Phan Nhật Nam - Tháng Mười, tháng của chuyển động hoài hoài
giữa hai điểm ngất ngây đớn đau và hạnh phúc. Tháng của những lạnh tanh bất
chợt cứng ngắc và nồng nhiệt tràn đầy thác đổ. Tháng của đỉnh cao và vực sâu.
Tháng tiếng động núi lở và im lặng đáy biển. Năm tháng căng thẳng giữa hai điểm
không cùng.
Làm sao để sống? Giữa những buồn phiền tanh
tưởi độc địa, người muốn tan đi theo cơn gió rã rời, trôi vào lượn sóng nhạt
thếch vô tri… Bỗng nhiên xôn xao những ý tình rực rỡ, bỗng choáng váng giữa
niềm tin chói sáng, như mặt trời khởi đầu những ngày hè ở cực Bắc… Sống thật
khó. Khó những ngày lặng lẽ rơi xuống, sáng trưa chiều trôi đi như lá khô, lặng
lẽ đốt thêm điếu thuốc, xòe bàn tay, tay nhiều chỉ, tay nát bấy. Chiến tranh
sắp chấm dứt và bàn tay chiến đấu cũng đã mỏi mệt. Xếp hai bàn tay, mở hai
ngón, kẹp lấy điếu thuốc, thở ra lớp khói tàn tạ. Nhưng tháng Mười không hoàn
toàn như thế. Tháng Mười, đêm thức giấc mở đôi mắt chợt xoay người để thấy một
tình yêu thần bí hiện rõ từng đường nét khối lượng. Một tình yêu có thật cho
người. Nhưng tháng Mười trong lòng hạnh phúc vẫn có những đớn đau câm lặng
không ngừng nghỉ – phút rình rập của định mệnh độc ác…
Gần cái chết và hạnh phúc, thấy rõ thêm niềm
phấn đấu để sống.
CHƯƠNG 1
Thuấn lái xe dọc theo con phố. Chiều thứ Bảy,
người đông kín. Chiều thứ Bảy, thật lâu Thuấn không biết đến loại thời gian
này. Thứ Bảy, Chủ nhật, thứ Hai, những ngày tháng phân biệt đó trôi đi không
gợi lên sự chú ý. Sự nghỉ ngơi chỉ có được lúc đêm khuya, khi đại đội đã trả
súng vào kho, lính đi ra cổng doanh trại để nghỉ phép sau cuộc hành quân… Nghỉ
ngơi – Thuấn thật sự không có. Chỉ có những giờ ngồi trước ly rượu bên con
sông, nhìn xuống khoảng sông đào chen chúc thuyền đậu. Những con đò xứ Huế,
nặng nề, bề thế, chắc chắn cùng thú vui đẫm ướt dục tình được mở ra thoả thuê
trong đêm. Thuấn, người lạ ở xa đến, người Bắc, quê hương xa khuất ở cuối trí
nhớ, quê hương trên bát bún thang, chiếc ảnh hồ Hoàn Kiếm, cây cầu gỗ chênh
vênh trên mặt nước lung linh vòng cây phượng. Quê hương được nhớ lại ở trang
sách bất chợt trong đó nhắc đến dáng dấp của lão Tàu bán lạc rang, mụ Béo bán
bánh tôm ở bờ hồ… Những hình ảnh thoáng qua như ngọn lửa đầu que diêm yếu ớt.
Thuấn không nhớ nổi. Quê hương, một chốn không còn. Thuấn từ Sài Gòn đến đây
theo chiến dịch, nửa đất nước đi qua, đi và đến từ hai tỉnh đối đầu của quê
hương bị cắt. Thuấn đã khởi hành và đến hai cực điểm của một đau đớn vô hình.
Huế, thành phố không giống một nơi nào đã đi
qua. Pha trộn giữa e thẹn câm nín và xôn xao đột khởi cơn lặng lẽ, bỗng chốc
thành giông bão, thành phố của dịu dàng như cảnh giấc mơ và tồi tàn luộm thuộm
của đời ẩn ức. Thành phố của lãng mạn và bi phẫn. Thuấn ở Huế được ba tháng,
thời gian của những cuộc hành quân ngắn hạn. Từ Huế đi về hướng Bắc, qua chiếc
phà, con nước xanh rêu không sông, bên kia bờ sông luỹ tre mờ mịt sương giăng,
sáng mùa đông im lìm không mặt trời, con gà nhỏ lông sũng nước cố rít lên tiếng
gáy, tiếng gáy của loài gà tre nghe the thé phiền muộn. Quân qua sông, đổ bộ
lên bến, cợn đất sét màu vàng ứa ra từ phiến đá khi chân người lính giẫmlên tản
theo dòng nước. Lính đi băng qua những khu rừng trống ẩm ướt, chuối, thanh trà,
ổi chen chúc đứng khép vào nhau trong im lặng nặng trĩu. Một trái bom vừa nổ,
mảnh gang trắng ghim vào thân cây chuối ứa mủ, đống bẹ chuối tươi non nằm hỗn
độn trên lớp đất bu nhiều tung tóe, đất dính từng tảng nhỏ trên phiến đá bầm
dập như những hạt máu khô đọng trên cánh tay gãy. Mảnh gang của quả bom theo đà
bay phá vỡ khoảng tường vôi để lộ phiến gạch tươi, màu đỏ thớ thịt sau nhát dao
chưa kịp ứa máu. Ba tháng hay chính xác hơn bảy mươi ngày, Thuấn đi qua những
căn nhà kỳ quái, nhà không vách, không cột, không nền. Nhà là căn hầm sát xuống
đất, sâu hun hút lạnh lùng, tối thăm thẳm. Nắp hầm được đắp cao bằng đất cứng,
chắc chắn như nấm mồ, trên mặt mồ vĩ đại đó người dân úp cái mái bằng lá gồi
hay tranh và người ta chui từ hầm lên nhà, bò từ nhà xuống hầm, không ai có thể
ngồi thẳng lưng trong loại nhà hoang tàn kỳ lạ này. Người dân ngồi cong lưng
đầu kẹp giữa hai gối, người dân ngồi im lìm, trẻ con cũng không khóc, đứa trẻ
đã mất thói quen được khóc, khóc vì đói, vì lạnh hay ẩm ướt nước tiểu. Đứa trẻ
đã quen với bóng tối, quen im lìm nặng trĩu. Tiếng động chỉ có ở những cánh
quạt trực thăng chém gió lượn vòng trên cây cau, hay tiếng nổ của quả đạn súng
trọng pháo. Tiếng nổ và sự im lặng trì trợm đã làm tê giác quan đứa trẻ. Không
còn tiếng khóc trẻ thơ trong xóm làng Thuấn đi qua.
Thuấn đã đi qua một lần, hai lần, những lần
sau không đếm được. Đi qua để thấy người dân vùng Thừa Thiên đâu đâu cũng chừng
đó thế ngồi, cũng chừng đó lối hò, cũng những âm thanh rít lên khó nhọc, hiu
hắt phiền phiền xô đẩy nhau trả lời khi người lính hỏi đến… "Da, dạ…"
những tiếng dạ liên hồi mở đầu chen trong câu chuyện, nghe nhức nhối như vết
thương nung mủ bị bóp vỡ giữa hai lưỡi dao kẹp chặt. Thế nhưng người dân vẫn
tiếp tục sống. Thuấn cũng tiếp tục sống, tiếp tục sống để sau mỗi cuộc hành
quân cùng với một lũ bạn chen chúc lên chiếc xe đi về thành phố như hôm nay…
"Đi đâu bây giờ?"
"Đi đâu?" Thuấn quay đầu sang nhìn
Minh, kẻ vừa hỏi, giọng Huế phẳng lì như phiến lá mít. Thuấn ngừng xe, xoay hẳn
người ra đằng sau "Đi đâu?" Sáu đôi mắt nhìn nhau không nói.
"Hay đi uống cà phê?" Đề nghị rụt rè
không thành hình khối. Lạc nói nhỏ.
"Cà phê?" Minh hỏi cao giọng.
"Tao đã uống sáng nay hai lần cà phê rồi,
nhưng thôi, cà phê phát nữa cũng được. Thuấn xoay người trở lại, quanh xe về
quán cà phê giữa thành phố.
"Đến chỗ Lạc Sơn ngồi nhìn thiên hạ,
chiều hôm nay thứ Bảy". Không có tiếng ai trả lời câu nói của Minh.
Ba người ngồi quanh chiếc bàn, ba bàn tay
khuấy tròn những chiếc muỗng quanh vành ly gây tiếng động dễ chịu trong không
khí cứng đặc.
"Tụi mình đi hành quân được ba tháng
rồi".
"78 ngày".
"Sao mày nhớ kỹ vậy?"
"Nên tao thích ngồi ở đây, nhìn những
người gánh củi đi qua, xúc động lúc nhỏ tự nhiên trở về như sống lại thời gian
trước".
"Mày vớ vẩn thấy mẹ". Lạc vòng tay
bó lấy đầu gối ngồi ưỡn người trên nệm xe. "Minh, mày leo lên ngồi với
tao, ở đây đâu còn Quân Cảnh, ngồi đằng sau xe xóc, chết cái mông".
"Tao nói cho có chuyện". Thuấn hững
hờ trả lời.
Xe ngừng ở nơi đóng quân. Đối nối tiếp nhau
thành vòng tròn, lều của lính nằm rải rác trông như những khối đá xanh mềm nhão
nhún nhảy theo cơn gió, từ đó những người lính lạ lùng đi ra. Người lính thời
xưa được biểu tượng qua hình ảnh một người đội nón dấu, mang cây giáo; người
lính cận đại có chiếc nón sắt cùng khẩu súng… Nhưng những người lính này khác
hẳn, họ đội chiếc nón nhựa, chiếc nón loang lổ ngô nghê. Nón sắt có vẻ đẹp hung
bạo riêng, nay ở nơi đóng quân, lớp nón sắt được hạ xuống để vo gạo, rửa rau.
Hai chiếc nón sắt hai tay lỏng chỏng những cây cải xanh, nón nhựa che kín mặt,
áo bỏ ngoài, quần lót, loại quần lót nhà binh Mỹ có xẻ một đường rãnh ở giữa,
trong đó… Việt Nam di động theo bước chân người lính. Hai đôi chân đen đủi ốm
yếu thảm bại trôi xuống từ hai ống quần úa bẩn; quần màu trắng để lâu vàng ố
một cách tục tĩu… Những người lính mang đôi giày không vớ, giây không buộc,
súng mang vai nặng nề đi xuống sườn đồi: Giờ làm cơm. Những người lính Nhảy dù,
thiên thần nón đỏ trở thành sinh vật lạ lùng của một thời tiền sử một thời tiền
sử xám.
"Giờ này về lều chờ cơm tao chịu không
nổi, lên nơi lăng Khải Định chơi". Thuấn đề nghị.
"Lên đó cũng được, nhưng phải có thứ gì
uống". Lạc nói.
"Bắt buộc, tụi mày góp tiền vào đây… mỗi
thằng hai trăm". Thuấn xòe tay, mấy ngón tay chuyển động trước mặt Lạc và
Minh.
Chiếc xe chạy lồng lên đường dốc, bụi tung đỏ
chạch trong ráng nắng chiều. Lăng gồm ba khối vuông vắn chồng lên nhau xám đặc
lặng lẽ, hai hàng voi ngựa, văn võ quan chống gươm đứng im lặng nhìn nhau trong
bóng nắng cuối cùng của ngày. Ba người bước lên những bậc thang xám, bóng đổ
dài.
"Ngồi ở đây hay vào trong kia?" Lạc
hỏi bâng quơ.
"Lên trên kia, nơi có bức tượng ông Khải
Định, chỗ ấy cao hơn có thể nhìn thấy con sông".
Bia được uống trong im lặng, khối lượng nước
màu vàng sóng sánh những tia nắng đỏ hiu hắt. "Lạnh". Có tiếng xuýt
xoa nhỏ. "Gần Tết rồi không lạnh sao được, có thằng nào cho tao mượn hộp
quẹt". Thuấn nói lãng đãng mắt không rời chiếc thuyền vừa hiện trên khói
sông. Tiếng hò bất chợt vút lên đầu ngọn sóng. Sóng nhỏ li ti trôi dạt xua đuổi
hai bờ lau..
"Này Minh, sao người Huế mày hò buồn đến
như thế?"
"Buồn ở đâu, người Huế nào cũng hò như
vậy, giã gạo, chèo thuyền, ru con, khi nào họ chẳng hò được, ông mới nghe lần
đầu nên thấy lạ thế thôi".
"Không phải vậy, toàn thể không khí điệu
hò đều chất chứa u uất, như mày thấy đấy, anh chàng chèo thuyền dưới kia đang
làm một công việc lao lực, thay vì nó hò để tăng thêm sức mạnh, đằng này nó hò
như thở không nổi, chỉ một tiếng "à ơi" kéo dài qua bốn nhịp, trôi
hết một quãng sông. Tao không nghĩ nó hò như người ở vùng biển kéo lưới, nhưng
đây là thói quen thở than, nhu cầu muốn được bày tỏ nỗi u uẩn ngàn đời của khối
linh hồn tan nát dưới biến cố hằng hằng điêu linh".
"Thôi, luận như thế đủ rồi, thắc mắc thì
xuống gọi nó lên mà hỏi".
Như không để ý đến lời Minh, dựa người vào bức
tượng, sau một hớp bia, Thuấn tiếp: "Tiếng hò buồn thật, tao nhớ cách đây
hai buổi trưa, đang nằm trên võng thiu thiu ngủ nghe bà già ở gần nơi đóng quân
hò ru thằng cháu, người tao cứ mềm đi. Chắc thằng cháu dưới sức tê ma quái của
câu hò khóc không nổi, nó nằm im hết cựa quậy. Buổi trưa nắng hanh vàng, trời
yên không gió, có con gà tre ở đâu lâu lâu cất tiếng gáy. Cảnh vật nhỏ bé nhưng
buồn thảm lạ lùng, không khí đọng cứng lại… Tao cứ nghĩ về tiếng hò từ hôm
ấy".
"Hôm nào mày về nhà tao, nằm vào nôi, mẹ
tao hò cho mày một lúc, chắc mày chạy đến mười năm không trở lại".
Được hơi men trợ lực, Minh nhảy xuống ngựa
tiếp tục:
"Chúng mày đâu biết cái nhỏ nhặt của
người Huế, như bà già tao, bà để ý soi mói từng lỗi nhỏ, không phải để cho tao
hay cho bà nhưng vì người khác. Hôm tao hỏng tú tài, bà buồn phiền ra mặt, buồn
vì con bé bên cạnh nhà tao đỗ bình thứ. Con xem đấy, nó là con gái mà lại đỗ
cao. Cứ như thế bà làm tao phát điên luôn. Tao học như mê trong mấy tháng hè,
thuộc bài không những chỉ nhớ đến nội dung nhưng thuộc lòng, nhớ như in từng
trang sách, nơi nào có dấu mực lem, nét chữ ở chữ "khí métal" in đậm
như thế nào. Mấy trang sách toán lý hoá đè hẳn lên mặt, trong đầu tưởng như
không có não nhưng gồm những tờ giấy xếp ngay ngắn; não của những hàng chữ in
xếp thứ tự, não của Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Văn Phú, não của giấy ba Tàu, chữ in
từ Sài Gòn và Chợ Lớn trên đó chặn hòn đá khắc hình bà già".
"Và kỳ thi đó mày đậu ưu?" Lạc nhìn
hai con mắt to đen của Minh, hỏi nửa thành thực nữa giễu cợt.
"Không, hỏng mới đau. Đến ngày thi tao đổ
ốm thật lạ lùng, không nóng không lạnh, không một lý do chính yếu gì cả, đột
nhiên tao ăn không được, ngủ không được, những ngày trước tao có thể ngủ ngồi
ngủ đứng, ngủ trong hai phút nhưng mê man, tưởng như vừa qua cả đêm dài. Tao đổ
ốm lạ lùng, bao nhiêu ý chí phục thù tự nhiên tan biến, chán nản buông xuôi,
muốn bóc hẳn phần đầu để ném đi, muốn rửa sạch hết trí não, không còn đạo hàm,
quỹ tích, lượng giác, chỉ còn một khoảng trống như ruột của quả chuông trong đó
cứ kêu hoài những tiếng vang. Năm sau tao thi ban văn chương, đậu bình và đi
lính luôn".
"Sao vào trường mày học giỏi thế?"
Thuấn hỏi, chai bia không rời môi.
"Đó chỉ là để vuốt ve tự ái, tao đem cái
vốn liếng toán lý hoá ra dùng lại như thằng cha đánh kiếm hết thời, sau thời
gian đằng đẵng rèn được cây gươm vô ích, không lẽ đem đi bửa củi nên đêm khuya
mang gươm ra múa an ủi mình. Buồn cười là có kẻ đã khen nó múa hay, cũng như
tao được mang tiếng là người giỏi toán nhất của trường Võ Bị. Khỉ thật, hình
như suốt đời tao phải cố gắng làm những việc mà lòng không muốn".
"Ngay cả khi ra trường đi đơn vị tác
chiến?"
"Có thể, mày xem đấy, lúc lựa binh chủng
tao đã có chỗ Quân cảnh nhưng đổi lấy Nhảy dù… Có thể vì muốn hơn tên Trung uý
Công binh đến chơi với con nhỏ cạnh nhà. Buồn cười thật, Nhảy dù, quần áo hoa,
chiếc mũ đỏ, nhưng rồi tao thấy thích hợp và hãnh diện với bộ đồ này lắm".
"Sẽ kéo dài được bao lâu?"
"Không biết".
Lạc ngửa người trên sàn đá, cong hai đầu gối
lại. Hai chiếc gối gầy gò móp vào ở phía bên trong. Gối lỏng, ba mươi sáu tuổi,
mười tám năm lính, Trung uý nhiệm chức, thâm niên cấp bậc được tám tháng, mười
hai ngày quyền đại đội 3 tiểu đoàn 19 Nhảy dù. Nhảy dù, cái áo saut có chiếc
đai đằng sau, khi nhảy kéo tới đằng trước che hạ bộ. Dù 17 nhảy đau đến ngất
ngư, ba ngày sau còn vết thâm trên lưng. Mười tám năm lính, bao nhiêu cà men
cơm đã khuấy vào đó, chiếc thìa có lỗ thủng ở cán; lỗ thủng buộc vào nút áo, áo
tác chiến hoa Nhảy dù Pháp có túi dài hai mươi phân hỗn độn thìa, bao thuốc lá
Gaulois, chai rượu Rhum hình con gấu… Lieutenant tối ngày, oui suốt ngày, hai
gót giày chạm vào nhau cứng nhắc, le petit caporal, caporal Vũ Văn Lạc. Trung
uý nhiệm chức Vũ Văn Lạc cong hai chiếc gối lên, hai điểm tựa hoan lạc. Dọc
theo chiều dài của nước Việt Nam đã tựa lên bao nhiêu chiếc chiếu, bao nhiêu
tấm nệm, đã tựa trên đất, tì vào gốc cây. Hai đầu gối công dụng và mệt nhọc…
Lạy xếp, xếp tha cho con. Ngày đổ bộ ở Phát Diệm, hàm răng đen rít lên than
vãn, Sergent chef Vũ Văn Lạc với khẩu sten trên vai đong đưa nhắc nhở một sức
mạnh, sức mạnh có trọng lượng chiều dài, sức mạnh được đếm bằng số đạn ở trong
băng, khoá an toàn đã mở. Hai bàn tay kẹp lấy một thân sườn cứng ngắc… Hà hà,
ngon lành, xếp thương. Người đàn bà nhà quê ngồi bẹp xuống, lưng quần bị xé
rách một miếng nhưng chiếc quần chưa kịp rơi, cái hoa lạc thú mới nhú một túm
lông đen kích thích. Sergent chef Vũ Văn Lạc nuốt nước bọt, viên đạn bắn lên trời.
Bạo lực ho một tiếng doạ nạt. Người đàn bà nín lặng, cái hoa tam giác đen tươi
lốm đốm. Sergent Lạc cười thích chí: "Tốt, thẳng hai chân ra, giang rộng
chút nữa, tốt, ném khẩu súng sang bên cạnh, hai đầu gối quỳ xuống trên nền
cỏ…" Bây giờ chiếc gối vô ích, mệt mỏi. Chiến tranh này không còn Phát
Diệm, Thất Khê, Cao Bằng, không còn B.M.C. đổ gái xuống ở Isabelle dưới tiếng
nổ của sơn pháo 75 ly không giựt, 82 ly Trung Cộng. Không còn cảnh chạy theo
giao thông hào, đưa tay kéo cái đàn ông ra, dính một chút đất ở đầu, teo lại
nhăn nhó… "ĐM quá sợ teo lại sao mày? Allez, sờ mấy cái coi mày". Năm
ngón tay xanh xao lạnh buốt loang lổ những ngón màu hồng đưa ra nắm lấy phần
thịt gân đen đúa hâm hấp… "Merde, foutu không ra cái gì sất, không xong
rồi, nó ra hết bố rồi…" Vũ Văn Lạc thót bụng lại, phần sự sống chảy ra
nhão nhoẹt. "Merde, merde không được gì hết, et alors?" Vũ Văn Lạc
thọc bàn tay vào phần dưới chiếc bụng, nơi thịt da thâm đen. "ĐM như miếng
giẻ rách". Thôi xong, cái đàn ông mềm oặt được đặt vào lại. Chạy ra khỏi
căn hầm, tên Tabor nhào vô như ánh chớp. "Tout fini, mon sergent? Oui, ĐM
vào đi còn ấm ớ…" Chiến tranh này chỉ còn những chiếc chiếu bình yên,
những tấm đệm bẩn thỉu nhưng từ tốn. Tiếng động của chân giường khoái lạc vang
dội tạo nên một xúc cảm trợ lực cho phần cơ thể thấm đẫm mồ hôi, hai chiếc gối
lách cách trăn trở. Trung uý nhiệm chức Vũ Văn Lạc quỳ giữa một cái bụng nhăn
nheo sau bốn lần sinh nở… Sau cái liếc xéo và câu nói rít giữa hai hàm răng :
"Chán cái l… già này rồi hả?" Không. Vũ Văn Lạc cúi xuống hùng hục
một cách miễn cưỡng … Bà Vũ Văn Lạc hay cô bán hàng xén ở Chợ Dầu kẹp hai đầu
gối lại, nhắm đôi mắt. Mình, mình ơi… Chiều hôm nay một chiều cuối năm, hai đầu
gối của Trung uý Vũ Văn Lạc lại nhô lên một cách vô tích sự giữa bầu trời xám
đặc.
"Nếu tôi được chỗ Quân cảnh là tôi đi
gấp. Gắng làm đại đội trưởng thêm năm nữa, bắt cái Đại uý là tôi dọt. Có Đại uý
chắc ăn ra ngoài không sợ ai ăn hiếp. Mụ vợ tôi than lúc này không đủ tiền chợ.
Các ông thật là dại, từ trong trường có những chỗ thật tốt không đi, đi làm thứ
gì Nhảy dù này, chỉ có được tiếng hão. Rồi các ông sẽ có gia đình, vợ con một
đống, cả năm chỉ ở nhà không hơn một tháng, lúc ấy mới thấy cái tiếng kia vô
ích".
"Nhưng tụi này là sĩ quan nhà nghề, không
lẽ đi lính để làm công chức nhà binh sao? Có nhiều nghề dẫn đến sự thành công,
nhà binh có cái thành công đồng hạng của nó. Đi Nhảy dù như kiếm một cái ghế
tốt trong rạp hát đồng hạng, thế thôi…" Minh cãi.
"À, ông muốn lên lon nhanh, thuở xưa tôi
cũng vậy nhưng lúc ấy nhà binh nó có cái giá của nó. Chiều thứ Bảy, tôi lúc ấy
chỉ là Trung sĩ nhưng đã hách ra gì, áo quần kaki thẳng nếp, vớ trắng cao tới
đầu gối, mũ đỏ, chiếc ga lông có hình mỏ neo, ông đội bước ra phố, đi Godart
chẳng kém ai. ĐM bây giờ anh nhóc con 18 tuổi, chỉ sau 8 tháng quân trường xong
cũng thành ông quan, sĩ quan hồi này xuống giá rồi, các ông đã đi kiếm công
danh muộn".
"À, như thế ông Lạc bảo mày với tao yếu
giá rồi, Trung uý Nguyễn Khoa Minh cựu á khoa của khoá 18 trường Võ bị Quốc gia
đã đấu vật với một cái bóng công danh muộn. Mày nghe chưa hở Minh, lính già nó
nói thiêng lắm, 18 năm lính mòn gần năm mươi đôi giày, từ giày Tây qua giày Mỹ,
cái gót chân "Bắc kỳ già" kia đã hiển thánh, đã được hun đúc bởi hai
nền văn minh, đã thành tinh rồi huống gì đầu não. Lính già này nói đúng, và tao
đang nuốt một thức ăn thừa". Thuấn vỗ vào gối để tăng cường độ khoái trá.
"Tôi cũng như các ông chứ khác gì, hơn
nữa tôi không còn trẻ để đổi nghề. Bả thuốc phiện nhà binh đã ngấm vào máu, bỏ
không được nữa".
"Thôi uống đi, nói quanh co hoài".
Uống, hình như người lính nào cũng biết uống
rượu. Không những biết mà thích thú. Rượu, thứ thuốc tê ngắn ngủi có phân
lượng, hình khối, có thể nuốt vào người, để nảy nở những phản ứng sôi nổi hạn
chế. Chỉ mất ít tiền, mua được niềm choáng váng nhân tạo, cử chỉ bồng bềnh. Rẻ
quá, không uống cũng uổng đi. Lý Bạch say rượu mà chết, lính thì không có được
cái quên lãng tiêu sái đó, nhưng cũng chẳng cần. Uống để có được phút giây đưa
cánh tay, nghiêng chất lỏng vàng rực óng ánh như khối mặt trời chảy nước. Đổ từ
chai vào ly, từ ly chảy vào miệng… Uống, động tác si mê tội nghiệp, cách hành
lễ tưởng chừng tha thiết nhưng cuối đáy thấp thoáng chút bệ rạc lang thang.
"Minh, lái xe xuống mua thêm mấy chai
nữa. Còn tiền không?" Những bàn tay lùa vội trong túi, nắm giấy bạc nhàu
nát được kéo ra, năm trăm, bảy trăm. Vừa rồi, mua thêm nửa két uống cho đã.
Minh lái xe xuống phía xa, nơi luỹ tre xanh có
nhà cửa, sương lam bốc khói mịt mù.
"Này Lạc".
"Gì?"
"Thuở xưa tao có đóng một vở kịch vui,
kịch có ba vai chính, ba anh ngốc: trong buổi hội họp, một anh được cử đi mua
rượu, hai anh ở nhà giả vờ chết, anh chàng đi mua rượu nửa đường uống trộm hoá
say… Khi về, tưởng hai anh kia chết thật, nó làm nhiều điều thật buồn
cười".
"Ông muốn nói điều gì, nói rõ mẹ nó ra,
đầu óc tôi đặc cứng chẳng hiểu được". Lạc lè nhè trong miệng.
"Năm xưa diễn kịch tôi nghĩ một đời sống
thật như thế không có, nhưng bây giờ mình diễn lại cảnh ba thằng như trong vở
kịch. Tôi buồn cười tự hỏi: không biết mình có phải là thằng ngu không".
"Ngu biết ngay, ngu không có thể nghĩ vớ
vẩn, ngu có vẻ ù lì chắc chắn như cục gỗ mít, trông thì biết liền". Lạc
cao giọng xác định.
Hơi men giúp câu chuyện dễ dàng. Chuyện vô
nghĩa níu kéo nhau theo nhịp độ liên tưởng, lãng đãng mù mờ như lớp men dậy lên
theo lượng rượu căng phồng trong bao tử.
Lạc bày trò chơi: Lấy vỏ chai đặt lên đầu
tượng ngựa đá, người bắn trật phải uống một hơi hết chai bia. Những viên đạn
bay xuống đồi rít tiếng lạnh hơn hơi sương… Minh nâng súng lên. Đầu con ngựa
nháng lửa. À, con ngựa tóe lửa. Bắt con ngựa ô… "Ngựa ô tôi bắt, tôi bắt
cái con ngựa". Minh lẩm bẩm hát, mắt nheo lại nhắm theo nòng súng, đỉnh
đầu ruồi chao động, bàn tay run, bóng ngựa chập chờn. Ngựa phi đường xa thật
mau.
"Bắn đi mày, nhắm lâu quá vậy".
Thuấn hét lớn.
"Cột con ngựa lại cho tao!"
"Con trai say rồi, bắn đi con ơi".
Đoành, hai viên đạn bay vút. Mày bắn trật rồi,
uống thêm một chai nữa.
"Sao tao cứ bắn trật hoài, hay ông vua
không bằng lòng vì tụi mình phá quấy".
"Này Minh, ông Khải Định hình như bị
chứng phong nên chết sớm?"
"Phong gì, ông ta bị bệnh phong tình, mày
không thấy Bảo Đại bị yếu mắt hay sao".
"Làm vua mà đi chơi bời sao?"
"Làm sao biết được, nhưng nhìn cái tượng
thì ông ta chỉ khoảng thước rưỡi, người như thế chắc chơi không nổi. Dám
"luý" thủ dâm hay làm nhiều màn kinh khiếp lắm. Đoành. Lạc bắn viên
đạn thật chính xác, chai bia vỡ tan. A, ngựa vua Khải Định được uống bia lính
Nhảy dù. Lạc đặt một vỏ chai khác lên đầu ngựa. Đến lượt thằng Thuấn bắn. Thuấn
đưa nòng súng lên. "Tao thấy con ngựa khóc".
"Xạo, nước bia chảy xuống mắt nó đấy. Tao
đố mày bắn trúng mắt con ngựa". Lạc thách.
"Thôi, để cho nó yên thân, suốt đời đã
mang ông vua đi chơi bời, đến khi chết đứng nhìn núi trọc, đủ buồn cho thân
ngựa đá rồi…" Viên đạn đi trượt thấp xuống trúng vào một nơi nào đó của
tượng đá. Thuấn bắn thêm hai viên nữa, trật. "Ê, đừng gian, mày phải uống
liên tiếp hai chai". Thuấn nắm hai cổ chai ngồi vắt vẻo lên yên một tượng
voi… "Cỡi voi ra trận miệng uống bia, chúng mày thấy tao thế nào?… Hà hà
mấy anh tướng xưa sướng thấy mẹ, cứ ngồi yên trên ngựa hoặc voi rồi tà tà ra
trận. Tụi mình bây giờ vẫn lội bộ. Như lính có khác gì. Nếu thuở xưa như tao là
cử nhân võ đấy, nhị khoa cử nhân võ. Chúa ơi, tao không hiểu tao học thế nào
đến hai khoá mới xong chương trình của trường Đà Lạt, cứ mỗi lần đi vào sân bắn
ngang qua tấm bảng có mũi tên chỉ lối vào xa trường, nơi có mấy cây thông con,
tao cứ tưởng như có lời chế nhạo. Minh, mày nhớ tấm bảng đó không?"
"Nhớ quái gì tấm bảng ấy".
Những phát nổ liên tiếp chung quanh mắt con
ngựa, lớp vôi vỡ tung tóe.
"Hay, lính già bắn hay thật". Thuấn
và Minh cùng khen ngợi. Lạc không nói, bóp cò hết 6 viên đạn. Viên đạn chót bay
đến chém vỡ chai bia.
Có tiếng gọi ở máy truyền tin trên xe Jeep -
Lạc đi đến – "Lệnh gọi tụi mình về họp". Lạc la lớn gọi Minh và
Thuấn. Thuấn đưa súng lên trời bắn hết những viên đạn còn lại… "Tiên sư,
làm tướng tá không được, cao bồi Mỹ không xong, thôi ta về làm lính". Bóng
hai người đi về phía xe, nòng súng chùi xuống đất.
CHƯƠNG 2
Mười lăm chiếc trực thăng chia làm ba đợt hạ xuống trên nghĩa
địa cát trắng. Đại đội của Minh xuống hết, những người lính chạy nặng nề trên
cát lún hướng về phía bắc, đối diện với ngôi làng nằm khuất trong hàng dương
liễu ở nơi xa. Đến cuối hàng rào nghĩa địa, Minh cho đại đội nằm xuống bố trí
theo vòng đai hàng rào. Người chết cũng có hàng rào, tượng trưng bằng những cây
cột gỗ, ba hàng kẽm gai hờ hững lệch lạc. Hàng rào nay chỉ còn dấu vết, chiếc
cột đã đổ kéo theo đoạn kẽm gai nằm sâu dưới cát.
Đơn vị xuống hết, đại đội Minh được lệnh dẫn đầu, lấy bờ biển
làm chuẩn tiến về phía ngôi làng. Trời mùa đông miền Trung lạnh cóng, mây xuống
thấp, xám ngắt. Gió thổi từng cơn như gom hơi lạnh để quạt vào mặt người. Minh
kéo cao cổ áo, định hướng đi, nói qua máy truyền tin với Trung đội trưởng dẫn
đầu: "Hướng 6000, hơi ép trái một chút, có gì thì dựa lưng vào biển đánh
vào phía trái mục tiêu. Nhận rõ. Tốt, ông đi đi". Sản phẩm đẹp đẽ của thời
đại chinh chiến – Sĩ quan hiện dịch trẻ tuổi – Bắt đầu xua quân chạy như bay
qua bãi cát trắng trơ trọi. Chạy trên nghĩa địa, trên người chết, để tạo nên số
người chết mới. Đoạt dăm khẩu súng Trung Cộng, để cắn vào một chút bánh vinh
quang. Trung đội 1, 2, 3 cùng nhào vào một lượt. Thằng 4 (trung đội 4) cho ông
già 60 nhổ vào bìa làng liên tiếp, rải đều đều, ngừng khi có lệnh. Các Trung
đội trưởng nhận đủ. Minh hô lớn qua máy: "Xung phong. Xung phong… Xung
phong…" Trên nền cát bóng người lính lụp xụp chạy, ba lô nặng đè lưng
xuống, nón sắt cột không chặt úp xuống mặt, cọng rau cải lủng lẳng sau lưng,
mũi súng hướng về trước. Trung sĩ vợ năm con, nhà ở trại gia binh trên tôn
chung quanh vách ván mỏng. Mình nhớ mua hàng quân tiếp vụ gởi về cho tôi. Lá
thư vừa nhận được: "Hụi một ngàn mà người ta bỏ đến 412 đồng vì tháng sắp
Tết". Những lo âu có hình khối như sợi dây nón sắt đập liên tiếp vào gò má
theo bước chạy, mặc, cứ chạy về đằng trước, lính Nhảy dù chỉ có tiến chứ không
có lùi… "Xung phong". Chuẩn uý Trung đội trưởng dang hai tay rộng
ngoắt từ sau ra trước: "Vào. Nhào…" Cục hột xoài dưới háng căng nhức
đau đớn. Vô lậu bất thành nhơn mà Chuẩn uý! Chuẩn uý trẻ tuổi chịu chơi đi hành
quân ở Huế không ngủ đò không được. Chuẩn uý 19 tuổi, đậu tú tài 1 khoá hai năm
1966. Đậu với tám điểm vớt. ĐM, thế thì làm sao đậu được tú tài hai. Xe Solex
cọc cạch, chiếc đầu máy gật gù… Lính Nhảy dù đóng ở Sài Gòn, đi nhờ xe Jeep của
Đại đội trưởng, chỉ tiếc nhà ở trong xóm xe bốn bánh không vào được. Chiếc
Solex đã được bán lấy bốn ngàn lấy tiền nhậu… Nhậu, phải tập làm quen với hung
bạo cằn cỗi này. Phải tập nói: Một giọt rượu là một giọt máu. Phải tập gật gù:
Cắt cổ không bằng đổ rượu. Tuổi trẻ chịu chơi với con dao commando mua lại ở
đám lính cũ, cột ở dưới chân. Hột xoài căng mủ trong háng. Thật đủ, nòng súng
hướng về đằng trước. Xung phong. Trung uý Nguyễn Khoa Minh, Đại đội trưởng trẻ
nhất của Tiểu đoàn 19 Nhảy dù rút súng colt cầm tay: "Thằng nào chạy lui
tao bắn gãy giò. ĐM… vào". Chỉ vì thiếu chút chiều cao không thôi đỗ thủ
khoa. Cây toán học của trường Võ bị, người giỏi toán nhất của các khoá bắt đầu
từ ngày trường cải tên. Tay vô địch bóng bàn học sinh miền Trung. Con học làm
sao mà thua con Lan con mợ Ấm ở dưới Gia Hội thì mạ buồn lắm. Khổ quá, Nguyễn
Khoa Minh học bài suốt đêm, học ngậm sâm, uống thuốc bắc, học đến nỗi biết cách
giải bài toán số 154 cuốn Le Bosset như thế nào! Nhưng, Nguyễn Khoa Minh đã
hỏng một lần đã bị tình phụ, đi theo người yêu tốt nghiệp Đại học Sư phạm,
người biết thắt cà vạt double, người biết nhảy cha cha cha, người dạy người
tình của Minh những bước đầu tiên điệu mambo trong nhà bếp. Nguyễn Khoa Minh
chỉ có đôi bata trắng, đứng lên nhận chiếc cờ hình tam giác trên có thêu hàng
chữ: Vô địch bóng bàn học sinh niên khoá 1957 – 1958. Ông hiệu trưởng thấp bé
có bằng MG đầu tiên ở miền Trung xưng "ta" với học trò. "Ta dạy
các ngươi là một điều dại dột vì làm thầy thằng dại là ngu xuẩn!… Ta đánh
tennis, service cú nào đáng cú đó, chỉ một cú rervert làm cercle ngất
ngư…" Ông hiệu trưởng trao cái cờ, bắt tay hờ hững, chút giá lạnh khinh
khi. Phải học giỏi. Nhưng Nguyễn Khoa Minh bị hỏng vì bệnh trong ngày thi, mất
chân thủ khoa vì thiếu thước. Nguyễn Khoa Minh chỉ có cái cờ tam giác bằng vải
sa tanh thêu chữ vàng lành lạnh trong bàn tay. "Vào… vào", đoành,
viên đạn bắn bổng lên trời thật hào hùng. Minh mê man như khi vụt trái banh
trong tiếng cổ võ hoan hô của hàng ngàn học sinh trường Quốc học. Anh Minh,
người giỏi toán nhất ở Huế đó! Nguyễn Khoa Minh, niềm hãnh diện cao một thước
sáu mươi mốt của lớp đệ nhất B1 trường trung học do cụ Ngô Đình Khả lập ra,
người được đọc diễn văn trước Tổng thống Ngô Đình Diệm lúc mười giờ sáng ngày
mùng Năm Tết năm 1960, và cũng chính Nguyễn Khoa Minh trong ngày 23 tháng 11
năm 1963 quỳ trên bãi cỏ xanh nắm tay đưa cao, thề trung thành với tổ quốc
trước mặt lãnh tụ mới. Người đã ra lệnh bắn vỡ đầu Tổng thống Ngô Đình Diệm
trước đó hai mươi hai ngày. Nguyễn Khoa Minh cảm động từng lời diễn văn, run
run khi được Tổng thống bắt tay khen ngợi: "Con gắng học giỏi để làm rạng
danh xứ sở". Người được Tổng thống bắt tay, trong đảo chánh lật đổ độc tài
đã cầm đầu đại đội sinh viên sĩ quan chiếm đóng đài phát thanh Đà Lạt…
"Vào, vào", thêm một viên đạn được bắn lên, tiếng pháo đuổi ma quỷ
nặng trĩu trong lòng người. Những người lính cùng bắn về trước mặt, cong chiếc
lưng đẩy mạnh đôi chân tiến vào làng. Trong làng, những bóng áo đen và nâu bắt
đầu ngửng cao khỏi giao thông hào. Nòng súng thượng liên Trung Cộng, tiểu liên
Tiệp Khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu nhắm chiếc
vòng đen sâu hun hút vào đám lính mang giày Nhật nón sắt Mỹ, M16. Những ngón
tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa. Chờ nhau hân hoan
âm ỉ, chờ thản nhiên lạnh cứng. Những ngón tay Việt Nam bắt đầu cong, hàm răng
vàng úa xấu xí nghiến chặt lại, thớ thịt bạc nhược trên mặt căng cứng giựt
giựt.
Thịt sốt rét, thịt thương hàn, thịt được nuôi dưỡng bằng cơm
rang nước ruốc, thịt trắng xanh vì ở lâu dưới hầm, áp sát vào đất, đè lên báng
súng … Những ngón chân bấm sâu vào đất để viên đạn đi cho ngọt, những ngón chân
thay vì gần nhau, bắt đầu tách rời, ngập cứng vào đất. Đôi mắt sát cứng vào lỗ
chiếu môn, sát vào nữa để nhìn một lần cuối bóng dáng Việt Nam đang đi dần vào
cái chết. Mở mắt cho rõ để nhìn thấy nhau một lần cuối cùng… Đôi mắt trong giao
thông hào bắt gặp một hình ảnh: Hạ sĩ Nguyễn Thế Hùng, 21 tuổi. Hạ sĩ Hùng đeo
một thánh giá bằng vải đen, thấm đẫm mồ hôi của ba năm lính. Hạ sĩ Hùng đọc
kinh mỗi tối trước khi đi ngủ, đọc kinh trong hố phòng thủ, bên chuồng bò Bồng
Sơn, đọc kinh trong địa đạo Khe Sanh, dưới hàng dừa An Phú Đông. Chúa Jêsu chuộc
tội cứu thế. Cầu cho chúng tôi. Chúa Jêsu chuộc tội cứu thế. Cầu cho chúng tôi.
Lạy Đức Mẹ Maria trọn đời đồng trinh. Cầu cho chúng tôi… Hạ sĩ Hùng bây giờ có
đôi con mắt láo liên, mắt mở lớn. Chiếc nón sắt lại úp xuống mặt, Hùng dùng tay
trái nâng lên, bìa làng màu đen kia rồi, im lìm lặng lẽ, hình như có đám chim
bay lên ở phía cây bàng. Việt Cộng? Không có đủ thì giờ để nghĩ, không có tiếng
động nào trong đầu não. Chỉ nghe bước chân chính mình vang trên cát, nón sắt
nhảy lùng bùng trên đầu và một đôi mắt đen mở hết cỡ. "Người Việt Nam
"nền" có con mắt thiệt đẹp Thượng sĩ hi!" Hạ sĩ Hùng đã nói với
Thượng sĩ đại đội như thế. "Đẹp làm sao? "Hén" đen thùi lùi như
hột nhãn trong khi thằng Mỹ xanh như mắt mèo…" Con mắt người Việt Nam đẹp
thật. Mắt Hạ sĩ Hùng đẹp, mắt của buổi sáng đứng ở bờ Quảng Bình nhìn mặt trời
lên từng đường ánh sáng, mắt nhìn biển sáng như lân tinh dưới ánh trăng, mắt
nhìn nến ở nhà thờ, mắt nhìn rừng xanh từ ngày di cư vào Long Khánh. Mắt Hạ sĩ
Hùng đen thăm thẳm, vô tội ngọt ngào. Trong giao thông hào đôi mắt Việt Nam
trên báng súng AK Tiệp Khắc căng lên lần chót vì nhắm quá lâu, những sợi gân
ửng đỏ, mắt ứ đầy nước, chỉ đợi cái chớp sẽ chảy xuống ngón tay Việt Nam cong
lại trên chiếc cò súng cong vòng tiện lợi cho động tác khép vào. Những viên đạn
vàng rực từ băng đạn cong bắn ra từng ba nhịp một chính xác. Mắt Việt Nam ở
giao thông hào khép lại nghỉ ngơi, quả tim thở hơi dài dễ chịu sau lần chờ đợi
cứng ngắc. Ngoài đồng cát mắt của Hạ sĩ Hùng, mắt Việt Nam đẹp đẽ chợt thấy lóe
lên ánh lửa, xong lửa tắt ngúm còn lại tảng tối mênh mông như mặt biển khi
trăng lặn vào mây đen. Quả tim Việt Nam vừa ngừng đập.
Minh ngừng thở trong khoảnh khắc. Đạn đi đầy trong bầu trời,
những tiếng rít xé gió kinh khiếp sát vào cạnh mang tai. Nhưng chỉ một khoảnh
khắc, Minh tiếp tục vẫy mạnh người lao về đằng trước. Bìa làng, luỹ tre kín mít
đầy hết tầm mắt. Minh đưa ống liên hợp vào miệng: "Xung phong". Tiếng
hét vượt ra khỏi sức chuyền của máy truyền tin vang rộng trên bề mặt cát. Có
sợi dây nào giữ chân Minh lại, gã binh nhất mang máy truyền tin ngã nhào xuống,
viên đạn xuyên qua lớp da thịt trần trụi tiếp tục phá chiếc máy một lỗ lớn. Hai
thứ kim khí chạm nhau không thành tiếng động vì được lót lớp thịt người. Gã
mang máy ngã co quắp trên cát, sợi dây cao su từ chiếc máy đến ống liên hợp
trên tay Minh căng thẳng. Minh bị kéo giựt trở lại, gã mang máy làm những động
tác cuối cùng, hai tay co để trút bỏ sợi dây mang chiếc máy, người lính muốn bỏ
gánh nặng trước khi chết. Chiếc lưng ưỡn cong, hai bàn tay duỗi khép chặt sau
lưng, chân chống trên mặt đất, cong người hơn chút nữa, chiếc đai máy rời khỏi
vai trôi xuống, hai chân chống cao hơn chút nữa… Một loạt đạn khác bay đến,
những lỗ đạn tốt tươi tênh hênh trên thân áo nguỵ trang. Minh nghe được tiếng
động của viên đạn đi qua thân thể người lính. Minh ném chiếc ống liên hợp xuống
đất, trước mắt chỉ còn luỹ tre xanh nháng lửa.
"Đổi tần số nội bộ". Minh hét thật to với gã mang máy
truyền tin thứ hai (máy liên lạc giữa đại đội và tiểu đoàn). Bằng bất cứ giá
nào các ông cũng phải vào tất cả, tôi ở trong này với thằng Hai rồi (Trung đội
2).
Có tiếng thét của Trung đội trưởng Trung đội 1 và 3 ở máy:
"Nhưng tôi bị kẹt quá vào không được… Tôi bị hai khẩu Thượng liên nó kềm
nát bấy".
"Được, tôi sẽ cho hai thằng phá nó".
Trung đội 2 chiếm được một đoạn giao thông hào, tiếp tục đánh ép
qua trái nơi có tiếng Thượng liên nổ liên tục. Việt Cộng bỏ giao thông hào chạy
ép về phải, phía toàn bộ chủ lực của Tiểu đoàn Nhảy dù đang đánh vào.
Năm gã áo đen rải dài theo chiếc hầm, hai AK, hai B40 và một
Thượng liên. Toán đao phủ lý tưởng với vũ khí đầy đủ của trò chơi kỳ lạ. Gã bắn
Thượng liên ném cái mũ có ngôi sao vàng qua bên cạnh, hai chiếc chân ngập sâu
trong bùn, gã không cần rút ra, đầu cúi gầm xuống trên báng súng, hai bàn tay
di động thoăn thoắt, bàn tay trái nâng băng đạn, bàn tay phải bóp cò. Gã đã
từng làm việc này thật quen thuộc từ một quận lỵ ở Quảng Bình. Đồng chí Lê Hoạt
thợ may bảy tuổi đảng tính đến nay, năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám, người
anh hùng lao động của hợp tác xã cắt may Sao Vàng, đã sản xuất bằng tay mười
tám chiếc áo trong vòng hai mươi tiếng đồng hồ… Đồng chí Lê Hoạt đã ngồi trên
sập gỗ, đầu ở giữa hai đầu gối, lưng còng xuống ngồi bất động để hai cánh tay
thoăn thoắt di động trên xấp vải tấm dệt từ Nam Định, tay trái Hoạt đè xuống
cho thẳng tấm vải, tay phải ấn chiếc kéo, xong hai bàn tay thoăn thoắt luồn cây
kim vào thân vải khô cứng. Lê Hoạt người anh hùng lao động trong dịp lễ thi đua
sản xuất mừng sinh nhật bác Hồ của mùa hè năm một ngàn chín trăm sáu mươi rất
muốn yên phận với niềm hãnh diện rạo rực, lần say độc nhất của ba mươi sáu năm
làm người khi được Ban quản trị Hợp tác xã cắt may gọi đến vào buổi sáng 19
tháng 5 năm 1967 để nhận tờ giấy khen trên có hình Hồ chủ tịch với hàm râu dài,
nhưng Hoạt bị kéo ra khỏi niềm vui bình yên, bị kéo ra khỏi chiếc sập gỗ, bị
dúi vào tay khẩu súng AK thay vì chiếc kéo. Lê Hoạt phải luồn đạn vào trong
những chiếc băng hình cong thay vì luồn chỉ vào kim. Lê Hoạt phải tập chống xe
bọc sắt, được học tập những điều xa lạ và hung bạo. Bắn máy bay lên thẳng của
Mỹ, tập đặt plastic, làm nổ cầu… Lê Hoạt phải nhồi vào óc, phải tin những điều
kỳ quái: Máy bay lên thẳng của Mỹ chỉ có mỗi bộ máy, không có khung, chỉ cần
bắn một viên đạn cũng đủ rơi. Hoặc phải học và tin như thế, mặc dù chiếc máy
may Singer Hoạt mua sau ngày đình chiến được sơn lại bằng tay vẫn được Hợp tác
xã mua lại và cạo sửa để nguỵ tạo dưới một nhãn hiệu khác: Máy Tiến Hoá do
nhà sản xuất Thăng Long làm nên. Hoạt biết sự nguỵ tạo nhưng phải tin giặc Mỹ
Nguỵ hết sức kiệt lực không làm nổi chiếc máy bay lên thẳng toàn vẹn. Hoạt cũng
biết rằng máy bay Mỹ đã làm lở một phần đèo Mụ Già, núi đã biến hình dưới cơn
tàn phá của bom Mỹ. Nhưng giặc Mỹ Nguỵ sắp thua, Hoạt bắt buộc phải tin như thế
và giã từ tiếng hoan hô của Hợp tác xã cắt may, tấm giấy khen được bọc trong
túi ni lông đeo trước ngực, vượt sông Bến Hải vào Nam trong tháng Mười một giữa
đêm khuya lạnh cóng.
Lê Hoạt được biết mình đang ở trên phần đất quận Phong Điền giáp
ranh Quảng Trị, Thừa Thiên. Hoạt không thấy hai thành phố và quận lỵ mặc dù
trước khi xâm nhập đã được đồng chí Uỷ viên chính trị Trung đoàn cổ động:
"Các đồng chí là những người hạnh phúc nhất trong tập thể quân đội nhân
dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, các đồng chí sẽ là những người lính đầu
tiên của Bác và Đảng bước chân đến thành phố Quảng Trị nơi quân miền Nam đã
hoàn toàn làm chủ sau khi đánh đuổi hết quân đội Mỹ Nguỵ về phía Nam đèo Hải
Vân". Hoạt đã nghe như thế nên lấy làm lạ tại sao phải vượt sông Bến Hải
trong đêm, tiếp theo màn chạy bộ đến đứt đôi người từ cửa Tùng vào đến cửa
Việt, chạy trong đêm người này nắm vào lưng người kia đi như ma đuổi, nín thở,
cấm nói, cấm đốt lửa và khi năm giờ sáng đến một con sông tất cả phải đào hố
nguỵ trang nằm bẹp dí trong suốt một ngày. Nằm một ngày để nghe trên dòng sôngg
từ khi trời sáng cho đến buổi chiều vàng, vang động tiếng tàu chạy, đồng thời
có những tiếng nói xa lạ, không phải tiếng Việt, vang lên ầm ĩ cùng tiếng cười
huyên náo loáng thoáng. Chen lẫn trong cơn bão cười xôn xao nóng nảy đó, những
tiếng thét rờn rợn đẫm ướt kích thích, tiếng của con mái khoái trá khi được
chạm vào chỗ kín. Hoạt nằm nghe những tiếng cười mất dạy đó trong những giờ đầu
tiên ở miền Nam. Tiểu đoàn I Trung đoàn E 812 quân đội Nhân dân nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà được tiếng cười nô nức nhầy nhụa tình dục của đám con gái miền Nam
cùng giống đực Mỹ quốc chào đón trong bước đầu giải phóng. Đêm xuống, Tiểu đoàn
Quyết Thắng sau một ngày nghe tiếng động tình ái, tiếp tục bước đường giải
phóng về hướng Nam. Cuộc di tản kéo dài đến làng Phú Trung quận Phong Điền, Lê
Hoạt không thấy được gì thêm của miền Nam ngoài tiếng động kích thích thú vị
trên mặt sông Ô Lâu ngày hôm trước…
Đóng tại làng Phú Trung được một tháng, Lê Hoạt và đồng đội chỉ
có mỗi hai việc: tu sửa hầm hố và thực tập tấn công trên sa bàn một thành phố
vuông vắn như ô cờ. Thành phố nào và ở đó có gì để phải tấn công vào? Quảng Trị
và Thừa Thiên không nghe nói đến nữa. Cuộc giải phóng thành phố trên sa bàn
chưa tới thì hôm nay, Tiểu đoàn 1 chạm với Tiểu đoàn 19 Nhảy dù Nguỵ. Đã lâu
nay, Lê Hoạt nôn nóng vô cùng vì những người dân của làng Phú Trung lần lượt đi
về phía Tây, hướng quốc lộ, làng chỉ còn lại vài người già và ít phụ nữ cằn cỗi
cùng lũ trẻ èo uột lây lất. Những hình ảnh đoàn văn công miền Nam có những
thiếu nữ đội mũ rộng vành màu xanh ca vọng cổ đàn tây ban cầm sao không thấy,
Lê Hoạt chỉ cảm thấy chung quanh thứ không khí nặng nề như những hôm trời oi
bức báo cơn bão lũ chuồn chuồn bay trong ráng vàng bệnh hoạn chói đỏ góc trời.
Bộ chỉ huy tiểu đoàn ra lệnh gài mìn chung quanh làng để ngăn cấm dân chúng bỏ
đi, nhưng ban ngày khi đơn vị rút xuống hầm trú ẩn, Lê Hoạt thỉnh thoảng nghe
tiếng mìn nổ. Một người dân làng nào đó trốn ra khỏi làng và đạp phải. Tối hôm
đó có đám táng. Người chết được kéo về, bó chiếc chiếu, chôn vội trong đêm.
"Các đồng chí noi gương đó, ai muốn sống thì phải ở lại đây với quân đội
nhân dân". Ông mếu máo: "Đồng chí ơi là đồng chí ơi, có muốn băm vằm
gì tui thì làm, xong rồi xin các đồng chí kéo nhau đi chỗ khác đánh nhau, dân
chúng cực lắm rồi đồng chí cán bộ ơi…". Nhưng quân đội nhân dân vẫn ở lại
nên sáng nay trận đánh diễn ra. Ngay khi chiếc phản lực vừa trên cao rít xuống,
Lê Hoạt đã nhảy xuống hầm, hầm đào sâu dưới rễ một lùm tre kiên cố, lớp đất dầy
thước rưỡi, đám rễ tre chắc chắn nhưng Lê Hoạt vẫn có cảm giác thân thể như vừa
bị ép giữa một khối vô hình và tường đất lạnh cóng. Dưới hai thước đất và rễ
cây Hoạt nghe được chấn động kinh khiếp thoạt tiên văng vẳng từ thinh không
phút chốc biến đổi thành cơn giông bão sắc nhọn xuyên hẳn qua màng tai. Máy bay
đi để lại đám cháy, lẫn trong tiếng nổ lép bép của thân cây tươi, cỏ lá cháy
sém, có âm thanh khắc khoải tuyệt vọng của lũ vật lồng lộn trong chuồng bị lửa
vây. Lê Hoạt còn nghe được tiếng khóc đứt khúc từ những cổ họng già nua. Sau
trận giông bão nhân tạo, Hoạt tưởng mình như đã chết xuống địa ngục, vì thoảng
đâu đây từ trên mặt đất la đà mùi nồng tổng hợp của thịt xương, cây cỏ sau khi
đã bị đốt vàng cháy biến thành lớp tro tàn ươn ướt mùi chết chóc. Nửa giờ sau
trận bom, qua lỗ hổng dưới lùm tre, Hoạt thấy từ ngoài đồng trống thấp thoáng
những bóng đen. Bóng đen di động chậm chạp ở nơi xa và khi tiến gần như lũ ma
ám, họ la lớn và bắt đầu chạy vào. Tim của Lê Hoạt đập hay bước chân người lính
Nguỵ, Hoạt hoa mắt vì trước mắt không phải một hình ảnh Mỹ quốc tàn bạo và đáng
ghét như lời tuyên truyền, trước mắt Lê Hoạt chỉ có những người Việt Nam, có
thể gầy hơn Hoạt, vác nặng hơn Hoạt, nhịp chạy làm ba lô trên lưng họ xê dịch
qua lại, hai ống chân mỏng manh tìm kiếm vất vả như chân con bò chạy vòng tròn
quanh chiếc cột sau nhát búa giữa đỉnh đầu… Tiếng súng nổ bên phải, khẩu B40
bên trái bắn liên tiếp hai quả… Người lính khựng lại, hắn ngã xuống, ba lô nằm
nhú lên trên nền cát, ba lô có con vịt, con vật thò đầu ra khỏi lỗ thủng kêu
ngu ngơ trăn trối. Cái mỏ đen của con vật hiện rõ trên nền trời, con vật xoay
đầu bên trái, bên phải nhưng thân hình bị cột cứng trong lòng ba lô, cuối cùng
cố gắng, một cái cánh được nhú lên. Chiếc cánh cụt ngủn tha thiết quẫy mạnh trên
bầu trời đỏ lửa. Hoạt bấm cò khẩu Thượng liên, đạn ghim vào cát ướt, đạn ghim
vào ba lô, ghim vào thân thể người lính đã chết, ghim vào con vật nhỏ bé đang
giẫy giụa cố rút chiếc cánh còn lại. Hai cánh vịt làm sao chịu đựng được sức
công phá đỏ au nhức buốt của hàng chục viên đạn. Người lính và con vật chết
thật xứng đáng, chẳng nên ngậm ngùi. Lê Hoạt bấm cò liên tiếp vào những bóng
người xuất hiện qua lỗ hổng căn hầm. Tiếng nổ và hơi thuốc súng đốt cháy trí
não, Hoạt không nhìn thấy mặt những người bị nhắm vào, Hoạt bắn vào những bóng
đen trên nền cát.
"Đấy, cây Thượng liên ở dưới gốc tre, mày bò lại tìm miệng
hầm, ném lựu đạn xuống không cần bắt sống. Trung đội bị kẹt chỉ vì thằng con c…
này". Gã khinh binh theo lời Minh bò lại chỗ bụi tre. Đúng thật, ông Trung
uý nói thật đúng. Gã khinh binh nhủ thầm. Trước mắt nó một đường hầm sâu xuống
đen thẳm. Gã rút chốt lựu đạn, thả trái phá tiếp tục lăn cọc cạch trong bóng
tối và một tiếng nổ bùng rung chuyển mặt đất…
Lê Hoạt úp mặt vào lỗ hổng nhìn ra xa, biển ở sau vùng cát
trắng, biển xám đặc bọt trắng. Chưa bao giờ Hoạt nhìn biển lâu như thế, không
phải không có dịp, nhưng trong trí óc khản đặc của anh thợ may, biển chỉ là lớp
nước xanh xôn xao mặn chát không ích lợi. Sáng hôm nay Lê Hoạt phải ngồi đối
diện với biển, chợt khám phá ra vẻ quen thuộc đã bao nhiêu lâu gần kề. Hoạt
thấy mình như sống lại trong khung cảnh bình yên của quê nhà. Hoạt nghe tiếng
sóng rì rào, nghe gió lọt qua rặng phi lao gây âm thanh dịu dàng, âm thanh của
ngày mới lớn. Thời gian đã qua thật lâu tưởng như không bao giờ nhớ lại được…
Nhưng sáng nay trong phút giây căng thẳng, đầy tiếng động, những người chết nằm
trên cồn cát, những người bị thương trăn trở, lượng máu đỏ thấm sâu qua cát từ
những vết thương do viên đạn của Hoạt gây nên, Hoạt nhìn thấy biển, cùng với
cái cảm giác lạ lùng khi chợt khám phá thêm khả năng giết người của mình, Hoạt
sợ hãi thảng thốt khả năng ma quái cay độc này. Hình ảnh vinh quang khi bước
chân vào thành phố Huế nhạt nhoà như lỗ kim nhỏ chợt mờ mịt sau cái chớp mắt
đầy mệt mỏi.
Lính Nguỵ đã bò ra xa tầm đạn. Họ đánh vào phía trái hay phải,
Hoạt không biết, người liên lạc chưa nhận được lệnh mới. Những biến chuyển về
trận đánh ngoài căn hầm, Hoạt không theo dõi được, trước mặt chỉ có lớp sóng
biển thay đổi hoài hoài, bọt trắng ùn ùn kéo ra xa…
Trong im lặng, Hoạt nghe tiếng động sau lưng. "Cái gì
đấy?" Không trả lời. Tiếng động khô khan của vật tròn lăn trên nền đất.
Trí não Hoạt bỗng giãn ra. Ngọn đèn được kéo bấc lên hết cỡ. Trong sáng suốt
đau nhói Hoạt nghĩ đến hai chữ "lựu đạn". Cùng lúc với ý nghĩ, tiếng
nổ bùng lên. Luồng ánh sáng chớp lòe, Hoạt thấy được tám đôi mắt khiếp đảm của
bốn tổ viên, tám đôi mắt bốc lửa khi tiếng thét chưa kịp mở. Ánh chớp tắt, Hoạt
ngã xuống, hai bàn tay vừa kịp ôm lấy ngực nơi có tấm giấy khen của Hợp tác xã
may cắt Sao Vàng in hình Hồ chủ tịch.
Xác Lê Hoạt cùng bốn tổ viên được kéo lên khỏi hầm. Sau tiếng nổ
chói chang, Hoạt biết mình ngã xuống và ngất đi, nhưng khi bị kéo ngược ra khỏi
hầm, Hoạt tỉnh hẳn, tỉnh táo để biết mình bị thương nặng, máu từ thân thể chảy
ra, không phải từng giọt mà từng dòng, từng khối, Hoạt cảm thấy rõ rệt có bàn
tay bóp lấy hơi thở và cơn tức dâng cao, cao từng bậc có chiều dài, chiều sâu
đè Hoạt lún lần xuống. Hoạt biết mình nằm trên cỏ ướt, mặt trời chiếu sáng lên
mặt, chung quanh người nói lao xao, những giọng nói Việt Nam, Bắc, Trung, có
giọng nói thanh hơn giọng Quảng, chắc là người Sài Gòn. Tất cả người ở miền Nam
đều được gọi là Sài Gòn, người của miền đất phì nhiêu, nơi cá đầy đồng, chỉ cần
mang chiếc rổ xuống ngồi ở bờ ao cũng đủ thức ăn cho một ngày. Những người Sài
Gòn sung sướng là đây. Hoạt muốn mở mắt ra nhìn nhưng nắng chói quá, chỉ còn
chút sức lực đủ để lắng tai nghe. "Lục túi mấy thằng cha này coi". Có
bàn tay luồn vào ngực áo, hình như Hoạt bị thương ở đấy vì khi bàn tay chạm
phải, Hoạt cảm thấy trong thớ thịt những mảnh kim loại nóng hổi, sắc nhọn xao
động.
Minh nhìn vào xác người thợ may, gã đàn ông chỉ còn hơi thở tàn
tạ, mảnh lựu đạn xuyên lỗ chỗ trên thân thể, phần áo ở lưng rách nát máu sẫm đỏ
bê bết đất cát, chiếc quần cộc mở tênh hênh bày ra cái vật người đen đúa nhão
nhoẹt. Gã nhà quê này là kẻ thù của mình? Gã đàn ông đang thiêm thiếp trong cơn
hấp hối, khuôn mặt nặng nề khờ khạo, tóc đen khô cứng chổng ngược rối tung bày
ra một vầng trán ngắn hai nếp sâu hằn xuống vụng về. Bác thợ may Lê Hoạt ba
mươi tám tuổi, người Quảng Bình này là nguyên nhân chính đã bẻ gãy mũi dùi thế
công của Nguyễn Khoa Minh? Minh nhớ đến người làm vườn ở nhà, cũng cỡ người và
khuôn mặt này, loại người chỉ biết mài con dao thật sắc để chọc tiết heo dễ
dàng trong buổi chiều hai mươi chín Tết, những người gọi mẹ Minh bằng bà Phán
và gọi Minh bằng cậu, khả năng chỉ có thể phân biệt cây gạo hay cây mù u, hay
tinh xảo hơn biết thêu đôi bướm bay trước hai chữ "Hạnh phúc" trên
mặt gối bằng những sợi màu sắc xanh đỏ ngây ngô. Mặt gối này sẽ được bán trong
một phiên chợ thôn quê đổi lấy tiền mua cặp kính nhựa màu nâu… Những loại người
này là kẻ thù của Minh? Những người như bác thợ may này là vật cản lối trên con
đường công danh, đã làm Minh lạnh cóng tay trong nửa giờ trước đây?
"Trung uý. Gã mang máy truyền tin đến gần Minh. Ở trên Tiểu
đoàn bảo mình báo cáo tổn thất, em nghe Đại đội 3 lấy được súng cối mà chỉ có
hai chết… Trung đội mình bị nặng quá, ông Chuẩn uý bị nặng chắc không sống
nổi…"
"Tao biết, mất năm con với một Trung đội trưởng, không khá
chút nào hết. Minh cầm máy liên lạc với Tiểu đoàn trưởng: "Thiên sơn đây
Minh mạng()".
"Minh mạng đợi tôi một chút, tôi đang nói chuyện với thằng
Ba (Đại đội 3)". Minh nghe qua máy giọng nói hân hoan của Tiểu đoàn
trưởng: "Lạc long() đấy hả, tốt, toa số dách, toa đánh như vậy tụi nó chỉ
mang cụ Hồ về Bắc thôi. Ông Đại bàng lát nữa sẽ xuống ở chỗ toa". Lạc trả
lời lại với giọng cười mở đầu. Tiếng nói của Trung uý Vũ Văn Lạc, Đại đội
trưởng Đại đội 3 Tiểu đoàn 19 Nhảy dù nghe hân hoan phấn khởi khác với giọng
nói khề khà mệt nhọc của một Vũ Văn Lạc ba mươi sáu tuổi, vợ năm con. Lạc hay
gọi dễ dàng quen thuộc hơn, Cai Lạc cựu Commando hổ xám của những năm 50, vừa
nhận được thơ của vợ nhắc nhở chuyện xin đổi qua ngành không tác chiến, thơ
cũng nhắc nhở đến việc mua hàng quân tiếp vụ nhiều hơn cổ phần sẵn có… Nhưng
tất cả đã thuộc về quá khứ, bây giờ chỉ có giọng nói chững chạc của Trung uý Vũ
Văn Lạc trong máy: "Trình Đích thân…" Minh nhủ thầm: "Lính già
ăn nói có kiểu cách riêng của nó, ở ngay chốn đánh nhau tơi bời nó vẫn không
quên thưa gởi".
"Trình đích thân() tôi đã có làm Trung đội trưởng cho ông
Đại bàng trong suốt năm 1960". Minh cười thầm vì chữ "suốt".
Giọng Lạc tiếp tục vững chắc hân hoan: "Trình Đích thân, nói tên tôi với
ông ấy thì ông biết ngay". Lính già tự tin đúng chỗ và đúng lúc, chẳng ai
chê trách được. Minh gật gù đầu nhận xét từng câu đối thoại của Lạc với Tiểu
đoàn trưởng. Tiểu đoàn trưởng oang oang trả lời: "Ô kê, moa sẽ nói tên toa
cho ông ấy hay trước. Đồng thời nói trước toa mừng, gì moa cũng kiếm cho toa
cái thực thụ, đồng ý?"
"Vâng, cám ơn Đích thân trước, kính Đích thân, dứt".
Cuộc nói chuyện chấm dứt. Minh nghe trong đầu vẫn còn vang động
âm thanh sáng khoái chắc nịch của Lạc.
"Minh mạng đây Thiên sơn". Tiểu đoàn trưởng xoay qua
nói chuyện với Minh.
"Dạ, tôi nghe".
- Toa coi lại thằng 1 (Trung đội 1) của toa đi, nó bết quá… Toa
xui rồi. Sao chẳng lựa thằng khác, lại cho thằng Ánh vào ngay chính diện".
"Vâng, tôi nghe rõ". Minh bỏ máy xuống, Minh chẳng rõ
được điều gì. Chính diện, diện nào chính yếu sau luỹ tre xanh dày đặc lúc súng
chưa nổ, làm sao Minh biết Chuẩn uý Ánh sáng nay nổi hạch hột xoài nên không
thể điều động nhanh nhẹn Trung đội được. Làm sao Minh biết được tên chỉ huy tổ
Thượng liên chỉ là một gã thợ may ba mươi tám tuổi có bằng khen thưởng vì đã sử
dụng kéo nhanh, sử dụng kim tốt đã đạt được ưu điểm sản xuất do Hợp tác xã cắt
may Sao Vàng đề xướng, gã thợ may ngu ngốc ngớ ngẩn không biết rút lui khi Tiểu
đoàn đã bị đánh tan nát ở cánh phải. Chắc chắn đây là trận đầu tiên và cũng là
cuối cùng của bác thợ may Lê Hoạt ở một chốn xa xăm với quê hương Quảng Bình
không bao giờ trở lại. "Trung uý, thằng Việt Cộng cứ hấp hối hoài chắc nó
đau lắm, em thấy mặt nó nhăn tréo". "Ừ, một viên để nó đi cho ngon,
đỡ đau đớn". "Dạ". Súng nổ. Bác thợ may Lê Hoạt giẫy người lên
lần chót. "Trung uý, ông Chuẩn uý Ánh chết khi lên trực thăng". Minh
nhìn khẩu Thượng liên bị gãy báng bên cạnh thây gã thợ may, khẩu súng đã đưa
đến cái chết của hai người. Một gã trẻ tuổi Chuẩn uý mắc bệnh hột xoài và gã
thợ may ba mươi tám tuổi.
Thuấn đi hết khu vực phòng thủ của Đại đội, trở về chỗ đóng quân
của ban chỉ huy. "Có gì ăn tối nay không Thiên?" "Có gà và chai
rượu. Gà bắt được, dân chúng chạy đâu hết trơn, rượu ông Trung sĩ tiền trạm gởi
theo chuyến tải thương hồi chiều vào". "Gà của dân mày ơi, ăn sao
vô". "Không có, gà chạy hoang, mình không bắt đứa khác cũng bắt, đụng
mà Đại uý, tụi Việt Cộng đóng đây cũng cỡ một Tiểu đoàn". "Mày lúc
này giỏi rồi, biết ước đoán địch tình và bắt gà nhanh như chớp, mày là lính cũ
rồi Thiên hử?" "Dạ". Lính cũ, một thứ vũ khí đã dậy men máu, vũ
khí im lìm sắc nước, dễ sử dụng. Lính cũ, như khẩu súng đã được điều chỉnh,
thoa dầu vào đủ các trục hay ressort, sẵn sàng bắn ra viên đạn đến mục tiêu
không sai trật. Binh nhất Thiên của hai năm trước thì khác, hai năm trước chỉ
biết khóc trong buổi tối vì nhớ nhà, khóc vì thấy đồng bạn chết thê thảm đột
ngột, khóc khi thấy người dân bị lùa lên trực thăng khi về quận xét lại thành
phần. Thành phần của người dân trong thời chiến được định nghĩa: Thành phần
giết được người hay bị người giết. Nhưng Hồ Thiên của sau hai năm lính thì đã
khác, biết ước tính tình hình đơn vị địch, biết lý luận: "Làng có Việt cộng,
dân bỏ đi, có quyền hưởng thụ những vật còn lại". Sau hai năm để biết
rằng: "Nếu không ăn thịt gà, chốc nữa biết đâu trở nên con ma thèm khát,
bó tấm poncho bằng hai đoạn băng trắng". Thiên, lính cũ, tức là người lính
đã biết mình sắp sửa để chết và bao tử làm việc nhiều hơn quả tim hay trí não.
Người lính cũ nào cũng thế.
"Mày qua mời Trung uý Minh qua đây".
"Dạ".
Bữa rượu diễn ra dưới ánh đèn mù mịt trong căn nhà lạnh tanh,
bàn thờ Phật yên lặng. Có lẽ Phật đang trầm tư về cảnh khổ hiện thực đầy dẫy
tính cách vô lý đang diễn ra. Có định mệnh kỳ quái nào để kết hợp một anh sĩ
quan hai mươi lăm tuổi, anh thợ may ba mươi tám, gã phi công Mỹ trên trời cao,
ông chủ nhà bảy mươi hai tuổi chưa hề thấy cục nước đá. Định mệnh nào đã kết
hợp những con người xa lại kỳ quái đó với trái bom sản xuất ở Philadelphia, đôi
giầy được phát ở Fort Benning ấn trên cầu thả bom trong giây phút ngắn ngủi bọt
bèo lúc ban chiều để tạo thành một loại khổ không căn nguyên, vô luân hồi. Khổ
không khởi đầu, không chu kỳ chấm dứt. Phật trầm tư vì hai nghìn rưởi năm cách
biệt và Ấn Độ quá xa lạ, Phật cũng đâu tiên đoán được quả bom sẽ xuất hiện như
dấu tích văn minh khốn nạn cho con người, Phật cũng nên ngạc nhiên vì ông lão
chủ căn nhà, căn nhà cháy hết một nửa ở mé bên trái, ngồi ở phía phải nhìn lên
thấy bầu trời xanh đen lấm chấm những ngôi sao, tay nâng ly rượu của Thuấn.
"Cha, cái rượu chi hắn ngon lạ ngon lùng, cả đời
"ôn" chưa khi mô uống được "en" ơi, buồn chi mà buồn, trái
bom hắn như ông thiên lôi rớt xuống cái rầm, "ôn" với hai thằng cháu
đang lớ quớ chưa xuống hầm mà khôn can chi hết. Thôi lạy Phật mớ bái, khôn can
chi cả là mờn() rồi".
Phật phải ngạc nhiên vì được cảm tạ, phải ngạc nhiên vì giọng
ông lão tỉnh táo đến ngang ngược. Đức vô uý lạc quan nào trong thân thể gầy gò
chỉ còn một lớp da nhăn khô bao lấy bộ xương chỏng chơ. Thuấn cũng ngạc nhiên.
"Ông già uống với cháu thêm ly nữa".
"Đa tạ, đa tạ, ôn Đại uý mời thì tôi xin phép, chà hôm nào
hai thằng cháu lớn tui cũng cho tui "hén" đi lính, đi lính đóng lon
to như ôn Đại uý thì mấy hồi chẳng xây lại được cái nhà. Thôi, của đi thay
người, cám ơn Trời Phật!"
Ông lão ngửa cổ uống một hơi hết ly rượu. Hai đứa cháu đứng nhìn
ông nội đang uống cạn niềm hân hoan cay đắng vì sống sót, nhìn Thuấn, tương lai
ao ước của một tấm lòng hắt hiu đang được đốt cháy gượng gạo bởi thứ rượu ngoại
quốc, rượu cùng xuất xứ với trái bom rớt xuống ban chiều. Phật ngạc nhiên vì
tai hoạ và hạnh phúc cùng một nhãn hiệu. Chiến tranh giúp một ông già tầm
thường phút chốc nhận chân được hết căn bản sắc không suốt một đời suy nghĩ của
đầu óc ngoại hạng, chiến tranh đang biến người Việt Nam thành loại Phật tội
nghiệp hân hoan trong Niết Bàn giới hạn qua hơi men mùi lúa mì.
"Ông già tay tổ, uống nữa đi ông ơi, uống đi để mừng được
sống sót sau quả bom như ông thiên… thiên lôi". Thuấn rót thêm rượu cho
ông lão.
"Uống cha, sao không uống, ôn chưa muốn chết thì chết răng
đặng, ba bốn trận giặc trước tê chưa chết, lúc ni chết thì Trời Phật đi khỏi
hết sao, rót nữa cho tui… Rót nữa cho tui, à uống đi ông Trung uý, răng mà ngồi
rầu rĩ rứa, ông Đại uý nói ông Trung uý uống nữa đi, cha có chi mà buồn, coi
tui đây, nhà cửa cháy một nửa cũng vui như ai".
Thuấn đưa mắt nhìn Minh đang ngồi im lặng trước ly rượu:
"Uống đi em, không lẽ bị sếp chê rồi em bỏ rượu sao!" Minh không trả
lời, cầm lấy ly.
"Mở miệng một chút đi em, rượu vào lời ra cớ sao em lại… Cớ
sao, cớ sao em buồn, em ơi!" Thuấn gõ đũa vào thành chén, tiếng kêu boong
boong sắc lạnh.
Minh nhếch miệng cười:
"Cố vui không được, cứ thấy tức ngang người, lại thêm một
thằng Trung đội trưởng chết nữa, tao xui rồi, ông Tá nói đúng".
"Ở đây không có ông Tá ông Tướng nào hết, cứ nghĩ hồi sáng
này ăn một viên đạn thì giờ này ra sao? Sống được đã khá rồi con ơi, đừng lo
thành công hay thất bại rồi đâm ra hụt cẳng".
"Tao đâu nghĩ thế", Minh muốn giải thích nhưng hình
như tiếng nói không đủ, làm sao Thuấn biết được cảm giác xao động âm ỉ khi Minh
nghe lời đối thoại hân hoan giữa Lạc và Tiểu đoàn trưởng, cảm giác tròng trành
thiếu hụt khi nghe câu từ chối: "Minh mạng đợi đó, để tôi nói chuyện với
Lạc long". Chút khinh khi nhẹ nhàng như khói bếp bốc lên trong trời mù.
Minh đứng dậy, bước ra nhìn lên trời. Trời trong, sao lấp lánh, trăng thượng
tuần nhợt nhạt, tiếng sóng rì rầm ở xa xa. Minh ngửi thấy mùi lạ, mùi của lá
tre ẩm mốc dưới bờ ao, thứ hơi hám âm ỉ nhưng nồng nàn chát đắng như từ một
thân thể đẫm ướt dục tình. Minh linh cảm thấy giữa mùi vị lạ lùng đó với mình
có một khăng khít xưa cũ được cất giấu bao lâu nay chợt thấy giữa mùi vị lạ
lùng đó với mình có một khăng khít xưa cũ được cất giấu bao lâu nay chợt thấy
như khi nhìn tấm ảnh đã mất hết vẻ quen thuộc của thời thơ ấu. Trong nhà vang
tiếng cười sảng khoái của Thuấn và ông già, chợt Minh khó chịu như đang soi
gương trong phòng vắng thấy được cái mụn đỏ nổi trên mặt. Ở một nơi nào đó chắc
Lạc với Tiểu đoàn trưởng cũng đang có những tiếng cười vui như thế này. Minh
châm điếu thuốc bước vào. Cuộc rượu đã đi đến chỗ đậm đà, Thuấn ôm lấy cổ ông
già.
"Ôn ơi là ôn ơi, ôn uống nữa đi ôn, ôn chịu chơi, ôn tay
tổ, uống, uống…" Thuấn kê ly rượu vào miệng ông lão, tay kia đỡ lấy chiếc
cổ nhăn nheo:
"Cha răng lại không uống, nam vô tửu như kỳ vô phong, một
giọt rượu là một giọt máu, đổ ra thì uổng biết mấy… Thả tay, ôn uống từ từ,
uống để mà quên chứ en ơi!" Hai đứa bé ngồi dựa cột nhìn ông nội uống rượu
với người lính. Hai đứa bé nhìn với ước muốn trở thành ông Đại uý Nhảy dù từ
Sài Gòn đến đây, làng Phùng Trung, quận Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, đến với
dấu tích văn minh có đủ trên người, này điếu thuốc lá Mỹ, này hộp quẹt gaz,
chai rượu cũng có một cái nhãn in hình một ông Mỹ đang đi…
Ông lão bắt đầu say, giọt nước mắt muộn màng long lanh trên viền
mi sẫm đỏ mệt nhọc chảy xuống đôi má nhăn nheo.
"Này ôn Đại uý ơi, nhà cháy rồi làm sao sửa được hè?"
Thuấn ngừng uống, đặt ly rượu xuống, thò tay vào túi móc bao
thuốc, điếu thuốc được đốt lên khó khăn… "Hết cái hỏi rồi sao ông
già?"
"Biết, biết hỏi chi đây, cơ nghiệp cả đời tui mới có được
cái nhà, cày ruộng từ lúc tui còn chút xíu, chao ơi tui chắt bóp dành dụm cả
gần bốn mươi năm mới làm được, cái bộ rui mè ni mua được hồi đảo chánh Nhật, bộ
cửa lá sách mua từ ngoài Huế lúc ôn vua Bảo Đại về nước… Ôn Đại uý ơi, làm răng
mà sắm lại được "en" ơi?"
Giọt nước mắt không cưỡng nổi, chảy xuống, giọt nước mắt già cay
đắng tưởng như chừng đã khô héo biết bao nhiêu năm nay tuôn tràn từ đôi mắt đỏ
ửng. Lớp tro nóng âm ỉ khói leo lét một vài tia lửa nhỏ khi gió thổi qua. Hai
đứa bé thấy ông lão khóc, chúng nhào tới, những tiếng khóc mạnh khoẻ thoả thuê
vang theo tiếng nấc nghẹn tức tưởi của ông già. Ông lão giơ tay lên lau mắt…
"Ôn Đại uý ơi…" Chiếc ly bị đụng lăn xuống, tiếng động khô nhọn lăn
lóc nghe đau đau như lưỡi dao từ từ rút ra khỏi thớ thịt. Thuấn liếc qua Minh,
điếu thuốc lóe sáng ở đầu môi, Minh cúi gầm trên ly rượu, ánh trăng theo phần
vỡ của mái nhà rọi xuống lóng lánh trong lòng ly. Minh ngửa cổ dốc trọn cả một
trời mù tịt vào người. Tiếng khóc của ba ông cháu khó nhọc rối tung vào nhau.
Thuấn lóng cóng tìm lấy cổ chai rượu… "Ông ơi, thôi gắng thêm một ly nữa
rồi đi ngủ".
"Nhà ơi là cửa ơi, ôn bà cha mẹ Trời Phật ơi. Thôi cám ơn
ôn Đại uý". Trong cơn say đau đớn, ông già vẫn không quên gã trẻ tuổi ngồi
trước mặt là một ông quan thật lớn. Ông quan lớn nhất trong ý niệm và lần đầu
tiên ông lão được uống rượu cùng.
"Gắng uống ông già". Thuấn đưa tay ra trong bóng tối.
Tay Thuấn chạm phải tay ông lão, một bàn tay lạnh buốt. Bàn tay của người già,
bàn tay chết nhưng quả tim vẫn còn đau đớn chất đầy. Quả tim, vật mệt mỏi tội
nghiệp nhất của người.
CHƯƠNG 3
Đại đức Trí Không đưa tay vẫy giã từ, người
người lính trên xe vẫy tay lại. "Đi nghe thầy, hết hành quân chúng tôi về
đây lại…" "A Di Đà Phật". Đại đức Trí Không chấp tay trước ngực,
mồm lẩm bẩm tụng câu kinh ngắn. Người cửa Phật rưng rưng trong lòng, niềm xúc
động thâm trầm. "A Di Đà Phật, cứu khổ cứu nạn đại từ đại bi Quan Thế Âm
Bồ Tát". Đại đức thầm kêu gọi sự độ trì của Bồ Tát cho đoàn người gươm đao
bắt đầu khuất sau lưng đồi, bụi đỏ tung mù trong rừng dương xanh ngắt, tiếng
động của đoàn xe mất hút, cõi phàm trần còn lại trên rác rưởi ngổn ngang góc
sân chùa, chút bụi đỏ bám trên phiến lá. Đám lính đi, trả lại sự yên tĩnh cho
nhà chùa. Đại đức nghe được tiếng gió luồn qua khe lá dương liễu, và bóng núi
lung linh sau ánh nắng hanh vàng của ngày đông chí. Trời rét hanh nồng nồng như
dư âm ồn ào của đoàn người để lại. Đại đức Trí Không cầm cái chổi, nhìn qua khu
sân rộng mênh mông một lần, hơi cúi mặt xuống đất, chiếc lưng vẫn giữ nguyên
chiều thẳng cây chổi tre xiết mạnh trên nền đất nghe êm ả nhẹ nhàng. Bụi mỏng
bay lên, bóng người tu hành bềnh bồng như pha sương.
Chùa Từ Tôn nằm dựa lưng sườn núi, khoảng sân
rộng mênh mông viền một vòng đai xanh ngắt bởi thông và dương liễu, chìm khuất
trong tịch mịch của vòm cây, bực đá tam cấp màu trắng vạch một đường ngăn đôi
giữa khoảng sân màu vàng đất núi cùng với khối kiến trúc u trầm nâu sẫm. Đại
đức Trí Không ngồi trên bực tam cấp nhìn ra khoảng sân phủ lớp bụi mỏng mờ
nhạt, dấu chổi vạch lên mặt đất từng đường xoắn ốc đều đều. Mấy người lính chắc
giờ này đã tới phi trường. Mai người ta đi bằng trực thăng vào nơi đánh nhau,
tội nghiệp trong đám người tươi trẻ ồn ào kia, thế nào ngày mai cũng có người
chết. Thượng toạ trụ trì đã bao nhiêu lần nhắc nhở: "Người tu hành tốt
nhất luôn phải giữ cái tâm cho tĩnh, cái tâm cũng giống như cái trục bánh xe,
bánh xe là đời ảo giác hư không bên ngoài, tâm người tu chứng phải bỏ vọng ý,
trước sau như nhất, phải tĩnh mịch tuyệt đối như cái trục…" Thấy đã nhắc
nhở hằng bao lần như thế để giúp Đại đức gạt bỏ những giờ phút khó khăn như bây
giờ. Lòng của người đi tu trẻ nổi lên những phong ba âm thầm, không phải đau
xót, êm ả để từ đó hướng lòng vào nơi giải thoát, nhưng là những đớn đau có so
sánh, đối nghịch đầy tiếng động của nỗi phản kháng bị nén lại. Tội nghiệp, thế
nào ngày mai cũng có người chết. Những người lính Nhảy dù dễ thương nói tiếng
Bắc, tiếng Nam, một số ít nói tiếng Huế. Có người lính già thật tội từ nước da
đen nắng, đen vì nắng đã luồn qua da đốt cháy phần thịt, nhiễm sâu vào máu,
chắc hẳn lượng máu trong người cũng bốc khói, cũng pha sương, lấm bùn. Ông thầy
ơi, tôi đi 20 năm lính rồi đó. Hai mươi năm lính! Người tu hành thấy nhói lên
trong lòng cơn xúc động. Đâu cần phải có cái nhìn của người đi tu mới biết được
nỗi khổ của đời sống. Hai mươi năm đeo hoài một gánh nặng cồng kềnh trên lưng,
gánh nặng có mùi thức ăn của nước mắm, củ cải héo úa, áo quần thấm bùn ẩm ướt,
hai mươi năm ngả mình bất kỳ nơi nào có đủ chỗ cho một chiếc lưng, cành cây, bờ
cỏ, gộp đá. Tội biết mấy hở trời. Chiếc lưng gầy gò, nhô lên hai xương vai, lớp
da mỏng mốc đen u ám… "Tôi ngủ đâu cũng được, thầy cho tôi mượn ít rơm lót
nằm, hôm nào đi tôi trả lại thầy…" A Di Đà Phật, chùa không nhiều nhưng ai
nỡ từ chối cho người lính chút rơm để ngả xuống cái lưng lầm than mang từ một
tỉnh ở ngoài Bắc xa xôi, tấm lưng đã dựng đứng theo chiều dài của đất nước này
trong hai mươi năm. Ở chánh điện có tấm hình chiếc cầu địa ngục dưới chân cầu
lúc nhúc một đám nhân loại đang kêu van, đất nước này giống như chiếc cầu đó,
có điểm khác là chân cầu gồm những chiếc lưng trần không lời rên rỉ… Hai mươi
năm, thời gian hút hình khối, mò mẫm được trên tay nỗi khổ triền miên mà, Phật
đã một lần suy nghiệm qua những cửa thành lầm than.
Các ngươi là Phật sẽ thành. Nghiệm được về sự
khổ là thành Phật! Người lính hai mươi năm đau đớn kia đã xoá tan sự chứng
nghiệm, họ đồng hoá sự khổ cùng đời sống một cách tích cực, chấp nhận không
phản đối, họ mang nỗi khổ trên lưng không than van, như kẻ gù bẩm sinh giữa một
thế giới đồng loại gù… Họ là gì ở trong thái độ can đảm cao ngất đó?
Có tiếng chuông bắt đầu buổi tụng kinh chiều,
giọng hai chú tiểu buồn nản khê nồng từ chánh điện theo khe hở vang vọng ra
khoảng sân. Đi tu là diệt hết thất tình, ra ngoài sự buồn vui… Nhưng ngồi trong
buổi chiều ráng nắng đỏ, trước cổng chùa thung lũng im lặng bốc sương lam, rừng
cây xanh vật vờ sương trắng như linh hồn xa xứ nương theo giờ phút giao thừa
của âm dương phân khắc cố kết thành hình khối đi về trần thế, sau lưng vang
tiếng chuông thê thiết, tiếng trống ngậm ngùi xen lẫn với độ cao đau đớn của
chiếc khánh, nghe khánh reo trong buổi chiều sẫm bóng núi mới biết được lòng
không bao giờ có được bình yên. Khánh báo hiệu niềm hoan lạc. Khánh là vui
sướng hân hoan… Nhưng trong bóng chiều thẫm, âm thanh từ chiếc khánh đá vang
động như lời than của núi ngàn năm kết tụ. Lời than lạnh buốt níu kéo lăn lóc
trong hư không như lưỡi dao gõ xuống một đỉnh đầu ngơ ngác… Nhịp nhàng trong
thế giới âm thanh nhức buốt, giọng hai đứa trẻ ngúc ngắc giẫy giụa theo câu
kinh tiếng Phạn thăm thẳm bí ẩn và thống thiết. Trong tiếng tụng kinh của thầy
trụ trì, người ta nghe được âm thanh lắng đọng của tâm hồn tĩnh mịch, hồn hết
băn khoăn, xoá tan phiền muộn, âm thanh của người đã đi hết quãng đời xao
xuyến, tiếng tụng kinh êm đềm như hơi thở nhẹ của người chết hân hoan đón đợi
chuyến đi dài. Nhưng giọng của Đại đức thì khác, đây là những âm thanh chưa
tròn, những tiếng nói còn mang nỗi ao ước, niềm xúc động, đây là những âm thanh
của những người trên con đường vừa khởi cuộc với rất nhiều ham mê nhưng đồng
thời thấy trước mặt một chuỗi buồn phiền. Tiếng Đại đức đau đớn như lòng yêu
đời bị chặt đứt trong giây phút ngất cao thiết tha. Đại đức Trí Không muốn dứt
ra khỏi điều phiền muộn, nhưng tiếng chuông mang nỗi buồn người tu hành tản mát
đi xa. Cái buồn đã có đời sống riêng của nó, y lực của Đạo giáo không kìm nỗi
cánh tay phóng lãng. Tiếng chuông chấm dứt, đến giờ ăn cơm chiều, nhà sư đi về
phía bếp, bóng lênh khênh đổ dài giống như hình ông tiên qua biển. Đại đức cũng
đi qua một bể buồn phiền.
Mâm cơm dọn trên bộ ngựa gỗ, thớ gỗ đen sỉn có
mùi mốc. Hơn sáu mươi năm rồi đó, từ lúc có chùa này, từ lúc tui bằng thằng
tiểu Tâm. Thầy trụ trì đã nói như vậy. Bây giờ thầy đã già, bảy mươi chín tuổi,
da nhăn lốm đốm chấm đồi mồi, thầy ăn mỗi ngày một lần, hai mươi năm không tắm.
Hình như cơ thể đó đã hết hoạt động, chỉ còn một chút trí não thoi thóp sau
vầng trán cao lừng lững đè xuống đôi mắt nhắm kín triền miên… Thầy trụ trì
không còn biết đến đời sống, nhưng tấm ván của bộ ngựa gỗ vẫn phải chứng kiến
đời sống, phải mang hai mâm cơm trong ngày, phải đỡ chỗ ngồi của hai chú tiểu
Tâm, Tú, Đại đức Trí Không phải nghe những câu chuyện: "Thầy ơi, lính Nhảy
dù họ cho tiểu Tú hộp thịt".
"Không phải, hộp kẹo nha, không phải hộp
thịt, họ có cho tui hộp thịt nữa nhưng tui không lấy".
"Ừ, đừng lấy của người ta, họ cũng cực
lắm". Đại đức Trí Không nói hững hờ.
Hai chú tiểu cãi nhau vang căn phòng:
"Cái xe to là xe GMC, cái xe nhỏ là xe "rép", mi không biết chi
hết, hôm tui đi xuống Nam Giao họ có cho đi nhờ, xe hắn chạy mau chi lạ… chạy
mau như bay rứa đó".
"Thầy ơi, tiểu Tâm hay tới chỗ ông Trung
sĩ người Bắc để nghe ra-đi-ô, hắn hay nghe mấy bài hát có yêu yêu chi đó".
"Bậy hí. Đi tu ai lại nghe hát có
yêu". Đại đức Trí Không bật cười nhỏ. "Ê, răng thầy cười".
"Thầy cười vì tụi mi bá láp… nhỏ mà rắc
rối".
Thầy cũng có nghe những bài hát đó, những bài
hát trong đêm, lúc nửa đêm về sáng. Những bài hát nói về nỗi điêu linh của đất
nước, một cái chết tình cờ phi lý, chết như mơ, chết không có lời, dù đã chấp
thuận một chút thoả hiệp tạm bợ. Nhưng Đại đức nhớ rõ nhất là những bài ca do
một giọng hát cao vút xao xuyến nói về tình yêu và nỗi yên nghỉ cho con người …
"Suối mơ bên rừng thu vắng… Đàn ai đùa trong tiếng lá vàng tươi…"
Trong yên tĩnh trầm mặc, phảng phất không khí lãng đãng của tình yêu. Nỗi yên
ổn căn bản để người trở về yên nghỉ cuối đời chông chênh. Người tu đang ở trong
vùng không khí yên tĩnh, nhưng trong lòng vẫn linh cảm nỗi ngắn hạn của phút
giây trầm mặc này, thấy rõ những hạt nổ bứt rứt âm thầm đang chồng chất lên
cao. Chỉ là bình yên trước cơn địa chấn… Có tiếng động nổi lên dưới tấm ngựa…
"Hư, nằm im không bị đánh…" Tiếng
động giảm đi.
"Con Hư bị mấy người lính cho ăn đồ mặn,
nên lúc này nó xấu lắm".
"Thật không?"
"Dạ thưa thầy, con la hắn không chịu
nghe, hắn cứ theo mấy người lính nấu ăn cho ông Thiếu tá, nơi chỗ đó có nhiều
đồ ăn nhất…"
"Hư, Hư". Đại đức Trí Không búng hai
tay vào nhau. Con lợn từ dưới hầm chui ra, phe phẩy hai tai tiến gần bàn chân
Đại đức.
"Mi hư nghe không, tao cho tiểu Tâm kéo
ra sau vườn ngủ bây giờ, không cho mi ngủ trong nhà nữa…" Con vật hình như
hiểu được tiếng người, nằm phục xuống xếp hai tai vào đầu… Con vật cũng có lòng
ham muốn dù đã gần mười năm nghe tiếng chuông và không ngửi hơi mặn, nhưng
trong lòng, qua lớp tế bào tinh vi, nơi bắt đầu những hạt nhân phân tử vẫn có
xôn xao những thèm thuồng. Con vật mà, làm sao thoát nổi tánh di truyền siêu
vi, di truyền cột trụ để tồn tại… Người tu hành chợt thấy lòng chùng xuống.
Trong đêm khuya, giữa miền đồi núi, nước sông Hương trăn trở chuyển động nơi
xa…
"Tôi có thể lên ở trên chùa trong mấy
ngày Tết được không thầy?"
"Anh lên lúc nào cũng được, nhưng chùa
bây giờ đang có lính đóng sợ anh không vừa ý".
"Lính đóng trong chùa?"
"Lính Nhảy dù ở Sài Gòn ra, trước đóng
dưới Nam Giao, vừa dời lên chùa từ tháng trước, họ ở mấy ngọn đồi chung quanh,
trong chùa chỉ có bộ phận chỉ huy khoảng mấy trăm người".
"Chắc chùa ồn lắm?"
"Không đâu, mấy người lính truyền tin với
ông Thiếu tá chỉ huy nằm trước mái hiên nhà trai, còn tất cả ở chung quanh, với
lại họ rất kỷ luật".
"Nhưng dù sao lính tráng cũng ồn ào. Tôi
không thích đám đông, đoàn thể, sống gần người lạ tôi thấy khó chịu thế nào.
Thầy thấy đó, chỉ đến đây ghi cour, chứng chỉ Văn minh đâu có bao nhiêu người,
thế mà vừa bước vào phòng tôi đã khó chịu".
"Anh có vẻ khó tánh". Nhà sư nhìn
Bằng qua ý phê bình kín đáo.
Bằng không nói, rút thuốc lá xòe diêm hít hơi
khói dài. „À, mời thầy, tôi quên". Bằng chìa bao thuốc đến Đại đức Trí
Không.
"Dạ, cám ơn, trời lạnh quá, tôi cũng nên
hút một điếu cho ấm".
Cả hai người im lặng đứng tì vào cửa sổ nhìn
xuống đường. Mưa phùn loang ướt mặt nhựa sông Hương mờ hơi sương, người trên
cầu Tràng Tiền co ro bước vội vã…
"Trời mưa này thầy đi từ trên chùa xuống
đây chắc cực lắm".
"Không bao nhiêu, chỉ phiền ống quần bị
ướt, tội nghiệp mấy người lính, thấy họ đi hành quân về ướt như dội nước, lại
phải ngủ ngoài núi gió thổi lạnh như dao cắt…"
"Thầy có vẻ chú ý đến mấy người
lính?"
"Không phải, thì họ ở chung với tôi cả
tháng nay đâm ra quen biết nên nói đến". Người tu hành nói bằng giọng lơ
đãng vì thấy trong câu hỏi và ánh mắt Bằng có điều không vừa ý. Đại đức Trí
Không đoán biết. Nhưng vì tối hôm qua khi đám lính vừa đi hành quân về, gió
thổi kéo qua đồi, rừng thông nghe rờn rờn thê thiết, gió thổi mạnh đễn nỗi Đại
đức không nghe được tiếng máy xe nổ trước cổng chùa, mãi đến khi có bước chân
người và tiếng gõ cửa. Ông Trung sĩ thường vụ Tiểu đoàn chức tước nghe thật
rườm rà hiện ra trong vùng ánh sáng vàng đỏ.
"Thầy".
"Dạ, bác Trung sĩ…"
"Toán lính Nhảy dù có ông Chuẩn uý vừa
chết mới ra trường được hai mươi ngày".
Bằng im lặng hút thêm hơi thuốc. "Lạnh
quá, vào phòng thôi".
"Dạ". Đại đức cúi đầu đi theo sau
Bằng. Hai người trẻ tuổi cách nhau không đầy mười tuổi nhưng sao họ xa lạ với
nhau thế? Đại đức Trí Không nhớ đến khuôn mặt tròn, đầu tóc hơi ngắn của Chuẩn
uý Ánh và chiếc gáy phủ đầy tóc của Bằng, trước mặt Sài Gòn – Huế, chỉ ngàn cây
số. Hai người đó không chút lãng quên; họ chỉ có chung một tên gọi người Việt
Nam. Mẹ Việt Nam, các sinh viên ở đây thường nhắc nhở cái danh từ hàm xúc nhiều
ngây ngất đó trong các buổi sinh hoạt. Chuẩn uý Ánh, Trung sĩ Tròn có biết đến
Mẹ Việt Nam không? Đứa con nào chính gốc để hưởng phần gia tài tang thương, nếu
có?
Khi ngồi nghe bài giảng, Đại đức Trí Không đột
nhiên nghĩ đến hình ảnh: chiếc thúng bao la hỗn độn một vài cái trống đồng Đông
Sơn, cục đá mài hình lưỡi dao, bộ kinh Thuỷ xám, chiếc khánh, đầu tóc bù xù của
Bằng trên có chặn lại bởi một thây người chết – Chuẩn uý Ánh. Bà mẹ Việt Nam
đặt chiếc thúng đó đi lang thang trên quãng đường vắng ngắt, gió thổi cát bụi
bay mù.
Bằng đi ra cửa trước khi bài giảng chấm dứt
muốn tránh cảnh phải bắt tay, hỏi han những người cùng lớp, và rõ hơn là Đại
đức Trí Không. Suốt giờ vừa qua Bằng thấy lảng vảng trong đầu câu chuyện của
viên Chuẩn uý trẻ tuổi mới chết, trong giọng nói bình thản từ tốn của người tu
hành, Bằng thấy nỗi bi phẫn nén xuống. Bằng không thích được giãi bày với mối
tình cảm ác liệt đó. Bằng muốn ở ngoài… Vì chàng có một thế giới tối tăm níu
kéo đang đợi ở bên kia hai chiếc cầu.
Bằng đi qua cầu Trường Tiền, trời mưa, nước
sông đục gợn sóng nhỏ xôn xao, vẻ xôn xao của con lươn giẫy giụa trước khi
chết. Bằng đã đi qua chiếc cầu này bao nhiêu lần? Bằng chín tuổi, chín tuổi mù
mịt câm nín của thành phố Huế sau thời chiến tranh, đèn đường không có, nhịp
cầu gãy, đường Trần Hưng Đạo vắng hoe, bà già còng lưng mang túi bột mì bán giò
chả đi từ phía Thượng tứ xuống. "Giò chả… không…" Tiếng rao kéo dài
lê thê dật dờ những âm thanh ngúc ngắc nghẹt cứng. Bằng đã đi qua cầu trong
những năm mười ba, mười bốn tuổi, đầu đội nón cối trắng, chân mang dép ba ta
cao su, cúi khuôn mặt hồng hào trẻ thơ trên lan can của cây cầu nhìn đàn cá
đuối lội trong rêu, những thân rêu xanh ngắt chuyển động nhịp nhàng ve vẩy.
Bằng tưởng như ngửi được mùi rêu bí ẩn bốc lên từ mỗi hạt nước, nước trong vắt
chảy từ nguồn về. Nguồn, một nhánh nhỏ khuất xa chảy từ trong "rú",
từ phía lăng Gia Long, qua Bảng Lảng, Giả Viên đổ về đây… Bằng thấy trong dòng
nướcc vẻ êm đềm man dại của một nơi sơn lâm thẫm bóng. Chốn xa tít, mà tuổi
mười ba đã mong ước sẽ được một lần ngược con sông đi đến. Bằng sẽ đi bằng
chiếc thuyền con chỉ vừa một người ngồi, bơi hai tay chèo nhỏ, chuyển động phe
phẩy nhịp nhàng như hai vi cá. Bằng sẽ đến nguồn, đến "rú", úp mặt
xuống một khe nước trong, nghe được trong đó chuyển động ầm ì của rừng cây hay
tiếng hú của loài voi dưới bóng trăng dẫy dụa xanh ngắt. Nhưng Bằng chẳng bao
giờ đi được chuyến đi mong ước đó, rặng núi xanh đầu con sông xa khuất như một nơi
không cùng. Bằng chẳng đến được đầu con sông, để hằng ngày, hằng ngày của một
năm ba mươi tuổi đi trên dòng nướcc cuối con sông, nước đã nóng, đục và dơ vì
chảy qua thành phố, chảy qua căn cứ Mỹ ở Bạch Hổ, Kim Long, Văn Thánh. Văn
Thánh mất vẻ trong vắt mát mẻ của ghè đã thẫm rêu u tịch như tiếng chuông Linh
Mụ lúc thu không bay là đà trên sóng nhỏ. Chỉ còn lại bây giờ, Bằng ba mươi
tuổi và dòng sôngg đục ngầu đất đỏ của núi vùng Bảng Lảng bị phá vỡ cuốn trôi
theo, Bằng đi trên phần nước phủ mưa bay lạnh kín.
Bằng đi qua cầu Gia Hội, cầu ngắn, chỉ cần
bước một trăm bước, xuống chiếc dốc, đi vào con đường hẻm ngang hai mươi thước
và đến nhà. Đường đi về một địa ngục lặng lẽ. Mở cửa buồng, bước vào đặt chồng
sách lên bàn, ngồi xuống, đôi vớ ẩm ướt có lỗ thủng, nước theo kẽ hở của đế
giày thấm vào. Đôi giày cũ, vớ cũ màu đen có chạy một đường chỉ đỏ, màu đỏ máu?
Đỏ của chiến thắng và bạo lực? Bằng nhìn chiếc giường nhỏ có gọng đồng, giường
của ông nội hồi xưa làm lý trưởng, dấu hiệu sung túc còn lại. Ông nội hồi xưa
chiều chiều mặc áo lụa, đầu cắm cánh hoa bưởi, tóc bạc trắng, da hồng, ông nội
quyền thế nhất làng Phú Cát, nhà được tính không phải từng gian nhưng tính theo
từng dãy. Dãy 12 gian, dãy 10 gian… Ông nội có một khoảng sông riêng, "bến
ông Giáp" để phơi lụa, trồng đậu phộng, bắp, đến mùa, bắp và đậu phụng
chất đầy mấy gian nhà lớn. Bây giờ những gian nhà xưa không còn, chỉ còn mỗi
căn nhà nhỏ này, căn buồng riêng và chiếc giường gọng đồng vàng xỉn. Bằng nhìn
xuống chiếc nệm bọc một lớp vải hoa đỏ rẻ tiền, màu đỏ lâu năm trở nên nhợt
nhạt lốm đốm. Trên chiếc giường này, quá khứ vinh quang có mùi ẩm mốc, vẽ với
lớp đồng đỏ úa, đỏ chua chát cơ cực. Trên di tích tổ tiên ngang một thước hai,
dài hai thước, trên tấm nệm cũ gần hai mươi năm, lớp rơm bên trong đã mất hết
bềnh bồng, ép sát lại co rút thành một độ dầy chỉ bằng ba chiếc chiếu, tấm nệm
không êm, nằm lên có cảm giác cứng ngắc, chiếc nệm ông nội đã nằm, ông lý
trưởng quyền thế đã nằm, bố đã nằm, cậu Ấm con ông Lý hàm lục bộ, nghiện ngập
nhăn nhó, cay độc với chính mỗi sợi tóc bạc bị rụng xuống. Chiếc nệm được mẹ
sửa lại bằng mười ngón tay già nua chịu đựng bọc thêm lớp vải đỏ – Thêm một
chút dũng mãnh, thêm niềm mới lạ để Bằng nằm lên với tình yêu, người con gái
tên Quỳnh Như, đậu tú tài một, học sư phạm cấp tốc. Quỳnh Như nghiêng vành nón,
Quỳnh Như, lá thư dài gần mười trang giấy pelure được xếp theo chiều dọc với mở
đầu: "Thư gởi về anh, mối tình đầu của Như". Thư hứa hẹn, thư hờn
dỗi, trách móc nũng nịu, thư ghen tuông với một phản bội vô hình… "Như đâu
phải người đầu tiên của anh, Như là kẻ đến sau". Như, kẻ tình phụ tưởng
tượng, Như đau đớn nhẹ nhàng, Như bi đát ngay khi tình mới nở, nỗi đau không
bờ, quả tim trống vắng… "Như biết nói gì đây? Hỡi mối tình khốn khổ và bi
đát của tôi!". Như đau đớn qua một chút của Mai Thảo. Như mượn một ít chán
chường của Nhã Ca. Đúng là của Nhã Ca, vì Nhã Ca người Huế, Nhã Ca học trường
Đồng Khánh. Nhã Ca, biểu tượng của con gái Huế sâu sắc chút bùng nổ phũ phàng
trên câu văn, một hơi chán chường ở dấu phết… Như lăn lóc, vật vã, chảy máu
mắt, bậm chặt môi nén tiếng đau đớn suốt mười trang giấy mông mênh. Giấy có hạn
và đau đớn của Như không bờ. Nhưng nỗi đau đớn bi thảm không bờ đó, tình yêu
nặng bốn mươi lăm ký, tình yêu tóc dài Đồng Khánh, tình yêu của Tôn Nữ Quỳnh
Như thê thiết đã được đặt lên chiếc giường này, đã bị đè xuống, cuống quít, mê
đắm và sôi nổi. Trên chiếc giường này đã có Quỳnh Như, không phải đang che nửa
mặt hoa, không phải đang cắn răng vào tóc, không giọt nước mắt đớn đau cho nỗi
bi thảm của cuộc tình, nhưng một Quỳnh Như vội vã, hai chiếc chân dài vùng vẫy
giẫy giụa xong rồi khép thật sít sao, có những ngón tay lùa cứng vào tóc, có
những hổn hển vồ vập ngất ngư trong tiếng thở… "Anh! Anh! Đừng bỏ
em…" Và sau đó Quỳnh Như mặt úp gối, người co rút thì thào nức nở …
"Chết cha rồi anh ơi, lỡ có mang thì làm răng? Lỡ có mang thì làm
răng?" Trong khi Bằng quơ chân tìm cái quần, lột ngược lại để bề mặt ra
ngoài… "Cái quần lót của em đâu?" Mò mẫm, lúng túng, nó xoắn tít, co
quắp ở sàn nhà… "Anh xoay mặt đi nơi khác, trời ơi mắc cỡ quá, lỡ có mang
thì làm răng!" Bằng đứng dậy tìm điếu thuốc lẻ ở hộc bàn. Sagan nổi tiếng
có lý thật, Sagan đã tạo được những động tác thời thượng nhỏ nhặt cần thiết và
đúng lúc. Bằng đốt điếu thuốc Ruby, lắng tai nghe tiếng động của nhà ngoài… Bà
già về thì vỡ nợ. Và bây giờ sau khi Quỳnh Như nhiều lần nằm xuống trên di tích
của ông Lý trưởng họ Thân, không còn tiếng khóc tức tưởi cùng lời thì thầm
"lỡ có mang thì làm răng…" Bây giờ chỉ có hối thúc cấp bách, đay
nghiến nóng nảy nhão nhoẹt… "Anh phải cưới Như mới được, phải cưới gấp,
Quỳnh Như bị "rứa" là một tháng rồi. Quỳnh Như bị rứa là một tháng
rồi, nhưng cũng không thiếu dồn dập nồng nhiệt như trong lần gặp nhau cuối cách
đây hai tuần… Anh nhớ lo gấp vụ đó nghe". Quỳnh Như ngậm chiếc áo dài ở
miệng che xuống phần hạ thể sau khi nói, chiếc quần được rũ mấy cái trước khi
mặt vào.
Bằng nhìn lên bức ảnh trước mặt, hình người
đàn bà khoả thân cắt từ một tạp chí. Người đàn bà cằm nhọn, mắt xanh, cổ dài,
khuôn mặt bình thản tội nghiệp, cất giấu niềm đau đớn qua dáng ngồi im lìm,
người đàn bà ám ảnh của thứ tài hoa mệnh bạc. Bằng có tài hoa không? Chỉ biết
Bằng có một khuôn mặt xương và cái nhìn u uẩn kiểu Moggiliani, u uẩn, hay một
chút mù mờ vì ba mươi năm trải dài trên chiếu chăn của vinh quang tàn tạ. Bằng
cũng một đôi lần cầm cây cọ, nhưng sơn dầu quá đắt, ừ thôi thì vẽ than chì, với
một đường nét cố tình bạc nhược đơn sơ, dựng nên phiền não ở những chân dung u
ám, Bằng tìm cách xích dần một chút đến thiên tài… "Bằng ơi, em thấy bị ám
ảnh bởi bức tranh đàn bà buồn thảm của anh!" Quỳnh Như đã có một lần kêu
lên tiếng kêu lo sợ đó. Mắt Quỳnh Như mở lớn, tóc rẽ hai bên kêu đưa một vừng
trán cố cau lại những nét tang thương! "Thế sao em?" Bằng thấy mình
đột nhiên gần Modi hơn chút nữa. Bằng xòe hai tay nâng lấy khuôn mặt của người
tình, động tác kiểu cách tổng quát ở đâu đó đã có… Nhưng thôi, hãy thổi cơn
giông bão thu nhỏ đã có… Nhưng thôi, hãy thổi cơn giông bão thu nhỏ đầy ầm ầm
trong linh hồn để nhìn vào đôi mắt Quỳnh Như. Nàng khép mắt lại, những rèm mi
cánh bướm chập chờn… Bằng muốn thở hắt ra để xoá tan vở kịch. Nhưng không thể
được, Bằng không có can đảm. Ngoài cuộc khiêu vũ hoá trang ngượng cứng kia.
Bằng còn được gì? Thêm một khối nhỏ phiền muộn nào đè xuống đỉnh đầu Bằng cúi
xuống khuôn mặt Quỳnh Như đang nặng nề chờ đợi nụ hôn. Thôi, vở kịch đời gắng
đóng cho hết, Bằng nhé, nhớ lo vụ đám cưới, em về…
"Bằng ơi, ra ăn cơm". Tiếng bà mẹ
gọi từ căn phòng gần bếp. Bằng xỏ chân vào đôi guốc gỗ bước ra. Tiếng guốc gỗ
gõ xuống nền gạch nghe bực dọc. Người Huế vẫn còn duy trì thói quen ngồi ăn
trên phản, ngồi xếp bằng chung quanh mâm bằng đồng, sau bao năm đánh bóng hoá
nên vàng xanh mỏng dính, chữ thọ nổi ở giữa đã bị mòn nhẵn. Lối ăn cơm như níu
kéo muốn giữ không khí của thứ dĩ vãng đã phai màu. "Gần Tết rồi con có
dạy thêm giờ nào ở trường không?" "Dạ không". Bằng trả lời từ
tốn với bà mẹ. Huế là nơi của học thức, người ta chú trọng đến bằng cấp nhiều
hơn số tiền, chiếc xe có được. Nhưng gần đến Tết người ta cũng quên chuyện học
hành, để bày một vườn bông nhỏ trước cửa chợ Đông Ba, gần Tết để những gã học
sinh có cơ hội mang bộ veston đầu đời. Huế sắp Tết với loại mưa bắt đầu nhẹ hạt
để các cô con gái có thể mặc chiếc manteau mua từ Sài Gòn trong dịp hè… Người
Huế chờ đợi cái Tết để thay đổi không khí đã sũng ướt qua một mùa mưa ủ dột nên
chẳng có loại hy sinh nào tha thiết với chương sử ký nhà Tiền Lê, nhà Tiền Lê
thật quá xa với mái tóc bắt đầu để dài xuống gáy, đôi giày mũi vuông lấy kiểu
từ tạp chí Sears, Playboy, tạp chí có hình tổng thống Whashington qua sông
Delawrue trong y phục hippie. Cả hai lịch sử đều được đồng lòng bỏ qua… Thầy
giáo Thân Trọng Bằng cũng được quên đi trong tiết trời lạnh cóng, màn mưa nhẹ
hạt, Tết gần đến.
"Không mẹ, trường đã cho học trò đến
trường chỉ bàn chuyện liên hoan".
"Rứa khi mô lãnh lương Tết?"
"Con lãnh trước một nửa rồi, chẳng còn
lại được bao nhiêu, đâu chỉ khoảng bốn ngàn…"
"Răng lại ít rứa, dạy đến ho lao mà tháng
Tết chỉ được chừng nớ thì làm răng chi dụng cho đủ… Công lao ăn học". Bằng
cúi xuống chén cơm bỏ đôi đũa, chỉ hai chén cơm nhỏ nhưng Bằng thấy quá đủ.
Công lao ăn học mở đầu bài luận thuyết về giá trị bù lại sau hai mươi năm cúi
đầu trên sách. Từ những ngày ngây thơ, lớp học thơm mùi mực và phấn bảng, mực
tím ngấm qua thớ gỗ áp khuôn mặt trẻ thơ trên mặt bàn hít được vị cay nồng của
mùi mực bốc lên qua thớ gỗ, tưởng đến chất nước lỏng sóng sánh thẫm dần theo độ
tan của viên mực. Những ngày chờ đợi vào vấn đáp sau lần thi viết được xướng
lên, sân trường chen chúc đầu xanh, áo trắng, tên được xướng lên bay vang xa
loang trên mặt sông, bên kia bờ sông Hương bức trường thành dội lại. Hai mươi năm
ăn học để lại âm thanh mờ mịt của tiền nhân vọng qua núi đồi Hồng Lĩnh. Và
những ngày hôm nay, Thân Trọng Bằng ba mươi tuổi, mỗi tuần hai mươi giờ đứng
trước bảng đen làm sống lại nét hào hùng của nhà Trần, cho Hưng Đạo Vương đánh
giặc trên tấm bảng đen cao thước rưỡi dài bốn thước. Hưng Đạo Vương sống lại ốm
yếu khó khăn, trận Vạn Kiếp của tiền nhân dưới viên phấn trắng được vẽ bằng hai
mũi tên cong ngược, trong đám học trò có tiếng động thì thào … "ĐM sử địa
ăn thua mẹ gì". Thầy giáo Thân Trọng Bằng thương thân và tổ tiên đến nhức
nhối.
Bằng qua cây cầu, lên đường Trần Hưng Đạo,
nhưng khi bước chân vào quán cà phê, Bằng đổi ý. Quán đông người, ẩm ướt, mùi
cà phê thơm, nhưng cảnh ngồi ở chiếc ghế cao lênh khênh, nhìn mặt cô bán hàng
mặt lấm tấm rỗ hoa Bằng thấy nản. Chàng bước thẳng về hướng cửa Thượng Tứ, phía
nhà của Quỳnh Như. Qua cổng thành, Bằng khum tay lên mồm hú một tiếng nhỏ.
Tiếng hú chạm vào vòm đá vang lại yếu ớt lạnh lùng. Ngày xưa mình hú thật lớn
chẳng sợ ai. Bằng thấy thấp thoáng trong màn mưa một chú nhỏ mười tuổi há mồm
hét thật lớn để nghe vòm đá vọng lại âm thanh chính mình. Tường đá hôm nay vẫn
giữ nguyên độ cứng, chỉ có mình trở nên già, hét to không được. Qua khỏi cổng
thành Bằng thấy dễ chịu. Quỳnh Như cùng mẹ và chú em đang bàn cãi sôi nổi:
"Như rứa là vô lý, người ta hoãn quân
dịch cả trăm cả ngàn, tại răng con không được, ngày mai mẹ lên thấu trên tỉnh
cho mà xem…"
"Nhưng mẹ phải để con đi trình diện, đi
lính cứ phải chết liền đâu".
"Sao lại không chết, mẹ đọc báo thấy ngày
nào người ta cũng có phân ưu. Toàn là thứ chết trẻ cả, mẹ nuôi con hai mươi mấy
năm đâu phải để thành ông Chuẩn uý rồi chết bờ chết bụi đâu trong Nam ngoài
Bắc". Tiếng nói của bà mẹ sũng ướt nước mắt. Qua lớp nước mắt đầm đìa, bà
tưởng thấy người con trai của bà nằm chết ngơ ngác ở một góc rừng sâu.
Bằng bước vào, bà mẹ quay sang vội vã:
"Đấy anh Bằng thấy đó, nhà chỉ có một mẹ
một con, rứa mà người ta đòi gọi thằng Tuấn. Tôi không giàu sang nứt ngói đổ
vách chi nhưng cũng dư nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn, người ta con đàn con
đống lỡ mất một đứa không sao, tui chỉ có mình nó… Rồi hắn còn cản tui, hắn
định đi trình diện. Nói thật cho biết, tui làm thẳng tay, pháp luật chi chi
cũng kệ".
"Nhưng mẹ để con đi trình diện xem họ
quyết định sao".
"Quyết định chi nữa, người ta sẽ túm đầu
con nhét vô Thủ Đức, khi đó chỉ còn kêu ông trời, tao đi, tao lên tỉnh tao
kêu".
"Mẹ đi đâu, trời mưa, sắp hết giờ làm
việc, mẹ kêu với ai… Nhưng trình diện hay không cũng phải sau Tết mới đi, mẹ
làm như con sắp chết đến nơi, cả ngàn người nhập ngũ một lần chớ đâu phải một
mình con".
"Mày khác người ta, con người ta đông
người ta không kể, tao đứt ruột đẻ ra mày, trầy vi tróc vảy nuôi mày, cả đời
mày chưa xa tao một ngày, tao không cho mi đi mô hết, không trình diện không
nhập ngũ, mi ở nhà có chi tao chịu…"
Người con trai ra đứng ở ngưỡng cửa, móc túi
lấy bao thuốc, bao thuốc Winston nhưng điếu thuốc khác hiệu Capstan hay Cotab.
Gã con trai làm ra vẻ bình tĩnh, chán nản, mệt mỏi, hít từng hơi thuốc miễn
cưỡng.
"Đó, mi lại bày đặt hút thuốc, hút vào
cho ho lao".
Gã con trai không nói, bước vào nhà trong.
"Anh Bằng thấy đó, thằng Tuấn nó đâu có
nghe tôi, con với cái cứ cãi lời, cứ đi nhập ngũ rồi chết nhăn răng ra… Cậu có
bị gọi không?"
"Dạ, không, cháu được hoãn vì lý do nghề
nghiệp".
"Phải đấy, cái thứ lính tráng đi làm chi
cho cực thân".
Bằng chợt nhớ lại câu chuyện của Đại đức Trí
Không: Anh Chuẩn uý chết sau ngày mãn khoá hai mươi ngày.
"Dạ, bác nói thật phải, con thấy cái chết
thật phi lý, chẳng giúp được một ai".
"Chứ răng nữa, bỗng nhiên đi mang cây
súng bắn người ta, bị người ta bắn lại chết, thiệt vô lý".
"Dạ, vô lý kỳ cục lắm, hơn nữa chiến
tranh cũng sắp hết, thêm một em Tuấn vào tình hình cũng vậy thôi".
"Đó anh nói thế mới phải, nó chỉ quý đối
với cha mẹ thôi, còn như chính phủ thì biết thương ai. Nó không hiểu ý tôi cứ
nhất định trả lời, trứng mà đòi khôn hơn chi sao được…"
"Dạ". Bằng dạ khó khăn từng tiếng
một. Bằng cũng là kẻ khôn ngoan, khôn ngoan chạy một giấy hoãn dịch để ngày
ngày đứng trước lớp học, kể lại đoạn sử đầy chấn động của tiếng sóng Bạch Đằng
trên phiến não phẳng phiu trơn trợt của năm mươi khuôn mặt trai gái. Sau cái
nhìn không cảm giác của năm mươi khuôn mặt học trò này, bằng cảm được cái phán
xét cay nghiệt… "Thầy mới lãnh lương hôm nay". Câu hỏi nham nhở đầy
âm thanh khô cứng làm Bằng choáng váng. Người học trò đã hỏi Bằng trong cái
nhìn lạnh tanh.
Quỳnh Như mặc áo dài màu tím ngoài khoác áo
len trắng trông thật dịu hiền. Con gái Huế có hai màu tổng quát, màu trắng khi
trời nắng và màu tím lúc trời ủ dột. Hình như người học trò phái nữ nào cũng
một lần yêu thích hai màu đó, vì chẳng có người con gái nào mà không muốn mang
những dấu hiệu ước lệ về con gái xứ Huế. Nữ sinh Đồng Khánh tóc thề, thích ăn
vặt, bánh bèo Tây Thượng, Ngự Bình, suối Trà Am, bánh xe đạp lăn tròn hướng về
phía chùa Thuyền Tôn phủ bóng tre xanh. Sinh hoạt đó làm thành cá tính người
con gái xứ Huế. Quỳnh Như, một người Huế từ tên tuổi đến dòng họ, nàng lại càng
đóng góp tích cực hơn trong định nghĩa chân dung người con gái xứ Huế. Với
chiếc áo tím, Quỳnh Như đẹp đẽ âm thầm như con đò buông chèo nằm dưới bóng dâm
của rặng cây. Con đò có nỗi xôn xao cuốn hút của nó. Quỳnh Như cũng thế, nỗi
cuốn hút riêng nàng biết được. Tay nắm tay, nàng đi với Bằng về phố chính,
hướng phòng triển lãm của một hoạ sĩ vừa tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật
Huế, và sau đó chắc sẽ về nhà Bằng, nơi có chiếc giường xôn xao của một đại tộc
đầy vinh quang. Nỗi mê đắm nàng đã biết qua, đang đợi nàng ở đấy. Nỗi mê đắm
cùng lạc thú nàng đã nắm được khi hai hàm răng nghiến chặt trên tấm nệm hoa đỏ
dài hai thước. Lạc thú ở sợi tóc rối, mái tóc thề xứ Huế rối rắm cuống quít mịt
mờ và cái nhìn mất sắc. Quỳnh Như hai mươi ba tuổi, đã có lễ hỏi, cuối năm thi
ra trường Sư phạm, nàng có đủ điều kiện để cho cuốn theo cơn lốc nóng hổi cảm
giác trong mịt mù ẩm ướt của xứ Huế. Nhưng cảm giác nóng hổi đó phải được xếp
lại, nàng đang đi vào phòng triển lãm phải giữ đúng cung cách của người học trò
mang áo tím, để tóc thề, nữ sinh Đồng Khánh phải làm thế trước khi nẩy chiếc
mông đầy sức nặng êm đềm của gã thanh niên.
Người hoạ sĩ dù mới ra trường nhưng anh cũng
chứng tỏ sự trưởng thành qua các giai đoạn do anh phân định. Giai đoạn của nét
vẽ chân phương với màu sắc bềnh bồng trên các tĩnh vật, cảnh núi đồi hay các
người mẫu bình thường nhưng thể hiện được tính chất vũ bão của đời sống, người
ta dễ nhận thấy vóc dáng đôi guốc của Vangogh, những trái cây của Cézane, mặc
dù những bức hoạ ở đây đã được hoạ sĩ chú thích bằng những đề tài Việt Nam cổ
kính, cổ kính hơn những tranh mộc bản hái dừa. Người ta cũng nhận thấy có một
cố gắng muốn hiểu đủ, muốn tổng hợp vượt ra khỏi kích thước của trường vẽ,
trong cố gắng này rất dễ nhận được đôi cánh thiên thần của bức tranh Đêm Giao
Thừa đậm đà phảng phất chiếc cánh của Chagall. Tuy vậy anh hoạ sĩ cũng thành
công, không phải ở nét dao phóng đãng mang niềm kiêu hãnh của người làm nghệ
thuật, nhưng ở bộ áo quần lệch lạc một cách cố ý, chiếc áo len cao cổ màu đỏ
sậm có đường đen vạch ngang, lấm chấm những vết sơn, dấu tích của thời khắc mê
mải theo kiếm tìm nghệ thuật. Nhưng quan trọng và đầy đủ đọng trên bộ râu quai
nón màu vàng và chiếc píp chạm trổ hình đầu người. Người ta thấy vóc dáng của
những đại hoạ sĩ cỡ Vangogh, Buffet ở đâu đây.
"Anh quen với Ngu Cương (biệt hiệu lạ
lùng của người hoạ sĩ)". Bằng nói nhỏ vào tai Quỳnh Như.
"Thế hả?" Giọng nói khép nép thảng
thốt như vừa khám phá được điều quý giá bí ẩn. Quỳnh Như nép vào sau Bằng, bàn
tay khép tà áo lại. Người con gái Huế phải e thẹn, nhất là trước những kẻ phóng
đãng nghệ sĩ. Bằng bắt tay Ngu Cương. "A, Lý (tên thật của người hoạ sĩ)
tranh mày khá lắm, các "matière" thật vững và linh động".
Đúng là ngôn ngữ sành sỏi của người am hiểu
nghệ thuật. Quỳnh Như nép vào lưng Bằng chặt chẽ và kính phục hơn. Đứng sau
lưng của một người chồng tương lai thấu triệt hội hoạ là một hành động chứa
nhiều tính chất nghệ thuật…
"Thế hả? Cám ơn toa. Toa thích cái nào
nhất?" Người nghệ sĩ nói thật nhỏ, ống píp vẫn ngậm chặt giữa hai kẻ răng.
Tay người nghệ sĩ đưa lên vuốt hàm râu, cử chỉ khoan thai phảng phất chút đam
mê cô đơn!
"Moa thích bức khoả thân số 2, nó mang vẻ
bất hạnh âm thầm của thân phận đàn bà, các "gam" xám của toa làm moa
nhớ đến Modi!"
Người nghệ sĩ gật đầu, xòe diêm châm ống píp
đã tắt lửa. "Xin lỗi moa phải tiếp ông Giám đốc". Người nghệ sĩ dùng
cây quẹt chỉ về cửa, một người đàn ông mặc đồ lớn vừa đi vào. Hoạ sĩ đưa tay úp
lên che miệng píp bập bập hơi khói, gật đầu chào Quỳnh Như trước khi bước đi.
Tôn Nữ Quỳnh Như ríu rít đáp lại, tiếc thầm sao người hoạ sĩ không ngỏ lời mời
nàng làm người mẫu. Quỳnh Như là khuôn mặt đàn bà ám ảnh suốt linh hồn anh.
Bằng đã nói thế, người hôn phu có cảm quan nghệ thuật sắc bén đã nói thế, tại
sao người nghệ sĩ không chú ý đến nàng? Đôi mắt người nghệ sĩ có vẻ lạ riêng?
Quỳnh Như nghĩ đôi mắt đục mà đồng thau của người nghệ sĩ, hình như có một vẻ
ngơ ngác hụt hơi!
Hai người rời phòng triển lãm, họ bước đi im
lặng. Bằng nghĩ đến câu chuyện nhà sư Trí Không, nửa tháng lương Tết sắp lãnh,
tiền đám cưới Quỳnh Như, bức tranh người đàn bà cởi truồng nằm sấp trên nệm.
Quỳnh Như nghĩ đến chiếc giường trong căn phòng đầy bóng tối và nỗi mê đắm làm
nóng vành tai, chảy giọt mồ hôi ở sợi tóc mai… Bằng ơi. Quỳnh Như liếc qua
người hôn phu, sau khuôn mặt bình yên này có ngọn lửa sẽ đốt nàng đi chốc nữa
trên giường có tấm nệm đỏ. Trời cuối năm ẩm ướt như cơn mê đắm của Tôn Nữ Quỳnh
Như…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét