NGUYỄN MINH CẦN - Người viết bài này hy vọng góp thêm vài “mẩu
chuyện” vào cuốn sách “Những
mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Zân
Tiên mà như lời giải thích miệng “từ Trên,” khi cuốn sách được xuất bản lần đầu
ở miền Bắc — “tác giả của nó là một nhà báo nổi tiếng có cơ hội được biết rõ về
thân thế của Người.” Thực
ra, hồi những năm 50, đại đa số cán bộ, chứ nói gì đến nhân dân, chưa hề nghe
tên và không ai biết cái ông “nhà báo nổi tiếng” Trần Zân Tiên, tác giả cuốn
sách “bất hủ” đó, là ai cả. Chỉ có một số rất ít cán bộ cao cấp thì thầm rỉ tai
nhau về điều bí mật quốc gia : “… Chứ còn ai nữa !”
Mãi về sau này, qua hàng mấy thập niên, nhiều
người mới ngã ngửa ra là ông tác giả “Chứ còn ai nữa!” đó, ông Trần Zân Tiên
huyền thoại kia, chính là ông Nguyễn Tất Thành, cũng chính là ông Nguyễn Ái
Quốc, và cuối cùng, cũng chính là… Ông HCM. Thế nhưng báo chí chính thức ở Việt
Nam cho đến nay vẫn tiếp tục “giấu như mèo giấu c…” Theo tôi biết, hình như
trong “thế giới” cộng sản, chỉ có hai lãnh tụ trực tiếp tham gia vào việc “xây
dựng” tiểu sử của mình để lưu danh hậu thế là Stalin và HCM. Tôi nói “hình như”
vì không biết chính xác Kim Nhật Thành đã làm phù phép như thế nào với tiểu sử
của ông ta. Nhà độc tài đẫm máu Stalin đã không trắng trợn tự tay viết tiểu sử
của mình, mà giao cho một ban của Trung ương đảng, viết theo sự hướng dẫn của
chính ông và cuối cùng ông “chỉ” hiệu đính tiểu sử của mình trước khi cho xuất
bản. Còn “một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy…”
(trích sách “Những mẩu chuyện…”, tr. 7) thì… Tự tay mình viết tiểu sử của mình
để tự tôn vinh, tự đề cao chán chê, rồi “lập lờ đánh lận con đen” đặt tên tác
giả là Trần Zân Tiên. Quả là một sự phỉ báng đối với lương tri con người !
Mặc dù thế, tôi xin thành thật khuyên các bạn,
ai đã có cuốn sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ tịch” thì chớ vội nóng nảy vứt nó đi mà
phí, trái lại, thỉnh thoảng nên đọc lại để thấy rõ hơn bức chân dung thật của
người viết ra nó. Đó là tấm gương để đời !
Ngay từ đầu sách, bạn gặp đoạn này : “Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc
muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến
nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn : Chủ tịch HCM
không muốn nhắc tới thân thế của mình“. Hay một đoạn khác : “Tôi (lời Trần Zân Tiên huyền thoại) nói rõ
mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi nghe xong, Người cười và đáp :
“Tiểu sử đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn.
Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá,
bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức
cần kíp kia đã ! Còn tiểu sử của tôi… Thong thả sẽ nói đến !” Thế
rồi Trần Zân Tiên (!) Kết luận : “Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường
ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình
sinh của Người được ?” (tr. 7,8,9 tùy lần XB). Hay là
đoạn nói về thời gian “khi Chủ tịch HCM còn là người thiếu niên mười lăm tuổi”,
thế mà cậu bé 15 tuổi ấy đã đủ hiểu biết, đủ láo xược để phê phán cả các bậc
tiền bối là những anh hùng lịch sử vào hàng cha chú mình, như các cụ Phan Ðình
Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Hay một đoạn nữa : “Và nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe
theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn toàn
kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh được lòng dân Việt Nam kính
mến tin tưởng lãnh tụ HCM. Nhiều nhà báo và nhiều bạn ngoại quốc rất lấy làm
ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị Cha già HCM.
Nhưng đối với chúng ta, người Việt Nam thì rất dễ hiểu”.
Còn nhiều, rất nhiều “hạt ngọc châu” như thế
nữa ! Nhưng thôi, nhân tiện nói qua thế, chứ mục đích người viết bài này không
phải để nói về cuốn sách “Những mẩu chuyện…”, mà để bổ sung thêm vài nét vào
bức chân dung của HCM nhân dịp tháng 5, kỷ niệm ngày sinh “của Người,” dù biết
tỏng tòng tong là cả ngày, cả tháng, cả năm sinh “của Người” đều là “phịa” (xin
cho phép tôi dùng khẩu ngữ này, có nghĩa là bịa đặt trắng trợn), và thậm chí
trong một thời gian nhiều năm, cả ngày chết “của Người” cũng là “phịa” nốt. Cố
nhiên, trong trường hợp sau, “Người” không có lỗi. Nhưng, một con người mà ngày
sinh, tháng sinh, năm sinh, cho đến ngày chết đều là “phịa” cả, thì có gì bảo
đảm là “những mẩu chuyện” tự kể về mình lới là không “phịa”? Nhưng dẫu sao
chăng nữa, tháng 5 cũng là có dịp để “tưởng nhớ tới Người !” Vài “mẩu chuyện”
mà tôi sắp kể đây là những chuyện về Chủ tịch HCM có liên quan đến “vấn đề phụ
nữ” (dĩ nhiên, không phải vấn đề giải phóng phụ nữ đâu !), và không phải là
thời kỳ ông ở Pháp, Nga, Trung Quốc (vì đã có khá nhiều bài báo viết về những
thời kỳ đó rồi). “Những mẩu chuyện” này thuộc thời kỳ ông ở Việt Nam, và cũng
chỉ vẻn vẹn trong vài năm thôi, sau khi chính quyền cộng sản tiếp thu những
“vùng tạm chiếm” của Pháp ở miền Bắc.
MỘT ÁN MẠNG XE CÁN
Sau khi rời Hà Nội đi Moskva, theo học ở Trường
đảng cao cấp của Trung ương ĐCS Liên Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã
ra khỏi hàng ngũ ĐCS hồi đầu tháng 6 năm 1964, trong lòng tôi luôn luôn bị ám
ảnh bởi một câu chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây đầy oan
khuất, đầy mờ ám, rất là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoài nước, trong hàng chục
năm, lắm lúc tôi cảm thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này:
hồi cuối những năm 50 đầu những năm 60, tôi là phó chủ tịch Ủy ban Hành chính
thành phố Hà Nội, thường ngày tôi xuống các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ
là vào đầu xuân, tôi phải đến thường trực tại Ủy ban, thì anh Nguyễn Quốc Hùng,
ủy viên trong Ủy ban, phụ trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp nói: “Báo cáo anh có một việc xảy ra, có một người
đàn bà bị xe ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân phía đi lên Chèm…”
Tôi đưa mắt nhìn Quốc Hùng, có vẻ hơi ngạc
nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc nhiên vì trong óc tôi thoáng một ý nghĩ, xe ô
tô cán người ở Hà Nội chẳng phải là chuyện gì hiếm, sao anh ấy lại báo cáo với
mình. Tôi im lặng chờ đợi.
Quốc Hùng nói tiếp: “Nhưng mà, anh à, theo sự điều tra thì không phải là xe cán người,
mà làm ra vẻ xe cán người…”Dừng lại một lúc, anh nói thêm: “Mà… Theo báo cáo thì chiếc xe ấy lại chạy từ
Chủ tịch phủ ra…” Mấy tiếng cuối cùng “từ Chủ tịch phủ ra” đã
gây cho tôi một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy
may ý nghĩ là việc này có liên quan gì đến vị Chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân
thành kính yêu và tin tưởng. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ
ở Chủ tịch phủ đã làm bậy bạ cái gì đây với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán
xe?
Suy nghĩ một lúc, tôi nói: “Theo quyết định của Trên, mọi vấn đề thuộc về
công an, tòa án thì do bí thư Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có dính
dấp đến Trên, việc này không thuộc thẩm quyền của Ủy ban hay Thành ủy, vậy hôm
nay, anh đến gặp anh Tuyên báo cáo ngay anh ấy biết để anh giải quyết thì hơn.”
Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Hùng cho
biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyên bảo anh sẽ trực tiếp làm việc với anh Thân
(Lê Quốc Thân, hồi đó là giám đốc Sở công an Hà Nội, về sau được thăng chức thứ
trưởng Bộ công an).
Khoảng một tuần sau, nhân gặp Trần Danh Tuyên,
bí thư Thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố, tôi tranh thủ
hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi: “Thôi, việc đó xong rồi.”
Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi
cởi mở, nên tôi im… Khi đã ở nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi
về chuyện đó.
Hồi tháng 7-1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên,
một người “cùng cảnh ngộ”, tức là cùng bị dính vào “vụ án xét lại – chống
đảng”, đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên,
vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện “thâm
cung bí sử” này và chuyện tôi kể cho anh lại một lần nữa xác nhận điều mà cụ
thân sinh của anh, ông Vũ đình Huỳnh, đã dặn dò anh.
Hiên nói liền : “Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ
phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân…”
Tôi đáp lại: “Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế !”
Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: “Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng
tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào,
anh biết chứ ?”
Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: “Biết quá đi, chứ lị ! Từ 51, tôi phụ trách
ngoại thành cơ mà.”
Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể
tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình
như một bên có rặng ổi, rồi bảo: “Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây ! Tới đây, đánh dấu một vụ
án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị,
bộ trưởng công an) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói
lên sự thật…”
Câu chuyện đại để thế này: có một chị nữ thanh
niên người Nùng ở Cao Bằng, tên là Nông Thị Xuân, được đưa đến “phục vụ” Bác Hồ, cô
đưa em là Nông Thị Vàng và
một cô em họ nữa về Hà Nội. Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con trai, được
đặt tên là Nguyễn Tất Trung, và
còn có tin đồn, một đứa con gái nữa, tên là Nguyễn Thị Trinh… Thế rồi Trần Quốc Hoàn hiếp
cô Xuân tại nhà phố Hàng Bông Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán
người tới đường Nhật Tân để lấp liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy
về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để “bịt đầu mối,” và người em họ cô Xuân cũng
không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của nó. Người yêu của cô Vàng đã viết thư tố
cáo hung thủ.
Thật ra, những điều Vũ Thư Hiên kể tuy có rọi
thêm vài tia sáng, nhưng vẫn chưa thỏa mãn được cái ý muốn tìm hiểu sự việc cụ
thể của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục cố làm sáng tỏ vấn đề này. Những năm gần đây,
nhờ việc đi lại của người trong nước sang Nga được dễ dàng hơn, nên vài người
đã kể cho tôi thêm những chi tiết rất có giá trị, bổ sung cho những điều tôi đã
biết. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là nghe lại của người này, người khác,
không có chứng cứ nào, không có tài liệu cụ thể nào xác minh, giúp cho tôi được
vững tin. May mắn là mới đây có một người quen cho tôi xem một tài liệu với
nhiều chi tiết cụ thể xác nhận về cơ bản những điều tôi đã tìm hiểu được trong
những năm qua. Sau khi cẩn thận xem xét kỹ tài liệu đó, tôi có thể tin tưởng ở
tính chất chân thật của nó. Tài liệu gồm có một bức thư dài năm trang đánh máy
của người chồng chưa cưới của cô Vàng đã bị giết, viết ngày 29-7-1983 gửi ông
Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kèm
theo một bức thư một trang của một số thương binh, bạn cùng chiến đấu với anh
ta, không đề ngày (có lẽ là gửi cùng ngày ?), gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, đồng gửi ông Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN, ông
Phạm Văn Ðồng, Chủ tịch HÐBT và ông Phạm Hùng, Phó Chủ tịch HÐBT, tố cáo hành
vi tội ác của bọn hung thủ đã giết hại nhiều người vô tội. Nhưng có một điều
rất “kẹt” cho tôi là anh bạn cho xem tài liệu lại dặn tôi đến hai lần “đừng
công bố bản tài liệu”, cho nên tôi không thể làm trái ý “người chủ” tài liệu.
Tuy nhiên, tôi mong rằng anh ấy sẽ nghĩ lại và
tự anh hoặc nếu anh thấy không tiện cho mình thì giao cho một người nào khác
sớm công bố toàn văn bản tài liệu đó để thực hiện ước nguyện của những người đã
chết oan và của những người đã bất chấp nguy hiểm, “máu hòa nước mắt viết thư
này” (lời trong thư).
Phải nói rằng những người viết thư thật rất
dũng cảm, đáng kính phục. Vì Chân Lý, người ta coi thường cái chết, khi viết
những lời thật xót xa, đầy mai mỉa và thách đố đối với những kẻ cầm quyền và
chế độ hiện tồn tại trong nước; những lời ấy vang lên như tiếng thét đau
thương, ai oán, đã bị nhóm cầm quyền cộng sản dìm đi, bóp nghẹt trong hàng mấy
thập niên rồi: “Chúng tôi, những thương binh đã đổ xương máu vì độc lập của
quốc gia, tự do, công lý cho nhân dân, chúng tôi rất mong Ngài vì chân lý mà
tìm ra hung thủ, xử lý thích đáng, treo cổ hung thủ công khai hoặc bí mật. Nếu
trái lại, vì bè lũ, phải bao che cho hung thủ không trừng trị được bọn tàn ác
này, thì chúng tôi xin phép Ngài phổ biến rộng rãi vụ bê bối này cho toàn thể
thương binh và bộ đội biết để họ đổ xương máu bảo vệ NGAI VÀNG CỦA CÁC NGÀI. Và
hơn nữa, chúng tôi sẽ tuyên bố vụ bê bối giết vợ Cụ HCM này cho toàn thế giới
biết để cả nhân loại tin tưởng vào chế độ ưu việt của các Ngài. Chúng tôi một
số thương binh sống dở chết dở, vì vấn đề này mà các Ngài muốn bỏ tù hay thủ
tiêu, chúng tôi không hề sợ, và có khi như vậy lại đỡ khổ cho chúng tôi.” (đúng
nguyên văn, kể cả những chữ hoa).
PHƯƠNG MAI
Viết đến đây, tôi nhớ đến Nguyễn Chí Thiện, đã
liều mình, bất chấp mọi nguy hiểm, xông vào sứ quán Anh ở Hà Nội để đưa tập thơ
của anh ra nước ngoài. Không có những con người gan dạ như thế, làm sao bảo vệ
Chân Lý và chống lại điều ác được ? Theo lời dặn của anh bạn, tôi không công bố
toàn văn tài liệu đó. Nhưng những gì tôi tìm hiểu được trong mấy năm qua, nhờ
sự giúp đỡ của anh chị em trong nước và được tài liệu kia xác nhận, tôi tự thấy
mình có bổn phận chia sẻ với mọi người, cốt để làm sáng tỏ thêm sự thật đã bị
che giấu 40 năm rồi và phần nào đáp ứng, dù là một cách quá muộn màng đi nữa,
lòng mong mỏi cuối cùng của những oan hồn đang ngậm hờn ở thế giới bên kia. Hơn
nữa, ngay ở trong nước, tờ báo bí mật, gan dạ Người Sài Gòn, “tiếng nói của nhân dân thèm tự do
ngôn luận”, năm ngoái cũng đã tung vấn đề này lên rồi trong bài “Viết cho Ðào
Duy Tùng.” Và tôi tin chắc là nhà văn Vũ Thư Hiên cũng không thể bỏ qua chuyện
này trong tập hồi ký “Ðêm Giữa Ban Ngày” của anh. Có điều tôi muốn nói rõ là
tội ác của bọn hung thủ đê tiện trong vụ thảm sát một loạt người này, tuy rùng
rợn, khủng khiếp thật, nhưng lại không phải là đề tài chính của bài này, vì ý
định của tôi chỉ là bổ sung thêm vài nét chân thực vào bức chân dung của vị Chủ
tịch đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trước khi kể tới chuyện trên, tôi xin phép nói
đến một chuyện khác, mới nghe thì thật tào lao, nhưng lại có thể giúp cho ta
hiểu được nhiều điều. Nói chung, hồi đó, khi tôi còn ở trong nước, cán bộ ở
miền Bắc (và có lẽ cả miền Nam nữa), ngay cả trong câu chuyện riêng tư, không
hề dám hé răng nói bất kỳ chuyện gì về các lãnh tụ, ngoài những lời sùng bái,
tán tụng, ngoài những khuôn sáo đã định sẵn, như “ơn Bác, ơn đảng,” v.v… Sự
sùng bái cá nhân các lãnh tụ đã được gieo cấy sâu đậm vào tiềm thức cán bộ và
dân chúng đến nỗi mọi người cho rằng nói đến các lãnh tụ mà thiếu sự ca tụng,
sự sùng kính, nhất là nói đến đời riêng của các lãnh tụ là điều “phạm húy”
khủng khiếp, mà điều đó thì tối kỵ, trước tiên, vì… Rất nguy hiểm cho bản thân.
Chỉ có một số cán bộ cao cấp nào đó thỉnh thoảng khi cao hứng mới có thể tự cho
phép “đả động” nhẹ nhàng đến các lãnh tụ trong chừng mực… “không bị đứt đầu”.
Cố nhiên, những việc như thế không phải là không nguy hiểm. Có một lần, tình cờ
tôi được “dự” vào một cuộc “loạn đàm” như vậy. Hôm đó, sau một cuộc họp ở Thành
ủy, mọi người ra về, chỉ còn lại ba chúng tôi : Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy Hà Nội, Trần Vỹ, phó bí thư, và tôi.
Ðang nói chuyện linh tinh, bỗng Trần Vỹ hỏi khẽ
: “Thế nào, việc Phương Mai đã
xong chưa ?”
Trần Danh Tuyên đáp: “Không xong.”
Trần Vỹ nói tiếp: “Cô ấy cũng sạch nước cản đấy chứ, sao lại không xong ?”
Vui miệng, tôi cũng chêm vào một câu : “Sạch nước cản… Thế mà tướng Nguyễn Sơn lại
chê là ngực lép kẹp, ăn thua gì !”
Cả ba cùng cười, rồi Trần Danh Tuyên hạ giọng
nói rất khẽ: “Cô ấy muốn đặt vấn đề đàng
hoàng, nhưng mà… Bác và các anh (ý nói Bộ chính trị) cho rằng Bác không lấy vợ
thì lợi cho uy tín chính trị hơn.”
Xin nói rõ chuyện như thế này : hồi đó, có ý
kiến là HCM cần có vợ để việc “giải quyết sinh lý được điều hòa thì tốt cho sức
khỏe. Và sau Hiệp định Genève 1954, người ta chọn một người “kháu” nhất trong
số nữ cán bộ trẻ, đó là chịNguyễn Thị
Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa chị từ Khu
Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên HCM. Và như ta đã biết qua cuộc “loạn đàm,” chị
đặt vấn đề phải có hôn nhân đàng hoàng. Thế là… Việc không thành. Rồi chị được
bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ thương binh và ở luôn tại Hà Nội.
CÔ XUÂN BỊ GIẾT NHƯ THẾ NÀO ?
Bây giờ xin quay trở lại câu chuyện những cô
gái ở Cao Bằng. Theo những điều người ta kể cho tôi trong những năm gần đây và
được xác minh qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ
Nguyễn, thay vì họ Nông; và cô Xuân chỉ có một con với HCM), ngoài ra, các chi
tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau :
Cô Nguyễn (Nông) Thị Xuân (tên gọi trong gia
đình là Sang) và em họ, cô Nguyễn (Nông) Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã
Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện vào làm
công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Ðược mấy tháng thì ủy viên Trung ương
đảng, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Trần Đăng Ninh, gặp cô Xuân nói chuyện vài
lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội, “nói là để phục vụ Bác Hồ.”
Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông Hoàng
Văn Ðệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. “Vì
các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao
cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho
nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của công an. Cuối năm
1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung.
“Em có nhiệm vụ bế cháu,”đấy là lời Vàng kể lại
cho người chồng chưa cưới của mình trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể
lại, nên chúng ta biết được những sự việc sau đây.
Khoảng mồng 6, mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần
Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò… Kéo cô Xuân vào cái buồng
xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt
khiếp sợ quá co rúm lại ngồi ở trong góc. May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới
xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút súng lục ra dọa: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết.”
Rồi xuống thang, ra ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng
vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn.
Cô Xuân xô nó ra: “Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước.”
Nó nói: “Tôi biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi.” Rồi
lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng
vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp
cô. Cô Xuân xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: “Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông
già, lại còn vờ làm gái.”
Từ đó cô Xuân trở thành thứ đồ chơi trong tay
Hoàn. Nó bảo cô Xuân dặn cho hai em phải biết câm cái miệng, nếu bép xép thì
mất mạng cả lũ.
Mấy chị em lúc bấy giờ rất sợ bị giết, bàn
nhau. Vàng đề nghị mấy chị em trốn đi thì cô Xuân nói: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác:
bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai. Bác nói: cô xin
như vậy là hợp tình hợp lý Nhưng phải được Bộ chính trị đồng ý nhất là mấy
ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được.
Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa… Mấy tuần trước, Bác lại hỏi chị: các
cô ở đây có nhiều người lạ mặt tới thăm phải không? Chị thưa: ba chị em không
có ai quen biết ở Hà Nội, còn bà con ở Cao Bằng thì không có ai biết chị em ở đâu.
Bác nói không nhẽ ông bộ trưởng công an nói dối ? Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ,
nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó, để
định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm
sao thoát tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại anh chị em chúng ta. Chị bị giết
cũng đáng đời, chỉ rất hối hận đã xin hai em về đây để chịu chung số
phận với chị.”
Ðến ngày 11 tháng 2 năm 1957, vào bảy giờ tối,
một chiếc xe com măng ca thường đón cô Xuân lên gặp HCM đỗ trước nhà. Tên Ninh, biệt danh là Ninh Xồm, bảo vệ viên của HCM,
vào gặp cô Xuân nói “lên gặp Bác.” Cô Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra xe.
Xe do Tạ Quang Chiến (tên
này trong đội bảo vệ HCM, về sau làm tổng cục phó Tổng cục Thể dục thể thao)
lái đi.
Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên công an
Hà Nội đến báo tin cô Xuân bị chết vì tai nạn ô tô, hiện còn để ở nhà xác bệnh
viện Phú Doãn. Vàng vội vã đưa cháu Trung cho Nguyệt bế, lên xe công an vào
bệnh viện, nhưng không được vào nhà xác. Chờ độ một tiếng sau thì có người bác
sĩ ra đọc biên bản, đại ý: trên thân thể tử thi không có thương tích gì, cũng
không phải bị đánh chém gì. Mổ tử thi, trong lục phủ ngũ tạng cũng không có
thương tích gì, dạ dày không có thuốc độc, tử cung không có tinh trùng, chứng
tỏ không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nứt, nước nhờn chảy ra.
Bác sĩ nói: đây có thể là nạn nhân bị trùm chăn lên đầu, rồi dùng búa đánh vào
giữa đỉnh đầu. Vàng nghe xong chạy về kể lại cho Nguyệt. Hai chị em cùng khóc…
Ít lâu sau, một cán bộ công an đến bế cháu
Trung đi, hai chị em không biết đem đi đâu. Sau đó, Vàng được đưa đi học lớp y
tá của Khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên, còn Nguyệt thì Vàng không biết người
ta đưa đi đâu, sống chết ra sao. Học được mấy tháng thì Vàng được chuyển về
bệnh viện Cao Bằng và may mắn được gặp người chồng chưa cưới ở đây, kể hết mọi
chuyện cho anh nghe. Cô nói với người yêu: “Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu, anh sẽ
nói rõ cho toàn dân biết vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết,
vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo
dõi em. Ở Cao Bằng, có hôm em còn thấy thằng Ninh Xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng,
được ít lâu họ tuyên bố em bị thần kinh, được chuyển về điều trị tới bệnh viện Hòa
An.”
Ðây là lời người yêu, chồng chưa cưới của cô
Vàng: “Tôi chỉ được gặp Vàng có một
tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957, cô Vàng về thăm ông cậu Hoàng Văn Ðệ,
hung thủ đi theo, giết chết, rồi quẳng xác xuống sông Bằng Giang, đến ngày
mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở Hoàng Bồ. Ðược tin, tôi chạy về cầu Hoàng
Bồ, thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận bàn
tán, cô bị đánh vỡ sọ, tiền, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về
chôn cất. Vụ này nhiều người bị giết: cô Xuân vợ Cụ HCM, cô Vàng vợ chưa
cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở trường y tá Thái Nguyên, nghe chuyện
Vàng đi nói chuyện lại cũng bị giết lây. Mấy chục năm nay, tôi tím gan thắt
ruột nghĩ cách trả thù cho em tôi, nhưng sức yếu thế cô, đành ngậm hờn chờ
chết… “
Tiện đây, xin phép kể qua một chuyện ngoài lề
có ý nghĩa. Hồi Vũ Thư Hiên còn ở Moskva, “người ta” dò biết là anh đang viết
hồi ký và hình như cũng đoán biết là anh có trong tay “những mẩu chuyện” nào
đó. Thế là một hôm, “bọn trấn lột” người Việt đến nhà, chờ Hiên vào thang máy
thì chúng ùa theo, đâm anh vào mông, giật chùm chìa khóa, rồi xông vào nhà.
Chúng không đụng đến tiền bạc gì hết, mà chỉ tìm kiếm tài liệu và lấy các đĩa
mềm máy tính, trong đó có phần hồi ký anh đang viết dở dang. Khi chúng đi rồi,
Hiên gọi điện ngay cho tôi. Mấy hôm sau, anh lại báo tin rằng một tên gọi điện
cho anh, bảo nếu muốn lấy lại đĩa mềm thì hãy “đến đấy, đến đấy” ở Moskva, mà
theo lời anh, chỗ ấy là… Ngôi nhà chung cư của cán bộ nhân viên sứ quán Việt
Nam tại Nga. Hiên nói để trấn an tôi: “Cũng may là tôi đã dự phòng trường hợp này rồi. Anh yên tâm.” Sau
đó không lâu, Hiên đến nhà đưa cho tôi đọc 74 trang hồi ký của anh. Và một thời
gian sau nữa, anh lặng lẽ rời khỏi nước Nga, tìm nơi khác an toàn hơn để “đậu”…
Tôi kể chuyện này để thấy tính nhạy cảm cao độ của những-người-nào-đó đối với
“những mẩu chuyện” không chảy theo luồng lạch của “lãnh đạo” và “người ta” sẵn
sàng lao vào những hành động tội ác, điên cuồng, cực kỳ phiêu lưu, chỉ cốt để…
bưng bít sự thật.
Nhưng, vì chân lý lẽ nào chúng ta có quyền chôn
vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật ? Trái lại, bằng bất cứ giá
nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách
quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh
giá đúng đắn và công bằng. Công Lý đòi hỏi như thế !
NHỮNG CÂU HỎI VỀ HỒ CHÍ MINH
Còn về cháu bé Nguyễn Tất Trung thì sau khi mẹ chết, nó được
gửi cho ông Nguyễn Lương Bằng nuôi, độ 4-5 tuổi
thì chuyển cho ông Chu Văn Tấn,
đến năm 13 tuổi là năm 1969, ngày Chủ tịch HCM mất thì giao về cho ông Vũ Kỳ,nguyên thư ký riêng của
HCM, làm con nuôi và đổi họ thành Vũ Trung.
Tôi xin phép bỏ qua những tình tiết khác và
dừng lại ở đây, vì đến đây, cũng đủ để có thể rút ra vài kết luận sơ bộ có liên
quan đến đề tài cần nói :
1) Tôi luôn luôn nghĩ rằng không nên “xoi mói”
vào đời tư của người khác, kể cả đời tư của các lãnh tụ. Việc các lãnh tụ có
vợ, có con là chuyện rất thường tình. Ông Hồ, cũng như bất cứ ông lãnh tụ nào
khác, cũng như bất cứ người nào khác, đều có thể có cuộc sống tình dục, cuộc
sống gia đình, có thể có vợ, có con, có thể ly dị với vợ, rồi tới lấy vợ khác…
Những điều đó không ai nên can thiệp đến. Thậm chí, dù cho ông lãnh tụ nào đó
có vợ rồi, lại đi ngoại tình, “cặp bồ” với ai đó, như trường hợp Lenin, hay vợ
sờ sờ ra đấy mà vẫn ngang nhiên ngủ với gái, hết cô này đến cô khác, như trường
hợp Mao Trạch Ðông, hay đi hoang, rồi có con với người khác, như trường hợp
Karl Marx, (những ví dụ này tôi không nói vu vơ, các sử gia và các nhà báo đứng
đắn trên thế giới đã viết quá đủ, với những bằng chứng không thể chối cãi) thì
cũng đáng phê phán đấy, nhưng cũng chẳng sao cả, trời không vì thế mà sập được
! Chỉ có cái đầu óc ngu muội, phong kiến của cái đám lãnh đạo cộng sản kênh
kiệu, tự coi mình là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại” hay là “đỉnh
cao trí tuệ loài người”, mới nghĩ rằng phải tô vẽ cho lãnh tụ thành một ông thánh
sống, là một con người siêu phàm, không vợ không con… thì càng thêm uy tín
chính trị !
Thế rồi cứ giấu kín cuộc đời riêng tư của các lãnh tụ như là bí mật quốc gia
số một, hễ ai động khẽ đến là trừng trị tàn nhẫn. Ðấy, cái
vụ vừa qua đảng “xử trí kỷ luật” một cách thô bạo đối với Kim Hạnh, tổng biên
tập báo Tuổi Trẻ, chỉ vì báo đó dám nói sơ sơ chuyện HCM có vợ hồi ở Trung
Quốc, là một chứng minh cho cái đầu óc ngu dốt, độc đoán, lố bịch của cái đám
ấy. Lẽ cố nhiên, cách xử sự của người đàn ông
đối với phụ nữ, đối với vợ con phản ánh toàn bộ tư cách, phẩm chất, đạo đức của
con người, và điều đáng nói, đáng xem xét đối với các lãnh tụ chính là ởđó.
2) Theo tôi, các cô gái Cao Bằng, cũng như anh
chồng chưa cưới của cô Vàng cùng các thương binh bạn chiến đấu của anh đều rất
ngây thơ, tưởng là HCM định lấy cô Xuân làm vợ thật, tưởng cô Xuân là vợ của
HCM thật. Khách quan mà xét, HCM không muốn có vợ đàng hoàng, ông chỉ muốn giữ cái “uy tín chính trị” hão của
“bậc siêu nhân,” ông chỉ muốn được “tiếng” vì dân vì nước đến nỗi suốt đời
không mơ tưởng đến chuyện vợ con. Và điều này nói ra chua
xót thật, nhưng không thể không nói: cô Xuân chỉ là món đồ chơi trong tay ông mà thôi. Cô
Xuân được đưa về Hà Nội là để “phục vụ” HCM, cũng như bao nhiêu cô gái Trung
Quốc đã được đưa đến Trung Nam Hải để “phục vụ” ông Mao (Xem hồi ký “Tôi là bác sĩ riêng của Mao” của
Lý Chí Tuy). Mồm HCM nói nào là giải
phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến, tôn trọng phụ nữ, v.v… Thế
nhưng ông đã hành xử với phụ nữ cực kỳ phong kiến, coi phụ nữ chẳng khác gì món đồ
chơi. Nhận xét như thế hoàn toàn không có tính chất vũ
đoán, vì thử hỏi:
A. Nếu coi cô Xuân là vợ thật, tại sao ông lại
không để cô ở chung tại ngôi nhà riêng của ông ở trong khuôn viên Chủ tịch phủ,
mà bắt cô phải ở riêng mãi tận nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, (ai biết rõ Hà Nội thì
dễ dàng hình dung được khoảng cách) là nhà của công an, lại phải chịu dưới sự
quản lý trực tiếp của bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn và chỉ khi nào ông cần
“được phục vụ” thì cho xe đón cô lên Chủ tịch phủ mà thôi ? Trong những năm đó,
HCM chưa đến nỗi thất thế tới mức phải để cho Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng
Quốc Việt có thể can thiệp vào cuộc sống tình cảm của ông như vậy, có thể khống
chế ông như vậy. Ông đường đường là lãnh tụ tối cao, là Chủ tịch đảng, cơ mà !
B. Nếu ông coi cô Xuân là vợ thật thì khi cô đẻ
con trai rồi, tại sao ông vẫn để hai mẹ con ở riêng tận 66 Hàng Bông Nhuộm và
khi mẹ nó chết rồi, ông không đem con về nuôi, mà lại đưa cho người này, người
khác nuôi cho đến khi thằng bé lên 13 tuổi, là năm ông qua đời, thì “người ta”
(cũng khó biết được là ai, Bộ chính trị hay là theo lời dặn của bố đẻ đứa bé ?)
lại giao nó cho Vũ Kỳ làm con nuôi ? Và xin các bạn chú ý Vũ Kỳ đã (chắc chắn
là anh ta không bao giờ dám tự ý đổi họ thằng bé thành Vũ Trung) xóa mọi dấu
vết tội lỗi của một ông họ Nguyễn Tất !
Ở đây, khách quan mà nói, dường như HCM không có chút tình thương yêu nào đối với
đứa con đẻ của mình. Một người như vậy làm sao có thể thương yêu trẻ con người
khác được ?
3) Theo tôi, thật khó mà bác bỏ ý kiến cho rằng
từ đầu đến cuối, HCM cùng đám cận thần của ông, những ủy viên Trung ương, ủy
viên Bộ chính trị, đã đánh lừa tệ hại cô Xuân, một cô gái quê ngây thơ ở miền
núi, làm cho cô tưởng lầm ông định lấy cô làm vợ thật. Khi có con với ông rồi,
cô xin cho hai mẹ con “được ra công khai” (chắc ý nói hợp thức hóa) thì một mặt
ông làm ra vẻ thông cảm, thừa nhận yêu cầu đó là hợp tình hợp lý nhưng mặt khác
ông lại chỉ vào các ông trong Bộ chính trị mà nói là các ông kia có quyền quyết
định chứ không phải ông, phải chờ ý kiến của các ông kia, làm như ông không
phải là “lãnh tụ tối cao”, không phải là Chủ tịch đảng, làm như ông ở dưới quyền
mấy ông kia trong Bộ chính trị. Rồi ông còn khuyên nhẹ nhàng: “Cô đành phải chờ
một thời gian nữa !” Và thật tội nghiệp cho cô Xuân, cô đã chờ, chờ… Đến khi bị
giết !
4) Còn có nhiều điều khác mà trong tình hình
hiện nay khó có thể tìm ra được lời giải đáp: Tại sao Trần Quốc Hoàn lại có thể
có thái độ trắng trợn, đê tiện như thế đối với cô Xuân ? Dù cô không phải là vợ
chính thức thì cũng là “bồ” (nói theo lối nói thông thường hiện nay ở Việt Nam)
của lãnh tụ, cơ mà ! Sao y lại có thể to gan phạm thượng đến như thế ? Hay là y
đã thấy rõ tình thế bị “thất sủng” của cô Xuân, tức là thái độ không mặn nồng
nào đó của HCM với cô Xuân, nên mới bạo phổi làm chuyện bậy bạ đến thế ? Hay là
y đã biết một quyết định nào đó về cô Xuân, nên y nghĩ rằng “không xài thì phí
của trời,” trước sau rồi cô cũng chết ?
Còn câu hỏi mà HCM đặt ra cho cô Xuân về những
người lạ mặt thường đến chỗ các cô phải không, có ý nghĩa gì ? Có đúng là do bộ
trưởng công an mớm cho ông hay không ? Việc giết cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt…
là mưu đồ của cá nhân Trần Quốc Hoàn, hay là chủ trương của một tập thể ? Nếu
là của một tập thể thì tập thể nào, và HCM có được biết hay không ? Trách nhiệm
của HCM, của Bộ chính trị Trung ương đảng, của Bộ công an, của Trần Quốc Hoàn
trong việc này như thế nào ? Khoảng thời gian từ khi cháu Trung được sinh ra
(cuối năm 1956) đến ngày Hoàn tới dở trò hãm hiếp mẹ nó (6 hay 7-2-1957), cũng
như từ ngày đó tới ngày mẹ nó bị giết (11-2-1957) vì sao lại gần nhau đến thế ?
Ðâu đó có ý nghĩa gì ? Vân vân và vân vân… Hy vọng là rồi đây, các nhà thám tử
Maigrets tài giỏi nhất, các chuyên gia về tội phạm có thể góp ý góp sức, giúp
làm sáng tỏ nhiều vấn đề.
HCM là một nhân vật lịch sử đã có ảnh hưởng rất
lớn đối với vận mệnh đất nước và nhân dân Việt Nam trong nhiều thập niên của
thế kỷ 20. Dù muốn hay không, không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng, ảnh
hưởng đó là tốt hay xấu, hay vừa tốt vừa xấu, tốt nhiều xấu ít, hay ngược lại ?
Công trạng của ông thế nào, tội lỗi của ông ra sao, chỉ có công không có tội,
hay là chỉ có tội không có công, hay vừa công vừa tội ? Ông là vị thánh nhân,
là bậc siêu nhân, hay là kẻ phàm phu, hay là tên giả dối, bịp bợm ? Ông là biểu
tượng của đạo đức với trái tim nhân ái, hay là một kẻ vô luân, vô đạo với lòng
dạ bất lương ?.. Tất cả những câu hỏi đó đòi hỏi một sự nghiên cứu khách quan,
cẩn trọng, sâu sắc, tỉ mỉ, toàn diện, và cuối cùng… phải chờ Lịch Sử cân lượng,
phán xét, Lịch Sử được đúc kết từ muôn ngàn sự kiện chân thật. Nhận thức sâu
sắc điều đó, người viết bài này không mảy may có tham vọng đánh giá cuộc đời
của vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ý muốn nhỏ nhoi đã
được nói ngay từ đầu, chỉ là để góp thêm vài “mẩu chuyện”, qua đó người đọc có
thể thấy thêm được vài nét chân thật trên bức chân dung hoành tráng, đồ sộ của
ông mà giới cầm quyền cộng sản Việt Nam từ trước đến nay đã dày công tô vẽ.
Nhưng, vì chân lý lẽ nào chúng ta có quyền chôn
vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật? Trái lại, bằng bất cứ giá
nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách
quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh
giá đúng đắn và công bằng. Công Lý đòi hỏi như thế ! @@@
Nguyễn Minh Cần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét