Phan Nhật Nam
CHƯƠNG 7
Thuấn ngừng xe trên cầu, nhìn xuống dòng sông
Bồ loáng sáng, ánh sáng đầu tiên của một ngày. Trời lạnh, sương mù ở mặt nước
bay lên đặc cứng nồng nàn. Dòng sông sâu mịt mờ dưới chân xa, hai bờ cát trắng
váng vất lạnh lùng. Sáu giờ sáng đường chưa mở, mình có thể đứng ở cầu chơi…
Thuấn nhủ thầm.
"Đại uý đi đâu mà sớm rứa?" Người
lính gác cầu hỏi thủ thỉ thân mật.
"Tôi ở Huế về…"
"Đại uý thật liều, đi chặng này nguy hiểm
lắm, hay bị mìn, xe hàng cũng không dám đi”.
"Chết có số, sợ gì, anh hút thuốc?"
Người lính chia tay lấy điếu thuốc hân hoan…
"Đại uý chắc có bồ ở Huế, con gái Huế gặp
đàn ông Bắc là xứng…"
"Xứng gì? Tôi đi ngủ đò bà Tôn…"
"Đại uý sành hí, biết cả đò mệ Tôn".
Nụ cười hiền lành và chịu đựng chêm vào câu nói.
"Anh gác ở đây lâu hay mau rồi?”
"Dạ được sáu bảy tháng. Trước em ở Tiểu
đoàn 3, Trung đoàn I, bị thương ở trận ngoài Cùa nên về Địa phương quân gác cầu
này… Nhảy dù của Đại uý cực quá, em thấy ở đây cả năm, tụi em người vùng này,
có gì còn có gia đình, chớ còn Đại uý ở tận “trung” Sài Gòn…"
"Tiểu đoàn tôi có nhiều người Trung lắm,
thằng cha đi theo tôi là người gì ở tận bên nhà ông Ngô Đình Cẩn đó…”
"Phú Cam, rứa là hắn có đạo rồi…”
"Không, hắn đạo Phật, chịu khó một cây…
Người Huế anh giỏi chịu đựng nhất. Xứ này buồn và nghèo đến nỗi không ngờ được.
Ra đây mới thấy cái nghèo của miền Trung kinh khiếp". Thuấn nhìn quanh,
núi sau lưng xanh mờ lớp lớp, trước mặt và đàng xa những thôn xóm nằm dọc bờ
sông còm cõi hiu hắt tiếp giáp đến phá Tam Giang, dải cát xám biền biệt thứ cỏ
tím mỏng manh ngút ngàn bất tận… "Xứ Anh nghèo đến độ sông cũng không có
nước, Thuấn chỉ xuống dòng sôngg lững lờ mặt nước xanh thẫm quanh co giữa hai dải
cát trắng… Ở Quảng Trị có con sông nghe đến lạnh người, sông Thạch Hãn, anh
biết sông Thạch Hãn là gì không, là mồ hôi của đá… Trời ơi, đặt tên gì mà bi
thảm đến quá vậy”.
Người lính cười, cười hoài, như thứ sức mạnh
luồn sâu dưới thịt…
"Đại uý lầm rồi, bây giờ nó không có
nước, cha, tới khi nó lụt thì khỏi chê. Đại uý thấy từ dưới mặt nước lên đây
tới ba thước, buổi chiều nước còn xấp xấp dưới móng cầu, ban đêm trời tạnh mưa,
gió thổi, nước nguồn đổ về đỏ chạch, mặt trăng viền đỏ viền cái vành vàng khè và
nước dâng lên từ từ, người ta phải chồng bàn ghế lên giường để ở, chồng tới mô
nước ngập tới đó, người ta đánh thùng thiếc kêu cứu… Mà ai cứu được ai, mấy cái
làng từ đây đến Sịa, vô thấu trong Đồng Xuyên, xa tới phá Tam Giang, chỗ mô
cũng ngập mênh mông, đứng ở cầu này nhìn từ đây ra biển chỉ thấy một mặt nước
trắng xoá, tưởng như biển chảy ngược vô đây… Thảm lắm Đại uý ơi, đứng ở cầu mà
thấy bà con trôi, đầu họ nổi lên, thụp xuống trong nước, lòng đau như cắt nhưng
biết làm sao được. Không phải trôi vài người mà cả nhà, cả làng cùng trôi. Họ
ngồi trên mái nhà, cái mái trôi và rã từ từ, cha con vợ chồng ôn bà dính lại
một chùm rồi chìm luôn… Nước ở đây lại mạnh, Đại uý thấy núi gần đó, ào một cái
là xuống biển, không làm răng mà chạy cho kịp…"
"Nguy biến thế thì ở gần sông làm
gì?"
"Không ở đây thì biết ở mô Đại uý? Bên
thì núi, bên thì biển, cái đất chi mà hắn hẹp không có chỗ thở, phải ở dọc mấy
con sông mới kiếm đủ đồ ăn. Đại uý thấy đó, ngoài hai bên sông ra chỗ mô cũng
toàn cát, cát xám xịt đen đúa chẳng làm được việc gì… Sông nó giết người nhưng
nó cũng nuôi sống được người…”
Thuấn im lặng nghe người lính nói, điếu thuốc
lá phà khói mênh mang, chàng thấy cay ở mắt, một đêm thức trắng hay cảnh tượng
biển nước màu xám đỏ tuôn tràn mênh mông trên đó thoi thóp dật dờ những đầu tóc
rối…
Có tiếng gọi ở đầu cầu.
"Có ai kêu tui. Thôi Đại uý đứng chơi,
chưa có ai đi vào giờ này, nếu có thì tôi xoay cái bảng đỏ cho Đại uý biết…”
Thuấn gật đầu mời thêm một điếu thuốc… “Dạ,
cám ơn Đại uý”, người lính đưa tay chào, những ngón tay cong queo, cái chào mềm
oặt. Thuấn thấy trống trải một cách dễ chịu, những phiền muộn tưởng đeo chặt
trong người phút chốc bay đi thênh thang. Đưa tay xoa mặt, dấu vết trận tình
còn đâu đây, thấy được khởi đầu cũng như chấm dứt, chỉ là cơn mê. Chỉ là một
cơn mê. Còn một ngày nữa là hết năm, tính tuổi ta là hai mươi bảy, tam thập nhi
lập. Tiên sư, cái thân lo chưa xong, Thuấn leo lên xe rồ máy, xe chạy chậm chậm
trong sương mù pha nắng. Vặn lưng, mệt thật. Thấp thoáng trong mù mờ hình ảnh Quỳnh
Như oằn người dưới cơn tình ái. Thuấn mỉm cười vu vơ…
7.
Đại đức Trí Không đặt cây súng trên mặt bàn
đen xỉn, ẩm mùi nước tương, đậu phộng. Cây súng đen bóng lạnh lùng. Đại đức nắm
cây súng lên, hướng nòng súng vào góc mái nhà… Khi muốn hắn cũng nhắm như thế
này đây. Đại đức khẽ rùng mình như thấy tội giới sát đang khép vào. Phải bắn
một người, quyết định khó khăn làm nhức mỏi thân thể như sau khi chặt hàng bó
củi lớn. Không bao giờ. Người tu hành thầm nhủ. Phải, không bao giờ, dù bị ép
sát đến cuối đường, sẽ giải thoát bản thân, hạnh vô uý của đạo Phật sẽ được noi
theo trong giờ phút chót. Chết, Đại đức thấy lờ mờ trước mắt phút tương quan
khoảnh khắc ngắn ngủi để qua đời sống khác. Nhưng không phải mình chết mà dự
phần vào cái chết của người khác. Đại đức Trí Không run tay… Bàn tay run run mở
chiếc khăn màu đỏ đậm như quết trầu, đặt cây súng vào, chêm thêm hai cuốn kinh,
cho vào ngăn giữa chiếc cặp da cũ nát trong có cuốn sách Đạo Phật ngày nay của
một vị thượng toạ vừa tốt nghiệp ngoại quốc về. Vị thượng toạ có tư tưởng cấp
tiến muốn đặt vấn đề: Sinh hoạt Phật giáo trong hoàn cảnh hiện tại với những
điều kiện cụ thể… Thượng toạ có bao giờ biết được va chạm tóe lửa giữa Phật
pháp và thứ vũ khí lạnh băng ghê gớm này? Đại đức Trí Không cất chiếc cặp vào ngăn
tủ cao nhất bước ra sân chùa. Chỉ còn buổi chiều này thì hết một năm. Một năm
đã đi qua, nhà tu nghĩ đến số tuổi hai mươi tám. Hai mươi tám vừa sắp đến số
tuổi hai mươi tám. Hai mươi tám vừa sắp đến ba mươi, ngày vào chùa cũng chỉ
bằng tuổi hai điệu, đầu cạo trọc với một chùm tóc đằng trước bằng nửa bàn tay,
cơm chay đạm bạc nhưng ăn hối hả mê man, cơm đỏ lạnh tanh cứng ngắc nấu từ buổi
sáng để ăn qua trưa, chút chao mặn, lớp tương lõng bõng những hạt đậu phộng.
Năm tháng ốm yếu đã trôi đi như gió chạy trên đồi luồn qua rừng thông non. Rồi
ngày khôn lớn với những cơn xôn xao đột khởi, đột biến trong lòng… Không khí u
tịch của ngôi chùa như bóng mây che hẳn bầu trời nắng gắt.
Đại đức ghi tên học triết học để có thể so
sánh những âm ba tinh tuý Phật giáo trong dòng âm thanh hỗn loạn của tư tưởng,
dạy một vài giờ ở trường Bồ Đề tỉnh, làm việc nặng trong chùa giúp hai điệu,
thay thế Hoà thượng trụ trì điều hành nhà chùa. Vị Hoà thượng đã đến tuổi già,
giữa chiếc bóng đen lặng lẽ trên tường cùng khối hình hài bất động gầy guộc
không còn biên giới. Hai hình tượng khác biệt đó có những thông cảm âm thầm soi
vào nhau. Hoà thượng sống trên khoảng trống im lặng… Giữa im vắng của người và
cảnh Đại đức vạch một tương lai ẩn khuất êm ả như tiếng ngân chót của hồi chuông
trong sương chiều.
Đại đức Trí Không đi dọc theo khoảng sân để
lên chánh điện. Hoà thượng trụ trì đang đứng nhìn bóng mây giữa sân, thân thể
gầy gò với số tuổi chín mươi hai đứng vững chãi trông như một cây tre còn sót
lại sau trận bão khi các thứ cổ thụ kềnh càng to lớn đã bị giật tung. Đại đức
Trí Không nhìn chiếc hình hài mặc nhiên ấy lòng cảm thấy bình yên.
"Lạy thầy". Đại đức chắp tay cung
kính.
"Ừ, chiều ni là ba mươi Tết phải không
con?"
"Dạ, bốn giờ chiều rồi, không còn mấy giờ
nữa là hết năm”.
"Thầy biết, nhìn cái nắng vàng vàng với
cái bóng núi là thầy biết mấy giờ… Con năm ni là hai mươi tám tuổi, con học cái
chi dưới Huế?"
"Dạ Cao học Triết… Nghĩa là hết cử nhân
rồi sắp thi tiến sĩ". Đại đức mỉm cười vui thích sau chữ tiến sĩ.
"Tiến sĩ là ông Nghè. Thầy lúc trước có
học chữ Hán, không bao lăm… À này con, thông vạn quyển kinh mà lòng chưa yên
thì vô vị lắm, con gắng đừng để bị u tối với phiền toái ám trong đầu…”
"Dạ". Đại đức Trí Không chắp tay cúi
người xuống đi vào chánh điện. Hai chú tiểu đang chơi trò bắn nhau quanh bàn
thờ, những tiếng pằng pằng nổ liên hồi với khẩu súng là hai ngón tay trỏ và
giữa khép vào nhau…
"Pằng, chú chết trước!"
"Không, chú chết trước tui…"
"Ê mô được, tui bắn trước…”
Đại đức Trí Không mỉm cười, chắp hai tay sau
lưng khẽ hắng giọng. Hai chú tiểu im bặt chui tọt xuống gầm bàn thờ… "Chú
chui chỗ tê, tui chỗ ni… Ừ để tui đi đổ chậu nước”. Nhà sư xem như không thấy
trò chơi, chậm rãi đi đến bàn thờ Phật Thích Ca.
"Các chú chùi cái này chưa?"
"Dạ chưa, mới xong hai nhỏ, cái đó cao
quá, để con đi tìm cái ghế!"
"Ghế dưới bếp, lấy lên, thầy chùi giúp
một tay".
"Dạ". Chú tiểu chạy nhanh ra cửa.
Căn phòng vắng tanh, khói hương xanh nhạt bay
chậm rãi lượn từng vòng trong ánh sáng vàng tươi ấm áp phát từ những cây nến
lớn. Nhà sư nhìn lên tượng Thích Ca. Đôi mắt nhắm xuống bình thản, chiếc mũi
thẳng và nụ cười… Bao nhiêu lâu nhà sư đã nhìn nụ cười này, mười năm, mười tám
năm, một năm bao nhiêu lần, bao nhiêu giờ phút đã qua trước mặt pho tượng. Từ
lúc còn để chỏm, phòng chánh điện bát ngát mênh mông tưởng như không có giới
hạn và bức tượng uy nghi cao lớn. Rồi tuổi lớn, lớn dần để thấy ngôi chánh điện
hẹp nhỏ, bức tượng rụt lại còn một khối gỗ thếp vàng cao hai thước. Nhưng nhà
sư ngày càng chìm ngập trong niềm mê man khác, một cơn lụt êm ả nhận chìm xuống
hết phiền não khó khăn, bắt nguồn từ nụ cười lặng lẽ… Nụ cười. Nhà sư chợt rùng
mình. Người nghệ sĩ chơn chất nào đã vẽ được nụ cười đấng Chí Tôn trong phút
xuất thần ngắn ngủi tuyệt vời như thế. Đúng là một nghệ sĩ tràn đầy Phật tính
hiểu theo nghĩa đơn giản và trong sáng nhất… Nụ cười tràn trề tính chất Việt
Nam một cách kỳ lạ. Nụ cười của Phật ở tranh Ấn Độ quá gọn gàng sắc sảo, nụ
cười đã đến cuối cùng của chặng đường dài suy nghiệm. Nụ cười ở tượng đá Chiêm
Thành thì quá đơn giản, pha chút khô khan, cảm giác khô của chất liệu nhám
cứng. Còn tượng Phật của Trung Hoa và Nhật Bản nữa… Lạ thật, cũng là đức Thích
Ca, với dáng ngồi, những ngón tay từ bi… Nhưng tượng Phật Trung Hoa thì quá xa
cách, nụ cười quá an lành tự tại bát ngát vững vàng của dải đất mênh mang và
dòng giống Hán Nam. Nhà sư lại chợt rùng mình, cơn xúc động ào ạt nôn nao. Nhìn
lên, lần thứ bao nhiêu, thấy lại nụ cười của thớ gỗ mộc mạc, lớp sơn nứt từng
đường nhỏ, tà áo cong cong chừng mực dịu dàng, những ngón tay đằm thắm và đôi
mắt nhìn xuống với nụ cười. Nụ cười hồn nhiên pha lẫn chút vô tư chịu đựng đơn
giản như khi ông lão dựng thẳng người nhìn lại thửa ruộng còn tươi luống cày,
trời trên cao xanh ngắt, cơn gió đầu xuân khẽ lay động chòm râu màu trắng thưa
thớt, những nếp nhăn trên mặt chợt giãn dần ra, đột nhiên có nụ cười, một nụ
cười bất chợt đầy ắp hạnh phúc mơ hồ chưa có hình khối, đối tượng… Hạnh phúc
được sống trong lòng đời đầy đủ cả khổ đau lẫn sung sướng, sống hay là nghi lễ
linh thiêng hân hoan mà thể chất diễn đạt cũng ngoài cơn cuồng nộ của cuộc mơ
hồ cố gắng. Cười như sau khi vừa lợp xong được mái tranh, cơn gió mùa đông bắt
đầu luồn qua khe núi, cười của lớp dân Nghệ Tĩnh khi vượt Trường Sơn đứng ở đỉnh
Hải Vân nhìn đồng bằng hai xứ Quảng trải dài đến tận chân trời… Nụ cười của
Phật Việt Nam còn có chút hạnh phúc cay đắng của người vợ Nam Xương khi thấy
bóng chồng thấp thoáng trong bụi mờ trên nẻo đường về, sửa soạn vở bi kịch nhức
nhối… Bao nhiêu năm nụ cười vẫn tràn đầy cơn gió thổi miệt mài trên con sông
xanh thơm bóng rêu, chuyển động lăn tăn giữa hai bờ lau lách.
Đằng trước chùa, bóng nắng bắt đầu nhạt và đêm
đã đến dưới đáy thung lũng. Khí lạnh và khói lam bốc cao. Đoàn quân mặc áo quần
nâu tiến vào thung lũng. Họ dắt lá trên nón, sau lưng, một hàng cây xanh rì
đang chuyển động. Đoàn quân dừng lại, hàng cây xanh thấp xuống, tiếng loạt xoạt
của gió thổi trên những thân cây nhân tạo, trong tiếng gió có hơi thở của
người. Người thở dồn dập đứt khoảng vì mệt. Bằng có mặt trong đám người, chỉ
tay về phía ngôi chùa nói với một thân cây um tùm lá… "Tôi đã làm áp lực
với một nhà sư trong chùa này, ông ta có ảnh hưởng nhiều với lớp thanh thiếu
niên của đoàn Quyết Tử, ông ta sẽ đóng vai trò đại diện cho lầm lẫn tôn giáo
trong những quyết định cứng rắn…” Bóng cây gật đầu, ánh nắng cuối cùng rọi
xuống thung lũng soi rõ một đôi mắt long lanh quyết chí nhưng le lói đường gân
đỏ mệt mỏi.
Lạc thắp nén hương vào chiếc ly đựng đầy gạo
được dùng thay bát nhang, có tiếng khịt mũi của người vợ. Lạc xoay người lại.
Vợ Lạc khoanh tay trước ngực cúi đầu lặng lẽ…
"Tôi với mình lấy nhau như thế đã mười
tám năm… kể từ ngày tôi đi lính”. Lạc bước tới, dựa lưng sát tường kéo vợ vào
người…
"Tóc mình khô quá sao chẳng gội gì
hết?"
"Nhà tắm không có nơi gội. Em có gội ở
Sài Gòn trước ngày ra đây… Tóc em có mùi?"
"Không". Lạc im lặng ngửi mùi nắng
bụi trên sợi tóc khô se của người vợ, bao lâu Lạc không làm cử chỉ thương yêu
nhỏ bé này, mười bảy năm tình vợ chồng và đời lính… Mới ngày nào đó khăn đóng
áo dài đi giữa hai lối tre in dấu chổi vừa quét, cô thôn nữ khép nép rụt rè
bước theo trong thứ nóng có khói bay mịt mù từ cây đuốc của ông chú từ hàng
đầu… Mười bảy năm, mới ngày nào mái tóc đen kịt đẫm ướt dầu dừa mát lạnh trong
lòng tay, nay khô se xơ xác dưới ánh điện vàng vọt theo cơn gió đêm lạnh buốt…
Mười mấy năm cũng bằng thời gian mang giày săng đá, giày botte de saut, bao
nhiêu đôi giày đã qua trên đó đôi chân gồm những ngón thô cứng cong méo trắng
nhợt, không phải màu trắng tự nhiên của loài da nhàn hạ nhưng vì bị để lâu bóp
chặt trong một thể tích hầm hơi kín mít mùi bùn non và mồ hôi… Lạc nhúc nhích
mấy ngón chân trên đôi dép Nhật, hít mùi tóc khô của vợ một hơi dài… Tội
nghiệp, mười bảy năm rồi, tiếng nói không vượt khỏi hàm răng khép chặt nghe
phều phào.
"Mình nói gì em?"
"Không".
"Vừa rồi mình bảo vợ chồng lấy nhau được
mười tám năm, em nhớ mình chỉ ở với nhau năm giao thừa, kể cả tối nay, còn
ngoài ra mình đi tận đâu đâu…”
"Thì đi hành quân chứ đi đâu nữa”. Lạc
đâm ra cáu kỉnh vì nghe âm thanh của vợ có những khó khăn trách móc…”
"Không, em nói gì mình đâu, em… thương
mình và thương thân, em năm nay ba mươi bốn tuổi rồi, còn một giờ nữa là ba
mươi lăm, em già rồi, đợi mình từ một thuở xa xưa bây giờ đã quen, đợi thêm
cũng được, hình như em sống cả đời để đợi mình về". Lạc lắc đầu. “Không,
tôi nói đùa". Lạc kéo chặt vợ vào lòng, thấy lại trước mắt mười bảy đêm
giao thừa dằng dặc, từ năm một ngàn chín trăm năm mươi đến năm một ngàn chín
trăm sáu mươi bảy. Những giao thừa của những năm đầu đời lính, khẩu phần đặc
biệt, rượu chát được uống thả cửa, sĩ quan Pháp bỏ hết kỷ luật thường ngày để
vui cùng lính Việt Nam… Tết, Tết, chúc mày một bonne année! Bois un coup avec
moi le petit caporal. Lạc đứng dậy trên thùng, nâng chiếc ca nhôm… Je bois un
trait… ca… ca… c’est ca, c’est bon type, tiếng khen thưởng ồn ào, tiếng vỗ tay
loạn xạ. Lạc uống một hơi không nghĩ, rượu chát chua ngọt ngọt, vị nồng nàn
trầm ấm, ướt đẫm lưỡi, một đường đỏ theo mép chảy xuống ướt đẫm khoảng áo, da
cổ đỏ cháy, Lạc lột chiếc nón đỏ trên đầu đắp lên phần da thịt thắm tươi…
Versez le vin dans eci mon lieutenant. Lạc căng chiếc mũ bằng hai tay, viên sĩ
quan Pháp hai tay nâng hai chai rượu nhảy lên chiếc thùng… Bon, très biens. Hai
ca rượu đổ vào lòng mũ… Rượu sóng sánh màu đỏ sậm trong lòng mũ đen úa bẩn, Lạc
ngụp đầu vào, mùi mồ hôi, mùi tóc cháy nắng, mùi đất đậm đà, trộn lẫn vào cùng
chất lỏng sôi nổi. Lạc ngụp đầu vào… Bravo! Bravo! Hoan hô Hạ sĩ Lạc, Hạ sĩ Lạc
ngụp hẳn mặt vào, rượu sóng sánh chuyển động, rượu ngập lụt giác quan, rượu mát
lạnh chuyển qua mức độ nóng bức. Lạc mê man đẫm ướt, tưởng như toàn thân tan
chảy thành luồng nước đỏ nồng thắm. Những đêm giao thừa tung hoành thật tự do ở
xóm bà Mâu, Trung sĩ Lạc bước ra sau khi mở lưỡi con dao commando, cán dao bằng
nhôm run rẩy khô cứng ép con hát đứng nép vào một góc… Mụ chủ quán ấp úng:
"Vâng, vâng, thầy Đội cứ tự nhiên… Nhà cháu xin lỗi, xin lỗi". Lạc
bước tới cạnh ả đào hát. Bốp! Cái tát bắn ngã thân thể nhỏ bé vào thành giường…
"Tiên sư, giao thừa hay không cũng mặc, ông còn ngồi đây là mày còn tiếp
cho đúng tiền ông bỏ ra, muốn cả xóm này bị phá nát ra bây giờ hả…"
"Dạ, dạ thưa thầy Đội sinh phúc để nhà cháu dạy dỗ em út, xin thầy Đội…”
Lạc rút con dao ra khỏi bàn, bước ra khỏi ngưỡng cửa. Đầu con hẻm có bóng người
thấp thoáng, Lạc chặt lưỡi, nâng chiếc xe đạp ghi đông course lên vai… tay trái
thủ con dao chưa gấp lưỡi, gió đêm lạnh thổi phà lên mặt, cơn chếnh choáng bay
hẳn đi, nhưng Lạc vẫn bước những bước ngã nghiêng, ánh đèn từ ngoài mặt lộ lập
lòe vàng ửng. Lạc cất tiếng hát… Debout les paras… cip, cip, cip, giọng khò khè
nặng nề nhập nhòe hơi rượu chêm vào những tiếng gừ gừ. Trong bóng tối Lạc cười
những tiếng nhỏ thích thú với lối đóng trò giả say, ánh đèn đường chao động ngõ
hẹp, ba bóng người nhào ra, có tiếng dây xích khua trong gió… "Ông giết
mày!" Ba bóng đen cùng nhào tới. Lạc nhanh như con báo, "Ha ha, ĐM…
chết với ông đây, cha chúng mày đâu có say”. Lạc tỉnh như trong giây phút bàn
chân rời khỏi sàn máy bay và bốn sợi dây thượng thặng dù căng bật, chiếc xe đạp
ném ngang về phía phải, Lạc nhảy về phía trái, cánh tay phải vòng lên che lấy
đầu và mặt, tay trái nơi có lưỡi dao, đâm thẳng về phía trước. Lạc nghe tiếng
“bực” ngọt sắc trên đầu tay, lớp thép của một chiếc xích sắt quấn theo cánh tay
phải, phần da thịt vừa bị bóc đi, cơn đau quá nhanh lóe sáng như ánh chớp không
làm Lạc đau đớn, cánh tay phải xoay một vòng, chiếc xích đã nằm trong bàn tay.
Lạc giật mạnh và tay trái, cánh tay tự do và tàn bạo thọc thêm một lần phía
đàng trước. Phập, lưới thép cứng ngắc lạnh buốt của con dao đi một vòng từ trái
sang phải. Lạc cong tay, rút con dao ra khoảng một tấc. Phập, lưỡi dao ngập
xuống lần thứ hai. Hà, đụng vào ông là chết! Chữ chết của Lạc hoà vào một tiếng
thét lạnh lẽo : "Chết tôi rồi". Lạc cười trong bóng tối. Chết là
phải. Lạc bước vào nhà cùng với chiếc xe đạp trên vai, con dao đã nằm trong túi
quần nhưng hai tay đẫm máu, máu của Lạc và máu của kẻ vô danh trong hẻm tối.
Lạc không biết mặt người vừa bị chàng đâm. Không hiểu nó chết hay không?
"Mình, sao mình đầy máu thế này?" Bà
vợ chạy quanh Lạc, mười ngón tay run rẩy không dám đụng đến áo…
"Không có gì", chiếc xe đạp vất vào
một xó, bàn tay trái, bàn tay khoẻ mạnh và đẫm nhiều máu, đẩy vợ đi… “Bà lo
việc bà đi, tôi không có sao…” Lạc bước vào buồng…
"Mình say thật rồi, ĐM… không lẽ mình say
máu người". Ngoài bàn thờ nơi vùng ánh sáng lung linh có tiếng khóc của
người vợ. Lạc vớ phải một chiếc ly ném thật mạnh xuống sàn. ĐM… Im có được
không!” Lạc ngã người xuống giường, nhắm mắt tỉnh rượu. Khoảng tay gối đầu có
mùi máu tanh tanh… "Tiên sư, ba năm lấy vợ mới ở nhà ăn Tết với vợ một
lần…” Lạc thấy mệt mỏi lạ lùng.
Đêm nay, Lạc thấy lại cảm giác đó, mệt mỏi có
hình khối đè xuống người rã rời, ngất ngây ngột ngạt… "Tôi sẽ gắng xin về
làm tại Bộ Tư lệnh, thôi đây là giao thừa chót tôi đi lang bang… Tôi hứa với
mình như thế". Lạc thì thầm vào tai vợ, giọng ấm đặc chơn chất pha lẫn hối
hận của một người kiệt lực, nhưng trong lòng vẫn thấy có điều gì ngang trái khó
khăn.
"Con đi với mẹ đến đằng nhà ông ngoại,
lát nữa sau giao thừa đến không được, số mẹ năm nay không tốt, xông đất nhà ông
không được, mình đến mừng ông trước”.
"Mẹ đi một mình cũng được, nhà ông đâu
bao xa, con thèm ngủ quá". Minh lười lĩnh ngồi dậy khỏi giường, che miệng
đáp lại sau một cái ngáp dài.
"Đâu phải mẹ ngại đi một mình, bao nhiêu
năm con đi lính cả nhà thăm hỏi, hai năm sau này con đi mất biệt, bây giờ nên
đến thăm ông cho phải đạo”.
"Vâng, vâng, con đi đây, con đùa vậy
thôi…" Minh với tay lấy bộ áo quần để ở thành giường, bộ áo quần bẩn cũ xì
hôi ngai ngái mùi bùn và đất ẩm. Minh đưa lên mũi ngửi.
"Dơ lắm rồi, hồi nãy mẹ định giặt nhưng
sợ con không chịu, mẹ thấy nó đã nhão xìu… đất dính ở cổ đen ngòm".
"Chưa dơ lắm, không hôi, còn mặc được…”
"Trời đất, áo quần như vậy con còn bảo là
sạch?"
Minh cười, căng chiếc áo cũ rũ rũ mấy cái,
xong, có thể mặc thêm vài ngày, nếu đi hành quân thì thêm nửa tháng cũng được…
"Thôi, Tết nhất ai lại mặc đồ lính trông
cục mịch quá, con lấy áo quần thường mặc đi…”
Minh ngần ngại, chiếc áo lính mỏng manh ẩm ướt
lạnh cóng thật khó để mặc trong tiết trời giá buốt và cảnh nhà ông ngoại với
đám đông hân hoan chuyện trò trong ánh nến sáng rực từ bàn thờ rọi xuống, và
Minh lúng túng trong bộ đồ lính… “Ừ, thôi mặc tạm cái áo quần gì đó cho tiện”.
Minh rũ chiếc áo xuống, vải popelin trắng sau nhiều lần giặt căng rạn mỏng, cổ
áo lật, sờn mòn được mẹ mạng bằng loại chỉ quá trắng. Nhìn vào bảng huy hiệu
của trường thêu chỉ xanh "QH", Minh mỉm cười nhớ lại đâu đó hãnh diện
ngày đỗ tú tài I và lên đệ nhất. Đệ nhất Quốc Học với nấc thang cuối cùng sẽ
trở thành sinh viên, có thể mang cà vạt đi phố ngày Chủ nhật và tán nữ sinh
trường Đồng Khánh không e ngại, đệ nhất Quốc Học với ba đường vạch xanh trên
túi áo chứng tỏ đã có một trí thức vững vàng để đi nghe linh mục hoặc giáo sư
diễn thuyết những đề tài "Nhìn mặt hiện sinh: Người đàn bà sinh vật lạ
lùng ấy…". Đệ nhất Quốc Học sẽ tự tin đi vào phòng hội, ưỡn ngực ra, ba
đường xanh rõ ràng… Đệ nhất rồi đó có quyền chứ… Minh kéo ghế, gù cái lưng cau
vầng trán khi diễn giả cao giọng tha thiết… "Như vậy, người đàn bà, cái
thân phận bi đát rõ rệt nhất…", Minh nhớ lại cô nữ sinh viên văn khoa của
chứng chỉ dự bị đã khẳng định lời trên về thân phận người đàn bà trên giường
giáo sư Văn mấy tháng sau buổi chiều diễn thuyết… Đúng thật, văn chương triết
học đã khai phá những lối đi rạng rỡ cho đời sống. Nếu không có lời diễn thuyết
đó, không có hình ảnh bi tráng sống động nói lên phản kháng của con người trước
hoàn cảnh trong dáng điệu của giáo sư Văn. Đôi mắt long lanh sau cặp kính
trắng, biết gầy gồm những ngón tay xinh đẹp tài hao bấu siết lại, gằn mạnh trên
mặt bàn… với âm thanh réo gọi vũ bão vang lên… người đàn bà, thân phận, định
mệnh… hiện sinh bi đát… Nếu không có những viên đá dò dẫm đầy tính cách mạo
hiểm trong cuộc tìm kiếm con người đó làm sao một cô gái Huế bỏ chồng chưa
cưới, cởi áo cởi quần lăn lộn miệt mài, giãy giụa chân tay trong cơn động tình
ái với giáo sư Văn, thứ thầy tu xuất đầm đìa tình dục trên mỗi dòng trong toàn
thể các tác phẩm đi tìm một chỗ đứng cho thân xác. Minh cười nhẹ nhớ lại sự bàn
tán xôn xao của thành phố Huế sau tai nạn bi thảm do triết học gây nên, lũ học
trò nhỏ xuýt xoa thán phục … "Hay thật, ông Văn chì thật, học đã giỏi mà
còn dám sống đúng theo tâm hồn mình… Tao thì nghĩ bà kia oai hơn, dám bỏ chồng
chưa cưới để theo ông Văn…” Đúng là định mệnh, thằng học trò chỉ thiếu chữ
"con người" nữa là đúng ngôn ngữ của giáo sư Văn. Khối người bị ép
kín bởi Ngự Bình và cửa Thuận An xuýt xoa thì thầm to nhỏ, tưởng như những nụ
hôn, vòng tay siết, cơn ân ái giữa anh giáo sư thầy tu xuất và một chị sinh
viên hai mươi tuổi học chứng chỉ dự bị là kết hợp vĩ đại giữa tư tưởng và tuổi
trẻ biến thành hiện sinh dũng mãnh chống đối lại tảng đá luân lý đóng rêu để
lại từ đời Đồng Khánh, Thiệu Trị. Thành phố xôn xao vì chuyển động của đôi mông
giống cái học văn khoa đưa đẩy vồ vập của một giống đực trí thức làm rung rinh
dãy trường thành rêu thâm, hòn bia đá Phú Văn Lâu, chín ngọn súng đồng đứng im
lìm trước Ngọ môn vàng rực trong nắng. Minh cùng lũ bạn đã than van, thì thầm
bàn tán bằng những ngôn ngữ quan trọng cái tai nạn quyến rũ kinh khủng đó và
trong lòng nhen nhúm ao ước được sống chết hết mình với một mối tình trong
tương lai, mối tình, phút hiện sinh làm sáng rực định mệnh bi thảm và dũng cảm
của con người!!! Minh chúm miệng thổi phù hai tay đánh vào nhau, có tiếng cười
nhỏ thoát ra từ cổ họng.
"Gì đấy con?”
"Không có gì hết mẹ, con nhớ đến chuyện
mấy năm con đi học nên buồn cười".
"Mấy cậu bạn học của con đến đây chơi
luôn, họ thường nhắc đến con và cứ trách con không viết thư về…"
"Tụi nó trách sao nữa mẹ? Con viết thư
cho tụi nó làm gì? Để kể chuyện chiến trường, để bày tỏ tâm trạng của tuổi trẻ
trong thời chiến tranh… Hì hì… không lẽ con đi kể chuyện con có mấy cái huy chương
cho tụi nó nghe nữa hay sao? Con về đây chẳng thấy mặt thằng nào cả, có gặp mấy
đứa trên phố, nhưng con quên tên nên đành lơ luôn".
"Chỉ có con tệ vậy thôi, chứ như cậu gì
đậu hai bằng cử nhân luật đó, đến đây là hỏi con luôn…"
Minh không trả lời, im lặng mặc chiếc áo, cũng
vì mình có con em với mấy đứa chị họ xinh đẹp tụi nó mới đến, dám chắc có ông
nào đó học sau mình đến đây nhận vờ: “Dạ cháu học với Minh từ hồi còn con
nít…" Tiên sư, ái tình cũng phải có kế hoạch. Minh hút gió lung tung, mặc
thêm cái áo saut.
"Đi mẹ, con xong rồi”.
"Sao con ăn mặc gì lạ vậy, chân con lại
đi dép Nhật nữa”.
"Trời lạnh mà mẹ, nhưng con còn gì để mặc
bây giờ, đây là đồ cũ bị trật mốt rồi, có gì mặc đó không ai để ý đâu… Con quên
đường tới ông ngoại rồi, không phải quên, tối quá con nhìn đường không ra”.
"Con thật vô vị".
Minh cười không nói, lầm lũi đi sau người mẹ.
Tối ba mươi trời đen đường vắng, ngọn đèn đường chao động, khói hương từ các
căn nhà bay ra tản mát vào sương mù. Minh nhớ những giờ thức dậy mặc đồ mới, lạnh
cóng, ăn bát chè bông cau, cục xôi cứng ngậm trong nước chè vàng óng, chất ngọt
lạnh tanh trôi dần vào người, nghe chừng như những giọt mùa xuân thấm dần vào
máu, rồi pháo nổ từng tiếng vang lên… "Pháo nhà ông Tham, nhà ông Đốc… Ấy,
ông gì làm bên công an có tràng pháo tốt nổ không dứt một tiếng…Minh, đốt pháo
đi con”. Minh mang thêm đôi giày, chải tóc. Tóc chải rẽ, mẹ nâng một tay dưới
cằm giữ thẳng đầu mới rẽ được đường ngôi. “Tóc gì cứng thế này, đằng sau không
xong gì cả, chóng ngoan lên để mẹ thấm một chút nước lạnh cho tóc nằm xuống”.
Minh chải tóc với nước lạnh, cho nổi hoa màu trắng… "Mẹ mua con đôi vớ
rộng quá…” “Rộng gì thì mẹ mua bằng nắm tay mẹ hay con, nhưng đây là vớ nylon
có thể co giãn được. Mẹ đo từ đâu đến đâu?” "Theo nắm tay…" "Ừ
rộng thật". Minh mặc áo mới, giày mới, đầu chải với nước lạnh, bước ra
khỏi hiên nhà, không khí mát tinh khiết, hình như trời đất rung chuyển. Minh
hít hơi lạ vào như xe lửa bắt đầu qua khỏi hầm đèo Ngoạn Mục, trời lạnh, không
khí mới mẻ, cây thông toả mùi thơm, người làm vườn mặc veston, trẻ con má đỏ
căng tròn trong áo ấm. Minh hít những hơi nhẹ, thổi cây hương trịnh trọng trước
khi châm vào sợi bấc, sợi bấc khô queo cứng cáp sau mười tháng hong trên chái
bếp. Sợi bấc bắt lửa cháy đến hân hoan, chiếc pháo đầu tiên nổ. "Pháo mình
nổ to quá mẹ ơi, năm nay mẹ phát tài…" Pháo nổ từng chiếc chắc chắn, ngọn
tim đã cháy hết, chiếc pháo im lìm gây một tiếng động khổ đau nhức nhối trong
tim. Băng pháo hết, vỏ xác pháo bay bay rực rỡ dưới gió đêm, chúc mẹ mạnh khoẻ
… Minh bóp tay trước bụng. Chợt thấy âm thanh của tràng pháo còn vang dội, thứ
âm thanh của niềm vui ngắn hạn mỏng manh như phút giây vô hình qua biên giới
của hai năm. Minh muốn ngủ, cởi áo vắt trên thành ghế, sáng mai mẹ nhớ thức con
dậy…
"Mẹ ạ!"
"Gì con?"
"Hết Tết theo con vào Sài Gòn
không?"
"Làm gì trong đó?”
"Mẹ ở chơi đi chợ nấu ăn cho con, con
thèm thức ăn Huế, mẹ nấu cho con canh hến, cá nục kho, cá nục kho cắm đôi đũa
vào chỉ thấy một lỗ, con nói với gia đình tụi bạn ở miền Nam như thế nhưng họ
không tin, Sài Gòn chỉ biết kho cá nục nước hoặc chiên, mất mùi cá, mẹ làm bánh
bột lọc nữa…"
"Nhưng ở đâu?”
"Ở cư xá Sĩ quan Tiểu đoàn, nhà hai buồng
có bếp, rồi con lấy vợ cho mẹ một đống cháu, mẹ tha hồ quấn tã nghiền cháo cho
tụi nó".
"Con nói thật không, nếu con chịu thế mẹ
vào với con liền".
"Chịu chứ, qua Tết này con được hai mươi
lăm tuổi, hai mươi lăm tuổi đối với người Việt Nam là già, bạn con có đứa có vợ
hồi hai mươi tuổi. Con đi với mẹ trong đêm nay vừa thấy mình nửa con nít nửa
người lớn".
"Lớn rồi, con nít làm sao được… Nếu con
chịu mẹ đóng cửa nhà vào với con lập tức, con cho mẹ một đứa cháu nội, mẹ giữ
nó không một chút bụi…”
"Xong rồi, hết Tết mẹ vào với con, con sẽ
được ăn cá nục”.
Bóng hai mẹ con đổ dài theo ánh đèn chao động,
có mùi hoa từ hàng dậu thơm ngát… hoa dạ hương, Minh nghĩ thầm, hoa cũng sửa
soạn đi qua một ngày mới. Có những thân cây sầu đông gầy guộc chập chùng hai
bên đường, Minh có cảm giác thấy được những chồi lá non trong bóng đêm dày
thẫm, lá cũng có mùa xuân riêng của nó.
Nhà ông ngoại đầy người, cậu mợ và đám anh em
bạn dì đứng ngồi đầy nhà trên và nhà ngang… "À, o Tám, dì Tám… À, cô mới
đến”, mỗi người một câu họ ghìm lời nói trong cổ họng để tạo vẻ nghiêm trang,
sự nghiêm trang làm nhòe âm thanh hững hờ đến một người thân. Họ ngoại mình là
dòng Tôn Thất ở Huế lớn lắm, có phủ, có đình, có ruộng vườn, non bộ to lớn có
đủ kích thước của một thế giới thần bí thu hẹp lại, kích thước của dòng Tôn
Thất, dòng vương, ông ngoại làm Tham tri bộ Lại. Họ lớn ở bộ tam sự cao hơn năm
tấc vàng chóe, sau bàn thờ Phật một dãy hình người chết bán nguyệt, người em
ông ngoại mũ cánh chuồn ốm yếu dưới sức nặng của chiếc mũ, chòm râu đen mệt
mỏi. Minh không hiểu sức mạnh nào trong lòng một ông quan cằn cỗi này để dẫn
dắt dân chúng qua quãng đường ngặt nghèo, chống chỏi với cán bộ Cộng sản hớt
tóc ngắn, hông đeo súng lục pạc-khoọc và cách mạng công nông. Việt Nam độc lập
chắc hẳn đè bẹp đạo Thần tử, đức Khâm thượng… Thánh thượng hồi loan. Ông ngoại
ngồi trong đi văng vàng rực ánh nến, đầu đội khăn, mắt đeo kính, áo dài sa tanh
đen, áo ngoài đơm bông chữ thọ, quần xan… cậu mợ dì vây bọc xung quanh, có
người từ Nha Trang, có người về từ Ban Mê Thuột… "Tôi phải vận động lắm,
nhờ ông Trưởng ty trên đó lấy chỗ mới về được, vé cuối năm như ăn cướp, may là
nhờ người quen, nhưng không có ông Ty thì tôi cũng nhờ bà Tỉnh, tôi với bà quen
nhau lắm, bà là con của mụ dưới đầu cồn đó… Trời ơi, bà gặp tôi lần đầu thiếu
đường ôm mà khóc, mới biết người Huế đi đâu cũng được vị nể mà thương lấy
nhau". Dì Tư nói thật nhiều, dì nói oang oang nhấn mạnh ở chỗ bà Tỉnh và
nỗi khó khăn phải mua vé vào dịp Tết… "Nhưng được thấy thầy là mãn nguyện
rồi, có tốn vạn bạc tôi cũng chịu huống gì mấy ngàn tiền vé". Dì kết luận
khoan khoái vì thấy không ai ngắt lời, xác định được sự hiếu thảo trên giá tiền
chục vạn… Ông ngoại im lặng ngồi nghe, không hiểu mỉm cười hay vì ánh sáng lung
linh làm chiếc miệng móm chuyển động. Ông ngồi hưởng hiện tại, một hiện tại
hạnh phúc có thể định giá vào số lượng con cháu xung quanh. Cậu Năm cũng không
kém, đi tàu bay thì hai tiếng là tới, giá tăng kinh khủng, tôi cũng muốn đổi xe
Nhật, nhưng cái thứ đó không bền, tôi xài bao nhiêu đời xe rồi nên tôi biết,
chỉ có cái dáng thanh thanh vậy thôi… Đường từ Nha Trang về đây nguy hiểm không
tả được, gió biển chắc chắn làm thầy khoẻ ra liền… Thầy đi xe con như ngồi trên
salon, cậu Năm bắt đầu nói lại bằng chuyện xe hơi, nhấn mạnh về vài nỗi nguy
hiểm và hao phí khi đi đường. Dì Tư ngồi nghe ra dáng bực dọc, vì công lao đi
máy bay chắc chắn thua xa nỗi khó nhọc của chiếc xe hơi đi năm trăm cây số.
Ngoài ra chiếc xe bóng lộn màu đỏ nằm rõ ràng trước nhà như dấu tích của một
phiêu lưu ngắn hạn của một lòng hiếu thảo cụ thể được thể hiện bởi giàu sang. Xe
chị cũng uống nhiều xăng lắm, tuy đoạn Ban Mê Thuột xuống nguy hiểm nhưng chị
cũng muốn về bằng xe hơi.
"Đâu được, xe là xe Jeep làm sao mà về,
về đến đây đã gãy xương sống à…" Cậu Năm hả hê chứng tỏ được sự hiếu đễ
qua nhãn hiệu của chiếc xe. Dì Tư ngồi im bực dọc: "Cốt về được với thầy
cho mau là quý, cà tịch cà tang biết bao giờ mới tới…" Ông ngoại ngồi im
lặng nghe cậu và dì giành giựt nhau bằng chứng của tình thương, trí não người
già chậm chạp làm phép tính giữa số tiền bị mất và sự hiện diện của các đứa
con.
"Ai sau con Tám đó?”
"Dạ thằng Minh đó thầy, nó theo đơn vị ra
ngoài này hành quân xin phép nghỉ đêm về thăm thầy, mấy năm nay nó chỉ ở trong
Nam”. Mẹ nhấn mạnh chữ xin phép.
"Thằng Minh à, ông ngoại hỏi với vẻ hững
hờ, lâu quá thầy quên mất mặt nó, con xích tới đây on coi một chút”. Bàn tay
nhăn nheo lạnh cóng rờ trên mặt Minh… "Nó lớn ghê, mấy năm trước con đến
đây hái ổi, trần bì…" Bàn tay rờ đến áo saut, áo gì mà dị hợm thế này.
Minh đứng im dưới cái rờ tìm kiếm, ông già tìm
được trên vóc dáng đứa cháu không phải một vóc dáng thân yêu nhưng như tấm áo
Nhảy dù thô cứng…
"Cháu đi lính Biệt động quân đó à?"
Có giọng nói tra hỏi từ một bà mợ đang dựa lưng vào chiếc cột.
"Dạ thưa không phải, cháu đi Nhảy
dù".
"Nhảy dù, như rứa anh ở đây hay Đà Nẵng năm
1966”. Một gã trẻ tuổi không giấu nóng nảy.
Minh liếc qua, à thằng Trí con cậu Sáu, gã mặt
tái, dài quắn, loại mặt thủ dâm và hiểm độc, thằng Trí, Minh chợt nhớ thời gian
trước lúc bố mới mất nhà bắt đầu sa sút. Nhưng bà ngoại và mợ Sáu không nghĩ
như vậy đem Trí đến nhà Minh, thằng bé nhởn nhơ sung sướng vì sắp được trả thù…
Bà ngoại đã tấn công mẹ.
"Con coi lại thằng Minh, nó hỗn và nghịch
ngợm quá, đây nè nó đánh thằng Trí đến bầm cả mặt”, bà ngoại bóp hai tay vào má
Trí lắc qua lắc lại, chìa hai má nó cho mẹ Minh xem hai gò má không có vết bầm,
chỉ có màu đỏ của làn da hóp quá mạnh… Mợ Sáu tiếp theo: "Cô phải dạy nó
lại, cha nó chết đi thì còn cô, con hư là tại mẹ, cô cứ thả nó đi là thành du
thủ du thực, à, mà nếu không coi được thì em đưa chị nuôi”.
"Dạ thôi, để em đánh cháu liền”. Mẹ cúi
xuống chịu đựng.
"Mẹ vẫn thương nó lắm chứ, cháu nào mà
chẳng thương, hơn nữa nó lại không cha, đáng lẽ mẹ phải thương hơn, nhưng khổ
cái thằng nó nghịch ngợm”, bà ngoại đưa tay lên lau nước mắt, Minh nép ở nhà
trong sau liếp cửa nhìn ngoại chùi những giọt nước mắt vô hình… Minh liếc qua
thằng Trí, mặt nó thoả thuê sung sướng, đôi mắt đầy trắng láo liên tìm Minh…
Minh thấy ở bà ngoại cái vẻ gì không thực, mấy tháng trước khi bố mất Minh là
cái đinh của sự chiều chuộng mỗi khi về ngoại… “Chao ơi, cháu lớn quá, cháu tới
đây bà coi… Hừ cái thằng có cái tai thật to, hắn giống ba hắn như đúc, bố là rể
có chức phận lớn, hắn lại có cái cằm giống bên ngoại… Cằm này tha hồ mà đòi
ăn”, ngoại bế Minh trên tay, dí cái mồm đầy quết trầu vào má Minh, các cậu dì
lớn đón Minh về chơi nhà, cậu Út cõng Minh chạy khắp mấy con đường vắng, nhưng
khi bố mất sao mà khác hẳn thế này, cậu Út bẹo má bẹo tai Minh thật đau, khi
Minh lén với lên hái ổi các cậu các dì nhìn Minh lạnh lùng: "Cháu đi chỗ
khác chơi, cháu đi đâu đó, sao không về nhà mẹ đợi…” Trường học Minh gần nhà bà
ngoại. Minh sợ cái không khí vắng lặng của gia đình sau khi bố chết. Minh ngã
về bên ngoại… "Cháu về nhà ăn cơm, ở đây không có ai rửa tay chân cho cháu
trước khi ăn…” Minh lầm lũi xách cặp bước ra khỏi chiếc cổng bằng lá chè Tàu,
nghe đằng sau có tiếng nói của ngoại: “Mẹ nó dặn đến đây xin cơm đó…” Minh
không hiểu có gì khác giữa bữa cơm ở nhà vào ở ngoại, nhưng có một nỗi buồn rõ
rệt làm lòng đứa bé nặng lắm. Minh liếc mắt nhìn thẳng vào các cậu, các bộ
veston thẳng tấp, trịnh trọng với cà vạt, các dì áo dài mới, khoác áo ấm đắt
tiền… Những ngày thơ ấu lạnh lùng bi thảm đắm chìm từ lâu bỗng ồn ào trở lại.
"Vụ Phật giáo ở Đà Nẵng có Tiểu đoàn tôi
tham dự, chắc hôm đó anh có vào trong đó biểu tình?"
Minh cau có ra mặt. Minh biết họ ngoại vốn
sùng đạo và cố chấp, Phật nhất định là bậc đại trí, Công giáo ngoại lai hời
hợt, các cậu dì hãnh diện với bàn thờ Phật được lập ở mỗi nhà, tượng Phật lớn
hơn nhau theo tỷ lệ nghèo giàu. "Kim thân Phật Thích Ca nhà con cao gần
một thước", cậu Hai hãnh diện khoe với ông ngoại, xem công việc thờ Phật
như cách thức diễn tả sự hiếu đễ tiếp sức với cha già dựng lên bức tượng đồng
mạ vàng, góp công lao để đẩy cha về Niết Bàn tương lai… Câu nói của Minh có ảnh
hưởng ngay lập tức.
"Như vậy cháu có dẹp bàn thờ ở Đà
Nẵng?"
"Không những dẹp cháu còn cho lính đánh
thả cửa mấy anh sư”.
"Chết, chết, A Di Đà Phật, nghiệp chướng
đó khi nào rửa được, cháu nỡ lòng nào mà phạm đến các thầy…” Mợ cả xuýt xoa.
"Cháu chẳng thấy có gì là khó hết, mấy
thằng trốn lính cạo trọc đầu thành thầy tu, tụi nó ăn nói còn mất dạy hơn lính
cháu… Mợ biết thằng Thứ học chung với cháu một lớp, thi hỏng tú tài là nó đi
Thủ Đức, xong đi Biệt động quân, mất dạy cả thành phố Đà Nẵng phải khiếp… Thế
rồi cũng cạo đầu làm thầy xách động biểu tình hợp với lính tráng con nít tranh
đấu. Con không vơ đũa cả nắm, mợ vào Đà Nẵng mà xem mấy thằng du đãng cầm đầu
biểu tình… Đạo Phật hư không phải do ông Diệm, ông Khánh, ông Kỳ gì hết, chính
là do bọn lưu manh đó nó phá nát”. Minh nói hả hê, bao nhiêu uất ức phiền muộn
cho nổ bùng không che giấu. Buổi chiều ấu thơ nào ôm chiếc cặp bước ra khỏi
chiếc cổng, bụng đói, mâm cơm nhà ngoại vừa dọn, con tôm râu đỏ chạch thèm
thuồng, chiếc lồng bàn đậy lại. “Con đi về kẻo mẹ con trông…” “Mẹ nó biểu nó
qua xin cơm…” Minh nhớ như in, Minh nghe sấm nổ cuồng nộ bên tai. Minh thấy rõ
cái đau nhói nhục nhã khi chân bước đi trong bóng tối chập choạng của trời bắt
đầu tối. Minh liếc một vòng tròn, những cặp mắt mở to vì tức giận. Minh nhìn
vào chỗ thằng Trí.
"Chắc vụ Đà Nẵng anh có tham dự, anh có
định tự thiêu không? Tiên sư, anh mà tự thiêu thì nhà mình có thánh tử đạo hạng
nhì rồi đó…” Mẹ bấm vào tay Minh. Minh rút tay lại ra vẻ không biết, liếc về
phía ông ngoại, người già chưa kịp có phản ứng về Minh. Ông ngoại im lặng, lòng
Minh chùng xuống, nó bước tới khoanh tay lại… "Con kính chúc ông ngoại
khoẻ mạnh".
"Ừ, con đi trận mạc gắng giữ mình".
"Dạ thưa ông con về". Minh bước lui.
"Thôi con về trước mẹ về sau". Minh cúi đầu xung quanh thưa bà, thưa
cậu, thưa dì. Minh bước lần ra cửa. Trời lạnh và đen thẫm. Minh bước vào khối
đen im lặng mênh mông, thấy rõ lại những giao thừa thơ ấu cùng một khối lượng
không khí đằm thắm thê thiết của tuổi thơ.
Minh mang đôi giày nhà binh đến đứng trước
gương.
"Đồ Tết của sáu năm đi làm quan đây”.
CHƯƠNG 8
Giang hai tay, áo saut trông rộng thùng thình
che hết nửa người khép tay lại, Minh nhảy nhảy, chai rượu trong túi chuyển động
lục cục… Cái áo rộng thế này hèn gì hồi xưa lính Tây không bắt gà cũng uổng.
Minh nhét cây súng vào thắt lưng, đi xuống bếp lấy hai mươi chiếc nem lá bỏ vào
túi dưới của chiếc áo còn rộng chỗ. Kiếm cái gì nữa bây giờ. Minh cắt một
khoanh giò thật lớn gói vào túi nylon, mình như một ụ thức ăn di động. Ra khỏi
nhà Minh hướng về phía khách sạn, lạnh, hai tay đút vào túi áo, lạnh không kém
gì Đà Lạt. Tết này như vậy là mình đi lính được sáu năm. Minh nhớ đến Tết đầu
tiên ở trường, doanh trại vắng hoe, các khoá đàn anh đi phép, nắng đầu xuân
vàng rực gây gây lạnh. Minh vừa được gắn alfa, đầu húi cao trắng xoá, mặt loang
lổ từng mảnh da bị tróc vì rám nắng… Những người cùng phòng đi vắng, Minh trùm
chăn ngủ bù sau hai tháng tân khoá sinh, chiếc máy do sinh viên khoá đàn anh
cho mượn chạy hoài bản nhạc độc nhất… "Greenfield… You never know what
make you run away… How can I keep searching when the cloud hide the day…"
bài hát của một người bị tình phụ, thê thiết khắc khoải vang vang trong căn
phòng lạnh vắng. Minh chưa có một mối tình nào, Minh chỉ có một cuộc đời mới
khởi đầu, nhưng Minh linh cảm được có một điều gì bất toàn, ngón tay dò kẽ nứt
đầu tiên bắt đầu có dạng trên mặt da trắng bóng trơn láng. Dĩa hát chạy hết
được đặt lại…” home… to the greenfield that we are once again…” Home, nhà, chốn
hạnh phúc của những người yêu dấu, nhà, chốn Minh vừa xa rời chắc lâu lắm mới
có ngày trở lại… Khóc, giọt nước mắt vô tình nào đã làm ướt mắt gã trai mười
tám tuổi, Minh đứng dậy nhìn qua cửa kính, khu sân cỏ trước doanh trại lác đác
vài người, trời đột nhiên âm u, phía rừng ùn ùn sương phủ, Minh khóc cho một
duyên cớ vô hình…
Thối thật, Minh đá một cái vào khoảng không
gian trống. Tiên sư, tự nhiên lại khóc… Minh nhìn quanh xem thử có người nào
trông thấy, ừ lúc đó mình con nít thật, Minh rút ra một cái nem, lột lá, bỏ tọt
vào mồm, kéo chai rượu Johny Walker. Nhãn đó là sang rồi đòi gì nữa… Minh đứng
dưới cột đèn, rót rượu ra nắp nhôm… Ực, không đá uống cũng được, trời lạnh rượu
thêm ngon. Minh rót thêm một lần nữa… Có bóng người đi qua mặt, khẽ liếc Minh.
"Uống không?"
Người kia lắc đầu, bước chân tránh đi xa xa…
"Không thì thôi, sĩ quan Nhảy dù mới nhận
chức… à". Minh bỏ chai rượu trong túi, bước đi thật vui vẻ và nhanh nhẹn,
Minh chợt nghe một thoáng u buồn phiền muộn nào nằm sẵn trong tim.
Cửa phòng Lạc hé mở sau tiếng gõ cửa đầu tiên.
Minh cho chai rượu vào trước lắc mấy cái. Có tiếng hét lớn: "Vô đây! Vô
đây! Tôi chưa đợi ai bằng đợi ông tối nay”. Lạc chạy ào ra cửa, cuống quít kéo
Minh vào.
"Thủng thẳng bể bố chai rượu ra bây
giờ…"
"Tiên sư, ngồi đợi ông muốn dài cả cổ,
tôi mua mấy chai bia uống tạm, đêm giao thừa lạnh như cắt, ngồi uống bia một mình
chi bằng uống thuốc độc chết sướng hơn”.
"Thôi đừng than van nữa ông già, chị với
hai con đâu?”
"Phòng bên cạnh, tội nghiệp Tết nhất lại
phải mò đi xa kiếm chồng, chồng lại cỡ tôi nữa thật là xứng đáng tuyên dương
công trạng, mươi tám năm lấy chồng chỉ được thấy mặt chồng năm cái Tết, tiên sư
đúng là bà ấy trúng số độc đắc hạng bét… Thôi mở rượu, ấy, sao ai uống trước
rồi, ông thổi ở đâu?”
"Đừng nói bậy, tôi xin ông già tôi đấy,
đi dọc đường tôi nhậu trước hai nắp”.
"À, vậy thì được, lần sau bảo ông già cho
chai tốt hơn cỡ Courvoisier Martell…"
"Ừ, cái này phải nói qua bà già vì ông
già về ở với Chúa rồi…"
"C… ông lúc này lại nhiễm tính ông Thuấn
rồi…"
"Tính tốt thì phải học, học thầy không
tày học bạn, ông Thuấn là bạn tốt, không học cũng phí. Bà chị tôi mới thấy
Thuấn xạo mê ngay…"
"Chết, chị ông điên rồi, chị gì mới được
chứ”.
"Chị họ, muốn gì cứ nói, chết quái gì mà
rào đón…”
"Vậy khỏi giữ, sợ chị ruột ông thì không
được… Từ trước đến nay tôi vẫn nghĩ bà nào điên mới mê ông Thuấn, nhớ vụ ở
Dakto có con đĩ nhất định theo nó về Sài Gòn, vui thật, nghe ông Thuấn ba hoa
một hồi thế là con bé nghệt mặt ra… Tiên sư, mình nghe nó láo đến sốt cả ruột,
thế mà vẫn có kẻ tin đến ngẩn người”.
"Ừ, cũng như mấy thằng nhà báo, toàn là
những tay nói dóc thượng thặng thế mà khi nghe ông Thuấn nói chuyện tượng đồng
ngồi ở nghĩa trang hoá thành ma đón xe xin quá giang, xin thuốc lá, một tụi
ngồi đực mặt ra ghi chép phỏng vấn. ĐM… Tôi ngồi bên cạnh cười đến vãi đái… Ông
thấy cảnh ông Thuấn diễn tả cảnh thằng tượng đồng đối thoại với ông ấy chắc ông
cười đến chết, thế mà không hiểu sao mấy cha nhà báo tin được, cứ một điều Đại
uý ghi rõ cảnh bức tượng đón xe… Đại uý cho biết cảm giác khi nghe bức tượng
nói… Hà… hà… Ông có nghĩ cảnh ông Thuấn phịa không? Ông ta nói như thế này: Bức
tượng đó tạc theo mẫu của hạ sĩ Côn đại đội tôi, nên khi nghe tiếng nói Quảng
Trị của nó tôi lạnh người, tôi hỏi "Có phải em là Côn không?".
"Dạ thưa Đại uý, em là Côn đây, thấy Đại uý lái xe qua nên em đón xe thăm
Đại uý…”.
"ĐM… Láo thế là nhất rồi. Thuấn ơi là
Thuấn ơi, vong linh ông ở đâu về uống với tôi chén rượu…” Lạc hớp ly rượu cười
rung cả người… “Ấy thế mà ông Thuấn lại nói với tôi khác…"
"Khác làm sao?"
"Khác là thằng tượng đồng ngồi trên bệ đá
tay ngoắt ngoắt. ĐM… cả sếp mình là Đại tá Lữ đoàn trưởng cũng tin luôn".
"Rồi bây giờ đi qua chỗ bức tượng ông ấy
có chào không?"
"Có, thì hôm đó ông Thuấn lái xe, sếp
ngồi một bên, tôi ngồi sau, gần đến chỗ bức tượng là ông bắt đầu gỡ mũ, tháo
kính, lái chậm và chào thật nghiêm… Bây giờ mới biết Thuấn xạo…"
"Cái trò chào bức tượng cả Sư đoàn này
đều bị lây ông Thuấn hết đấy”.
"Thuấn xạo thực, nhất ông ấy rồi…"
"Uống tiếp, chuyện Thuấn xạo biết đến bao
giờ cho hết, uổng thật tối hôm nay nếu có ông Thuấn sẽ vui biết mấy, cũng như
hôm ở Bồng Sơn ông Trung tá Khoa, chiến đoàn 3 sắp sửa lên trực thăng cũng phải
nán lại để nghe ông Thuấn luận về gà Bình Định và vợ Quảng Ngãi. Tôi không hiểu
thằng cha ấy nhặt những chuyện khỉ gió kia ở đâu, chuyện gì hắn cũng luận đều
đều dài dài… Thiên hạ lần đầu tiên nghe Thuấn nói cứ tưởng thằng cha thông kim
bác cổ…"
"Thì cũng phải có tài chứ, tài dựng
chuyện và tưởng tượng rồi ráp những sự kiện rời rạc nhưng có thực xung quanh
một cái trục bịa đặt, thế là thiên hạ tin như chết. Không kể người lạ, ngay cả
ông với tôi khi nghe ông Thuấn nếu không được báo trước cũng vẫn tin, như hôm
ông ấy ngồi phịa chuyện tướng ông Diệm và bà Nhu, cả bộ chỉ huy Tiên tri nghệt
mặt ra nghe xong cứ chặc lưỡi khen ông Thuấn giỏi cho đến khi nó bị ông Ba phó
vặn lại, cả làng mới biết bị xạo…"
"Chuyện thế nào?" Minh nhai một
miếng nem, chất thịt vừa chín được ngấm thêm men rượu nồng tan trong cổ, nhắm
mắt lại, một chút nước mắt ướt rèm mi… Rượu uống sao ngon nhưng mạnh quá, lúc
đi ngoài trời lạnh uống thấy ngon hơn ở trong phòng.
"Uống đi, để tôi kể chuyện ông Thuấn luận
ông Diệm. Ông ấy bảo: ông Diệm là tướng đại quý vì ông ấy thuộc loại ngũ đoản
bát đại, cho nên mới bị cái chết bất đắc kỳ tử, nửa đường đi toong… Ôi chao,
ông ta dẫn chứng cả cổ kim để làm bằng cớ, nào là ông Chu Văn An là tướng hầu,
ông Án anh Án em gì đó ở bên Tàu… rồi ông ta luận luôn chuyện ông Nguyễn Khánh…
ĐM… nói sướng cái miệng nhưng ông ta kể vung vít quá mới bị ông phó kê, hắn ta
cứng họng nên mới thú nhận đang nói xạo…”
"Vậy là mấy ông thua rồi, tôi chỉ bị một
lần là biết ngay…" Minh hớp thêm ngụm rượu. "Sao đắng quá, tôi phải
đi kiếm cục nước đá”.
"Để tôi”.
"Đâu được, tôi sẵn áo quần tiện hơn ông.
Minh đứng dậy bước ra khỏi phòng. Đợi tôi năm phút thôi…”
Lạc gật đầu, nhìn thẳng vào chai rượu màu vàng
lóng lánh ánh đèn, Lạc cười nhẹ, đưa tay lên sờ cằm, những chiếc râu ngắn nhám
nhám ở tay, Lạc liếc về phía cửa phòng vợ, có tiếng thở dài rất nhẹ, Lạc lắc
đầu.
Thuấn dặn tên lính thân tín:
"Tao đi chơi loanh quanh đây, có gì mày
chạy đi gọi”.
"Dạ". Binh nhất Thiên nhỏ nhẹ trả
lời.
Ra khỏi chỗ đóng quân, bước lên mặt đường,
đường số 1 đêm ba mươi Tết vắng lặng như một thỏi đá màu đen đắm chìm trong
sóng trắng đục.
"9 giờ, còn ba tiếng nữa giao thừa",
Thuấn cho tay vào trong túi áo, bước theo bề ngang của con đường…
Một hai ba, hai mươi bốn bước, xương sống mẹ
Việt Nam rộng hai mươi bốn bước, đi ra phía này là tới Hà Nội, đi vô phía này
tới Sài Gòn. Thuấn xoay mặt về hướng Nam, xung quanh sương trắng lớp lớp. Những
ánh đèn le lói hai bên đường trông ốm yếu như sắp tắt.
Mình đâu có nghĩ cảnh giao thừa đứng trên quốc
lộ như thế này… Buồn thật… Làm cái gì bây giờ… Điên à? Ông nói với ai hở ông?
Thuấn ép tay vào người cúi đầu đi về phía Nam.
"Ai đó? Đứng lại”.
"Lính Nhảy dù đi du xuân”.
"Đi mô tối rứa?”
"Giao thừa đi chơi”. Trong bóng tối xám
đặc lập lòe ánh lửa, Thuấn biết mình đã gần tới cầu, sương dày quá không thấy
được thành cầu, dòng sông ở dưới xa chìm hẳn trong khói sương lạnh giá. Thuấn
bước tới, đốt điếu thuốc.
"Có dây kẽm gai không?"
"Có, ép về phía trái… Coi chừng, thôi để
tui mở cho mà đi”.
Thuấn đứng lại, lạnh quá, gió dưới sông thổi
lên mang theo hơi nước ẩm ướt, sợi dây kẽm chắn ngang lối đi, ánh đèn bấm di
dần về phía Thuấn. "A, Đại uý đi mô mà khuya khoắt ri? Mới chín giờ đã đi
du xuân…” Thuấn tự nhiên thấy lòng vui vẻ. Người lính gặp hồi sáng không giấu
vẻ mừng rỡ trong khi luống cuống mở dây kẽm gai.
"Đại uý thiệt là lạ, trời lạnh như cắt mà
lại đi chơi, mà chơi chi ở đây… Tôi đứng chờ giờ đổi gác để chui vào mền làm
một giấc đã… Bây giờ Đại uý định đi đâu?”
"Chẳng biết… Đi mỗi vòng rồi về, lạnh quá
hả?" Thuấn chìa cho người lính điếu thuốc. “Trời lạnh hút thuốc ngon
thiệt”, người lính xuýt xoa. Thuấn nhớ điếu thuốc đầu đời, một góc rừng Đà Lạt
lạnh buốt, trời tối đen Thuấn với tên bạn cùng phiên gác chia nhau điếu thuốc
có mùi bạc hà. Khu rừng đen thẫm trống trải, điếu thuốc lòe lên thấy rõ đường
chỉ tay hồng.
"Thuốc này là thuốc gì?"
"Oakland menthe, một bao hai chục đồng”.
"Mày hút một ngày mấy gói?"
"Hai, tao người Đà Lạt mà mày, ở đây
không có thuốc chịu không nổi, tao hút Bastos nhưng mấy hôm nay ho nên xài tạm
thứ này".
"Bastos là thuốc lá đen”.
"Ừ", tên bạn trầm giọng nghiêm
trọng.
Thuấn cảm thấy thua sút, hít một hơi thật
mạnh, khói bay đầy mồm muốn sặc…
"Thuốc này nhẹ quá", Thuấn phê bình
ra vẻ thành thạo.
"Nhẹ đối với tao, nhưng mày mới tập hút
nên hút nó".
Thuấn muốn cãi lại, thấy khó khăn, trong bóng
đêm Thuấn có cảm giác như thằng bạn đang đưa mắt nhìn bàn tay vụng về của mình
cầm điếu thuốc. Ngày hôm sau Thuấn bắt đầu hút thuốc, thuốc Mélia vàng… Vậy là
bảy năm rồi, mau thật, mình chỉ có nước giỏi bắt chước. Thuấn tì tay vào thành
cầu, thanh sắt đẫm sương lạnh cóng. Mặt sông dưới xa lóng lánh theo ánh đèn
dưới chân cầu toả ra một ánh sáng vàng rực xôn xao, người lính đi đến gần
Thuấn, gót giày nhà binh gõ từng tiếng động lạnh buốt trên sàn cầu. Chiếc bóng
lầm lì nín lặng.
"Ông gác đến mấy giờ?”
"Dạ mười một giờ".
"Có buồn không?"
Người lính không trả lời, cười tiếng nhỏ, đốm
lửa từ điếu thuốc và đèn ở thành cầu chiếu rõ một chiếc cằm lởm chởm râu…
"Hết gác về cạo râu ăn Tết nghe ông…”
"Dạ, mà tui không có dao cạo, già rồi làm
đẹp chi nữa Đại uý?”
Già, Thuấn chợt hỏi, mình đã già chưa nhỉ?
Thuấn miết cái cằm lên mu bàn tay, những sợi râu cứng, ngắn, chuyển động gây
nên một cảm giác thú vị… "Ấy, nhột em!" Quỳnh Như ưỡn người lên vùng
vẫy dưới nụ hôn trên phần ngực. Thuấn luồn tay dưới nách Quỳnh Như kéo hai vai
nàng xuống, chiếc cằm miết nhẹ từ cổ theo luống thủng giữa đôi vú… Tiếng thở
ngắt khoảng mê đắm, có giọng cười nhỏ dưới nụ hôn. Thuấn đứng thẳng người, nhìn
mãi xuống dòng sông bốc khói tưởng như thấy rõ được chiếc bóng mình nở rộng
theo cùng mênh mang của lớp sương mù. "Quỳnh Như", Thuấn gọi một
tiếng nhỏ, đột nhiên nỗi nhớ thương như quả đạn bùng nổ trong cơ thể… Tại sao
mình rung động? Tại sao mình đứng ngồi phiền muộn, sao hơi thuốc hít vào miệng
nặng nề hiu hắt, trong giá rét trống vắng của một đêm trừ tịch trên quốc lộ tối
đen, Thuấn thấy nỗi thê lương có hình khối nặng nề hơn bóng đêm, lạnh lẽo hơn
gió chạy xôn xao trên mặt sông, luồn qua khối sương mù xoay chuyển ánh đèn vàng
giá lạnh.
"Anh có xe gì không?"
"Dạ, tui có cái xe gắn máy".
"Lát nữa hết gác anh về đâu?”
"Nhà tui ở dưới trường học, tui về đó…”
"Anh cho tôi mượn cái xe, mười một giờ
trả lại, nếu không kịp thì tôi mang đến nhà trả cho anh".
"Đại uý định đi mô?”
"Đi dọc dọc theo đây… Tự nhiên tôi muốn
chạy một vòng".
"Dạ, Đại uý lấy, nếu chút nữa không có
tui Đại uý đem xuống chỗ trường học, nhà tui bên trái".
"Xong, cám ơn anh trước, lát nữa tôi đem
trả xông đất nhà anh luôn, số tôi hên ghê lắm, anh sẽ lên hạ sĩ nhất trong năm
nay”.
Người lính cười không nói đứng nhìn Thuấn đang
nổ máy xe.
Thuấn rú hết gaz, chiếc xe lồng lên, xốc mạnh
trên đoạn đường lồi lõm, ánh sáng không đủ rọi xa. Thuấn ghì chặt tay lái,
không bớt tốc độ… Gió thổi lạnh hai bên tai, răng nghiến chặt… Thuấn thấy thấp
thoáng dưới ánh đèn khối không khí mù mờ chuyển động, xoắn lượn… Trước mặt
Thuấn rừng cây thông chập chờn, con đường đỏ ướt sương, những ngọn đồi cỏ
chuyển động ào ạt. Chỉ mới năm năm qua. Đêm một giờ sáng từ tỉnh B Thuấn theo
xe đò lên Sài Gòn, chiếc xe bật đèn chạy qua Dĩ An, Thủ Đức, Bình Lợi, Bình
Hoà… Cô bác cho tiền, cô bác cho tiền… Thuấn xuống xe ở Đakao đi bộ về Tân
Định, đồng hồ chỉ hai giờ mười lăm, thành phố Sài Gòn ngủ kỹ, lũ chó hoang chạy
vật vờ trên những đống rác, thành phố mệt mỏi như giấc ngủ trưa của con điếm
miệt mài. Nhưng Thuấn thì không vậy, Thuấn nhảy chân chim trên lề đường loang
nước, Thuấn chạy hân hoan trên Sài Gòn tàn tạ úa bẩn, Thuấn chạy vào đường Trần
Quang Khải, rẽ tay mặt, chạy nhanh hơn nữa… Đây rồi, căn nhà Bích Trân kín cửa
im lặng. Thuấn nhìn lên, một, hai, ba… Cửa sổ thứ hai là phòng khách, sau phòng
khách là phòng ngủ của Bích Trân, có thể nàng ngủ ở phòng khách, trên canapé
hay dưới sàn nhà, cuốn truyện úp trên mặt… Bích Trân khi lặng lẽ đau đớn như
tuổi già, Bích Trân khi nói em, kể chuyện, khi coi sách, ngây thơ mãi mãi như
trẻ con… Thuấn đứng trong bóng tối nhìn lên khung cửa im lặng, nghe đâu từ căn
phòng tiếng thở nhẹ nhàng của người thiếu nữ mê thiếp, Bích Trân chuyển mạnh
cánh tay ép sát vào ngực, thế nằm co quắp tội nghiệp, thế nằm sửa soạn chống đỡ
cơn phong ba. Một giờ, hai giờ, Sài Gòn tỉnh giấc, động cơ xích lô máy vang
động từng nhịp rồi tản dần trong không khí ấm mát của đêm còn vướng vất, ngọn
đèn vọng úa nhợt nhạt, bầu trời chuyển thành màu xanh thẫm. Cánh cửa cuối cùng
chợt mở, người u già bước ra…
"Kìa cậu Thuấn, làm gì sớm thế?"
"U kêu cô Trân hộ tôi…"
"Cậu lên từ bao giờ?"
Thuấn mỉm cười không nói vò vò bao thuốc trong
tay… Bích Trân chạy xuống, bước chân cuống quít nhảy vội, làn tóc rối, đôi mắt
hốt hoảng…
"Có gì vậy Thuấn? Có gì xảy đến cho anh?”
"Không, anh nhớ em…"
"Anh đến lúc nào?"
"Lâu lắm. Cho anh hôn em, trời chưa sáng,
không ai thấy".
"Coi chừng u già".
"U già đã vào nhà… Ôm anh…"
Cửa đóng, mái hiên rộng bóng tối đầy khoảng
sâu. Thuấn khép chặt hai tay, đầu người thiếu nữ ép vào vai… "Anh đến từ
lúc hai giờ, ngồi ở ngưỡng cửa này…"
"Anh kỳ quá!"
"Không, chỉ vì yêu em…"
Bao nhiêu lần như thế, bao nhiêu đêm trong cơn
say, Thuấn sờ vào lớp tường đá lạnh tưởng như vuốt ve một bóng hình thân yêu.
Năm năm, gã trẻ tuổi nồng nàn ngày xưa đã mất. Tối nay, Thuấn đang sống lại,
chiếc xe chạy như một nỗi hân hoan tìm kiếm được hạnh phúc sau thời gian chết
cứng. Quỳnh Như, giọng Huế thánh thót trong vắt, tiếng cá đớp mồi dưới bờ sen,
cánh sen tàn trên mặt hồ đặc bèo, chiếc giường nệm nồng mùi thiếu nữ, Thuấn
duỗi thẳng hai chân, hai ngón chân cái đan chặt vào trong cơn bão ngầm cảm giác
thổi lướt qua. Quỳnh Như, giờ tỉnh giấc sau cơn mê phiền muộn. Anh đến cùng em…
Thuấn qua một khúc quẹo, đèn lướt một đường vàng trên luỹ tre vệ đường. Sắp đến
cầu An Hoà, Thuấn nghĩ, tăng thêm một chút tốc độ để đi được lượng khoảng cách
tối đa… Có bóng người chạy thấp thoáng trước mặt… Thuấn thắng thật mạnh, chiếc
xe chao bên trái lạng thêm một đường bên phải, bánh xe xiết trên đường ngã
nghiêng. Thuấn nhảy vào vệ đường, kéo khẩu súng nhanh ra khỏi thắt lưng, lăn
xuống đất nằm lên đống lá tre, họng súng hướng về phía hai bóng người đang đứng
trong vùng ánh sáng.
"Ai? Đứng lại, nhúc nhích tôi bắn”. Thuấn
hét thật lớn, át hẳn tiếng gió và động cơ chiếc xe đang giòn giã nổ…
"Dạ, tui tui…"
"Tiến tới, đưa tay lên khỏi đầu”.
Hai bóng người tiến tới lần lần, Thuấn kéo cơ
bẩm khẩu súng, tiếng động lạnh vang như tiếng nổ, hai người giật nẩy, co rút
lại…
"Hai anh ở đâu?”
"Dạ tụi em gác cầu, Việt Cộng về, tụi em
chạy thoát".
"Việt Cộng?"
"Dạ tụi nó lấy cầu và đóng đầy trong làng
Dốc Sơ, chắc ở Huế cũng có tụi nó… Em còn nghe súng nổ thiệt loạn ở chỗ cửa
Chánh Tây…"
"Chắc không?"
"Dạ có, tụi đánh vô cầu nói toàn tiếng
Quảng Bình".
Thuấn nhảy vội lên chiếc xe, gài khẩu súng vào
thắt lưng.
"Hai anh chạy về cây số mười bảy đi, ở đó
có nhiều lính mình".
"Dạ, tụi em cũng tính thế".
Thuấn quay xe về hướng An Lỗ, nhìn lại thành
phố Huế, hình như có tiếng nổ khô của lựu đạn chen lẫn trong tiếng pháo… Quỳnh
Như, Thuấn rú hết gaz, chiếc xe lao vút đi…
°
Minh đạp cửa ào vào như cơn lốc…
"Gì vậy?" Lạc nhổm dậy, tay còn cầm
hộp bia.
"Xong rồi, Việt Cộng đứng đầy đường. Phải
kêu bà chị với mấy ông nhỏ dậy…"
"Chạy đi đâu?”
"Vào trong tiền trạm của mình".
"Ông biết đường?”
"Kêu bà chị dậy đi, nhớ mang theo thức
ăn”. Minh nói như ra lệnh, rút khẩu súng colt, lên đạn đặt khoá an toàn dắt vào
thắt lưng ở vị thế dễ kéo ra nhất. Minh mở cửa bước ra hành lang, cong người
trên lan can nhìn xuống đường, bên kia vườn hoa Nguyễn Hoàng leo lét ánh đèn
thấp thoáng đầy những bóng người sau các gốc cây, phố chính người đi vội, hình
như họ đang dồn thành từng nhóm. Minh liếc về phía phải, từng tổ tam tam di
chuyển yểm trợ nhau dọc theo bờ tường. Minh chạy vào, vợ chồng Lạc và hai đứa
con đã sẵn sàng, vợ Lạc tay xách chiếc valy nhỏ…
"Chị bỏ valy lại, mặc thêm áo vào mang
chút thức ăn thôi, dưới đường đi không được nữa…”
"Tụi nó?" Lạc hỏi nhỏ. Minh gật đầu,
tầng dưới vang tiếng nổ, đạn AK từng nhịp ba viên gọn gàng, tiếng nổ vang dội
dọc theo hành lang, có tiếng người van lạy và bước chạy lên cầu thang.
"Chết, làm gì bây giờ mình?" Vợ Lạc
bấu chặt tay chồng.
Lạc rút khẩu súng ra khỏi lưng, mũi súng hướng
về cửa phòng, đưa mắt nhìn Minh dò hỏi, Minh lắc đầu bước đến khoá cửa phòng…
"Ông kéo cái bàn đến đây cho tôi, chận
cứng lại, nhớ khoá chặt hơn”. Lạc làm như cái máy, sự sáng suốt bình thản
thường ngày mất hẳn, người vợ cùng hai đứa con như sợi dây trói chặt tay chân
cùng phản ứng. Lạc nghe lời Minh không chút phản ứng ngần ngại.
"Ông đứng sát tường, giúp tôi trèo lên
cái lỗ này".
Lạc đứng dạng chân, hai bàn tay bám vào thành
cửa sổ. Minh trèo lên hai vai, lần tay theo thành tường.
"Ông nâng tôi lên chút nữa".
Lạc nhón chân lên, Minh bám được khung cửa
trần nhà trổ lên mái, rán đu ngược người lên.
"Bây giờ ông đưa hai cháu lên". Hai
thằng nhỏ được kéo lên trước, xong đến vợ Lạc, khi tất cả ở trong buồng tối,
Lạc lấy lại bình tĩnh.
"Bây giờ mình phá mái nhà?"
"Phá nhẹ tay, đừng để ngói rơi xuống, để
tôi lên trước định hướng, ông coi chừng cửa phòng mình, đừng để nó biết mình
núp trên này". Lạc gật đầu tỏ vẻ hiểu, khi Minh bắt đầu gỡ từng tấm ngói
Lạc thở nhẹ liếc mắt nhìn xuống lỗ hổng, căn phòng vắng, ngọn đèn mờ, chai rượu
lăn lóc trên sàn nhà, ngoài hành lang có tiếng chân người chạy, những giọng hét
ra lệnh chêm vào những âm thanh của cổ họng bị chặn lại. Tiếng nổ từng phát một
gọn ghẽ, khô khan, khi viên đạn đi từ nòng súng xuyên qua mục tiêu, mục tiêu
bằng xương bằng thịt ép sát vòng kim loại lạnh băng. Cửa phòng bị tống mạnh,
chiếc ghế lung lay, chìa khoá rơi xuống. "Mở cửa, mở cửa", giọng miền
Trung nặng tai, Quảng Bình hay Đồng Hới, tấm cửa bị rung dưới sức ép, một loạt
đạn nổ giòn, ống khoá bị bắn tung từng mảnh nhỏ. Lạc nhắm vào bóng đèn, đoàng,
bóng tối dày đặc, vừa lúc cửa phòng bị xô tung, chiếc bàn lật ngược đổ sầm trên
nền nhà. Loạt đạn từ ngưỡng cửa sáng từng chập, Lạc bắn vào ngưỡng cửa hai
viên. "Lùi, lùi, tui bị rồi đồng chí…” Căn phòng tối thâm. Lạc ngửng đầu
lên, một luồng gió lạnh băng theo lỗ hổng thổi vào nhà, bầu trời lóng lánh sao.
Trèo lên, Minh thò đầu vào lỗ hổng. Minh bò trước, hai đứa bé, Lạc bò sau cùng,
thành phố Huế rộn rã tiếng pháo nổ, nhưng tai Lạc nghe rõ tiếng súng, không có
viên nào rít trong không khí, viên đạn đã nằm trong một mục tiêu xương thịt nào
đó. Trái với sự dự đoán, Lạc bình tĩnh trở lại, cảm giác như sắp sửa xua quân
vào khi nghe mục tiêu đã bị phi pháo cày nát. Minh khôn ngoan thận trọng như
đang dự trò chơi trốn bắt trong tuổi nhỏ. Chàng nhấn bàn tay trên mỗi khoảng
gạch ngói trước khi trườn tới, dãy trường thành trước mặt đen thẫm bề thế gần
tới từng tấc một.
"Bây giờ mình phải tìm cách vượt cái hào
này".
"Lội qua?" Lạc hỏi với giọng e dè.
"Chuyện đó thì dễ cho ông với tôi, chỉ lo
bà chị với hai thằng nhỏ".
"Ừ nhỉ". Lạc đưa tay lên gãi gãi
trên mặt.
"Em biết lội, mình và anh Minh đừng
ngại”. Vợ Lạc e dè cất tiếng, sự sợ hãi trên đoạn đường mái nhà đầy tiếng súng
đã làm người đàn bà cứng lưỡi, bây giờ hạt đất dưới chân làm tĩnh trí. Có luôn
mấy đứa nhỏ kia ở đây thì chắc dạ biết mấy, người đàn bà muốn nói với chồng câu
nói cùng ý nghĩ.
"Ở Sài Gòn có đánh nhau không mình?"
Không ai trả lời câu hỏi.
"Không cần, để tôi đi tìm chiếc xuồng,
mấy người hái sen thường hay cột chùm ở đây, hơn nữa trời lạnh lắm”.
"Vậy thì tốt, ông có cần tôi đi cùng
không?"
"Không, ông coi chừng đừng động đậy,
tránh hết mọi thứ”.
Lạc gật đầu, kéo vợ con thụp xuống, hơi bùn và
nước xông lên ẩm ướt. Minh rón rén dò từng bước chân, hào nước mắm nằm sau đám
nhà dân chúng, những cột sàn nhà chông chênh đóng rêu trơn, mùi bùn non cống
rãnh rác rưởi bốc lên nôn nao. Minh kéo cao cổ áo saut, rút khẩu súng cầm tay,
bước chân hẳn xuống bờ hào. Đi thế này tránh người ta trông thấy, nếu bị bắt
gặp? Minh nhủ thầm, phải áp đảo ngay, Việt cộng chắc tràn khắp thành phố chắc
không thoát được, nhưng mình là người Huế, cởi áo saut này thì ai biết mình là
ai? Minh yên dạ, bước tới vững vàng trong bóng đêm…
"Đây nhá, cái thành này chạy quanh khu
nội thành, bên trái kia là cửa Thượng Tứ". Minh chỉ tay về hướng một khối
đen nhô cao ở đàng trước xa xa…
"Tôi biết, chắc tụi nó ở đó rồi, ông tính
đường nào về tiền trạm mình".
"Tiền trạm mình ở trong Mang Cá".
"Mang Cá là gì?"
"Nơi Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1, bây giờ nếu
chạy thẳng đường từ cổng thành này là đến, nhưng chắc không nổi… Tụi nó thế nào
cũng giữ con đường này".
"Có thể tụi nó muốn nhào vô Sư đoàn
1".
"Suya, nên mình phải tìm con đường xa con
đường này, cứ men theo mấy con đường nhỏ nhỏ là lọt, ông đi sau có gì thì dọt,
chạy mẹ vào nhà dân chúng, thằng dân nào láng cháng là phơ".
"Sao kinh vậy ông? Toàn người Huế của ông
cả đấy”.
"Khỏi bàn, ông thấy tụi trong khách sạn
không là người Huế sao?… Chuyện đó tính sau, bây giờ cốt yếu là vào trong tiền
trạm, có ăn, có sống, leo tàu bay về Sài Gòn là tốt".
"Còn gia đình ông nữa".
Minh không nói. Có một cái gì tàn bạo lạnh
cứng trong lòng, trong cơn nguy biến Minh đã khôn khéo phát triển đến tối đa
phản ứng tìm sống. Minh đã ích kỷ một cách thản nhiên cứng ngắc. Gia đình? Minh
nghĩ đến mẹ và gia đình bên ngoại trong một thoáng hối hận, mẹ và gia đình bên
ngoại không có gì với Việt Cộng, họ đứng ngoài cuộc biến động nguy hiểm này, cả
nhà ngoại sẽ nấu những nồi cơm thật lớn và các dì mợ trổ tài chế biến những món
ăn khô dè xẻn cho đám đông, thịt khô, cá chấy, muối sả, họ sẽ ăn những thức ăn
khó khăn đó để đợi chờ biến cố đi qua trong bình yên. Trong khi Minh vượt từng
thước đất trên sự sống chết đi về Tiểu đoàn, theo sau một người bạn, bạn lớn
tuổi, bạn lính, bạn uống rượu… Minh cùng họ cố về tiền trạm nơi có những người
lính thuộc Ban 4 Tiểu đoàn, những người lính không mang súng để vác gạo, bắp
su, xách nước mắm từ trực thăng xuống vùng hành quân. Cơn nguy biến ném Minh
vào trong một cuộc đấu tranh lạ lùng, cuộc chiến đấu không chiến hữu và không
vinh quang. Nhưng Minh phải tới được tiền trạm, Minh phải thắng vì cả cuộc đời
cụ thể của Thân Trọng Minh đặt trên cuộc đấu tranh này, nếu Minh thua, một nòng
súng AK sẽ dí trước trán. "Lính Dù nguỵ hả?" Việt Cộng sẽ hỏi Minh
bằng giọng Quảng Bình, Quảng Trị và có thể là giọng Huế… "ĐM, lính Dù nguỵ
mà… hì hì…" Ngón tay của tên Việt Cộng sẽ co lại, cò súng sẽ co lại, Minh
nghe được tiếng chuyển động của lò so hoàn lực chuyển để kéo cho búa đập vào
chậu cơ bẩm, bốp, kim hoả sẽ đâm vào hạt nổ và đoành… Thân Trọng Minh giải thể
thao của học sinh miền Trung niên khoá 1957-1958, cây toán học của Trường Võ Bị
sẽ bị bắn ngược người ra đàng sau, một phần chất óc phọt ra ngoài, Minh ngã
xuống, chân tay giãy giãy, sự sống cuối cùng giãy giụa vùng vẫy trước khi tắt
ngúm. Chết, một sự chết toàn thể có kích thước ở tay chân lạnh giá cứng đơ,
dòng máu chảy ra đẫm ướt thấm sâu trong đất, chết có mùi hôi ngai ngái… Chết
thụ động và vĩnh viễn… Phải sống, phải về tiền trạm. Minh dự phần vào cuộc
chiến không huy chương với hết sức mạnh con người.
"Này Minh, tụi mình phải kiếm cái áo quần
gì để thay mới nói chuyện thoát”.
"Tôi cũng nghĩ vậy, hơn nữa cái quần tôi
ướt nhẹp lạnh không chịu nổi… Mặc cái áo saut này chi bằng kêu Việt Cộng đến
túm còn hơn".
"Lấy áo quần civil ở đâu bây giờ?”
"Vào đại nhà nào vắng người, để tôi đi
kiếm”. Minh len lỏi trong khu vườn chuối ở trên mặt thành nên thấy được khu phố
chính mờ mờ ánh đèn trong sương. Dưới kia chắc bắt đầu loạn, đã có những anh
chết trong khi đang xỏ tay vào áo veston để đợi giao thừa xuất hành… Không hiểu
đã giao thừa chưa. Minh thoáng cười với ý nghĩ rời rạc của mình. Khu vườn hết,
Minh bắt đầu vào một khoảng sân đất nện cứng, có người đàn bà đang cúi đầu lạy
trước mặt một bàn thờ nhỏ.
"Này, bà ngừng cho tôi hỏi một
chút".
Người đàn bà nhìn lên hốt hoảng, những cây
hương đang cầm ở tay lã chã rơi xuống. Có nhánh hương rơi trên chân nhưng người
đàn bà không để ý, một động tác thật thuần thục, hai bàn tay xòe rông chắp vào
nhau, người đàn bà xá hai ba cái liên tiếp, đôi môi nhăn nheo kéo xuống sửa
soạn cho tiếng khóc… Ầm, ầm, tiếng nổ ở xa, miệt Gia Hội hay Đông Ba, không
biết 105 của ta hay Việt Cộng vừa giật sập mất cái gì? Minh liếc thấy ngọn lửa
lóe lên sáng rực trước tiếng nổ. Người đàn bà giật nẩy mình không kìm hãm nổi
tiếng khóc đang ứ. “Lạy cậu tha cho tôi”, bà xá thêm mấy cái, đôi mắt không rời
khẩu súng. Giữa tiếng nổ và khẩu súng của Minh có liên hệ với nhau… Những căn
nhà bên cạnh xôn xao, người ta chạy vội ra sân đứng hướng mặt về phía có tiếng
nổ. Minh đẩy người đàn bà vào trong nhà. "Bà vào trong này tôi có chuyện
nói". Bà ta bước líu díu, những cây hương còn hững hờ trên tay xoay từng
vòng sáng đỏ theo mỗi bước đi.
"Bà không phải sợ gì hết, ở nhà còn người
đàn ông nào không?"
"Dạ có, thằng con trai tôi đi lính ngoài
Quảng Trị, cậu thương tình tôi không làm gì nên tội".
"Nói hoài, tôi bảo bà đừng sợ, bà cho tôi
hai bộ đồ civil, áo quần thế nào cũng được, có áo len thì tốt, còn bà cũng nên
gói sẵn một gói đi, có gì chạy cho lẹ…"
"Chạy đi mô, vì cái chi mà chạy?"
"Đạn, súng, đánh nhau lớn, ở đây không
yên mô".
"Nhưng có lính tráng đồn trại chi ở đây?”
Người đàn bà nhìn lên bàn thờ, ánh nến chiếu vào giấy vàng mã trở nên lóng
lánh, rực rỡ khói cây nhang bay là đà quyện vào nhành mai trước khi tan, người
đàn bà quay lại nhìn Minh, đôi mắt bớt vẻ sợ hãi phảng phất buồn.
"Tui không đi, ông Việt Minh hay Quốc gia
tui không biết, bàn thờ tui dọn rồi, đầu năm không ai bỏ nhà mà đi ”.
"Cậu định trốn đi mô?” Người đàn bà run
run hỏi Minh.
"Đi trốn?” Minh khó chịu. Minh không muốn
mang tâm trạng này. Minh thấy mình đang làm một công việc to lớn và quan trọng
dù trong bóng tối.
"Tôi không trốn đâu hết, tôi đi Mang Cá”.
Minh hơi bối rối trước câu nói của mình, ôm bộ áo quần, nương theo bóng tối đi
về cuối khu vườn.
Người đàn bà ngồi lại nhìn lên bàn thờ, khói
hương bình thản lặng lẽ bay, ánh nến chập chờn ấm áp. Thế giới của người đàn bà
trong tối giao thừa là đây… Ngồi im trên chiếc ghế nhìn tàn hương rũ xuống dính
vào đốm lửa một cách mong manh, chờ cơn gió yên lặng rơi xuống. Tàn hương lay
động yếu ớt như thời gian vô hình chuyển đi giữa hai năm. Người đàn bà đợi hết
tàn hương sẽ cúng đến phần đồ ngọt, chè đậu ngự nước trong vắt, hạt đậu vàng
xanh nở một đường sung mãn như cành lộc mới… Giặc giã ở đâu cũng mặc, ba bốn
lần chạy loạn rồi, loạn lần nào cũng quá lâu, trận Cùa, trận Nam Đông năm 63,
64 gì đó, thằng con thứ nhì bị gãy chân bó bột. Năm nay là Mậu Thân, hai thằng
con lại đi biệt mặt không về? Giặc đã phá nhà nhiều lần, giặc đã vào trong nhà,
đã làm mẹ con cách xa, đã đẩy tình thương về những chỗ tối tăm vô ích, thương
con biết để trong lòng, người đàn bà ngồi như đã ngồi suốt hai mươi năm. Giặc
kia chờ chồng, giặc này chờ con, còn tai ương nào để xảy ra? Người đàn bà ngồi
chờ tàn nén hương.
"Xong rồi, bây giờ mình cứ tà tà mà đi,
dân chúng hình như cũng vừa biết được có biến động, mình kiếm nơi nào đông nhập
vào. Ông và bà chị đừng nói gì cả, xứ Huế ít người Bắc, có gì cứ để tôi. Bây
giờ mình xuống đường”. Minh chỉ tay xuống con đường nhựa nằm dưới chân thành,
ánh đèn vàng ấm soi rõ những lá cây khẽ rung động. Năm người bước chân xuống
mặt nhựa.
"Đi ngã nào?" Lạc khẽ hỏi, liếc nhìn
những con đường chằng chịt trước mặt.
"Phía này, cứ đi như người thường chạy
loạn, đừng trốn tránh gì cả". Minh cho tay vào trong túi, cúi đầu rảo bước
đi trước.
Một loạt đạn vang lên từ đầu đường, những ngọn
đèn bị bắn vỡ nổ nghe gọn ghẽ, bóng tối đè lên một phần đường. Minh kéo hai đứa
bé, Lạc kéo người vợ nhảy vào vệ đường, ẩn sau một gốc cây. Ba bóng người tiến
đến …
"Ai, đi ra”.
"Đi ra”. Minh khẽ nói. Ném mấy gói áo
quần dưới cống.
Minh đứng dậy tự nhiên, dẫn hai đứa bé bước
ra.
"Các anh là ai? Làm gì?" Giọng Quảng
Bình chát chúa, tên Việt Cộng thủ cây AK trước ngực ở thế sẵn sàng, hai tên kia
bố trí về hướng chúng vừa đi đến.
"Dạ anh em tôi dạy học, mới đi chùa
về".
"Dạy học lớp mấy?" Tên Việt Cộng
nhíu mày ra vẻ suy nghĩ.
"Dạy nhiều lớp, tôi dạy vẽ, tôi là giáo
sư hội hoạ của trường". Minh chọn thật nhanh một môn học vô thưởng vô
phạt, anh tôi là thợ sửa đồng hồ…
Tên Việt Cộng im lặng, mắt vẫn nhìn vào Minh…
"Anh là lính gì mà có súng, súng này lạ
quá, lần đầu tiên tôi thấy". Minh hỏi, giọng hoà hoãn vô tư. Tên Việt Cộng
khẽ cười:
"Anh không biết gì cả, bây giờ mấy người
tới đằng chỗ trường học để sinh hoạt”. Y chỉ tay về hướng trường Bồ Đề…
"Anh biết đường đi không?”
"Dạ biết". Minh lễ phép.
"Biết thì đi tới đó liền”. Gã đưa nòng
súng lên trời bắn ngọn đèn đường kế tiếp.
Minh giả vờ kêu "Trời ơi!" sau tiếng
nổ.
"Dạ thưa ông chúng tôi đi”. Minh dẫn hai
đứa con, Lạc rẽ vào con đường trước Pháp đình. Hai tên Việt Cộng tiếp tục đi
dọc đường dưới chân thành, họ đi đâu bóng tối đầy đến đó.
"Mình tới trường học đó sao?” Lạc hỏi.
"Đâu được, nhưng như vậy không những tụi
nó đóng dọc từ đây đến Mang Cá, tụi nó còn bố trí cả chiều ngang thành nội
rồi…"
"Để tôi kiếm xem có đường nào lọt được,
thôi mình đi theo đường này thử". Minh dẫn bốn người đi vào con đường dọc
theo hông toà án.
Một tràng tiếng nổ khô vang lên đều đặn. Minh
và Lạc cùng nhìn lên trời, những khối lửa bay song song về phía Mang Cá.
"Tụi nó pháo kích, ít nhất cũng có 4 cây
82".
"Tao nghe cả hoả tiễn 122 ly nữa, có thấy
khối lửa đỏ rực bay cao nhất không?”
Minh gật đầu đưa mắt nhìn Lạc hỏi ý kiến.
"Như vậy là hơn tiểu đoàn rồi, pháo bốn
cây là phải tiểu đoàn trở lên".
"Có thể là bộ chỉ huy Trung đoàn của tụi
nó".
Một tràng tiếng nổ khác, vợ Lạc xoắn xuýt ngồi
bẹp xuống ôm lấy hai đứa con. “Mình! Mình! Làm sao bây giờ?"
"Không gì chị, đó là súng của Việt Cộng ở
đây bắn đi”. Minh chợt mỉm cười vì câu nói của mình. Ở đây bắn đi, Minh cùng
một phía với Việt Cộng. Một phía, Minh thấy lạ, một chút yên ổn ở vị trí sau
súng địch, phân chia bạn thù hoá ra chỉ một giai đoạn, một giai đoạn ngắn và
trống, qua khỏi khoảng trống vô hình đó con người được biến dạng như cây gậy
lệch đi khi được nhìn qua màn nước. Súng cối và hoả tiễn Việt Cộng bắn đi tất
nhiên có súng cối hoặc 105 của ta phản pháo lại, Minh mong muốn cuộc phản pháo
chậm để tìm đường trốn.
"Không xong rồi Minh, tìm phía nào ra
khỏi mấy cái ống nhổ này đã, ở gần không được”.
Minh gật đầu, rẽ về phía tay mặt. Ổ súng cối
địch chắc đặt ở đường Hàm Nghi phía tay trái.
Người chạy hỗn loạn, người chạy ra khỏi nhà
mang những vật dụng thật vô ích trong cơn hốt hoảng. Áo quần tạp nhạp được gói
vào trong chăn cũ: ôm trước ngực bằng hai tay chéo lại, một chiếc ly được mang
theo. Chiếc ly vô dụng, khôi hài lúng túng chuyển từ tay trái sang tay phải,
cuối cùng được ném đi trong la hét thúc giục. “Trời ơi là trời. Súng của ai?
Súng của ai? Chạy ngả mô đây?” Người nhào ra từ đường, đường trống trải lạnh
cóng, nhìn lên trời đạn bay đỏ lưới. Tiếng nổ nghe thật gần do đạn súng cối
départ hay hoả tiễn được phóng đi. Tiếng nổ, khối dân co rúm người như dưới một
dịch động kinh. Dân chúng không phân biệt được tiếng nổ của kích hoả đập vào
hạt nổ để đẩy viên đạn đi xa hay tiếng nổ của đầu nổ khi chạm phải mục tiêu.
Người dân sợ bất cứ mọi tiếng nổ và ánh sáng, sợ mảnh gang nứt ra từ quả đạn,
sợ viên đạn nhỏ bằng đồng bay vút trong không khí. Tai ương có hình dáng màu đỏ
vạch trong trời đêm, tai ương có khoảng cách và tiếng nổ. Dân chúng chạy vào
trong nhà, cảm thấy nhà mênh mông và mỏng manh họ nhìn hết vật dụng thân yêu…
Chiếc giường vậy cũng được ba mươi năm khi ông nội còn làm Biện ở ngoài Hà
Tĩnh, cái đồng hồ quả lắc vàng chóe úa màu đen chậm chạp đưa đẩy trong khối vỏ
màu nâu khắc hình trái nho, đồng hồ mua từ năm 1949 sau khi lính rappel đầu
tiên kể từ lúc hồi cư cuối năm 1946. Người gia chủ treo lên định mang xuống.
"Ba con Uyên muốn mang cái đồng hồ phải
không?”
Người chồng nhìn vợ dò hỏi không trả lời.
"Trời ơi! Cái đồng hồ! Khai sinh giá thú
giấy tờ đất cát mình không mang đi định mang gì của nợ đó”.
Người vợ chạy xuống bếp xếp chén dĩa kiểu vào
tay nải… "Uyên, Uyên, giúp mẹ mang cái này". Người mẹ lắc lắc tay
nải. Nặng quá không mang nổi. Cô gái chạy quanh chiếc bàn học, cuốn album, nhật
ký, tập lưu niệm. Biết mang cái gì, Uyên xé vụn đống thư cột bởi sợi cao su,
những lá thư của tình yêu thần thoại, khởi đầu tuổi thanh xuân, bị xé nát, vứt
bỏ, nhoà tan trên sàn nhà. Lá thư tình cách đây hai ngày đã làm Uyên bấn loạn,
Uyên đã đọc từng chữ, đã cắt từng câu, nghiến ngấu, ve vuốt từng dấu chấm tân
kỳ hình ông sao, Uyên nhớ vạch chéo ngang tàng dũng mãnh. "Người ấy"
như vậy đã yêu mình lâu lắm? Người ấy theo dõi mình với mối tình cay đắng trong
bao ngày tháng qua… Uyên vung tay ném mạnh những cuốn sách ra khỏi chiếc valy
con, xếp tấm áo len trắng vừa đan xong để mặc trong Tết này… Cả gia đình náo
loạn một cách khó khăn, họ xoay quanh các đồ vật, nằm bẹp xuống sàn nhà sau mỗi
tiếng nổ và nhổm dậy tiếp tục cào cấu la hét trên đống vật dụng bỗng chốc trở
thành quá thân yêu và cần thiết…
"Chạy không nổi về Mang Cá được, trước
mặt bên trái toàn người anh em, tay phải mình lại đụng cái thành, thôi chạy vào
nhà bà chị tôi rồi tính sau". Vợ chồng Lạc cùng gật đầu một lượt theo Minh
không ý kiến.
Ngày mồng Hai Tết, Thuấn dẫn đại đội chạy băng
qua phi trường Tây Lộc, sắt PSP nhún nhún dưới chân, xóm nhà dân ở xa bốc khói,
phòng đợi khách bị trúng đạn B.40 xám đen, cánh cửa bị thổi tung, đại đội bố
trí trông về cửa An Hoà đợi lịnh, Thuấn đi vào phòng, có chiếc xe Jeep cháy ở
ngưỡng cửa, hai người chết gục ở tay lái, Thuấn đi đến. À pilot L 19, Thuấn
đứng sát gần xác chết để nhìn rõ mặt. Có thể là mấy cha pilot hay bay với red
marker(), mình có thể biết nó, Thuấn đưa báng súng lật gã phi công
chết trên tay lái.
"Thằng cha này lạ, mình không biết".
Gã phi công bị bốn năm viên đạn ở ngực, một
viên vào đầu, hai con mắt mở cứng ngắc, màu từ vết thương trên đầu chảy xuống
dính một bên mặt, đóng khô những sợi râu mép.
"Người anh em có bao giờ nghĩ rằng mình
chết trên tay lái ô tô không nhỉ?" Thuấn mỉm cười với ý nghĩ mình. Ai làm
sao biết được mình chết lúc nào và ở đâu như gã phi công đã ngồi chết trên tay
lái. Một anh chàng người Huế cuối năm về quê hương? Không phải, mũi xe hướng về
phi cơ chắc anh ta nghe súng nổ nên lái xe Jeep vào đây định vọt đi bằng máy
bay, anh ta chết khi còn mặc đồ bay màu xám, huy hiệu con rồng bị một vết cháy,
có thể thằng Việt Cộng dí súng thật sát để bắn… Thuấn muốn nghĩ tiếp thêm vài
chi tiết về người chết, nhưng trí óc làm việc chỉ đến chừng đó. Thuấn bước vào
phòng đợi, gạt máy điện thoại xuống đất. Giờ nay còn có ai gọi, chỉ gọi được
Nước Chúa. Thuấn leo lên chiếc bàn gối đầu vào mũ sắt, nhắm mắt lại.
"Khi nào Tiểu đoàn gọi mày đưa máy tao,
còn đụng hay không ở đâu cũng mặc, tao ngủ”. Gã lính truyền tin gật đầu không
nói, ngồi dựa lưng vào tường sát dưới chân Thuấn. Gã không cởi chiếc máy trước
khi nhắm mắt. "Tôi cũng buồn ngủ quá Đại uý…” Thuấn nghe từng tiếng động
lịch kịch của chiếc nón sắt mỗi khi gã lính cong chân chạm phải cùng tiếng máy
chạy sè sè. Thuấn không ngủ được, nhưng hai mí mắt sưng mọng chụp xuống mở
không ra, cảm giác như đôi mắt khô cứng không thuộc về phần điều kiện của mình
nữa. Bên trong mí mắt đã dậy, đôi mắt vẫn còn thức, nghe ngóng chờ đợi. Thuấn
muốn ngủ, hai đêm, hai ngày căng thẳng và di chuyển tác chiến liên tiếp làm vỡ
nát những khóm xương, trùng hết mọi đường gân nhưng đôi mắt vẫn tỉnh táo một
cách khó chịu. Trong bóng tối của văn phòng, sau rèm mi Thuấn nghe đôi mắt mình
chuyển động ngang dọc. Thuấn xoay người ra phía cửa, ánh nắng làm Thuấn mở mắt,
sân bay vắng ngắt rải rác toán lính nằm dài bên kia phi đạo… Gã phi công chết
vẫn mở mắt nhìn bầu trời xám đục. Thuấn ngồi nhỏm dậy. “Tốt, sống đến bữa này
là tốt". Hình như Thuấn nói như thế.
"Dậy mày". Thuấn đá vào chân gã lính
truyền tin. Dậy để xin lệnh kéo vào trong kia bố trí, ở đây trống quá, tao lại
đói nữa, suốt giao thừa đến bây giờ không có một bữa ăn. Thuấn cầm máy truyền
tin liên lạc với Tiểu đoàn trưởng. Gã lính truyền tin vẫn gục đầu ngủ kỹ, Thuấn
ném ông liên hợp xuống đất sau tiếng chửi thề…
"Gì Đại uý?” Gã lính giật mình lồm cồm bò
dậy.
"Trên Tiểu đoàn bắt mình chiếm cửa An
Hoà!
"Lệnh đâu kỳ vậy? Cửa đó tụi Tiểu đoàn
hơn 2 giữ rồi mà".
"Mất lại rồi, mày kêu mấy ông Trung đội
trưởng lại đây”.
CHƯƠNG 9
Ba Trung đội trưởng từ ba góc phi đạo đi đến,
Thiếu uý Chí Trung đội trưởng Trung đội 3, tướng người vốn to lớn, thứ xương
to, mập thịt nặng nề bề thế nhưng chỉ qua hai ngày không ngủ, Chí hốc hác trông
thấy, râu mọc loạn xạ vàng úa trên khuôn mặt ố bẩn, Thuấn hỏi đùa Chí:
"Sao ông to con mà yếu vậy?"
"Đâu biết, tôi không ngủ là không đứng
nổi”.
Thuấn nhìn các Trung đội trưởng một vòng trước
khi nói, sáu cặp mắt mệt mỏi cố chú ý vào lời Thuấn, những sợi gân máu ửng đỏ
nổi bật trên tròng mắt màu trắng.
"Đây, Tiểu đoàn bắt mình chiếm cái cửa An
Hoà…"
"C… Chiếm làm gì mấy cái cửa, giữ Bộ Tư
lệnh và mấy chỗ trọng yếu đủ chết rồi, còn bày đặt tấn công”, Trung đội trưởng
Trung đội 1 rú lên.
"Biết vậy, nhưng không hiểu lệnh từ đâu
xuống, Tiểu đoàn bắt phải thế".
"Đánh thì không ngán nhưng cho tôi ngủ
một giấc rồi muốn gì cũng được”. Thiếu uý Chí nói sau cái ngáp.
Thuấn nhún vai không nói, có một cái gì bất
toàn trước khi ra lệnh. Thuấn phân vân. Chiếm cửa thành làm gì? Thuấn cũng muốn
hỏi như thế, một đống súng lấy được hôm qua đã bị vất lại trên đường tiến quân,
đánh giặc không lấy súng thì đánh làm gì? Thói quen quân đội dạy cho Thuấn:
Muốn được gọi là thắng phải lấy được súng của địch, cây súng làm nên anh hùng,
xác định khả năng chỉ huy, sự can đảm giúp người sĩ quan bước lên đầy đủ với
lời khen, huy chương và cấp bậc. Bây giờ đánh giặc không để lấy súng, Thuấn lạ,
lạ hơn nữa trước khi ra lệnh Thuấn vẫn thấy bên cạnh nỗi bâng khuâng có niềm
nôn nao thúc giục…
"Ông 1 (Trung đội 1) đi theo con đường
này tiến trước, ông 2 và 3 rút ra sau theo hình nấc thang, có gì để mình rút về
đây lại… Tụi nó không đông nhưng bị bắt buộc ở lại đó nên mình phải cẩn thận,
con cháu cụ Hồ "tapi" chuyến này, phe ta còn đánh dài dài nên các ông
phải giữ vốn".
"Có gì yểm trợ không?"
"Không". Thuấn xếp bản đồ cho vào
túi quần. Thôi các ông đi, tôi theo thằng 3…” Trung đội 1 báo cáo đến cổng
thành hai mươi thước, Thuấn ra lệnh bố trí lại xong dẫn hai gã hiệu thính viên
len lỏi theo các khu vườn lên đến cuối Trung đội 1. Thuấn bảo viên Trung đội
trưởng:
"Bây giờ cho hai thằng khinh binh chạy
lên thử, nhớ bảo tụi nó tránh xa cái cổng, lỡ có gì còn chạy về".
Hai gã khinh binh bỏ sắc xuống cúi mình đi ra
khỏi khu vườn, sửa soạn chạy qua con đường để vào chân thành. Vừa đến được nửa
đường thì súng nổ dài dài dọc trên thượng thành, AK, thượng liên, B40, đồng
loạt như một bánh pháo được châm ngòi một lúc. Hai khinh binh thoáng khựng lại,
xong lủi hẳn vào chân thành… Thuấn phóng người xuống sau một luống đất, hai gã
hiệu thính viên chậm chạp theo sau.
"ĐM… Nằm đâu cũng được, gì mà phải theo
sát sau".
"Không theo Đại uý lỡ máy gọi làm răng…”
Gã hiệu thính viên người Quảng cằn nhằn.
"Đến nước này mà mày còn lý luận. Theo
tao để chết … Tụi nó nổ dữ quá”. Gã mang máy cười, nụ cười trống rỗng lạ lùng
làm Thuấn muốn cười theo.
"Đưa máy tao nói chuyện với Tiểu
đoàn".
Vẫn nằm yên sau luống đất, Thuấn báo cáo tình
hình với Tiểu đoàn trưởng:
"Trình Đích Thân (danh hiệu truyền tin)
lên không được, tụi nó đầy ở trên đó, thành dày cả thước, M79 bắn vào chỉ trầy được
mỗi viên đá. Tụi tôi thử cả trái phải nhưng vô hiệu”.
"Thôi được, nằm đấy, nhớ nằm ra xa một
chút để tôi hỏi lệnh Lima Delta (Lữ đoàn)".
Thuấn bỏ máy xuống, nói với một binh sĩ nằm
gần nhất:
"Mày bò lên kêu ông Thiếu uý xuống gặp
tao".
Viên Thiếu uý lụp xụp chạy đến.
"Gì Đại uý?”
"De, lui phía sau khoảng hai cái vườn cho
chắc, tụi nó trên cao thấy mình dưới này, nằm một lát nữa ăn súng cối bây giờ”.
"Vâng, nhưng để tôi kéo hai thằng em về
đã".
"Sao?"
"Thằng Hồng với thằng Toàn "đi”
rồi!!”
"ĐM… Mới thấy nó tới được dưới chân thành
có can gì đâu?”
"Dạ, khi Đại uý ra sau này, tôi ra dấu
tụi nó trở về, chưa kịp bắn che, thằng Hồng đã dọt lui, thằng Toàn nhảy ra đỡ
bị luôn…”
"Có chắc chết hay bị thương?"
"Chết, thằng Trung đội phó chạy lên xem rồi…"
"Sao ông cho nó chạy lên làm gì, thằng
cha này gan lắm, chết đi nữa thì tức hộc máu ra đây, Trung sĩ Thái phải không?”
"Dạ, Trung sĩ Thái".
Thuấn nhỏm người dậy chạy lại đầu khu vườn,
bên kia đường sát chân thành Trung sĩ Thái đang đứng sát vách vào tường, mũi
súng hướng lên cao, hàm râu quai nón lâu ngày không cạo làm mặt Thái trở nên
xanh xao, xác hai khinh binh nằm cong trên mặt đường cách chân thành khoảng
ngắn.
"Bắn hết cỡ lên nóc thành". Thuấn
bảo với viên Trung đội trưởng. Súng nổ, vụn gạch và đất trên nóc thành bay mờ
mịt.
"Thái, Thái". Thuấn đứng dậy hét
lớn, vung tay ngoắc liên hồi. Trung sĩ Thái hiểu ý, rời khỏi bực thành, nhảy
đến hai xác chết. Thái kéo hai cái xác về thật nhanh, chân của người chết nảy
lên mặt đường từng nhịp. Trung sĩ Thái chạy hết con đường bỗng đảo người một
vòng, hai xác chết ở hai tay rơi xuống. Thái gượng dậy chạy vào khu vườn Trung
đội 1 đang bố trí.
"Kêu thằng 2 lên". Thuấn đá vào một
người lính nằm kế. "Mày chạy xuống báo ông Trung đội trưởng Trung đội 2
đem cả Trung đội lên trên này, ông Chuẩn uý đến gặp tao. Máy, máy…” Không có
tiếng trả lời. “Toản đâu?” Gã mang máy tên Toản lật đật từ dưới chạy lên.
"Em đây Đại uý”.
"Sao mày trốn mất tiêu vậy? Sợ chết
hả?"
"Đâu có, Đại uý bảo em nằm lại đừng đi
theo”.
"C… Lý luận nữa". Thuấn cầm máy liên
lạc với Tiểu đoàn xin cho lệnh tấn công.
"Ông điên hả? Vừa rồi ông bảo đánh không
được, giờ này ông xin đánh lên. Lima Delta bảo nằm đó tránh xa xa. Thằng Tiểu
đoàn 9 có đến chỗ Thượng Tứ mà không được, cũng kẹt rồi…” Giọng Tiểu đoàn
trưởng vang vang trong máy đầy ngạc nhiên và mệt mỏi…
Thuấn trả chiếc ống nghe lại cho Toản, ngẩng
đầu lên.
"Đại uý gọi tôi?” Chuẩn uý Trung đội
trưởng Trung đội 2 vừa đến, giọng thoáng chút lo lắng.
"Thôi, không cần nữa, lui hết, về sân bay
lại, ông dẫn đi trước”.
Khi Đại đội về đến sân bay,Thuấn đi tưởng vào
trạm hàng không… Trời vừa chiều sương dày, mưa phùn mù mịt, gió rét… Đưa tay
lên xoa xoa ở mặt đất, theo nước mưa dính nhớp ở tay, Thuấn đi qua xác người
phi công. “Như vậy ông chết được ba ngày rồi đó hả? Gia đình ông có ai biết
không? Cha mẹ, vợ hay người yêu đang ở Sài Gòn, Nha Trang hay Đà Nẵng, họ có
nhớ đến ông hay đang tìm đường sống dưới cơn mưa đạn trong một thành phố
khác?" Thuấn đứng ở cửa phòng đợi nhìn xác người chết ngửa mặt lên trời lất
phất mưa phùn.
"Đại uý cho em mượn hộp quẹt nấu cơm”.
Binh nhất Thiên rụt rè hỏi Thuấn.
"Mày thì khi nào cũng chỉ lo nấu ăn”.
Giọng Thuấn pha chút giễu cợt, Thiên không nói, bóp hai tay vào nhau, hai chân
run run vì lạnh, nửa vì bối rối. Thuấn nhìn gã lính thân tín chợt thấy lòng
trầm xuống, hai ngày hai đêm sát cận kề cái chết và tột cùng khốn khổ, đêm giao
thừa chạy bộ từ cây số 17 về đến An Hoà, ngoại ô xứ Huế, gần 20 cây số dồn lên
trên đôi chân không cảm giác, không phải chân người đang sai khiến bước tới
nhưng chỉ có những bắp thịt chuyển động đẩy đưa thân thể về phía trước, trận
đánh ác liệt ở làng Đốc sơ… Hai ngày Thuấn men dọc theo sợi dây vô hình giữa
cái sống và cái chết, không thức ăn, nước uống ở trên sông đào, nước tanh mùi
máu và hơi người chết. Thuấn nhai vội mấy trái chuối lấy từ bàn thờ bị trúng
đạn, nải chuối đã bị cháy sém nám khói đen, người chủ nhà chết trong động tác
sửa soạn cho thế quỳ trước bàn thờ… Thuấn sống trong cảnh chết, ăn thức ăn có
mùi vị ma quái và thiêng liêng, thức ăn để dành cho tổ tiên trong những ngày
Tết. Thuấn không để ý, tất cả năng lực dồn lại để luôn luôn tỉnh táo, để lắng
nghe súng cối địch, dặn dò các Trung đội trưởng nhớ phân tán binh sĩ tránh B40,
Thuấn nhắn nhủ mình phải sống để ra lệnh rõ ràng, nếu cần la hét chưởi bới các
Trung đội trưởng, bảy mươi hai binh sĩ còn lại đang trông chờ Thuấn, họ chỉ có
thể đứng và bắn thật chính xác vào một bóng đen đang di chuyển, khôn khéo tránh
né một tràng đạn AK, nếu còn nghe giọng ra lệnh, hay chiếc bóng của Thuấn chạy len
lỏi qua những thân cây phủ sương dày đặc. Hai ngày nay Thuấn đã sống quên bản
thân mình, tất cả giác quan, sức mạnh và phản ứng dựng đứng trên độ căng tối đa
của năng lực… Binh nhất Thiên luôn luôn theo Thuấn trong mọi giờ khắc của hai
ngày qua. Thuấn ngồi, Thiên khép nép ngồi cách một khoảng, đang ở Trung đội 2
Thuấn chạy vọt lên Trung đội 1, bao giờ cũng vậy, sau hai gã mang truyền tin có
bóng dáng lềnh khềnh chậm chạp của Thiên với chiếc ba lô căng cứng vật dụng.
"Mấy hôm nay Đại uý không ăn cơm”. Thiên
đánh hai tay vào nhau để giảm bớt vẻ ân cần của câu nói.
Thuấn nhìn chiếc má hóp của Thiên nôn nao như
trước một ân huệ không trả được. Binh nhất Thiên vốn người cao lớn, ăn khoẻ, có
thể ăn không cần thức ăn một hơi mười chén cơm lớn… Mấy hôm nay Thuấn không ăn
cơm, Thiên không dám nấu, Thiên sợ phải ăn một mình trong khi ông thầy bận la
hét chỉ huy. Thiên nhịn ăn người hốc hác thấy rõ… "Đại uý ăn trái chuối,
Đại uý ăn bánh tét”. Thiên lần mò tìm kiếm trong ngõ ngách của những nơi đi qua
để tìm thức ăn cho Thuấn, quên hẳn nhu cầu cho chính thân mình, một cơ thể yên
lành, khoẻ mạnh và bình thường. Thuấn thấy nét trũng trên má Thiên, vòng thâm
quanh đôi mắt… “ ĐM…” mày ốm nhóm, Thiên ơi".
"Dạ". Binh nhất Thiên cười, Thuấn
cười theo. Hai thầy trò cười thật vô nghĩa, có một niềm hoan lạc thật ấm áp len
lỏi trong hơi lạnh của buổi tối đang nặng nề vây bủa.
"Mày định nấu cơm, nhưng có gì để nấu?”
"Em còn giữ gạo và đồ nấu ăn”.
"Tối hôm kia mày không ném đi?”
"Không, có ăn cơm vẫn hơn Đại uý, hơn nữa
cái soong này còn mới, em mua trong tháng rồi…"
"Mày vác nguyên ba lô chạy từ ngoài Quảng
Điền vào?!"
"Dạ… Đại uý cho em mượn hộp quẹt”.
"Tao không có, mày kiếm đâu đó, ra chỗ
thằng người chết biết đâu kiếm được cái Zippo”.
Thiên bước đến chỗ gã phi công, lưng người
lính rộng phẳng, cong xuống di động chậm chạp, tưởng thấy được một khối nặng
của chiếc sắc đựng quần áo, soong chảo và thức ăn… Hơn hai mươi cây số chạy bộ
với khối nặng ba mươi ký trên lưng. Thuấn thấy cay ở mắt, trong nguy nan và cái
chết, binh nhất Thiên vẫn không quên bổn phận, một bổn phận tầm thường để luôn
luôn sửa soạn nồi nấu cơm. Thế giới của Thiên bề bộn với bốn hộp thiếc được dán
nhãn: mỡ, đường, cà phê và tiêu ớt. Chung quanh dây lưng đạn có những túi nhỏ
đựng kim chỉ, dăm hột nút, thuốc lọc nước. Thiên quanh quẩn đề phòng mỗi một
động tác của Thuấn, nghĩa vụ và bổn phận của Thiên khép cứng chặt chẽ xung
quanh người chỉ huy… Bao nhiêu lâu Thuấn chỉ cảm thấy lờ mờ công việc săn sóc
chu đáo đó, giữa Thuấn và người lính không còn phân cách, Thuấn coi Thiên như
một phần của thân thể, một cái bóng khít khao… "Hết cả thuốc rồi",
Thuấn lẩm bẩm trong miệng trong khi vò bao thuốc … "Dạ, thuốc đây Đại uý”.
Thiên chìa một gói thuốc mới… "Chán quá Thiên ơi". "Dạ".
"Thầy trò mình chuyến này cực quá". "Dạ, dạ…" "Mày lên
trước kéo tao lên sau". "Dạ…" binh nhất Thiên dạ suốt ngày,
trong rừng sâu, trong chái bếp, trên đoạn đường Tam Quan – Bồng Sơn. Quốc lộ số
1 bị đời xáo nát bấy, đường xe lửa lật sang một bên. Thuấn nhặt từng viên đá
cuội ném hai bên vệ đường. “Thuở nhỏ tao hay đứng ở đường rầy xe lửa nhìn về
phương Nam và tưởng đi miết sẽ đến Sài Gòn". "Dạ". "Mày đi
xe lửa chưa?” “Dạ, chưa thấy xe lửa chạy, chỉ thấy nó ở nhà ga". "Vậy
thì làm sao mày biết cái thú vị của đi xe lửa được”. “Dạ…”
Thiên sát Thuấn mỗi bước nhỏ, dưới lằn đạn
trong mưa dày của xứ Huế, trong hơi nóng bốc lên hừng hực từ núi đá ở Pleiku.
Bao nhiêu năm như thế đã trôi qua, tối nay Thuấn thấy chiếc lưng của người lạ ở
ngoài mình, một người khác thật lạ, thật xa, một người không chút tương quan
tinh thần hay thể xác, người đó bao nhiêu năm gần gũi đến độ nhập vào cùng
Thuấn qua một thứ nghĩa vụ do nhà binh xác định… Không có nó chắc mình đói cả
trăm lần, nó mắc nợ gì với mình rồi, hình như nó chỉ xa mình một lần khi đọc
kinh vào buổi tối trong một ngày… Thuấn đưa tay lên xoa mặt, những sớ thịt rung
động trước luồng nước mắt xúc động vô hình như đang đầm đìa trên má. "Có
hộp quẹt không Thiên?"
"Dạ có, cái bật lửa bằng vàng, mình có
nên lấy cái ví của cha này không, Đại uý?”
"Mai mình chôn nó, đem cái ví vào đây xem
ở đâu báo cho nhà nó biết".
Bên bếp lửa đỏ, Thuấn ngồi lật từng tấm ảnh
trong ví của viên sĩ quan phi công, tấm ảnh lớn nhất chụp ở Nha Trang, gã sĩ
quan mang quần áo trắng của quân trường chụp chung với một cô gái mặc quần
jean, áo pull, gió biển thổi tóc cô gái bay bồng bềnh che nửa mặt. Thuấn
nghiêng bức ảnh vào lửa… À, ca sĩ Kiều Ly, cô ca sĩ nổi tiếng chịu chơi của hai
tỉnh Đà Lạt và Nha Trang. Một vài người trong khoá Thuấn cũng đã lăng nhăng với
cô này. "Chủ nhật vừa rồi con Kiều Ly đi chơi với tao suốt cả ngày, nó cho
de tụi dưới Nha Trang để lên đây với tao”. Gã tên Thông oang oang khoe với bọn
Thuấn trong phạn điếm, trong khi gã khoá đàn anh đang lườm lườm rình rập. "Nói
nhỏ mày, tụi niên trưởng phạt chết cha. C… ĐM… đếch ngán, tụi nó ghen với tao…”
Thông cười thật khoái trá. Thuấn đưa bức ảnh cho Thiên trong lúc gã lính mở nắp
xem nồi cơm đang chín tới.
"Mày thấy cô này đẹp không Thiên?"
"Không, lùn với chân to dị hợm".
Thiên phê bình sau khi chớp chớp đôi mắt để quan sát.
"Vậy chứ cô ta nổi tiếng lắm đấy. Ở Đà
Lạt thằng nào cũng giành nhau để làm quen cô ta, không phải sinh viên sĩ quan
mà mấy cha cấp lớn cũng vậy nữa".
"Đại uý có quen cô ta không?”
"Không, chỉ biết thôi, cô này bồ thằng
bạn tao… Ở Đà Lạt tao chỉ mê cỡi ngựa, cỡi ngựa khoái hơn cỡi đàn bà nhiều… cỡi
lâu hơn, oai hơn, cỡi đàn bà cao lắm nửa giờ là ngất ngư, mày biết thượng mã
phong không Thiên?"
"Dạ không". Thiên tắt bớt lửa, đứng
dậy sau tiếng cười hì hì, che giấu sự không biết của mình về điều Thuấn hỏi.
Thuấn nhìn lại vào tấm ảnh, cô gái choàng tay
qua lưng gã tuổi trẻ, dựa đầu vào ngực, nụ cười say đắm và sung sướng. Em cười
và chụp hình như thế này bao nhiêu lần rồi? Em nằm ngửa ngất ngư bao nhiêu đứa?
Từ tên sinh viên sĩ quan mới lớn đến gã Trung uý, Đại uý sành sỏi, sành sỏi ở
bộ râu mép lún phún, điếu thuốc cắn chặt giữa hai hàm răng, kể một lô vũ nữ
hạng sang với những chi tiết về mông, vú, thói quen khi làm tình, em cũng đã
nằm dưới bao anh Tá đầu hói, bụng bự, em chống hai chân, lắc lư chiếc mông,
mông em lớn, chân em lớn, tựa vào thật chắc chắn, xoay xở vững chãi dễ dàng… Em
bây giờ ở đâu? Sài Gòn, Đà Lạt hay Nha Trang? Em có nhớ đến gã phi công đã cùng
em chụp chung một tấm ảnh hạnh phúc, em có nhớ nụ cười mãn nguyện và vòng tay
âu yếm vòng quanh một thân thể chắc nịch mà giờ đây đang nám đen nằm ngửa trên
chiếc Jeep bốc khói. Em có nhớ khuôn mặt gã trẻ tuổi đã cùng em qua một đoạn
đời hoan lạc, khuôn mặt đó đã tím bầm, thủng lỗ, chảy máu tanh tao bốc mùi
trong cơn mưa buốt cóng của xứ Huế.
"Đại uý, ăn cơm, Đại uý?”
"Ừ". Thuấn ném tấm ảnh vào lửa.
"Mày có biết đường Âm Hồn không Thiên?"
"Dạ nó ở phía trên kia, gần hồ Tĩnh Tâm…
Đại uý có ai quen ở đó?”
"Không, tao quen làm gì!" Thuấn nghĩ
đến Quỳnh Như như một kỷ niệm đã khuất. Chỉ mới hai ngày hai đêm. Thuấn gõ gõ
chiếc đũa vào miệng chén… Hoả châu từ Mang Cá bắn lên váng đục trong sương mù.
"Khi chiều sao Đại uý đòi tấn công lên
cái thành làm gì?"
"Thấy thương Hồng và thằng Toàn của Trung
đội 1 chết tao nổi sùng, thêm Trung sĩ Thái ở đâu chạy lên lãnh một phát trúng
luôn".
"Tiểu đoàn không cho Đại đội mình
lên".
"Tao điên thôi chứ ông Tiểu đoàn trưởng
điên nữa sao? Lên lúc ấy giờ này đâu ngồi đây được, lên là kẹt luôn, về hết
nổi".
"May quá, Tiểu đoàn cho phép Đại uý thì
giờ này khổ rồi, lần sau đời đời đừng xin như vậy nữa”.
Lần sau, Thuấn mỉm cười, lần sau đâu có nữa.
Đúng như thế, Thuấn cũng lạ với thái độ của mình lúc ban chiều. Hai người chết
nằm cong queo, hàm râu đỏ úa bụi của Trung sĩ Thái, hai tay hai người chết,
bước chân xiêu vẹo trống trải, loạt đạn cày trên mặt nhựa, người hạ sĩ quan lảo
đảo. Tất cả sự kiện gợi nên cảm giác bị săn đuổi thua kém. Không phải vì hai
binh sĩ chết, Thuấn đã mất thật nhiều thuộc hạ, Thuấn mất những người rực rỡ, thân
ái hơn binh Toàn, binh Hồng như khi mất Thiếu uý Phương trên tay… Trái mìn nổ
Phương ngã vào Thuấn áo quần bị xé nát, máu chảy ra từ những lỗ thủng đẫm ướt
lồng ngực khoẻ mạnh phơn phớt lông tơ. Phương hai mươi tuổi vừa ra trường được
sáu tháng, Phương gọi Thuấn bằng anh thay vì cấp bậc, Phương để râu để trở nên
người lớn, Phương tập uống rượu đế ngâm nước đá… Phương sống hồn nhiên và chết
tức tưởi. Thuấn mang Phương trên tay chạy bay xuống đồi, cỏ gai cắt đứt mặt,
máu và nước mắt Thuấn đẫm ướt vành môi. "Anh Thuấn, Thuấn…" Phương
thều thào chỉ vào ngực nơi dòng máu đang chảy, mặt thất sắc, mắt đứng tròng và
Phương chết tội nghiệp. Nhưng lúc ấy chỉ có phẫn nộ bề mặt để hét lớn qua máy
thúc giục Đại đội tiến lên, tên Việt Cộng bị bắt trói giật hai khuỷu tay được
đẩy tới trước mặt chỉ gây cho Thuấn cảm giác chán ngán. Tên Việt Cộng khoảng 15
tuổi, xanh mét, run rẩy dưới cơn sợ không gợi cho Thuấn cảm giác về vóc dáng kẻ
thù đúng cỡ. Nhưng chiều hôm nay, khi nhìn hàm răng của trung sĩ Thái trong cơn
lao đao, bộ râu mệt mỏi ngang tàng của người hạ sĩ quan xoáy trước mặt Thuấn
như tấm bia trụt khỏi tầm đạn đạo… Thuấn nổi giận vì mất hai người lính, nổi
giận vì người hạ sĩ quan đã làm một hành động dũng cảm, nhưng tất cả thất bại
chỉ vì Thuấn, tình cảm hỗn độn này thúc giục Thuấn nôn nao… Mình vẫn còn háo
thắng. Thuấn có cảm giác như vừa trông thấy đàng sau lưng binh nhất Thiên, có
những lạ lùng bỗng từ đâu hiển hiện như ánh sáng đột chiếu trong bóng đêm.
"Bây giờ ông tính sao, mình kẹt ở đây đã
hai ngày".
"Đợi, kiếm dịp trốn vào Mang Cá".
"Dân chúng đi hết”.
"Họ đi ra ngã Thượng Tứ để qua phía bên
kia sông, mình qua bên ấy làm gì? Đây cách Mang Cá chỉ khoảng vài trăm thước,
mục tiêu của ông và tôi ở đó, mục tiêu độc nhất”. Minh đưa một ngón tay làm ra
vẻ quan trọng như đang thuyết trình hành quân.
"Đồng ý, tôi chỉ hỏi ông vậy thôi, ở đây
chỉ ngán nỗi đánh nhau lớn đến lúc xài bom thì tụi mình hết đất, ngoài ra tôi
cũng không có ý định gì khác, tôi còn ngại bà dì ông với cô con gái, vợ chồng
tôi, hai đứa con làm phiền họ, đàn bà khó xử thật".
"Ôi, loạn mà ông, ông với tôi tới đây coi
như giữ nhà cho bà ấy, phải cám ơn ông đàng khác".
"Nhưng tôi vẫn thấy không ổn tí
nào".
Minh và Lạc cùng im lặng khi Quỳnh Như đi đến.
Quỳnh Như không còn vẻ tươi mát của hai ngày trước. Quỳnh Như của cuộc tình mới
nở đầy ắp thiết tha, làn tóc nay phải cột chặt, quần đen, áo len ngắn, chiếc
manteau đỏm dáng thường ngày được nâng niu gìn giữ nay ố bẩn, Quỳnh Như khó
khăn và bực bội.
"Em định đi hở Minh?”
"Ừ, ở đây có ngày Việt Cộng nhào tới là
em mất chỗ đội nón, hơn nữa nhà cũng sắp hết gạo". Minh giận dữ gằn mạnh
từng chữ, sự ghét bỏ họ hàng bên ngoại, vẻ lúng túng tội nghiệp của Lạc làm
Minh nổi giận nhanh chóng. Lạc vội vã đứng dậy : “Chào cô Như".
"Dạ vâng, có gì mà Minh giận với tôi
thế?"
"Vâng…" Lạc chùi chùi hai tay vào
ống quần, gã Trung uý Nhảy dù của 18 năm chiến đấu dọc nước Việt Nam không tìm
được câu trả lời.
"Chẳng có gì hết, ông Lạc về đàng hầm chỗ
ông, để tôi nói chuyện với bà chị tôi".
Lạc thở phào dễ chịu bước đi. “Chào cô
Như". Minh nhớ lại cảnh Lạc giả vờ say rượu ở Darkto đòi hiếp mụ chủ quán…
Trung uý Lạc tay súng, tay cầm chai bia.
"Thế nào, em út đâu hết?”
"Dạ, dạ… Thưa ông Trung uý em nó chạy
hết".
"Không có em thì phải thế người
khác…" Lạc tu một hơi hết phần bia trong chai, choảng, vỏ bia được ném vào
một góc nhà. Lạc đút súng vào lưng quẩn cởi nút áo… "ĐM… để lính commando
biểu diễn xay cà phê cho anh em coi".
"Dạ… thế?"! Mụ chủ quán chắp hai tay
trước ngực.
"Bà…" Lạc tiến tới một bước.
Mụ chủ quán kiêm luôn nghề tú bà co rúm người
lại khi Lạc vừa chạm phải. Nét mặt trân tráo hỗn hào của mụ chứa biển hẳn,
người đàn bà lùi lại lùi lại, hai tay che ngực…" Ông Trung uý, ông Trung
uý, ở đây không được”.
"OK, hà hà không được thì vào trong
kia…" Lạc tiến tới, xoay thân hình ngắn ngủn phì nộn về lối hành lang giữa
hai dãy phòng kín cửa… Chen trong tiếng đều đặn của chiếc giường Minh nghe
tiếng xuýt xoa : “Trung uý, Trung uý…” Bây giờ gã Trung uý cựu cai commando lén
lút đi từng bước thật nhẹ ra khỏi căn phòng, sau khi lí nhí … "Chào cô
Như!!"
"Bây giờ em nói chị hay, em và vợ chồng
ông Lạc kẹt lắm mới vào đây, mai mốt hay chút nữa nếu thuận tiện thì tụi này
chạy về Mang Cá, thế thì có gì để chị và mợ phải phiền nhiễu cau có, thời loạn
giặc giã người ta chết mỗi giờ, mỗi phút, đây này chị nghe 105 nổ trên thượng
thành đó, bây giờ chỉ cần ở đài tác xạ ra lệnh bắn qua trái thêm vài trăm ly
giác thì cái nhà này sập, mợ và chị có cau có được nữa không?”
"Minh, chị van em, người ta là bạn em, ở
đây một vài bữa đến nỗi gì mà chị phải cau có, ngoài ra không có em và ông Lạc,
chị và mợ dâu dám ở đây… Em hiểu giùm chị, chị không có bần tiện đến như thế,
chị xin lỗi em, xin lỗi ông Lạc, chị không phải như em nghĩ”.
"Thế thì sao?" Minh hầm hầm đứng
dậy. “Mặc chị, em đi coi tình hình, có gì em về Mang Cá". Minh vụt nhanh
ra cửa, ngoài đường ở nơi xa có tiếng súng nổ chen nhau.
"Đừng Minh! Minh!” Quỳnh Như chạy theo ra
đến cửa ngõ. Một trái đạn rơi vào vườn bên cạnh, Quỳnh Như ngồi thụp xuống,
chạy lại vào nhà, ngã người xuống chiếc nệm đặt dưới đất khóc tức tưởi. Sợ, lần
đầu tiên nàng tiếp xúc với chiến tranh và tiếng nổ, một tiếp xúc gần và tàn
bạo. Chiến tranh bao nhiêu lâu chỉ thấy được qua báo chí, radio, ở trái sáng
lửng lơ thần bí đỏ màu máu hay vàng vọt trên nền đêm đen thẫm phía ngoại ô. Quả
sáng lửng lơ chao động không gây ý niệm kinh hoàng đầy đủ, không vẽ đủ không
khí tai ương khốn khó của bụi cây, rạch nước xôn xao bước chân người, không dọi
đủ nòng súng đen lạnh giá. Quỳnh Như chỉ thấy ở xa một vùng trời đêm rực màu đỏ…
Đẹp, có thể là như thế! Chiến tranh ở ngoại ô, ngoài thành phố, sau luỹ tre âm
u xa cách với trang sách kín chữ. Chiến tranh, Quỳnh Như chỉ thấy được gần nhất
ở chiếc quan tài phủ lá cờ vàng di chuyển trên lòng một chiếc GMC, chiếc xe vút
qua vội vã, quan tài hơi chuyển động, mùi ngai ngái được đọng lại chốc lát
trong không khí. Người chết được chuyển đi nhanh và lặng lẽ như một món hàng
khó chịu. Người chết không nói được, nắp quan tài đóng, lá cờ vàng mệt mỏi,
chút hơi thối phảng phất. Người sống nhìn chiến tranh qua một hình ảnh xám đặc
phiền muộn.
Nhưng bây giờ Quỳnh Như đã được thấy chiến
tranh thật sự. Chiến tranh ở trái đạn, không biết đạn gì, súng cối hay đại bác
nổ đốn sập một cây thông hai người ôm. Tiếng nổ không phải chỉ bùng tai, nhưng
vang dội trong ngực, luồn theo mạch máu chảy gây thành dãy nổ dây chuyền trong
thịt da. Tiếng nổ làm nẩy quả tim, làm ngu si hôn ám trí óc. Nổ ở chỗ này? Bên
kia? Bây giờ hay giờ tới. Quỳnh Như nhìn ở đâu cũng thấy tiếng nổ, nàng tưởng
toàn thể bầu trời đang nứt thành những mảnh nhức nhối đầy âm vang. Chiến tranh
đến gần giúp Quỳnh Như nhìn được thêm người chết. Không phải chết yên lành, đẹp
đẽ như ông ngoại, chết từ từ, chết đến từ tốn nhẹ nhàng từ chân, lên ngực, ông
được tắm bằng nước có mùi thơm, ông được mang áo mới, đội mũ vàng, tay chân bóp
rượu vuốt lại nghiêm chỉnh thẳng thắn. Ông chết trong sự lơ mơ thấy được một
Niết Bàn hạnh phúc, vây bọc như tiếng tụng kinh của khuôn hội Phật tử…
"Nam mô thiếp dẫn đạo sư… Nam mô thiếp dẫn đạo sư…” Ông chết từ từ, thiếp
vào nơi yên ổn. Người chết ở đây thì khác, người chết khi chạy, đang há mồm như
van xin, đang đưa tay lên trời tuyệt vọng. Như hai mẹ con người hàng xóm chiều
hôm qua đang đứng trên bờ rào để xin phép Quỳnh Như qua gánh nước. Ngày thường
người mẹ nổi tiếng là hung dữ hỗn hào, bao nhiêu lần Quỳnh Như nghe bà ta đay
nghiến người con gái về một lỗi không đâu. Giọng người Huế the thé rả rích nhức
nhối từng chữ. “Con ơi là con ơi, thằng cha mi lúc xưa đã làm tao khổ điêu khổ
đứng, chừ đến phiên mi, mi mới nứt con mắt mà đòi rượng đực… Mả cha tiên sư,
cái thứ máu lăng loàn của thằng cha mi đó…” Quỳnh Như đóng cửa sổ, máu lăng
loàn, hình như có chút ám chỉ nào đó. Quỳnh Như tưởng như mụ ta thấy được cảnh
nàng oằn người tha thiết dưới cơn chuyển động dục tình. Tiếng hét của người đàn
bà len lỏi qua hai khu vườn, qua lớp cửa sổ chọc vào tai Quỳnh Như buốt nhức
như khi siết lưỡi dao cạo trên mặt mụn bóng sáng. Nhưng chiều hôm qua người mẹ
xuất hiện dưới một vóc dáng khác.
"Thưa cô, cô cho mạ con tui qua xin mấy
đôi nước, nước ngoài phông tên không còn nữa… Dạ, dạ cám ơn cô…" Bà tay
xoay qua cô con gái. "Con vô lấy đôi thùng cho mạ đi gánh”.
"Để con gánh, mạ gánh làm chi".
"Con đang có… Nghỉ đi…” Bà mẹ xây qua
phía Quỳnh Như. "Hắn đang có mà đòi đi gánh, hắn làm như tui già lắm đó
cô… Hắn sợ tui cực đó mà".
Và bà mẹ cười, nụ cười ngây ngô sung sướng
đang được thương yêu. Ầm! Quả đạn nổ bên bờ dậu, hai mẹ con được nâng lên một
khoảng xong ngã ra hai phía. Quỳnh Như chạy vào bếp chui xuống hầm. Cửa nhà bếp
bỏ trống, nàng nhìn được phía bên kia vườn. Bà mẹ bò bằng hai tay và đầu gối,
đầu tóc đen rũ xuống kín mặt. Bà ta bò đến nơi người con, cúi xuống như chó mẹ
hít hơi chó con. Bà mẹ ngồi dậy, cởi chiếc áo đắp lên mặt cô con gái, xong run
rẩy nằm xuống trên thân hình người con… Một thứ ánh sáng vàng vọt giá rét chiếu
lên tấm lưng trần nhăn nhúm bất động. Quỳnh Như mở to mắt, nàng nghe được tiếng
khóc im lặng của người mẹ trong hơi gió xào xạc thổi lớp lá chuối đưa đẩy phiền
muộn. Cái chết bắt đầu và chấm dứt dưới mắt Quỳnh Như thản nhiên như chiếc lá
vừa rơi.
Hai ngày sống với chờ đợi trái nổ, Quỳnh Như
thấy trong lòng những biến đổi lạ lùng. Trong bóng tối của căn hầm dưới bộ ván
gõ, như một người ngồi trầm tư với chiếc bóng mình trên vách, nàng thấy rõ được
hết quá khứ mộng ảo phù du. Tình yêu cay đắng, xót xa, lần khám phá ra mình qua
mối tình say đắm nổ bùng như dòng điện luồn theo mạch máu, Quỳnh Như cảm được
sự hững hờ khi nghĩ đến nỗi ham mê nồng nhiệt cuống quít cách đây hai ngày.
Trong bước chân vội vã chạy vào hầm, Quỳnh Như chỉ thấy cơn thúc giục nồng
nhiệt để tồn tại, bản thân thực sự thân yêu của mười ngón tay luôn được tỉa gọt
cẩn thận. Bây giờ Quỳnh Như chợt nhớ, tại sao có giọt nước mắt thật chân thật
khi nhìn đống tóc rụng trong buổi sáng ngã bệnh, khi móng tay dài trắng hồng bị
gãy, Quỳnh Như đã khóc say sưa đau đớn trong những trường hợp như thế! Tiếng nổ
làm Quỳnh Như chạy thật nhanh để không nghĩ đến được Bằng với căn phòng đầy
bóng tối, mái tóc đau đớn dằn vặt và phút giây ngã xuống hầm hập mê mải. Quỳnh
Như cũng hết sức để nghĩ được đến Thuấn, tình yêu vội vàng mà của ba ngày trước
đã đốt cháy hết sinh lực của mỗi tế bào da thịt, trí não. Quỳnh Như tưởng mình có
thể chết đi để mối tình tồn tại. Nhưng đến bây giờ, sau bốn mươi chín giờ gần
gũi với cái chết trong căn hầm tối Quỳnh Như chỉ nhớ được có một người – Người
thân yêu gần gũi độc nhất, xác thân có góc cạnh và hình khối – Chính nàng.
Minh nép người vào hàng rào chè xanh lần lên
đến ngã tư. Hướng về Mang Cá đường vắng, nhà kín cửa, vài con chó cụp đuôi chạy
len lén qua mặt đường trống trải. Lũ thú vật chống chỏi tai ương bằng chiếc
đuôi quặp vào che bộ phận quý giá, bí mật. Minh cho tay vào bụng sờ báng súng,
cây súng quá nhỏ so với nguy biến đang bao quanh. Lạnh. Minh rùng mình. Nỗi sợ
bốc hơi tăng thêm cường độ rét buốt của thời tiết. Có xác chết nằm cạnh một gốc
cây, xác chết mặc veston mà xám, phần ở bụng căng cứng, tay người chết mở ra.
Minh đứng nép vào gốc cây, liếc nhìn xuống cổ tay người chết, kim đồng hồ chỉ
10 giờ. Chắc giờ thằng cha này chết. Ít nhất nó cũng được mặc áo mới khi chết.
Đột nhiên Minh cảm thấy vui trong lòng với ý nghĩ vừa đến. Nỗi vui vẻ bình yên
thấy mình được bình an, lạc thú hơn kẻ khác. À ra mình chưa chết, chết nằm lăn
như thằng cha này quả thật không sung sướng chút nào. Mặt trời hơi le lói, nắng
ấm dọi xuống từng đường vàng sẫm trong sương mờ. Minh cảm thấy hăng hái và tự
tin. Ít nhất mình cũng chưa chết, gắng qua thêm một ngã tư nữa, đến gần hồ Tịnh
Tâm thì cách Mang Cá không bao xa, xong kiếm lại Đại đội kéo lên chỗ nhà bà mẹ,
đem Lạc và gia đình về. Đại đội mấy hôm nay ai chỉ huy, lính có bao nhiêu người
chết hay bị thương? Trong yên ổn bất chợt Minh nghĩ đến đơn vị, công việc như
đang ở trong hoàn cảnh thông thường. Có gì đâu tai ương của hai ngày qua, súng
bắn trước mặt hướng vào chính bản thân chưa sợ, huống gì thứ tai hoạ tổng quát
này… Thật ra chỉ vì vụ nổ trong khách sạn làm mình hoảng hồn, bây giờ thoát xa
nó rồi, có gì đâu phải xao động. Đây rồi, gắng đến cuối bờ thành kia sẽ thấy hồ
Tĩnh Tâm; hồ Tĩnh Tâm – Mang Cá chỉ vài trăm thước, mình có Đại đội trong tay,
chuyến này phải mang một cây M16, súng colt không đủ gì cả… Minh cúi người thấp
ẩn dưới hàng rào chè tàu chạy như bay. Minh ngửi thấy trong không khí mùi trà
ẩm và hương sen tàn bốc lên trên mặt hồ yên lặng.
"Đứng lại! Đưa tay lên!" Một tiếng
hét từ bụi rậm vang ra làm Minh hốt hoảng, bước chân bị giật ngược. Minh lăn
xuống chiếc rãnh lớn bên vệ đường.
"Đi lên! Làm gì chạy ghê vậy!" Một
gã lính Bắc Việt mặt non choẹt đứng trên vệ đường hươi mũi súng ra dấu bảo Minh
đứng dậy. Minh chống tay rướn người lên, bùn non ngập đến cổ tay, bùn dơ dáy và
tanh mùi cống rãnh. Minh ngước mắt, tên lính chợt phì cười: "Sợ hả, lính nguỵ
hay chi mà sợ? Lên đưa giấy coi”. Minh ấn chiếc gối xuống mặt bùn nặng nề đứng
dậy, lấy sống cánh tay áo lau ngang mặt, mắt vẫn không rời khuôn mặt nhởn nhơ
đùa cợt, cong người bò lên bờ rãnh, tay lần mò tìm đám cỏ gà trên mặt đường.
Bực! Luống cỏ bị bật gốc, không đề phòng, Minh ngã lộn người xuống lại. Gã lính
Bắc Việt vùng cười khan, người đã gập đôi, khuôn mặt tái xanh căng ra vì nụ
cười quá khổ… "Ha! Ha! Răng mà yếu quá rứa, bị bệnh phải không, còn đi học
hay làm việc cho nguỵ… Ha! Ha!" Giọng Quảng Bình nheo nhéo trêu chọc, lủng
củng ngắt đoạn giữa tiếng cười khoái trá.
"Nè, nắm chân tôi đây để leo lên, rồi cho
coi giấy tờ". Gã lính đứng sát vào vệ đường, chân phải đặt ngang bờ kênh,
chắc nịch.
"Nắm vào đây, leo lên!"
Minh nằm dưới lòng cống nhìn lên. Đôi mắt vàng
bệch lấp lánh ánh sáng rõ ràng dưới vành mũ quê mùa làm Minh muốn nghẹt thở.
Bùn như nồng nặc và đặc cứng lại. Minh thấy mình lún xuống, chìm dần dưới những
tảng bùn đen tối nhơ bẩn. “Leo lên, đợi chi nữa, nắm vào chân đây này". Gã
lính choàng súng ra trước ngực cúi thấp người trên mặt đường thòng chân xuống
lòng rãnh. Trời tối sẫm, mưa nặng hạt, bùn sệt đặc, mùi tanh tưởi, giọng cười
chế nhạo, đôi mắt khinh thường và nỗi bình yên tự tin của năm phút trước tan
biến như tia chớp đắm chìm vào trong bầu trời ủ giông đen. Lòng tự tin biến đi
nhường lại cho cảm giác sợ hãi đến tê liệt, sự sợ hãi có hình khối như bùn hôi
đang đeo cứng và tiếng cười, đôi mắt của kẻ thắng thế ở mặt đường. Minh rút hai
chân khỏi bùn tựa vào sườn đất cứng trên mặt rãnh, hai tay nắm cổ chân của gã
lính, cổ chân gầy guộc khẽ rung rinh… "Leo lên đi!” Giọng nói trên mặt
đường đầy uy quyền thúc giục Minh như bị đốt cháy bởi ngàn bó đuốc lớn, nỗi sợ
hãi bất chợt bị khám phá cùng với toàn thể hèn mọn của thân thể chìm đắm dưới
lớp bùn hôi. Minh giật mạnh! "A!" Người gã lính trụt xuống độ dốc.
Minh bước lên một bước, xong quay mặt xuống, ngửa người trên sườn dốc, cong
chân phải đạp mạnh vào vai gã lính Bắc Việt. Thân hình nhỏ thó lăn nhanh xuống
lòng rãnh, chiếc mũ có ngôi sao vàng lăn qua một bên. Minh nhảy xuống. Đánh!
Minh đánh bằng hai bàn tay dùng hết lực, Minh móc khẩu súng colt ở bụng ra,
báng súng giáng xuống mặt gã lính chính xác tàn bạo… Gã lính quơ tay chống đỡ
tuyệt vọng. Minh đè xuống bằng hai đầu gối, tay trái khép lấy chiếc cổ gầy gò,
ngón cái lọt vào lỗ hổng dưới yết hầu như muốn đâm thủng lớp da nhăn nheo. Máu
trong mắt gã lính chảy đầm đìa ngấm xuống bùn thành từng vũng nhỏ nâu sậm. Minh
trút xuống gương mặt xấu xí nhăn nhó và thất thần hết cả nỗi lo sợ khiếp đảm
cùng cảm giác tủi hổ khi từ dưới lòng cống nhìn lên đôi mắt khinh khi. Minh
tháo khẩu AK ra khỏi người gã lính, kéo cơ bẩm nhìn vào buồng súng. Có đạn lên
nòng rồi, tốt. Minh nhắm nòng súng vào mặt gã lính. Bóp cò. Cò cứng ngắc, không
chuyển động. Minh quên mở an toàn. Minh đưa ngón trỏ lên đụng chốt an toàn,
lòng không thoáng chút xao động… Xác tên lính nẩy lên trên mặt bùn nghe bành
bạch như con lươn trăn trở. Cuối cùng, nhát dao đâm xuống… Minh chạy trở lại
hướng nhà Quỳnh Như, nét mặt lạnh tanh dưới vẻ khôn ngoan cay độc.
Bằng nói với Đại đức Trí Không:
"Bây giờ thầy vào trong thành nội với
tôi, sau khi mình họp với Uỷ ban Khu trong đó, tôi sẽ ghé thăm nhà Quỳnh Như,
thầy biết Quỳnh Như?"
Đại đức gật đầu không nói, đi lần đến chiếc xe
gắn máy của Bằng đứng đợi, không chút phản kháng trong cử động. Người đi tu
giấu hết phong ba của bốn ngày qua dưới nét mặt trầm lặng u buồn. Bốn ngày xảy
ra như giấc mộng, giấc mộng dài đầy sự chết, máu và lửa đỏ. Địa ngục không phải
là ý niệm siêu hình. Địa ngục cũng không phải là hình ảnh tưởng tượng có tác
dụng luân lý để khơi động ý hướng tốt trong lòng người. Nhưng bốn ngày qua, sự
kiện xảy đến chung quanh đã tạo dựng nên một địa ngục cụ thể âm vang tiếng khóc
và sũng ướt bi ai. Đại đức được Uỷ ban Lâm thời của chính quyền cách mạng uỷ
nhiệm vụ điều hành đoàn sinh viên học sinh Phật tử. Nhưng đoàn thể này đã vượt
hẳn ra khỏi sự kiểm soát của người tu hành, những đoàn viên và huynh trưởng mới
xuất hiện. Họ được phát súng AK và đeo băng đỏ. Ngôn ngữ hung bạo hiếu sát. Họ
lý luận chặt chẽ và kết luận nhanh chóng, kết luận nhanh chóng trong công việc
chấm dứt đời sống người khác. Biến cố mới xếp hạng và quyết định mạng người
trong khoảng thời gian tối thiểu. Mỗi người biến thành kẻ thù của người khác
mau chóng không ngờ tới.
"Ông có thằng con đi lính Biệt động quân
trong Đà Nẵng".
"Con tôi đi chứ đâu phải tôi”.
"Ông phải chịu trách nhiệm việc làm của
con ông".
"Nhưng con tôi đến tuổi phải vào Thủ
Đức”.
"Tại sao không trốn lính, tại sao không
đi lính văn phòng lại đi Biệt động?”
"Cái đó tôi không biết. Nhưng trốn lính
thì ở đâu? Làm gì để ăn?”
"Con ông ra trường chưa đầy ba năm đã lên
Trung uý. Hắn đã giết người để lên lon. Hắn phụng sự bọn Mỹ xâm lược để lấy
tiền”.
"Giết người để lấy tiền Mỹ. Không phải
vậy, tháng Tết ni tôi còn cho hắn thêm ba ngàn. Hắn không có đủ tiền
tiêu…"
"Nguỵ biện. Ông còn yểm trợ kinh tế cho
bọn ác ôn côn đồ…”
Người đàn ông bị trói tay sau lưng. Chiếc khăn
đóng rơi xuống, những sợi tóc muối tiêu phủ tung trên trán. Dòng nước mắt chảy
xuống gò má nhăn nheo, qua dòngg nước mắt người đàn ông hướng về phía Đại đức
Trí Không…
"Thầy nói giúp, thầy nói giúp giùm… Tôi
không có tội gì hết. Tôi lên chùa của ôn luôn, thầy không nhớ tôi sao? Tôi là
Khuôn trưởng ở đường Gia Hội đây. Tôi ăn chay mười mấy năm rồi, tôi có tội chi?
Tôi có tội chi? Thầy nói giúp, tôi sống được, tôi cạo đầu lên chùa ở với ôn với
thầy luôn…"
Người đàn ông muốn đưa tay về trước, nhưng
cánh tay đã bị trôi ngược, chỉ có đôi mắt sũng ướt, đỏ rực như đẫm máu hướng về
phía người đi tu. Đại đức Trí Không niệm nhỏ câu kinh trong lòng, giọt nước mắt
bi phẫn được nhét xuống cuối đáy linh hồn phong ba đang cuồn cuộn.
Khi Bằng rồ máy, Đại đức khẽ giật mình như vừa
tỉnh cơn mê. Yên lặng, người đi tu chậm rãi leo lên đằng sau.
"Những hôm này thầy không được vui”.
"Người tu hành như tôi không thích hợp
với biến động”.
"Nhưng cách mạng lại đòi hỏi những thay
đổi căn bản trong giờ phút chuyển tiếp”.
"Cách mạng phải dựa trên con người. Huỷ
con người thì cách mạng làm gì và để cho ai”. Trong bình thản của giọng nói,
nỗi bi phẫn cố giấu vẫn không tròn.
"Phải huỷ diệt một số nhỏ phản động,
thoái hoá và nguy hiểm cho cách mạng".
"Thiểu số vẫn là con người. Người tội
nghiệp và đáng quý của một nhân phẩm. Và tiêu chuẩn nào kết án để không nhầm
lẫn”. Đại đức đã đến cuối chịu đựng, nói không dè dặt.
"Nếu cần thấy nên phát biểu ý kiến trước
Uỷ ban". Giọng Bằng thoáng chút đe doạ…”
"Tôi không từ chối nếu có người chấp nhận
phần đúng của tôi. Uỷ ban là ai? Tôi chỉ thấy một khối cá nhân quá khích, ngay
cả anh, người bạn của tôi, anh có chấp nhận lời tôi không?"
"Hiểu ý của thầy là một chuyện, nhưng
biến đổi thành hành động thì quá khó. Ít ra cũng không thể chấp nhận trong hoàn
cảnh này".
"Bây giờ chúng ta đi ngả nào", Đại
đức lái câu chuyện qua hướng khác.
"Mình qua ngã cầu Đông Ba, quân giải
phóng giữ an toàn lộ trình này".
Bằng chợt thấy lạ ở ngôn ngữ. Chỉ mới mấy
ngày, toàn thể con người, ý nghĩ và ngôn ngữ của Bằng biến đổi hẳn. Bằng như
mũi tên trên đường bay, khác hẳn với giờ khắc trước chỉ là thớ gỗ nằm yên trong
túi lên ám khói. Con người mới hay con người thật, không có biên giới rõ rệt
cho sự phân định. Bằng chỉ biết mình đang trong cơn ngây ngất như kẻ chán đời
lần đầu tiên khám phá ra nỗi quên lãng hân hoan của men rượu.
Bằng không thể ngờ được khuôn mặt sau cánh cửa
là Quỳnh Như. Vẻ tươi trẻ của người thiếu nữ bốn ngày trước đã biến mất. Quỳnh
Như tóc rối, da xanh xám, đôi môi khô se và hai trũng mắt sâu xuống mệt mỏi.
Đôi mắt cố nhướng lên nhìn Bằng, tia nhìn không xúc động.
"Em không mừng được thấy anh?”
Quỳnh Như không nói, hơi hé cửa cho Bằng bước
vào, Đại đức Trí Không bước theo sau thoáng tần ngần. Căn nhà đen ẩm và lạnh
buốt. Quỳnh Như khêu to ngọn đèn dầu dẫn Bằng và nhà sư đi xuống nhà ngang,
đứng lại cạnh chiếc hầm.
"Đứng ở đây lỡ có pháo kích chạy vào
kịp".
"Ai bắn?" Bằng hỏi dồn…
"Không biết, hai bên bắn lẫn nhau".
Quỳnh Như nhìn nhà sư gật đầu chào. "Có nghe anh Bằng nói chuyện thầy
hoài… Lần đầu tiên con biết thầy", Quỳnh Như ngại ngùng rõ rệt trước chữ
con…"
"Đây là thầy Trí Không. Bây giờ là Uỷ
viên của…"
"Không, tôi không làm gì hết. Ở đây anh
khỏi ép tôi mang những chức vụ mà quả tình tôi không muốn. Xin phép cho tôi ra
nhà sau, hình như nhà sau có người".
"Dạ, có vợ chồng người bạn cậu em và mẹ
tôi sau đó…”
"Ai vậy?" Bằng hỏi dồn…
"Minh và gia đình người bạn của nó…"
"Sao Minh lại ở đây?”
"Em không biết".
"Sao em lại không biết?"
"Anh muốn em biết gì bây giờ?"
"Em có vẻ giận anh?"
"Không, chẳng có gì… em mệt". Quỳnh
Như dựa người vào cột nhà, mắt nhắm lại… "Mệt, đu ngôi sao vậy, em mệt
thật sự”.
"Thấy anh, em không mừng?"
Quỳnh Như không trả lời, nàng hé mắt nhìn
Bằng, xong khép mi lại.
"Em có vẻ biến đổi…”
Quỳnh Như gật đầu. “Em biến đổi, biến đổi
hết”.
"Em biến đổi vì anh, vì câu chuyện hôm 29
Tết?" Bằng nói qua hai hàm răng rít chặt, sự phẫn nộ cố gắng kìm lại…
"Không". Quỳnh Như ngồi xuống nóc
hầm lưng dựa vào chiếc cột.
"Em có can đảm không?” Bằng trở lại giọng
bình tĩnh sau một hơi thở dài.
"Có, em đủ can đảm để sống bình thản ít
nhất cho đến ngày hôm nay…"
"Tốt, vậy thì em nói thật với anh, em
biến đổi vì người bạn của Minh?"
Quỳnh Như khẽ cười và lắc đầu. Mi nàng mở ra,
ánh mắt vụt sáng tinh quái.
"Anh nghĩ sai, không phải vậy…"
Bằng chồm người tới trước, giảm bớt chiều cao,
dán sát mặt vào Quỳnh Như, tiếng nói đứt khúc tắc nghẹn của cơn giận bị ép
xuống.
"Anh không nghĩ lầm, chỉ có em gian dối
và hèn nhát…"
"Không phải, em chắc chắn như thế, trước
thì em cũng không nghĩ thế nhưng bây giờ em rõ em hơn ai hết".
"Anh rõ em hơn cả, anh đã gần em từ tinh
thần đến vật chất, tất cả biến động nào trong em dù mới phát hiện nên phản ứng
mù mờ anh cũng đã nhận thấy. Hơn nữa đứa con trong em là của anh…"
Quỳnh Như cười thành tiếng. Âm thanh rạn nứt
như khối đá tan vỡ dưới vòi nước ấm.
"Anh hiểu được em, nhưng chỉ được một
phần, phần phía ngoài, và phần khác nơi sâu xa nhất chính em em cũng không
hiểu… Em mang đời sống của anh trong người, nhưng tất cả đã tan vỡ…"
"Em muốn nói gì?"
"Không còn gì hết, hết thông cảm, hết
thương yêu, hết anh, hết em, đứa con, bào thai, tất cả vỡ tan và trôi đi hết.
Em có kinh nguyệt lại”.
"Bao giờ và tại sao?"
"Em không nói gì khác, vì mọi chuyện đã
xong, em vẫn là vợ anh, vợ chính thức, vợ có đám hỏi, đám cưới. Em không chống
đối gì điều này. Nhưng em bây giờ khác hẳn em trước Tết, em không còn của anh,
của em nữa, em lạ với mình rồi… Mệt, em mệt".
Bằng ôm lấy người Quỳnh Như. Thân thể người
con gái bạc nhược lạnh lẽo. Bằng không nghe được tiếng tim đập rộn rã của tình
yêu. Tình yêu đã chết. Bằng muốn bóp nát Quỳnh Như trong vòng tay tuyệt vọng.
Bằng và Đại đức Trí Không qua cầu lúc trời nhá
nhem tối, trời lạnh, sương dày kín, nhịp cầu màu đen đậm nét trong sương mù. Xe
lên dốc không nổi, Bằng phải bước xuống đẩy, Đại đức lầm lũi đi theo yên lặng,
như màu nâu trầm tĩnh đậm nét nhạt nhoà trong bóng tối ẩm ướt.
"Mấy năm trước những đêm mưa tôi thường
hay đến đây, đứng trên cầu nhìn xuống dòng sông, mưa bay chập chờn trôi dạt
theo cơn gió, ánh đèn từ chân cầu dội từng vòng ánh sáng xuống mặt nước xôn xao
sóng nhỏ…"
"Chắc thú vị lắm. Ở trên chùa khi trời
mưa tôi đứng trên đồi cao nhìn về thành phố, chỉ thấy từng khối nâu đỏ trong
màn mưa… Tôi cũng thích nhìn mưa bay, mưa ở núi ủ dột héo hắt…"
"Nhìn hoài cây cầu trong màn mưa, dần dần
tôi xem nơi này như chốn quen thuộc, đêm mưa gió thế nào tôi cũng đến đây.
Khuya khoảng một, hai giờ sáng, thành phố yên lặng, chỉ còn mỗi hành động thê
lương là tiếng mưa và màn mưa chuyển động trên ngọn sóng. Trong bóng đèn vàng,
tôi thấy như vũ trụ vô tri có linh hồn đang đau đớn dằn vặt. Và tôi cứ đắm chìm
hoài trong nỗi dằn vặt vô duyên cớ đó. Và sau một thời gian nỗi dằn vặt vô hình
biến thành khổ đau nặng nề cụ thể đè mãi xuống. Tôi cứ có cảm giác bị bóp cổ,
bị kìm kẹp, đè nén, nói không được, đi không được… Bao nhiêu ý chí phấn đấu tan
rữa dần. Có những đêm mưa tôi đứng ở thành cầu nhìn xuống khoảng sông xao động
tưởng như bị cuốn hút lập lòe, có lời mời mọc im lặng êm dịu mê đắm nào dưới
lớp nước trôi nỗi vàng đục đó… Trời sáng, mưa hết hạt, ánh đèn nặng nề u ám
hơn, trời trong vắt thênh thang, mưa bay đi, tôi tỉnh dần dần trong không khí
mới mẻ của ngày vừa bắt đầu. Bao nhiêu lâu như thế tôi cứ tự hỏi mình có phải
nghiêng quá độ về sự chết? Nhưng thật ra không phải thế, tôi yêu đời sống, yêu
quá nữa là khác, nhưng đêm mưa và mặt nước sông sao cứ quyến rũ tôi tan biến
vào đấy…”
"Bây giờ chuyện ấy vẫn còn".
"Hết, hết từ hồi tôi bắt đầu đi dạy”.
"Có tiền coi như một thành công".
Đại đức cười nhỏ sau câu nói.
"Không phải vậy, đi dạy có tiền, có thêm
những nhu cầu mới, mỗi ngày các nhu cầu vật chất càng chất đầy hơn, siết mạnh
vào. Thế là hết băn khoăn vô duyên cớ, hết đau đớn siêu hình, chỉ còn lại những
tính toán bẩn chật, ước muốn nhỏ nhặt… Tôi như cây bị khô lá dần dần, lá khô từ
ngọn lần xuống gốc, khô khan gãy vụn từng phiến mỏng… Và thế là hết tiệt mưa
gió, bão tố, mặt nước sông, sương mù, ánh đèn chao động, tất cả trôi dạt vào
cuối ký ức. Mỗi khi qua cầu, tôi hững hờ xa lạ như qua nhà lạ, qua nơi không quen.
Xúc động ba năm trước như một tình cảm giả hình".
"Như vậy là tốt. Thực tế làm chân thật
với lòng hơn".
"Một thứ chân thật khốn nạn, chân thật
hèn hạ hết thời".
"Tôi không nghĩ như thế, sự thật đâu phải
tầm thường, sống trong đời thì phải chịu đựng nỗi tầm thường đó. Giữ tâm mình
vững và trầm tĩnh không để bị lôi kéo ràng buộc quá nhiều…"
"Tại vì thầy đi tu. Tôi thì khác, có
những khó khăn người đi tu không có như người thường, hoặc nếu có thì cách giải
quyết cũng khác… Như tình yêu chẳng hạn".
"Tình yêu?"
"Tình yêu trai gái, giữa đàn ông và đàn
bà, giống đực và giống cái… Các thầy đâu phải chịu hệ luỵ bởi vấn đề này…"
"Tôi nghĩ đó đâu phải là khó khăn, đau
đớn cho anh, nhất là anh toại nguyện với tình yêu, nghe nói anh đã có làm lễ
hỏi với cô Như".
"Vâng". Bằng lặng lẽ tiếp tục đẩy
chiếc xe. Thành phố Huế chìm hẳn vào bóng tối. Đạn bay vạch từng đường đỏ dài
trong nền trời.
"Có điều gì làm anh không vừa ý?"
"Thầy có gặp sau nhà Quỳnh Như mấy người
lính Nhảy dù?"
"Có anh Minh em cô Như và vợ chồng người
sĩ quan bạn anh Minh. Anh có quen với Minh?"
"Như vậy là hai người, họ mặc đồ lính?”
"Không, áo quần dân sự, nhưng anh để ý
làm gì?"
"Tôi không thích lính".
Đại đức Trí Không dừng lại nhìn Bằng. Giọng
nói lạnh lẽo khô cứng, rờn rợn như lưỡi dao chậm rãi xiết trên đá nhám.
"Anh có ý định gì với những người lính
đó? Những người lính không súng. Anh thấy người bạn của anh Minh gần bốn mươi
tuổi, hai đứa con và người vợ vây chặt. Tôi gặp ông này vài lần ở trên chùa, đó
là người đàn ông bị lôi kéo bởi cảnh sống, tôi chẳng thấy tàn bạo, thù hằn ở
nơi người đàn ông cằn cỗi đó. Họ chỉ được gọi là lính qua bộ áo quần và khẩu
súng, người của Mặt trận, người của Uỷ ban gọi họ là kẻ thù khi họ có những vật
dụng kia trên người. Riêng anh và tôi lấy tiêu chuẩn gì để xem họ là kẻ thù …
Tôi là người đi tu, bị kẹt vào hoạt động này trong khoảng thời gian trầm luân
giới hạn. Tôi không có kẻ thù, tôi nhìn người đúng vị trí và giá trị của mỗi cá
nhân, anh cũng thế… Anh chẳng có kẻ thù nào hết ngoài con người ngang ngược
biến đổi trong anh…”
"Thầy có lý của thầy. Riêng tôi nếu có
làm một điều gì khác với tâm tính mình thì đó chỉ là thái độ bồi đắp cho tập
thể đã nuôi dưỡng mình. Tôi được sung sướng và yên ổn trong đoàn thể, cái lý
của tôi do đoàn thể tạo thành".
"Thế anh định làm gì? Anh đi tố cáo cho
tiểu ban thanh trừng và hành động? Cái hố đằng sau trường học đã đầy rồi, người
chết quá đủ, toàn người Huế, người của xóm anh ở… Có điều gì biến đổi anh thành
tàn bạo?"
Bằng im lặng đạp nổ máy. “Thôi thầy leo lên
ngồi, thầy cẩn thận nghe tiếng départ của súng đại bác thì nhảy xuống hố. Uỷ
ban Lâm thời tối nay họp lúc 8 giờ tại chùa D. Có thể có những quyết định liên
quan đến tình hình quân sự, mặt trận ở khu hữu ngạn có vẻ bất lợi cho phe
ta".
Phe ta. Đại đức Trí Không mỉm cười. Trên tấm
áo nâu này, Đại đức đã mang thêm một nhãn hiệu. Xe chạy, gió lạnh nhưng tai
Bằng nóng đỏ. Lý của đoàn thể, Bằng có thấy có điều gì bất toàn không thật
trong luận lý vừa nói. Thân thể lạnh giá và tia nhìn trống rỗng của Quỳnh Như
như luồng gió sắc buốt xuyên qua da thịt. Nỗi hờn giận mất máu ngùn ngụt cháy
lên làm hoa mắt. Bằng phóng xe chạy như điên trong bóng tối, con đường nhỏ gập
ghềnh. “Thầy giữ hộ tôi cây súng, xe chạy nhanh nó rơi mất”. Đại đức Trí Không
vòng tay rút khẩu súng ở bụng Bằng.
"Anh Bằng cho tôi xuống đây”.
Xe chạy chậm. Bằng hỏi dứt tiếng. "Thầy
xuống đây làm gì, mình về chùa gặp anh em, đúc kết ý kiến trước khi vào hội để
khỏi có trở ngại…”
"Anh cứ để tôi xuống, tôi có việc nói
ngay bây giờ”.
Xe ngừng, Bằng chống chân xuống đất. “Thầy
muốn nói điều gì?"
"Anh có ý định tố cáo anh Minh và vợ
chồng người bạn với Tiểu ban Thanh trừng?"
"Thầy có quyết định gì?"
"Tôi không có quyết định gì hết, tất cả
chỉ do anh".
"Nếu tôi tố cáo".
"Tôi… bắn anh".
Bằng cố nhìn đôi mắt của Đại đức, nhưng chỉ có
đêm đen và mưa phùn trước mặt. Trong bóng đen mờ mịt nổi lên một bóng dáng đậm
đà.
Bằng chống càng xe:
"Thầy không nói điều gì quá lòng
thầy?"
"Tôi đang tự hỏi. Tôi có can đảm bóp cò
súng không?"
"Thầy đã quyết định?”
"Những người lính đó với anh không thù
oán, anh nên trở lại với bản tính của tháng năm trước, có điều gì làm anh hung
bạo?"
"Có điều gì biến đổi tôi thành hung
bạo?". Đêm chung quanh như thắp sáng bởi ngàn cây đuốc, có tiếng reo hò
chế nhạo, giọng cười ùn ùn như bão lớn, ba mươi năm sống, bao nhiêu ăn học, mối
tình tuyệt vời cay đắng, tình yêu tinh thể quý giá của linh hồn… Còn gì nữa sau
khi cơn bão đã thổi qua, cơn bão mặn đắng nước mắt và tanh nồng tủi hổ. Có gì
lạ nữa trong Bằng ba mươi tuổi ngày ngày với viên phấn đứng trước mấy mươi tia
nhìn soi mói và Quỳnh Như đôi mắt trống rỗng, xa vắng… "Đúng là hết".
Bằng cười nhỏ. Tiếng cười lớn dần, lớn dần.
"Này thầy, thầy có đủ bình tĩnh để bắn
tôi không?”
"Anh nên giữ bình tĩnh để đừng phạm vào
tội ác vô lý. Không có quyền lực nào bắt mình phải từ bỏ tâm linh sáng suốt của
mình".
"Đúng, thầy nói đúng, chẳng có quyền lực
nào hết, chỉ có tâm tư bềnh bồng, chỉ có tim ta lao đao biến đổi. Nhưng thầy là
người đi tu, thầy đâu biết được những ô trọc phiền hà của đời sống, cây đời
thầy vững vàng tươi tốt, còn cành lá tôi mục nát khô héo, không ai đốn tôi ngã,
ruột tôi nung nóng, vỏ tôi khô và chết lần. Chính tôi làm tôi chết, không phải,
phải nói tôi chết dần từ phần bên trong chết ra, chết chắc chắn, chết đến như
cổ bị nghẹt từ từ. Chết vì mang con trùng độc trong người, con trùng đời sống.
Thầy đi tu, con trùng của thầy được ăn chay, nghe kinh kệ chuông mõ nên nó sống
tịch mịch, đứng ngồi êm ả, riêng con trùng của tôi cựa quậy, trăn trở, cào cấu
cắn xé không ngừng. Con trùng thầy hiền lành, dễ bảo, sống không đòi hỏi, không
nhu cầu. Trái lại con trùng của tôi có nhiều dục vọng, nó được dạy dỗ nuôi nấng
bởi thói xấu, những thói xấu đẹp đẽ thiết tha, nó ăn thức ăn khát vọng và uống
rượu tình yêu, thứ rượu mạnh hừng hực, nhưng men rượu cũng có khi tàn, khi tỉnh
cơn thì buồn lắm thầy biết không … Khi tỉnh rượu lúc tàn canh… Cụ Nguyễn Du
tuyệt tác thật, cả hệ thống buồn chán đầy cứng cụ chỉ viết lại vừa hai câu thơ
đúng mười bốn chữ, mười bốn chữ giản dị lăn lóc đây đó được cụ ghép lại thành
một trường sầu hận… Nhưng tôi giải thích với thầy làm gì? Tôi mệt. Em… mệt.
Quỳnh Như dùng chữ thật hay, đúng ra có sống qua giây phút đó mới biết cách
diễn tả sâu sắc cô đọng như thế. Đúng, tôi mệt lắm, tôi không có lý luận quanh co
nữa. Tôi sống giản dị như mọi người. Tôi ghen ghét, ước mơ, mê đắm một cách tủn
mủn nhỏ nhặt. Tôi như vậy đó, thầy muốn gì ở tôi. Tôi đi tố cáo. Tôi ghét lính.
Lính làm tôi xấu hổ. Tôi đứng trong lớp học làm điệu làm bộ, giả vờ nghiêm
trang, đóng kịch trí thức phản chiến, ghét bạo động, thấy sáng tỏ được nỗi phi
lý của đời sống nhưng tựu trung tôi là thằng trốn lính, tôi sợ đi Thủ Đức. Khổ
lắm, thầy đâu biết thế nào là lối sống của lính. Thầy ở góc núi, ăn cơm nhạt,
nhưng như thế đâu đã khổ, thầy có an vui tự tại, thầy có tự do, thầy được sung
sướng … Đi lính, mang cây súng, đội nón sắt, đi hoài, cả đời sống được đặt trên
đôi chân, đôi chân được một lớp da giày che phủ, xong cứ bước bừa tới trước.
Chân mang thân, thân sụp xuống dưới gánh nặng của súng đạn ba lô và thế là đi…
đi hoài, vì "đi lính” mà thầy … Trong nguyên nghĩa đã có động từ đi, thầy
thấy không? Đi lính, thế là đo cho hết chiều dài, chiều rộng của quê hương, đo
cho hết nỗi điêu linh, đo cho cùng thống khổ… Tôi không có ước vọng cao đẹp
khốn nạn đó, tôi sợ nó. Tôi kinh khiếp đến nổi da gà, đến lạnh sống lưng, tôi
không chịu nổi cảnh khổ thê lương của người lính, tôi sợ nên tôi trốn, sợ nên
tôi ghét, sợ nên tôi nói láo. Với chính tôi, tôi biện luận bào chữa để được yên
ổn. Nhưng khi nhìn thấy một người lính tác chiến trong bộ áo quần nhàu nát tạt
qua thành phố, đám tang quạnh quẽ với quan tài phủ quốc kỳ run rẩy trên sàn xe
GMC, người thương binh vừa ở bệnh viện ra, da trắng xanh vì mất máu, máu khô
của hôm bị thương còn đọng ở chân tóc, ở vành móng tay … Họ đã mê thiếp kiệt
lực trong cô quạnh tủi cực từ lúc ngã xuống ở chiến trường cho đến ngày xuất
viện. Chắc chắn không có sự săn sóc nào nên trong vành đôi mắt còn lớp bùn khô
của cuộc hành quân lần cuối. Thầy thấy người lính cụt chân chống nạng đứng chờ
xe lam chưa. Đó, tôi hổ thẹn và sợ hãi với hình ảnh đó, tôi từ chối cái vinh
quang nhức buốt thê thảm được làm lính… Và như thế, tôi dối được tôi thật lâu,
nhưng bây giờ thì hết. Tôi căm thù sợ hãi người lính một cách công khai. Họ làm
tôi tủi nhục và sợ hãi. Họ làm tôi tủi nhục và đau đớn, họ làm tôi hết dối trá
với tôi được. Tôi ghen ghét, rủa nát và kinh sợ những người lính… nên, tôi nói
là tôi làm, tôi đi tố cáo. Họ không cho tôi yên ổn nên tôi báo thù. Thầy nghe
rõ chưa, tôi đi báo thù, thầy nghe chưa, tôi đi tố cáo… hai thằng lính Nhảy dù
đó…”
°
Tháng Tư, năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám,
hai tháng sau biến cố Mậu Thân tại Sài Gòn trong một căn phòng hai giường của
bệnh viện, Thuấn ngồi vắt vẻo trên giường dưới chân Minh nhìn qua giường Lạc,
vài người sĩ quan khác ngồi đứng đối diện với hai người bệnh.
"Em trai xui rồi, tụi tao đánh như điên
lòng vòng hết cả thành phố Huế không sao, đến lúc mày với ông Lạc tìm về được
Tiểu đoàn thì ăn ngay một trái B.40, chắc phải xin thuyên chuyển mày về với
Việt Cộng". Thuấn nhìn nhìn chiếc giường khi nói, đầu gật gù.
"Ấy ông nhún thế mảnh B.40 trong người nó
chạm vào nhau nghe lạo xạo kinh quá". Lạc đứng lên chêm thêm câu pha trò,
cả bọn khúc khích cười. Minh cố gắng nhếch mép để nói nhưng không nổi…
"Đau quá, đừng chọc tôi nữa, cười không
được, cười đau bụng, bụng mới mổ lắc lư quá chịu không nổi”.
"Tụi tôi cũng muốn đến thăm hai Trung uý
…” Một anh Thiếu uý nhỏ nhẹ nói… “Ấy mà hình như Trung uý có giấy lên Đại uý
rồi”.
"Khi nào có thì gọi, gọi trước chỉ lúc
vừa chết mới đúng, đằng này nó chưa chết được thì gấp gì". Thuấn cắt ngang
câu nói của viên sĩ quan.
"Dạ vâng, nhưng vì vừa về đến Sài Gòn
Tiểu đoàn mình phải đi ngay về Hốc Môn, đến bữa nay chúng tôi mới rảnh nên đi
theo Đại uý Thuấn và đến đây thăm hai Trung uý”.
"Xong rồi, nói vậy là đủ, bây giờ đến
phiên tôi hỏi các ông mấy chuyện, vì lúc các ông về lại Tiểu đoàn thì tôi đang
kẹt ở trong sân bay thành nội Huế, không gặp ông với ông Lạc được, tiếp theo là
ông bị thương, ông Lạc ngã bệnh, đau gan đau phổi gì đó nó hành… Tiên sư lính
Nhảy dù Tây để lại, vì sợ quá mà gan ruột teo vào nên phát ốm…"
"Ấy không phải, lúc ấy hoạ may có chó mới
đi khai bệnh, tôi đâu có hèn như thế, nhưng quả tình tôi không kiểm soát nổi.
Mười mấy năm lính tôi đâu có ngán thứ gì, cú rút lui khỏi Cao Bằng vừa đánh vừa
chạy suốt mấy trăm cây số tôi còn chịu nỗi, rồi ở Điện Biên Phủ nội cái cứ điểm
Béatrice mà phải đánh lui đánh tới mấy lần, tôi thuộc về 6 ème BPC, Tiểu đoàn
trừ bị, sau khi cha Tiểu đoàn trưởng năn nỉ bộ chỉ huy mới cho lệnh đánh
Béatrice. Chính Đại đội tôi là nỗ lực chính, tôi là Thượng sĩ làm Trung đội
trưởng đi đầu. Tiên sư tôi đá đít Tây chạy có cờ… Nhưng cú ở Huế, kẹt có vợ con
bên cạnh tôi lúng túng như bị cột hết tay chân và cứ có cảm giác đạn lúc nào
cũng bay về phía mình, 105 của mình bắn cách chỗ trốn cả trăm thước mà tôi cứ
nghĩ nó nổ bên cạnh… Suốt từ khi trốn ra khỏi khách sạn, ông Minh bảo gì tôi
làm theo đó, tôi không tự chủ, quyết định một việc gì, khi về đến Tiểu đoàn là
tôi sụm luôn, chẳng biết trong người có cái gì, nhưng tôi đứng không được, thở
không nổi… Hình như sau những ngày quá căng thẳng, thần kinh tôi không co lại
được về vị trí cũ, vì trước đó cứ nhắm mắt là tôi tưởng đến cảnh hai ông con bị
đạn banh ngực chết, liên tiếp một tuần tôi không ngủ, người khô khan như nướng
chín… Về đến Tiểu đoàn tôi ngã xuống không gượng nổi".
"Được rồi, như vậy chuyện ông đã xong,
còn ông Minh…"
"Tôi có gì?"
"Cây súng?"
"Cây súng nào?"
"Khẩu colt Trung Cộng. Ông bị thương thì
ngất ngư liền, thằng lạc đà của ông nó đem qua gởi tôi, ông lấy được bao giờ?
Vì tôi nhớ khi ông về đến Tiểu đoàn là 4 giờ chiều, 5 giờ ông bị thương ngay,
gần hồ… hồ Tĩnh Tâm. Tĩnh Tâm là gì mà nổ như sấm… "Tĩnh Tâm, mặt hồ yên
lặng, bùn non và hương sen, nụ hôn người con gái Huế. Thuấn chợt chùng lòng,
tưởng như đang nhớ lại một quãng đời đã xa khuất từ lâu. "Tôi nhớ rồi, hồ
Tĩnh Tâm, ông bị thương lúc ấy thì cây súng ở đâu ra?”
"Của ông thầy chùa!"
"Ông thầy nào?"
"Các ông nhớ cái chùa sau núi Ngự Bình
dưới lăng ông Ngô Đình Cẩn?"
Những tiếng lao xao: "Nhớ… Nhớ…"
"Ông thầy chùa cho tôi".
"Cho ông từ lúc Tiểu đoàn mình đóng ở đấy
hả?”
Thuấn chăm chú hỏi.
"Không, sau này, lúc tôi và ông Lạc trốn
ở nhà bà chị tôi. Ông ta đến một lần với cha anh rể, có nói chuyện với tôi và
ông Lạc một chút, rất vui vẻ và dễ chịu, mặc dù trong đạn lửa chết chóc ông vẫn
bình thản hoà nhã, khuyến khích tôi với ông Lạc sớm về đến Tiểu đoàn. Nhớ đến
chuyện ngày đó tôi cứ ngượng đến chóng mặt, ai đời mình là lính lại được một
ông thầy chùa khuyên bảo giữ bình tĩnh khi nghe 105 nổ. Phần ông Lạc thì hiểu
được, vì chuyện vợ con nên ông ta tê liệt phản ứng, riêng tôi chẳng bị ràng
buộc vào chuyện gì mà cũng cứng ngắc người vì lo sợ, hèn thật…"
"Rồi ông ta cho ông khẩu súng trong buổi
nói chuyện đó?”
"Không, lúc ấy là buổi chiều, đến tối ông
ta trở lại”.
"Sao lại buổi tối?"
"Tôi không rõ, chỉ biết khi ông ta và anh
chàng lấy chị Như ra khỏi nhà lúc 5 giờ chiều, khoảng 8 giờ tối chúng tôi nghe
tiếng gõ cửa. Cả nhà lạnh cứng vì sợ, ai cũng tưởng Việt Cộng đến bắt chúng
tôi. Ông Lạc chạy quanh hai con như gà mắc đẻ, tôi lên đạn khẩu AK”.
"Khẩu AK nào nữa?"
"Chuyện ấy để sau kể, sau cùng là chị tôi
đánh bạo ra mở, vì tiếng gõ cửa không hấp tấp đe doạ…”
"Rồi ông ấy nói với ông những gì?"
"Không, ông chỉ nói mấy câu nhỏ: Tôi đưa
anh và vợ chồng anh Lạc qua khỏi hàng rào bố quân của lính bên kia, và ông đưa
tôi cây súng để làm kỷ vật".
"Ông không hỏi xuất xứ của cây
súng?"
"Lúc đó nửa mừng nửa lo, tôi không để ý,
ông ta đưa thì nhận. Bây giờ tôi cũng không rõ tại sao ông ta làm vậy, và cây
súng ở đâu ra? Cây súng có gì lạ không?"
"Không, như những cây súng khác, nhưng
hình như vừa bị bắn xong, kẹp đạn bị mất đi 3 viên, ông có bắn viên nào
không?"
"Làm gì có thời giờ, tối đó trốn theo ông
thầy, cả ngày sau ngồi đợi Tiểu đoàn, sáu giờ chiều bị thương, tôi chưa nhìn kỹ
nó một lần".
"Ông thấy ông thầy chùa có gì lạ
không?"
"Làm sao thấy được gì, lo sống không nổi
làm gì để ý đến người khác, nhưng tôi nhớ một điều: tối hôm đó ông ta có vẻ
buồn nản dằn vặt kinh khiếp lắm, khác vẻ bình lặng trầm mặc của ngày
thường…"
Khi bước xuống cầu thang bệnh viện, Thuấn nhớ
hình ảnh người tu hành ngồi yên lặng nhìn khói thuốc bay lãng đãng trong nắng
chiều vàng đục của một ngày cuối năm. Hình ảnh lặng lẽ bình yên này phút chốc
như cơn giông lớn bùng lên ngùn ngụt che khuất một thoáng nhớ nhung mơ hồ về
người con gái đã yêu Thuấn trong một chớp ngắn ngủi giữa nỗi triền miên dằng
dặc của cuộc đời. Hình ảnh lặng lẽ bão bùng phảng phất nỗi đau đớn không nói
được cùng người.
LỜI BẠT
Chỉ là câu chuyện giản dị của những người lính
trong một thời gian dồn dập… Chuyện bình thường, phẳng phiu, không là bản anh
hùng ca rực rỡ uy dũng, cũng không đậm nét bi thương làm đọng cứng linh hồn –
Chỉ là phản ứng cấp thời của người lính cố tìm lối sống trong cái chết trùng
điệp… Phản ứng cấp thời nên ngắn hạn và chóng vánh nhưng mang nỗi thụ động tội
nghiệp, đến đỗi ngậm ngùi…
Mỗi chiến tranh khai sinh ra một lớp anh hùng,
mỗi thời đại, biến cố cần thiết một loại người tổng hợp… Chiến tranh Việt Nam kéo
quá dài, dài hơn biến cố khởi đầu, dài hơn ước tính chiến lược của những kẻ chủ
tâm khởi xướng, chiến tranh Việt Nam dài bất tận, dài miên man được chuyển đi
miệt mài trên lưng của hàng triệu con người, những người kinh sợ chiến tranh
hơn bất cứ chủng tộc nào của nhân loại… Thế nên chiến tranh Việt Nam, cuộc
chiến không có anh hùng.
Cuộc chiến chúng ta không có những André, anh
hùng trí thức của Chiến tranh và hoà bình, không có Robert Jordan,
người chiến sĩ tự nguyện tìm chân lý đời sống qua nỗi chết của Hemingway, chúng
ta cũng không có những người thấm mệt của Irwin Shaw… Đây là chiến tranh của
người bình thường, người vì đã sống nên phải chiến đấu, người biết yêu đời, yêu
người, người thương thân và tự nhiên phải dự phần vào chốn đao binh với linh hồn
không chút bạo ngược. Nhưng những người lính đó đã chiến đấu đúng cỡ. Chiến đấu
đúng “tiêu chuẩn" chiến trường. Hai mươi năm dài hay hơn nữa, người Việt
Nam vẫn đứng vững được trước mọi sức tấn công vì cuộc sống đã đồng nghĩa cùng
đời chiến đấu. Lẽ tất nhiên người lính đối phương, phía Cộng sản, lại là một
chuyện khác.
Tuy tràn ngập với đời sống, thế nhưng người
lính Việt Nam vẫn là hình ảnh lạ lùng với người… với chính bản thân. Yếu tính
lính, tuy chỉ là yếu tố ngoại nhập nhưng không thể cưỡng chế, không ngăn chận
nổi. Qua tấm áo, người lính là một sinh vật dị kỳ. Thế giới riêng rẽ dần được
tạo dựng. Sinh vật lính tội nghiệp quay cuồng lổng chổng hỗn loạn vào cùng nhau
trong khói súng, máu và sự chết… Bản chất con người muôn thuở vẫn còn đấy nhưng
qua tháng năm dài tanh mùi máu, qua phút giây đằng đẵng dằng dặc khói bom,
người lính biến dạng thành người lạ, biến dạng thành thiên thần, lắc mình thoát
nên quỹ dữ… Bản năng được khai phá tận cùng, tội lỗi bốc đầy phủ phê.
Lính-sống-cùng-đời-lính không kẽ hở, không phân ly… Yếu tính tạm thời trở thành
căn bản, tưởng như gió thoảng ngoài xa nào ngờ bão tố dậy sấm trong lòng. Sinh
vật lính vùng vẫy tung hoành trong lòng thế giới ầm vang cô quạnh riêng tư.
Đang sống trong đời không ai có thể biết hết
cuộc đời. Chưa chết không thể hiểu về cái chết. Nhưng có những cuộc sống dựa
vào nỗi chết, đặt căn bản trên nỗi chết. Chết không phải là biến dạng, nối tiếp
cuộc sống… Nhưng chết ở bên cạnh, ở sau lưng, trước mặt, trùng trùng kín mít
giăng giăng bao lấy sự sống… Sống và chết là trạng thái hỗn hợp không kẽ hở.
Chết là một cách thế thường trực của sống. Trong "cuộc sống" quái dị
kinh hoàng bình thường lặng lẽ đó, người lính Việt Nam đã sống như thế nào?…
Quá nhiều dòng chữ đã nói về lối sống nọ. Nhưng chỉ nói được lúc người-lính-sống.
Qua khỏi biên giới không xác định giữa khi quả đại bác ra khỏi nòng và tiếng
nổ, qua khỏi lúc quả mìn nổ ở khinh binh đi đầu, khói bụi tung cao, âm thanh
còn lồng lộn trong óc, mắt rực một màu đỏ mịt mù… Trí não giãn ra chớp nhoáng,
lại vẫn còn nghe tiếng "tách" khô ngắn của kim hoả đập vào khối nổ…
Trong toàn thể âm – dương, tiếng động mịt mùng và im lặng lạnh lẽo. Người lính
"nghe" được cùng một lúc: mình bị mìn… mình còn sống. Phút giây rùng
rợn bi thảm độc địa đó là cuộc sống thường hằng của riêng mỗi người lính –
Không ai có thể viết ra thành lời được. Không thể một ai viết được vì không ai
có thể sống cùng.
Là một người lính nên có được hoàn cảnh qua
chặng đường độc địa ghê gớm trên, cầm bút cố gắng biểu hiện qua dòng chữ nguồn
gốc lối sống gây quá nhiều ngộ nhận. Và cũng là để biện hộ giải thích cho chính
bản thân. Nơi địa chấn từ lâu đang âm ỉ…
Vấn đề vừa được đặt ra vấp ngay hố lớn ngỡ
ngàng. Khi cầm bút chỉ còn là người viết-văn-bình-yên ghi lại biến cố mà dù hắn
ta có dự phần trong giờ phút này cũng đã xa lìa mất hút. Viết có nghĩa không
phải là viết riêng cho một cõi-trong-ta, viết ở tinh tuý là nói-cùng-người về
ta hay một người nào khác, một đời nào khác… Nhưng viết gì trong chiến tranh?
Lại thêm điều khó nói. Nếu bảo rằng chỉ cần kể đến cảnh đời gian khổ và hành
động can trường của đời lính thì quá giản lược. Gian khổ quả là một tính chất,
nhưng không là tính chất độc nhất, chính yếu, càng không là không khí tổng quát
của chiến tranh… Đói, khát, đau đớn, sợ hãi, gian nguy là những góc cạnh đa
diện của đời binh lửa, người lính đắm chìm và miệt mài trong đó. Họ hãnh diện
với cơ khổ tân toan của mỗi ngày chiến trận, dạ dày quen một ngày một bữa ăn –
Gian khổ, trong khía cạnh tích cực là phẩm chất đẹp riêng tư của đời lính chiến
– Không phải là yếu tố gây nên tan vỡ, tuyệt vọng. Vậy yếu tính cuộc chiến ở
đâu? Lại phải tập trung, gạn lọc, định lượng dần với một nỗ lực lớn để khám phá
ra những động tác, lời nói rất thường bề ngoài, bao phủ thêm bởi hệ thống sự
kiện rất sôi nổi, bắt mắt, lôi cuốn… Đời sống vốn đã phức tạp và đa diện, đời
binh đao lại thêm phần sôi nổi, đa đoan. Viết với sự ôm đồm quá mức, bản văn
lần trở thành tập tài liệu ghi đủ các sự kiện, sự cảm xúc vắng bóng không tránh
khỏi… Viết ôm đồm quá nhiều, đời lính quá vô cùng mang thêm vẻ ồn ào kệch cỡm
đầy âm động bề mặt rất bình dân hạ dần xuống bọt bèo rẻ rúng…
Viết về cuộc chiến, ắt phải đề cập đến nhân
vật chính – Người lính. Nói rõ thêm tính chất của nhân vật chính đó. Thời đại
chinh chiến này chỉ có người lính, kẻ mang nghiệp nhà binh, vắng bóng toàn thể
anh hùng, vắng và mất hẳn. Anh hùng chỉ là một phản ứng cấp thời – Phút giây
ngắn mà kẻ "hào kiệt" bộc phát đó không bao giờ nghĩ đến và suy diễn
thành hệ thống luận lý. Chiến tranh này là chiến tranh khoảng cách, khoảng cách
từ hai khinh binh mỗi bên, khoảng cách từ nòng đại bác đến mục tiêu, khoảng
cách từ phi cơ xuống đất… Khoảng cách đó co giãn tuỳ theo khả năng viễn xạ của
vũ khí người lính sử dụng. Anh hùng không còn giữa khoảng trống thật rỗng này.
Người lính sống, chết và làm anh hùng do một tình cờ không kiểm soát.
Viên đạn đi đến, xoáy một lỗ hổng đỏ tươi trên
da thịt, người lính đứng tròng, da xanh xám, cúi xuống nhìn máu từ thân thể
chảy ra từng dòng ngấm xuống đất, đọng thành vết nâu sẫm trên nên cát xám…
Chết! Chữ khô nhỏ vang động trong một khoảng giây rất ngắn. Người lính “cảm”
thấy nhanh như tia chớp toàn thể cuộc đời – Đau thương, hoan lạc, khốn khổ, u
uất chen lẫn xô bồ hiển hiện trong một chớp mắt – Viết được hết cái “chớp mắt”
này không? Chắc là không, không thể được, vì chỉ có người lính đó mới cảm nhận
được một lần - Lần độc nhất - Giây phút thiên thu bí nhiệm bão bùng đó. Chỉ có
mỗi anh ta qua lằn ranh của sống chết, anh ta đi một mình. Thế nên, viết được
gì? Viết làm sao được “sát na” đau đớn linh diệu ấy… Và viết cho ai? Làm gì?
Người lính đã chết…
Thấy hết vẻ tang thương vô ích của hàng chữ
viết, nhưng trên tờ giấy ngòi bút vẫn chạy đều… Trong tuyệt vọng im lặng người
viết vẫn muốn khai triển, muốn “nói” một điều gì canh cánh – Sự diễn tiến thành
hình của đoàn thể hắn tích cực tham dự. Ngày 13.4.1949, lực lượng quân sự Quốc
gia đầu tiên được thành hình – Vệ binh Quốc gia – Tập họp của Bảo chính Đoàn,
Vệ binh Nam Việt, Vệ binh sơn cước… Những người lính bị cưỡng ép nằm ở trong
tay một khẩu Mat 36 hoặc Mousqueton bắn từng viên một, nòng súng không đường
khương tuyến và "Quốc gia", danh hiệu mù mờ với ông vua được gọi là
Quốc Trưởng nằm ngoài hệ thống thể chế lập pháp của toàn thế giới.
Năm 1951, lực lượng vệ binh dần được chính quy
hoá không phải do nhu cầu căn bản của Quốc gia nhưng để làm mạnh lập luận
"chống Cộng" của ông Tây De Lattre muốn nguỵ trang bàn tay thực dân
bởi máu đỏ của đám Phụ lực quân được đóng khung trong những “ổ” bê-tông bao bọc
châu thổ sông Hồng… Xong rồi, tôi đã thuyết phục được anh vua ù lì để hắn ta
chấp thuận “chính quy hoá” quân đội Annamite!! (Trích Lucien Bordart). Quân đội
Quốc gia đã được đẻ non sau một cơn hiếp dâm tàn bạo, đẹp mặt hơn, nó lại được
chỉ huy bởi một vị Tổng tham mưu trưởng lừng danh – Thiếu tướng Hinh. Gã Tây con
local mang thực dân tính nhiều hơn bất cứ một anh Tây chính gốc, gã tay chơi
lái tàu bay Spitfire, Junker, ý niệm quốc phòng không thoát khỏi buồng lái
chiếc bà già Morane Saulnier và thành công cụ thể của võ nghiệp sau thời gian
dài phục vụ cho nước mẹ – Một chị đầm bán cà phê ở Bắc Phi được mang về Việt
Nam, chị đầm có bộ ngực lớn nhất Đông Dương!!
Được khai sinh trong hoàn cảnh ngất ngư, được
nuôi dưỡng bởi bàn tay ghê tởm của những người chỉ huy mà ý niệm Quốc gia chỉ
là tiếng nói phảng phất mơ hồ được đọc lên một cách kỳ lạ sau những cơn thử lửa
với cường độ tiêu huỷ hàng ngàn sức mạnh to lớn hơn… Năm 1954, chiến tranh tạm
ngừng để nhận thấy rằng, bất kỳ dưới danh nghĩa nào, tổng số người chết mang
chủng tộc Việt Nam của Quân đoàn Viễn chinh… Chiến dịch Castor hay trận Điện
Biên Phủ hạ màn với 13.050 chết và bị thương có một phần ba quân nhân Việt Nam
(theo B. Fall). Bắt buộc người ta phải chấp nhận sự có mặt của người lính Việt
Nam – Những người lính chết trước khi được xác nhận vì Tổ quốc!! Và người lính
"siêu vô danh" đó đã được tôi luyện đẽo gọt trong một thứ lửa ma quái
dần dần biến thể không ý thức, không chỉ đạo, thành người lính Quân lực Việt
Nam Cộng hoà… Quân lực đối đầu với cộng sản, đạo quân Thập tự không Thiên Chúa
– Sự kiện đã xảy ra như một mầu nhiệm không giải thích được.
Thời gian từ năm 1955 đến 1960 chỉ vừa đủ để
tập cho những cá nhân rời rạc, chiến đấu trong lòng đơn vị mới, chưa đủ lượng
thời gian để tạo truyền thống, thói quen cho mỗi đơn vị. Chiến tranh lại trở
nên tàn khốc và những đơn vị tân lập, những Tiểu đoàn Bộ binh, Biệt động quân
chưa kịp sốt vỡ da, chưa đủ lượng huấn luyện, vội vã rời hậu cứ chìm dần trong
cuộc chiến quái đản lạ lùng, tàn khốc, chiến tranh số một của chiến sử nhân
loại. Thêm một lần nữa người lính Việt Nam chứng tỏ sức đề kháng ngấm ngầm
tuyệt diệu.
Đại chiến mùa hè 72, nối tiếp cao điểm Mậu
Thân dựng nên thành tích mới – Ba mặt trận chính, Quảng Trị, Kontum và An Lộc
đều bị rơi vào bất ngờ chiến thuật và lúng túng chiến lược… Cộng sản đã chuẩn
bị chiến trường quá độ tinh vi, chiếc xe tăng lãnh năm 1966, thực tập nổ máy,
tập chạy, tập điều động, tu bổ từng đinh ốc, từng giọt nhớt… Một năm có bao
nhiêu giờ nổ máy tại chỗ, bao nhiêu giờ di chuyển trên đường bằng phẳng, bao
lâu trên đường núi, suốt sáu năm trời “tổ xe tăng” không chểnh mảng, không
ngừng nghỉ ôn luyện, thực tập để tháng 2.1972 có mặt tại Đông Bắc An Lộc, nòng
súng ở cao độ nhất định … Giờ G của chiếc xe tăng đã được sửa soạn từ sáu năm
về trước. Ở Quảng Trị, Kontum, các yếu tố tác xạ của giàn 130 đã được tính sẵn,
con đường chuyển quân bằng molotova đã dọn dẹp quang đãng… Giờ G của chiến
trường mùa hè 72 là giọt nước cuối đầy chiếc ly chuẩn bị. Hội nghị Ba lê cũng
đi đến bước chót, bản hiệp định ngưng bắn quái đản hàm hồ đã được tu chỉnh từng
chữ một trong căn phòng mật đàm giữa Kissinger và Thọ… Không một chữ nhắc đến
Quân đội Nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà!! Sự chuẩn bị tinh vi đến
độ độc địa chấm dứt – Trận chiến bắt đầu … Lại thêm một lần nữa như mùa xuân
xưa, Tân Cảnh, Lộc Ninh, Đông Hà lần lượt bị giặc xâm chiếm, dãy cao độ phía
Tây đường 14 do Nhảy dù chiếm lĩnh bị cả một Sư đoàn Cộng sản luận chiến dồn
dập tấn công không ngắt quãng… Charlie, Delta những đỉnh núi chỉ do một trăm
tay súng chiếm giữ, dần dần bị bóc hẳn dưới những đợt tấn công cấp Trung đoàn
với pháo yểm vượt khỏi sức ước tính của những đầu óc nhiều tiên liệu. Và cao
điểm cuối cùng ở miền cực Bắc quê hương, Đông Hà, Quảng Trị, hai thị trấn bốc
lửa ngọn, tung lớp khói dày che khuất mặt trời hạ chí… Năm trăm chiếc tăng được
pháo binh yểm trợ tiếp cận đồng theo hướng Bắc Nam ùa xuống như cơn nước lũ…
Và cũng như Mậu Thân, dựa lưng vào nỗi chết,
người lính Việt Nam đã chiến đấu trong một trạng huống không ngờ – Chiến đấu
đồng nghĩa như đang sống. Thiếu hẳn ưu thế kỹ thuật chiến trường, lòng trống
vắng tinh thần của hệ thống chủ nghĩa, chỉ với quả tim người và lòng ham sống,
tình cảm không được suy nghiệm, luận lý, giải thích một lần trong đời, người
lính Việt Nam đã chiến đấu để bảo vệ con người và đời sống – Hành vi cao cả
bình thường chưa bao giờ được ý niệm như là bổn phận!!
Tập thể xao xác của hai mươi năm trước nay như
viên ngọc trong suốt đã chứng nghiệm giá trị qua trùng điệp bão lửa. Hai mươi
năm, chặng đường dài cơ cực ngút ngàn, núi cao khổ đau chất ngất, thế nhưng
sinh vật lính lặng lẽ đó dù chưa ý thức được phẩm chất cao quý của mình, dù bị
bủa vây bởi muôn ngàn miệt thị và ngộ nhận – Không phải vì bát cơm, cũng không
phải vì lá cờ – Đã chiến đấu và tồn tại như một thực thể tràn đầy bi tráng.
Tĩnh từ này vẫn chưa đủ, phải gợi đến hình ảnh một thứ Thánh chịu nạn, gánh cơn
đau yếu Tổ quốc để bước lên con đường gai lửa – Hình ảnh "thánh nhân"
bình lặng này quá gần gũi với phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng – Hiệp sĩ
mới của thời đại tan vỡ đang trên đường xây dựng lại con người…
1969–1973
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét