ pha trò để đề phòng sự phản ứng của Ngân. Nhưng Ngân để lộ nét vui trên gương mặt.
Ngân hơi ửng đôi má. Rồi để cố dấu cái hiện tượng bừng lên trong lòng Ngân lấy nắp cà men múc cháo ra đưa cho tôi. Cháo ngon lành thật. Nó hồi sinh trong tôi những tế bào héo hon sắp bị thải ra ngoài.
Tôi từ giã Ngân trở về lều.
Năm Cà Dom nằm võng nghe radio. Cái radio đang dùng mấy cục pin cũ phát ra những tiếng è è.
Ông Chín nằm tóp ve trên võng như tàu lá. Lâu nay thì cục lập trường của ông Chín đã trở thành “mảnh da lừa” teo dần theo những nguy nan hằng ngày. Tội nghiệp ông Chín hết sức. Ông trối dài. Ông không giấu giếm sự bi quan trong lòng ông nữa . Ông cho rằng ông đi không đến nơi. Và ai cũng công nhận như thế. Một con người chỉ còn xương bọc trong da mà phải leo núi hai tháng nữa với những cơn đói bất ngờ luôn luôn xảy ra thì làm sao mà đi nổi.
Tôi chú ý thấy gần đây ông Chín ngụy trang nhẹ nhàng hơn trước, vì sức khỏe kém hơn là vì khinh địch.
Roánh mang đến cho tôi một mớ lá bép trong cái nắp cà mèn. Roánh bảo:
- Anh ăn thử đi, khá lắm. Giống như có pha mỡ lợn.
- Có chết dại không ?
- Em ăn rồi mà. Cả đơn vị đùng đùng đi hái về ăn đấy.
- Có nhiều không ?
Tôi chỉ nếm vài miếng rồi trả lại cho Roánh.
- Cám ơn cậu. Tôi sẽ đi tìm.
Roánh cứ lân la bên tôi, không chịu đi. Mãi lúc sau Roánh mới e ngại nói:
- Em và thằng Hồng rất thân nhau.
- Thế hả ? Tôi hỏi lơ là.
Roánh nói tiếp:
- Nó bảo với em rằng anh có cái máy ảnh.
- Nhưng để làm gì ?
- Em xin anh một “pô”.
- Cậu sắp trở thành “anh hùng” hả ?
- Không ? Chính là em sắp chết .
- Hả ? Cậu nói cái gì ? Cậu mê sảng trong cơn sốt ác tính à ?
- Không, em vẫn bình tĩnh. Để em kể cho anh nghe.
Roánh nói tiếp:
- Em sắp đi trinh sát.
- Sắp đánh à ?
- Sắp mở đường máu anh ạ.
-Thế à!
- Nếu không mở đường máu thì nằm đây cũng chết vừa chết đói vừa chết bom. Vi chỗ này lộ quá rồi. Anh cũng biết thừa rằng sau vụ cướp kho gạo, máy bay do thám hằng ngày. Ở đây cả đơn vị lớn thế này thì làm sao tránh khỏi B52 ? Cho nên các cha cán bộ khung bị khu sáu bắt lại đã chuồn đi hết rồi để lại cho mình hưởng nguyên cái “gia tài” vĩ đại đó.
Vì thế cho nên cấp chỉ huy của em, ông Mạnh Rùa và ông Tuất định tổ chức một cuộc tấn công mở đường máu. Cuộc tấn công này sẽ có hai cái lợi. Thứ nhất nếu thắng lợi thì cả đơn vị mở đường đi vào sẽ có tiếp tế gạo. Còn nếu không thắng thiếc gì cả thì sẽ có một số toi mạng. Do đó sẽ nhẹ lo vấn đề gạo cho các ông.
Tôi gạt ngang:
- Cậu nói bậy, chỉ huy mà ai lại đi tổ chức một trận đánh như vậy?
- Em bảo đảm với anh đó là sự thực.
- Thánh thần cũng không biết nổi.
- Em nghe lén mà. Họ bàn luận với nhau chẳng ngờ em ngồi gần đó. Em nghe rõ không sót một câu nào. Các ông Mạnh Rùa và Tuất Chó đồng chủ trương nhờ kẻ địch giết chết em. Để em trong đơn vị hai ông ấy khó chỉ huy.
- Kỳ cục vậy ! Tôi kêu lên.
- Nhưng đó là sự thực.
- Đồng chí với nhau không mà.
- Đồng chí gì ! Các ổng nhớ cái lần các ổng lén mua gà trong buôn về chưa kịp ăn bị em đớp mất không dám la, nên bây giờ các ổng trả thù.
Roánh nói tiếp:
- Nhưng trước khi họ cho chúng em ra trận, họ còn cho chúng em chút ít ân huệ.
Tôi hỏi:
- Ân huệ gì?
- Họ kết nạp chúng em.
- Cậu và ai?
- Một thằng nữa, tên thằng Đính, cũng ngổ ngược như em.
- Kết nạp vào đoàn hay vào đảng ?
- Em thì vào đoàn, còn thằng Đính thì vào đảng. Vì thằng Đính đang ở trong đoàn rồi. Họ động viên em bằng cách đó. Anh xem có ” thiêng liêng ” không ? Ghê quá !
- Thế ra các cậu cũng “vinh quang” tột đỉnh rồi.
- Vâng, nay mai đơn vị sẽ mặc niệm em và truy tặng em là “anh hùng quân đội” trong lúc đó thì bố mẹ em ở nhà khóc sưng con mắt và chỉ muốn em sống để trở về nhà thôi. Em dự đoán thế là vừa, nếu may mắn mà em sống thì còn nói gì nữa, còn nếu em chết thì anh gởi bức ảnh về cho bố em.
Tôi bỗng nhiên xúc động vì tâm sự và điều yêu cầu cỏn con của thằng bé. Tôi lâu nay cứ đánh giá nó như một thằng lính láu cá chuyên ăn cắp vặt. Chẳng ngờ nó lại ưu tư đến thế!
Tôi đắn đo, không biết có nên lừa gạt cậu thanh niên này không ? Rốt cuộc, tôi nhận lời. Vì đó là yêu cầu của kẻ biết mình sắp phải chết. Anh ta đâu biết máy tôi không phim. Cứ nhận cho anh ta yên lòng. Thế cũng chẳng tội tình chi.
Tôi nói:
- Cậu bi quan quá ! Nhưng tôi sẵn sàng chụp cho, cậu muốn mấy pô tớ chụp cho mấy pô. Sáng mai nắng lên tôi chụp.
Roánh nhảy cỡn lên. Anh chàng không ngờ tôi tốt bụng đến thế. Hôm sau thì hai cậu thanh niên được kết nạp, y như Roánh đã nói với tôi, Roánh thì vào đoàn viên thanh niên lao động , còn Đính thì vốn là đoàn viên, thì vô đảng.
Tôi không có dự hai cái buổi lễ kết nạp đó, nhưng tôi cũng hình dung ra nó diễn ra như thế nào.
Đại khái là đồng chí Bí thư chi bộ tuyên bố lý do rằng thì là ngày hôm nay chi bộ ta quyết định kết nạp đồng chí nọ đồng chí kia vào chi bộ. Kể từ nay hàng ngũ ta có thêm chiến sĩ giai cấp vô sản, v.v . . . (nghĩa là không có cả gạo nấu… cháo) .
Rồi người được kết nạp giơ tay thề hì sinh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, và đặt quyền lợi đảng (hay cho một nhóm tham quyền cố vị độc tài ? ) lên trên hết (cả quyền lợi của tổ quốc).
(Từ đó trở về sau, tôi không gặp lại hai cậu thanh niên này nữa. Tôi cũng không rõ hai cậu đó chết, hay đã sống cuộc sống sau khi đã rời đơn vị.)
—>Chương 28
- 28 -
Hôm sau thì đơn vị xuất phát. Không hiểu ban chỉ huy của Mạnh Rùa và Tuất đã nắm tình hình địch như thế nào mà dám mang cả đơn vị lao vào. Tôi có dịp nhìn lại tiểu đoàn của Tuất từ sau trận B52 . Thật thảm hại. Không còn được một trăm quân lính. Cậu nào cậu nấy đứng không vững, mặt mũi thì không còn văn vẻ nào tả cho xiết. Vừa đen tối vừa xanh xanh, tóc tai rậm rạp và cặp mắt thì có lẽ chứa đựng những ý nghĩ kỳ lạ, mỗi người mỗi khác nhau.
Họ kéo quân đi, không quên để lại một toán hậu bị. Tôi và Năm Cà Dom, ông Chín, Hoàng Việt, Ngân và một đám ma trơi tìm chỗ lui về phía sau để được an toàn hơn.
Ngày hôm sau thì tôi thấy một anh lính lùi về. Anh ta chửi văng tục hằng tràng, không rõ chửi đích danh kẻ nào, nhưng có vẻ hằn học và nổi loạn đến cực độ.
- Chúng nó bảo tụi Mỹ là lính gà tồ, công tử bột. Thế nhưng mới vừa nổ mấy phát AK chưa biết có rụng cái lông nào của nó hay không mà nó đã nã pháo như mưa không ngóc đầu dậy được.
Đánh thế chó nào như thế mà xua con người ta vào đánh. Không nắm được địch tình, không nắm được địa hình địa vật chi cả thế mà cứ nhắm mắt lủi vào. Mẹ kiếp rồi còn máy bay nữa chứ. Máy bay gì mà như con nòng nọc nó cứ bâu đen trên đầu, bắn vuốt mặt không kịp. Ối giào phen này vô số thằng nằm ngay cán cuốc ra đó. Thối cả rừng, cả suối, tai hại cho mà xem !
Tôi thấy anh chàng chỉ còn có khẩu súng dính trên vai, còn bao đạn ngang lưng thì rơi đâu mất, và cái ba lô cũng không còn ngồi xổm trên chiếc lưng gầy của anh ta nữa. Anh ta cứ chửi toáng lên như để gây sự chú ý đối với chúng tôi, nhưng cả lũ chúng tôi cứ nằm im làm cho anh ta hơi ngượng.
Anh ta cởi áo vứt trên cành cây, ném súng xuống đất lót ngồi và lại chửi đổng một cách hăng hái. Và cuối cùng biết chắc rằng không thể lôi hút được sự chú ý của chúng tôi anh chàng bèn đi vào lều của tôi. Anh ta quệt mồ hôi trán và nói nhỏ nhẹ:
- Anh có nước không cho em ngụm.
- Có đây, nhưng chưa nấu.
- Mặc kệ, em cháy cổ họng mất.
Tôi đưa cái bi đông nước suối cho anh ta. Anh tu một hơi và dốc hẳn chiếc bi đông lên. Xong anh ta đánh rơi chiếc bi đông và ngả lăn ra trên đống lá khô không cựa quậy. Độ một tiếng đồng hồ sau thì anh ta mới tỉnh dậy và ngơ ngác nhìn tôi. Tôi hỏi ngay:
- Trận đánh thế nào cậu ?
- Đánh đá gì anh ơi. Chết cả nút.
- Tình hình ra sao?
- Chả ra sao cả.
- Nghĩa là thế nào cậu nói tử tế nghe coi.
- Em đã bảo là nó không ra sao cả mà. Nghĩa là đi đánh địch nhưng có thấy địch đâu mà đánh ? Đi mò mẫm cả ngày, chưa đụng nó, nó đã nổ súng trước minh rồi. Kế đó là máy bay tới đen như ruồi. Lo mà chạy. Rồi lại pháo nã tiếp theo đưa chân cho mình chạy mau lên.
Anh lính tiếp:
- Thế đó! Chỉ huy ngu như bò, coi sinh mạng lính như rác.
Tôi hỏi:
- Mạnh Rùa và Tuất ở đâu?
- Đâu có biết ở đâu là đâu. Đâu có ai chỉ huy được ai đâu. Mạnh ai nấy chạy tán loạn trong rừng.
Bỗng anh lính kêu lên:
- Ố giời ! Em mất mẹ đôi dép rồi.
-Thế à?
- Mất dép khác nào chân bị chặt ! Em làm sao mà đi!
Hai người nữa lại về. Một người nằm trên lưng người kia. Máu chảy ròng ròng. Người bị thương rên hừ hừ. Vết thương không được băng bó, máu khô đen quánh lại trên vải.
Tôi cảm thương Mạnh Rùa và Tuất vô cùng. Hai gã đâu còn chút uy tín gì để phán lệnh xuống cho binh sĩ.
Mạnh Rùa rũ xuống như cái áo tả tơi. Hắn đến lều tôi ngồi phệt dưới đất và có lẽ định tìm cơ hội để phân trần cho nên hắn cứ ngồi hoài không chịu đi. Tôi an ủi hắn, nhưng hắn gạt phăng đi:
- Thôi đi cha non ! Mạnh Rùa xua tay ngán ngẩm. Đánh giặc thì có thắng có bại, đồng ý rồi, nhưng ở đây cứ toàn bại. Bại trận và bại hoại tinh thần.
Tôi hỏi:
- Sao đơn vị còn thưa quá vậy ?
- Thì còn sao nữa ? Chẳng lẽ đánh giặc lại sống cả à ?
- Trận này thế nào ?
- Gặp sứa lửa rồi ! Mới nổ một phát nó đã quặp mình lia lịa . Mẹ kiếp, cái kiểu này vừa chết, vừa đói, tụi lính nó làm thịt tôi mất.
- Gì mà bi quan thế cậu?
- Đù mẹ, tớ về được Hà Nội, tớ lột hết lon trả lại chúng nó ngay. Người ta đưa mình vào bước đường chó chết, mà cứ giục mình lập công. Tớ chưa từng gặp một tình cảnh nào như vầy. Cậu thấy không ? Thương binh như thế, lấy gì băng ?
- Tốt hơn đừng đánh.
- Đừng đánh cứ nằm đây, lấy gì ăn ? Đánh cũng chết, đói cũng chết. Nên chọn cái nào ?
Máy bay đã lượn trên đầu chúng tôi. Rồi chỉ trong giây phút chúng tôi đã nằm trọn vẹn trong cái vòng vây của chúng. Hãi hùng quá!
Cố nhiên là những trận mưa bom xảy tới. Có lẽ đàn máy bay thích lắm. Lâu nay chúng tìm mà không thấy dấu vết nhưng nay thì bỗng nhiên các vị lại nổ súng chẳng khác kêu lên “lạy ông con ở bụi này”.
Những người chết và những người sống sót mất tinh thần. Thì cũng giống như những trận bom khác, thế thôi.
Chỉ có một điều may mắn duy nhất từ khi chúng tôi rời Hà Nội đến nay, là bỗng nhiên lính Mỹ rút đi. Thiệt là phước đức trời cho.
Chiều hôm đó, một vấn đề đặt ra rất khó xử cho tôi là cái hộp sữa của Hồng cho tôi lúc tôi từ giã cậu ta mà rời bệnh xá.
Làm sao ăn nó?
Nghĩa là làm sao uống sữa giữa lúc thiên hạ đói meo và máu me đầy người. Cố nhiên là phải thủ tiêu cái hộp sữa kia một cách vô cùng bí mật và phải rủ những người nào tối cần thiết. Năm Cà Dom và Hoàng Việt, tất nhiên rồi !
Nhưng còn địa điểm thì bí mật hoàn toàn. Đây là sự sang trọng cực chẳng đã. Uống sữa trong lúc không có gạo nấu cháo.
Đợi cho ai nấy ngủ hết, tôi mới sang rỉ tai Hoàng Việt và Năm Cà Dom. Hai vị này cứ tưởng tiên trên trời mới ban xuống. Tôi bèn ấn cái hộp sữa vào ngực vào tay họ để cho họ tin chắc.
Thế là chúng tôi uống sữa. Có trời mới biết được xuất xứ của hộp sữa này.
Nói đúng ra là uống nước sôi có pha tí sữa. Thiếu chút nữa Năm Cà Dom lấy ống tiêm tiêm vào mạch máu chúng tôi, như tiêm thuốc trường xuân bất lão.
Chúng tôi không quên để dành cho ông Chín một cốc. Hoàng Việt nói:
- Ông Chín yếu quá rồi!
Quả thật, ông Chín đã kiệt sức. Ông không còn nói năng hoạt động bảo vệ lập trường như trước kia nữa.Tôi nghĩ, bây giờ có lẽ trong thâm tâm, ông Chín đã tự nhận rằng chuyện vô kỷ luật, mất lập trường thậm chí phản động là những chuyện tất nhiên, của bộ đội trên con đường này.
Sáng rồi.
Tôi sợ buổi sáng vô cùng, nhất là cái buổi sáng hôm nay, mà chúng tôi biết được rằng nó đến với tất cả sự bất lợi.
Tôi không dám nhìn hai nhà quân sự Mạnh Rùa và Tuất. Họ đang làm những việc ngoài khả năng của họ để dựng dậy đám lính không còn hồn.
Mạnh Rùa huýt còi liên tục.
Còi báo động khẩn cấp nhưng không có ai đi hoặc bò lết tới cả. Mạnh Rùa và Tuất phải đi dựng từng người dậy và lôi họ đến chỗ tập họp.
Mạnh Rùa nói:
- Bây giờ tôi không còn thì giờ để nói nhiều hơn nữa, tất cả hãy sẵn sàng và rút ngay khỏi nơi này.
Tất cả binh sĩ rã hàng trở về lều, bước đi nặng chịch, mắt nhìn xuống đất.
Tôi và Năm Cà Dom tuy không nằm trong quân số của Mạnh Rùa nhưng chúng tôi đã ba lô lên vai và sẵn sàng tiếp tục làm chùm gởi bám vào đơn vị của anh ta.
Trông ông Chín, ông già Noël và Hoàng Việt chống gậy đứng gục xuống dưới sức nặng của chiếc ba lô như quả núi đè trên lưng. Tôi hết muốn nói gì. Ba người này nếu dự vào một cuộc chạy đua thì chưa biết ai sẽ về nhất. Mạnh Rùa quát luôn mồm:
- Mau lên ! Nó đến rồi ! Đồ ăn hại, cứ lờ đờ thế kia !
Còn Tuất thì có vẻ chính trị viên hơn:
- Ráng lên các đồng chí. Vào đến trạm trong tôi sẽ kiếm bò đãi các đồng chíí. Tha hồ tẩm bổ!
Một binh sĩ mỉa mai:
- Bò gì ? Bò lết chắc.
Họ còn tiếp tục mỉa mai cấp chỉ huy của họ, gần như công khai. Một người nói:
- Phen này thì các người mất chức hết. Ba tháng hành quân làm cho đơn vị này từ ba trăm người nay còn lại nấu không ngọt bát xáo.
- Im im! Hung thần đến ! Sa tăng ! Sa tăng, suỵt!
- Hung thần à ? Tớ cũng đếch sợ. Hắn cũng bỏ trận địa chạy vắt giò lên cổ như chúng mình thôi. Từ rày đụng trận, tớ chạy. Kẻo chết bỏ vợ bỏ con… ông đấm… ông đấm… ông đếch sợ sa tăng.
- Chà ghê nhỉ. Có dậy hành quân không ? Đồ ôn binh.
Cả đám im phắc và nhảy nhổm cả lên, Mạnh Rùa đã đến đúng lúc. Hắn quát:
- Này liệu cái hồn. Có dậy không ?
Cả đám chạy tản ra. Chỉ còn một cậu nằm nín lại. Mạnh Rùa tới ngay. Hắn lại quát vào cái võng im lìm:
- Sao nằm đây. Sao nằm đây ?
Mạnh quát hai ba lượt mới có tiếng đáp:
- Em đau dạ dày.
- Tại sao lại đau dạ dày ?
- Dạ… em em…
- Không đi đánh trận vừa qua à? Anh lại là trung đội trưởng nữa!
- Dạ em đau.
- Tại sao vào đây lại đau dạ dày?
- Dạ em đau từ
Hà Nội, nhưng bác sĩ vẫn cứ lấy em đi như thường.
- Láo, đồ láo!
Thằng bác sĩ nào lại vô lương như thế.
- Dạ sự thật thế ạ. Em đau quá. Không ăn được gì cả.
- Cũng may là ở đây không có cái gì để anh ăn. Nhưng anh vẫn phải hành quân nghe chưa. Đứng dậy, đi ngay !
-Dạ em không đi được ạ.
- Anh nói với ai vậy? Anh có nhớ anh là trung đội trưởng không ? Tôi hạ lệnh cho anh đứng dậy, điều động trung đội ngay.
Mạnh Rùa đi lướt qua một lượt. Hắn dừng lại không biết mấy lần để hò hét gầm gừ. Đến người cuối cùng ngay bên cạnh tôi, hắn không nói nhiều nữa. Hắn đưa chân đá vào chiếc vông no tròn.
Mãi chiếc võng kia mới ngọ nguậy.
- Dậy ngay.
-Dạ em sốt ạ.Tiếng nói vang ra từ bên trong chiếc màn xanh rũ xuống võng.
-Tại sao sốt?
- Dạ tại em lên cơn.
-Tại sao lên cơn?
- Dạ em ăn lá bép bị kiết lỵ nữa.
- Tôi không biết. Lệnh là lệnh. Dậy ngay !
Mạnh Rùa lại sút vào chiếc võng như đá bóng.
Hẳn lầu bầu:
- Ở đây không có bệnh với tật gì cả. Bom đạn không vị tình. Người ta đi… Không phải bằng cái chân, mà bằng cái đầu, hiểu chưa hiểu chưa ?
Rồi Mạnh Rùa tốc màn ra. Hắn nhìn thấy bàn chân của bệnh nhân. Hắn reo lên ngay như bất chợt gặp một sự thú vị.
- À đây rồi. Đây là cái thằng đã bắn vào chân phải không ? Và nhảy tàu ở Hàm Rồng phải không ? Hay nhỉ, vào đến đây lại giơ cái sốt rét và kiết lỵ ra để không hành quân. Kỳ này tao bắn dùm cho một viên vào đầu.
Rịch rịch ! Mạnh Rùa lại sút liên miên vào chiếc võng, làm cho nó đưa qua đưa lại. Mạnh như một cầu thủ điên tiết đá túi bụi không còn kể trúng trật nữa. Và tiện tay hắn ta giật luôn dây võng làm cho bệnh nhân ngã lăn kềnh xuống đất.
Cặp mắt Mạnh Rùa đỏ nọc. Hắn nắm lấy tóc anh chàng quật ngửa anh ta ra. Một tay hắn mò mẩm vào báng súng ngắn đeo bên hông.
- Đồ ăn hại !
Tôi nhắm mắt lại. May quá, không có tiếng súng nổ.
Mạnh Rùa dạng hai chân ra, mồm phùng ra thổi còi với tất cả sức cha sanh mẹ đẻ. Tiếng còi vang lên như bứng tung những gốc cổ thụ. Hắn cắm đầu xuống mà thổi, hắn nhắm tít mắt lại mà thổi, hằn tuôn tất cả cơn lôi đình vào cái còi bé nhỏ.
Rồi hắn đi.
Hắn quay lại chỗ anh trung đội trưởng đau dạ dày. Anh này tên là Thưởng. Mạnh Rùa vớ lấy một thanh cây cầm trong tay. Mạnh Rùa hất hàm:
- Thế nào đồng chí trung đội trưởng ?
- Dạ dày em đau quá!
- Ở đây không có mỏng và dày, chỉ có hành quân ngay thôi. Đồng chí có đi không ?
- Dạ… dạ…
Vút vút vút Mạnh Rùa quật vào anh trung đội trưởng đau dạ dày. Anh này nằm im không kêu.
Mạnh Rùa đánh đúng ba gậy rồi ném chiếc gậy đứng thở dốc. Hắn đã thấy võ lực trở thành bất lực. Hắn đứng há hốc mồm ra mà thở.
Rồi hắn quát gọi. Một anh nào đó cũng hãy còn biết đến thượng cấp đã chạy đến nghe Mạnh Rùa truyền lệnh.
Mạnh Rùa lạnh lùng bảo:
- Cởi hết quân phục nó ra.
Thấy anh kia không chịu thi hành lệnh của mình, Mạnh Rùa lại quát.
- Cởi mau! Đồ phản bội!
Trung đội trưởng Thuởng mà ba gậy vừa quật vào người vẫn nằm im như không có, đã ngóc đầu dậy khi bị viên tiểu đoàn trưởng của mình gán cho cái danh từ phản bội.
Thưởng cố nắm mép võng gượng ngồi dậy. Một con người lép kẹp như một cái mái chèo, không còn tim phổi trong lồng ngực. Thưởng trân trối nhìn vào Mạnh Rùa, môi mấp máy không nói ra lời và hai hàng nước mắt chảy ròng ròng xuống má.
Mạnh Rùa quát:
- Tao ra lệnh lột quân phục của mày và tuyên bố kể từ nay mày không còn trong đơn vị tao nữa.
Anh kia từ từ bước lại gần Thưởng đề thi hành cái lệnh của Mạnh Rùa, nhưng Thưởng xua xua tay:
- Được rồi! Các đồng chí không phải nhọc công. Tôi thấy tôi không còn xứng đáng…
Rồi Thưởng gục mặt vào hai bàn tay nức nở.
Mạnh Rùa bỏ đi. Anh kia cũng bỏ đi theo Mạnh. Thưởng cố đứng dậy cởi hết quần áo mang đi trả cho Mạnh rồi trở về ngã vật trên võng.
Thưởng khóc, Thưởng than thở một mình:
- Tôi đã làm gì nên đảng đuổi tôi ? Hay tôi đã không làm được gì nên đảng đuổi tôi ?
Cuộc hành quân cấp tốc vẫn bắt đầu. Nói đúng ra là một trận chạy bán mạng, chạy không cần kiểm điểm kẻ còn người mất miễn sao thoát khỏi cái khu rừng đi bị máy bay trinh sát khoanh tròn.
Chúng tôi chạy theo anh giao liên muốn đứt ruột, bụng đói meo, dạ dày lép như trấu, hai đầu gối khua nghe lọc cọc, hai màng tai muốn vỡ tung ra. Không cần biết anh giao liên dắt mình đi đâu vì cái chết đang trùm xuống đầu tôi với đôi cánh sắt kia rồi.
Khi chúng tôi được lệnh dừng lại thì không đứa nào đứng vững được nữa. Tất cả đều ngã quy xuống như những cây cỏ bị phạt ngang gốc. Tôi tưởng như hai lá phổi của tôi đã dán vào lồng ngực và dòn như bánh tráng.
Chập sau, anh giao liên lân la đến nói chuyện với tôi. Tôi moi trong ba-lô tìm một điếu thuốc để mua chuộc anh ta.
Thuốc chẳng thay cơm được nhưng nó làm cho người ta tươi lên.
Tôi hỏi:
- Nghe nói đây là Plei-me phải không anh ?
- Đúng ! Đây là Plei-me.
Anh ta ngồi hút đến quá nửa điếu thuốc mới nói tiếp:
- Nếu chúng ta nhìn nhận sự thực thì chúng ta thua to nhất ở trận Plei-me. Chắc có lẽ các anh ngạc nhiên khi nghe tôi nói như thế. Nhưng vì tôi là người đã tham dự trận này cho nên tôi dám nói như vậy. Đánh với một đối phương mà mình chỉ biết trên khái niệm, mà lại khái niệm sai trăm phần trăm thì làm sao ?
Anh giao liên chậm rãi kể tiếp:
- Vừa chạm súng là chúng tôi mất tin tưởng ngay. Chúng tôi không biết đã đội bao nhiêu bom pháo. Không biết đối phương ở đâu và không biết cả cấp chỉ huy ở đâu. Bom nổ và lửa cháy thành biển. Và tôi chạy… Ba ngày sau tôi mới thoát khỏi cái trận đồ quái ác đó. Tôi là người thứ nhì của đại đội còn sống sót. Người thứ nhất còn nguyên vẹn thân thể nhưng đã phát điên, còn tôi chưa điên, nhưng đã lãnh một cái “mề đay” vào bả vai bây giờ vẫn chưa gỡ ra được. Sau trận đánh ba tháng, người ta vẫn chưa dám dùng nước suối ở vùng này. Xác người nằm lang thang khắp nơi. Người ta nói cọp ở các rừng khác đánh hơi biết, kéo tới đây tha hồ phá cỗ. Vì thế cho nên cọp vùng này rất thích thịt người, và cũng vì thể, người ta nói cọp Plei-me dữ hơn cọp ở các rừng khác.
Bỗng một tiếng quát:
- Giao liên trốn đâu rồi ?
Tôi thấy Mạnh Rùa hầm hầm đi tới. Anh giao liên lên tiếng:
- Em đây ạ!
- Lại đây bảo ! Mạnh Rùa chống nạnh và hất hàm. Cậu thấy tạm trú ở đây đêm nay được không ?
- Dạ đư… ợc ạ ! ..
- Có bảo đảm không?
- Dạ được nhưng không bảo đảm. . . vì. . . đây là bãi chiến trường Plei-me ạ. Máy bay Mỹ đi ngang qua đây là cứ bắn không cần biết mục tiêu và kết quả ra sao hết.
Mạnh Rùa ngạc nhiên khi nghe nói đây là Plei-me.
- Đây là Plei-me à?
- Vâng! Đây là Plei-me, bãi xương trắng của hằng ngàn người… Đồng chí có muốn xem…
- Câm ngay ! Tao bắn bề đầu. Pốp !
Cậu giao liên ôm mặt tiu nghỉu lùi ra. Thấy Mạnh Rùa nổi cáu tôi cũng không biết làm sao. Còn Năm Cà Dom thì rỉ tai Mạnh Rùa:
- Cậu giao liên là người có dự trận Plei-me đấy ông bạn. Cậu ta biết rất rõ. Cậu ta thấy cậu là nhà quân sự cho nên cậu ta kể sự thực cho cậu liệu bề mà điều quân.
Mạnh Rùa lặng thinh. Có lẽ y thấy mình vô lý. Y nói chữa ngượng:
- Thế ra mình không thể dừng ở đây được à ?
- Đúng ! Mình phải vượt qua cái tử điểm này chớ !
Mạnh Rùa bỏ đi một nước.
Anh giao liên đợi cho Mạnh Rùa đi khuất, bèn nói với chúng tôi:
- Cán bộ tiểu đoàn đấy. Sáng suốt nhỉ !
Tôi vuốt giận anh ta:
- Thôi cậu. Anh ta vừa thua một trận, nền anh ta cáu.
- Sao anh ta có quyền đánh cấp dưới.
- Có chứ! Có thừa nữa chứ! Anh ta đập cả bằng gậy !
Anh giao liên gạt phăng:
- Thôi được! Các anh chuẩn bị, tôi đi đây !
Tôi biết là bỏ mạng sa tràng rồi. Ở đây nhất trạm nhì trời. Sao Mạnh không chịu hiểu !
Thế là cuộc hành quân bắt đầu. Anh giao liên đứng trước mặt Mạnh Rùa dập gót chào hẳn hoi.
- Tôi xin dắt đường tiếp tục.
- Cho khéo nghe. Lạc đường tao bắn bỏ. Đồ ăn hại !
- Vâng ạ ! Nhưng em xin báo cáo là bãi pháo ở trước mặt. Đơn vị phải vượt nhanh thật nhanh.
Chúng tôi xốc ông Chín dậy, nhưng ông còn sức đâu nữa mà dậy. Lão già ngoại ngũ tuần đã mài mòn hết cái khối con sức khỏe trên đá Trường Sơn, bây giờ ngồi dậy không nổi, còn sức đâu mà vượt qua bãi pháo ? Ông Chín lấy sâm Triều Tiên ra ngậm cầm hơi. Ông cố lắm mới mở mắt ra được. Người ông như cái áo giấy mắc mưa.
Ông Chín gượng đứng dậy với sự giúp sức của tôi và Năm Cà Dom.
Vấn đề lương tri, lương tâm, lương gì gì nữa đều được đặt ra ở đây tại chỗ này, nơi hai bàn chân của ông già lập trường đang run run đứng. Dìu ông ta đi hay bỏ ông ta ở lại đây, nơi mà cọp đang thèm thịt người ?
Dìu ông ta đi là đúng, đúng quá đi chớ.
Ai không biết vậy, nhưng lấy gì để mà dìu ông Chín ? Trong bụng mỗi người chúng tôi đều chỉ có nước lã, dìu ông Chín đi thì ông sẽ đi được mấy bước, còn khiêng ông trên vai, thì là chuyện không thể làm đối với bất cứ ai ở đây.
Ông Chín tuy mệt mỏi thể xác nhưng tinh thần rất minh mẫn. Ông nói với tôi một thôi dài không dứt đoạn:
- Cám ơn các đồng chí. Các đồng chí muốn cho tôi đi tới gần quê hương hơn nhưng tôi biết sức tôi đã kiệt cạn rồi. Tôi đành nằm lại đây thôi. Nhưng tôi cũng đã toại nguyện lắm rồi. Dù sao tôi cũng gần quê tôi hơn khi tôi ở ngoài kia. Ở đây là miền Nam rồi. Các đồng chí cứ yên lòng bước tới, tôi mở mắt to ra mà nhìn các đồng chí đi mỗi bước gần quê hương thêm một bước.
Khi tôi còn ở Hà Nội tôi có nghe một câu chuyện đã trở thành giai thoại như sau: Có một lão già Nam Bộ vượt Trường Sơn. Khi về tới gần ranh Nam Bộ thì ngã bệnh nặng. Biết lão không thể sống được anh em trong đoàn bèn khiêng lão về tới đất Nam Bộ.
Lão già cố sống cho đến lúc anh em nói cho lão biết đây là đất miền Nam. Có lẽ lão chỉ mong chờ cái giây phút đó thôi, cho nên khi lão nghe anh em nói thế thì lão thòng chân xuống chấm đất thì tắt thở.
Câu chuyện đó không biết có xảy ra hay không. Mà bây giờ tôi lại thấy một chuyện thực trước mắt đây.
Tôi và Năm Cà Dom mỗi đứa một bên xốc nách ông Chín, lê ông già đi tới.
Anh giao liên dắt cả lũ vừa quân vừa dân chánh lủi trong rừng, đi theo một con đường mới hoàn toàn, dưới chân không có quãng mòn nào cả.
Một cuộc chạy băng rừng nối tiếp theo một cuộc chạy băng rừng, bụng ọc ạch nước suối, đầu nóng rực như than lửa.
Anh giao liên cứ dừng lại và quát:
- Chỗ này máy bay bay qua thường lắm. Đi cho kỹ.
- Đây là bãi pháo. Chạy nhanh lên !
Đây là sự trả thù. Cái tát tay của Mạnh Rùa mang lại kết quả này. Tôi biết mà tôi không sao ngăn được. Cái khổ của tôi là phải chia một nửa trọng lượng của một lão già với Năm Cà Dom. Hết leo lên lại tuột xuống, không có một bước nào bằng phẳng.
Hơi thở của ông Chín phụt ra nóng như lửa đốt mặt tôi. Thỉnh thoảng ông lại ngã hằn đầu vào vai tôi. Bộ râu khó coi của ông quệt qua quệt lại trên mặt tôi. Còn cặp mắt ông thì nhắm híp lại.
Chân tôi đã rụng rời. Tôi thở hết ra hơi. Tôi vẫy anh giao liên lại và nói:
- Thôi đồng chí… cho… tôi xin đi !
Dường như anh giao liên biết rằng tôi hiểu ý định của anh nên anh xổ ra ngay một tràng dài như đại liên:
- Bố chúng nó chớ. Gặp ông chơi thì có mà hộc máu mồm rụng cả chân. Bảo cho chúng nó biết chúng nó bỏ cái thói đó đi. Chưa hết đâu, ông còn cho tiếp một màn nữa.
—>Chương 29
- 29 -
Mặt trời đã xuống thấp hơn ngọn cây rừng khi chúng tôi được lệnh hạ trại của anh giao liên.
Thiệt là may phước.
Tôi và Năm Cà Dom cố treo võng căng tăng thật nhanh cho ông Chín, rồi hai đứa ngã lăn ra đất như lần trước.
Anh giao liên đến bên tôi, với giọng thân thiết:
- Xin lỗi nhé ! Nếu không có các anh tôi cho cái đám thổ phỉ này lội rừng sáng đêm nay.
Anh ta lôi tôi ra rỉ tai:
- Ngày mai vừa hừng sáng là tôi hô biệt kích tới nhé. Các anh cứ nằm ngủ như thường, để tôi cho chúng nó “tập thể dục” một trận nữa.
Mạnh Rùa cũng không phải là tên chỉ huy gà mờ. Cho nên tôi vừa chợp mắt là hắn đã hầm hầm tới. Hắn quát:
- Thằng giao liên đâu rồi ?
Anh giao liên đang nằm trên võng ngay bên cạnh tôi. Anh ta liệu bề không thoát được nên vội lên tiếng:
- Dạ… em đây ạ !
- Tiên sư mày, mày là thằng phản động phá hoại quân đội, tao bắn mày bỏ đây cho cọp Plei-me ăn xác mày nghe chưa ?
Mạnh Rùa vừa nói vừa nghiến răng, rồi hắn quát lính trói anh giao liên lại. Tuy là tàn quân nhưng đơn vị của Mạnh còn đủ sức trói một thằng người vào gốc cây.
Mạnh Rùa móc súng ra bước tới, lên đạn. Tiếng cơ bẩm lùi ra rồi chạy tới đưa đạn rền nòng nghe rõ quá, làm tôi ngồi bật dậy.
- Anh Mạnh ! Tôi kêu rú lên. Bắn nó ai dắt đường.
Mạnh quay lại tôi, đôi mắt lườm lườm:
- Tao không cần ai dắt cả. Tao vạch lấy đường mà đi !
Mạnh Rùa mổ súng vào trán anh giao liên:
- Mày định giết hết đơn vị tao phải không, mày là thằng gián điệp. Tao bắn mày là bắn một thằng gián điệp !
Anh giao liên cười nhếch mép:
- Thằng nào bắn tao mới là thằng gián điệp. Mày đã giết gần hết binh sĩ của mày rồi. Ai bắt tội mày mà mày bắt tội tao ? Đơn vị này rồi sẽ có thằng tố cáo mày.
Tôi bảo Năm Cà Dom can ngăn Mạnh Rùa. Hắn há không nhớ cái chuyện cướp kho gạo đã đưa đến cái hậu quả nào hay sao ? Bây giờ lại làm cái trò này nữa.
Mạnh Rùa có lẽ đã bị câu nói của anh giao liên đảo lộn tâm thần nên hắn quay đi, và kéo cơ bẩm lẫy viên đạn văng ra lăn lóc dưới đất.
Hắn lẩm bẩm:
- Tôi đi guốc trong bụng chúng nó mà. Làm trời với ai chớ với tôi thì tôi diệt. Nó tưởng tôi không biết cái trò trẻ con đó hả ?
- Thôi đi cậu ! Năm Cà Dom xô Mạnh Rùa ra xa rồi đến mở trói cho anh giao liên.
Trời tối nhanh với cơn mưa đố ập xuống bất ngờ.
Anh giao liên được mở trói, đến ngồi phệt bên tôi cứ nhổ nước bọt xoèn xoẹt, tỏ vẻ bất bình đến cực độ. Anh ta ngồi im như gỗ, còn tôi không biết nói động tới anh ta bằng cách nào với lời lẽ nào cho khỏi bị anh ta phản đối. Sợ chọc anh ta nổi xung lên thì khốn.
Nhất trạm nhì trời mà !
Nhưng may quá, anh giao liên lại lên tiếng:
- Hắn ta biết cái Plei-me là cái thứ gì mà mới nghe tôi nói thế đã vội nhảy cỡn lên bênh vực chứ? Đấy là tôi mới nói sơ sơ thôi chớ chưa nói sự thực thê thảm của quân ta trong trận này đấy. Nếu tôi nói sự thực ra chắc tôi bị xử bắn chắc.
Tôi hỏi:
- Sự thực bi thảm lắm sao đồng chí ?
- Thua to quá to đứt đuôi đi rồi chớ còn bi thảm bi thiết gì nữa.
Bố nó!
Ở ngoài Hà Nội, mới nhong nhong vô tới đây tưởng mình là ông tướng nhà trời. Đụng với Mỹ, nó giả cho vài trận thì trọc đầu đi đừng có mà lên mặt !
Anh giao liên ngoảnh lại hỏi tôi:
- Một trận đánh như vậy đó mà khi kể lại tôi nói rất dè dặt, thế mà hắn ta tát tai tôi là thế nào ? Các ông ấy thích nghe báo cáo chiến thắng lắm. Chiến thắng thì khó chứ báo cáo chiến thắng thì dễ mà. Thí dụ như trận tập kích của hắn ta ném vào quân Mỹ vừa rồi đó cũng là chiến thắng !
Tôi hỏi anh giao liên:
- Tới trạm có gạo không đồng chí ?
- Cái đó tôi không được biết đồng chí ạ !
- Chớ bình thường các đồng chí ăn gạo ở đâu ?
- Chúng tôi lãnh lúa hoặc bắp.
- Trời đất, rồi làm sao mà ăn ?
- Vịt gà ăn lúa thì sao?
- Đồng chí nói gì kỳ cục vậy?
-Tôi mong có lúa để mà sống, chỉ sợ không có lúa thôi.
- Mỗi khẩu phần là bao nhiêu?
- Người ta phát bao nhiêu thì lãnh bấy nhiêu.
-Không có qui định gì hết à?
- Có nhưng giao liên là cơ quan bán quân sự cho nên phải tự túc lấy tám mươi phần trăm, chỉ lãnh được hai mươi phần trăm mà không có đủ để phát cho chúng tôi.
Sáng hôm sau nắng lên đẹp.
Một ngày nắng lên giữa rừng là một hạnh phúc quá to lớn đối với người đi đường. Cho nên khi nắng lên ấm một chốc là đã thấy có người tắm dọc hai bờ suối .
Ôi chao! Trông thật là vui, và thật là nhộn. Có cả một sự biểu dương xương sống xương sườn. Không phải một cuộc biểu dương sức mạnh mà ngược lại.
Riêng tôi thì tôi nhớ chắc chắn rằng từ ngày đi trên đường này tới nay tôi chỉ tắm có một lần, còn những trận dầm mưa hay ngâm mình dưới suối thì không kể. Vì tắm đối với tôi có nghĩa là sốt.
Tôi thấy mình vừa nhát vừa lười, tôi không còn tin tưởng ở cái gì nữa cả. Đã vậy tôi còn cho lòng tin là một sự ngu xuẩn.
Càng tin thì càng bị lừa và càng thất vọng.
Tôi còn đang chưa biết làm gì thì Năm Cà Dom đến rủ tôi đi đào trùn hổ về ăn, vì Năm đã trông thấy có người đào được loại ký sinh trùng này ở đằng kia. Tôi miễn cưỡng đi theo Năm Cà Dom nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng mình có thể nuốt trôi được con trùn hổ.
Năm Cà Dom hỏi:
- Cậu đã từng ăn con cóc chưa ?
- Chưa!
- Làm cách mạng giải phóng miền Nam thì phải tập ăn cóc, rắn mối, dế nhũi, mối cánh, v.v… nhưng có con “kiếc” là đừng có xực nghe chưa ? Ăn là chết ngay !
- Con kiếc là con gì?
- Nó cũng là loại cóc nhưng da nó đỏ, và có gai nhọn.
Có tiếng Mạnh Rùa đang cãi nhau với Tuất làm tôi và Năm Cà Dom dừng lại lắng nghe.
- Tại cậu tất cả ?
- Chứ để cậu bắn chết nó à ?
- Thì đã sao ? Hơn là nó trốn mất rồi.
- Chính là tại cậu. Tại sao lại tát tay nó? Tớ nói thật. Đây chẳng phải phê bình gì cậu. Tớ thấy cậu đối xử với mọi người như một anh gì chớ không phải cấp chỉ huy.
- Lính tráng như thế ai chỉ huy được ?
Rồi Mạnh Rùa quay ra quát:
- Đi tìm cho được lôi cổ nó về đây.
Vì sự sống chung của đơn vị và cũng là sự sống riêng của từng thằng, đám lính chạy tủa ra.
Như vậy là anh giao liên đã trốn rồi. Một trường hợp chưa từng xảy ra từ trước tới nay. Thế là rắn đã mất đầu. Cuộc hành quân đình lại hoàn toàn. Và chưa biết là chuyện gì sắp xảy đến cho chúng tôi Biết đâu lại chẳng có một màn vui vẻ như cái màn tiếp theo vụ cướp kho hôm trước ? Độ vài giờ sau có lính chạy về vừa thở hồng hộc vừa phi báo cáo với Mạnh Rùa.
- Tôi… đã gặp !
- Gặp cái gì?
Người lính đứng thở đằng mồm mãi mới nói tiếp được:
- Em gặp một cái võng mắc trên ngọn cây, em gọi mãi nó cũng không đáp lại. Em dọa bắn, nó cũng im luôn. Đích thị hắn rồi. Em cho người giữ chặt. Em chạy về báo cáo.
Mạnh Rùa quát:
- Gọi nó xuống ngay. Không xuống cứ bắn bỏ !
Mấy người lính khác lại chạy đến báo cáo:
- Đồng chí Thưởng đã chết!
Mạnh Rùa quát:
- Thưởng nào ?
- Thưởng Trung đội trưởng trung đội sáu đại đội hai.
Mạnh Rùa như bị ngọn roi bất thần quật vào giữa mặt tối tăm trời đất. Mạnh Rùa nhảy cỡn lên la rối rít:
- Sao nó chết ? Nó chết ở đâu ?
Ôi ! Trời đất ơi !
Anh lính báo cáo lại rành mạch đầu đuôi. từ hôm qua Mạnh Rùa đã đập Thưởng mấy gậy, đã cởi hết quân phục của Thưởng và bỏ Thưởng ở lại phía sau trong lúc Thưởng vừa đau dạ dày vừa sốt rét, cho Mạnh Rùa nghe. Nghe xong Mạnh Rùa hỏi:
- Bây giờ nó ở đâu ?
- Ở đằng kia.
- Đằng kia là đằng nào?
Rồi Mạnh Rùa chạy theo anh lính.
Thưởng nằm úp mặt trên một cái rễ cây. Mình mặc một cái mai ô. Mạnh Rùa quì sụp xuống, ôm xốc Thưởng lên, ngửa mặt Thưởng lên.
Nét mặt của Thưởng đã xanh ngắt và mũi đầy bụi đất. Trong mồm Thưởng có mấy cái lá xanh còn thòi cả ra ngoài hai hàm răng. Hai tay Thưởng giơ thẳng ra phía trước như trong lúc ngã xuống Thưởng cố vươn tay lên bám lấy cái gì để nhoài tới, bây giờ đã cứng ngắt không xếp xuống được.
Mạnh Rùa kêu lên:
- Trời ơi, sao mày bò tới đây Thưởng!
Mày giận tao lắm phải không ? Tao là thằng khốn nạn !
Rồi viên chỉ huy gục đầu trên ngực của thằng bạn và là cấp dưới của mình.
Nghe Thưởng chết, tôi và Năm Cà Dom chạy đến. Tôi thấy cái cảnh tượng Mạnh Rùa gục trên ngực thằng đồng đội mà khóc rống lên. Có lẽ Mạnh Rùn hối hận về sự đối xử của mình đối với Thưởng. Nhưng có lẽ cũng chưa có một viên chỉ huy nào bị dồn vào tình thế bế tắc như Mạnh trong những ngày mà tôi đi trên đường Trường Sơn này. Những trận bom liên tiếp, những trận đánh thất bại, những cơn đói, không có một phương tiện liên lạc và chỉ huy trong tay… Làm chỉ huy như Mạnh thật cũng khổ.
Tôi thấy Mạnh giải quyết mọi công việc với những quyết định bất thường, như xét ba lô chúng tôi, rồi cướp kho gạo, rồi mở đường máu, và tát tai anh giao liên.
Nhưng tôi hiểu Mạnh, tình thế của đơn vị làm cho Mạnh lên cơn sốt tâm tư. Mạnh muốn hành động ghê gớm để vượt lên mọi gian nan đang dìm đơn vị của Mạnh xuống, nhưng Mạnh bất lực.
Mạnh đã xử sự với Thưởng như một chúa đảng đối với một tên lâu la có tội. Mạnh kéo quân đi, bỏ Thưởng ở lại. Mạnh cũng không còn nhớ tới Thưởng bị bỏ lại.
Bây giờ Thưởng đã bò lê tới đây, quyết đuổi theo kịp đơn vị để chết trước mặt Mạnh. Cái chết đó là một sự trả thù đắt giá nhất đối với Mạnh. Linh hồn Thưởng chắc được thỏa thuê, khi mà thân xác của Thưởng cứ được nước mắt của viên chỉ huy bạo tàn đang hối hận tưới lên.
Những mảnh mặt trời nhảy múa loáng thoáng qua kẽ cây như những mảnh hồn oan hiện về sưởi ấm chúng tôi, như những mảnh xương biết đi, đi tìm người quen cũ.
Tôi không hiểu tôi là ai, là cái gì, chỗ này là chỗ nào nữa, nếu không có tiếng Năm Cà Dom gọi tôi sang lều ông Chín.
- Nhanh lên ! Nguy quá rồi !
Tôi vọt sang. Nguy thật. Ông Chín năm trên võng như một nhà tu sắp liễu đạo. Người ông tóp ve sát với chiếc võng.
Mắt ông Chín vẫn còn thần sắc, ông nói sang sảng từng tiếng một:
- Tôi
đi không đến! Tôi phải nằm lại đây rồi. Các đồng chí hãy tiếp tục đi cho đến nơi.
- Ông Chín! Ông đừng nói gở!
- Không, tôi biết sức tôi. Tôi không thể nào đi đuợc nữa.
- Không đi thì nằm lại đây.
- Tôi sắp chết! Tôi biết. Tôi nằm lại đây mãi mãi.
- Chúng tôi sẽ khiêng ông Chín cho tới nơi.
Ông Chín nhếch môi cười.
Đây đâu phải là chuyện vui mà ông Chín lại cười. Ông Chín cười vì chúng tôi bịa ra một câu chuyện và để cho nó mãi mãi là một câu chuyện bịa.
Ông Chín móc trong túi áo trên, chọn trong xấp giấy lấy ra một tấm ảnh bốn sáu của ông, nói:
- Các đồng chí mang dùm ảnh tôi về đến nơi, thì coi như tôi cũng về đến nơi với các đồng chí.
Ông Chín giơ tấm ảnh lên, không cố ý đưa cho ai nhất định. Năm Cà Dom đón lấy. Năm là người Gia Định với ông Chín.
Rồi ông Chín nhắm mắt đi luôn một hơi.
Như người ta đóng kịch. Thật là đơn giản hết sức.
Chúng tôi đâu có cái gì trong tay để đào đất, ngoài con dao găm lục như trành bằm mà chúng tôi đeo trong lưng lâu nay như thanh bửu kiếm.
Đất ở Plei-me cứng. Cho nên tôi và Năm Cà Dom ráng sức bình sanh bươi mãi mà chỉ được cái lỗ cạn như heo ủi.
Chúng tôi có người chết mà đơn vị của Mạnh Rùa không hề giúp đỡ tí gì. Giá phải còn thằng Roánh ở đây thì ít ra nó cũng tiếp chúng tôi một tay.
Còn đằng này thì họ xem như không có chuyện gì xảy ra. Tôi chỉ nghe họ nói với nhau:
- -Lão già đi âm ty rồi!
- Thôi chết cho khỏe cái thân già. Về trong đó ổng cũng không sống thêm được mấy ngày.
- Cái ba lô của lão không biết còn gì trong đó.
Ông Chín nằm trên võng, chiếc màn xanh lá cây đã phai màu phủ lên người ông như ông đang ngủ. Năm Cà Dom giở màn đưa tay vuốt mặt ông Chín và nói với giọng bình thường:
- Thôi ông Chín nằm lại đây ngủ cho ngon nhé. Tôi về tới Gia Định tôi sẽ tìm đến gia đình ông.
Chúng tôi soạn ba lô ông Chín. Không còn gì cả. Gạo, muối, đường sữa đều hết sạch, củ sâm cuối cùng ông Chín đã dùng hôm qua. Còn mấy chiếc áo quần và cái chăn bằng vải dù của ông đổi được ở dọc đường, chúng tôi đem cả ra lớp đắp lớp quấn cho ông ấm lòng.
Đấy gia tài của một người cán bộ đi theo đảng hơn hai mươi năm ! Cứ để ông Chín nằm như thế trên võng, tôi và Năm Cà Dom xỏ đòn vào khiêng với sự giúp sức của Hoàng Việt và ông già Noël đưa ông Chín ra phần mộ.
Huyệt mộ cạn và thiếu bề dài. Thiệt là tủi thân cho người mãn phần. Tôi định đào thêm một chập nữa nhưng Năm Cà Dom bảo đặt ông Chín xuống đất và bảo:
- Đừng đào tôi có cách.
- Để ông Chín nằm nghiêng và co lên à ?
Chúng tôi lấp đất lên. Đất không đủ che kín thi hài ông Chín. Chúng tôi bẻ lá đắp thêm. Sau cùng Năm Cà Dom nhặt một hòn đá to đặt nơi dầu mộ làm như dựng bia cho người bạc phận.
Chúng tôi cúi đầu.
Vĩnh biệt ông Chín !
Có lẽ mỗi người đều cảm thấy sinh mạng của mình mong manh quá. Trời ơi! Thế mà đã xong một đời người. Trên đời này có cái chết nào rẻ hơn không?
Nhưng kể ra thì ông Chín hãy còn yên ấm hơn những mảnh xương vô thừa nhận phơi nắng phơi mưa trắng cả vùng rừng núi Plei-me này.
Tôi nằm li bì trên võng, cảm thấy mình vừa chôn theo cái xác già cùng kiệt kia tất cả ý chí của mình.
Vâng, tôi giờ đây chỉ còn là một cái xác cử động, chưa biết sẽ vấp ngã mà không đứng dậy nổi lúc nào.
Có lẽ để cho người nằm lại không cô đơn, Mạnh Rùa cho đem chôn Thưởng bên cạnh ông Chín. Cũng một nấm đất sơ sài, có rào cây tết lá, nhưng trên lưng mộ hình như có những cái gân đất nổi lên như những lằn gậy đập trên thân người Trung đội trưởng.
Cả đoàn tôi và đơn vị của Mạnh Rùa đang mong chờ các toán đi tìm, trở về với anh giao liên bị trói gô với vẻ mặt hằn học, nhưng chuyện đó chưa xảy ra thì có mấy người về báo cáo về cái võng treo trên ngọn cây. Tôi nghe họ nói với Mạnh.
- Tụi em leo lên đến nơi treo cái võng. Một thằng chết.
- Thằng nào?
- Dạ em không dám nhìn kỹ. Em sợ quá.
- Thằng nào mà chết kỳ cục vậy?
Rồi không ai nói tới ai nữa.
Chiều, người ta lại nhóm lửa. Nhưng trong gà-mèn không có được một hạt gạo. Người ta tìm lá rừng. Người ta đi hái nấm. Người ta nấu nước sôi.
Tôi lại đến với Ngân.
Ngân đang nấu cháo. Trong những gợn nước sôi trào những hạt gạo nhào lộn một cách thoả thích như một bầy tiên nữ nõn nà bơi lội đùa cợt nhau trong một dòng sông thần kỳ.
Ngân chân thật:
- Sao hồi tối anh không lấy gạo về nấu?
- Mưa ướt củi hết không nấu được.
- Rồi anh nhịn đói à?
- Cũng không đói lắm.
- Anh tự ái phải không?
Tôi cười và ngồi xuống gần bếp lửa. Ngân lại hỏi:
- Anh giao liên trốn mất hả anh?
- Trốn mất rồi.
- Như rắn mất đầu. Rồi làm sao mình đi?
Tôi làm thinh.
Ngân sớt cháo ra nắp ga-men và trao cho tôi. Không chút ngần ngại tôi đỡ lấy cái nắp ga men gần đầy cháo loãng. Mùi thơm xộc vào mũi tôi ngây ngất. Nước mồm ứa ra, tôi nuốt chận vào hai ba lượt để có đủ sự bình tỉnh mà thưởng thức món cháo ngon do những ngón tay của Ngân tạo nên. Những ngón tay lúc nãy đã vo những hạt gạo này, những ngón tay dính tro lọ lem và có vết bỏng lửa và rươm rướm mồ hôi.
Tôi nâng chiếc nắp ga-men cháo lên môi mà mắt vẫn không rời những ngón tay của Ngân đang hoạt động.
- Ngân ạ!
- Dạ!
- Bao giờ về đến Châu Đốc, anh ghé nhà em thì sẽ được thết một bữa cháo cá phải không?
Ngân nhìn tôi, đôi má ửng hồng, đôi mắt nhấp nháy. Tôi chờ đợi ở Ngân một tiếng nói.
Nhưng, “đoàng”! Tiếng súng! Súng nổ!
Ở phía đằng kia, cách nơi này hơi xa. Tôi cho là không quan trọng, nhưng chỉ một thoáng là người ta đã đồn khắp khu rừng:
- Tiểu đoàn trưởng tự sát.
- Ai tự sát?
- Mạnh Rùa!
- Có chết không?
- Bắn vào đầu mà không chết?
Sau mấy cái chết liền nhau lại đến một cái chết.
Sau cái chết của Mạnh Rùa, mọi người đều cảm thấy mình mất linh hồn. Cuộc hành quân giải phóng miền Nam đang đến hồi vui vẻ nhất. Chúng tôi đi lang thang trong rừng, mò mẩm tìm đường đi với sự lãnh đạo của Tuất. Nhưng Tuất kém xa Mạnh. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải vạch một con đường.
Tôi bảo Năm Cà Dom xem lại kỹ vết thương, nhưng ông bác sĩ lắc đầu. Tôi quay trở về võng nằm chúi mũi vào mép võng, tay chân như rã ra từng mảnh. Chung quanh tôi, những mẩu xương trắng ánh lên trên một bãi đất mênh mông đầy những hố bom, chào đón thêm một linh hồn.
Sàigon, Hè 1974
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét