Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

BA CHỊ EM NHÀ HỌ TỐNG - PHẦN 3

CHƯƠNG 11: TÔN DẬT TIÊN TỪ TRẦN VÀ TƯỞNG GIỚI THẠCH LÊN NGÔI
Ngày 15-5-1925 tờ New York Times loan báo cái chết của Tôn Dật Tiên. Trước khi chết, Tôn Dật Tiên tìm cách đi Bắc Kinh, hy vọng có thể tránh được biện pháp quân sự bằng cách liên hiệp với các tướng đang kiểm soát thủ đô miền bắc. Các sứ quân làm chủ miền bắc đã bị Phùng Ngọc Tường loại ra ngoài, và họ Phùng muốn nhường cho Tôn Dật Tiên chức tổng thống tại Bắc Kinh, thay vì chức Tổng thống Đặc Biệt tại Quảng Đông. Lời mời của Phùng Ngọc Tường đưa ra đúng lúc Tôn Dật Tiên đang muốn bỏ Quảng Châu và tìm một thủ đô khác.

Phùng Ngọc Tường vốn là một viên tướng theo đạo Thiên Chúa, và đã dùng vòi nước rửa tội tập thể cho binh sĩ dưới quyền. Phùng Ngọc Tường khoe khoang đã dạy dỗ quân sĩ biết phải là tôi tớ của dân chúng, và rất khe khắt với quân phong và quân kỷ. Năm 1924, họ Phùng chán ghét những âm mưu chống đối lẫn nhau của các sứ quân liền chiếm Bắc Kinh, và yêu cầu Nga sô trợ giúp. Nga sô đang giúp Tôn Dật Tiên và Quốc dân đảng trong mưu toan Bắc phạt, nhưng cũng ủng hộ họ Phùng, và đã phái cố vấn và gửi quân viện tới giúp họ Phùng.
Phùng Ngọc Tường biết rõ sức mạnh đang lên của Quốc dân đảng, và danh tiếng của Tôn Dật Tiên. Phùng cũng hiểu rằng bất cứ sự liên kết nào cũng có lợi. Đầu năm 1925, Phùng Ngọc Tường liên lạc với Borodin và đã đi tới các điều kiện hợp tác tốt đẹp. Bây giờ mọi sự đều tùy thuộc Tôn Dật Tiên. Nhưng đối với Tôn Dật Tiên thì thời giờ không còn nhiều nữa. Tôn Dật Tiên đã 58 tuổi, và có bệnh đau bao tử. Trước khi rời Quảng Châu, Tôn Dật Tiên đã cẩn thận sắp xếp lại các chức vụ trong Quốc dân đảng, và giao cho Hồ Hán Dân điều khiển tổng quát. Tôn Dật Tiên cùng Khánh Linh và Borodin lên đường đi Bắc Kinh. Trên đường đi, Tôn Dật Tiên ghé Thượng Hải và Nhật Bản trước. Tại Nhật Bản, Tôn Dật Tiên nhận được một sự đón tiếp rất lạnh nhạt, vì Nhật Bản khó chịu sự liên kết với Nga sô của ông.
Ngày 4-12-1924, Tôn Dật Tiên trở về Trung hoa và tới hải cảng Thiên Tân, với hai bàn tay trắng và một trái tim đầy nhiệt tình. Trong một cuộc hội họp thảo luận với sứ quân Trương Tác Lâm của Mãn Châu, Tôn Dật Tiên ngất xỉu vì đuối sức. Trong ba tuần lễ kế tiếp, Khánh Linh lúc nào cũng túc trực ngồi bên cạnh săn sóc Tôn Dật Tiên. Ngày 31-12, một chuyến xe lửa đặc biệt chở Tôn Dật Tiên về Bắc Kinh, tại đó một đám đông trên một trăm ngàn người đứng chào đón Tôn Dật Tiên tại ngay nhà ga, nhưng ông lúc đó mệt quá, không thể đứng lên chào mừng đám đông được. Ngày 26-1-1925, Tôn Dật Tiên được chở tới bệnh viện, và tại đây người ta khám phá ông bị ung thư gan, và đã đến giai đoạn không thể chữa được nữa.
Khi tin Tôn Dật Tiên bị bệnh sắp chết được tung ra thì tất cả những cộng sự thân tín đều tấp nập trở về, đứng bên giường bệnh của ông. Ba phụ tá quan trọng nhất của Tôn Dật Tiên gồm có nhà chính trị hữu khuynh Hồ Hán Dân, nhà chính trị tả khuynh Liêu Trọng Khải và cố vấn quân sự Tưởng Giới Thạch phải ở lại Quảng Châu, vì họ đang có nhiệm vụ giữ vững thủ đô miền nam. Trên giường chết, Tôn Dật Tiên thành lập Hội đồng Chính trị Trung ương thay mặt ông tại Bắc Kinh, và Uông Tinh Vệ được giao phó nhiệm vụ điều khiển Hội đồng này.
Khi nhà đại cách mạng nằm chờ chết thì hai vấn đề lớn được đặt ra: có nên tiếp tục sự liên kết với cộng sản không, và ai sẽ thay thế Tôn Dật Tiên lãnh đạo cuộc cách mạng. Một cuộc tranh quyền bắt đầu ngay từ đó, âm thầm nhưng quyết liệt và đẫm máu. Tại Nga sô, Lênin cũng vừa mới từ trần. Borodin đánh điện về xin chỉ thị khẩn cấp, nhưng không được trả lời, vì Stalin và Trotsky còn mải tranh dành quyền hành. Trong khi đó, quanh giường chết của Tôn Dật Tiên, người ta đang cố lợi dụng những giây phút cuối cùng của nhà cách mạng này. Borodin thì nói: "Trong giờ phút cuối cùng, Tôn Dật Tiên còn tỉnh táo và nói: "Ước gì Nga sô tiếp tục giúp đỡ Trung hoạ" Tưởng Giới Thạch ở xa Tôn Dật Tiên hàng ngàn dậm, cũng nói cho mọi người biết trong giờ phút lâm chung, Tôn Dật Tiên đã lấy hết hơi sức tàn ra để gọi ba chữ: "Tưởng Giới Thạch."
Trong lúc đó bên giường chết của Tôn Dật Tiên, Uông Tinh Vệ đọc chúc thư cuối cùng của ông. Tôn Dật Tiên nghe xong, đồng ý và run tay ký với sự giúp đỡ của Khánh Linh. Chúc thư này để lại cho Khánh Linh tất cả những sách vở, giấy tờ và vật dụng cá nhân của ông trong căn nhà đường Rue Molière tại Thượng Hải. Trong suốt cuộc đời cách mạng, Tôn Dật Tiên đã thu được hàng triệu đô la quyên góp được, nhưng khi chết ông chỉ để lại cho vợ một ít sách vở và đồ dùng cá nhân, chứ không có tiền bạc gì. Dưới đây là nguyên văn chúc thư của Tôn Dật Tiên ký ngày 11-3-1925:
"Trong 40 năm qua, tôi đã cống hiến đời tôi cho chính nghĩa Cách Mạng Quốc Gia, mà mục tiêu là nâng Trung Hoa lên địa vị độc lập và bình đẳng với các quốc gia khác. Kinh nghiệm 40 năm qua khiến tôi tin tưởng rằng, để đạt được mục tiêu này, chúng ta phải thức tỉnh quần chúng và liên kết với cuộc chiến đấu chung của các dân tộc khác trên thế giới đã đối xử bình đẳng với tạ"
"Cuộc Cách Mạng vẫn chưa được hoàn thành. Xin các đồng chí hãy đi theo những văn liệu của tôi, như Kế Hoạch Tái Thiết Quốc Gia, Tam Dân Chủ Nghĩa và Tuyên Ngôn Của Quốc Hội Đầu Tiên, và phải tận tâm áp dụng những tài liệu này. Trên tất cả, lời tuyên bố triệu tập Quốc Dân Đại Hội Trung Hoa của chúng ta và việc bãi bỏ các hiệp ước bất bình đẳng phải được thực thi càng sớm càng tốt. Đây là huấn thị chân thành của tôi cho mọi người."
Bản chúc thư trên đây về sau được đọc trước mỗi buổi họp của Quốc dân đảng, và trở thành một bài "Phúc Âm" của phong trào tôn thờ Tôn Dật Tiên. Một lá thư từ giã Nga sô viết bằng Anh ngữ được Tống Tử Văn đọc lên cho Tôn Dật Tiên nghe trước khi ông ký. Lá thư này được xuất hiện trên từ báo Sự Thật của Nga sô.
Ngày 11-3-1925, Tôn Dật Tiên yêu cầu được chuyển sang nằm trên một chiếc ghế bố của binh sĩ. Đúng 9:30 sáng ngày 12-3-1925 Tôn Dật Tiên từ trần, hưởng thọ 59 tuổi. Trong hai tuần lễ, trên nửa triệu người đã đến nghiêng mình trước linh cữu của ông. Rồi quan tài của ông được đưa lên chùa Thanh Vân ở phía tây Bắc Kinh. Tôn Dật Tiên ước muốn được chôn cất tại một ngọn núi bên ngoài thành phố Nam Kinh, nơi có lăng tẩm của hoàng đế đầu tiên nhà Minh.
Cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên được coi là một cuộc cách mạng vĩ đại nhất Trung Hoa, kể từ sau cuộc cách mạng của Tần Thủy Hoàng. Tôn Dật Tiên chưa thực hiện được những điều ông ấp ủ, nhưng ông cũng đã đưa ra những tư tưởng mới, thay đổi hẳn chế độ chính trị và cải tạo xã hội Trung Hoa. Học thuyết của Tôn Dật Tiên thể hiện trong ba nguyên tắc: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do và Dân sinh hạnh phúc. Người ta gọi học thuyết này là Tam Dân Chủ Nghĩa. Tôn Dật Tiên được toàn thể người Trung Hoa tôn kính như một bậc Quốc Phụ.
TƯỞNG GIỚI THẠCH, NHÀ LÃNH ĐẠO MỚI
Trong Quốc dân đảng, những người hy vọng nhất để kế vị Tôn Dật Tiên gồm có Hồ Hán Dân, Uông Tinh Vệ và Liêu Trọng Khải. Trong ba người này thì Liêu Trọng Khải có uy thế nhất, vì Liêu Trọng Khải chủ trương thân Nga, được Borodin và phe cộng sản hết sức ủng hộ. Chính Liêu Trọng Khải đã cố vấn cho Tôn Dật Tiên và khuyên Tôn Dật Tiên nên đi theo Nga sộ Khi Tôn Dật Tiên chết thì Liêu Trọng Khải là tổng đốc Quảng Đông.
It ai nghĩ đến một ứng viên thứ tư: đó là Bố già Đỗ Đại Nhĩ. Đỗ Đại Nhĩ cũng có ý nhòm ngó địa vị lãnh đạo Quốc dân đảng, nhưng hắn cũng biết nhược điểm của hắn chỉ là một tên cướp và trùm buôn lậu, không đủ uy tín để lãnh đạo. Đỗ Đại Nhĩ đi đến một kết luận là phải đặt người của mình vào chức vụ lãnh đạo Quốc dân đảng. Người mà Đỗ Đại Nhĩ cần dùng chính là Tưởng Giới Thạch, một người vẫn chịu ơn Đỗ Đại Nhĩ.
Các công nhân tả phái tại Thượng Hải tổ chức những cuộc biểu tình liên miên, gây ảnh hưởng tai hại cho các tổ chức thợ thuyền Lục Hội của Đỗ Đại Nhĩ. Đỗ Đại Nhĩ thấy đến lúc cần phải ra tay, và phái Curio Trương xuống Quảng Đông trợ giúp Tưởng Giới Thạch đoạt quyền hành và loại phe tả ra khỏi Quốc dân đảng. Ngày 20-8-1925, Liêu Trọng Khải tới dự một phiên họp tại Quảng Châu. Khi Liêu Trọng Khải vừa bước xuống xe thì một toán năm người chĩa súng vào họ Liêu và bắn xối sả. Liêu Trọng Khải ngã gục xuống chết ngay trước trụ sở Quốc dân đảng.
Borodin và Tưởng Giới Thạch liền mở một cuộc điều tra về vụ ám sát Liêu Trọng Khải. Một người tình nghi được dẫn tới cho Tưởng. Trong lúc thẩm vấn, Tưởng nổi giận rút súng bắn chết người tình nghi đó tại chỗ. Cuộc điều tra hoàn toàn thất bại, không tìm ra tung tích thủ phạm. Nhưng phần đông đều cho rằng thủ phạm là đàn em của Đỗ Đại Nhĩ, vì cảnh sát nhận thấy vụ giết Liêu Trọng Khải rất giống với các vụ ám sát của Lục Hội.
Cái chết của Liêu Trọng Khải tạo ra một khoảng trống trong ban lãnh đạo Quốc dân đảng, và Curio Trương được bầu vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc dân đảng ngày 19-5-1926. Tuy nhiên Curio Trương chỉ đóng vai trò mở đường cho Tưởng Giới Thạch. Chỉ vài tuần sau, ngày 7-7-1926, Curio Trương từ chức để Tưởng được bầu vào chức chủ tịch này, đúng như dự định của Bố già Đỗ Đại Nhĩ. Con đường cho Tưởng Giới Thạch nắm quyền và trở thành một nhà độc tài của Trung Hoa đã rộng mở.
Phe Tưởng Giới Thạch chủ trương phải loại bỏ nhà chính trị trung lập Uông Tinh Vệ và phe cộng sản. Tưởng quyết định đánh phe địch một đòn ác liệt bất ngờ. Một đêm tất cả các nhân viên chính trị và chính ủy tại trường võ bị Hoàng Phố bị bắt giữ. Các cấp chỉ huy cộng sản cũng bị bắt. Các tay anh chị tấn công đám nông dân có thiện cảm với cộng sản tại nhiều nơi. Đến sáng thì Tưởng Giới Thạch hoàn toàn làm chủ Quảng Châu. Uông Tinh Vệ hoảng sợ, đến ra mắt và nộp cho Tưởng Giới Thạch tất cả ấn tín của văn phòng Quốc dân đảng, và sau đó xuống tầu thủy đi Âu châu "để chữa bệnh". Tưởng Giới Thạch ra lệnh tất cả các cố vấn Nga sô phải rời khỏi Trung hoa.
Các lãnh tụ cộng sản vội bỏ trốn. Nhưng vài ngày sau, Tưởng Giới Thạch lên tiếng xin lỗi, và cho biết đã có sự hiểu lầm, đồng thời thả hết những người bị bắt giữ. Tưởng hứa sẽ trừng phạt các sĩ quan có trách nhiệm trong vụ bắt bớ này. Nhưng Tưởng Giới Thạch đã chính thức trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Quốc dân đảng như Tôn Dật Tiên trước kia.
Các nhà lãnh đạo cộng sản tại Trung Hoa và Nga sô đều không phản ứng kịp thời trước sự chiếm quyền của Tưởng Giới Thạch. Lúc đó tại Nga sô, Stalin và Trotsky còn mải gầm gừ giết nhau, và Borodin thì không có mặt tại Quảng Châu. Khi Borodin trở về, Tưởng đến tận nơi xin lỗi Borodin, và hứa sẽ loại bỏ những phần tử hữu khuynh trong Quốc dân đảng. Lần này Borodin bị Tưởng lừa thêm một lần nữa. Thực ra Tưởng đang cần loại trừ một số đảng viên không chịu khuất phục, không chịu nộp tiền bảo vệ cho Lục Hội.
Bây giờ Borodin phải tiếp tục hợp tác với Tưởng Giới Thạch. Tưởng yêu cầu Nga sô phải ủng hộ chiến dịch Bắc phạt của Quốc dân đảng, nếu không liên minh Nga-Hoa sẽ chấm dứt, và người Nga phải rời khỏi Trung Hoa ngay tức khắc. Stalin ra lệnh cho Borodin phải chiều theo ý Tưởng Giới Thạch, và phải thay đổi bất cứ cố vấn Nga nào mà Tưởng không thích.
Khi địa vị có vẻ vững rồi, Tưởng liền sai Curio Trương thay mặt mình tới cầu hôn với bà Tống Khánh Linh, quả phụ của Tôn Dật Tiên. Khi Tôn Dật Tiên còn sống Tưởng lúc nào cũng coi ông như một bậc sư phụ, nhưng bây giờ Tưởng muốn kết hôn với bà vợ góa của Tôn Dật Tiên. Tưởng nhìn thấy ở Khánh Linh một cơ hội chính trị quan trọng, vì Khánh Linh được coi là biểu tượng cho công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên. Nếu lấy được Khánh Linh thì Tưởng sẽ có cái uy tín của Tôn Dật Tiên, và được một khối đa số người Trung Hoa thần phục. Nhưng bà Tống Khánh Linh cự tuyệt lời cầu hôn của Tưởng. Bà vốn khinh bỉ Tưởng là một con người vô tư cách, và cho rằng việc cầu hôn này không phải là do tình yêu mà chỉ là tham vọng chính trị.
*
Tưởng Giới Thạch nối tiếp công cuộc Bắc phạt của Tôn Dật Tiên, và cuộc chinh phạt bắt đầu vào mùa hè 1926. Mục tiêu đầu tiên là lưu vực sông Dương Tử, 600 dặm về phía bắc. Đại quân Bắc phạt chia làm hai đường tiến quân. Một cánh quân do phe cộng sản chỉ huy tiến về thành phố Vũ Hán. Một cánh do chính Tưởng chỉ huy và tiến về Nam Xương và Thượng Hải.
Phe cộng sản tận tình khai thác cuộc hành quân Bắc phạt. Tới đâu phe cộng cũng kêu gọi nông dân và công nhân đứng dậy chống lại các sứ quân. Cuộc tiến quân của phe cộng có sự trợ giúp của các sĩ quan Nga sô nên có kết quả rất tốt. Những hứa hẹn của cộng sản đã khiến nông dân hăng hái làm tai mắt từ hậu phương của các sứ quân. Các kỹ thuật phá hoại của các đảng viên cộng sản cũng gây nhiều khó khăn cho các sứ quân. Phe cộng sản còn âm mưu cướp công của Tưởng Giới Thạch bằng cách tổ chức những cuộc nổi dậy kiểu cộng sản của công nhân tại Thượng Hải.
Đối với Tưởng Giới Thạch thì kẻ thù bất cộng đới thiên là cộng sản. Tưởng biết phe cộng đang muốn nhuộm đỏ Thượng Hải, nên Tưởng hành quân một cách rất nhàn tản, không muốn tiến tới Thượng Hải ngaỵ Tưởng muốn dùng các tay anh chị trong Lục Hội làm thịt công nhân và phe cộng tại Thượng Hải trước. Tưởng muốn dưỡng quân nên tránh mọi giao chiến với các sứ quân, và hạn chế hoạt động của các cán bộ cộng sản được phái đi theo Tưởng. Tưởng còn cấm chỉ nông dân không được trả thù các sứ quân và giới phú hào. Các quan sát viên ngoại quốc lại khen ngợi Tưởng là một nhà quân sự có tinh thần trách nhiệm.
Đến tháng 10-1926 thì cánh quân do cộng sản chỉ huy đã chiếm được Vũ Hán, Hồ Nam và Hồ Bắc. Đến tháng 12 thì cánh quân này chiếm được Giang Tây và Phúc Kiến. Vũ Hán là một thành phố lớn và giầu thịnh, vì thế chính phủ Quốc dân đảng rời thủ đô từ Quảng Châu lên Vũ Hán, trong đó có Borodin, bà Tống Khánh Linh, và Tống Tử Văn. Các nhượng địa của Anh tại vùng tây bắc này cũng bị quân đội Bắc phạt phe cộng sản chiếm lại. Anh quốc liền phái một đạo quân viễn chinh hùng hậu sang Trung Hoa, với nhiệm vụ cố giữ nhượng địa quan trọng nhất của Anh là Thượng Hải.
Đạo quân Bắc phạt phía đông của Tưởng Giới Thạch tiến vào Nam Xương, một thành phố cổ kính, và nằm chờ tại đó. Trong khi đó tại Thượng Hải, các cán bộ cộng sản nhận được những mệnh lệnh mâu thuẫn của Stalin. Họ dự định làm một cuộc nổi dậy vào tháng 10, trước khi đại quân của Tưởng tới. Các Bố già Hoàng Mặt Rỗ và Đỗ Đại Nhĩ biết được kế hoạch nổi dậy của phe cộng sản nên cũng chuẩn bị đối phó, tấn công lại phe cộng sản. Tưởng phái một viên tướng của mình tới Thượng Hải, và cho phe công nhân biết Tưởng sẵn sàng ủng hộ và trợ giúp cuộc nổi dậy của công nhân bằng một "đơn vị đặc biệt" được huấn luyện tại trường Hoàng Phố. Đỗ Đại Nhĩ thông báo cho viên sứ quân tại Thượng Hải biết các kế hoạch của phe cộng sản, và viên sứ quân này đã sẵn sàng chờ đợi. Khi cuộc nổi dậy của công nhân cộng sản khởi sự thì họ không thấy "đơn vị đặc biệt" mà Tưởng hứa sẽ trợ giúp họ. Các công nhân chỉ thấy hỏa lực rất mạnh của viên sứ quân đang chờ đợi sẵn. Phe công nhân và cộng sản bị thảm bại nặng nề; rất nhiều công nhân và cán bộ cộng sản bị giết trong cuộc nổi dậy này.
Phe cộng vội phái Chu Ân Lai tới Thượng Hải để cứu nguỵ Chu Ân Lai chỉ huy và tổ chức lại các lực lượng xung kích cộng sản đã bị đánh bại và đang mất tinh thần. Chu Ân Lai là một người cộng sản thành thị, từng làm việc chặt chẽ với Borodin, và có một số kinh nghiệm công xã tại Ba Lệ Phe cộng sản không biết được rằng họ đang xông vào một cái bẫy do Tưởng và các tay anh chị Lục Hội đang giăng sẵn.
Sau cuộc tàn sát tháng 10, Thượng Hải vẫn còn trong tình trạng căng thẳng. Người ta lo sợ Thượng Hải sẽ bị cộng sản chiếm. Các thương gia đem gia đình trốn vào khu tô giới Pháp, có quân đội Pháp canh gác cẩn mật sau rào kẽm gai và các ụ đất. Quân Anh tăng cường đông nhất, cứ một người dân Anh sống tại Thượng Hải thì có hai quân sĩ tới bảo vệ. Phi cơ Anh bay tuần thám trên không phận, và dưới hải cảng có trên 30 chiến hạm của Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ý và Bồ Đào Nhạ Viện binh ngoại quốc vẫn tiếp tục tới.
Phe cộng sản và công nhân Thượng Hải hiểu nhầm ý của Tưởng Giới Thạch, và quyết định phát động cuộc nổi dậy ba ngày trước khi quân của Tưởng tới nơi. Ngày 19-2-1927, xe điện và tầu thuyền trên sông ngừng chạy, nhà bưu điện bị khóa lại, các xưởng máy im lặng, và các cửa tiệm trên đại lộ Nam Kinh cũng đóng cửa. Tất cả sinh hoạt của Thượng Hải ngừng lại theo lệnh của cộng sản trong một cuộc đình công lớn nhất.
Lúc đó đại quân của Tưởng Giới Thạch vẫn còn cách xa Thượng Hải. Nằm chờ sẵn cuộc đình công của cộng sản là các cảnh sát được vũ trang đầy đủ, và các lính đánh thuê của sứ quân địa phương. Tất cả lực lượng này được sự hỗ trợ của cảnh sát quốc tế. Công nhân đều vắng mặt nên mục tiêu lúc đầu chỉ là những sinh viên đi phát truyền đơn, và một số công nhân vác biểu ngữ đình công. Cảnh sát và quân lính xông ra, lôi các sinh viên và thợ thuyền ra giữa đường và chặt cổ họ. Bên trong các tô giới, cảnh sát quốc tế cũng bắt giữ những sinh viên phát truyền đơn và đẩy họ ra ngoài cho các lính đánh thuê chặt đầu. Riêng ngày 19-2 có tới hai trăm người bị chặt đầu. Đầu của họ được cắm vào những cây sào và vác đi rước khắp thành phố để thị uỵ Hàng ngàn người hoảng sợ bỏ trốn khỏi Thượng Hải.
Hai ngày sau, các cuộc hỗn chiến xảy ra ngoài đường phố. Lực lượng sứ quân địa phương xông ra, mặc sức chém giết những kẻ hôi đồ, công nhân và cán bộ cộng sản. Trong lúc phe cộng sản mong đợi quân của Tưởng Giới Thạch tới giúp thì Tưởng ra lệnh cho binh sĩ đừng lại, cách Thượng Hải 25 dặm. Những cái xác không đầu nằm rải rác khắp đường phố. Mấy tuần sau, viên tướng ra lệnh chặt đầu phe cộng sản được Tưởng thăng chức Tư lệnh Đệ Bát Quân Đoàn.
Phe cộng sản tại Thượng Hải thấy không mong được Tưởng giúp, nên quyết định tự lực đứng lên đảo chánh cướp chánh quyền Thượng Hải vào đêm 22-3-1927. Chu Ân Lai không quên kinh nghiệm đau đớn của cuộc hỗn chiến ngoài đường phố hồi tháng 10 năm trước, nên đã tổ chức lại lực lượng năm ngàn cán bộ cộng sản thành từng tiểu tổ, mỗi tổ 30 người. Các tiểu tổ này được công nhân hỗ trợ. Lực lượng của Chu Ân Lai được vũ trang bằng gậy, búa hoặc dao. Tuy nhiên họ cũng có khoảng 150 khẳu súng Mauser và mỗi tiểu tổ được phát cho một khẩu Mauser. Về nhân sự thì phe cộng sản không gặp khó khăn. Vào đêm đảo chánh, cộng sản có 800 ngàn công nhân đi theo. Riêng Chu Ân Lai dẫn 300 người tấn công sở cảnh sát và chiếm được nhà máy điện, và trung tâm điện thoại điện tín. Đến trưa ngày hôm sau, toàn thể Thượng Hải rơi vào tay cộng sản. Những binh lính cuối cùng của sứ quân Thượng Hải đầu hàng tại ga xe lửa lúc 6 giờ chiều. Đúng lúc đó thì đại quân của Tưởng tới nơi.
Một cánh quân khác của Tưởng tiến chiếm được thành phố Nam Kinh. Một số nhà cửa của các nhà truyền giáo bị cướp bóc. Ba tên lính của Tưởng bắt được một phụ nữ Mỹ, lôi lên lầu và hiếp bà tạ Tin này được truyền tới Thượng Hải, và lan tràn khắp báo chí thế giới. Chính phủ Hoa Kỳ liền mở một cuộc điều trạ Vì vụ này, Tưởng tiếp tục ở đưới tầu thủy của mình, không dám lên bờ, sợ bị dính líu vào vụ hãm hiếp tai tiếng. Trong khi đó Thượng Hải nằm hoàn toàn trong tay cộng sản, dưới quyền chỉ huy của Chu Ân Lai và một nhóm vài ngàn cán bộ. Nhưng tại Hàng Châu, các đàn em của Bố già Đỗ Đại Nhĩ tấn công và triệt hạ các cơ sở của công nhân tả phái, và hạ sát bất cứ ai chống lại họ.
Khi tầu của Tưởng cặp bến Thượng Hải, Tưởng lập tức đến một nơi họp bí mật với Bố già Hoàng Mặt Rỗ. Ngày hôm sau Tưởng ra lệnh thiết quân luật tại Thượng Hải, nhưng chưa ra tay ngaỵ Một cuộc thương lượng ngầm đang diễn ra giữa giới tài phiệt Thượng Hải và Lục Hội. Tưởng có thể tiêu diệt phe cộng sản và lấy lại được Thượng Hải cho các thương gia ngay, nhưng Tưởng muốn được trả công một cách xứng đáng. Văn hào Pháp André Malraux đã viết trong Số Phận Con Người như sau: "Không phải vì bạn trả tiền cho Tưởng mà ông ta sẽ diệt cộng sản, trái lại chính vì ông ta diệt cộng sản mà bạn phải trả tiền cho ông tạ"
Các triệu phú Thượng Hải cuối cùng đã đồng ý cho Tưởng "vay" một số tiền ba triệu đô la để được bảo vệ chống lại cộng sản! Số tiền này được nộp ngày 4-4 như là một số tiền đặt cọc trước. Vài ngày sau các nhà triệu phú sẽ phải cho Tưởng "vay" thêm 7 triệu đô la nữa. Một nhóm thương gia khác phải bỏ ra 15 triệu đô la cho Tưởng xử dụng và vài ngày sau đó lại "cho vay" thêm 30 triệu nữa để Tưởng có thể thiết lập một chính phủ ôn hòa tại Nam Kinh. Như vậy tổng cộng Tưởng thu được 50 triệu đô la trong việc giải phóng Thượng Hải. Tuy nhiên đó chỉ là tiền nổi, còn tiền chìm bao nhiêu thì không ai biết được.
Ngày 1-4 tại Mạc tư khoa, Stalin tuyên bố: "Tôi đã được báo cáo Tưởng Giới Thạch sẽ chống lại cách mạng. Tôi biết hắn đang cướp tay trên của chúng ta, nhưng chính hắn sẽ bị đè bẹp. Chúng ta sẽ bóp nát hắn như bóp một trái chanh rồi liệng đị" Tuy vậy Stalin không cho phép cộng sản Trung hoa chống lại Tưởng, và tờ Sự Thật của Nga vẫn ca ngợi cuộc tiến quân của Tưởng vào Thượng Hải như là một bước tiến mới trong công cuộc cách mạng thế giới. Stalin ra lệnh cho cộng sản Trung hoa phải tập hợp công nhân lại, dấu vũ khí để dành khi cần dùng tới. Trong khi đó Tưởng tuyên bố quyết định chống lại phe cộng sản tại Vũ Hán, và các lãnh tụ, đảng viên cộng sản và sinh viên công nhân thân cộng đều bị truy lùng gắt gao.
Ngày 6-4 tại Bắc Kinh, 500 quân của sứ quân Mãn châu Trương Tác Lâm tấn công vào trụ sở của phái bộ ngoại giao Nga sộ Hai mươi đảng viên cộng sản Trung hoa bị bắt tại trụ sở này, trong đó có Lý Đại Chiêu và hai người con gái của ông tạ Lý Đại Chiêu là người thủ thư tại thư viện Bắc Kinh trước kia đã từng giúp đỡ Mao Trạch Đông kiếm được việc làm tại thư viện trong lúc Mao Trạch Đông đang túng quẫn. Lý Đại Chiêu bị quân của Trương Tác Lâm tra khảo rất tàn độc, và cuối cùng ông ta bị đè xuống để bị thắt cổ một cách thật từ từ để ông ta chịu một cái chết rất chậm. Người con gái 17 tuổi của Lý Đại Chiêu cũng bị tra khảo dã man, và cũng bị thắt cổ chết như thân phụ. Tưởng Giới Thạch đánh điện xin lỗi Nga sô về vụ tấn công trụ sở ngoại giao của Nga sô tại Bắc Kinh. Tưởng đoan chắc là có sự hiểu lầm trong vụ này.
Tại Thượng Hải ngày 11-4, quân đội Anh và Nhật tấn công vào các nơi ẩn nấp của các cán bộ cộng sản. Những tù binh bắt được đều giao lại cho quân của Tưởng để hành quyết. Lúc 4 giờ sáng ngày 12-4, các tay anh chị của Lục Hội bắt đầu ra tay tấn công phe cộng sản tại khắp thành phố. Các cấp lãnh đạo của cộng sản tan tác. Phần lớn bị bắt và giết, trừ một số nhỏ, trong đó có Chu Ân Lai, trốn được về Hán Khẩu. Theo tác giả Edgar Snow thì các tay anh chị Lục Hội đã giết được từ năm ngàn tới mười ngàn người thuộc phe cộng sản trong suốt 9 giờ hoành hành.
Ngày 13-4, các nhà lãnh đạo cộng sản còn lại tổ chức một cuộc đình công mới. Gần một trăm ngàn công nhân xuống đường, tiến về bộ chỉ huy của Tưởng Giới Thạch. Nhưng họ bị quân sĩ hai bên đường bắn hạ hàng loạt. Những người bỏ chạy trốn cũng bị quân Quốc dân đảng lôi ra giữa đường và dùng lưỡi lê đâm chết. Ñt nhất trên 300 người bị giết trong cuộc xuống đường.
Đến đây thì Thượng Hải hoàn toàn nằm trong tay của Tưởng Giới Thạch và Bố già Đỗ Đại Nhĩ. Chính phủ tả phái tại Vũ Hán phản đối và ra lệnh cách chức và bắt giam Tưởng Giới Thạch, nhưng mệnh lệnh của Vũ Hán vô giá trị, vì Tưởng nắm tất cả sức mạnh quân sự lúc bấy giờ. Borodin tổ chức một chiến dịch tuyên truyền chống lại Tưởng, nhưng thất bại. Cuối cùng Borodin phải đốt hết hồ sơ, và sắp đặt cho các cố vấn Nga trở về nước.



CHƯƠNG 12: BA CHỊ EM, BA TÂM HỒN
Sau khi Thượng Hải được giải phóng khỏi tay cộng sản, giới tài phiệt lúc đầu coi Tưởng Giới Thạch là cứu tinh của họ. Nhưng chẳng bao lâu, họ kinh hoàng khám phá rằng Tưởng chính là nguồn thống khổ của họ. Nhà báo Solosky viết: "Tất cả mọi hình thức gây khốn đốn cho các thương gia giầu có đều được che dấu dưới chiêu bài tiêu diệt cộng sản. Đàn ông bị bắt cóc và cưỡng buộc phải cúng tiền cho ngân quỹ quân đội. Chưa bao giờ lịch sử Thượng Hải được chứng kiến những kinh hoàng như thế."
Tờ New York Times kể: "Tình cảnh của các thương gia Thượng Hải thật đáng thương. Dưới sự sinh sát của nhà độc tài Tưởng Giới Thạch, các thương gia không biết điều gì sẽ xảy ra ngày mai... Tịch thu tài sản, cưỡng bách cho vay, trục xuất và có thể là hành quyết." Thương gia giầu có nhất Thượng Hải là người họ Phúc bị Tưởng hỏi vay 10 triệu đô lạ Khi họ Phúc từ chối, Tưởng ra lệnh bắt giam họ Phúc và tịch thu tất cả tài sản. Cuối cùng họ Phúc phải cúng cho Tưởng một số tiền lớn hơn số tiền Tưởng hỏi "vay" lúc ban đầu.
Tưởng đặt ra một loạt công khố phiếu, và dùng quân đội và các tay anh chị ép buộc mọi nhà buôn lớn nhỏ phải muạ Một triệu phú từ chối không mua thì con trai ông ta bị bắt cóc. Một thiếu niên con trai một thương gia bị bắt vì tội phản cách mạng, nhưng khi nhà thương gia có con bị bắt, ủng hộ Tưởng hai trăm ngàn đô la thì đứa con được tha ngaỵ Một chủ hãng dệt phải chuộc đứa con trai bị bắt với số tiền bảy trăm ngàn. Một thương gia khác phải nộp nửa triệu khi đứa con trai ba tuổi tự nhiên mất tích. Nhưng sau khi người thương gia nộp tiền rồi thì đứa con ba tuổi lập tức xuất hiện ngay trước cửa nhà. Đây là đường lối tống tiền quen thuộc của Lục Hội. Nay Tưởng áp dụng triệt để như là quốc sách. Tuy vậy Tưởng vẫn chưa thỏa mãn.
Mỗi tháng Tưởng cần 20 triệu để trả lương cho quân đội. Tưởng cần phải đặt ra một hệ thống thuế khóa lâu dài. Điều Tưởng cần là phải có một nhà chuyên môn để thâu thuế cho mình. Đúng lúc đó thì Tống Tử Văn từ Vũ Hán tới. Tống Tử Văn ngây thơ tin tưởng rằng Thượng Hải vẫn trực thuộc chính phủ Vũ Hán, và họ Tống đến Thượng Hải để tìm cách thu lợi tức cho chính phủ Vũ Hán.
Tống Tử Văn biết rằng những số tiền Tưởng "vay" được trở thành tài sản riêng của Tưởng. Còn công sở và quân đội thì phải tự lo liệu lấy, thường là bằng cách ăn hối lộ. Tất cả những tiền bạc này không bao giờ được gửi tới chính phủ Vũ Hán. Lúc đó các thương gia Thượng Hải chưa biết sự rạn nứt giữa chính phủ Vũ Hán và Tưởng. Điều họ biết rõ là họ không muốn tiếp tục "ủng hộ" tiền cho Tưởng như thế. Họ muốn nhận được những giấy tờ bảo đảm sau này chính phủ sẽ trả lại tiền cho họ. Họ cần có một người có uy tín như bộ trưởng tài chánh Tống Tử Văn đứng ra ngăn cản Tưởng. Tống Tử Văn đã cương quyết từ chối không ký chấp nhận những cuộc tống tiền công khai của Tưởng. Thực ra sự bướng bỉnh của Tống Tử Văn cũng vì tài sản nhà họ Tống tại Thượng Hải.
Điều này đã đẩy Tống Tử Văn và Tưởng trực tiếp đối đầu với nhau. Ngày 18-4 Tưởng tuyên bố thành lập chính phủ quốc gia tại Thượng Hải và Nam Kinh, tách hẳn chính phủ Vũ Hán, và yêu cầu Tống Tử Văn ở lại làm bộ trưởng tài chánh. Thoạt đầu Tống Tử Văn từ chối, nhưng hai ngày sau họ Tống chấp nhận với điều kiện không phê chuẩn những cuộc tống tiền của Tưởng. Tưởng lập tức đóng cửa văn phòng của Tống Tử Văn, và bổ nhiệm một người khác làm bộ trưởng tài chánh. Tưởng còn ra lệnh cho quân đội tại Quảng Đông giữ tất cả tài sản của Tống Tử Văn tại ngân hàng. Đến đây Tống Tử Văn phải cộng tác vô điều kiện với Tưởng.
Lúc đó Tưởng Giới Thạch đang ra công chinh phục Tống Mỹ Linh, sau khi bị Khánh Linh cự tuyệt lời cầu hôn. Tống Ái Linh và Đỗ Đại Nhĩ hết sức giúp cho Tưởng được toại nguyện. Thoạt đầu Mỹ Linh không ưa Tưởng. Trước mắt nàng, Tưởng chỉ là một tay võ biền thô tục, có nhiều liên hệ tai tiếng với giới anh chị và gái giang hồ tại Thượng Hải và Quảng Châu. Mỹ Linh chỉ chấp nhận cho Tưởng viết thư thăm hỏi, và mỗi khi hai người gặp nhau tại nhà Ái Linh đều có Ái Linh và Khổng Tường Hy chứng kiến.
Về phần Tống Tử Văn thì bị chính bà chị Ái Linh và anh rể chèn ép, vì họ không thích những tư tưởng tự do của Tống Tử Văn. Vợ chồng Ái Linh thúc đẩy Tưởng phải làm áp lực với Tống Tử Văn và sai người của Lục Hội theo rõi họ Tống. Tống Tử Văn cảm thấy hoang mang, và chỉ thích trở lại căn nhà của Khánh Linh trên đường Molière, để tránh những màn tẩy não của Ái Linh. Càng ngày Tống Tử Văn càng mất tự tin trước sức mạnh của Tưởng, một người dung túng cho quân đội Quốc dân đảng mổ bụng các thiếu nữ, và lấy ruột quấn quanh cổ nạn nhân trong lúc nạn nhân đang hấp hối.
Sau khi trục xuất Tưởng Giới Thạch ra khỏi Quốc dân đảng, chính phủ Vũ Hán càng ngày càng suy yếu. Hải quân Anh và Mỹ tiến vào sông Dương Tử, lập hàng rào ngăn chặn việc chuyên chở lúa gạo, dầu và than đá, gây thêm khó khăn về kinh tế cho chính phủ Vũ Hán. Ngay tại tỉnh Hồ Nam, quê hương của Mao Trạch Đông, một viên tướng trung thành với Tưởng Giới Thạch đã chiếm được thủ phủ Trường Sa và đánh bại được quân đội nông dân của cộng sản. Uông Tinh Vệ cũng muốn bỏ Khánh Linh về đầu hàng Tưởng Giới Thạch. Khi Stalin đánh điện ra lệnh thành lập đạo quân công nông 50 ngàn người, thì các giới chức Quốc dân đảng tại Vũ Hán đều nghiêng về phía Tưởng Giới Thạch, trừ Tống Khánh Linh. Họ cho rằng Nga sô đã phản bội lời hứa trước kia với Tôn Dật Tiên.
Chính phủ Vũ Hán tìm cách liên minh với tướng Phùng Ngọc Tường, một viên tướng theo đạo Thiên Chúa, và đã được Stalin viện trợ nhiều vũ khí. Nhưng Phùng Ngọc Tường đang bí mật liên kết với Tưởng Giới Thạch. Tống Tử Văn trở về Vũ Hán mang theo thông điệp của Tưởng: Vũ Hán và Nam Kinh có thể liên kết với nhau, với điều kiện là phải loại cộng sản và Borodin ra khỏi Quốc dân đảng. Đồng thời Tưởng treo giải thưởng cho ai giết được Borodin. Thực ra phe Quốc dân đảng tại Vũ Hán cũng đang muốn loại bỏ cộng sản, nhưng trở ngại duy nhất là sự chống đối quyết liệt của Tống Khánh Linh, không chịu liên kết với Tưởng Giới Thạch.
Trong suốt buổi đại hội đảng ngày 15-7, Khánh Linh đả phá mọi ý kiến liên kết với Nam Kinh. Đến tối bà mệt nhoài và giận dữ thì Tống Tử Văn đến năn nỉ thuyết phục. Tống Tử Văn cho Khánh Linh biết tất cả những hăm dọa phá hoại của Ái Linh nhắm vào Khánh Linh. Khánh Linh vẫn cương quyết không chịu hợp tác với những người tại Thượng Hải. Bà cho biết nếu chính phủ Vũ Hán sụp đổ, bà sẽ trở về Thượng Hải và tiếp tục chống lại Tưởng Giới Thạch.
Tống Tử Văn rất hoảng sợ trước quyết tâm của Khánh Linh, và xin Khánh Linh đi dạo với mình ngoài bờ sông, để tránh sự dòm ngó của những người theo dõi. Khi chỉ còn hai chị em trên bờ sông, Tống Tử Văn cầm tay Khánh Linh và năn nỉ bà chị đừng bao giờ trở về Thượng Hải. Tống Tử Văn cẩn thận ghé sát vào tai Khánh Linh, thì thầm chính Ái Linh đã dự định ám sát Khánh Linh nếu Khánh Linh trở về Thượng Hải. Ái Linh đã từng ra lệnh ám sát một số người chống đối đi ngươc quyền lợi của bà tạ Mặc dầu viễn ảnh có thể bị chính người chị ruột của mình ám sát, Khánh Linh vẫn cương quyết giữ vững lập trường.
Phe cộng sản tại Vũ Hán cũng cảm thấy tình thế đang xoay chiều bất lợi. Một số bắt đầu tìm cách lẩn tránh, và khuyên Borodin nên trở về Nga sộ Các nữ cán bộ trẻ tuổi trước kia cắt tóc ngắn để bày tỏ sự dấn thân của mình, nay để tóc dài trở lại. Khi các cán bộ cộng sản vắng bóng trên đường phố Vũ Hán thì những toán an ninh và anh chị từ Thượng Hải tới chiếm giữ những cơ sở của cộng sản, và bắn chết bất cứ ai bén mảng tới những cơ sở này. Borodin nhận được bản tuyên cáo long trọng từ điện Cẩm Linh: "Vai trò cách mạng của chính phủ Vũ Hán đã chấm dứt và đã trở thành một lực lượng phản cách mạng." Ngày 14-7, Mao Trạch Đông và các lãnh tụ cộng sản khác lặng lẽ rời bỏ Vũ Hán.
Tống Tử Văn trở lại gặp Khánh Linh và mong bà thay đổi ý định. Nhưng Khánh Linh đang viết một tuyên cáo lên án Tưởng Giới Thạch. Bên cạnh Khánh Linh lúc ấy chỉ còn tướng Đặng Diễn Đạt, nguyên giám đốc chính trị tại trường võ bị Hoàng Phố. Họ Đặng rất được kính nể, và trung thành với đường lối cách mạng của Tôn Dật Tiên. Nếu không có sự can thiệp của Mạc tư khoa và nhóm anh chị Lục Hội vào chính trường Trung hoa thì Đặng Diễn Đạt đã là người lãnh đạo Trung hoa, chứ không phải là Tưởng Giới Thạch. Đặng Diễn Đạt lên án Tưởng là người thoán nghịch, và phản bội lý tưởng của Tôn Dật Tiên. Hoàn cảnh của chính phủ Vũ Hán thật là cheo leo. Một bên là Tưởng Giới Thạch và các tay anh chị Lục Hội, và một bên là Stalin và đảng cộng sản thế giới. Đi về phía nào cũng phản lại con đường Tôn Dật Tiên đã vạch ra.
Ngày 14-7, Khánh Linh công bố bản tuyên cáo cuối cùng của bà. Bà công khai lên án Tưởng Giới Thạch tiếm đoạt quyền lãnh đạo quốc gia và phản bội công cuộc cách mạng. "Tưởng Giới Thạch không phải là người của Tôn Dật Tiên, mà chỉ là một kẻ phiêu lưu quân sự, một kẻ đàn áp, một con ký sinh trùng hưởng thụ trong một hệ thống nô lệ." Ngày hôm sau, chính phủ Vũ Hán trục xuất mọi đảng viên cộng sản theo lệnh của Tưởng. Borodin biến mất. Khánh Linh và Đặng Diễn Đạt cũng bỏ trốn.
Khánh Linh cải trang và dùng thuyền đánh cá xuôi sông Dương Tử, trở về Thượng Hải để thu xếp công việc riêng một cách hấp tấp. Sợ bị chị ruột ám sát hoặc bị Tưởng giam lỏng tại nhà, và dùng danh hiệu bà cho những hành động có lợi cho Tưởng, Khánh Linh quyết định tiếp tục cuộc chống đối tại hải ngoại. Khánh Linh quyết định sang thăm Mạc tư khoa theo lời đề nghị của Borodin. Một đêm bà cải trang làm một người hành khất và trốn ra bờ sông. Một con thuyền nhỏ chờ sẵn và chở bà ra một chiếc tàu chở hàng của Ngạ Sáng hôm sau con tầu rời bến và trực chỉ hải cảng Vladivostok.
Borodin và bà vợ Fanya không được may mắn trên đường hồi hương. Fanya bị quân của sứ quân Mãn châu Trương Tác Lâm bắt được. Để tránh tai tiếng với ngoại giao đoàn, Trương Tác Lâm muốn biện minh việc hành quyết Fanya bằng một phiên tòa xử công khai. Borodin liền dùng 200 ngàn hối lộ cho viên thẩm phán. Sáng sớm ngày 12-7, vụ án Fanya được xử mau lẹ trong lúc Trương Tác Lâm còn đang ngủ. Fanya được tha bổng vì vô tội và lập tức được dấu kín. Viên thẩm phán cũng bỏ vợ con ở lại, trốn sang Nhật hưởng một cuộc đời về hưu thoải mái với số tiền hối lộ lớn. Trương Tác Lâm tức giận cực điểm, và sai quân lính lùng bắt cho được Fanya. Lúc đó Fanya trốn trong một đền thờ Khổng Tử tại Bắc Kinh. Đền thờ này đã được sửa chữa làm nơi trú ngụ cho người ngoại quốc. Khi cuộc lùng bắt của Trương Tác Lâm lắng dần thì Fanya cải trang làm một nữ tu và trốn về Tây Bá Lợi Á.
Trong khi đó, Borodin trốn trong căn nhà của Tống Tử Văn tại Hán Khẩu. Nhờ ngoại giao đoàn can thiệp, Tưởng Giới Thạch đồng ý cho Borodin được rời khỏi Trung hoa, nhưng không được đi qua lãnh thổ của Tưởng. Borodin và đoàn tùy tùng phải làm một cuộc hành trình qua sa mạc Gobị Khi tới Tràng Châu, đoàn người của Borodin gặp Phùng Ngọc Tường. Họ Phùng đòi Borodin phải nạp tiền mãi lộ, phải trả tiền sửa chữa những con đường, những cây cầu và việc trồng cây cối dọc đường đi. Thực ra những con đường và cầu mà Phùng Ngọc Tường nói đến không hề có tại vùng sa mạc này, và cây cối thì đã trồng từ đời nhà Đường, nhà Tống. Phùng Ngọc Tường bảo đảm trên đường đi, đoàn người của Borodin sẽ không bị một sứ quân nào khác đòi tiền nữa. Sau khi nộp tiền mãi lộ, Borodin và đoàn tùy tùng được Phùng Ngọc Tường tiễn đưa trọng thể. Khi tới Đồng Quan, Borodin gặp lại tướng Đặng Diễn Đạt, và tất cả cùng vượt qua Mông Cổ để trở về Nga sô.
Khánh Linh cùng Engene Trần, một nhân viên cao cấp của Quốc dân đảng, tới Mạc tư khoa bằng xe lửa từ hải cảng Vladivostok. Tại các nhà ga chính, Khánh Linh được các chính quyền địa phương Nga lên tặng hoa. Khánh Linh tới Mạc tư khoa đúng lúc chính trường Nga sô đen tối nhất, vì cuộc tranh chấp giữa Stalin và Trotsky đến hồi gay cấn nhất. Ba tuần sau đó thì Trotsky chính thức bị loại khỏi các chức vụ quan trọng. Trotsky ủng hộ chính sách bành trướng cuộc cách mạng vô sản đến các quốc gia chậm tiến, đặc biệt là Trung hoa. Nhưng khi đảng cộng sản Trung hoa bị thất bại nhục nhã tại Vũ Hán thì số phận Trotsky cũng đổ theo. Trotsky trở thành vật tế thần cho chiến thắng của Stalin.
Từ khách sạn Metropole, Khánh Linh được đưa tới cung điện của Nga hoàng, trước kia vô cùng huy hoàng lộng lẫy nhưng nay chỉ là một cung điện trơ trụi, vì đồ đạc đã bị cướp đi hết. Khánh Linh gặp lại Đặng Diễn Đạt, nhưng vẫn cảm thấy hết sức cô đơn và bất lợi. Cả ba người, Khánh Linh, Eugene Trần và Đặng Diễn Đạt, được Stalin mời tham dự cuộc đại hội đảng cộng sản. Đặng Diễn Đạt được mời lên phát biểu ý kiến, và họ Đặng đã không bỏ lỡ cơ hội trình bày quan điểm của mình. Đặng can đảm cho biết sự trợ giúp của Nga sô rất được người Trung hoa hoan nghênh lúc đầu, nhưng cuộc cách mạng của Trung hoa là một việc hoàn toàn thuộc người Trung hoa, và không thể tiến hành theo đường lối của đảng cộng sản thế giới, cũng như không thể phục vụ cho mục tiêu của cộng sản được. Đặng nhấn mạnh cuộc cách mạng cộng sản chỉ là một hiện tượng của Âu châu, và không thể đem áp dụng tại Á châu được, vì Á châu là một vùng phong kiến, bán thuộc địa trong đó các cải cách nông nghiệp là vấn đề quan trọng nhất, cần phải giải quyết. Sự kết hợp với phong trào cộng sản quốc tế chỉ đưa cuộc cách mạng Trung hoa đi đến chỗ sai lầm, và kéo dài nỗi thống khổ của người Trung hoa.
Stalin nổi giận trước bài diễn văn của Đặng Diễn Đạt, và lập tức sai mật vụ bắt giam Đặng Diễn Đạt. Nhưng Đặng Diễn Đạt đã biết trước sự nguy hiểm và ngay đêm đó trốn khỏi Mạc tư khoa, tiến về phía nam, vượt qua biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Tình thế tại Mạc tư khoa lúc đó bất lợi cho Khánh Linh. Borodin thì đang ở trong tình trạng bị thất sủng, và có thể bị trừng phạt vì thất bại tại Trung hoa. Borodin thường nhắc lại kinh nghiệm với Quốc dân đảng Trung hoa như là "một cái cầu tiêu, dù bạn giật nước nhiều lần thế nào thì nó vẫn còn mùi hôi." Một người Nga nữa có thể giúp Khánh Linh được là Joffe thì đang bị bệnh lao phổi nặng. Joffe là người đã ký kết thỏa hiệp đầu tiên với Tôn Dật Tiên. Trotsky đề nghị đưa Joffe ra ngoại quốc để trị bệnh, nhưng Stalin từ chối. Một hôm Joffe viết một lá thư cho một người bạn, rồi dùng súng lục bắn vào đầu tự tử.
Khánh Linh mỗi lúc một chán nản tuyệt vọng hơn. Trong vòng hai năm trời, cuộc đời bà đã từ một vị đệ nhất phu nhân trở thành một goá phụ bị lưu đày. Nhưng bà vẫn là một "món hàng" vô cùng quan trọng mà bất cứ một lãnh tụ cách mạng Trung hoa nào cũng muốn có. Một hôm bà rất đỗi kinh ngạc và uất giận khi thấy báo New York Times loan tin bà sắp sửa kết hôn với Eugene Trần, và điện Cẩm Linh đang tổ chức tuần trăng mật cho hai người. Bà biết được tin này là nhờ một người Anh đến chúc mừng bà về "cuộc hôn nhân sắp tới" của bà. Theo truyền thống Trung hoa, một góa phụ trẻ sẽ mất hết đức hạnh khi tái giá. Bà biết có người trong nhóm Tưởng Giới Thạch, có thể là chính bà chị Ái Linh của bà, có dã tâm phá hoại uy tín của bà.
Khánh Linh đau đớn đến ngất xỉu, và bị bệnh tới ba tuần lễ. Khi bà vừa khỏi bệnh thì bà lại bị giáng thêm một đòn chí tử nữa: Bà đau đớn được tin em gái bà là Tống Mỹ Linh sắp sửa kết hôn với Tưởng Giới Thạch. Bà cho cuộc hôn nhân giữa Mỹ Linh và Tưởng Giới Thạch là một sỉ nhục cho nhà họ Tống, và bà rất khinh bỉ Tưởng Giới Thạch. Bà xót xa hiểu rằng câu chuyện bịa đặt về vụ hôn nhân của bà với Eugene Trần chỉ là một âm mưu dọn đường cho hôn nhân của em gái bà với Tưởng Giới Thạch. Người ta muốn làm tăng ý nghĩa cuộc hôn nhân của Mỹ Linh và Tưởng bằng cách làm giảm giá trị của một cuộc hôn nhân khác trong gia đình nhà họ Tống, vì Eugene Trần là người Trung hoa từ Phi châu về, và được coi như lai da đen. Trước kia người quyền thế nhất trong gia đình nhà họ Tống là Tống Khánh Linh, phu nhân của tổng thống Tôn Dật Tiên. Bây giờ danh dự đó là của Tống Mỹ Linh, phu nhân của Tưởng Tổng Tài.
Khánh Linh nhờ Eugene Trần đánh điện cho Mỹ Linh, khuyên em gái không nên kết duyên với "con yêu râu xanh đó". Nhưng Mỹ Linh bỏ ngoài tai lời khuyên của bà chị. Khánh Linh không bao giờ tha thứ em gái đã cho Tưởng Giới Thạch mượn cái tên của nhà họ Tống. Đối với Khánh Linh, cuộc hôn nhân giữa Mỹ Linh với Tưởng là một điều chua chát cho bà, bởi vì nó chứng tỏ gia đình bà đã rõ ràng cắt đứt với bà, và khoác cho Tưởng Giới Thạch cái uy tín chính trị của Tôn Dật Tiên.
Rồi một tin vui cũng đến với Khánh Linh khi bà nhận được tin mật cho biết Đặng Diễn Đạt đã bình yên tới Thổ Nhĩ Kỳ, và hiện đang sống tại Bá Linh, thủ đô Đức quốc. Khánh Linh đã chán ngấy Mạc tư khoa, và tìm đường đi Bá Linh để gặp người đồng chí thân tín của bà.

CHƯƠNG 13: ĐÁM CƯỚI CỦA TỐNG MỸ LINH VÀ TƯỞNG GIỚI THẠCH
Ba tuần lễ sau vụ tàn sát phe cộng tại Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch ngỏ lời cầu hôn Mỹ Linh, và được Mỹ Linh chấp nhận. Cuộc hôn nhân lần thứ ba của Tưởng là một tính toán chính trị. Niềm mơ ước thiết tha nhất của Tưởng là được làm người thừa kế chính thống của Tôn Dật Tiên. Quần chúng Trung hoa kính ngưỡng Tôn Dật Tiên như thần thánh. Hình ảnh của ông hiện diện khắp nơi. Bất cứ một chính khách hoặc một tướng lãnh nào có được một sự liên hệ với Tôn Dật Tiên, dù rất xa xôi, lúc ông còn sống, cũng có thể tạo được một sự nghiệp chính trị quan trọng nhờ sự liên hệ ấy. Làm rể nhà họ Tống quả thực là một cơ hội vô cùng thiết yếu đối với Tưởng, để được công nhận nối tiếp công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên. Tưởng vẫn mong có thể cầu hòa được với Khánh Linh và Tống Tử Văn bằng cách trở thành một người em rể của họ. Tuy thế không phải là Tưởng không say mê Mỹ Linh. Tưởng vẫn tự phụ là một tay anh hùng chọc trời khuấy nước một thời, và theo truyền thống Trung hoa thì cuộc đời của một người anh hùng phải có bóng dáng giai nhân thì mới thực toàn vẹn.
Lúc đó Tưởng đang cần sự ủng hộ của các nước tây phương. Tưởng không biết ngoại ngữ, trừ tiếng Nhật. Nếu có Mỹ Linh làm vợ, Tưởng sẽ có "tai và miệng" để đương đầu với người tây phương. Ngoài ra Tưởng rất phục khả năng chuyên môn về kinh tế tài chánh của Tống Tử Văn. Viễn tượng tài chánh của Tưởng rất đen tối. Tài sản của các thương gia Thượng Hải chỉ có giới hạn. Tưởng không thể tiếp tục tống tiền khai thác họ mãi. Quân đội của Tưởng mỗi ngày một bành trướng và do đó Tưởng cần tiền trả lương cho binh sĩ ngày một nhiều hơn. Tưởng thấy cần phải tìm nguồn tài trợ của ngoại quốc. Con đường duy nhất Tưởng có thể tìm được sự viện trợ và đầu tư của ngoại quốc là qua gia đình nhà họ Tống, đặc biệt là Tống Tử Văn, một người có uy tín với các ngân hàng, công ty và chính phủ ngoại quốc.
Tống Tử Văn không đồng ý cho em gái kết hôn với Tưởng Giới Thạch, vì Tống biết Tưởng dính dáng vào nhiều tội ác như cướp của, tống tiền, giết người. Không những thế, Tưởng còn trải qua nhiều đời vợ. Nhưng điều Tống Tử Văn khó chịu nhất là Tưởng đã chiếm đoạt hết số bạc dự trữ tại Ngân hàng Trung ương, một công trình mà Tống Tử Văn đã đem hết tâm huyết ra thực hiện. Tuy vậy Tống Tử Văn cũng không chống lại được cuộc hôn nhân này, vì Tống luôn luôn bị bà chị cả Ái Linh tham tiền làm áp lực, tẩy não, bắt phải đi theo con đường của bà đã vạch ra. Hôn nhân của Tưởng và Mỹ Linh chính là công trình mà Ái Linh nhất quyết thực hiện cho bằng được cho mục tiêu làm giàu của mình.
Khánh Linh thì hoàn toàn chống đối cuộc hôn nhân, vì theo bà thì cả hai bên trong cuộc hôn nhân này đều là những người lợi dụng, chứ không hề có tình yêu đích thực. Tuy nhiên mười năm sau, Khánh Linh nhận xét, "Lúc đầu cuộc hôn nhân này không phải vì tình yêu, nhưng bây giờ thì đã có tình yêu giữa hai người. Mỹ Linh yêu Tưởng và Tưởng cũng yêu Mỹ Linh. Nếu không có Mỹ Linh thì cuộc đời của Tưởng sẽ khốn đốn hơn thế."
Nhiều người mới gặp Ái Linh đều tưởng bà là một người khả ái, có bản chất tốt như tên của bà. Nhưng thực ra, bà là người quyết định hầu hết mọi việc quan trọng trong gia đình nhà họ Tống và họ Khổng. Ái Linh và Khổng Tường Hy lấy nhau năm 1914 tại Nhật trong khi tỵ nạn tránh Viên Thế Khải. Khi trở lại Thượng Hải, Ái Linh sống trong căn nhà số 139 đường Seymour Road để chờ chồng chuẩn bị một chuyến về nhà chồng thật an toàn. Trên đường trở về quê chồng tại Sơn Tây, hai vợ chồng Ái Linh dùng xe lửa đến tận biên giới tỉnh Sơn Tây. Sau đó Ái Linh phải đi nốt cuộc hành trình một cách vất vả, phải ngồi cáng hoặc ngồi kiệu và có chồng cưỡi ngựa đi bên cạnh.
Nhưng khi về đến nhà chồng, Ái Linh thấy nhẹ hẳn người khi trông thấy dinh cơ đồ sộ của nhà chồng. Đó là một lâu đài mênh mông, nằm giữa những khu vườn trồng đầy kỳ hoa dị thảo, và có trên 500 gia nhân. Ái Linh sinh con gái đầu lòng là Khổng Lệnh Tuấn tại đây năm 1916, và ba đứa con sau sinh tại Thượng Hải. Con cái của Ái Linh được cưng chiều như những bông hoa lan cực quý. Khổng Lệnh Kiệt, người con trai thứ hai của Ái Linh, rất ngỗ nghịch. Cậu quý tử này học lái xe hơi năm mới có 15 tuổi. Một hôm Khổng Lệnh Kiệt đang lái xe tại đường phố đông đúc của Thượng Hải thì bị một cảnh sát Ấn Độ chặn xe lại. Khi người cảnh sát định cảnh cáo Khổng Lệnh Kiệt về tội lái xe ẩu, thì cậu quý tử này rút súng bắn đứt ngón tay cái của người cảnh sát.
Người con gái thứ ba thì kiêu căng phách lối. Thú tiêu khiển kỳ lạ của cô chiêu này là mặc quần áo đàn ông rồi đi dạo phố. Khổng Tường Hy cung phụng cho con cái một đời sống rất xa hoa trong một dinh thự nguy nga tại khu tô giới Pháp. Khổng Tường Hy là đại diện của hãng dầu Standard Oil tại Trung hoa. Ông cũng là trung gian giữa các sứ quân miền bắc. Trong cuộc xung đột giữa Tưởng và chính phủ Vũ Hán, chính Khổng Tường Hy đã dùng tiền mua chuộc Phùng Ngọc Tường đứng về phe Tưởng.
Sau khi về nhà chồng, Ái Linh nắm giữ tất cả tài sản nhà chồng, có từng đoàn thư ký và kế toán phụ tá. Bà đã dùng uy tín của chồng để thu thập được những tin tức tài chánh cần thiết để làm giàu thêm. Người ta tin rằng Ái Linh đã dùng tiền bạc để thuê người ám sát những nhà tài phiệt đối thủ, hoặc những người chống đối không chịu nhượng bộ hoặc cộng tác với bà. Ái Linh đã có liên hệ mật thiết với Bố già Đỗ Đại Nhĩ và các tay anh chị của Lục Hội. Lúc đó tại Á Châu có một tổ chức của phụ nữ với mục đích ám sát hoặc trừng phạt đàn ông. Người ta tin rằng người đứng đầu tổ chức này là Ái Linh. Bà được coi là một người đàn bà độc ác, cương quyết, thông minh, quỷ quyệt và nhiều tham vọng, kín đáo điều khiển tất cả mọi công việc làm ăn của dòng họ.
Tháng 4-1927, Ái Linh và Khổng Tường Hy hết sức giúp Tưởng vắt tiền của các thương gia kinh hoàng tại Thượng Hải. Tưởng thường tới thăm vợ chồng Ái Linh. Đô đốc Bristol, tư lệnh hạm đội Mỹ tại Á Châu, một lần đến thăm gia đình Ái Linh, đã hết sức khâm phục cách tiếp đãi khách của những người trong nhà họ Tống. Tưởng Giới Thạch cũng từng chứng kiến gia đình nhà họ Tống chinh phục cảm tình của người tây phương một cách dễ dàng. Khi Tưởng ngỏ lời cầu hôn với Mỹ Linh vào tháng 5-1927 thì đó là giai đoạn chót của công cuộc sắp đặt theo đúng ý Ái Linh. Khi Tống Tử Văn phản đối cuộc hôn nhân thì bị bà chị cả cảnh cáo nếu không đồng ý thì Tống Tử Văn sẽ không thể hoạt động gì tại Thượng Hải. Cuối cùng Tống Tử Văn nhượng bộ vào tháng 6 để được tái bổ nhiệm chức bộ trưởng tài chánh, và được tự do hoạt động trong lãnh vực kinh tế tài chánh. Tống Tử Văn cũng hứa giúp Ái Linh và Khổng Tường Hy thuyết phục bà mẹ chấp nhận cuộc hôn nhân.
Thoạt đầu bà Tống Giáo Nhân không chấp nhận hôn nhân của Mỹ Linh với Tưởng vì Tưởng không phải là người đạo Thiên Chúa, và vì những cuộc hôn nhân trước kia của Tưởng. Ái Linh liền khuyên mẹ đi nghỉ mát tại Nagasaki, Nhật Bản, và đến tắm tại các suối nổi tiếng trong vùng Kamakurạ Gia đình sẽ đi theo bà sau. Mục đích của Ái Linh là tống khứ bà mẹ bướng bỉnh này đi cho khuất mắt.
Đúng lúc đó Tưởng gặp khó khăn với các sứ quân miền bắc. Các sứ quân này kín đáo liên kết với Tưởng và Lục Hội, qua mặt các tướng lãnh cao cấp của Tưởng. Nhưng sau đó các sứ quân miền bắc ngầm báo cho các tướng của Tưởng biết Tưởng đã ngầm liên kết với kẻ địch sau lưng họ. Đây là một đòn ly gián có thể gây xáo trộn trong hàng ngũ Quốc dân đảng. Trong lúc Tưởng nổi giận, cực lực cải chánh sự đi đêm thầm lén của mình thì các sứ quân miền bắc bất thần tấn công lực lượng Quốc dân đảng. Các tướng của Tưởng đang hoang mang, bị đánh bất ngờ, phải rút về sông Dương Tử. Trong một cơn phẫn nộ, ba tướng cao cấp nhất của Quốc dân đảng tuyên bố sẽ không nghe lệnh của Tưởng nữa. Sau khi thảo luận với Bố già Đỗ Đại Nhĩ và Curio Trương, Tưởng ra thông cáo "để giữ vững sự đoàn kết của đảng", Tưởng từ chức tất cả mọi chức vụ trong Quốc dân đảng, và rút lui khỏi sân khấu chính trị.
Tưởng chơi một đòn chính trị cổ điển. Tưởng rời khỏi Thượng Hải, bề ngoài có vẻ từ bỏ mọi tham vọng, nhưng mục tiêu là để các tướng lãnh đối đầu quay lại cắn giết lẫn nhau. Tưởng đem theo hai trăm vệ sĩ đi vào một vùng hoang vu tại núi Vũ Lĩnh Sơn, một nơi nghỉ mát ưa thích nhất của các lãnh tụ Lục Hội, và nằm dưới sự kiểm soát của Bố già Đỗ Đại Nhĩ.
*
Tống Mỹ Linh đã tiết lộ cho bạn bè biết mình sẽ kết hôn với Tưởng Giới Thạch. Đến tháng 9 thì mọi người dân Thượng Hải đều nghe biết tin đó. Rồi ngày 16-9, Ái Linh mở một cuộc họp báo tại tư gia, xác nhận việc hôn nhân. Ái Linh giới thiệu Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh với các phóng viên và nhiếp ảnh viên báo chí, và tuyên bố, "Tưởng tướng quân sẽ kết hôn với em gái của tôi." Các ký giả tuôn ra vườn hoa chụp hình cặp trai tài gái sắc nhất Thượng Hải. Ngày hôm sau, hình ảnh Tưởng tươi cười đứng bên cạnh Mỹ Linh xuất hiện trên báo chí khắp thế giới.
Không ai thắc mắc về số phận hai người vợ trước của Tưởng Giới Thạch. Một trong những người vợ cũ của Tưởng là Trần Khiết Như bị Tưởng đuổi sang Hoa Kỳ. Những tấm hình chụp năm 1925 cho thấy Trần Khiết Như là một người đàn bà dáng dấp cao, rất đẹp và đang mang thai. Để sửa soạn hôn lễ của Tưởng với Mỹ Linh được êm đẹp, Bố già Đỗ Đại Nhĩ sắp xếp cho Trần Khiết Như sang sống tại Hoa Kỳ. Tại đây Trần Khiết Như ghi danh học tại đại học Columbia, New York. Sau khi đậu văn bằng tiến sĩ, Trần Khiết Như rời về sống tại San Francisco.
Cuộc tình duyên với Mỹ Linh gỡ rối cho Tưởng được nhiều vấn đề khó khăn. Các tướng đang chống lại Tưởng thấy Tưởng được vào làm rể nhà họ Tống, và trở thành người thừa kế chính thống của Tôn Dật Tiên, nên tha thứ những lỗi lầm của Tưởng trong việc liên kết với các sứ quân miền bắc. Mọi người quan tâm đến hôn nhân của Tưởng nhiều hơn là các chuyện cũ. Ngày 28-9, Tưởng xuống tàu sang Nhật để chính thức xin bà Tống Giáo Nhân cho phép được kết hôn với Tống Mỹ Linh. Lúc còn ở Thượng Hải, bà Tống Giáo Nhân từ chối không chịu tiếp kiến Tưởng, nhưng khi Tưởng thân hành sang tận Kamakura thì bà chịu tiếp Tưởng.
Bà Tống Giáo Nhân không hài lòng. Hai người con gái lớn của bà đều làm hôn lễ tại Nhật bản, Bà vẫn ao ước hôn lễ của cô con gái út phải được cử hành tại nhà thờ Tống Charlie do gia đình bà giúp tiền xây cất. Nhưng giáo hội Methodist cấm các mục sư không được chủ hôn cho những người đã ly dị. Cuối cùng chỉ có một mục sư đồng ý đến nhà riêng của nhà họ Tống cầu nguyện với tân lang và tân giai nhân thôi. Hôn lễ cử hành ngày 1-12 tại tư gia nhà họ Tống, đường Seymour Road. Trong khi Khánh Linh đang run rẩy khổ sở tại Mạc tư khoa thì Mỹ Linh và Tưởng đứng bên nhau, bên cạnh bàn thờ Tôn Dật Tiên. Hai người cúi mình trước bàn thờ, rồi cúi chào nhau, và cúi chào các nhân chứng và quan khách. Ngay đêm đó Mỹ Linh và Tưởng lên xe lửa đặc biệt về ngọn núi Vũ Lĩnh Sơn để hưởng tuần trăng mật. Tại đây, Tưởng ra một thông cáo như sau: "Sau hôn lễ của chúng tôi, cuộc cách mạng chắc chắn sẽ tiến hành tốt đẹp, vì từ đây lòng tôi đã thanh thản, có thể gánh vác được những trách nhiệm lớn lao. Từ nay, hai chúng tôi quyết tâm dâng hiến hết đời mình cho cách mạng."
Khi Tưởng và vợ tới Vũ Lĩnh Sơn thì lập tức Tưởng phải tham dự một cuộc họp quan trọng của Quốc dân đảng, từ 8 giờ sáng đến 8 giờ tối. Tình trạng Trung hoa trở nên tồi tệ mau lẹ sau vụ từ chức của Tưởng. Các cấp lãnh đạo Quốc dân đảng phải mời Tưởng trở về đảm nhận chức vụ quốc trưởng. Ngày 10-12, Tưởng được phục hồi chức vụ Tư lệnh Tối cao Quân đội, rồi được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương. Một lần nữa Tưởng trở thành lãnh tụ số một của Trung hoa.
Sự trở lại chính quyền của Tưởng kèm theo một sự biểu diễn sức mạnh của các tướng lãnh. Các tướng Quốc dân đảng lại tin tưởng quyền lãnh đạo của Tưởng và mở lại chiến địch đánh bại các sứ quân miền bắc. Nhưng quân Nhật lúc đó không muốn các sứ quân miền bắc thua chạy ra ngoài Vạn Lý Trường Thành, tạo rối loạn cho Mãn châu đang nằm trong tay Nhật. Người Nhật lập tức đưa ra những cảnh cáo mạnh mẽ, bằng cách ám sát sứ quân Mãn châu Trương Tác Lâm trong lúc viên sứ quân này đang đi xe lửa. Sứ quân Thiểm Tây tràn vào chiếm Bắc kinh, và dâng cho Quốc dân đảng, và chính phủ của Tưởng Giới Thạch trở thành chính phủ đại diện cho toàn thể Trung hoa.
*
Quyết định kết hôn với Tưởng Giới Thạch biểu lộ ý chí sắt đá của Mỹ Linh. Năm 1927, Mỹ Linh tự nhận là 27 tuổi, nhưng thực ra lúc đó nàng đã 30 tuổi rồi. Mỹ Linh đã từng từ chối lời cầu hôn của khá nhiều người theo đuổi, kể cả những thương gia giầu có, và những thanh niên tài năng nhiều tham vọng, trong đó có cả thống chế Trương Học Lương của Mãn Châu. Mỹ Linh tuyên bố thà ở giá còn hơn làm vợ một trọc phú. Về chính trị thì Mỹ Linh thường chê bà chị Khánh Linh quá lãng mạn, và bênh vực hành động tàn sát của Tưởng tại Thượng Hải năm 1927, vì cho rằng chỉ có phe cộng sản và giai cấp hạ lưu bị thiệt thòi.
Trước mắt Mỹ Linh, Tưởng là một người có nhiều tiền không thua kém gì các tay đại triệu phú khác. Hơn nữa, Tưởng lại có quyền hành. Thực ra Mỹ Linh không quan tâm lắm đến tiền bạc như bà chị Ái Linh. Ái Linh lớn lên trong lúc Tống Giáo Nhân đang ra công xây dựng sản nghiệp và chắt chiu tiền bạc. Ái Linh cũng mang hằn dấu vết ham tiền của ông bố. Vào thời Khánh Linh thì nhà họ Tống đã giầu sang lắm rồi, và tâm hồn Tống Giáo Nhân không còn bần tiện tham lam như thuở còn nghèo. Tâm tình này phản ảnh ở lòng thương xót những kẻ bần cùng của Khánh Linh. Khi Mỹ Linh lớn lên thì thì tài sản nhà họ Tống đã bảo đảm lắm, và nàng coi tiền như một tiện nghi, chứ không phải là một mục tiêu đi tìm kiếm. Mỹ Linh là người hăng hái và có nhiều ý tưởng mới, nhưng phạm vi hoạt động của nàng rất giới hạn, không thể tự hoàn thành được những điều ước muốn.
Tưởng Giới Thạch có thể dâng hiến cho Mỹ Linh quyền hành mong muốn. Đối với Tưởng, quyền hành có nghĩa là khả năng kiểm soát được hoàn cảnh và con người. Đối với Mỹ Linh thì quyền hành là sức mạnh. Tưởng đã cống hiến Mỹ Linh cơ hội làm những thay đổi lịch sử, thay đổi đời sống của Trung hoa theo ý chí của nàng. Mỹ Linh rất thích người khác phải khâm phục và vâng lời mình. Người Trung hoa nhận xét về ba chị em nhà họ Tống như sau: "Một người yêu tiền bạc, một người yêu quyền hành và một người yêu nước Trung hoạ"
Vì quá hăng say bày tỏ quyền hành mới có, Mỹ Linh đã đẩy Tưởng vào thế khó xử với Lục Hội ngay sau tuần trăng mật. Lúc đó phần đông các nhân vật quan trọng tại Trung hoa, kể cả Tưởng Giới Thạch, phải đóng tiền bảo vệ cho Lục Hội. Mỹ Linh coi việc nộp tiền cho Lục Hội như thế là một điều sỉ nhục, không còn uy quyền gì nữa. Mỹ Linh lý luận với Tưởng rằng bây giờ Tưởng là người mạnh nhất Trung hoa thì không cần phải đóng tiền bảo vệ nữa. Mỹ Linh rất hãnh diện về dòng họ Tống nhà mình, và không ngờ rằng chính Tống Tử Văn vẫn phải đóng tiền bảo vệ nàng cho Lục Hội.
Tưởng nghe vợ nói cũng siêu lòng. Sau tuần trăng mật trở về Thượng Hải, một hôm Tưởng phải đi họp và đến chiều tối mới về. Trong lúc Mỹ Linh ở nhà thì được một chiếc xe Rolls-Royce sang trọng có tài xế và một người đầy tớ gái đến đón Mỹ Linh về nhà thăm bà chị Ái Linh. Mỹ Linh bước lên xe đi, nhưng không bao giờ về tới nhà bà chị Ái Linh. Khi Tưởng Giới Thạch trở về không thấy vợ đâu thì lo âu vô cùng. Tưởng cầm điện thoại gọi cho Tống Tử Văn. Tống Tử Văn hiểu ngay sự việc gì đã xảy ra. Tống liền gọi một số điện thoại đặc biệt chỉ một số rất ít người biết, và được giọng nói của Bố già Đỗ Đại Nhĩ trả lời. Đỗ Đại Nhĩ lạnh lùng nói:
"Bà Tưởng vẫn bình yên và mạnh khoẻ như thường. Người của Lục Hội gặp bà sáng nay đi lang thang tại những nơi nguy hiểm mà chỉ có một người đầy tớ gái theo hầu. Vì sự an toàn của bà Tưởng, Lục Hội đã phải đưa bà về một biệt thự sang trọng và đối xử với bà vô cùng lễ độ vì địa vị tôn quý của bà là vợ của nhà lãnh đạo quốc gia. Tuy mọi người hết sức làm bà vui lòng, nhưng dường như bà rất bất bình và không chịu ăn uống gì cả. Chúng tôi rất tiếc rằng Tưởng tướng quân quá bận rộn công việc quốc gia đại sự, không săn sóc bảo vệ cho chính mình và bà vợ được. Đó là một việc vô cùng bất cẩn trong một thành phố nguy hiểm như Thượng Hải. Bây giờ ông nên lại đây ngay, làm một vài thủ tục thông thường, nhưng cần thiết cho sự an toàn của em gái ông."
Tống Tử Văn toát mồ hôi trán, vội vàng chạy lại tư dinh của Bố già Đỗ ĐạI Nhĩ lúc nào cũng được canh gác vô cùng cẩn mật, để dẫn cô em gái đang được "săn sóc" tại đó và đưa về cho Tưởng Giới Thạch. Đó là một thông điệp rõ ràng: Đỗ Đại Nhĩ giật sợi giây xích trên cổ Tưởng để nhắc cho Tưởng biết bổn phận của Tưởng đối với Lục Hội.
Khi kết hôn với Tưởng Giới Thạch, Mỹ Linh không biết rằng mình sẽ phải làm dâu cho cả "gia đình" của Tưởng. Nhưng Ái Linh và Khổng Tường Hy biết. Khánh Linh và Tống Tử Văn cũng biết. Mãi đến khi bị bắt cóc Mỹ Linh mới hiểu rằng từ nay Đỗ Đại Nhĩ là Bố già của mình.

CHƯƠNG 14: HAI CHỊ EM, HAI CHIẾN TUYẾN
Cuộc sống của Khánh Linh tại Mạc tư khoa ngày càng đen tối, ảm đạm, cô đơn giữa cảnh thiếu thốn và cái lạnh khủng khiếp. Đến tháng 12-1927, lấy lý do tham dự hội nghị của Mặt Trận Chống Đế quốc tại Brussels, thủ đô nước Bỉ, Khánh Linh trốn khỏi Nga sộ Tại Brussels tháng 12-1927, Khánh Linh được bầu làm Chủ Tữch Danh Dự của Mặt Trận. Trong số những người ngồi cùng bàn chủ tọa với Khánh Linh, người ta thấy có nhà bác học Albert Einstein, văn hào Maxim Gorky, chánh khách Nehru của Ấn Đô... Trong dịp này, nhà văn Romain Rolland viết về Khánh Linh như sau: "Bạn tưởng bà Tống Khánh Linh xuất chúng của chúng ta chỉ là một bông hoa đẹp hương thơm tỏa khắp thế giới hay sao? Không, không! Bà chính là một con sư tử đang phá tung tất cả mọi màng lưới."
Sau hội nghị Brussels, bà tìm đường tới Bá Linh. Lúc đó Bá Linh là một thành phố của đàng điếm và tội lỗi. Người ta khiêu vũ khỏa thân, những buổi liên hoan dâm loạn, đàn ông mặc giả đàn bà và ngược lại đàn bà mặc giả đàn ông. Trật tự đảo lộn: những hành động trước kia được coi là riêng tư thì nay được làm trước công chúng, như là một triết lý nhân sinh mới.
Khánh Linh để hết tâm trí vào hoạt động phong trào chống phát-xít và chống đế quốc. Bà được bầu làm chủ tịch phong trào này hai lần. Bà gặp lại người đồng chí thân tín Đặng Diễn Đạt. Hai người nỗ lực thành lập Lực Lượng Thứ Ba để cho người Trung hoa một lựa chọn mới, ngoài Quốc dân đảng và cộng sản.
Tại Nam Kinh, Quốc dân đảng đang tìm cách đánh lừa Khánh Linh trở về Trung hoa bằng cách tổ chức lễ chuyển hài cốt của Tôn Dật Tiên, từ Bắc Kinh về chôn tại ngọn Bích Sơn bên ngoài thành Nam Kinh, theo đúng ý nguyện của Tôn Dật Tiên lúc còn sống. Việc làm này vừa lôi kéo được Khánh Linh trở về, vừa có lợi chính trị cho Tưởng Giới Thạch. Tưởng đang ra công tu bổ cải tiến Nam Kinh, và đổi danh hiệu Bắc Kinh thành Bắc Bình. Nam Kinh trở thành thủ đô chính thức của Trung hoa dưới thời Quốc dân đảng.
Tưởng ra lệnh cho Tống Tử Lương, người em trai trong gia đình nhà họ Tống sang Bá Linh tìm và khuyên bà chị Khánh Linh trở về Trung hoa. Khánh Linh biết rõ thâm ý của Tưởng Giới Thạch nên trước khi rời Bá Linh, bà ra một thông cáo khẳng định bà trở về Trung hoa là để tham dự lễ chuyển hài cốt của Tôn Dật Tiên, và bà rút ra khỏi mọi hoạt động chính trị của Quốc dân đảng. Bà cũng tố cáo Quốc dân đảng hiện nay đã đi ngược các nguyên tắc căn bản của Tôn Dật Tiên, chồng bà và cũng là người sáng lập ra Quốc dân đảng.
Khi Tống Tử Lương hoảng sợ và phản đối bản thông cáo của bà chị thì Khánh Linh nghiêm khắc nói với em, "Nhà họ Tống phải phục vụ Trung hoa chứ Trung hoa không phải phục vụ gia đình nhà họ Tống." Bà dùng xe lửa đi ngang qua Nga sô để trở về quê hương. Tới địa điểm đầu tiên của Trung hoa, bà được rất đông dân chúng đến chào mừng. Tưởng Giới Thạch tổ chức lễ đón tiếp Khánh Linh rất trọng thể. Khánh Linh cho đó là mục đích tuyên truyền của Tưởng và tuyên bố với các ký giả:
"Đã có sự phản bội và xuyên tạc hoàn toàn phong trào quốc gia. Sự phản bội cách mạng này do những người đã có liên hệ tới phong trào quốc gia. Những người này đang cố gắng lôi kéo Trung hoa đi vào con đường nghèo khó quen thuộc để mưu đồ cho quyền lực cá nhân."
Khi tới Bắc Kinh, Khánh Linh lặng lẽ tránh mọi người trong gia đình nhà họ Tống. Khi tới ngọn núi Bích Sơn giữa khí hậu nóng nực ẩm thấp, bà phải trèo lên ngọn núi và chịu đựng những lễ nghi rất dài cho tới lúc nhìn thấy quan tài của chồng được yên nghỉ thì bà trốn về Thượng Hải. Trong hai tháng đầu, bà giữ im lặng. Đến đầu tháng 8, bà công bố một bản tuyên cáo chống lại Tưởng Giới Thạch, dưới hình thức một bức điện tín gửi sang Bá Linh.
"... Chính phủ phản động Nam Kinh đang kết hợp với lực lượng đế quốc trong những cuộc đàn áp dã man chống lại quần chúng Trung hoa. Chưa bao giờ sự phản bội của các nhà lãnh đạo Quốc dân đảng phản động lại tỏ lộ một cách vô sỉ trước thế giới như hiện naỵ Vì đã phản lại công cuộc cách mạng quốc gia, họ tất nhiên sẽ trở thành công cụ của đế quốc và tìm cách gây chiến với Nga sộ Nhưng quần chúng Trung hoa sẽ đứng về phía cách mạng. Sự khủng bố sẽ chỉ giúp động viên quần chúng và củng cố quyết tâm của chúng ta tới chiến thắng."
Tưởng và Bố già Đỗ Đại Nhĩ rất căm phẫn bản tuyên cáo của Khánh Linh. Người ta lo ngại rằng chưa bao giờ Khánh Linh gần cái chết như thế. Khi bản tuyên cáo được in ra và phát tại đường phố thì các người phân phát bị bắt ngaỵ Đã có những cuộc trả thù tại Nam Kinh. Khi một người bạn hỏi Khánh Linh cảm thấy thế nào về sự đàn áp bộc phát, bà để tay lên ngực và trả lời, "Tôi cảm thấy thoải mái trong lòng vì chính tôi đã gửi bản tuyên cáo này. Điều gì sẽ xảy ra cho cá mhân tôi vì việc làm này không quan trọng đối với tôi." Nhà của bà bị canh gác, và những người đến thăm bà đều bị theo dõi.
Ngay lúc đó một tờ truyền đơn sau đây xuất hiện:
BẢN THÔNG CÁO ĐẪM NƯỚC MẮT GỬI CHO 400 TRIỆU ĐỒNG BÀO

"Sau chiến dịch chinh phạt miền bắc của lực lượng cách mạng năm ngoái, Tưởng Giới Thạch, vốn là một tên tống tiền, đã dùng danh nghĩa Quốc dân đảng và nhà lãnh tụ Tôn Dật Tiên để chiếm quyền hành."
"Tưởng Giới Thạch đã hành động như vua Kiệt vua Trụ là hai hôn quân giết cả những ai thì thầm... Nhiều loại công khố phiếu đã được dùng cho tài sản riêng của cá nhân Tưởng Giới Thạch. Tiền của hắn bỏ vào ngân hàng ngoại quốc lên tới 50 triệu đô la... Ngân khoản hàng năm để nhập cảng đồ dùng trong cầu tiêu của Tống Mỹ Linh, người vợ bất hợp pháp của hắn, lên tới 4 triệu đô lạ Mỗi tờ giấy đi cầu của mụ ta được chế tạo có chất thuốc tốn kém tới 20 triệu đô lạ Đôi giầy của mụ ta làm bằng kim cương tốn phí 800 ngàn đô la và một bộ áo đáng giá 500 ngàn. Chưa bao giờ có một sự xa phí đến như thế... "
Thực ra tờ truyền đơn này hơi phóng đại sự thực. Mỹ Linh có một chứng bệnh ngoài dạ Da Mỹ Linh ửng đỏ từng chỗ mỗi khi bà hoảng hốt hoặc tức giận. Tính khí Mỹ Linh rất nhạy cảm nên thường hay thảng thốt. Một buổi chiều, đầy tớ phải thay áo lót cho cho Mỹ Linh ít là vài lần. Đây là cuộc chiến giữa hai chị em nhà họ Tống, nhưng phần yếu thế về phía Khánh Linh. Kẻ thù của Khánh Linh gồm có chính phủ Nam Kinh, Đỗ Đại Nhĩ, chị và các em của chính bà. Nhưng bà biết rằng kẻ thù đáng sợ nhất của bà lại chính là những người họ Tống. Bà biết những người này chẳng từ một điều gì mà không làm.
Khánh Linh sang Bá Linh một thời gian ngắn để bàn thảo cùng Đặng Diễn Đạt. Khánh Linh khuyên Đặng Diễn Đạt nên về hoạt động ngay tại Trung hoa, thành lập Lực Lượng Thứ Ba ngay tại Thượng Hải. Đặng lén trở về Thượng Hải và lôi cuốn được nhiều người tại khắp Trung hoa, những người không thích cộng sản và khinh bỉ Quốc dân đảng. Đôi khi Đặng xuất hiện trước đám đông, lên án chính phủ Nam Kinh đã phản lại quần chúng, và trở thành công cụ cho quân phiệt, địa chủ và tài phiệt.
Người Trung hoa tưởng đã có được một lựa chọn chính trị mới với Lực Lượng Thứ Ba của Đặng Diễn Đạt. Nhưng Tưởng và Bố già Đỗ Đại Nhĩ đã liên kết với lực lượng cảnh sát của Anh và Pháp trong khu tô giới, và tìm được chỗ trú ẩn của Đặng Diễn Đạt. Đặng bị bắt và giao cho mật vụ của Nam Kinh. Tưởng giam Đặng Diễn Đạt bên ngoài Nam Kinh và ra lệnh tra tấn ông ta trong nhiều tháng trời.
Khánh Linh cố gắng một cách tuyệt vọng để giải cứu Đặng Diễn Đạt. Bà thân hành tới Nam Kinh, xin gặp Tưởng và hạ mình năn nỉ Tưởng tha cho Đặnh Diễn Đạt. Tưởng ngồi im lặng, không trả lời trong lúc Khánh Linh hết lời van xin. Cuối cùng Tưởng nói vắn tắt, "Tôi đã ra lệnh giết hắn rồi." Thực ra ngày 29-11-1931, Đặng Diễn Đạt bị lôi ra khỏi phòng giam, và bị thắt cổ bằng giây kẽm gai. Các tay đao phủ của Tưởng rất thiện nghệ thắt cổ nạn nhân rất từ từ, kéo dài cả giờ để nạn nhân nếm mùi đau khổ. Lúc Khánh Linh năn nỉ Tưởng thì Đặng Diễn Đạt đã chết từ nhiều ngày trước rồi. Khánh Linh rất đau lòng. Khi trở về Thượng Hải, bà tố cáo vụ ám sát chính trị này:
"Ngày nay không còn dấu diếm được sự kiện Quốc dân đảng đã mất tư thế là một tổ chức cách mạng. Quốc dân đảng đã bị hủy diệt, không phải do kẻ thù bên ngoài, mà là do chính các nhà lãnh đạo của đảng. Cách mạng bây giờ chỉ là tàn sát và khủng bố. Dưới chiêu bài chống cộng, Quốc dân đảng tiếp tục các hoạt động phản cách mạng. Những người trung thành với cách mạng thì bị tra tấn cho đến chết, như trường hợp của Đặng Diễn Đạt, một người cương quyết, nhẫn nại, trung thành và can đảm."
*
Trái với Khánh Linh, một người bị săn đuổi hăm dọa tứ phía, Mỹ Linh đã trở thành một sức mạnh trong hậu trường chính trị. Người của Tưởng Giới Thạch biết được tính tình hay thay đổi và kiêu hãnh của Mỹ Linh, thường lấy lòng Mỹ Linh bằng những nghi lễ rất long trọng. Ảnh hưởng của Mỹ Linh đối với Tưởng trong hai chục năm đầu lên xuống tùy theo lòng trung thành của Tưởng, và sự thành công của bà tạo được sự ủng hộ của ngoại quốc cho chế độ của Tưởng. Mỹ Linh đã viết những bài báo dài đăng trên các tạp chí Mỹ có lợi cho Tưởng.
Hai năm sau ngày cưới, Mỹ Linh nhắc lại lời hứa rửa tội theo đạo Thiên Chúa của Tưởng. Mỹ Linh không còn chờ lâu được nữa. Thân mẫu bà đã 61 tuổi rồi, và sức khoẻ suy kém. Một điều nhiều người ngạc nhiên là bà Tống Giáo Nhân về sau lại đặc biệt quý chàng rể út họ Tưởng nhất. Bà nghĩ rằng thiên mệnh đã đặt vào gia đình nhà họ Tống, vì liên tiếp hai con gái bà, Khánh Linh và Mỹ Linh, đã đạt được địa vị mẫu nghi thiên hạ. Nhà họ Tống có hai người con rể nối tiếp nhau làm tổng thống nước Trung hoa. Bà cho đó là đặc ân của gia đình bà.
Ngày 23-10-1930, Tưởng rửa tội tại nhà thờ Tống Charliẹ Quần chúng Trung hoa vô cùng kinh ngạc trước tin này, nhưng người Mỹ thì rất hoan hỉ. Sau tám năm chống đạo Thiên Chúa một cách cực đoan tại Trung hoa, thì bây giờ với sự rửa tội của Tưởng, công việc của các nhà truyền giáo có vẻ thuận lợi rõ rệt. Mục tiêu rửa tội của Tưởng vẫn còn là một bí ẩn, nhưng bà Tống Giáo Nhân thì rất đỗi hài lòng. Năm 1931, bà từ trần trong niềm mãn nguyện.
Những bài báo của Mỹ Linh về những vấn đề quốc sự Trung hoa, sự chiến đấu chống lại những sứ quân phong kiến và cộng sản của Quốc dân đảng, và về những viện mồ côi, đã gây được một ấn tượng tốt về Trung hoa tại ngoại quốc. Một chuyên viên Úc châu, W. H. Donald, được mời trở lại làm cố vấn cho Quốc dân đảng. Donald đã thành thực chỉ trích sự hiểu biết rất giới hạn của Tưởng và Mỹ Linh về Trung hoa. Theo Donald thì Tưởng biết rất ít về đất nước của mình, chưa đi hết các tỉnh. Tưởng có thể giỏi đối phó với các sứ quân và chỉ huy quân đội, nhưng Tưởng không biết dân chúng Trung hoa đang nghĩ gì và muốn gì. Tưởng hoàn toàn tùy thuộc vào những báo cáo của thuộc hạ, và chỉ ngồi trong văn phòng rồi ra mệnh lệnh.
Trong khi đó thì tại biên giới hai tỉnh Giang Tây và Phúc Kiến, Mao Trạch Đông đang xây dựng một nước cộng hòa sô viết với sự hậu thuẫn của nông dân. Mao thành công lôi cuốn được sự ủng hộ của nông dân, và như vậy Tưởng rất khó mở một cuộc chiến tranh thắng lợi chống lại cộng sản và thống nhất đất nước. Tưởng không có khả năng kêu gọi được sự hưởng ứng của quần chúng. Trái lại Tưởng còn có những hành động rất phản tuyên truyền. Một hôm Tưởng đến một làng hẻo lánh và trông thấy một người dùng lá quốc kỳ quấn ngang lưng. Khi được hỏi tại sao xúc phạm đến quốc kỳ như thế, người đó tự nhận là một đồ tể chuyên nghề giết heo, và cho biết quấn quốc kỳ ngang lưng như vậy là vì quốc kỳ màu đỏ nên máu heo có dính vào cũng không làm hoen ố thêm. Tưởng giận sùi bọt mép, và đòi treo cổ bác đồ tể đó ngay.
Mỹ Linh không có ảnh hưởng gì đối với người Trung hoa. Bà chỉ được người ngoại quốc chú ý. Mỗi khi đi đâu, bà chỉ thường nói chuyện với các nhà truyền giáo, các hội quán phụ nữ. Cuối năm 1933, Mỹ Linh nhất định đòi ra mặt trận tại vùng Giang Tây. Lúc đó lực lượng cộng sản đang chịu những tổn thất to lớn sau những chiến dịch tiêu diệt của Tưởng. Nhưng quân của Tưởng không đủ sức đuổi cộng quân ra khỏi căn cứ địa an toàn của họ. Khi không có sự hiện diện của quan sát viên ngoại quốc, quân đội của Tưởng tàn phá làng mạc, đốt ruộng vườn và xử tử những nông dân nào không chịu bỏ làng ra đi. Khi Mỹ Linh đến thì bà được báo cáo rằng những sự tàn phá đó là do cộng sản gây ra. Mỹ Linh không tiến xa hơn nữa để biết rõ sự thực.
Các chiến dịch cuối cùng của Tưởng do tướng von Seeckt của Đức quốc xã chỉ huy tỏ ra thành công. Hitler rất thích chủ trương của Tưởng chỉ nhằm tiêu diệt cộng sản trong nước hơn là đương đầu với quân xâm lăng Nhật Bản. Tướng von Seeckt dùng một chiến thuật rất tốn kém khiến Tưởng càng ngày càng phải đòi thêm tiền từ bộ trưởng tài chánh Tống Tử Văn. Hans von Seeckt đã đòi Tưởng phải xây hàng trăm dậm đường xa lộ tiến vào an toàn khu của cộng sản tại Giang Tây, xây những pháo đài, rồi đưa xe tăng tấn công quân cộng sản cùng với sự yểm trợ của pháo binh và không quân. Chiến dịch của Hans von Seeckt gây nạn đói cho dân chúng trong vùng cộng sản. Tưởng tung vào trận đánh 700 ngàn quân để chống lại 150 ngàn quân cộng sản. Kết quả là 60 ngàn quân cộng sản bị tiêu diệt và trên một triệu dân chúng bị giết hoặc chết đói. Cuối cùng Mao Trạch Đông và hồng quân của khu sô viết Giang Tây phải bỏ căn cứ, làm một cuộc chạy trốn lên vùng núi non hoang giá của Thiểm Tây, lập căn cứ mới và chờ cơ hội phục thù. (Xin đọc cuốn Vạn Lý Trường Chinh, cũng của Nguyễn Vạn Lý.)
Phong Trào Đời Sống Mới và Đạo Quân Áo Xanh
Trong một cuộc họp với các nhà truyền giáo, Mỹ Linh biết chính phủ Nam Kinh muốn có được sự ủng hộ tài chánh của tây phương thì Tưởng cần phải đưa ra những chương trình xã hội. Mỹ Linh lập tức nắm lấy cơ hội này và thành lập Phong Trào Đời Sống Mới. Mỹ Linh bắt đầu bằng bốn đức tính của người Trung hoa: lịch sự - phụng sự - lương thiện - danh dự. Mỹ Linh thay đổi những đức tính này cho giống với quan niệm của giới trung lưu tại Hoa kỳ. Phong Trào Đời Sống Mới của Mỹ Linh rất giống với nguyên tắc sống lịch sự của người Mỹ, và dùng những khẩu hiệu kêu gọi người Trung hoa theo một nếp sống mới. Những khẩu hiệu này gồm có: Đừng khạc nhổ, An toàn trước đã, Coi chừng bước chân, Giữ tay mặt, Sắp hàng tại đây, Không khí mát và ánh nắng mặt trời, Đánh răng, Uống sinh tố, Yêu quý láng giềng, Tiết kiệm...
Nhiều người Trung hoa đã là nạn nhân của Phong Trào Đời Sống Mới. Từng nhóm hướng đạo sinh mang theo những thùng gỗ, đứng canh ngoài đường phố. Khi một người đi ngang qua mà đội nón bèo nhèo, miệng ngậm điếu thuốc lá thì lập tức một hướng đạo sinh chặn người đó lại, bước lên chiếc thùng gỗ, lột nón người đó ra, vuốt cái nón cho thẳng lại và giật điều thuốc từ miệng nạn nhân và liệng xuống rãnh nước. Xong rồi, người hướng đạo sinh kính cẩn chào nạn nhân, và bước xuống khỏi cái thùng gỗ và chờ nạn nhân khác.
Người Trung hoa rất khó chịu với cảnh như vậy, nhưng người ngoại quốc rất tán thưởng. Các viên chức chính phủ nhận biết chiến dịch này sẽ được lòng Tưởng phu nhân nên đều tích cực tham gia. Các tiểu đội cảnh sát đánh đập bất cứ ai dám khạc nhổ nơi công cộng. Khạc nhổ là một thói quen của người Trung hoa, và luật lệ mới của Phong Trào Đời Sống Mới bắt được rất nhiều người vi phạm mỗi ngày. Ngay cả những người không đi ngay ngắn cũng bị chỉ trích. Những người đi ăn nhà hàng mà uống thêm rượu, hoặc gọi quá nhiều món ăn và cho bồi tiền típ là lập tức bị lính lôi ra đường đánh đập, vì không theo khẩu hiệu Tiết Kiệm của bà Tưởng. Nhiều nhà hàng đã phải bán rượu bằng những bình trà để che mắt các hướng đạo sinh đứng canh chừng.
Những thiếu nữ dùng son môi, hoặc mang nón và áo đầm thì bị cảnh sát giữ lại, rồi đóng dấu "Ăn Mặc Kỳ Cục" bằng mực đỏ lên người. Các thợ hớt tóc, uốn tóc cho khách hàng, hoặc bán những bộ đồ tắm hở hang, đều bị sỉ nhục trước đám đông. Các khẩu hiệu của Phong Trào Đời Sống Mới được viết khắp nơi, tận hang cùng ngõ hẻm. Tuy nhiên Phong Trào Đời Sống Mới cũng thực hiện được nhiều việc ích lợi, như vệ sinh công cộng, xây cống và phát triển hệ thống nước máy. Các tục lệ cổ hủ như đốt pháo, đốt vàng mã cho người chết bị cấm chỉ. Mọi người được khuyên phải rửa tay, rửa mặt ba lần một ngày, phải tắm gội ít nhất mỗi tuần một lần, phải rửa và luộc rau trước khi ăn, và không nên hút thuốc lá.
Mỹ Linh cố gắng không hút thuốc lá trước công chúng, cho đúng với những khẩu hiệu của bà trong Phong Trào Đời Sống Mới do chính bà phát động. Nhưng thực ra Mỹ Linh nghiện thuốc lá của Anh và hút liên miên tại nhà riêng, hoặc tại những nơi không ai trông thấy. Tưởng Giới Thạch cũng đứng sau hỗ trợ cho chiến dịch của vợ, kêu gọi nông dân không được khạc nhổ và bắt xe lửa phải chạy đúng giờ. Tưởng muốn quần chúng phải tuân theo kỷ luật, và không ngần ngại dùng hình phạt đánh đập tàn nhẫn những ai vi phạm lời kêu gọi của Phong Trào Đời Sống Mới. Phương châm của Tưởng có ba điều chính: Chủ nghĩa quốc gia, Tuyệt đối tin tưởng vào Lãnh Tụ Tối Cao, và Quân sự hóa quần chúng.
Tưởng rất khâm phục Hitler. Hitler tổ chức đạo quân Áo Nâu thì Tưởng cũng lập đạo quân Áo Xanh. Đạo quân Áo Xanh thoát thai từ tổ chức mật vụ của hai anh em Trần Quả Phu và an ninh quân đội của Thái Lý. Trần Quả Phu thành lập được một hệ thống tình báo bao gồm hầu hết mọi ngành trong chính phủ. Thái Lý được coi là người đáng sợ nhất Trung hoa trong suốt hai mươi năm. Thoạt đầu Thái Lý là một phụ tá của Bố già Đỗ Đại Nhĩ. Sau đó Thái Lý vào học tại trường Hoàng Phố. Thái Lý được giao phó ngành phản gián chống lại Nhật Bản và cộng sản. Bề ngoài Thái Lý trông rất hiền lành, lúc nào cũng mỉm cười. Dưới quyền Thái Lý là một trăm ngàn nhân viên an ninh và hai trăm ngàn dân anh chị Lục Hội.
Hai tổ chức mật vụ của Trần Quả Phu và Thái Lý được đội quân Áo Xanh hỗ trợ. Đội quân Áo Xanh bắt chước đường lối đảng Hắc Long của Nhật. Nhiệm vụ của đội quân Áo Xanh là ám sát chính trị, thủ tiêu những "kẻ thù của quốc gia". Đội quân Áo Xanh chỉ có khoảng mười ngàn người và do các sĩ quan gốc Lục Hội chỉ huỵ Tất cả đều tham gia nghi lễ trích máu ăn thề.
Phong Trào Đời Sống Mới mà Mỹ Linh rất hãnh diện chỉ là sự tiếp nối của đội quân Áo Xanh, với mục đích kỷ luật hóa Trung hoa cho tham vọng của Tưởng và phe nhóm. Khi mật vụ của Trần Quả Phu tra tấn và thắt cổ Đặng Diễn Đạt thì không phải chỉ một mình Khánh Linh xúc động đau đớn. Nhiều nhà trí thức từng cộng tác với Tưởng, như viện trưởng đại học Bắc Kinh, tự nhận đã lầm đường, đang phục vụ giúp đỡ một con quái vật. Họ liên kết với Khánh Linh, nhưng cuối cùng phần lớn đều bị ám sát hoặc bị ghép vào những tội mà họ không hề phạm, và bị kết án tử hình. Sáu nhà văn trẻ, trong đó có chồng của nhà văn nổi tiếng Đinh Linh, chống lại Tưởng bị đạo quân Áo Xanh bắt được. Sáu người bị bắt phải đào một cái hố rộng. Khi họ đào xong, họ bị những người Áo Xanh trói chân tay, liệng xuống hố và chôn sống.

CHƯƠNG 15: CUỘC XUNG ĐỘT TRUNG, NHẬT TẠI THƯỢNG HẢI
Trong thời gian giữ chức bộ trưởng tài chánh cho chính phủ Nam Kinh, Tống Tử Văn đã đắc lực giúp Tưởng Giới Thạch về tài chánh bằng cách phát hành các công khố phiếu để thu hút tiền bạc của giới thương gia. Họ Tống đã phá hủy sức mạnh của tư bản Trung hoa, biến họ thành nô lệ cho chế độ độc tài của Tưởng. Công khố phiếu thu hút hầu hết tiền bạc của giới tư bản, và do đó tiềm năng phát triển kỹ nghệ của Trung hoa bị ảnh hưởng tai hại. Khi Khổng Tường Hy lên giữ chức bộ trưởng tài chánh thay Tống Tử Văn thì tất cả công trình thuế khoá của Tống Tử Văn đều sụp đổ, và các tỉnh trở lại đường lối thu thuế cũ.
Lúc đó không còn những vụ tống tiền một cách lộ liễu như năm 1927 nữa, nhưng vẫn còn sự ép buộc giới thương gia phải cúng tiền cho Tưởng. Tuy vậy, lợi tức thu được vẫn không đủ cho Tưởng phát động những chiến dịch tiễu trừ cộng sản. Tống Tử Văn yêu cầu tiết giảm quân phí, và đòi thành lập Ủy ban Ngân sách với sự hậu thuẫn của các nhà tư bản Thượng Hải. Tưởng đành phải thiết lập Ủy ban này, nhưng với thành phần là các sứ quân, như Tưởng, Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn và Lý Tông Nhân. Tống Tử Văn là người dân sự duy nhất trong ủy ban. Khi quân đoàn Bắc Phạt tiến tới Bắc Kinh thì các sứ quân say men chiến thắng càng mặc sức vơ vét tiền bạc. Tưởng bắt các ngân hàng cho vay ba triệu, và bắt Tống Tử Văn phải lên Bắc Kinh gây quỹ 50 triệu cho chính phủ bằng cách bán công khố phiếu. Trung hoa hoàn toàn nằm trong tay các sứ quân tham lam, luôn luôn đòi hỏi tiền cho những lính ma và các chiến dịch ma của họ.
Khi các nhà tư bản Thượng Hải tìm cách chống lại Tưởng thì lập tức một cuộc biểu tình tràn vào cơ sở của phòng Thương mại, cướp phá tài sản và cuối cùng phòng Thương mại được tái lập với người và đường lối của Bố già Đỗ Đại Nhĩ.
Năm 1931 khi sứ quân Trương Tác Lâm của Mãn châu đi hàng hai, không chịu hợp tác hẳn với người Nhật thì xe lửa của họ Trương bị phe quá khích Nhật giật mìn nổ. Con trai là thống chế Trương Học Lương lên thaỵ Người Nhật ám sát Trương Tác Lâm với hy vọng Trương Học Lương sẽ hợp tác với Nhật. Nhưng khi Trương Học Lương quyết định liên kết với Nam Kinh thì Nhật chiếm những khu vực kỹ nghệ giầu tài nguyên của Mãn châu, và sát nhập vào Triều Tiên. Quần chúng Trung hoa vô cùng phẫn nộ thái độ thờ ơ của Tưởng Giới Thạch trước sự xâm lăng trắng trợn của Nhật Bản. Tưởng chỉ yêu cầu quần chúng phải "giữ một sự bình tĩnh xứng đáng."
Quần chúng nổi loạn, phá các cơ sở thương mại Nhật Bản tại Thượng Hải, và yêu cầu chính phủ phải tuyên chiến với Nhật. Tưởng vẫn hoàn toàn im lặng. Người ta cho rằng giữa Tưởng và Nhật đã có một thỏa hiệp mật. Ngoài ra Bố già Đỗ Đại Nhĩ và gia đình Tống Mỹ Linh có liên hệ thương mại mật thiết với người Nhật. Trong những trường hợp khó khăn như vậy, Tưởng chỉ đề nghị áp dụng nguyên tắc của môn võ công Thái Cực, nghĩa là khi kẻ địch áp lực mạnh, ta chỉ nên đứng né sang một bên để kẻ địch mất đà và tự ngã.
Lần này dường như quần chúng không chấp nhận sách lược thụ động của Tưởng, vì chờ đợi mãi kẻ thù vẫn chưa tự ngã. Quần chúng tự động đứng lên tẩy chay hàng hóa Nhật. Giữa tháng 1 năm 1932, năm nhà sư Nhật bị dân chúng Trung hoa hành hung ngoài đường phố, một người bị tử thương sau đó. Một toán dân Nhật bạo động trả thù, kết quả là một cảnh sát Trung hoa và một người Nhật thiệt mạng. Ngày 18-1, năm người Nhật bị đón đánh bên ngoài một nhà máy dệt khăn. Hai hôm sau, năm mươi thanh niên Nhật vũ trang kiếm và gậy đi trả thù. Toán người Nhật nổi lửa đốt cháy một nhà máy dệt khăn, và hai người Trung hoa tử nạn.
Chính phủ Nhật chính thức đòi Trung hoa phải xin lỗi, trả phí tổn chữa trị cho nạn nhân Nhật, và giải tán các tổ chức bài Nhật. Tới ngày 24-1, chiến hạm Nhật tiến vào Thượng Hải. Hai ngày sau, trong lúc thị trưởng Thượng Hải chưa trả lời thì lãnh sự Nhật ra tối hậu thư, và thông báo cho các lực lượng ngoại quốc tại Thượng Hải biết quân Nhật sẽ tấn công thành phố ngày 28-1 nếu không được thị trưởng Thượng Hải trả lời thỏa đáng. Hội đồng thành phố Thượng Hải tuyên cáo tình trạng khẩn cấp. Trong hoàn cảnh đó, Tưởng Giới Thạch vẫn giữ im lặng, vẫn theo đuổi nguyên tắc của võ công Thái Cực, mặc dù quân đội của Tưởng đông hơn quân Nhật. Tưởng chỉ kêu gọi hội Quốc Liên can thiệp và dời chính phủ Nam Kinh tới một địa điểm an toàn hơn.
Đô đốc Nhật Shiozawa tuyên bố, "Người Trung hoa chỉ biết kinh sợ sức mạnh thôi." Việc tấn công Thượng Hải có mục đích bắt người Trung hoa phải khiếp sợ và phục tùng Nhật Bản. Nhưng chính tại đây, người Nhật đã đụng phải sức kháng cự anh dũng của Lộ quân 19 dưới quyền chỉ huy của tướng Thái Đình Khải. Lộ quân 19 tự động chiến đấu bảo vệ Thượng Hải không do lệnh của Tưởng. Lộ quân 19 di chuyển từ Quảng Đông và được lệnh đóng tại Thượng Hải để phục vụ cho Bố già Đỗ Đại Nhĩ. Nhưng khi quân Nhật tấn công Thượng Hải thì mọi người kinh ngạc trước sự chiến đấu dũng cảm của lộ quân này. Tướng Thái Đình Khải tuyên bố, "Quân Nhật có tất cả sức mạnh của chiến tranh hiện đại. Họ có chiến xa, pháo binh, phi cơ và một hạm đội mạnh nhất Á Châu, trong khi chúng tôi chỉ có súng trường và súng máy. Nhưng sự kháng chiến của chúng tôi được xây dựng trên nguyên tắc căn bản: quyền của bất cứ dân tộc nào tự bảo vệ chống lại ngoại xâm, đe dọa sự sống còn của quốc gia họ. Quân sĩ thuộc Lộ quân 19 biết rất rõ điều này, và họ chiến đấu với một tinh thần rất cao."
Lộ quân 19 có 45 ngàn binh sĩ tham dự cuộc cách mạng quốc gia năm 1926, và là lộ quân đầu tiên tại Trung hoa và gồm những quân nhân tình nguyện. Lộ quân 19 được coi là đạo quân thiện chiến nhất tại vùng hạ lưu sông Dương Tử. Khi Tưởng Giới Thạch lợi dụng thời cơ chiếm đoạt Thượng Hải thì lộ quân 19 bất mãn, nhưng vốn là những quân nhân có kỷ luật, họ tuân lệnh rút ra khỏi Thượng Hải. Khi quân Nhật tiến vào Thượng Hải thì họ quay trở lại trong quyết tâm bảo vệ Thượng Hải. Trong hai ngày đầu, toàn thể Trung hoa nức lòng ủng hộ họ, theo dõi sự chiến đấu dũng cảm của những đứa con yêu của tổ quốc. Hàng ngàn thanh niên tìm đến hỗ trợ cho Lộ quân 19.
Cuộc chiến diễn ra dữ dội tại từng đường phố. Quân Nhật phải mất 34 ngày hành quân, huy động cả hải quân, không quân và 65 ngàn lục quân mới đẩy lui được Lộ quân 19 ra khỏi Thượng Hải. Lộ quân 19 bị thiệt hại nặng, phân nửa lực lượng bị tiêu diệt và cần phải được tăng cường gấp rút. Trong lúc Lộ quân 19 chiến đấu chống lại một lực lượng địch quá chênh lệch về sức mạnh thì quân đội gồm hai triệu người của Tưởng án binh bất động, đứng nhìn Lộ quân 19 chiến đấu và sắp tan rã. Tưởng hứa tăng cường 100 ngàn quân cho Lộ quân 19, nhưng về sau chỉ phái hai sư đoàn 87 và 88, tổng cộng chỉ có 15 ngàn quân. Hai sư đoàn này mới thành lập chưa có kinh nghiệm tác chiến, và bị tiêu diệt hai phần ba lực lượng.
Tống Tử Văn phải tung đạo quân thu thuế 30 ngàn người của mình vào chiến trường để trợ giúp Lộ quân 19. Tuy vậy phía Trung hoa không chống lại được sức mạnh của quân Nhật có vũ khí quá tối tân. Vào lúc ngưng bắn ngày 3-3-1932 thì 600 ngàn người Thượng Hải trở thành dân tỵ nạn, sự buôn bán ngưng trệ hẳn, lợi tức suy giảm 75 phần trăm, 900 cơ xưởng kỹ nghệ và thương mại bị phá hủy, một sự thiệt hại lên tới 170 triệu.
Đứng trước sự tàn phá khủng khiếp của trận chiến, Tống Tử Văn phải tuyên bố, "Nếu Trung hoa phải lựa chọn giữa cộng sản và quân phiệt Nhật Bản thì Trung hoa phải đi theo cộng sản." Tống Tử Văn rất căm phẫn và tủi nhục khi Trung hoa bị Nhật Bản xâm lăng, thoạt đầu là Mãn châu, và bây giờ là Thượng Hải, trong lúc đó hội Quốc Liên không hề lên tiếng can thiệp. Lời tuyên bố nẩy lửa của Tống Tử Văn đã đưa ông vào vị trí chống đối lại Tưởng Giới Thạch.
Đối với Tưởng thì mối lo tâm phúc là cộng sản, và luôn luôn đòi tiền để chi dùng cho những chiến dịch tiễu trừ quân cộng sản. Tống Tử Văn và giới tài phiệt Thượng Hải rất bất mãn, cho rằng Tưởng đã không nhìn thấy mối nguy thực sự là Nhật Bản. Giới tài phiệt đứng lên tổ chức Phong Trào Chống Nội Chiến, và chống lại việc dùng quân sự để giải quyết những vấn đề chính trị nội bộ. Tuy nhiên Phong trào này không đạt được kết quả mong muốn.
Lộ quân 19 được quần chúng kính phục như những vị anh hùng và Tưởng Giới Thạch rất khó chịu sự kiện này. Tưởng liền ra lệnh cho Lộ quân 19 tiến vào vùng Phúc Kiến để đương đầu với quân du kích cộng sản. Khi đẩy Lộ quân 19 anh hùng ra khỏi Thượng Hải, Tưởng muốn mượn du kích cộng sản tiêu diệt dần đơn vị được quần chúng ngưỡng mộ. Tống Tử Văn bất mãn và từ chức. Nhưng Tưởng không thể để mất một cây tiền như Tống Tử Văn, và đi đến một sự dung hoà là Tống Tử Văn vẫn tiếp tục giữ bộ trưởng tài chánh, và được kiêm thêm chức phó thủ tướng, và được thực sự nắm quyền thủ tướng. Thủ tướng Uông Tinh Vệ phải tuyên bố từ chức vì lý do sức khoẻ, cần phải đi điều trị tại ngoại quốc, và Tống Tử Văn đảm nhiệm chức vụ quyền thủ tướng.
Trong khi đó quân Nhật tại Mãn châu đang cố gắng chiếm thêm những vùng đất của tỉnh Hồ Bắc, với danh nghĩa là dẹp quân cộng sản. Tống Tử Văn cực lực chống lại sự xâm lăng của quân Nhật, và mở chiến dịch tẩy chay hàng hóa Nhật tại khắp lãnh thổ Trung hoa, và lên án hội Quốc Liên làm ngơ trước sự xâm lăng trắng trợn của Nhật. Khi quân Nhật tấn công Hồ Bắc thì chính Tống Tử Văn đã đích thân lên Hồ Bắc để đối phó với tình thế cùng thống chế Trương Học Lương, trong lúc Tưởng Giới Thạch vẫn im lặng một cách khó hiểu.
Tống Tử Văn trở về Thượng Hải, mở một cuộc bán công phố phiếu để tài trợ cuộc chiến đấu kháng Nhật. Nhưng Tưởng đã ra lệnh rút quân khỏi thủ phủ Hồ Bắc, bỏ mặc cho quân Nhật tiến chiếm. Đúng lúc đó, Uông Tinh Vệ được thông báo đã khỏi bệnh, và trở về nắm lại chức thủ tướng từ tay Tống Tử Văn, và ký một hiệp ước đình chiến với Đông Kinh. Hòa ước này thực ra chỉ là một sự đầu hàng và dâng tỉnh Hồ Bắc cho Nhật Bản.
Tống Tử Văn được một nhà xuất bản Mỹ mời qua Hoa Kỳ. Tại đây Tống đã thành công gây được sự tin tưởng và vay được một ngân khoản 50 triệu mỹ kim. Tống Tử Văn hy vọng phát triển kỹ nghệ Trung hoa. Nhưng khi trở về Trung hoa thì họ Tống bị người Nhật dùng áp lực đòi Tưởng loại Tống ra khỏi chính quyền. Điều tệ hại hơn nữa cho Tống Tử Văn là trong lúc vắng nhà, Tưởng đã xài thâm thủng một số nợ lớn nữa và bắt Tống Tử Văn phải tìm cách bù đắp.
Ngày 25-10-1933, Tống Tử Văn và Tưởng Giới Thạch bàn cãi về các biện pháp tìm thêm ngân khoản khẩn cấp. Tưởng buộc tội Tống Tử Văn đã không kiếm đủ tài chánh khiến cho các chiến dịch tiêu diệt cộng sản bị thất bại. Khi Tống Tử Văn cãi lại thì Tưởng nổi nóng, vung tay tát vào mặt họ Tống. Tống Tử Văn đứng dậy bỏ ra về và nộp đơn từ chức bộ trưởng tài chánh và phó thủ tướng. Khi trả lời báo chí, Tống Tử Văn châm biếm rằng mình "mắc bệnh" nên phải từ chức, nhưng khi nói chuyện riêng, họ Tống thú nhận làm bộ trưởng tài chánh không khác gì làm một con chó cho Tưởng Giới Thạch. Dẫu sao người Nhật đã toại nguyện khi Tống Tử Văn không còn trong chính phủ nữa.
Khổng Tường Hy được chọn lên làm bộ trưởng tài chánh thay thế Tống Tử Văn. Trong suốt 11 năm sau đó, Khổng Tường Hy hoàn toàn làm theo lệnh của Tưởng, và hủy hoại tất cả công trình về tài chánh của Tống Tử Văn. Vào năm 1945, vật giá leo thang tới 2,500 phần trăm so với lúc Khổng Tường Hy mới đảm nhận chức bộ trưởng tài chánh. Người Trung hoa phải gánh tiền ra chợ để mua vài trái trứng. Đó là thành quả của bộ trưởng tài chánh Khổng Tường Hỵ Những thất bại của Khổng Tường Hy khiến Tưởng Giới Thạch cảm thấy cần phải có một tài năng như Tống Tử Văn. Tưởng cho mời Tống Tử Văn trở lại làm bộ trưởng tài chánh, nhưng Tống Tử Văn từ chối.
Thực ra sau khi bị Tưởng làm nhục, Tống Tử Văn có thể bỏ đi Hương Cảng khuyếch trương việc kinh doanh và làm một đại tài chủ thế giới, nhưng Tống Tử Văn vốn còn trẻ tuổi, còn nhiều năng lực, và nhất là còn tinh thần ái quốc, nên ông vẫn nán ở lại, mong làm một cái gì cho đất nước. Tưởng Giới Thạch có quyền, nhưng không biết cách tìm ra tiền. Tống Tử Văn biết cách làm đầy túi tiền, nhưng lại không ưa nổi Tưởng, vì thế Tống chỉ nhận làm cố vấn, và muốn Khổng Tường Hy tiếp tục chức bộ trưởng tài chánh làm trái độn giữa Tưởng và họ Tống. Tống Tử Văn không muốn nhìn mặt Tưởng nữa. Sau đó là những đạo luật mới về ngân hàng, bắt các ngân hàng phải đóng một phần tư tài sản của họ vào công khố phiếu chính phủ. Một số ngân hàng lớn chống đối. Nhưng Tưởng, Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn đã hoạch định kế sách quốc hữu hóa các ngân hàng lớn, và anh em nhà họ Tống như Tống Tử Văn, Tống Tử Lương, Tống Tử An và Bố già Đỗ Đại Nhĩ được bổ nhiệm vào các chức vụ điều khiển các ngân hàng mới được quốc hữu hóa. Các ngân hàng mới này được quyền phát hành giấy bạc.
Trong chức vụ mới, Tống Tử Văn có dịp thu đoạt được một tài sản vĩ đại. Người ta đồn Tống Tử Văn có rất nhiều cổ phần trong các công ty General Motors và Du Pont của Mỹ. Bố già Đỗ Đại Nhĩ cũng trở thành "một nhà từ thiện hay giúp đỡ kẻ nghèo" rất nổi tiếng. Số tiền giấy phát hành nhiều hơn số quý kim bảo đảm. Từ năm 1935 đến 1937, tiền giấy được gia tăng từ 453 lên 1477 triệu, mà chỉ một nửa được bảo đảm bằng quý kim như bạc. Còn lại trên 500 triệu chỉ là giấy lộn, không có giá trị gì, do chính phủ in ra để trả nợ. Sau năm 1937, người ta không biết số tiền giấy được in ra là bao nhiêu, vì đó là năm cuối cùng chính phủ Nam Kinh công bố về ngân sách và các sự chi tiêu. Và cũng từ đấy nền tài chánh của Trung hoa đi vào một giai đoạn bi thảm nhất trong lịch sử tiền tệ thế giới. Đó cũng là công trình của Tưởng Giới Thạch và Khổng Tường Hy.
Bố Già Đỗ Đại Nhĩ
Dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch, Bố già Đỗ Đại Nhĩ trở thành một nhân vật "khả kính" của Thượng Hải, điều khiển nhiều ngân hàng lớn, kể cả Trung Quốc Ngân Hàng. Tại bất cứ đâu, người ta cũng thấy ảnh hưởng của Đỗ Đại Nhĩ. Tuy vậy, bản chất của Đỗ Đại Nhĩ vẫn là một người thô bạo của thế giới anh chị. Khi hội đồng tiền tệ được thành lập, Khổng Tường Hy đề nghị Đỗ Đại Nhĩ làm hội viên của hội đồng đó thì viên cố vấn Leith-Ross người Anh phản đối vì tai tiếng của Đỗ Đại Nhĩ. Khổng Tường Hy nói thẳng rằng Đỗ Đại Nhĩ là người cầm đầu giới anh chị đông hàng ngàn người sẵn sàng tuân lệnh, và có thể gây rắc rối bất cứ lúc nào.
Những cuộc bàn cãi bí mật về tài chánh diễn ra tại nhà Khổng Tường Hy, và thường có Ái Linh tham dự, vì bà là chủ nhân. Ái Linh nghe được tin tức gì thì lập tức báo cho Đỗ Đại Nhĩ. Một lần Ái Linh cho Đỗ Đại Nhĩ biết tin tức về sự thay đổi hối xuất ngoại tệ. Đỗ Đại Nhĩ hiểu lầm nên đầu tư lầm, và bị mất 50 ngàn bảng Anh, một số tiền lớn vào thời đó. Đỗ Đại Nhĩ không chấp nhận sự thua thiệt này, và đòi Khổng Tường Hy lấy tiền của Ngân Hàng Trung Ương đền bù cho mình. Khi Khổng Tường Hy từ chối, thì ngay tối hôm đó một cỗ quan tài do sáu người phu nhà đòn khiêng đến đặt trước nhà họ Khổng, một cảnh cáo quyết liệt của Bố già. Lập tức sáng hôm sau, Khổng Tường Hy vội vã triệu tập một buổi họp tại Ngân Hàng Trung Ương, và ngân hàng đồng ý đền bồi cho một "công dân ái quốc" mới bị thua lỗ trên thị trường hối đoái.
Dịch vụ nha phiến của Bố già Đỗ Đại Nhĩ được Tưởng Giới Thạch sử dụng như là một quốc sách. Các sứ quân và chính phủ Nam Kinh tận dụng khai thác nha phiến làm nguồn lợi tức chính yếu. Khi tổ chức độc quyền nha phiến của Nam Kinh đụng độ với khu vực của Đỗ Đại Nhĩ tại Chiết Giang và Giang Tô thì lập tức chính phủ rút lui, không dám đụng chạm tới quyền lợi của Đỗ Đại Nhĩ. Lúc đó các nhà trí thức Trung hoa và tây phương cực lực phản đối việc sử dụng nha phiến quá nhiều tại Trung hoa. Đến năm 1928 thì nha phiến xâm nhập vào mọi tầng lớp người Trung hoa. Phòng thương mại Qúi Châu còn dùng nha phiến làm đơn vị hối đoái chính thức. Tại Vân Nam, nơi trồng nhiều nha phiến, 90 phần trăm đàn ông nghiện nha phiến, và con nít sinh ra đã bắt đầu nghiện ngập, vì chúng là sự truyền giống của các bà mẹ nghiện ngập.
Vì sự tranh chấp khu vực buôn bán va chạm nhau nên Tưởng Giới Thạch tìm gặp Đỗ Đại Nhĩ để thương lượng, và hai người đi đến một giải pháp mới. Đỗ Đại Nhĩ được giao phó nhiệm vụ đặc trách tiễu trừ cộng sản, một chức vụ giúp Đỗ Đại Nhĩ tha hồ giết bất cứ ai không ưa, chỉ cần gán cho người đó là cộng sản. Lục Hội của Đỗ Đại Nhĩ được độc quyền bán nha phiến và được chính phủ bảo vệ, ngược lại Đỗ Đại Nhĩ phải đóng thuế trước cho chính phủ Nam Kinh 6 triệu.
Sau khi Đỗ Đại Nhĩ trả 6 triệu cho Tống Tử Văn, thì hắn lại đổi ý và đòi lại số tiền đó. Tống Tử Văn liền trả cho Đỗ Đại Nhĩ cả 6 triệu, nhưng bằng công khố phiếu chứ không phải là tiền mặt. Đỗ Đại Nhĩ hiểu rằng công khố phiếu chỉ là giấy lộn. Lập tức một cuộc ám sát Tống Tử Văn xảy ra tại một ga xe lửa. Khi Tống Tử Văn vừa bước ra khỏi sân ga thì súng nổ loạn xạ liên hồi và thuốc súng bốc lên mù mịt. Tống Tử Văn nhào xuống nấp sau một cây cột. Khi tất cả im lặng, Tống Tử Văn trông thấy viên thư ký của mình bị trúng đạn khắp người, nằm chết gục giữa đống máu, tập tài liệu trong tay viên thư ký cũng rơi tung tóe. Một điều lạ là Tống Tử Văn đứng ngay bên cạnh mà không trúng một viên đạn nào. Thực ra Đỗ Đại Nhĩ chỉ muốn cảnh cáo Tống Tử Văn không được lừa dối mình.
Một trong những vùng sản xuất thuốc phiện giàu nhất là miền bắc Trung hoa, và khi Nhật Bản chiếm vùng này trong những năm đầu của thập niên 1930 thì Tưởng mất hẳn nguồn tài chánh lớn lao ấy. Nhật Bản dùng thuốc phiện nguyên chất của miền bắc Trung hoa để chế tạo chất bạch phiến và có lợi hơn. Tưởng liền cấm người Trung hoa dùng bạch phiến. Và cuối cùng Tưởng kết thúc một hiệp thương với người Nhật Bản, và mua thuốc phiện của Nhật Bản sản xuất tại Trung hoa trong khu vực chiếm đóng của người Nhật.
Bạch phiến là một thứ thuốc vẫn được dùng để chữa trị cho những người muốn bỏ thuốc phiện. Năm 1931, hội Quốc Liên ấn định mức sản xuất bạch phiến, chỉ cho sản xuất dùng cho y học thôi. Cũng năm đó, Bố già Đỗ Đại Nhĩ khánh thành một nhà từ đường rất lớn, mới xây cất cho dòng họ tại Cao Châu. Lễ khánh thành rất náo nhiệt và tốn kém, kéo dài tới ba ngày, và có hàng ngàn nhân vật quan trọng trong chính phủ tới dự. Tưởng Giới Thạch trao tặng Đỗ Đại Nhĩ một bức chướng, ca ngợi sự đóng góp vĩ đại của Đỗ Đại Nhĩ cho nhân loại. Khi buổi lễ khánh thành chấm dứt thì nhà từ đường của Đỗ Đại Nhĩ trở thành một xưởng chế tạo bạch phiến lớn nhất Trung hoa. Xưởng chế tạo bạch phiến này dùng thuốc phiện mua lại của Nhật từ miền bắc Trung hoa. Nhờ công của Đỗ Đại Nhĩ, người Trung hoa được hưởng một nguồn cung cấp bạch phiến rất dồi dào. Người Trung hoa dùng bạch phiến để cai thuốc phiện, nhưng bỏ được thuốc phiện thì họ lại nghiện bạch phiến.
Đỗ Đại Nhĩ trở thành người có nhiều tước vị nhất Thượng Hải. Khi Tưởng Giới Thạch trở thành lãnh tụ Quốc dân đảng thì Đỗ Đại Nhĩ được phong chức đại tướng. Đỗ Đại Nhĩ đã hối lộ chia phần với tổng lãnh sự và cảnh sát trưởng tại tô giới Pháp để được tự do buôn bán bạch phiến. Lần đầu tiên việc này đến tai chính phủ Ba Lệ Lập tức một đô đốc được phái sang dọn dẹp tham nhũng. Đỗ Đại Nhĩ bị loại khỏi hội đồng thành phố. Viên tổng lãnh sự và cảnh sát trưởng chuẩn bị trở về Pháp, dưỡng già với tài sản khổng lồ do Đỗ Đại Nhĩ hối lộ. Đỗ Đại Nhĩ cho rằng đã bị viên tổng lãnh sự và cảnh sát trưởng phản bội. Đỗ Đại Nhĩ liền mời hai người này dự một bữa tiệc tiễn biệt. Đỗ Đại Nhĩ sai bỏ thuốc độc vào đồ ăn, và kết quả là viên tổng lãnh sự và vài người khác chết ngay tại chỗ. Viên cảnh sát trưởng tuy thoát chết, nhưng cũng bị bệnh trong nhiều tuần lễ.
Viên tổng lãnh sự mới tới thay thế hoảng sợ, vội cộng tác với Đỗ Đại Nhĩ, và sai cảnh sát hộ tống tất cả những chuyến giao hàng bạch phiến của Đỗ ĐạI Nhĩ. Việc làm ăn của Đỗ Đại Nhĩ lại phát đạt như cũ. Tuy nhiên bây giờ Đỗ Đại Nhĩ không thấy cần thiết khu vực Thượng Hải nhỏ hẹp nữa, trong khi Tưởng cho phép Đỗ Đại Nhĩ được buôn bán tại khắp các khu vực do Quốc dân đảng kiểm soát. Thỉnh thoảng Đỗ Đại Nhĩ cũng nhắc cho chính quyền Nam Kinh biết sự nguy hiểm của mình. Với lợi tức vô cùng lớn lao thu được nhờ dịch vụ bạch phiến, Đỗ ĐạI Nhĩ bắt đầu khuynh loát chính phủ bằng tiền ấy. Đỗ Đại Nhĩ bỏ tiền mua máy bay của Mỹ và tặng cho chính phủ Nam Kinh từng phi đội. Ngày Tưởng ăn mừng sinh nhật ngũ tuần, Đỗ Đại Nhĩ tặng Tưởng một chiếc phi cơ mới mua, có sơn một hàng chữ "Diệt Trừ Thuốc Phiện Tại Thượng Hải."
Một ký giả Thụy Sĩ phỏng vấn Đỗ Đại Nhĩ và công nhận hắn là một người quyền lực nhất Trung hoa, một người vừa là trùm du đãng vừa là nhà tài phiệt. Đỗ Đại Nhĩ nắm tất cả mọi dịch vụ về ma túy tại Trung hoa. Các hoạt động ma túy của Đỗ Đại Nhĩ vươn tới tận Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Tất cả thư tín gửi qua bưu điện Thượng Hải đều được người của Đỗ Đại Nhĩ đọc và kiểm duyệt trước. Chiến dịch diệt trừ thuốc phiện của Tưởng Giới Thạch được coi như là một trò hề. Tất cả thuốc phiện mà chính phủ của Tưởng tịch thu được đều giao lại cho Ủy ban Diệt trừ Thuốc phiện do Đỗ Đại Nhĩ chỉ huỵ Những thuốc phiện này đáng lẽ phải được tiêu hủy đi thì lại tái xuất hiện trên thị trường.
Năm 1936 Bố già Đỗ Đại Nhĩ xin được rửa tội theo đạo Thiên chúa. Mỹ Linh vô cùng xúc động, vì cho rằng Đỗ Đại Nhĩ trở lại đạo là nhờ những buổi đọc kinh và đọc Thánh Kinh theo giáo hội Methodist tại nhà Khổng Tường Hy và Ái Linh. Đỗ Đại Nhĩ chịu lễ rửa tội tại nhà thờ Tống Charliẹ Tống Mỹ Linh tuyên bố về Đỗ Đại Nhĩ vài tuần sau lễ rửa tội, "Ông Đỗ Nguyệt Thăng đang trở thành một tín đồ Thiên Chúa giáo đích thực, vì kể từ ngày ông được rửa tội đến nay, con số người bị bắt cóc tại Thượng Hải giảm xuống rõ rệt."

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét