Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2013

HỒI KÝ QUẦN ĐẢO NGỤC TÙ - CỦA ALEKSANDR SOLZHENITSYN - KỲ 2


3. ĐIỀU TRA, THẨM VẤN

Trong những vở kịch Chekov có nhiều nhân vật trí thức khoái chơi trò dự đoán tương lai. Rằng hai chục năm, ba chục năm, bốn chục năm tới những chuyện gì sẽ xảy ra trên đất nước này. Chắc gì họ dám đoán 40 năm nữa dân Nga sẽ có dịp nếm mùi điều tra, thẩm vấn? Nếu họ lại biết những mục điều tra, thẩm vấn ấy tiến hành như thế nào e rằng kịch Chekov diễn chẳng bao giờ hạ màn nổi bởi lẽ bao nhiêu nhân vật đều điên đầu, phải tống vô Dưỡng trí viện hết! 

Ai dám ngờ xương sọ con người lại bị niềng sắt xiết quanh, cứ thế xiết chặt lại? 1 Ai dám ngờ thân thể con người bị lột trần truồng ra thả từ từ ngâm trong bồn át xít?68 Hay treo ngược lên làm mồi cho kiến cắn, rệp hút máu?

Ai dám ngờ hậu môn con người có thể chịu nổi cả một cây tre xóc vô, sau khi đã hun nóng trong lò? Phương pháp "đánh dấu" đặc biệt. Cũng như bộ phận sinh dục đàn ông thì làm sao chịu nổi một bộ máy ép từ từ xiết lại? Có thể nói may mắn mới được hưởng một sự tra tấn lai rai. Đại khái cỡ một tuần lễ không cho ngủ, bắt ăn mặn không cho uống nước và ăn đòn ngoài da tới nhừ nát, tả tơi người.

Phải nhìn nhận rằng không riêng nhân vật kịch Chekhov, mà có người dân Nga nào dám tưởng tượng một tương lai u ám, ghê sợ như vậy sẽ chụp lên xã hội Nga, mấy chục năm sau này? Ngay những đảng viên Đảng Lao động Dân chủ Xã hội của những năm đầu Thế kỷ XX ở Nga cũng không thể chấp nhận viễn ảnh hắc ám tới như vậy.

Chế độ Nga hoàng Aleksei Mikahilovich thế kỷ XVII đã bị triều đại Phê-rô đại đế lên án dã man, phi nhân rồi. Đàn áp cỡ một hai chục mạng người như Biron giữa thế kỷ XVIII sang đến triều hoàng hậu Catherine đã bị coi như một thủ đoạn ghê tởm, không thể chấp nhận nổi. Ngờ đâu tất cả đều trở thành vô nghĩa giữa thời đại thăng hoa của nền văn minh là thế kỷ XX, giữa một xã hội xây dựng trên nền tảng Xã hội chủ nghĩa, giữa các con người đã biết thế nào là máy bay, rađiô, phim ảnh.

Lần này không phải thủ đoạn độc tài của cá nhân một gã đại ác, sống thu mình trong cung điện, mặt nào mà là một công trình của hàng chục ngàn con người được huấn luyện chu đáo để lạnh lùng làm công việc đè đầu bóp họng nhiều triệu nạn nhân vô tội.

Có phải thảm trạng bộc phát chỉ vì cái di truyền tính mà chúng ta bây giờ mệnh danh là "thần tượng chủ nghĩa"? Thảm trạng đó còn rùng rợn hơn hồi năm 1937, năm chúng ta tổ chức đệ nhất bách chu niên văn hào Pushkin chắc? Có thể nào chúng ta lại trân tráo sắm lại những vai trò Chekhov khi diễn tiến ra sao đã biết cả rồi? Đáng sợ là cả ba chục năm sau có đề cập tới còn bị gạt phắt đi: "Chớ đả động chuyện đó!". Nhắc đến niềm đau của cả triệu con người là bị lên án "xuyên tạc lịch sử", nói đến ý nghĩa luân lý đạo đức là bị gán nhãn "phản tiến bộ".

Hãy nhắc tới những lò than, lò thép những nhà máy cán thép, những con kênh đào. Mà thôi, bỏ kênh đào đi! Hãy nhắc tới số lượng vàng mỏ Kôlyma vậy. Mà bỏ hết đi chớ nhắc lại. Thời buổi này ta có thể nhắc đủ mọi chuyện miễn nhắc cho khéo, "ca" cho hay.

Thật khó lòng hiểu nổi tại sao chúng ta thẳng tay gạt bỏ. Sự Phán xét của Tôn giáo. Đồng ý là đã từng xảy ra nhiều trận Hoả thiêu tàn khốc nhưng bên cạnh đó còn phải kể những công trình tôn kính dân lên Thượng Đế chớ. Cũng như cứ nghe tới chế độ nông nô là chúng ta lên án có biết đâu chẳng ai cấm nông dân làm việc mỗi ngày…cũng như chẳng ai cấm họ lễ Giáng Sinh hát những bài Thánh ca truyền thống và lễ Ba Ngôi đàn bà con gái vẫn có quyền kết vòng hoa mừng Chúa.
°
Nếu hiểu rằng trong ngành điều tra, thẩm vấn năm 1937 là năm đặc biệt của ngụy tạo tội trạng và tra tấn thì sai lầm. Không phải vậy. Suốt khoảng thời gian kế tiếp, công tác thẩm vấn chiếu điều 58 Hình Luật, chẳng bao giờ được sử dụng để soi sáng sự thực mà giản dị chỉ là một cung cách máy móc để tiến hành một thủ tục độc hiểm đẻ thằng nào lỡ lọt vô chỉ có cách lạy để xin ra.

Chẳng hạn một kẻ mới đây còn tự do, tính khí hãnh diện bất ngờ bị câu lưu điều tra. Bị thẩm vấn có nghĩa là bị nhét vô, tống đại vô một cái ống dài nghẹt thở, đầy gai góc bên trong. Chịu không nổi, ngất ngư gần chết chỉ lạy lục để xin ra. Hắn sẽ được chui ra ở đầu đằng kia, rất ngoan ngoãn và sẵn sàng làm công dân "quần đảo".

(Thương hại cho những kẻ còn nghĩ đến việc chống cự lại, cứ tưởng rằng lọt vô đầu ống ấy là có thể ra bằng một ngã nào khác!)

Tình trạng nằm kẹt trong ống như thế nào? Mấy ai đã biết được, lấy đâu ra nhân chứng và càng để lâu lại càng khó lòng thâu góp những tài liệu tản lạc, những câu chuyện thực của những nhân chứng may mắn còn sống sót.

Ngay từ ngày vừa thành lập, các Cơ quan đã được trao các công tác nòng cốt là ngụy tạo hồ sơ. Đó là một cần thiết. Còn phải bắt người thì còn phải "sáng chế" ra tội, còn phải gán ghép để buộc tội vả lại nếu hết đối tượng, Cơ quan hết việc và bịdẹp luôn thì sao?

Nội một hồ sơ Kosyrev 2 cũng đủ để chứng minh tình trạng bấp bênh của Cheka ngay từ năm 1919. Đọc lại mớ tin tức đăng báo năm 1918 tôi bỗng gặp lại bản thông cáo chính thức về một tổ chức ghê gớm vừa được phát giác. Có một nhóm 10 người âm mưu định đặt (xin đừng quên là họ mới định đặt) đại bác lên trên nóc toà nhà đang dùng làm Cô nhi viện để từ dây nã bắn vào điện Cẩm Linh (làm sao kéo nổi đại bác lên trên nóc nhà là vấn đề khác). Có 10 người liên can đến vụ này, kể cả đàn bà và con nít. Bản thông cáo chính thức không nói rõ một khẩu hay mấy khẩu đại bác, súng cỡ nào, lấy ở đâu ra cũng như những chi tiết chuyên môn: kéo nổi đại bác lên thang đâu phải chuyện dễ, đặt sao nổi đại bác trên nóc nhà và nóc nhà dốc như vậy làm sao bắn mà súng không giật?

Đừng quên là lực lượng Cảnh sát Petersburg công khai đặt súng trên nóc nhà để bắn đàn áp cuộc Cách mạng tháng Hai cũng chẳng thể kéo nổi một ổ súng nào nặng hơn đại liên. Vậy mà cũng thành một hồ sơ, nhiều người phải đọc và phải tin là chuyện có thực. Sự ngụy tạo chẳng cần phải căn cứ trên một sự thực nào hết, cũng như hồ sơ vụ án Gumilyv năm 1921 3.

Cũng năm 1921 cơ sở Cheka ở Ryazan đã sắp đặt trọn vụ án trí thức địa phương. Vì nhóm này phản ứng quá mạnh, dám có tiếng vang về tận Mạc Tư Khoa nên hồ sơ này phải bỏ ngay. Năm 1921 còn có một vụ động trời: trọn tiểu ban Sapropelite trong Ủy ban Sử dụng Năng lực Thiên nhiên bị mang ra xử bắn 4. Khỏi cần đào sâu, khai quật lại ta cũng thấy giá trị của Công lý trong vụ án này, xét vì các nhà bác học, khoa học gia Nga hồi đó đâu đã bị "thuốc" bởi chủ nghĩa thi đuahăng say phục vụ.

Nhà bác học Dôyarenkoo ghi nhận lại tình hình 1921 như dưới đây:

Khám tạm ở Lubyanka là nơi tiếp nhận tù mới có khoảng 40 đến 50 giường tre ọp ẹp mà tù phụ nữ thì cứ đêm đêm gởi vô một nhiều. Đám đàn bà con gái đâu biết bị câu lưu vì tội gì nên cứ nghĩ không có tội mà nhà nước muốn bắt vẫn cứ bị. Cả khám tạm chỉ có một người biết tại sao bị vô đây: đó là một nữ đảng viên Đảng Xã hội Cách mạng.

Thông thường đồng chí Yayoda hỏi ngay câu đầu tiên: "Thế nào, tại sao phải vô đây? Về vụ gì?". Làm như ông Giám đốc Mật vụ muốn bảo thẳng có gì cứ khai ra để cơ quan dễ làm hồ sơ vậy! Năm 1920 cán bộ GPU ở Ryazan cũng chỉ có một câu hỏi đó. Có ai biết mình làm gì để đến nỗi bị bắt? Lý do mỏng manh quá nhưng dù sao cũng phải có một lý do nào đónhư trường hợp I.D.T bị Cơ quan cho lệnh câu lưu vì tình nghi tên giả. Sau đó, điều tra ra tên ông ta là tên thực thì đương sự bị tạt qua Hội đồng Đặc biệt tức OSO để lãnh án đi đày 3 năm, chiếu khoản 10 điều 58 Hình Luật 5.

Có trường hợp không biết buộc nạn nhân vào tội gì thẩm vấn viên hỏi gặng: "Anh ở sở làm công việc gì?". Nghe nạn nhân trả lời: "Kế hoạch gia", hắn bèn thản nhiên phát biểu: "Vậy anh cứ làm tờ khai nói rõ "kế hoạch gia" làm những gì, công tác tiến hành ra sao. Cứ khai thực rồi tôi sẽ cho hay tại sao anh bị giữ".

(Dĩ nhiên ông thẩm vấn viên sẽ chiếu bản khai công tác và thế nào cũng tìm ra một "đầu mối" nào đó để buộc tội.)

Nội vụ đã được tạo dựng lên như vụ pháo đài Kovno năm 1912 vậy. Vì thấy để pháo đài không lợi ích gì về quân sự nên cấp trên ra lệnh triệt bỏ. Bộ chỉ huy pháo đài hoảng sợ đã "sắp đặt" cả một vụ tấn công đêm để có lý do "ngồi" lại.

Xét cho cùng ngay từ lý thuyết thì "yếu tố phạm pháp của bị can" đã là cả một vấn đề co giãn rồi chiếu huấn luyện của sếp lớn Cheka M.I. Latsis gởi cho các thẩm vấn viên: "Trong cuộc điều tra chớ bận tâm tìm bằng cớ, tang vật chứng tỏ bị can chống đối chế độ, bằng lời nói hay hành động. Trước hết phải hỏi rõ giai cấp nào, gốc gác gì, trình độ học lực đến đâu, thành tích công tác ra sao…(Hãy học tập hồ sơ Sapropelite). Đó mới là những câu hỏi quyết định số phận bị can". Ngày 13 tháng 11 năm 1920, chính Dzerzhinsky 6 cũng gởi thẳng văn thư đến Cheka tố cáo Cơ quan thường dung dưỡng những lời khai xuyên tạc dối láo.

Mấy chục năm lịch sử chứng minh một điều: đã đi quần đảo là không có về. Trừ đợt sóng ngược chiều nhỏ nhoi, ngắn hạn năm 1939 có nghe nói mấy ai được thả lỏng sau một cuộc điều tra, thẩm vấn? Đã bị điều tra thì ghi tống giam luôn cũng chỉ được thả ra để tiện theo dõi! Cơ quan đã điều tra có bao giờ nhầm lẫn nên đã bị điều tra không thể vô tội được.

Trong tập Danh từ chuyên viên, luật gia đã định nghĩa rành rẽ như sau: "Thẩm vấn phải phân biệt với điều tra ở chỗ phải tiến hành thẩm vấn để coi xem có văn bản để mở một cuộc điều tra hay không."

Giản dị chỉ có vậy nhưng nếu thế thì Cơ quan có biết đến thẩm vấn bao giờ! Chỉ cần chiếu một bản danh sách lập sẵn nào đó, từ một điểm nghi ngờ nhỏ nhặt, một báo cáo của chỉ điểm viên hay bất cứ một cáo giác nặc danh nào (!) cũng đủ để Cơ quan cho lệnh câu lưu và sau đó chắc chắn sẽ có bản cáo trạng. Thời gian cần thiết để điều tra không nhằm soi sáng một vụ án mà có thể nói 95 phần trăm chỉ cốt làm bị can đau khổ, hết mức chịu đựng, không thể thi gan được nữa, chỉ mong sao "kết thúc" được hồ sơ với bất cứ giá nào.

Ngay từ 1919, các thẩm vấn viên Cheka đều có phương pháp căn bản là đặt khẩu súng sáu trên buya-rô. Phương pháp này chẳng phải áp dụng riêng cho các chính trị phạm mà từ các tội nhỏ, lặt vặt trở đi. Trong vụ án Ủy ban Nhiên liệu năm 1921 nữ bị cáo Makhrovskaya cả quyết lúc điều tra đã bị chích cocaine. Chưởng lý Krylenko thản nhiên đáp:

"Bị can khai bị ngược đãi. Bị can có khai là bị họ chĩa súng vào người hăm doạ bắt nhận tội thì cũng khó lòng tin nổi!"

Điều đó cho thấy vụ thẩm vấn viên đặt súng lên buya-rô và lâu lâu chĩa doạ vào người nạn nhân là một sự quá thường. Ông thẩm vấn có thể khỏi thèm nghĩ đến tội trạng mà chỉ nạt nộ một cách máy móc: "Nói đi, khai đi Đừng hòng giấu giếm". Năm 1927 Skripnikova đã bị, năm 1929 Vitkovsky cũng bị tương tự và 25 năm sau cũng chẳng có gì thay đổi.

Năm 1952 Skripnikova bị câu lưu lần thứ năm nhè đụng đồng chí Sivakov, Trưởng ban Điều tra Ty Nội An Ordzhonikidze. Ông thẩm vấn viên nói thẳng:

"Theo lời y sĩ của Ty thì mụ bị áp huyết kém. Có 240/120 thì yếu quá! Để tụi này cho lên cỡ 340 gấp mới chịu khai chắc? Cam đoan không có vụ đánh đập, người ngợm còn y nguyên, một khớp xương không gãy. Chỉ không cho mụ ngủ ít bữa là xong chớ gì."

Hồi đó Skipnikova đã ngoài 50 tuổi bị lấy cung suốt đêm, sáng ra nằm xà lim vừa chợp mắt ngủ là y như rằng sếp khám nhào vô hét lớn dựng dậy:

"Cấm ngủ! Mụ còn nhắm mắt lần nữa sẽ bị lôi đầu khỏi ghế bố, trói đứng lên dựa vách."

Từ 1921, đã có nạn điều tra, lấy cung ban đêm. Cũng năm đó Ty Nội An Ryazan bắt đầu áp dụng phương pháp chiếu đèn pha vào mắt các bị can. Năm 1927 Lubyanka bắt đầu xài phương pháp nóng lạnh tối tân nghĩa là bơm hơi lạnh vào xà lim cho lạnh cứng người rồi sau đó thổi hơi nóng vô tiếp liền. Theo nhân chứng Berta Gandal thì Lubyanka có một phòng đặc biệt dành riêng cho vụ hấp người thật kín. Ngoài Berta, nạn nhân của phòng hấp còn có nhà thơ Klyuyev, nhà cách mạng Vasily A. Kasyanôv (bị tống giam sau cuộc khởi nghĩa 1918).

Phòng hấp chật hẹp, không có lỗ thông hơi nên thổi hơi nóng vô một lát thì máu trong người sôi lên, ứa ra đầy lỗ chân lông. Phòng điều tra cử người xuống nhòm lỗ hổng canh chừng sẵn thấy nạn nhân vừa ngất đi là cho "băng ca" xuống khiêng lên ký vào bản tự thú.

Các phương pháp nóng, lạnh và muối được sử dụng tối đa trong vụ án này. Năm 1926, Nội An Georgia có mục dí đầu thuốc lá đang cháy dở vào mấy đầu ngón tay bị can. Khám đường Metekhi có mục nửa đêm xách cổ can nhân liệng vô hồ nước.

Để lập cho xong bản cung từ buộc tội, với bất cứ giá nào thì làm sao tránh được hăm doạ, bạo hành, tra tấn? Tội trạng càng lạ thì tra tấn càng dữ, mới có thể bật ra bản tự thú. Xét vì phần đông toàn những tội, "dựng đứng" nên bắt buộc phải tra tấn, không riêng gì giai đoạn 1937 mà sau này còn phổ biến lâu dài. Vì vậy mới khó hiểu tại sao những hồi ký của mấy tay Zek lại ghi nhận: Từ mùa Xuân năm 1938 trở đi, các thẩm vấn viên toàn quyền tra tấn" 7. Sau này họ quen tay đến không bỏ nổi, bằng không trong mấy năm vừa dứt chiến những tờ báo học tập chuyên môn của cơ quan như Tuần san Cheka Kiến Đỏ, Hung thần Đỏ đã chẳng đưa lý luận Mát-xít để mổ xẻ có nên tiếp tục tra tấn hay không. Đặt câu hỏi này thì đương nhiên câu trả lời phải là có.

Tuy nhiên muốn cho xác thực thì phải nói rằng trước năm 1938, các thẩm vấn viên chỉ được áp dụng tra tấn trong một số trường hợp giới hạn, có ấn định trước và phải thỉnh thị ý kiến thượng cấp. Nghĩa là phải xin phép cấp trên, dù được phép chẳng khó khăn gì! Khoảng hai năm 1937-1938 để đối phó với tình thế đặc biệt (hồi đó hàng triệu con người bị tống vô quần đảo còn phải qua ngả điều tra, thẩm vấn cá nhân trong khoảng thời gian giới hạn…thay vì bị quơ từng đợt đưa đi đày miễn điều tra như trong các đợt kulak hay chủng tộc) các thẩm vấn viên được toàn quyền và tùy tiện sử dụng kỹ thuật tra tấn của họ chiếu theo "quô-ta" tù và thời gian điều tra do cấp trên ấn định. Đó là thời kỳ "bộ môn" tra tấn nào cũng được sử dụng, tùy "sáng kiến" thẩm vấn viên.

Năm 1939 chế độ "tự do tra tấn" chấm dứt và muốn áp dụng phải xin phép trước và chưa chắc là được. Dĩ nhiên "tra tấn" ở đây hiểu theo nghĩa nặng chớ những thủ đoạn lặt vặt vẫn mặc nhiên được sử dụng hàng ngày chẳng hạn như doạ dẫm nạt nộ, tạo áp lực, dỗ ngọt đến quay cho mệt, cấm ngủ, biệt giam. Từ hồi Thế chiến chấm dứt và mấy năm sau có vụphân loại các bị can (bằng Sắc lệnh) để chỉ định rõ những loại tù mà thẩm vấn viên được phép mạnh tay. Trước hết là những thằng tù quốc gia, gốc Ukraine hay Lithuania, nhất là gặp trường hợp hoạt động có tổ chức (hay nghi ngờ có tổ chức) thì bắt được trong nào phải mạnh tay "khai thác" liền để bắt thêm thật nhiều, thanh toán gốc rễ.

Thí dụ điển hình là vụ Romualdas Skyrius, con trai của Pranus Skyrius người Lithuania, nhóm của hắn có cỡ năm mươi người và năm 1945 bị cáo về tội rải truyền đơn chống chính quyền. Hồi đó Lithuania có ít khám đường quá nên tất cả bị đưa về tống vô một trại giam gần Velsk trong tỉnh Archangel. Nơi đây một số bị tra tấn, một số vừa làm quần quật vừa bị thẩm vấn đến chịu không nổi nên trên năm mươi người làm bản tự thú hết! Nhưng chỉ ít lâu sau có tin từ Lithuania đưa sang cho hay những thủ phạm đích thực của vụ rải truyền đơn đã tìm ra, trong nhóm đầu tiên không ai dính dấp hết.

Năm 1950 ở khám dọc đường Kuibyshev, tình cờ tôi có dịp gặp một dân miền Ukraine từng bị nếm đủ mục tra tấn buộc phải khai ra bằng hết đồng lõa. Mục tra tấn kỳ lạ nhất là tống vô một chiếc hộp đứng, không thể cục cựa mà phải đứng sững suốt ngày đêm. Hắn ta được cấp một cây gậy để chống lên ngũ đỡ, một ngày đúng 4 giờ đồng hồ. Sau chiến tranh, một nhân viên Viện Hàn lâm Khoa học là nữ Bác học Levina cũng bị câu lưu, tra tấn chỉ vì có mấy người bạn giao thiệp vớibà con họ hàng của bà vợ thứ hai Stalin.

Không phải chờ đến 1937 giá trị bản tự thú mới được công nhận là đích đáng nhất trong các thứ tang vật, bằng cớ. Ngay từ những năm 1920, giá trị của nó đã được đề cao rồi bất quá 1937 chỉ là năm Chưởng lý Vyshinsky cho ra đời bản Huấn từ đặc biệt cho các thẩm vấn viên, ủy viên Công tố. Chúng ta chỉ được biết đến tư tưởng đặc sắc của ông Chưởng lý 20 năm sau, khi Vyshinsky đã xuống chân. Lại chỉ được biết những khoản trích đăng ở các báo, làm như họ mổ xẻ một vấn đề mà ai ai cũng biết cả rồi vậy!

Cái năm rùng rợn đó, Andrei Yanuaryevich Vyshinsky đã sử dụng đến ngôn từ biện chứng mềm dẻo nhất (mềm dẻo đến độ một công dân Xô Viết thời buổi này hay một bộ máy tính điện tử đều không thể chấp nhận một khi không phải là khôngcó phải ra có) để nhấn mạnh trong một bản thuyết trình rất phổ biến trong một vài giới là những kẻ chết rồi chẳng bao giờ nắm được toàn bộ sự thực mà chỉ là sự thực tương đối. Lý luận tiếp theo đó của Vyshinsky thì 2 ngàn năm nay chẳng một luật gia nào dám mạo phạm. Ông ta cho rằng đừng đặt vấn đề sự thực tuyệt đối ở một biên bản điều tra hay một bản án không thể có. Chỉ tương đối thực mà thôi!

Đại khái nếu ta ký vào bản án xử bắn một người nào đó thì không thể tin tuyệt đối mà chỉ có thể căn cứ trên một số giả thuyết, hiểu theo một ý nghĩa nào đó để cho rằng ta đã trừng trị một kẻ phạm pháp 8. Từ đó rút ra kết luận thực tế là tìm tang chứng tuyệt đối làm chi cho vô ích vì bằng cớ, tang chứng bao giờ chẳng tương đối? Mà nhân chứng cũng vậy, họ có thể nay nói thế này mai nói khác như không.

Theo quan điểm Vyshinsky thì chính những yếu tố phạm pháp cũng chỉ là tương đối mà thẩm vấn viên chẳng cần tìm đâu xa, ở ngay văn phòng mình. Khỏi cần bằng cớ, tang chứng, thẩm vấn viên cũng có thể kết thúc hồ sơ không những bằng khả năng chuyên môn mà còn nhờ Đảng tính, nhờ sức mạnh tinh thần, nhờ uy lực cá nhân của mình. Nói rõ ra là sử dụng ưu thế, sức mạnh của một thằng được ăn ngon, ngủ kỹ, không bị tra tấn để "đè" bị can. Nếu cần thì sử dụng luôn cả uy lực của một thằng lấy đánh đập, hành hạ người làm sở thích.

Nội dung in như nhau nhưng phải nhìn nhận Huấn từ Vyshinsky dù sao cũng bóng bẩy hơn những chỉ thị của Latsis nhiều. Có điều bóng bẩy và "núp sau lưng biện chứng pháp" đến bao nhiêu chăng nửa thì ông Chưởng lý cũng chẳng thể cãi lại được một sự thực. Đó là viên đạn mà ông Chưởng lý cho lệnh bắn vào người nạn nhân không tương đối chút nào mà vô cùng tuyệt đối!

Cũng như giải thích vòng vo thế nào thì nền tư pháp tiến bộ của Liên Xô cũng đã đi ngược chiều, trở lại thời kỳ trung cổ. In hệt như các tra tấn viên thời đó, các thẩm vấn viên, công tố viên và các quan toà của chúng ta đã nghiễm nhiên chấp nhận bản tự thú của bị can, coi như bằng cớ chính yếu của sự phạm pháp 9.

Thời Trung cổ con người đầu óc còn dã man thô sơ mới nghĩ ra những phương pháp tra tấn nặng phần trình diễn: nào căng da, nào cho vào bánh xe quay, nào cho nằm bàn chông, cùm kẹp, dí kềm nung đỏ vào người. Con người thế kỷ XX văn minh hơn nhiều, bao nhiêu hiểu biết rành rẽ về y khoa cũng như những kinh nghiệm ngục tù dày dạn đều được mang ra ứng dụng nhằm giản-dị-hoá tối đa những dụng cụ tra tấn lủng củng, cồng kềnh, không thích hợp với lề lối làm việc cả loạt, đại quy mô. Đừng quên rằng có người còn đệ trình cả một luận án tiến sĩ về ứng dụng y khoa và rút kinh nghiệm ngục tù vào công tác tra tấn.

Vả lại cũng đừng quên là Stalin vốn là con người biết hết nhưng không bao giờ nói ra hết, buộc bọn đàn em Cộng sự viên phải đoán hiểu coi Lãnh tụ muốn gì. Như một con cáo già, Stalin bao giờ cũng để dành riêng cho mình một lối thoát để nếu cần còn có chỗ rút lui an toàn, để lý luận về "cơn say thành công choáng váng". Dù sao đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử loài người mới sáng chế ra kế hoạch tra tấn tập thể cả triệu con người một lúc nên dù có sức mạnh vạn năng Stalin cũng chưa chắc đã thành công hẳn. Cả triệu con người đâu giống một vài trường hợp lẻ tẻ, lỡ sơ sót để lại một khe hở khiến một luồng phẫn nộ không dự liệu trước bùng nổ rồi cả thế giới cùng hay biết thì sao? Nhất định phải có sẵn một kẻ nào đó lãnh trách nhiệm, hình ảnh Lãnh tụ không thể để lu mờ được.

Cũng như ta chẳng thể ngây thơ đòi hỏi tài liệu cụ thể, một bản danh hiệu liệt kê những cách thức tra tấn để các thẩm vấn viên căn cứ vào đó hành sự. Muốn làm sao thì làm. Phòng Điều tra Thẩm vấn phải có bổn phận cung cấp đúng hạn, một số bị can đã thú nhận tội xong xuôi. Sử dụng phương pháp nào cũng tốt cả, người thẩm vấn có toàn quyền hành động, miễn trả lời về cái chết của nạn nhân, y sĩ của Cơ quan chớ nên xía vô công tác điều tra. Trái lại giữa các thẩm vấn viên và các y sĩ còn có một sự trao đổi học tập, kinh nghiệm - những kinh nghiệm của những người thành công nhất trên phương diện nghề nghiệp.

Đối lại với cán bộ Cơ quan được đãi ngộ xứng đáng về vật chất: làm đêm, làm mau chóng là có giờ phụ trội, lương lãnh nhiều thêm. Làm dưới năng suất tất nhiên có cảnh cáo, trừng phạt. Ngay mấy ông trưởng Cơ quan cấp tỉnh cũng phải sẵn sàng: có chuyện gì xảy ra là phải chìa tay cho Lãnh tụ coi. Chỗ khó khăn là Lãnh tụ chẳng bao giờ trực tiếp ra lệnh tra tấn, cái vụ đó phải mặc nhiên hiểu lấy.

Dĩ nhiên cấp trên biết thủ thế sẵn để có chuyện là phủi tay thì cấp thẩm vấn viên (trừ những ông uống rượu như hũ chìm) hẳn cũng chẳng ngu dại gì để bị "hy sinh". Họ chỉ khởi sự tà tà, vừa "điều tra" vừa nghe ngóng. Có xuống tay mạnh cũng tránh để lại dấu vết, không thể để những vụ quá hiển nhiên như lòi con mắt, đứt vành tai, gãy vài đốt xương sống hay những vết thâm tím khắp mình mẩy.

Đó là lý do năm 1937 chúng ta không nghe nói đến những phương pháp tra tấn áp dụng chung cho tất cả các cơ sở trực thuộc Cơ quan, ngoại trừ phương pháp cấm ngủ. Cùng một Cơ quan mà các thẩm vấn viên có lề lối "làm việc" khác nhau là thường mà 10.

Lề lối chung của các thẩm vấn viên là hãy cứ nhẹ tay trước đã. Có thể nói là trước nhẹ sau nặng cho chắc ăn. Vả lại sức chịu đựng tra tấn của con người khác nhau nhiều quá. Đối với số đông đâu cần phải đưa ra hai món lột da và lò nung kìm kẹp làm chi cho mất công.

Ta thử điểm qua một vài phương pháp giản dị nhất trong các đòn tra tấn để "bẻ gãy" nạn nhân mà chắc chắn không lưu lại dấu vết trên thân thể.

Hãy nói những đòn tâm lý trước. Chúng có ảnh hưởng ghê gớm và nhiều khi quyết định đối với những tay-mơ chưa kịp chuẩn bị để nếm mùi tù ngục. Tuy nhiên nhiều tay chỉ vẫn thua chúng ta là thường!

(1) Đòn tâm lý thứ nhất là điều tra đêm. Tại sao cần phải dành phần lớn công tác "bẻ gãy" tinh thần một thằng "tội phạm" vào ban đêm? Tại sao từ hồi nào đến giờ Cơ quan chỉ lựa ban đêm để điều tra, thẩm vấn? Giản dị vì dù chưa mất ngủ nhưng nửa đêm bị dựng dậy từ khám lên buya-rô lấy cung là nạn nhân phải ngỡ ngàng, mất tinh thần, đầu óc hết tỉnh táo. Do đó dễ bị hạ hơn.

(2) Đòn thứ hai là dỗ ngọt bằng những lời lẽ, cử chỉ dịu dàng, ve vuốt. Một đòn tối giản dị song vô cùng hiệu nghiệm. Đại khái tội gì giấu giếm, chơi trò "mèo vờn chuột" mãi. Dù có tay-mơ bị can cũng đã được mấy bạn đồng khám rỉ tai cho hay trước để liệu phòng thân. Song ông thẩm vấn viên lý luận nghe được quá: "Bạn biết vô đây thế nào cũng tù rồi, phải không? Cứng đầu chỉ ăn đòn mà chết. Sao bằng biết gì khai hết, kết thúc hồ sơ cho rồi để sớm lãnh án đi đày, bề nào ở Trại Cải tạo cũng còn rộng rãi, khoảng khoát hơn chớ. Sao không ký vô biên bản một cái cho rồi?".

Hợp lý quá. Thằng nào ký cung mau mau là khôn, nếu hồ sơ không dây dưa đến ai. Ít có lắm.

Nếu nạn nhân có gốc Đảng thì đòn dỗ ngọt sẽ chuyển thành khích tướng. "Cứ cho rằng tình trạng thiếu hụt có thể nói sắp chết đói nữa…nhưng đã người Bôn-xê-vích không lẽ bạn hèn nhát để Đảng và chính phủ phải mang xấu. Đời nào có chuyện đó, phải không? Đúng, vì không muốn có chuyện đó…nên ông quản đốc kho vải gai, sợi gai nhà nước bèn anh hùng gật đầu nhận tội!

(3) Đòn thứ ba là chửi bới văng tục - Dù chẳng hiệu nghiệm mấy nhưng để đối phó với những người trí thức, quen ăn nói lịch sự thì nhất. Tôi biết hai ông tu sĩ bị điều tra - và chịu thua cuộc chỉ vì thẩm vấn viên ăn nói tục tĩu, đểu giả quá. Nhất là ông năm 1944 "đụng" một nữ thẩm vấn viên ở Butyrki. Mấy buổi đầu mỗi lần ở phòng Điều tra xuống khám ông ta đều hết lời khen: "Ở đây họ thẩm vấn, hỏi cung cũng lịch sự đấy chớ?". Lần sau cùng ông ta rầu rĩ không buồn nói. Hỏi mãi mới thú nhận đành chịu thua mụ thẩm vấn viên chỉ vì mụ ngồi tréo chân, vắt vẻo và chửi bới nghe tục tĩu thấy ghê quá! Mụ chửi tục tĩu đến nỗi tôi không dám trích một câu ra đây nữa.

(4) Đòn thứ tư là đòn đổi chiến thuật đột ngột. Từ lúc khởi sự hỏi cung, thẩm vấn viên dùng toàn ngôn ngữ, cử chỉ tử tế, thân thiện và hứa hẹn đủ thứ. Đột nhiên hắn thay đổi thái độ, cầm đồ chặn giấy giơ lên hăm doạ, chửi bới: "Đồ khốn kiếp nói láo. Tao cho một phát bể sọ tức thì bây giờ!". Dứt lời hắn còn xông tới xỉa xói tận mặt, làm như muốn nắm đầu đánh đập tại chỗ vậy. Đòn trở mặt đột ngột rất hiệu nghiệm đối với phụ nữ.

Ngoài ra còn chiến thuật ông Thiện, ông Ác thay phiên nhau lấy cung nạn nhân. Một người ngọt ngào, dịu dàng. Một người thấy mặt là hăm he, nạt nộ… đến độ bị can sắp phải gặp ông Ác đã run rồi! Bèn đợi phiên ông Thiện để thú nhận, ký cung cho xong. Những tội không hề làm cũng nhận luôn!

(5) Đòn thứ năm là hạ nhục làm cho hổ thẹn. Phòng Điều tra số 33 của Ty GPU Rostov đặc biệt có dãy hành lang gắn đèn, đặt dưới những khuôn kính. Trước khi được vào phòng, bị can phải nằm đợi ngoài hành lang, mặt úp sấp, đầu không được ngửng lên và tuyệt đối cấm hó hé. Phải đợi như thế năm sáu giờ liền mới được gã lính gác tới vỗ vai, gọi đứng lên vô lấy cung.

Lubyanka còn có chiến thuật đặc biệt là cởi trần truồng nữ bị can, do một nữ giám thị đảm nhận, làm coi như bịnh nhưng sau đó tống vô một xà lim cá nhân chật hẹp. Vách tường có những lỗ nhỏ, bọn lính gác khám đàn ông sẽ ghé mắt coi, cười lên và đua nhau phê bình từng chi tiết đặc sắc trên thân thể bị can. Đòn này khiến nạn nhân hổ thẹn, xuống tinh thần mau lắm.

(6) Đòn thứ sáu cũng nhằm làm bị can hổ thẹn, lúng túng nhưng áp dụng ngược lại như trong trường hợp F.I.V. ở Krasnogorsk từng bị. Một nữ thẩm vấn viên vừa lấy cung hắn vừa thản nhiên thoát y như không có chuyện gì xảy ra. Mụ còn đi tới đi lui, xích lại gần vừa hăm he, vừa dỗ dành "nạn nhân" để khuyến cáo hắn ký cung cho xong. Có thể mụ hứng thú tự ý làm có thể là cả một chiến thuật phô diễn để bị can khó chịu, đành phải nhận bừa. Nếu bị can làm ẩu thì mụ đã sẵn súng, sẵn chuông cấp cứu.

(7) Đòn thứ bảy là hăm doạ kèm theo những hứa hẹn láo. Chẳng hạn như: "Nếu không khai thật sẽ cho đi đảo Solovetsky mất xác. Khai thực là được tự do". Đó là chiến thuật 1924 nhưng qua năm 1944 phải "văn minh" hơn, chẳng hạn: "Đảo thì nhiều thứ đảo lắm có nơi sướng nơi khổ và đi đâu là do chúng tôi ở đây phân phối. Khai thực ra thì sẽ được tới một chỗ ngon lành. Bướng bỉnh là 25 năm khổ sai, vừa còng tay vừa làm". Nếu ở Lubyanka sẽ bị doạ đưa đi Lefortovo còn đang ở Lefortovo sẽ bị doạ đưa đi Sukhanovka. "Muốn đưa đi đâu cũng được, dễ quá mà. Dù khổ đến đâu thì khổ, ở đâu cũng quen đấy rồi. Biết đến chỗ lạ…có được như thế này không? Hay lại bị hành hạ một mớ nữa? Thôi thì cái gì cũng nhận đại để được ở lại!

Đòn hăm doạ vô cùng hiệu nghiệm với những người mới được trát mời nhưng chưa có lệnh câu lưu. Chưa vô tù thì còn nhiều thứ mất lắm, cái gì cũng sợ mất. Mất tự do (không biết bữa nay họ có cho về không?). Là mất việc, mất đồ và dám mất cả nhà luôn. Thôi thì họ bảo làm cái gì thì làm lè lẹ cho rồi (kể cả ký giấy chứng nhận) cho khỏi bị đe doạ, mất mát. Chưa vô tù bao giờ đâu biết đến Hình Luật, đâu biết thực giả thế nào khi bị ấn vào mắt mảnh giấy nho nhỏ ghim trước tờ khai. Đại khái… "trước khi lập tờ khai này tôi biết rằng tội làm chứng gian có thể bị Hình Luật phạt đến 5 năm tù". Sự thực theo điều Hình Luật thì tối đa 2 năm! Hay là "từ chối, không chịu làm chứng có thể bị tới 5 năm" (Điều 92 Hình Luật chỉ dự liệu tối đa 3 tháng tù!). Đó là một trong những mánh lới căn bản của thẩm vấn viên.

(8) Đòn thứ tám là dối láo, gạt gẫm - Bị can nói dối, khai láo là bị trừng trị và Bộ Hình Luật cũng không tha nhưng trái lại thẩm vấn viên thì toàn quyền tha hồ, không ai trách phạt gì hết. Thẩm vấn viên muốn đưa tài liệu nào ra thì đưa, tha hồ giả mạo cả chữ ký của thân nhân, bạn bè bị can mà không hề bị coi như giả mạo mà còn được ca ngợi như một kỹ thuật điều tra khéo léo.

Đòn dối láo, gạt gẫm để nạt nộ thân nhân một bị can, buộc họ phải ký tên vô một tờ chứng thì có thể gọi là "đòn ruột của nghề thẩm vấn!". Chúng tôi biết cả rồi. Tốt hơn hết là mấy người khai thực ra, ký tên đi. Chậm trễ thì hậu quả chỉ một mình hắn lãnh, do chính mấy người tạo nên 11. Chao ôi, có bà mẹ nào có con bị bắt mà lại nỡ làm cho nó nặng tội thêm chỉ vì một chữ ký của mình bao giờ!

(9) Đòn thứ chín là đòn đánh xéo: Muốn "hạ" một bị can cứng đầu không đánh thẳng vào hắn mà nhè người thương yêu nhất, những người thân thiết nhất của hắn để hướng mũi dùi vô. Hiệu nghiệm tối đa! (Lúc bấy giờ mới thấy tục ngữ xưa không hề sai: "Hại được một người là chính những người thân, trong gia đình hắn!).

Chắc bạn đọc chưa quên mẩu chuyện của nhà lãnh tụ sắc dân Tator. Chính mình chịu đựng đủ mọi hình thức tra tấn, bà vợ cũng bị bắt "Điều tra" nhưng nhất định không chịu cung khai. Chừng cô con gái cũng bị "thẩm vấn" thì hết chịu nổi. Năm 1930 có một nữ thẩm vấn viên nổi tiếng đắc lực tên Rimalis. Mụ có một câu "tủ" mà hễ đưa ra doạ là không một nữ phạm nhân nào chịu nổi: "Nhất định không chịu khai hả? Tụi tôi bắt con gái chị, tống nó vô xà lim mấy thằng giang mai ráng chịu nghe?".

Một người bị bắt rồi người thân yêu nhất của mình cũng bị bắt lây là chuyện rất thường, nhưng Cơ quan còn sử dụng cả máy ghi âm để bịp nạn nhân là khác. Chẳng hạn người chồng bị trước, bà vợ dính theo số phận vợ dĩ nhiên tùy thuộc lời khai của chồng. Khi không chợt nghe có tiếng ai giống tiếng nó ở phòng bên, rú lên kinh khủng thì chịu sao nổi? Có phải tiếng nó thực không thì nhận ra sao nổi? Vừa cách bức vách, đầu óc đang bấn loạn thì chẳng thể làm chuyên viên âm thanh! Đó là lý do Cơ quan tiết kiệm nhân lực, cho ghi âm sẵn những lời khóc than, kể lể của một giọng nữ. Hoặcsoprano, hoặc contralto sẽ có người mở máy đúng lúc, đúng điệu cần thiết.

Cũng có thể người vợ bị "mời" đến Cơ quan thật để các thẩm vấn viên cho đi diễn trước mặt chồng, qua lần cửa kính. Khốn nạn, có chồng nào chịu nổi cảnh vợ mình bị điệu đi, mặt cúi gầm ngay trong hành lang Mật vụ? Chỉ vì mình không chịu khai mà liên lụy tới nó. Điệu nầy dám nó cũng bị họ bắt rồi!". Sự thực có khi người vợ không hề bị câu lưu, chỉ bị mời tới và buộc phải đi biểu diễn vài bước đúng lúc, đúng chỗ và làm theo lời nạt nộ: "Biểu đi là đi. Cúi đầu xuống, đi cho ngay ngắn. Nếu không làm đúng cho ở lại đây luôn!".

Cũng có thể người chồng được dí vô tận mắt một lá thư, rõ ràng nét chữ vợ mình: "Giờ này không vợ chồng gì nữa. Bộ mặt giả của mày đã lòi ra, tao đã biết hết sự thực và bây giờ đường ai nấy đi". Coi mấy hàng chữ ghê gớm đó thằng chồng nào chịu nổi? Đất nước này thiếu gì cảnh chồng ở tù vợ bỏ…làm sao không tin cho được.

Năm 1944 có một nữ phạm nhân tên Korneyeva bị thẩm vấn viên Goldman khủng bố xéo bằng câu: "Không chịu khai hả? Tịch thu căn nhà luôn, tống cổ mấy con mẹ già ra ngoài đường gấp". Vốn người có tín ngưỡng, tính tình cứng cỏi Korneyeva không sợ cho bản thân mình nhưng những lời hăm doạ của ông thẩm vấn viên cụ thể quá, những vụ đuổi nhà tương tự đã thấy nhiều quá nên bị can đâm rét, thương hại cho "mấy con mẹ già sắp bị tống cổ ra đường". Nàng còn hối hận chỉ vì mình mà cả nhà vạ lây nhưng nội đêm hôm đó bản cung từ làm đi làm lại 3 lần là cả 3 lần phải xé bỏ.

Sáng hôm sau, Goldman làm bản cung từ thứ 4 buộc tội riêng một mình nàng, Korneyeva mới chịu đặt bút ký một cách vui vẻ và với cảm giác chiến thắng lớn.

Đã chịu thẩm vấn thì có oan cũng không cãi được, dù bị oan ức thì bản năng con người xưa nay là phải cãi cho bằng được. Nhưng cãi sao nổi, có được quyền cãi đâu. Chỉ được quyền nhận tội, nhiều khi còn mừng vì được nhận hết tội về mình 12.

Trong ngành điều tra, thẩm vấn nếu cho là có sự khác biệt giữa những đòn tâm lý và những phương pháp (tra tấn) cụ thểthì có thể sắp xếp 9 thủ đoạn nêu trên vào loại "tâm lý" nhưng theo tôi không dễ gì phân biệt, dù những trò chơi sau đây vẫn có thể được liệt vào loại "cụ thể".

(1) Trò chơi âm thanh. - Nạn nhân phải đứng xa ra 8 mét và bắt buộc phải lặp lại tất cả những tiếng, những câu mà thẩm vấn viên vừa phát ngôn. Bắt buộc phải la lên, càng lúc càng lớn. Mới nghe tưởng dễ nhưng thực sự vô cùng mệt mỏi nhất là đang bị giam điều tra gần ngất ngư. Cũng có lúc hai ông thẩm vấn viên bắc loa kề vào hai bên tai nạn nhân đột ngột hét lớn:

"Khai đi. Khai mau, đồ khốn kiếp!". Chỉ một lát sau là tai ù ù, điếc đặc vô cùng khó chịu. Tuy nhiên trò chơi này coi bộ phí người, phí của nên cán bộ thẩm vấn có "sáng kiến" kinh tế hơn.

(2) Trò chơi "ngoáy mũi." - Đây rõ ràng là một trò giải trí. Nạn nhân bị trói cứng, bắt đứng dựng lên để một người thò một sợi lông gà vào lỗ mũi ấn sâu vô rồi cứ thế mà ngoáy. Coi nhẹ nhàng vậy mà nạn nhân quằn quại chịu không nổi vì nghe như mũi bị khoan xoáy thẳng vào óc.

(3) Trò chơi lửa. Trò này dễ hiểu và đã nói ở trên.

(4) Trò chơi ánh sáng. - Nạn nhân bị bắt đứng hay ngồi trong một cái hộp sơn trắng toát để "chịu" một ngọn đèn pha cực sáng chiếu thẳng vô mắt, không ngừng một giây (trong khi gia đình nào cũng được khuyến cáo phải tiết kiệm điện). Mở mắt chịu không nổi, nhắm mắt lại cũng đau sưng vù hai mí mắt đành phải mở ra chịu ánh đèn rọi.

(5) Trò chơi xách tới xách lui. - Đây đúng là một trò chơi mới lạ. Nửa đêm sáng ngày Lễ Lao động 1.5 năm 1933 ở Ty GPU Khabarovak, bị can Chabotarayev là nạn nhân của trò "xách tới xách lui" không làm gì cả trong 12 giờ đồng hồ liền! Đang nằm dưới khám bị lính gác vô nắm đầu, hét lớn: "Chabotarayev, đứng dậy, đi lên lấy cung mau. Tay đưa sau lưng". Bị đẩy đi hối hả, leo thang bước vô phòng Điều tra. Ông thẩm vấn viên không thèm hỏi tới một câu, không cho ngồi mà kêu lính gác vô, vắn tắt ra lệnh: "Đưa thằng này về xà lim 107. Trở về khám chưa kịp nằm đã lại "Chabotarayev đâu? Lên lấy cung mau". Gã lính gác vừa ra thì thẩm vấn viên lại: "Đưa về xà lim 107".

Cứ vậy nạn nhân bị "hành" xách tới xách lui cho đến lúc mệt đừ mới được vô lấy cung thực sự.

(6) Trò chơi nén cứng. - Đúng vậy, nạn nhân của trò chơi này quả bị nén cứng, kể cả về thân thể lẫn tinh thần. Đang tự do bị tống giam bất ngờ con người ai chẳng giao động, sẵn sàng vùng vẫy lên tiếng cãi, giải thích? Nhưng hắn bị "đóng hộp" ngay tức khắc trong một xà lim cá nhân có khi có đèn sáng và còn có một chỗ ngồi. Nhưng phần đông bị nén cứng trong một "cát-xô" tối mò, đặc biệt xây theo cách buộc bị can phải đứng, chỉ có thể đứng ép sát vào cửa. Bị nén vài giờ, nửa ngày hay một ngày không chừng… đầu óc dĩ nhiên hoang mang, chẳng biết chứa cái gì trong đầu… đâm sợ phải đứng mãi trong chiếc "quan tài xi măng" đến mãn đời. Từ hồi nào đã bị cảnh "dồn nén" thế này đâu? Tinh thần cực kỳ giao động, "dồn nén" thực sự nên không đoán hiểu nổi chuyện gì sắp xảy ra. Có thể nói nạn nhân bị dồn ép tinh thần dồn dập đến phát ngẩn ngơ. Như vậy là vừa "chín mùi" để kêu lên điều tra. Người nóng tính thì bị "dồn nén" quá đâm uất ức, cáu kỉnh sẵn sàng gây gổ, gắt gỏng với cả thẩm vấn viên. Càng tốt! Càng nóng nảy càng dễ hố và "thua trí".

(7) Trò chơi ngồi ngất ngưởng.- Thiếu "hộp", thiếu cát-xô cá nhân thì NKVD ở Novocherkassk sáng chế ra trò ngồi ngất ngưởng. Bị can Yelena Strutinskaya bị buộc ngồi trên một chiếc ghế đầu thấp đặt chính giữa hành lang không thể tựa hay chống đỡ chỗ nào được hết. Không được ngủ, không té nổi nhưng đứng dậy là cấm. Phải ngồi 6 ngày liền. Bạn ráng thử ngồi 6 giờ coi!

Nếu ngồi ghế cao lênh khênh như ở mấy ba rượu, chân tuyệt đối không chấm đất thì thời gian được rút ngắn. Còn từ 8 giờ tới 10 giờ liên tiếp. Nhưng ngồi một chỗ, không được cử động máu tê chồn ê ẩm người, không dễ gì chịu đựng!

Trò chơi ngồi thứ 3 chỉ được sử dụng lúc thẩm vấn. Bị can bắt buộc phải ngồi mép ghế, ngồi mím một chút không có chỗ tựa tay, trước mặt thẩm vấn viên. Hắn luôn mồm hối: "Xích tới, tới nữa. Gần sát lại đây. Cấm cục cựa!". Trò ngồi mép ghế cung khai kéo năm bảy ngày liên sức nặng dồn ép xuống bàn toạ nạn nhân chịu sao thấu?

(8) Trò chơi đào giếng. - Một đơn vị đi hành quân đâu phải lúc nào cũng mang sẵn theo "đồ nghề" để trang trị nạn nhân? Do đó, trò chơi "đào giếng" rất thịnh hành ở trại quân Gorokhovets hồi Thế chiến II. Một cái giếng sâu 2 mét, rộng cỡ mét rưỡi đào giữa trời để tống nạn nhân xuống: ngày đêm ở dưới đó, ăn uống ỉa đái cũng một chỗ. Mỗi ngày có sợi dây thòng xuống 300 gam bánh mì, một ca nước. Cứ thế mà chịu đựng ít lâu thử coi.

Vì nhu cầu chiến trường giống nhau và cũng có lệnh cho các Phòng An ninh, Tình báo đơn vị nên chỗ nào cũng thấy trò "đào giếng". Năm 1941, Sư đoàn 36 BB cơ giới hoá dự trận Khalkhin Gol hạ trại giữa sa mạc Mông Cổ. Một tù binh vừa bị bắt, ông Trưởng phòng An ninh SĐ tên Samulyev không nói không rằng, thản nhiên liệng cho hắn một cái xẻng bắt đào một cái hố ngang dọc in hệt một huyệt chôn người (vừa hành hạ thể xác vừa gây xúc động tâm lý tối đa). Chừng đào huyệt sâu gần đến cổ được lệnh nhảy vô hố và ngồi thụp xuống là khỏi nhìn thấy gì hết. Một gã lính gác như vậy có thể canh được nhiều huyệt nhờ khoảng trống an toàn 13.

Tù nhân bị giam dưới huyệt giữa khoảng trống sa mạc mênh mông, mưa nắng không che, đêm không có áo ấm nên cần gì phải hành hạ, tra tấn cho phí sức, tốn công? Thiên nhiên "hành hạ" không đủ chết sao? Huống hồ khẩu phần hàng ngày ăn chỉ có 100 gam bánh mì và uống chỉ độc nhất một ly nước? Trung úy Chulpenyev là một võ sĩ, người đồ sộ từng bị nhốthuyệt trọn một tháng. Mới được 10 ngày đã đầy chấy và rận. Mãi 15 ngày sau mới được gọi lên thẩm vấn lần thứ nhất.

(9) Trò chơi quỳ gối. - Quỳ gối để thẩm vấn khác quỳ gối cầu nguyện ở chỗ không được phép quỳ "chiếu lệ" mà cấm ngồi lên gót chân, lưng thẳng đứng. Quỳ ngoài hành lang hay trong phòng còn tùy cũng như thời gian quỳ có thể là 12 giờ, 24 giờ hay 48 giờ liên tiếp. Bị can cứ quỳ gối đúng chỗ, đúng giờ trong khi thẩm vấn viên có quyền về nhà ăn ngủ, du hí. Thay phiên nhau mà! Cộng tác canh chừng còn thiếu gì lính gác đảm nhận, chia ca nhau.

Thiếu gì tay vô nghề Thẩm vấn viên bằng công tác rất khiêm nhượng là canh chừng bọn quỳ gối? Nhiều ông lên chức rất cao, con cái nuôi nấng đàng hoàng!

Để đầu hàng trò chơi quỳ gối này nhất là những ông gần quỵ, chỉ nhấn một chút xíu thêm cũng đủ và giới phụ nữ. Một trường hợp do Ivanov - Razumnik kể lại: một thiếu niên tên Lordkipanidze còn bị ông thẩm vấn viên thình lình "tố" thêm một mục ngoại chương trình là thản nhiên đái vô mặt. Bị quỳ gối lãnh một sỉ nhục nặng như vậy nên dù có gan góc cùng độ. Lordkipanidze cũng đành chịu đầu hàng luôn, đành cung khai cho xong.

(10) Trò chơi đứng. - Trò chơi này nhàm chán ở chỗ bị can bắt buộc phải đứng ngay, đứng nguyên một chỗ. Bị đứng giữa lúc khai cung hay xen vào giữa những lần thẩm vấn đều mệt như nhau cả, dễ gục cả. Thời gian đứng kéo dài tùy tiện: lính gác chia phiên nhau canh chừng, đứng không ngay hay dựa vô vách hoặc buồn ngủ quá Gulag các ngài té tha hồ đấm đá trừng trị. Một trò chơi thật tầm thường nhưng nhiều khi chỉ đứng chưa trọn một ngày đã mất hết tinh thần, thẩm vấn viên bảo ký nhận bất cứ cái gì cũng mau mau ký cho rồi. Chỉ để khỏi phải đứng!

Tuy nhiên có nhiều người chống cự trò chơi đứng rất hay, đứng vài ba ngày liền như không. Do đó phải kèm thêm một mục trợ lực nữa, chẳng hạn như cúp nước. Còn thẩm cung là còn chịu khát!

Tình trạng đó cho thấy một điều: muốn đạt hậu quả tối đa chỉ việc tổng hợp những đòn tâm lý và những phương pháp cụ thể. Dưới đây là liệt kê một số mánh lới thẩm vấn tổng hợp.

(1) Căn bản là cấm ngủ. Chuyên viên tra tấn thời xưa quả chưa biết đến phương pháp này mà họ cũng không ngờ chỉ cấm ngủ mà tinh thần con người suy sụp mau và tàn tệ tới vậy. Cấm ngủ đã không thể chịu nổi, huống hồ còn tùy trường hợp cộng thêm vô những mục bổ túc như bắt đứng, chiếu đèn, khủng bố tinh thần v.v…

Con người mất ngủ hết còn là con người vì hết sáng suốt, nửa tỉnh nửa mê, bao nhiêu tinh thần và sáng suốt bay đi đâu mất hết.

Nhân vật nữ trong vở "Tôi Muốn Ngủ" của Chekov cũng đã đau khổ vì mất ngủ nhưng dù sao còn ráng cầm cự nổi vì còn được chợp mắt chút đỉnh. Đầu óc con người chỉ cần một phút cũng đủ lấy lại sự tỉnh táo, quân bình!

Đang thiếu ngủ muốn gục bất cứ lúc nào thì đầu óc mù mịt, còn sáng suốt đâu để mà nhìn vào bản cung từ để biết đượcnó nói gì 14.

Thông thường thẩm vấn viên sẽ khởi sự bằng câu: "Anh đâu chịu khai thực? Chưa khai thực thì chưa được ngủ. Có vậy thôi!". Để hành hạ cho nạn nhân đau khổ nữa thì thay vì bắt đứng, nạn nhân bị bắt buộc phải ngồi thẳng thắn trên một tấm nệm thật êm cho thèm ngủ nữa. Gã lính canh sẽ đứng một bên, vừa thấy nạn nhân buồn ngủ quá díu mắt lại là bung một đá cho tỉnh táo!

Dưới đây là cảm giác của một nạn nhân từng nằm vài ngày trong một cái "hộp" đầy rệp kể lại sau khi chịu đựng màn nói trên:

"Mất máu quá nhiều nên người tôi lạnh toát. Hai con mắt khô rang muốn bật ra ngoài như bị ai kê chiếc bàn ủi nung đỏ tận mắt. Khát nước quá độ lưỡi sưng phồng lên và cứ khẽ đụng đến là đau nhói như bị lông nhím cắm vô. Ôi chao, cổ họng vừa toan nuốt lập tức đau quằn quại 15."

Cấm ngủ là đòn tra tấn thần sầu nhất ở chỗ nó không lưu lại một dấu tích gì, chẳng thể căn cứ vào đâu để đưa ra trình, khiếu nại với Ủy ban Thanh tra Khám đường 16. Ngay ngày mai nhân viên Ủy ban tới khám xét cũng tuyệt đối chẳng sợ! Giả thử có kêu nài sẽ được trả lời gọn gàng: "Ủa, họ cấm anh ngủ hả? Ồ, có gì lạ nào? Đây đâu phải trại nghỉ hè. Anh không ngủ thì người canh gác anh cũng vậy chớ?". Dĩ nhiên họ không ngủ đêm nay thì mai họ ngủ bù tha hồ!

Đó là lý do phương pháp cấm ngủ được kể là đòn ruột của Cơ quan, từ một phương pháp tra tấn trở thành một trong những lề lối làm ăn của Bộ Nội An, bất cứ một khám câu lưu điều tra nào cũng phải áp dụng và đã áp dụng là bị can khỏi mong chợp mắt đến một phút. (Xét cho cùng phương pháp này đỡ tốn tiền, đỡ tốn nhân lực vào bậc nhất!).

Ở khám đường Sukhanovka cũng như nhiều khám chuyên giam cứu, bao nhiêu ghế bố đều xếp dựa tường để ban ngày gấp lên còn ở những nơi khác thì tuyệt đối cấm nằm đến ngồi nhắm mắt cũng bị cấm triệt để. Vả lại con người ta quen ngủ đêm rồi mà đêm phải thẩm vấn, ngày cấm ngủ thì chịu sao nổi 5 ngày 5 đêm liền? Cũng may thẩm vấn viên cũng là công chức, không lẽ làm luôn cả đêm thứ bảy, Chúa nhật, do đó còn đỡ được 2 đêm.

(2) Có lẽ nhận ra chỗ "sơ sót" đó, Cơ quan bèn sửa chữa bằng phương pháp thẩm vấn dây chuyền, ba bốn ê-kíp thẩm vấn viên thay phiên nhau điều tra liên tục không ngừng nghỉ.

(3) Đừng để lung lạc tinh thần bị can, yếu tố rệp rất đáng kể. Vách xà lim bằng cây, ẩm thấp tối tăm dơ dáy họ nhà rệp tự do sinh sôi nảy nở ở thứ ván hàng trăm hàng ngàn con. Bị can đã vô xà lim chỉ được mặc áo thun quần sà lỏn nên rệp đánh hơi thấy cấp kỳ, từ vách chui ra từ trên trần thả xuống. Thường thường bị rệp đốt đau quá bị can mới đầu còn phản ứng, chà xát, đè ép tiêu diệt được ít con nhưng chỉ ít giờ sau mệt mỏi quá đành nằm thiếp đi để cho chúng mặc tình hút máu.

(4) Đã vào tù thằng nào không sợ nằm "cát-xô"? Nằm cát-xô là ở tù thêm một tăng nữa, là bị tống xuống địa ngục so với thiên đường là phòng giam chung. Con người bị trừng trị trong cát-xô thì chỉ đói và rét cũng đủ chết. Ở khám Lefortovo hành lang có lò sưởi ấm, nhưng cát-xô dĩ nhiên không: tù nằm co ro với áo thun và quần xà lỏn trong xà lim tê cóng, lính canh đi lại ngoài hành lang ấm áp mà còn phải vớ lên, giày cao cổ và áo nhồi bông.

Nằm "cát-xô" đã có luật: ít nhất cũng khỏi đi lại (cấm cố) trơ trọi một mình (biệt giam) áo quần cởi bỏ hết và nhịn ăn. Ít nhất cũng cấm cố từ hai đến năm ngày và kể từ ngày thứ ba trở đi mới được cung cấp chút cháo nóng. Tưởng cực khổ, đói rét cỡ đó thì con người ta không thể chống cự nổi, nhất là trong những giờ đầu tiên nằm cát-xô. Nào ngờ cầm cự dai dẳng cũng qua được ngày thứ năm nhưng rất có thể dính một chứng bệnh gì đeo đẳng cả đời người.

Gọi là "cát-xô" trừng trị nên ngoài vụ bỏ đói, bỏ lạnh Cơ quan còn bổ túc thêm bằng một mục xối nước lạnh, bắt ngâm chân vô chậu nước đá. Nạn nhân Marsha G. bị ngâm nước đá hai giờ trong khám Chebotaryev ở khám tạm GPU Khabarovsk năm 1933. Nạn nhân bị cởi trần truồng, nhét vô bồn xi măng chật cứng, nửa nằm nửa ngồi co quắp như con tôm, không còn chỗ để cựa quậy. Sau đó thẩm vấn viên mở vòi nước cho chảy từ từ xuống người làm nạn nhân chịu được 24 giờ là chết ngất. Chở băng ca vô nhà thương, chích đủ thứ thuốc hồi sinh, thoa bóp mãi mới cứu tỉnh nhưng Chebotaryev một tháng sau vẫn còn ngơ ngẩn thất thần, muốn lấy cung cũng không được. Mười sáu năm sau vào năm 1949 một người quen của tôi ở Dnepropetrovsk cũng bị nhét vô bồn tương tự, chỉ trừ mục vặn vòi nước.

(6) Cũng như đòn cấm ngủ. Cơ quan còn một phương pháp "tủ" là bỏ đói bị can nghĩa là "áp lực bao tử" cho đến khi nạn nhân phải cung khai. Thông thường khẩu phần hàng ngày của tù nhân có thể thay đổi nhiều ít tùy từng nơi, tùy từng lúc. Năm 1933 chỉ có 300 gam bánh mì nhưng Lubyanka năm 1945 được 450 gam. Ngoài ra còn có đồ thăm nuôi gia đình gởi vô hay mua ở Câu lạc bộ nhưng chế độ này bị gạt bỏ ngay nếu cần phải bỏ đói để điều tra. Như bị can Chulpenyev trọn một tháng mỗi ngày chỉ được 80 gam bánh khẩu phần, tống xuống giếng cạn rồi cho lên để thẩm vấn viên Sokol điều tra bằng cách bày ra trước mắt một hũ phó-mát thơm lừng và nửa ổ bánh mì thật ngon, xắt xéo quyến rũ. Giản dị, cổ điển thế đó nhưng vô cùng độc ác. Không ngờ đòn tâm lý dã man này từng xài dưới thời trung cổ nay sống lại dưới chế độ xã hội chủ nghĩa!

Chebotaryev từng bị nhiều đòn một lúc. Đại khái 72 giờ đồng hồ lên khai cung không được làm gì ngoài việc đi tiêu đi tiểu. Nhịn đói nhịn khát dù kế bên sờ sờ một bình nước thật ngon. Dĩ nhiên nhịn ngủ vì 3 ông thẩm vấn viên thay phiên nhau làm việc: một ông cắm cúi viết không thèm nhìn bị can, một ông nằm ngủ trên đi-văng, một ông đi lại quanh phòng, thấy ngủ gục là đập. Vai trò cứ thế là đổi. Làm như cả 3 ông cũng ngán, không lấy cung xong thì chính họ cũng bị trừng phạt vậy.

Chịu không nổi Chebotaryev đành nhận khai. Lúc bấy giờ được mang tận miệng cả một khay thức ăn: 1 hũ phó-mát, 1 miếng sườn ram, dĩa khoai tây chiên, một bình rượu chát đỏ. Cả đời hắn không uống một giọt rượu mà thẩm vấn viên cũng không ép, sợ hư việc. Chừng ăn xong được chìa ra một bản cung từ. "Ăn uống xong rồi, ký cung đi. Bản cung tôi lập, rõ ràng có hai nhân chứng kia". Đúng, một ông thẩm vấn viên tự ý viết cung, một nhân chứng lại đi quanh phòng canh ngủ gục, nhân chứng kia nằm ngủ trên đi-văng.

Ngay ở trang đầu bản cung từ, Chebotaryev mới hay là mình "có liên lạc chặt chẽ với tất cả các tướng lãnh đang cầm quyền bên Nhựt và đã được họ mướn làm gián điệp". Đọc tiếp mấy trang sau hắn lấy viết gạch tuốt, không chịu ký. Hắn đâu có uống rượu mà say. Lập tức lại ăn đòn như mưa!

Dù sao cũng còn hơn trường hợp của Blaginin, bạn đồng sự với hắn ở Công ty Thiết lộ Viễn Đông - Trung Quốc. Cũng bị bắt chung vụ, cũng được đãi ngộ tương tự nhưng Blaginin không nhịn được đã nhậu hết bình rượu chát. Có rượu vô hắn say mèm ký cung tức khắc và bị xử bắn cũng cấp kỳ. (Khốn nạn, một ly rượu nhỏ cũng đủ chết người huống hồ trọn một bình của Cơ quan!).

(6) Tuy nhiên để tra tấn vẫn không gì hiệu nghiệm bằng đánh đập. Dĩ nhiên vấn đề quan trọng là không để lại một chút dấu vết nên Cơ quan sáng chế nhiều món đồ nghề thích hợp: gậy cao su, thước mỏng, bao cát. Hay là gót giày của ông thẩm vấn viên lâu lâu giộng vào ống quyển đau điếng để bao nhiêu năm sau còn nhớ. Như Lữ đoàn trưởng Karpunich Braven bịăn đòn 21 ngày liền mà "ba mươi năm sau xương cốt vẫn còn đau rần và đầu còn nhức nhối".

Theo kinh nghiệm của Braven thì nội mục đánh người NKVD cũng có tới 52 kiểu khác nhau. Riêng kiểu đặt hai bàn tay lên bàn để lấy thước gõ công cốc vào những đốt xương cũng đủ để nạn nhân rú lên kinh khủng. (Dĩ nhiên phải để ra ngoài đònnhổ răng 17 mà Braven từng phải chịu đựng mất 8 chiếc!).

Trong thân thể con người có chỗ nào dễ thấm đòn lại tìm không ra dấu vết cho bằng chỗ ức, nhất là giộng một cú đấmgiữa hai hơi thở. Ông đại tá Sidorov ở khám Lefotovo hồi hậu chiến nổi danh về cú đá phạt, mũi giày không bao giờ hụt bộ phận sinh dục của thằng bị can! Cầu thủ đá banh bị một trái vô dạ dưới cũng đã ngất xỉu huống hồ lãnh trái phạt đúng boong! Trong mọi ngón đòn, cú đá của ông Đại tá đau nhất! 18

(7) Ty NKVD Novorossisk nổi tiếng có dấu vết lưu niệm mà tù Trại Cải tạo nhìn vô biết ngay. Họ đặc biệt sáng chế ra một bộ máy chuyên môn chỉ để bóc móng tay nạn nhân vô cùng hữu hiệu lúc lấy cung.

(8) Nếu cần, còn đòn bó giò cho cả người nạn nhân cứng ngắc như một cây gỗ. Và nếu xài đòn uốn ván thì xương sống lưng bị can có thể bẻ cong đến gãy như ở Ty GPU Khabarovsk năm 1933.

(9) Khó chịu hơn cả phải kể đòn bó ngược, sáng chế độc đáo của khám Sukhanovka mà thẩm vấn viên Ivkov mang phổ biến ở trại Archengel năm 1940. Nạn nhân được đặt nằm sấp, một đoạn cây dài bằng vải bện cột "hàm thiếc" vắt ngược qua vai cột cứng với gót chân. Sợi dây được ngắn dần xương sống nạn nhân cong ngược lên. Cứ nằm thế, hai ngày hai đêm nhịn đói nhịn khát.

Kể sơ ra cũng có bằng ấy đòn. Có cần kể thêm nữa, mà có còn để mà kể không? Có còn đòn nào mà những con người thẩm vấn viên nhàn hạ, ăn ngon mặc tốt và không tim đó không nghĩ ra không?

Hỡi ôi, xin bạn đừng trách móc, oán hờn những người đã lọt vào vòng điều tra, thẩm vấn và chịu không nổi đành phải phun ra nhiều hơn sự thực. Xin bạn đừng là người đầu tiên lăng nhục lên án họ.

Nhưng thôi. Nói cho cùng để hành hạ mấy con cừu non ngất ngư vừa rời ổ, chỉ mong sao trở về nguyên vẹn thì đâu cần đến kìm kẹp sắt thép! Đại đa số khỏi cần đến một đòn nhẹ nhất. Đã lọt vô Cơ quan, vào phòng Điều tra là hết hồn, là phập phồng như lạc sang rừng già Phi châu với muôn ngàn nỗi hiểm nguy. Có ngờ đâu ghê gớm vậy.

Hãy cứ nói trường anh có thằng bạn thân tên A., tin nhau lắm và lâu lâu gặp nhau một lần có quyền tha hồ mổ xẻ các vấn đề chính trị lớn nhỏ không ai nghe lọt, chẳng ai đoán biết và chính các anh đâu có hành hạ tố cáo nhau bao giờ.

Bỗng nhiên, một hôm vì một lý do nào đó anh bị xách cổ đi và bị câu lưu. Chẳng có người cáo giác, chẳng phải anh lo cho gia đình hay sợ bị cấm ngủ hoặc nhốt cát-xô, tự nhiên anh cảm thấy trước sau thế nào cũng phải khai cung nhưng nhất quyết không làm cho một ai vạ lây, với bất cứ giá nào.

Anh lập cung từ lấy, đủ 4 mẫu tờ khai nghĩa là 4 tờ tự thú có ký tên đàng hoàng, tự gán cho mình tội chống đối nhà nước Xô Viết mà chứng cớ đại khái là ưa nhạo báng Lãnh tụ, chê bầu cử thiếu tự do, đi bầu phá hoại ngầm bằng cách gạch bỏ tên ông ứng cử viên duy nhất trên lá phiếu (dù trong phòng phiếu lọ mực vẫn còn đủ để viết)…hoặc có chiếc rađiô tình cờ có làn sóng ngắn 16 mét có thể bắt được vài mẩu tin của các đài Tây phương xen kẽ những làn sóng phá đài.

Vậy kể như anh có chắc bản án 10 năm mà xương sườn còn nguyên vẹn, chưa bị sưng phổi, chưa đến nỗi khai bậy cho ai. Thế là anh có quyền nghĩ mình khai khôn ngoan chán, anh còn dám chắc với mấy người bạn cùng xà lim là hồ sơ của anh sắp kết thúc đến nơi. Coi, nếu anh tưởng vậy thì hố đấy!

Vì còn tờ khai thứ 5 mà. Tờ khai thứ 5 ông thẩm vấn viên tự tay nắn nót điền vô bản mẫu vừa ngắm nghía tuồng chữ của mình. Hắn lơ là hỏi: "Anh thân với thằng A. không?. (Tên gã bạn thân của anh đó?)". Anh trả lời: "Có". Nhưng "Anh có thảo luận chính trị với nó không?". Thì dĩ nhiên phải: "Không, chưa đủ tin tưởng". "Hai người gặp nhau thường chớ?". "Đâu có. Thỉnh thoảng". "Thỉnh thoảng là thế nào? Có phải như hàng xóm anh báo cáo nó đến nhà anh chơi ngày ấy… ngày ấy… tháng rồi không? Có đúng những ngày ấy không?". "Dạ, có thể đúng!".

Ông thẩm vấn viên gục đầu cho ra thêm một số sự kiện: "Có thể thôi. Chớ không phải những lần gặp gỡ ấy các anh không bao giờ uống rượu, không nghe nhạc ồn ào, các anh chỉ nói nho nhỏ đủ nghe, đứng ngoài hành lang không thể biết bàn bạc chuyện gì hả?". Ôi chao, biết có ngày bị hỏi thế này thà ăn nhậu tưng bừng, đập phá tùm lum, la hét ầm ĩ lại đỡ bị nghi ngờ! Ủa, như vậy có sao không ạ?". "Khoan… Anh cũng nhiều lần đến nhà nó phải không? Hai người hôm trước còn điện thoại cho nhau mà. Hai người nói gì chúng tôi biết cả. Các anh nhắc lại buổi gặp gỡ chiều tối hôm trước chớ gì? Các anh đứng ở ngã tư nói chuyện tới nửa giờ, mặt hai người cùng rầu rĩ, bất mãn, rõ. Anh có cần coi tấm hình chụp đúng lúc ấy không? Người cứ khai thực hai người thảo luận những gì?".

Thì ra, thảo luận những gì mới là căn bản của vấn đề! Anh có gì để thảo luận đâu nên phản ứng đầu tiên của anh chắc chắn sẽ là: "Tôi không nhớ. Tôi quên. Tôi nghĩ là có gì đâu mà phải nhớ." Quên lần 1 cùng 2 chớ ai cho phép anh quên một lúc tất cả mọi cuộc thảo luật? Còn những vụ gặp gỡ thằng B, thằng C, thằng D nữa. Anh không thể tiếp tục mãi: "Quên, tôi quên hết cả". Chính anh cũng thừa biết chẳng ai chịu tin một sự "đãng trí" ghê gớm vậy.

Anh vừa bị bắt tinh thần hốt hoảng lại nơm nớp ngán những mục tra tấn, nên là người có học dĩ nhiên trong đầu óc anh sẽ nảy ra một giải pháp chống đỡ. Thôi thì nghĩ đai ra một số câu trả lời có thể tin được, có thể đấu trí lại thẩm vấn viên là xong chớ gì.

Biết cung khai thảo luận những gì đây? Hai người bàn chuyện đá banh thì hay nhất. Chuyện đàn bà, con gái cũng được. Hoặc chuyện khoa học cũng còn được. Dễ nhớ dễ khai và nhất là dễ tin dù nói chuyện khoa học sơ hở một chút là buột miệng cho ra những "tin tức cấm phổ biến" mà đụng tới là vướng Sắc luật Tiết lộ Bí mật Nhà nước dễ như chơi.

À, phải tỉnh táo nhớ tránh trước những chỗ gai góc, mà hôm nào đó anh có thể đã thảo luận thật sự. Chẳng hạn báo tin cho nhau hay: "Hồi này bắt dữ quá" hoặc than "Mậu dịch càng ngày càng thu mua rẻ" hoặc bàn tán chuyện nông trường tập thể (dĩ nhiên "bàn tán" là phải công kích vì nông trường tập thể có cái gì tốt đẹp bao giờ?). Phải đặc biệt để ý tài liệu mà giải thích khoản "nửa giờ hai người đứng nói chuyện ở ngã tư" và thảo luận những gì mà "hai người cùng rầu rĩ, bất mãn".

Đừng quên là thằng A. bạn anh có thể bị vồ thật rồi, dù trăm lần như một thẩm vấn viên bao giờ cũng cả quyết chắc chắn A. còn bị trước anh, nó đã khai đầy đủ cho anh và nếu muốn sẽ cho 2 đứa đối chất tức khắc. Anh đâm hoảng: "Không hiểu A đã bị vồ thật, nó đã khai thật ra chưa? Nó đang nằm phây phây ở nhà hay lát nữa đây sẽ bị kêu vô đối chất và té ra nó cung khai khác hẳn anh về cái vụ thảo luận nửa giờ ở ngã tư rầu rĩ, bất mãn?".

Chao ôi, ai dè sự đời biến chuyển thế này: Không lẽ mỗi lần gặp gỡ một thằng bạn chuyện trò lại phải rắp tâm nhớ mình đã nói những gì và trước khi từ biệt lại phải dặn dò nhau sẵn có ai hỏi đến thì phải trả lời như thế này, thế này? Nếu chuẩn bị kỹ vậy đó thì chẳng sợ gì thẩm vấn, cung khai và đối chất! Bằng không thì có hai người thảo luận mà mỗi người khai một cách khác hẳn nhau thì chỉ gây rắc rối, thay vì gỡ ra lại thắt chặt thêm. Một câu trả lời sai, sẽ kéo theo mười lần ngờ vực vô cùng nguy hiểm

Hay là mình sử dụng trí thông minh, khai gần cận, tương tự với sự thực và khai cóc nhảy, tránh né trước những điểm khúc khuỷu, nguy hiểm. Tục ngữ chẳng có câu: "Thằng nói dóc cừ nhất là nói dóc sát sự thực để người nghe tưởng là sự thực" đó sao? May ra có đối chất thằng A. sẽ đoán ra được mình muốn nó khai như thế nào để đạt tới một trùng hợp tối đa và do đó, cả 2 thằng có thể thoát nạn!

Mấy năm sau mới biết mình dại, tin ở sự sáng suốt của một thằng ngốc. Cứ tưởng nó như mình nào ngờ nó quên phứt, không nhớ nổi ngày hôm đó làm gì, dù quên là có thể ăn đòn đau! Nhưng thời gian nằm điều tra đêm đâu có cho phép suy nghĩ. Cả ba ngày chịu đựng là tinh thần mất hết, nhất là đang lấy cung lại bị một hai ông thẩm vấn viên ở phòng bên chạy sang nồ góp, không biết trời trăng gì cũng sủa chõ vô: "Xạo, khai thực ra. Bữa đó thảo luận những gì? Mấy người bàn tán với nhau những gì?".

Bàn tán? Nhớ ra rồi, tụi tôi hôm đó có than thở với nhau về sinh hoạt nông trường, hồi này Mậu dịch giá thu mua thấp quá. Vì vậy tụi tôi rầu rĩ, bất mãn. (Chớ không lẽ bán giá quá rẻ lại hoan nghênh?).

Có vậy thôi, nhưng ở bên cung từ ông thẩm vấn viên thản nhiên "chuyển ngữ" thành: "Trong buổi thảo luận, chúng tôi đã đả kích chính sách lương bổng của Đảng và nhà nước".

Tội trạng đả kích Đảng và nhà nước nghe ghê quá. Nhưng trớ trêu ở chỗ ít lâu sau có dịp gặp thằng A. trong tù là bi nó đả kích: "Tại sao mày nói nhăng nói càn kỳ cục vậy? Tao khai bữa đó mình bàn nh ân sủng đi câu cá nhè mày khai thảo luận" Cái mới đau!

Thực tế cho thấy rõ rằng mấy ông trí thức vô phòng Điều tra là thua thằng thất học, thua đau. Thân danh có học thì có cung khai phải cung khai cho gãy gọn, đi từ đầu đến đuôi có mạch lạc đàng hoàng chớ đâu thể ấp úng như thằng điếm vô học trong kịch Chekov? Vẫn biết những tội trạng cung khai ra hoàn toàn bị cưỡng ép chấp nhận cả một sự bịa đặt nhưng cũng phân phối sắp xếp sao đó cho hiểu lý chớ? Trong khi đó thẩm vấn viên - đồ tể chẳng cói lý ra gì. Chỉ cần "bắt" một hai câu để căn cứ vào đó buộc tội là đủ rồi!

Trong xã hội này người có học là người từng được huấn luyện, được tập dượt trước để thích ứng với hoàn cảnh xã hội, nghề nghiệp. Đi quân dịch phải thế nào, những nhu cầu xác thịt giải quyết thế nào cho đúng. Cư xử thế nào cho chững chạc, nghệ thuật thế nào là hay là đẹp. Nhưng chừng kẹt vô một hoàn cảnh sống chết, gay go nhất đời là bị câu lưu thẩm vấn thì học lực, giáo dục, kinh nghiệm chẳng giúp ích được quái gì hết. Không gì trớ trêu bằng phải coi kịch, coi phim, đọc sách để cho vai trò nhân đạo của quý ông "Cố vấn pháp luật" biện hộ cho nạn nhân trong lúc lấy cung. Biết bao nhiêu lý thuyết cao siêu được viện dẫn ra, sắp xếp rất đẹp, nhưng có ông Cố vấn nào giải thích được cho ta hiểu ý nghĩa đích thực, co giãn của chính Bộ Hình Luật? (Mấy đấng tác giả phim kịch hay sách nói trên cứ tống vô Trại Cải tạo là có dịp mở mắt biết liền! Chao ôi, có phải lúc nào cũng chìa ra một cuốn sách Luật được đâu? Luật sư lại càng là một sự xa vời quá!

Xét ra chẳng có gì vô hiệu bằng nói chuyện luật pháp, điều này điều nọ ở buya-rô ông thẩm vấn viên. Với họ chỉ có ký tên vô bản cung hay là ký vô đây - Ký đâu được, tôi đâu có tội gì. - Cứ ký đi, tội gì rồi biết. - Phải cho tôi biết tội trạng đã chớ. - Muốn biết hả? Nghe đây - anh bị khép vào mục 2 của khoản 10 điều 58 và khoản 11 điều 58 của Bộ Hình Luật Cộng Hoà Liên Xô. Chịu chưa? - Ký đi".

Bị can còn đòi hỏi đọc rõ các điều khoản thì ông thẩm vấn viên sẽ nạt nộ, kiếm đủ mọi cách để gạt phắt và sau cùng sẽ kết thúc bằng một "bài học" bất hủ:

"Muốn coi luật? Hà hà. Luật pháp làm ra là để cho tụi tôi áp dụng trên đầu mấy người coi làm gì kìa? Mấy người khỏi cần. Điều ấy khoản ấy dĩ nhiên nhằm để trừng phạt chính cái tội của mấy người, còn hỏi nữa thôi? Biểu ký là ký cho mau cho lẹ.

Nên nhớ chữ kỹ của mấy người ở dưới bản cung từ đâu có nghĩa là mấy người đã đồng ý về tội trạng như đã nêu. Nó chỉ có giá trị minh chánh là cung từ đã được đọc, đã đưa cho mấy người coi. Vậy đủ chưa?"

Giữa lúc ông thẩm vấn viên vung vẩy chìa khoá cung khai vào tận mặt thì nếu tinh mắt bị can chắc chắn sẽ nhận ra những hàng chữ tắt xuất hiện nhiều lần trong bản cung từ. Ít nhất cũng có UK và UPK tên tắt của hai thứ luật. Một là Bộ Hình Luật (UK) và hai là Bộ Hình sự Tố tụng (UPK) để nhà nước tùy tiện áp dụng mà người nhà nước không có bổn phận giải thích luật pháp, chỉ cần đọc lên mấy chữ tắt.

Mười năm trôi qua rồi thấm thoát mười lăm năm cỏ đã mọc xanh rì trên nấm mộ của thời hoa niên của tôi. Hết án đi đày, tôi trở về nơi cư trú không hơn đi đày bao nhiêu để thấu hiểu sự thực này: ở bao nhiêu "khu giáo dục văn hoá" trong trại, trong bao nhiêu thư viện lớn nhỏ có bao giờ tôi được dịp ngó thấy, sờ tay vô một Bộ Hình Luật của Cộng hoà Liên Xô? Mua không ra, mượn không được, hỏi cũng không thấy luôn 19.

Bạn tù của tôi kể đến mấy trăm người. Ai chẳng từng nếm mùi điều tra, ra toà nhiều người còn hơn một lần bị tống vô Trại Cải tạo hay đưa đi đày nữa nhưng có một ai được hân hạnh nhìn mặt hay sờ vào Bộ Hình Luật bao giờ. Chao ôi, mãi đến 35 năm sau khi chúng ra đời, đang sửa soạn bị thay thế tình cờ tôi mới vớ được nguyên cặp Hình luật và Hình sự Tố tụngnằm bên nhau như hai anh em song sinh ở một sạp báo nhà ga xe điện hầm Mạc Tư Khoa. Phải chăng chúng lạc hậu, sắp sửa thành phế thải rồi mới được phổ biến?

Lần giở lại mấy trang sách Luật, tôi không khỏi ngao ngán. Chẳng hạn Bộ Hình sự Tố tụng có điều 136 ghi rõ ràng: "Thẩm vấn viên không có quyền bắt nghi can cung khai hay thú nhận bằng những phương pháp áp lực, đe doạ". Làm như Hình luật cũng tiên liệu sẵn những mánh lới đe doạ của các ông thẩm vấn viên.

Điều 111 Hình sự Tố tụng buộc thẩm vấn viên phải "giúp đỡ" các nghi can, thấy điểm nào có thể gỡ tội, làm nhẹ tội được cho họ là phải làm liền. Nhưng thực tế thì có công với chế độ, làm cách mạng cướp chính quyền, tự tay bắn Kolchak, truất hữu bọn kulak… là tôi cũng còn kể bỏ. Chưa kể đến tiết kiệm cho nhà nước 10 triệu rúp, cộng thêm 2 chiến thương, 3 huy chương ông thẩm vấn viên hét vào tai tôi: "Tất cả những cái đó vô nghĩa!".

Điều 139 Hình sự Tố tụng nói rõ nghi can có quyền tự tay viết lấy cung, nếu thẩm vấn viên làm thì có quyền buộc cho coi lại và yêu cầu sửa nếu thấy sai lầm. Ai đã từng bị điều tra, thẩm vấn đều không lạ gì năn nỉ gãy lưỡi cũng cứ là "cố tình phát ngôn xuyên tạc" thay vì "nói bậy". Một con dao rỉ sét cũng có thể là "tang vật thuộc kho vũ khí bí mật"!

Phải chi có chút kinh nghiệm tù ngục thì nạn nhân không bao giờ dám ỉ i, coi nhẹ bản cung. Chừng biết ra thì hối hết kịp! Vì vậy đợt tù bị bắt lại năm 1948 có đứa nào được hỏi cung? Làm sao "gài" nổi những thằng quá nhiều kinh nghiệm?

Còn gì hài hước bằng trông chờ sự giúp đỡ của thẩm vấn viên khi chủ trương ngầm của Cơ quan là phải cô lập tối đa các nghi can để gieo hết sức nặng, đè bẹp họ trong thời kỳ để triệt hạ, nhất là vừa lại bắt vô. Không cho gặp bất cứ ai, dù trong xà lim, ngoài hành lang, trên thang lầu hoặc ngay trong phòng điều tra, không thể có cơ hội thông tin có người quen chia sớt chút cảm tình, bằng một cái liếc mắt?

Chiến thuật ruột của Cơ quan còn nhằm gieo cho nạn nhân cảm giác "vô đây là hết hy vọng, hết đường sống". Nếu có thể còn bịp nạn nhân, làm như cả nhà hắn cũng bị bắt lây và họ đã cung khai hết rồi, có đầy đủ tang chứng…không còn gì để giấu giếm nữa. Thẩm vấn viên sẽ làm như đầy đủ thẩm quyền, làm án hay dung tha để nạn nhân tưởng cung khai ngoan ngoãn có thể được Cơ quan can thiệp giảm án hoặc cho đi đày những chỗ sung sướng, không thể có!

Với Cơ quan thì chỉ cần một hai ngày đầu: bao nhiêu thủ đoạn đều được sử dụng gấp rút, buộc nạn nhân phun càng nhiều bằng cớ càng tốt, khai càng nhiều tên càng hay. Nạn nhân xúc động, tuyệt vọng đến độ nhiều người yêu cầu thẩm vấn viên miễn cho việc đọc lại tờ khai! Không muốn nghe, đọc hết nổi mà chỉ xin được ký, ký cái gì cũng được cho xong. Chừng làm xong cung từ nạn nhân mới hết bị biệt giam, được ra phòng để rầu rĩ nghe các bạn tù kể chuyện và càng thấm thía những sơ hở, khốn nạn, ở hoàn cảnh đó thì có ai khôn ngoan sáng suốt.

Chiến thuật biệt giam người vừa bị bắt bao giờ cũng được Cơ quan sử dụng, trừ trường hợp phòng giam chung thật cứng người, không đủ chỗ. Nhốt riêng sao nổi? Như 2 năm 1937 và 1945 bao nhiêu phòng giam chứa cho đã tù? Tuy nhiên tống vô phòng giam cá hộp cũng có cái lợi là nạn nhân cũng mau mất tinh thần kinh khủng. Nhiều người còn ngán xà lim cá hộp hơn bị tra tấn, bởi lẽ bao nhiêu con người chen chúc đã cực khổ, thẩm vấn viên còn kéo dài thời kỳ lấy cung để tù hành hạ tù cũng đủ gần chết. Còn gì khổ cho bằng nạn chen chúc trong những xà lim chỉ đủ chỗ đứng, ngồi là ngồi lên đầu lên cẳng nhau và đi một bước cũng đụng người?

Năm 1945 ở khám giam cứu Kishinev (tên tắt những khám câu lưu điều tra này là khám KPZ) có những cát-xô cá nhân bị nhét tới 18 người. Năm 1937 KPZ Lugansk chỉ nhốt có 15 mạng 20. Theo lời Ivanov-Razumnik thì khám tạm Lubyanka năm 1938 có những xà lim vẫn nhốt 25 người phải nhét tới 140 mạng. Đi tiêu đi tiểu chỉ được đi 1 lần, hoặc đêm hoặc ngày, phải chia ca. Tù đông đến nằm tràn cả lối đi ngoài sân. Tính trung bình 1 mét vuông xà lim phải chứa đủ 3 người, trong mấy tuần lễ liền 21.

Dân Byturki hoặc Lubyanka quen gọi những xà lim đó là chuồng chó. Gọi xà lim đông mà nhiệt độ trong chuồng từ 40 độ tới 45 độ chỉ vì hơi người. Có thằng nào dám mặc quần áo? Cởi trần mặc xì líp hay xà lỏn còn nóng hầm đổ mồ hôi. Bao nhiêu quần áo lạnh phải cuộn tròn lại ôm khư khư vào bụng. Người đông quá, đứng ngồi "dính" cứng nhau, chỉ vì mồ hôi cọ sát mà thằng nào cũng bị hắc lào (ghẻ lác). Ngồi "đóng hộp" cả vài tuần như vậy, thiếu không khí mà nước uống cũng thiếu, ngoài chén cháo và chút nước trà mỗi sáng.

Nội vấn đề đi cầu cũng là cực hình. Chỉ có một hình thức là ngồi lên thùng, để trong phòng giam cũng khổ mà để ở ngoài chia ca cũng không hơn. Ăn thì bốn người chung nhau một chén, người nọ ngồi trên đầu gối người kia. Giữa cảnh địa ngục đó đêm nào chẳng có vài người bị kêu lên lấy cung và lúc trở về phòng, phải khiêng, người ngợm tơi tả bầm dập. Những người chưa được lấy cung chỉ thấy vậy cũng đủ ớn xương sống. Lúc nào cũng nơm nớp sợ đến phiên mình mà tình trạng chờ đợi lại kéo dài đến vài tháng thì còn tinh thần đâu mà chịu đây? Chết ngay còn đỡ khổ huống hồ lãnh bản án đi đày.

Có lẽ vì vậy mà Cơ quan đi đến quyết định chuồng chó trên thực tế có thể hiệu nghiệm hơn biệt giam có khi. Vấn đề hỏi thăm, trao đổi kinh nghiệm giữa bọn tù không đáng kể về người ngồi xếp lớp như vậy biết tin ai ngờ ai, mà dám ngỏ lời tâm sự? Trong khi đó, những thân hình rách nát từ phòng Điều tra khiêng xuống lại là bằng chứng cụ thể nhất để những thằng vừa bị bắt phải hiểu là thẩm vấn viên chẳng hăm doạ suông bao giờ!

Vả lại những thằng tù mới còn được những bạn tù cũng trước kể cho nghe những đòn đặc biệt chớ. Bơm nước vô họng rồi để nằm nhịn khát đúng một ngày trời như Karpunich không đáng sợ sao? Lấy lưỡi bào lột da cho rướm máu, rồi xát chất nhựa thông vô như ông Lữ đoàn trưởng Rudolf Pintsov từng nếm mùi liệu chịu nổi không? Nên nhấn mạnh là ông sĩ quan cao cấp này cũng từng nếm qua nước muối và sau đó còn bị kim đâm kẽ móng tay, dội nước lạnh vô người để buộc phải thú nhận có âm mưu đưa cả Lữ đoàn về thủ đô làm loạn thay vì đi diễn binh tháng Mười một.

Đừng tưởng nhân viên cao cấp được nể nang, nhẹ tay 22. Nặng hơn nhiều! Bằng cớ là Alexandrov nguyên Vụ trưởng Nghệ thuật trong Ủy ban Liên lạc Trao đổi Văn hoá từng ăn đòn Cơ quan tới gãy xương sống, đi lệch một bên người. Hạch nước mắt hư luôn, lúc nào nước mắt cũng có thể trào ra như khóc. Ông nguyên Vụ trưởng được đích thân sếp lớn nhất Bộ Nội An Abakumov lấy cung mà. Có ai ngờ một ông Bộ trưởng thèm làm những công viên "chân tay" như vậy?

Thực ra đồng chí Ủy viên Abavkamov chỉ đích thân "công tác" ở ngay Văn phòng cho thuộc cấp soi gương nhưng người không ngần ngại vác dùi cui cao su khện các nạn nhân. Phần "công tác" còn lại đã có công Phụ tá số một lo nốt.

Phụ tá Nội An Ryumin đặt trụ sở ở khám tạm Sukhanovka, trong căn phòng thẩm vấn đặc biệt mệnh danh Phòng Tướng Lãnh. Phòng trang trí bốn vách bắt chước lối lát cây giẻ, cửa lớn, cửa sổ đều có màn lụa che, sàn trải thảm Ba Tư dày lên mỗi khi có "công tác" sợ dơ dáy phải phủi tấm nệm "làm việc" vấy máu sẵn lên trên! Để tiếp tay, đứng bên ông Phụ tá canh chừng không phải lính gác thứ thường mà là một ông Đại tá.

Theo Alexander D. thì Ryumin có lối vung vẩy cây dùi cui cao su 4 phân đường kính, ăn nói thật lịch sự đàng hoàng:

"Ông bạn đã vô đến đây là từng tốt nghiệp ‘cua’ nhịn ngủ một cách vinh dự 23. Vậy qua ‘cua’ dùi cui thứ coi. Xin cho hay trước là chưa ai chịu nổi 3 suất. Chỉ 2 là cùng! Bây giờ mời ông bạn cởi quần ra giùm và nằm ngoan ngoãn ở chỗ kia."

Nạn nhân không ngoan ngoãn nằm sấp không xong vì ông Đại tá đã lẹ làng cưỡi trên lưng để ông Phụ tá vác dùi cui khện đúng huyệt. Cây dùi cui giơ lên hạ ngay tróc hai sợi gân ở bàn toạ phía ngang hông. Alexander D. chưa nếm mùi "dập gân" bao giờ nên cứ tưởng chỉ đau ê ẩm ở đít là cùng. Nào ngờ nằm khám ít lâu, đói ăn khát uống và thiếu ngủ nên bắp thịt bàn toạ biến đâu mất, gân nổi lên và dùi cui giáng xuống là đau thấu, đau tàn nhẫn trên đầu, tưởng muốn bể sọ. Ngay cú đầu tiên đã điên lên được, mười móng tay cắm xuống thảm gãy hết. Phụ tá Ryumin đập đã quen tay, lại được một ông "ba sao" ngồi trên lưng ghìm cứng thì hết sẩy.

Vì vậy ông Phụ tá làm xong công việc thì tội nhân A.D. đi đứng hết nổi. Dĩ nhiên chẳng ai buồn khiêng đi mà nắm chân lôi xềnh xệch. Chỗ mông đít sưng vù đến mặc quần vô không nổi nhưng hoàn toàn không có một vết sẹo. Về đến cát-xô, A.D. lập tức đi cầu như suối, ngồi trên thùng phân thiếp luôn.

Vậy mà hắn qua được xuất dùi cui thứ hai rồi thứ ba luôn, dù mông đít bể nát. Ông Phụ tá tức như điên bèn nọc ngửa ra "mưa" dùi cui lên bụng, bất kể dập bụng bể ruột mà kết quả tức khắc là hắn mặc chứng ruột sa. Đến nước này đành phải ngưng thẩm vấn dùi cui. Đó là một bó buộc vì A.D. được đưa vô bệnh xá khám đường Butyrki để chữa gấp chứng bể ruột làm mủ trong bụng.

Cũng đừng tưởng người tu hành, già cả được nương tay. Linh mục Viktor Shipovanikov bị thẩm vấn viên Danilov ở KPZ Kisninev lấy cây gậy quất vô gáy té ngất. Ông linh mục để tóc dài thì túm tóc kéo đi quả thật gọn gàng! Nếu tóc ngắn nắm không tiện thì kéo râu. Nếu không râu, không tóc thì kéo ria cũng được vậy. Đó là trường hợp của Richard Ohola, một Hồng Vệ binh gốc Phần Lan, nổi tiếng có bộ ria rậm đẹp. Hắn bị thẩm vấn viên lấy kìm kẹp cứng một bên ria nhấc thử, rồi kẹp luôn bên kia, nhấc hổng chân lên khỏi đất nghĩa là bị treo ria trong 10 phút đúng. Xin đừng quên Richard Ohola từng nắm một đại đội xung kích dẹp phản loạn trại Kronstadt và được coi là có công đầu trong vụ bắt điệp viên Ăng lê Sidney Reilly.

Tất cả những mục dùi cui, nắm tóc, treo ria đã dữ nhưng theo những tù già kinh nghiệm thì chưa ăn thua gì so với đònquần đả ác liệt dưới đây mà Cơ quan phải triệu tập khá đông nhân viên tham dự. Hạ sĩ quan phụ tá thì thiếu gì?

Nạn nhân bị cởi quần, lật ngửa người, hai chân giang ra thật rộng. Đám hạ sĩ quan chia nhau kẻ lên đùi, người nắm chặt tay để ông thẩm vấn viên lừ lừ bước tới. Lâu lâu có bà thẩm vấn viên đích thân điều khiển mới ghê! Đang nằm ngửa mặt, chàng hảng bỗng nạn nhân kêu thét thật hãi hùng vì bộ phận sinh dục của hắn bị đầu mũi giày đè lên rồi nhấn xuống từ từ. Bộ phận dễ hư hại nhất trong cơ thể con người bị nghiến giữa mũi giày và sàn gạch, nhịp điệu nặng nhẹ tùy ý thẩm vấn viên. Mắt hắn nhìn chừng vào mắt nạn nhân, không ngừng cật vấn: "Phải vậy không? Có nhận không?".

Bổn phận thẩm vấn viên là phải "theo dõi" nạn nhân bằng mắt để canh nhấn mũi giày: không nhanh quá mà cũng không nặng quá để 15 giây đồng hồ trước khi đau ngất người, nạn nhân còn kịp la lên: "Tôi chịu rồi. Để tôi khai". Dĩ nhiên là hắn cũng khai, thú nhận bất kỳ cái gì mà thẩm vấn viên muốn, kể cả 20 tòng phạm tên tuổi được viết sẵn hay ký tên đăng báo chửi lại tất cả những gì hắn từng cho là thiêng liêng nhất.

"Chỉ có Thượng Đế phán xét người không có quyền xét xử người."

Nhưng thẩm cung, điều tra thì con người đã làm như thế đó. Họ đã làm đến mức mà nạn nhân chẳng thể làm gì hơn là nhận tội và than thở cùng nhau, đại khái:

• Không khai, không nhận thì không xong. Đành nhận hết cho rồi!

• Thôi thì đành chịu (hèn) để giữ lấy thân vậy.

• Không ký cung thì răng đâu mà mọc lại nữa? Họ dám lần lượt nhổ hết mà.

• Không khai,không nhận thì cũng có tội. Cũng ra toà, cũng đi tù.

• Thằng nào không khai chắc chắn bị xử bắn. Đòn thù mà! Đời nào Cơ quan chịu thua và chịu để lộ những mục tra tấn cho mọi người hay.

• Không ký cung dám chết ngay trong phòng điều tra. Thân nhân chỉ được trả lời: "Đã đi đày. Không có quyền liên lạc thư từ, thăm nuôi. Hết khiếu nại! »

Nếu anh là Đảng viên chính cống thì sẽ có thằng cũng đảng viên chính cống nhưng vô tù trước anh Xán tới bên rĩ tai làm như sợ có thằng không Đảng nghe hóng mất:

"Chúng ta có Đảng. Chúng ta có bổn phận phải chấp nhận và bênh vực điều tra, thẩm vấn. Giai đoạn đấu tranh mà chính chúng ta phải nhận lỗi, chính là chúng ta mềm yếu nên đất nước mới lâm cảnh trạng này. Đồng chí đừng quên là chiến tranh ngấm ngầm mới nguy hiểm, kẻ thù đã xâm nhập tận nơi. Làm sao Đảng có thể xét thấu từng trường hợp cá nhân của chúng ta để giải thích thế này thế nọ? Bổn phận chúng ta phải ký."

Một đảng viên chính cống khác thú nhận:

"Tôi từng cung khai cho 35 người cả thảy, quen người nào là khai bằng hết. Nên tôi có ý kiến này: Họ bảo khai thì cứ khai tuốt tuốt, khai rõ nhiều tên vào. Nhiều đến mức độ ai cũng thấy là vô lý thì may ra họ cũng cho là vô lý. May ra họ sẽ cho về hết!"

Thực ra Cơ quan chỉ cần có vậy. Quả nhiên lập trường đảng viên và NKVD chỉ là một! Khai càng nhiều người thì cả thẩm vấn viên lẫn Cơ quan cùng có điểm đắc lực, tích cực. "Tổ chức còn những ai khai ra, khai hết ra!". Khai bọn đồng chí, khai luôn những thằng đồng quan điểm nữa!". Đừng quên một thằng khai là mười lăm, vài chục thằng bị lây. Từ vài chục nhảy lên vài trăm rồi vài ngàn, vài chục ngàn chỉ là một con toán nhân vô cùng là lẹ làng! Nếu dứt dây thế nào cũng động rừngthì rõ ràng Cơ quan đã tạo được tình trạng đe dọa, khủng bố thường xuyên.

Nhưng cũng vì vậy mà trong số những tòng phạm, bị can R. Ralov dám khai cho cả Hồng Y Giáo chủ Richelieu. Đó là chuyện thường. Điều đáng ngạc nhiên là không ai ngạc nhiên khi thấy ông Hồng Y Giáo chủ nằm trong bản cung. Mãi cho đến năm 1959, sau khi công dân R. Ralov được Toà xử lại để cho khôi phục quyền thì vấn đề mới được đặt ra.

Đối với người cộng sản chính thống thì Stalin là Lãnh tụ lớn cần phải có cũng như phải có Đảng và có Đảng là phải có thanh trừng. Tối đại đa số cán bộ Đảng cao cấp cho đến khi bản thân bị bắt đều không ngần ngại, bắt chính những đồng chí một thời từng sát cánh tranh đấu bên nhau. Có thể nói tất cả những lãnh tụ Bôn-sê-vích to đầu, nạn nhân của thanh toán, ít ra cũng chẳng muốn dung tha mấy người anh em Bôn-sê-vích khác và sẵn sàng quên mới ngày nào đây bọn họ cùng chung lưng đấu cật để tiêu diệt những thành phần không cộng. Có lẽ cần phải có một đợt thanh trừng 1937 để cho thấy mớ ý thức hệ mà họ từng quảng cáo ầm ĩ thực sự chẳng ra gì, nếu chẳng phải phá nát từ nền móng nước Nga lật ngược cả nếp sống của người Nga và chà đạp lên tất cả những gì người Nga thiêng liêng nhất. Họ đã làm hỏng cả một nước Nga hơn chính những người mà họ triệt hạ suốt từ 1918 đến 1946. Những người Bôn-sê-vích "lâm nạn" còn bỉ ổi, hèn hạ quá nhiều so với những người từng là nạn nhân của họ.

Giờ đây giở lại chồng hồ sơ những vụ câu lưu, những phiên toà từ 1936 tới 1938 nghiên cứu kỹ từng chi tiết thì những nhân vật mà chúng ta kinh tởm nhất chẳng phải Stalin và bè lũ bộ hạ mà chính là những kẻ bị thanh trừng nhục nhã. Chúng ta buồn mửa vì sự sa đoạ hèn hạ của họ và không ngờ những con người có một quá khứ hào hùng, oanh liệt mà chừng "xuống chân" có thể khuất tất tới mức đó.

Nhưng còn biết nói gì khi con người đánh vẫn biết đau, còn cả gia đình vợ con để quyến luyến và bị "chiếu cố" đúng vào lúc bất ngờ nhất? Để đối phó với cả một bộ máy được dựng lên để đè bẹp con người thì làm cách nào để kiên định lập trường?

Con người vững nhất ở Phòng Thẩm vấn là con người hết thắc mắc, thẳng tay gạt bỏ hẳn quá khứ để chân vừa đặt lên ngưỡng cửa ngục tù là lòng phải nhủ lòng: "Đời ta vậy là hết, chết có hơi non thật nhưng có làm gì được đâu? Tự do mất hẳn, trước sau cũng đến chết mà càng kéo dài càng đau khổ thì thà chết sớm chết ngay. Tài sản liệng đi, gia đình coi như chết hết cũng như đối với họ, ta là kẻ chết rồi. Xác thân này vô dụng, chẳng phải của ta nữa rồi. Có còn chăng chút đỉnh tinh thần và lương tâm con người, có vậy thôi".

Đụng týp người dứt khoát này điều tra thẩm vấn chẳng có nghĩa gì. Chỉ có người dám vứt hết mới thắng nổi. Có điều dễ dầu gì tự biến mình thành gỗ, thành đá?

Hãy nhìn lại gương Berdyayev. Cơ quan vồ hết bọn người thân cận, nhất định bắt họ làm bù nhìn để sửa soạn xách cổ Berdyayev ra toà xử công khai, câu lưu 2 lần và năm 1922 bị đích thân Dzerzhinsky thẩm cung đêm, có sự hiện diện của Kamenev nữa. Nhưng Berdyayev vẫn trơ như đá vững như đồng. Không xin xỏ, không kể lể. Rất điềm tĩnh, vững vàng như ông ta đã vạch rõ những nguyên tắc tinh thần và tôn giáo mà căn cứ vào đó không thể chấp nhận chế độ chính trị vừa thành lập ở Nga. Vì lập trường sắt đá đó, Cơ quan đành phải nhìn nhận sự thực: con người này không thể mang ra Toà xử nổi. Do đó trả lại sự tự do.

Còn tấm gương khiêm nhượng của bà già "hàng xóm" của Stolyarova trong lao Byturki năm 1937. Đêm nào bà ta chẳng bị xách lên lấy cung? Hai năm trước có một tên trước là linh mục dòng Chính thống giáo vượt ngục Cải tạo đi trốn lánh, ghé ngang Mạc Tư Khoa mụ có chấp chứa một đêm phải không?

"Đúng vậy. Không phải trước mà là bây giờ vẫn còn là linh mục. Tiếp đón người là một vinh dự, dù chỉ một đêm."

"Được. Rời Mạc Tư Khoa hắn đi đâu, mụ biết không?"

"Biết chớ. Nhưng đừng hỏi mất công. Tôi không chỉ (vị chức sắc Chính thống giáo này được một số tín đồ tiếp tay nhau đưa vượt biên giới sang Phần Lan)".

Mới đầu các thẩm vấn viên thay phiên nhau lấy cung bà già. Sau đó từng nhóm bu lại "quay". Dậm doạ, nồ nạt, giơ tay toan đấm bể mặt, nhưng bà già vẫn tỉnh táo:

"Đừng mất công giở trò vô ích ấy với tôi. Cứ thử xắt tôi ra từng mảnh nhỏ coi nào. Tôi biết mấy người làm bộ hung hăng vậy chỉ vì sợ: Mấy người sợ cấp trên, sợ lẫn nhau và sợ cả giết tôi nữa. (Theo lập trường thẩm vấn viên thì giết chết bà già này còn gì là manh mối để dò ra hệ thống đưa người vượt biên). Nhưng nói thực có cái gì làm tôi sợ đâu. Tôi lấy làm sung sướng được chết, được Chúa phán xét ngay từ giây phút này mà".

Năm 1937 không thiếu gì những người gan lì, vững vàng như trên. Đó là những người gọi lấy cung như không trở về xà lim để nhận lại mấy manh quần áo rách. Đó là những người quyết định chọn cái chết, nhất định chết chớ không chịu khai để bất cứ ai bị vạ lây.

Trong lịch sử Cách mạng Nga không có mấy những tấm gương kiên định lập trường như trên. Tuy nhiên vấn đề so sánh hơn kém chẳng thể đặt ra xét vì thời đó những nhà Cách mạng của chúng ta đâu được biết điều tra, thẩm vấn hiệu nghiệm cỡ nào. Ít ra cũng 52 đòn.

Vả lại thời đó Radischhev có bị câu lưu nhưng Sheshkovsky đâu có tra tấn "kẻ phản nghịch". Dù bố có làm gì chăng nữa thì với nếp nhà, đám con trai của Radischhev cũng cứ được huấn luyện để trở thành sĩ quan Ngự lâm quân, chớ đâu phải chiến đấu. Tài sản cơ nghiệp của ông ta cũng chẳng bị ai tịch thu. Nhưng chỉ sau 2 tuần giam cứu, Radischhev cũng đã chối bỏ hết tư tưởng, sách vở.

Tháng 12 năm 1825 nhóm sĩ quan đảo chánh toan truất phế Hoàng đế Nicolas đệ nhất thiệt. Họ thất bại vì bị tống giam hết nhưng họ đâu có bị tra tấn trả thù cho đến chết và vợ con họ đâu có bị đánh đập ở phòng kế bên để những tiếng thét kinh hoàng phải lọt đến tai những ông chồng phản loạn. Thời đó không cần phải vậy, vì theo sử liệu ngay Ryleyev cũng "trả lời đầy đủ, thành thực, không giấu giếm tí gì". Chính người soạn thảo ra tuyên ngôn chung của nhóm mệnh danh bản Sự thực của nước Nga (Russkaya Pravda) là Pestel cũng còn mất tinh thần, khai hết số đồng chí (còn trốn tránh) phụ trách đi chôn giấu, thủ tiêu những bản tuyên ngôn cũng như chỗ chôn kia mà 24.

Thời đó có mấy người ngang tàng như Lunin, dám coi thường và chống đối Ủy ban Điều tra? Phần đông có phản ứng vụng về, tự trói buộc mình thêm, trong khi nhiều ông chỉ xin được Hoàng đế tha tội. Đồng chí với nhau mà Zavalishin còn trút hết đủ mọi thứ tội lên đầu Ryleyev kia mà. Trong khi đó Griboyedov còn bị 2 ông bạn Obolensky và Trubetskoi đua nhau vẻ vạch, tố cáo quá nhiều thứ tội mà ngay chính Hoàng đế Nicolas cũng tin không nổi!

Cũng theo sử liệu mà lại do đích thân đương sự tự thú thì Bakunin đã quỳ trước mặt Hoàng đế xin tha tội, do đó khỏi phải rụng đầu. Như thế đó thì gọi là tinh thần đốn mạt hay chiến thuật cách mạng?

Còn vụ nào quan trọng, do những liệt sĩ chủ trương cho bằng vụ ám sát Hoàng đế Alexander Đệ nhị? Họ phải biết dính vào vụ này là đời phải kể bỏ chớ? Cùng "đi" một lúc với ông vua nước Nga là liệt sĩ Grinyevitsky nhưng Rysakov còn sống nhăn. Bị bắt thì phải thẩm cung nhưng ngay trong ngày đầu tiên ông "liệt sĩ" này đã không ngần ngại phun bằng hết số người tham dự và còn cẩn thận chỉ tận nơi trú ẩn bí mật của họ. Sợ chết quá trẻ, Rysakov đã tự thú và tự lãnh nhiều sứ mạng mà chính nhà nước cũng không ngờ đến. Người tự nhận nhiều lúc muốn nghẹt thở vì hối hận và để chuộc lỗi "cam đoan vạch rõ từng chi tiết tất cả bí mật của phe Vô quân Vô pháp" (Anarchists).

Có chi tiết này đáng chú ý: hồi cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX dưới chế độ Nga hoàng, các thẩm vấn viên còn có lệ rút lại câu hỏi ngay tức khắc nếu bị can cho là không liên quan với hiện vụ hoặc quá tò mò, đi sâu vào đời tư. Nhân danh một người từng nếm mùi điều tra của Mật vụ Bảo hoàng và đến năm 1938 lại bị giam cứu ở lao Kresty, nhà lão thành Zelensky phải la trời: "Ối trời, họ làm ghê quá! Hồi Mật vụ Bảo hoàng bắt tôi, các thẩm vấn viên đâu nỡ nặng lời. Thế mà bây giờ".

Bây giờ thẩm vấn viên NKVD trừng trị ông già tóc bạc bằng cách lột quần lấy roi đét đít như một đứa con nít nhỏ làm Zelensky phải ôm mặt khóc thầm trong xà lim.

Theo sử liệu của Peresvetov đăng trên Novy Mir số 4 năm 1962 thì có lần Mật vụ của Nga hoàng bắt giữ một sinh viên tên Vaneyev mang trong người một bản viết tay của Lênin tựa đề Mấy ông Bộ trưởng của chúng ta nghĩ sao. Đương sự nhìn nhận có người mang tới nhà thờ giữ giùm nhưng không muốn tiết lộ người đó là ai. Mật vụ không còn cách nào hơn là nhờ các chuyên viên so tự dạng để truy ra thủ phạm… nhưng rồi cũng vô hiệu.

(Không còn cách nào hơn thì phải hiểu là khỏi có những mục ngâm chân nước đá, đổ nước muối vô họng hay dùi cui đập gân bàn toạ mốt Ryumin.)

Chính Peresvetov cũng từng ở Trại Cải tạo, từng nếm mùi thẩm vấn thì hắn phải hiểu nếu Vaneyev lọt tay NKVD thì chắc chắn cậu sinh viên sẽ có dịp nếm nhiều ngón đòn để không còn cách nào hơn là cung khai ngay tất cả tài liệu Mấy ông Bộ trưởng của chúng ta nghĩ sao là ai!

Nhưng thôi, đặt vấn đề so sánh làm chi khi mỗi thời mỗi khác. Nếu một bác phu xe bò của thời Gogol không thể tưởng tượng nổi tốc lực siêu thanh của phản lực cơ thì dĩ nhiên những kẻ chưa từng húc đầu vào bộ máy nghiền thịt của các Trại Cải tạo làm sao hiểu nổi ý nghĩa đích thực của 2 chữ điều tra cũng như khả năng vô tận của kỹ thuật thẩm vấn!

Tờ Izvestiya ngày 24 tháng 4 năm 1959 có nêu gương anh dũng của nữ đồng chí Yulipa Rumyantseva, hai vợ chồng cùng nằm cát-xô trong trại giam Quốc xã. Chồng vượt ngục, vợ bị lôi ra điều tra để phăng ra manh mối, Yulipa biết nhưng nhất định không cung khai. Đó là tấm gương can đảm chói lọi, nhưng với những người không hiểu chuyện mà thôi! Với những người từng nếm đòn thẩm vấn NKVD, đấy chỉ là biểu hiện của một kỹ thuật điều tra chưa tới, Yulipa đâu có chết vì đòn tra tấn. Đâu có phát điên. Cỡ một tháng sau còn được trả tự do, mạnh khoẻ là khác!
°
Xin thú nhận ngay là cho đến tháng 2 năm 1945 tôi vẫn chưa có ý niệm gì về vụ bị điều tra, thẩm vấn cứ lì lợm, kiên quyết là chắc ăn. Không những còn lưu luyến dứt không ra với cuộc đời tự do vừa mất, tôi còn ngây ngô đến độ cứ bực bội mãi vì đã bị bắt mà còn lại "bắt" luôn khoảng một trăm cây viết chì Faber! Nằm trong trại Cải tạo nhớ lại hồi bị thẩm vấn tôi đâm ngượng cho mình quá mềm lòng quá vụng về dại dột. Đáng lẽ tôi phải chì hơn, nếu trong mấy tuần lễ đầu óc tôi không xáo trộn kịch liệt và tinh thần sa sút nặng. Điểm duy nhất mà tôi không lấy làm kiêu hãnh thì cũng không đến nỗi phải hối hận vì nhờ ơn Trời tôi không khai bậy để đến nỗi một người khác bị bắt oan. Chỉ chút xíu nữa thôi!

Số là mang tiếng sĩ quan chiến đấu ở tuyến đầu thật nhưng Nicolai V. và tôi quả thực bị vô tù chỉ vì một nguyên do tối ngu ngốc và trẻ con. Mỗi đứa đóng một nơi, thư từ viết qua lại đều đều chúng tôi còn lạ gì thời chiến chế độ kiểm duyệt thư từ vô cùng ngặt nghèo. Ấy vậy mà có uất ức, bực bội gì cứ xổ bừa ra giấy, khỏi che đậy quanh co. Phê bình, chỉ trích là thường. Dám đả động đến cả Lãnh tụ Vĩ đại dĩ nhiên bằng những ám chỉ, móc mói… Nào ông lớn muôn năm, nào tổ sư ăn cướp!

Trong các trại Cải tạo mỗi lần mang chuyện cũ ra kể anh em đều ngạc nhiên cười rũ. Nhiều người cả quyết ngu ngốc một cách ngây thơ như vậy quả là có một không hai. Chính tôi cũng tin nữa chớ. Nào ngờ có dịp đọc qua mớ tài liệu về vụ Alekxandr Ulyanov, anh ruột của Lênin mới hay chính người và các bạn đồng chí cũng bị vồ trong trường hợp in hệt. Nghĩa là cũng trao đổi thư từ khơi khơi và ngu ngốc như chúng tôi. Trớ trêu nhất là chỉ có thể vì vậy mà Hoàng đế Alexender Đệ tam thoát chết ngày 1 tháng 3 năm 1887! 25

Người phụ trách lấy cung tôi là thẩm vấn viên Yezepov. Văn phòng trần cao, rộng rãi sáng sủa và khung cửa sổ đồ sộ (trụ sở cửa Công ty Bảo kê mà). Phải có một căn phòng cỡ đó mới chứa nổi tấm hình vĩ đại của Lãnh tụ vĩ đại, một tấm hình chiều cao không dưới 5 mét, chiều ngang cỡ 4 mét. Đứng bên cạnh chân dung người tôi chỉ là một hạt cát, vậy mà dám phạm thượng! Lâu lâu thẩm vấn viên Yezepov còn đứng trước chân dung Lãnh tụ hét lên rằng: "Chúng ta sẵn sàng vì người mà hy sinh. Chúng tôi sẵn sàng vì người mà nằm ra chặn đường xe tăng giặc". Tấm chân dung người đồ sộ đến nỗi thốt nhiên tôi có cảm giác những giáo điều Lênin chân chính mà tôi vẫn nhai nhải lâu nay là cả một sự đáng thương và dám xúc phạm tới người thì tội tôi đành phải là tội chết.

Đúng tiêu chuẩn đang áp dụng thì chỉ cần đưa mấy lá thư ra buộc tội là chúng tôi đi tù chắc. Ông thẩm vấn viên không cần điều đó khăng khăng "nhận diện" những ai viết thư cho tôi và tôi gởi thư cho ai 26. Bọn trẻ chúng tôi viết thư cho nhau là thường quá và không mấy khi không bất mãn, chửi đời. Biết thư từ bị kiểm duyệt cũng thiếu gì cách xiên xỏ. Đó là lý do ông thẩm vấn viên cứ thế vặn hỏi: nếu gặp gỡ nhau thì tụi tôi thảo luận những gì, bộc lộ những gì và bộc lộ tư tưởng còn phản động tới đâu?

Dĩ nhiên bọn trẻ chúng tôi chỉ "thảo luận" bằng thơ với nhau cũng quá đủ, có cần gì phải hội họp? Phải thuyết phục, tránh né và chịu nhận một số lỗi lầm của tuổi trẻ thì ông thẩm vấn viên mới chịu buông tha để xoay qua câu hỏi khác.

Chiến thuật ruột của tôi đối diện ông thẩm vấn viên Yezepov là bắt buộc phải thòi ra một phần sự thực, nhìn nhận có thảo luận chính trị gay cấn lắm nhưng phải lo né tránh, chớ có đụng tới Hình luật. Tất cả phải tuôn ra một hơi đều đặn, không ấp úng cho phù hợp với tội trạng ngây thơ, ngờ nghệch và cốt yếu nhất là để ông thẩm vấn viên đầy kinh nghiệm và làm biếng chớ có sục sạo, chúi mũi vào đống tài liệu trong chiếc cạc-táp mà tôi xách kè kè từ mặt trận miền Tây về.

Đáng kể nhất là tập Nhật ký Chiến trường viết bút chì, nét nhỏ li ti chữ còn chữ mất. Tôi tập tọng vô nghề viết văn mà. Biết bao nhiêu chuyện xảy ra, gặp gỡ hàng ngày, đầu óc nào nhớ cho hết nên tôi ghi đại vô sổ tay! Có những chuyện rất tầm thường, không nghĩa lý gì ở ngoài chiến trường nhưng ở hậu phương lại là những đề tài phản động, đáng tống vô tù hết. Kẹt nhất là những mẩu chuyện tôi viết nhưng do đám bạn bè kể lạI, nếu ông Yezepov cứ thắc mắc đào bới mãi ắt sẽ không thiếu gì những thằng từ mặt trận miền Tây được đưa gấp vô trại Cải tạo! Mình tôi đành phải nhận hết, nhận tư tưởng lệch lạc, nhờ ông thẩm vấn chỉ điểm mới thấy và giác ngộ. Công việc đóng kịch vô cùng mệt mỏi, tôi cứ như người "đi trên lưỡi dao cạo" vậy.

Cho đến lúc không thấy thằng nào bị xách cổ vô đối chứng tôi mới yên chí mình không gây hoạ cho ai và như vậy là hồ sơ sắp kết thúc đến nơi. Đó là tháng Tư nằm trong Lubyanka và tôi vô cùng đau khổ khi được biết bao nhiêu giấy tờ, bản thảo - cả một công trình sáng tác và ghi chép của tôi - đều bị thảy vô lò thiêu hồ sơ của nhà lao. Tập Nhật ký Chiến trường lại đóng góp thêm một mồi lửa, một thiên chuyện mới của văn học Nga hiện đại được hoả thiêu để mớ tro tàn theo ống khói cao nghệu bay lên, nhả ra khắp bốn phương những đàn bươm bướm đen phất phới.

Bọn chúng tôi không lạ gì chiếc ống khói sừng sững trên lầu 6 mỗi lần được đi men theo vách tường cao đúng 3 đầu người vây quanh Lubyanka. Tai chúng tôi nghe lọt từng tiếng còi xe ngoài đời vọng vô nhưng tầm mắt bị giới hạn bởi ống khói lò thiêu, bởi vọng gác lầu 7 và bởi một mảnh trời đầy đoạ lãng đãng trôi ngang nhà lao.

Tàn tro than đâu mà nhiều thế? Chúng bay đen ngòm suốt một tháng Năm, tháng Năm đầu tiên của những ngày hoà bình trở lại. Điệu này bao nhiêu hồ sơ lưu trữ đã bao nhiêu năm của Lubyanka được hoả thiêu bằng hết chắc? Tập Nhật ký Chiến trường của tôi bất quá chỉ là hạt tro, hạt bụi! Tôi chợt nhớ lại vào một buổi sáng giá lạnh, buổi sáng tháng Ba ngồi trong văn phòng thẩm vấn để cung khai cho ông Yezepov lập hồ sơ, nghĩa là khai một đằng chép một nẻo. Ánh nắng vàng hắt vô, rọi tan lớp sương bám ngoài ô cửa sổ. Khuôn cửa sổ rộng thênh thang mà nhiều lúc tôi đã tính đâm đầu ra để thân xác được dịp "du hành chớp nhoáng" Mạc Tư Khoa, rớt từ lầu 5 xuống lề đường. Như hồi còn thơ ấu ở Rostov thấy ông phạm nhân nhảy từ lầu nhà lao 33 vậy.

Qua những "lổ hổng" của lớp sương đang tan trên khuôn cửa kính, những mái nhà Mạc Tư Khoa hiện ra mái thấp mái cao, bên trên lững lờ mấy cụm khói ấm. Tôi hướng về phía đó thật nhưng những hình ảnh hiện ra trong đầu óc lại là lớp lớp tài liệu, giấy tờ nằm chất đống cao như núi. Đúng, một núi giấy tờ nằm lù lù giữa căn phòng trơ trọi 36 mét vuông, giấy cũ giấy mới lẫn lộn chất bừa vào đó, chưa xem xét vội. Nào sổ tay, nào tập vở kẹp giấy vụng về, nào từng xấp có buộc dây, không buộc dây và những tờ rời la liệt. Đó "tinh hoa tư tưởng con người" dồn lại, đánh đống vùi sâu trong đó! Cao hơn buya-rô, che khuất ông thẩm vấn viên luôn.

Trong tôi bỗng nảy sinh một lòng thương kỳ lạ, thương cho một thằng nào đó đồng cảnh ngộ. Vừa bị đêm qua, bao nhiêu "tác phẩm" tịch thu hết mang về đây chất đống trong phòng Thẩm vấn, đặt dưới chân dung khổng lồ của Lãnh tụ vĩ đại. Nó là ai, những đứa con tinh thần của nó nói lên điều gì mà đến nỗi phải vô đây chịu tra tấn, chặt chân chặt tay rồi rốt cuộc cũng đến hoả thiêu hết.

Chao ôi, bao nhiêu tư tưởng, công trình cả một thời đại văn hoá có khi đành chịu đoạ đày trong lò lửa Lubyanka. Tàn than bay lên, bay cao lên… Niềm đau đớn nhất trong tôi là chắc chắn rồi đây bọn đàn em, con cháu chúng tôi lớn lên đâu chịu hiểu cho mà cứ tưởng cha anh chúng là một bầy ngu ngốc, câm nín đến không nói lên được một điều gì.
°
Năm 1920 Ilya Eheenburg được Cheka mời tới để nghe một câu: "Bây giờ anh làm sao chúng tôi tin là anh không chạy theo Wrangel đi". Ba mươi năm sau, năm 1950 đại tá Zheleznov (một trong những ông đại tá cừ khôi nhất của KGB) bảo thẳng những thằng bị bắt vô An ninh Quân đội: "Chúng tôi đâu cần mất công chứng minh cho can phạm thấy họ có tội? Chính họ phải làm sao cho chúng tôi tin họ không nuôi dưỡng tư tưởng phản động".

Ba mươi năm, hai điểm trùng hợp. Chỉ cần vạch một cái là có ngay một đường thẳng. Vô cùng giản dị nhưng cũng là con đường máu của bao nhiêu triệu con người.

Điều tra, thẩm vấn mà không cần chứng minh, lại buộc nạn nhân phải làm sao cho tin được thì quả là tối giản dị, tối cấp tốc xưa nay nhân loại chưa hề có! Khỏi cần bằng cớ mất công. Cơ quan còn tước bỏ của một thằng vừa bị mất tự do nhiều thứ quá. Không được mang theo người chút gì, cấm thư từ điện thoại nhắn tin. Cấm ngủ, cấm ăn, giấy bút không được xài, khuy nút không được cài, nạn nhân chỉ được quyền run rẩy, chơ vơ ngồi một mình trên chiếc ghế đẩu, đối diện ông thẩm vấn để cố đào bới óc chứng minh cho vị đại diện Cơ quan tin được là không hề nuôi dưỡng tư tưởng phản động. Nếu không tự tìm được bằng cớ (mà biết tìm ở đâu ra?) thì đành phải tưởng tượng đại ra một cái gì có thể làm bằng cớ được để tự buộc tội vậy).

Có ông già lụm cụm mỏi miệng chứng minh "Tôi vô tội" có bị quân Đức tống vô trại giam thật, nhưng nhất định không phản bội Tổ quốc. Không hề nuôi dưỡng ý tưởng đó! Ông thẩm vấn viên khổng lồ đâu chịu tin. Đành chịu tù vậy! Không tội cũng tù, bằng không tôi đâu có hân hạnh gặp ông cụ trong lao Byturky. Vấn đề là phải tìm ra một bằng cớ buộc tội nên thêm một ông thẩm vấn viên nữa tới tiếp sức. Hai ông bèn "quay" cụ già suốt một đêm bằng cách cả ba cùng ngồi lì! Nhưng sau đó hồ sơ được kết thúc bởi một ông thứ ba xuất hiện trên ghế thẩm vấn để hai ông trước biến thành hai nhân chứng đồng thanh xác nhận trong cuộc đàm đạo đêm vừa qua (đừng quên cụ già nhịn đói và bị cấm ngủ) chính ông già đã có những tư tưởng, luận điệu rặt mùi phản động. Vậy là 10 năm đi đày về tội tuyên truyền xách động chống nhà nước Xô Viết.

"Công tác" giản dị vậy, nên thẩm vấn viên đâu cần vận dụng kỹ thuật thẩm cung để phăng ra sự thực. Gặp ca rắc rối, cứng đầu thì họ kể như tập luyện làm đao phủ thủ mà gặp ca dễ dàng thì hiển nhiên ngồi chơi không lãnh lương nhà nước. Thiếu gì ca điều tra vô cùng dễ dàng, dù trong năm dữ 1937.

Như Boredko bị cáo tội 16 năm về trước lén sang Balan thăm bố mẹ không giấy thông hành. Khốn nạn, gọi là hai nước chớ cách nhau có 10 cây số, mà mãi năm 1921 Nga mới trích một phần đất cho sáp nhập vào Balan, vụ đó chỉ mấy ông ngoại giao biết với nhau chớ dân hai nước vẫn cứ tưởng một, đi lại lu bù mà. Những vi phạm luật lệ thì Borodko phải bị truy tố. Có điều cuộc thẩm cung quá dễ:

"Có vượt biên giới lậu sang Balan không?"

"Có."

"Bằng cái gì?"

"Đi ngựa. Như mọi người…"

"Vậy hả? Vậy thì 10 năm, chiếu Sắc luật KRD (tức tội có hoạt động phản cách mạng)."

Điều đau khổ là có phải những cuộc thẩm vấn cứ tiến hành mau lẹ, giản dị vậy đâu. Thẩm vấn viên NKVD đâu phải nông dân làm tập thể. Người có thẩm quyền kéo dài, dù Bộ Hình sự Tố tụng đã ấn định thời gian điều tra là 2 tháng. Nếu cần thì cứ xin triển hạn 1 tháng, bao nhiêu lần không được. Do đó tội gì phí sức, hao tổn tinh thần và tư cách, hiểu theo nghĩa Vyshinsky? Tuần lễ đầu sử dụng miệng và chân tay tối đa cũng thấm mệt lắm! Rút cuộc thông lệ của thẩm vấn viên Cơ quan là chớ có kết thúc hồ sơ trước hai tháng, nhất là những hồ sơ chính trị. Càng kéo dài càng đỡ phải nhận đồ mới, càng làm ra vẻ công tác khó khăn, đòi hỏi nhiều kiên nhẫn.

Dĩ nhiên Cơ quan biết điều đó. Đồng ý muốn làm thẩm vấn viên phải qua một thử thách chọc lọc gay go nhưng vẫn chẳng thể tin nổi. Đi về vẫn bắt buộc phải ký phiếu công tác, tất cả các phiên thẩm vấn đều phải vô sổ rõ ràng, điều tra từ mấy giờ tới mấy giờ. Nhưng thực tế ai cấm nổi ông thẩm vấn cho lệnh xách cổ thằng tù từ xà lim lên, nạt nộ phủ đầu rồi chỉ cho một chỗ bắt ngồi im để đọc sách báo, chép tài liệu học tập hay viết thư riêng. Thẩm vấn viên còn có quyền sang phòng bên tán gẫu với bồ bịch, giao tù lại cho lính canh hay ngồi bật ngửa trên đi-văng tiếp chuyện đồng nghiệp, nhưng không quên lâu lâu quay sang nạn nhân trợn mắt la lối!

"Mày đúng phản động. Mày sặc sụa mùi phản động. Không khai cho mau là có chầu lãnh 9 gam chì!"

Riêng ông thẩm vấn viên của tôi còn khoái xài điện thoại. Có lần hắn nhấc điện thoại gọi về nhà, dặn vợ bữa nay kẹt làm đêm sáng mai xong công tác mới được về, đừng chờ. Rõ ràng mắt hắn nhìn tôi sáng rỡ. Dĩ nhiên tim tôi nhảy loạn và đã lo ngại tối nay bị "công tác" là khổ với ông thẩm vấn viên. Bị hành hạ suốt đêm chắc! Bỗng nhiên ông thẩm vấn viên quay số mới và giọng nghe ngọt ngào quá: thì ra người có hẹn với mèo đêm nay. Tôi thở phào, đỡ khổ. Ít ra cũng được ngủ đêm nay!

Nguyên tắc thì cứng rắn nhưng thực tế một cuộc điều tra có thể hủ hoá như vậy đó. Tôi được biết có nhiều ông trong những phiên lấy cung bình thường (nghĩa là kéo dài ra cho có) đã thản nhiên nếu nhiều câu hỏi chẳng liên quan gì đến hồ sơ mà rõ ràng nhằm mở rộng tầm hiểu biết. Chẳng hạn như có thằng vừa ở tiền tuyến về thì hỏi dò tin chiến sự hoặc đặc điểm chiến xa giặc như thế nào (thẩm vấn viên đâu có thì giờ đi đánh xe tăng Đức!). Kẻ nào vừa ở hải ngoại về sẽ được chất vấn kỹ về phong tục, tập quán nước người mà đặc biệt có 2 địa hạt được săn đón nhất. Một là bên đó cửa tiệm thế nào, hàng hoá có những món gì lạ, giá cả thế nào. Hai là đàn bà, từ cách tổ chức làm ăn của các động chị em ta đến những mục ái tình với phụ nữ nước họ dễ hay khó.

Vậy mà theo bộ Hình luật Tố tụng thì các ông Ủy viên Công tố có nhiệm vụ phải theo dõi những cuộc thẩm vấn coi có hợp lệ hay vi luật! Sự thực thì suốt thời gian giam cứu chỉ được thấy mặt ông Tùy viên đúng một lần. Đó là lúc hồ sơ gần xong, đợi ông Tùy viên hỏi một vài câu lấy lệ.

Hồ sơ của tôi "lên" ông Trung tá Kotov. Dù gặp một lần làm sao tôi quên nổi ông sĩ quan béo tốt lạnh lùng không dữ mà cũng không lành nhưng bộ dạng vô cùng máy móc đó. Người ngồi sau buya-rô vừa ngáp vừa lần giở hồ sơ của tôi, theo dõi vấn đề trong mười lăm phút. Không lẽ chưa từng ghé mắt bao giờ nên người coi kỹ vậy. Sau khi duyệt xong, Trung tá Kotov mới ngó lên vách, lạnh lùng hỏi tôi… có cần khai thêm gì nữa không?

Theo pháp lý thì câu hỏi đó có nghĩa là khẩu cung có bị ép buộc, tôi có bị tra tấn gì không, nhưng quả thực một câu hỏi vô vị và cũ mèm! Thử hỏi cả mấy ngàn căn phòng của Bộ Nội An còn để làm gì nếu chẳng phải để thẩm vấn (và tra tấn) và trên toàn quốc ít nhất cũng có thêm năm ngàn phòng nữa đặc biệt chỉ để ép buộc hay ký cung. Không lẽ vì một mình tôi và một mình ông Trung tá Kotov mà lật ngược nổi tình hình. Bộ Nội An quả thực quá nhiều cấp tá như vậy, sẵn sàng cho ra những câu tương tự như vậy.

Tuy nhiên biết vậy mà được hỏi "có thắc mắc" gì không tôi vội vồ ngay lấy cơ hội để thưa là có. Tôi bị bắt cùng một vụ với một thằng bạn, mỗi thằng bị lấy cung một nơi, tôi ở Lubyanka và nó ở tiền tuyến. Như vậy trường hợp của tôi rõ ràng cá nhân chớ không thể quy tội phạm pháp có tổ chức, đồng lõa. Vậy xin ông Trung tá chớ ghép tôi vào khoản 10, điều 58.

Trung tá Kotov liếc lại hồ sơ cỡ 5 phút rồi ngó tôi, đưa cả hai tay ra phân bua:

"Có gì lạ? Một người là một. Hồ sơ này có 2 người vậy có tổ chức là đúng quá còn gì?"

Cứ như thái độ của Kotov thì tôi phải hiểu rằng một người rưỡi cũng rõ ràng là phe nhóm. Còn dám nói gì khi người lạnh lùng đưa tay nhận chuông, ngoắc lính gác áp tải tôi trở xuống xà lim?

Thế rồi mãi cho đến cuối tháng Năm, một buổi chiều tối tôi mới được kêu lên văn phòng có chiếc đồng hồ vỏ đồng đặt trên mặt lò sưởi đá hoa cương để cùng ông thẩm vấn làm cho xong thủ tục 206. Cũng theo Hình sự Tố tụng đây là thủ tục cuối cùng trước khi ký tên lần chót. Dĩ nhiên thẩm vấn viên phải tin chắc là thế nào tội cũng ký nên đã ngồi sẵn sau buya-rô, nắn nót viết cho xong mấy hàng sau cùng.

Tôi tự tay lật hồ sơ, chồng hồ sơ dày cộm mà ngay ở bìa trong rành rành mấy hàng chữ in, đại khái xác nhận người khai cung có quyền viết ra khiếu nại về một điểm cho là không đúng ở trong bản cung mà thẩm vấn viên phải ghim theo trong hồ sơ. Ngay lúc lấy cung chớ không phải khi lập xong.

(Cả ngàn bạn tù của tôi có người nào biết được vụ này!)

Coi tiếp vô trong tôi thấy nhiều bản chụp những bức thư của tôi, kèm theo có lời giải thích hoàn toàn xuyên tạc của những ông nào đó. Thẩm vấn viên Yezepov cũng "gói ghém" bản cung bằng cả một sự dối láo. Tôi vẫn cứ bị kết án cùng cả tổ chức, phe nhóm!

"Tôi không ký…"

Tôi nói rõ vậy nhưng sau đó ấp úng thêm, không lấy gì làm mạnh dạn lắm:

"… Ông tiến hành và lập cung này không đúng cách!"

"Vậy hả? Vậy thì làm lại đúng cách… Làm lại từ đầu…"

Cặp môi đại úy Yezepov mím lại một cách ma mãnh:

"Được, để tôi cho anh xuống ở chung chỗ với bọn mật thám Đức là xong."

Vừa nói hắn còn chìa tay ra như muốn lấy lại hồ sơ lập tức. Làm tôi phải giữ lại…

Ngoài kia, ngoài cửa sổ lầu 5 nhà lao Lubyanka đang hấp hối những tia nắng chiều. Trời tháng Năm rồi. Nhưng cửa sổ kín như bưng, làm như muốn khép kín hẳn thế giới bên ngoài đối với những thằng đang nằm khám. Không cho phép hưởng tí hương vị mùa xuân. Chỉ nghe tiếng đồng hồ gõ, không đủ ánh sáng nhìn giờ.

"Làm lại từ đầu." Ôi chao, làm lại thì chết sướng hơn. Thà muốn tới đâu thì tới. Mà ở chung chỗ với bọn mật thám Đức coi bộ nguy. Bấy giờ lên tiếng hỏi lạng quạng chắc chắn Yezepov chỉ bực mình, hắn đang viết đoạn chót của cung từ thì khổ mình lắm.

Vậy là tôi ký cung. Ký nguyên vẹn bản cung, kể cả khoản 11 mà hồi đó tôi chẳng biết gì. Chỉ nghe họ biểu: "Có sao đâu? Chẳng vì vậy mà nặng thêm!". Chao ôi là khoản 11, té ra chỉ vì nó mà tôi bị tống vô một trại Cải tạo khổ sai. Chỉ vì nó mà ở hết án được trả tự do, không bị kết án thêm mà tôi đành phải an trí chung thân!

Nhưng biết đâu chừng vì vậy hoá hay. Không lãnh đủ hai vụ trên thì làm gì có cuốn truyện này.
°
Xét vì tôi được "điều tra" bằng những phương pháp hoàn toàn hợp lệ - chẳng có gì ngoài mục cấm ngủ, nạt nộ, gạt gẫm nên trong lúc làm thủ tục 206 tôi không cần phải ký thêm tờ cam kết giữ bí mật. Trường hợp có những chuyện "rắc rối" thẩm vấn viên bao giờ cũng phải lo thủ trước bằng cách bắt bị can phải ký vào tờ cam kết không tiết lộ với ai những phương pháp thẩm vấn của Cơ quan, bằng không sẽ can tội đại hình.

Không hiểu tờ cam kết này nằm trong khoản nào, điều nào của Bộ Hình Luật?

Tờ "cam kết không tiết lộ" thường được NKVD chìa vào mặt bị can trong lúc ký cung lần chót đã đành. Sau này ra khỏi trại Cải tạo lại phải cam kết lần nữa, tiết lộ những chuyện trong trại cũng lãnh án Đại hình. Như vậy đó!

Như vậy là sử dụng luật "găng-tơ", buộc con người phải câm họng còn gì? Như vậy mà chúng tôi không được phép chống lại, không được phép oán hờn. Mà cũng chịu được. Chỉ vì quen gật đầu tuân lệnh, xương sống mềm oặt rồi.

Chúng tôi đã mất ý niệm tự do, không có cách nào để thể hiện tự do. Như thế nào, tới mức nào… chúng tôi không có máu Á Đông. Bị chèn ép, đòi hỏi cam kết giữ bí mật mãi cũng nhắm mắt chấp nhận cho xong. E rằng mình giờ này cũng vẫn bị ràng buộc, không được quyền kể lại chính cuộc đời mình cũng nên.
--------------------------------
1
Theo lời nhân chứng A.P.K. thuật lại với bác sĩ S.
2
Muốn biết rõ từng chi tiết về nội dung vụ án Koryrev này hãy đọc nơi chương 8.
3
Hồ sơ này tôi đã được nghe A.A. Akhmavova thuật lại và cam đoan là ngụy tạo. Vì chính nhân vật đã dựng lên "vở kịch" từ đầu tới cuối là một cán bộ Cheka tên y Agranov.
4
SAPROPELITE là một tiểu bang gồm một số chuyên viên năm 1920 chủ trương phải khai thác để tận dụng hơi Sapropel ở dưới đáy hồ để làm nhiên liệu thiên nhiên.
5
Hội đồng Đặc biệt mang tên OSO địa phương nào cũng có, trực thuộc Bộ Nội An, gồm 3 người được lập ra với thẩm quyền rộng rãi là xét hồ sơ cho đi đày không cần xét xử những phần tử mệnh danh "có thể nguy hiểm cho xã hội". Năm 1953 tất cả các Hội đồng Đặc biệt đều bị hủy bỏ.
6
Feliks E. Dzerzhimsky (1877-1926), cán bộ cao cấp, người đầu tiên chỉ huy Cheka tiền thân của GPU, OGPU. Sau này được đồng chí Menzinsky thay thế.
7
Theo hồi ký của Ginzburg thì các biện pháp "khai thác mạnh" được phép sử dụng từ tháng 4 năm 1938. Riêng Shalamôv lại ghi nhận chỉ được phép tra tấn từ giữa năm 1938. Một tù già tên M. xác nhận là có lệnh "giản dị hoá" việc hỏi cung chuyển từ các phương pháp tâm lý sang các phương pháp "cụ thể". Trong khi đó Ivanôv - Razumik chỉ chép lại rằng khoảng giữa (1938 là thời kỳ của "những cuộc thẩm vấn tàn ác".
8
Theo tôi hồi đó chính bản thân Vyshinsky cũng như mấy người có mặt lúc tuyên án đều chỉ muốn "núp áo" lý thuyết vậy thôi. Khi đứng bật dậy trên ghế Chưởng lý hét lớn: "Phải triệt hạ hết, bắn bỏ hết bọn chúng như một bầy chó điên!" thì một người vừa độc ác vừa có phản ứng lẹ làng như Vyshinsky ít nhất hắn phải hiểu đám bị cáo đều vô tội. Dù sao thì ông Chưởng lý vẫn khoái làm một thứ lý thuyết gia hơn là một quân vô dụng thông thường chớ?
9
Đem so sánh với Tu chính án thứ 5 của Bản Hiến pháp Hoa Kỳ thì quả là một sự trớ trêu: "không ai có quyền bắt buộc ai, trong một vụ hình án, phải làm nhân chứng để tự buộc tội". Nói cách khác thì không ai có quyền bắt buộc bị can phải làm tờ tự thú. Ôi chao,bắt buộc mà thôi ư?
Cũng nên nói rõ là Bản Tuyên ngôn Nhân quyền từ thế kỷ thứ XVII cũng mang nội dung tương tự.
Căn cứ theo nhận định của dân tù cũ thì cả nước Nga có hai "lò" tra tấn dữ hơn cả : đó là các cơ sở Rostov và Krasnodar. Ở hai nơi đó các thẩm vấn viên nổi tiếng "nặng tay". Tuy nhiên đây chỉ là tin đồn, thiếu bằng cớ cụ thể
Ngay dưới triều đại Nga hoàng khắt khe là thế mà họ hàng bà con gần của bị can còn có quyền không ký tên làm chứng. Cho dù có lữo hay buộc phải ký tên, họ vẫn có quyền chối bỏ, không bằng lòng cho xuất trình những tờ chứng đó trước Toà. Điều đáng ghi nhớ là tù tư pháp lại không hề gây khó khăn cho họ hàng, bạn bè về phương diện ký tên làm chứng.
Sau thời kỳ "sửa sai", chính Korneyeva xác nhận : "Mười một năm sau, được minh oan và toà cho phép đọc lại những lời khai của mình hồi đó, rõ ràng tôi có cảm giác ghê tởm, buồn nôn. Tôi chẳng thấy chút gì gọi là vinh dự". Riêng phần tôi cũng được phép đọc lại phần trích dẫn lời khai của mình hồi đó tôi cũng buồn nôn. Tục ngữ có câu : "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài" bị đổ vào khuôn mình ắt thành con người khác mà chính mình nhận cũng không ra. Tuy nhiên tôi vẫn không hiểu tại sao hồi đó mình có thể đặt bút ký vào những lời khai như vậy mà còn cảm thấy cũng may mà hồi đó mình thoát nạn!
Dĩ nhiên chỉ sa mạc Mông Cổ mới thích hợp cho lối nhốt tù và canh gác đặc biệt này. Tạp chí NIVA số ra ngày 15.3.1914, trang 218 cũng đăng một bức phóng hoạ Mông Cổ. Một nhà tù có lính gác đi tuần canh, với cả dãy "huyệt" tù nhân. Mỗi huyệt chỉ chừa một lỗ hổng đủ để tù nhân thò dầu lên hay lính gác liệng thức ăn xuống.
Trường hợp này cũng giống như một người ngoại quốc bị thảy trước mắt một tờ cung đặc nghẹt chữ Nga. Có người gốc Đức tên Jupp Aschenbrenner đặt bút ký dưới bản cung từ, thú nhận hồi chiến tranh có lái những xe chở hơi độc nên bị đưa đi đảo. Mãi đến 1954 hắn còn nằm trong Trại Cải tạovà mới kiếm đủ những từ xác nhận thời gian đó hắn không tham dự chiến tranh gì hết mà còn đi học để làm thợ hàn điện. Cung từ tiếng Nga, thẩm vấn viên bảo ký thì hắn ký vậy thôi.
Nguyên văn lời kể của nhân chứng B.M., tôi phải để tên tắt vì tạm thời còn phải đảm bảo an ninh cho đương sự.
Sự thực nhân tiện nhắc tới Ủy ban Thanh tra vậy thôi vì Ủy ban chỉ hiện diện trên giấy tờ, xưa nay chưa hề có một đoàn Thanh tra nào đi tới khám đường hết. Câu chuyện sau đây là một minh chứng hùng hồn: Năm 1953 sau đợt sửa sai, một phái đoàn Thanh tra THỰC SỰ đã thực sự đi thanh tra một số trại giam. Phái đoàn gặp ông nguyên Bộ trưởng Nội An Abakumov đang nằm trong một cát-xô. Được cho biết có phái đoàn thanh tra sắp vô, ông nguyên Bộ trưởng cười ngặt nghẽo nhất định cho đây là một "đòn phép" để lung lạc tinh thần.
Bí thư Tỉnh Đảng bộ Karelis là Kủpinayov bị bắt năm 1949 cũng từng nếm đòn nhổ răng của GPU. Những chiếc răng thật bị nhổ bật ra không nói, ông Bí thư còn một số răng vàng cũng bị tịch thâu luôn có trao giấy biên nhận đàng hoàng. Tuy nhiên giấy biên nhận cũng bị tịch thâu luôn thì chẳng thể căn cứ vào một cái gì để đòi lại răng!
Bản thuyết trình cũ của Chưởng lý Krylenko, trang 16 có ghi nhận một sự kiện sau : "Năm 1918, Toà án Cách mạng Mạc Tư Khoa đã lên án tên cai ngục ác ôn của chế độ Nga hoàng tên Bondar". Cáo trạng ghi rõ hắn thường hành hạ tù nhân mà độc ác nhất là "trong một trường hợp, hắn đã đánh một chính trị phạm mạnh đến độ bị rách màng nhĩ trong tai".
Phàm những ai đã sống ít lâu ở Nga, hiểu thế nào là bầu không khí ngờ vực, nghi hoặc đều hiểu tại sao không thể nào hỏi được một Bộ Hình Luật ở trước Toà nhân dân hay trụ sở Ủy ban quận. Hỏi tới là bị nhòm ngó tức khắc : Anh tìm sách luật để làm gì nếu chẳng phải sửa soạn làm một cú bất lương hay tính che đậy một tội gì đây.
Thời kỳ giam cứu ở Lugansk thông thường từ 8 tới 10 tháng. Anh bị câu lưu "tạm" ở đây nói thống chế Voroshilov cũng từng nằm ở đây một vài tháng nhưng tin này chưa thể kiểm chứng.
Khám tạm Byturky có bao giờ không nghẹt người? Năm 1938 đông đến nỗi lấy cung xong còn phải ngồi cả tuần ngoài hành lang trên bục thang đợi xe chở bớt đi mới có chỗ nằm trong xà lim. Năm 1931 đã phải nằm dưới sàn xi măng, hết chỗ trống trên bục. Năm 1945 chính tôi nằm Byturki cũng nằm đất vậy. Nhưng đông nhất có lẽ vào tháng 10 năm 1918 giữa đợt Khủng Bố Đỏ; theo lời nhân chứng M.K.B. xà lim, hành lang hết chỗ chứa cầu rửa phải ngăn ra để nhốt đỡ 70 nữ phạm nhân!
Thêm một chi tiết : Si Potapov kể lại năm 1948 ở khám Vladimir có những cát-xô vuông mỗi chiều 3 mét phải nhét 30 mạng tù đứng.Vậy mà cũng vừa!
Sự thực thì Lữ đoàn trưởng Pintsov có đưa đơn vị xe tăng của ông ta về diễn binh ở Mạc Tư Khoa nhưng phản loạn thì không. Tuy nhiên vẫn cứ bị bắt như thường và sau khi chịu đủ mọi cực hình đành lãnh 10 năm đi đày Trại Cải tạo theo SL/OSO. Sĩ quan cao cấp có chiến công như Pintsov cũng vẫn bị, làm nhiều chiến sĩ đâm rét.
Sự thực Alexander D. từng bị cấm ngủ một tháng ròng nhưng vẫn cố đứng nổi được vì đương sự đã phát minh ra lối "ngủ đứng".
Sự dễ dãi trong việc thẩm vấn, cung khai hồi đó (cũng như vụ Bukharin nhiều năm sau) có lẽ nguyên do vì thẩm vấn viên cũng như bị can đều cùng giai cấp, đồng đẳng về phương diện xã hội. Người có bổn phận thẩm vấn thì người khai cung cũng mau mắn, thực lòng để cùng hoàn thành cung từ tốt đẹp.
Trong nhóm Ulyanov có một người tên Andreyuskin nhè viết thư cho một người bạn ở Khrakov, nguyên văn như sau: "Tôi vững tin rằng chúng tôi sẽ cho mọi người thấy một sự khủng bố ghê gớm nhất, trong một ngày gần đây thôi. Khủng bố Đỏ là nghề tay trái của tôi… Hiện tôi đang lo cho một thằng bạn. Nếu nó bị thì tôi cũng có thể bị vậy và quả là tai hoạ vì tôi sẽ kéo vô theo cả đám đang làm rất đắc lực…". Không phải đây là lần đầu một lá thư hớ hênh như vậy bị tiết lộ. Vậy mà Mật vụ Nga hoàng ở Kharlov cũng phải mất 5 tuần lễ điều tra coi thằng nào ở Petersburg là tác giả lá thư trên. Mãi đến ngày 18 tháng 2 mới dò ra Andeyushkin thì ngày 1 tháng 3 Mật vụ Petersburg bắt dính tại trận mấy kẻ khủng bố đang vác bom đi trên đại lộ Ncasky Prospekt, toan tới địa điểm, mưu sát Nga hoàng Alexander Đệ Tam.
Một gã bạn học chút xíu nữa kẹt chỉ vì chúng tôi vô tình nhắc đến tên hắn trong thư. Được biết hắn không bị, tôi thành thực mừng quá! Nào ngờ 22 năm sau, ông bạn quý gởi thư trách móc, phê phán mấy cuốn sách của tôi, cho rằng tôi sáng tác một chiều như vậy rõ ràng là bù nhìn phản động của phe Tây phương. Hắn nhấn mạnh nếu đọc những sáng tác của tôi, chính Lênin mà tôi vẫn ngưỡng mộ và cả Marx lẫn Angels nữa cũng sẽ lên án tôi thẳng tay. Sự thực tôi không buồn vì những lời chỉ trích của ông bạn mà chỉ tiếc rằng 22 năm trước hắn không có dịp vô, bằng không tư tưởng hắn sẽ đổi khác.

4. MẬT VỤ MŨ XANH


Có sự thực sau đây phải nhìn nhận đã lọt vô cái cơ sở khổng lồ chuyên bắt người đêm, chịu đút đầu vô guồng máy điều tra, thẩm vấn thì tránh sao khỏi tinh thần bị nghiền nát ra tro bụi và xác thịt tơi tử như bị thằng ăn mày. Chịu đựng đau khổ rã rời, chìm đắm trong cơn đau thương của chính mình như vậy thì còn lấy đâu ra sáng suốt tỉnh táo để nhận diện cho rõ ràng để viết về những tên đao phủ mặt trắng nhợt nhạt từng xuống tay hành hạ mình? Niềm đau khổ nội tâm đủ dâng lên ngâp ngụa, khuất lấp cả mắt bằng không thì còn ai nhận diện những ông Mật vụ chính xác cho bằng chúng tôi? Để các đương sự tự hoạ thì dĩ nhiên phải sai lệch rồi! 


Chao ôi, trong cuộc đời tù tội ai mà quên nổi thời gian bị điều tra, thẩm vấn? Nhớ không sót một chi tiết. Nhớ bị nộ nạt, dồn ép như điên chỉ cốt để bật ra một bản tự thú, một chữ ký. Trái lại, ngay tên ông thẩm vấn viên là gì, mấy ai nhớ nổi. Có coi họ là con người bao giờ? 



Tôi cũng vậy. Bạn tù biết bao nhiêu đứa, nhưng vẫn nhớ. Có điều gì đặc sắc còn nhớ kỹ. Dĩ nhiên nhớ hơn ông Đại úy Nội An Yezepov, mặc dù từng gặp gỡ, hội diện quá nhiều lần. 



Chỉ có một điểm ai cũng nhận thấy và không bao giờ quên nổi là bầu không khí thối tha trong một nơi cực kỳ hôi tanh. Mấy chục năm qua rồi, bao nhiêu giận dữ hờn oán lắng xuống hết cho tâm hồn bình thản, mà mỗi lần gợi nhớ lại vẫn cứ thấy một cảm giác nhơ nhuốc, thấp hèn nơi những con người xấu xa, đồi bại, gần như điên khùng. 



Ngày xưa Hoàng đế Alexander Đệ nhị từng nhiều phen bị mưu sát, bọn Cách mạng âm mưu lấy mạng người tới 7 lần kia mà. Một hôm người đi thăm khám tạm Shpalernaya - cha chú của Trung ương khám đường ngày nay và truyền lệnh cho đám quan hộ giá thử nhốt người vào cát-xô số 227 cho biết mùi vị biệt giam như thế nào. Người tình nguyện nằm cát-xô một giờ đồng hồ chỉ cốt để tìm hiểu cảm giác của những kẻ từng bị người tống vô cát-xô. Dù sao cũng không thể chối cãi nhà vua đã tự làm một thí nghiệm, lấy bản thân mình tìm hiểu vấn đề. 



Nhưng mấy ông thẩm vấn viên sức mấy dám. Từ cán bộ hạng chót tới các ông lớn cỡ Abakumov, Beria có ông nào dám thử đóng vai thằng tù trong một giờ, chịu thử nằm cát-xô suy ngẫm bao giờ? 



Nghề của họ là một nghề đặc biệt, không cần giáo dục hay văn hoá. Hai thứ đó không có. Nghề của họ không đòi hỏi lý luận, suy nghĩ sâu xa. Họ không suy nghĩ. Nghề của họ chỉ cần nhắm mắt thi hành chỉ thị và đánh đập, hành hạ không nương tay. Quả thực họ đã làm đúng vậy. Nhân danh những người từng lọt vào tay họ, chúng tôi quả thực đã nghẹt thở mỗi khi nhớ tới đám người vô hồn, không tim chối bỏ hết tình cảm con người. 



Người ngoài có thể không hay nhưng dân trong nghề như họ làm gì chẳng biết bộ máy chế tạo, dựng đứng ra hồ sơ? Trừ những phiên khai hội, hiển nhiên họ chẳng thể nghĩ, chẳng thể bảo nhau là công tác của họ nhằm điều tra cho ra những thằng trọng phạm! Nhưng nghề nghiệp của họ là ngày này sang ngày khác, hết trang này sang trang khác chế tạo ra những hồ sơ phạm tội. Nghề nghiệp của họ bản chất quả không khác bọn trộm cướp, lưu manh hạng bét là bọn blatnye mà khẩu hiệu ruột là: "Nay anh mai tôi, chúng ta như nhau". 



Họ biết là nghề của họ quanh năm chế tạo, nhưng làm thì họ vẫn làm. Muốn làm thì một là họ tự bắt buộc phải không suy nghĩ (dù làm người mà không suy nghĩ là chối bỏ quyền làm người), hai là chấp nhận như một chuyện bắt buộc phải làm, cấp trên của họ đã cho chỉ thị là phải đúng. 



Thì bọn Quốc xã cũng đã từng lý luận như vậy 1



Có người làm chỉ vì Đảng, vì lý thuyết Sắt Đá. Chẳng hạn như ông thẩm vấn viên ở Orotukan bị hạ tầng công tác, đổi đi Kolyma năm 1938. Thấy gã phạm nhân tên Lurye, nguyên Giám đốc Khu Kỹ nghệ Krivoi Rog ngoan ngoãn ký cung (dù biết ký là lãnh án đi đày lần nữa) hắn cũng lấy làm xúc động bảo rằng: "Mấy anh tưởng tụi tôi khoái làm công việc thuyết phục này lắm sao? 2 Đảng ra lệnh thì tụi tôi phải chấp hành. Anh cũng từng là đảng viên. Ở địa vị tôi chắc anh cũng chẳng thể làm gì khác!". 



Mặc nhiên Lurye đồng ý với hắn. Nếu không nghĩ như vậy đã không may mắn ký cung nhận tội. Thà rằng vì Đảng! 



Đa số các thẩm vấn viên làm việc vì muốn làm công việc dữ dằn đó. Là Mật vụ mũ xanh họ còn lạ gì công việc của guồng máy nghiến thịt người? Họ thích làm. Trong trại Dzhida năm 1944, điều tra viên Mironenko hãnh diện giải thích cho phạm nhân Babich: 



"Cho anh hay một điều: Có toà xử là phải có điều tra, lấy cung. Hình thức đặt ra là vậy chớ thực sự có ăn nhằm gì? Tất cả đã được quyết định sẵn cả rồi. Nếu cần phải bắn anh thì anh vô tội anh cũng bị bắn như thường. Nếu cần phải miễn tố anh thì dù có bao nhiêu tội họ cũng gạt bỏ cái một để anh trắng án (dĩ nhiên trường hợp sau chỉ áp dụng đối với đảng viên)". 



Kusnharyev, Chánh Sở 1 Điều tra Ty Nội An tỉnh Kazakhstan miền Tây cũng đã giải thích in hệt cho phạm nhân Adolf Tsivilko: 



"Cho anh hay, giả thử anh thuộc nhóm Leningrad thì chúng tôi chẳng thể cho anh ra, với bất cứ giá nào." 3 



Khẩu hiệu ruột của cán bộ điều tra là: Hãy gởi một thế giới tới, chúng tôi sẽ làm ra tội! Họ nói đùa như vậy nhưng họ tra tấn thật vì họ cho rằng làm vậy là được việc. Bằng không bà vợ ông Nicolai Grabishehenko, điều tra viên trong Cơ quan Sông đào Volga đã chẳng khoe với hàng xóm láng giềng: 



"Nhà tôi làm việc cừ lắm. Có một thằng cứng đầu ghê gớm, ai hỏi cũng không khai. Giao cho nhà tôi chỉ một đêm, một đêm thôi là có bản tự thú liền". 



Tại sao bọn họ lại nhảy vô, sẵn sàng hăng hái tra tấn, không phải để phăng ra một sự thực mà chỉ đóng góp thêm vào guồng máy chế tạo ra tội. Vì lợi, vì chủ trương "ai sao ta vậy", tốt hơn hết là cứ hăng say đóng góp vào việc chế tạo như mọi người thì đời sống no đủ, phụ cấp nhiều, có tiền thưởng và huy chương rồi lên chức. Cơ quan bành trướng, mở mang nhiều mà. Nếu làm được nhiều việc, hăng say đóng góp với mọi người cho guồng máy điều tra chạy đều thì óc quyền tự ý đến sở công tác hay đi chơi cũng cứ được. Nhưng không được việc sẽ bị đẩy ra khỏi Cơ quan, bị bể nồi cơm chắc. Cơ quan phải chế tạo đến mức tối đa vì Lãnh tụ vốn đa nghi, nhất định cho rằng chỗ nào cũng phải có kẻ thù. Ở cấp quận, cấp tỉnh hay trong một đơn vị quân đội không bao giờ hết kẻ thù. 



Lãnh tụ đã muốn vậy nhè lọt vô tay Mật vụ mũ xanh còn giở trò cứng đầu không chịu cung khai thì những thằng tù bướng bỉnh chỉ có chết với các điều tra viên. Bao nhiêu hận thù, bực bội sẽ trút lên đầu những thằng không chịu chấp nhận thân phận như những người khác, những thằng bị biệt giam, nhịn ăn, nhịn ngủ vẫn không chịu đầu hàng. Cứng đầu vậy khác nào đe doạ địa vị, nồi cơm của thẩm vấn viên. Bắt buộc phải hạ cho bằng được nên còn ngần ngại gì không ra đòn? Thằng nào muốn chống cho nó chống. Để coi ai chết! Nó muốn chống thì nhét ống vô mồm, cho nó một bụng nước muối.

°
Khi đã chấp nhận làm công tác chế tạo ra tội bằng mọi thủ đoạn điều tra viên đã tự ý tách rời khỏi khối người có tình cảm bên trên để tự hạ xuống khối người thấp kém bên dưới. Nơi đó họ hăm hở, hăng say công tác như được "thuốc", được thúc đẩy bằng hai bản năng đặc biệt của khối người thấp kém, những người chỉ hai mục bao tử và đàn bà. Đó là thú tính: thèm quyền thèm tiền (khoảng vài chục năm trở lại đây khát vọng quyền thế đã lấn lướt hẳn tiền bạc). 


Từ bao nhiêu ngàn năm nay con người đã biết quyền hành là thuốc độc. Chuốc lấy chỉ có chết, có ai đè đầu cưỡi cổ người khác được mãi bao giờ! Con người có ý thức, sớm biết bên trên chúng ta có một thứ quyền chế ngự, chi phối mọi thứ quyền khác để tự giới hạn mình thì có quyền vẫn chưa đến nỗi chết. Những kẻ thấp kém ở khối người bên dưới chỉ biết đến quyền hành thì chỉ có chết. Hết thuốc chữa. 



Khát vọng quyền thế đã được văn hào Tolstoy cực tả qua vai trò Ivan Ilyich, con người đã chấp nhận một địa vi có quyền sinh sát bất cứ một ai. Không một ai thoát khỏi quyền thế mà Ivan nắm vững trong tay. Kẻ có quyền nhất đưa đến trước mặt hắn vẫn là có tội. 



(Còn ai, ngoài các ông Mật vụ mũ xanh! Đâu cần phải thêm thắt chi tiết gì.) 



Với nhân vật Ivan Ilyich thì chính ý thức nắm quyền hành là tha hồ sinh sát, đã quyến rũ hắn nhất, được hắn chú trọng nhất (mấy ông Mũ xanh thì chỉ có sát). Nói quyến rũ không đủ nghĩa. Phải nói là đầu độc mới đúng. Vì con người bị quyền thếđầu độc thực sự. 



Chẳng hạn như anh là một thanh niên đầy triển vọng, cha mẹ biết chọn con đường nào lập thân cho thích hợp. Anh không muốn tiến thân bằng học vấn. Anh chọn con đường tắt, chạy theo nghề đó. Có 3 năm thôi, thời gian qua mau và anh "lên" cũng lẹ. Ra nghề là cuộc đời anh thay đổi hẳn: thay đổi nếp sống đã đành mà từ cử chỉ, ánh mắt cho đến cái gật đầu cũng khác hẳn ngày nào! 



Có một phiên họp của các nhà khoa học. Thấy mặt anh bước vô, thiên hạ run hết. Có ghế chủ tịch, nhưng anh ngồi vô đó làm chi cho đau đầu? Hãy để ông Viện trưởng lãnh đủ! Anh ngồi né một bên nhưng ai cũng hiểu anh mạnh nhất. Giáo sư đoàn thua xa. Anh là người của Cơ quan mà. Anh chỉ cần tham dự cỡ 5 phút, để mặc họ họp bàn với nhau. Nhưng sau cùng anh vẫn có quyền mím môi, lắc đầu bác bỏ, bằng cách bảo ông Viện trưởng rằng: "Cái vụ này sợ không được. Sau này nhiều chuyện lôi thôi lắm!" Dĩ nhiên người của Cơ quan cho hay có chuyện lôi thôi thì quyết định gì cũng bỏ hết! 



Nếu anh ở trường ra vô nhà binh, làm An ninh Quân đội (tức OSO) hay làm Phản gián (tức Smersh) thì sẽ mang lon Trung úy là cùng. Là đại diện của Cơ quan thì ngay cái lon của anh - hai ngôi sao nhỏ tí xíu - có thể kể như đeo chơi. Vì hai ngôi sao đó nặng thiệt, các lon nhà binh khác đâu sánh nổi? Anh muốn đeo lon Thiếu tá cũng dễ như chơi, chiếu nhu cầu công vụ. 



Bằng không, ông Đại tá đơn vị trưởng đã chẳng né anh rồi! Đôi khi còn nịnh bợ, xun xoe là khác. Thấy mặt anh là thằng cha già Đại tá luôn luôn đứng dậy, có muốn bao gã Tham mưu trưởng một chầu nhậu cũng phải có mặt ông Trung úy Smersh. Đồng ý anh lon nhỏ, nhưng anh mạnh nhất, thế lực nhất. Ở công xưởng hay ở chi bộ Đảng một quận người của Mật vụ bao giờ chẳng đứng trên quản đốc, bí thư? 



Vì chỉ huy trưởng hay giám đốc công xưởng, mấy người đó bất quá chỉ có nhiệm vụ kiểm soát thuộc viên, đề nghị lên lương, lên lon cho nhân viên dưới quyền. Còn anh, anh kiểm soát, anh nắm trong tay sự tự do của đoàn thể nhân dân mà. Hội họp chẳng ai dám nói với anh, viết báo cũng chẳng ai dám đả động tới anh. Bới xấu đã đành không dám nhưng bốc thơm cũng không nữa! 



Vì đã có chân trong Cơ quan thì tên anh cũng là một thứ úy kỵ. Chớ ai nhắc tới! Cũng như anh có mặt vẫn phải coi như không. Đã đội chiếc Mũ xanh anh có quyền cao hơn những cấp thẩm quyền nổi: có đứa nào dám xía vô công tác của anh? Còn nói gì tới đám thường dân kể như những khúc củi. Anh có quyền vậy vì anh nằm trong Cơ quan. Người của Cơ quanphải có đặc quyền và do đó, làm cái gì cũng đúng hết! 



Tuy nhiên anh chớ quen điều này: thân phận anh cũng sẽ chỉ là một khúc củi như bất cứ thằng nào nếu anh không phảingười của Cơ quan, một bộ phận nhỏ nhoi nào đó trong guồng máy vĩ đại bám cứng vào đất nước này, sống trên lưng đất nước này như loài sán đóng đô trong cơ thể con người. 



Đã có diễm phúc vậy thì anh sẽ có đủ mọi thứ, cái gì cũng sẽ về anh hết. Miễn anh phải trung thành với Cơ quan. 



Nhắm mắt trung thành thì Cơ quan bao giờ chẳng che chở cho anh, san bằng chướng ngại, tiêu diệt kẻ thù giùm anh. Vấn đề là phải trung thành tuyệt đối, chấp hành chỉ thị cũng tuyệt đối. Miễn suy nghĩ vì đã có Cơ quan suy nghĩ giùm anh trong bất cứ công tác nào cắt cử anh đi. 



Hôm nay anh nằm Đặc vụ, mai anh có thể ngồi ghế điều tra viên. Hay được cử sang công tác tuốt bên hồ Seliger dưới lốt một nhà nghiên cứu phong tục, tập quán, mà cũng có thể chỉ để xả hơi. Đang hoạt động nhẵn mặt ở tỉnh có thể được cử về quê để làm một thứ đại diện thẩm quyền phụ trách Tôn giáo vụ 4



Hay cử vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô để làm Bí thư không chừng 5. Đừng ngạc nhiên! Chức vụ gì, cấp bực gì mà Cơ quan đã cử đi thì phải đúng người đúng việc. Chỉ Cơ quan biết, còn anh thì cứ thi hành chỉ thị răm rắp, lo đóng cho xong vai trò. 



(Đó là lý do có những ông nghệ sĩ vừa được tuyên dương hay một ông vừa lãnh chức Anh hùng Nông dân đã thấy lặn đâu mất). 



Đồng ý điều tra viên cũng phải làm, cũng phải đến sở làm đêm hay làm ngày, ngồi ít giờ đồng hồ. Nhưng anh đừng mệt trí điều tra cho ra sự thực, chớ thắc mắc bị can có tội hay không. Cơ quan chỉ thị sao cứ làm in vậy, làm như mọi người cho khoẻ. Miễn cùng chạy như thường lệ. Lâu lâu đang ngồi giết thì giờ, một sáng kiến chợt lóe lên: Nếu anh sáng chế ra được một kiểu "điều tra" mới để hoan hỉ thông báo cho đồng nghiệp còn hay nữa! Anh sẽ được hoan nghênh nếu đưa ra thí nghiệm có kết quả tốt. Ngày nào cũng biểu diễn đi quanh đi quẩn lại có bằng ấy mục sao không chán ngấy được kia? Bọn tù khốn nạn thằng nào tay cũng run lẩy bẩy, cặp mắt van vỉ, lưng còng hèn hạ. Chán chết đi được! Lâu lâu, mới gặp được một thằng ngang bướng, xứng đáng đối thủ… 



Thẩm vấn viên Shitov ở Leningrad bảo thằng phạm nhân tên G.G.: "Tôi khoái những thằng cứng đầu. Gặp những thằng này bẻ gãy lưng nó mới sướng!". 



Nhưng nếu có thằng quá ngang bướng, lì lợm chịu đủ mọi thứ đòn nhất định không chịu khuất phục thì sao? Đồng ý là bực bội. Lâu lâu phải có một dịp hò hét, hung hăng xả hơi hoặc trút mọi uất ức chớ. Đừng nén cơn giận xuống mà cứ để cho nó bùng lên. Đó là lúc anh bắt thằng gan lì đó ngửng mặt lên, coi miệng nó như miệng cống để nhổ vài bãi. Hay có cái thùng phân thùng nước tiểu đâu đó thì dìm đầu vô 6. Nếu nó là một thằng thầy tu tóc dài thì nắm tóc lôi đi. Bắt nó quỳ gối ngửng mặt rồi đái vào giữa mặt nó cũng được. Phải có những mục đó mới hạ nổi cơn nóng giận để điều tra viên trở lại cuộc sống bình thường. Nếu có dịp thẩm vấn một con nhỏ bị kết tội giao thiệp với ngoại nhân thì anh tha hồ. Anh chửi bới tùy thích và hỏi móc họng đại khái: 



"Nói thử coi. Bộ mấy thằng Mỹ có thứ đặc biệt hả? Bộ dân Nga hết người rồi hay xài không đã?" 



Mấy em bé đã biết thế nào là người ngoại quốc thì phải biết là nhiều kinh nghiệm! Sao không bắt nó tự miệng nói ra, biết thêm được chút gì cũng kể như có dịp đi ngoại quốc. Anh có quyền cật vấn chẳng có gì phải kiêng dè. Thế nào, tụi nó làm ăn có gì lạ? Có những gì lạ kể ra nghe (cái vụ này anh có thể rút kinh nghiệm đợi dịp áp dụng bản thân hay kể lại cho bạn bè nghe không khoái chí sao?). Dĩ nhiên nó sẽ xấu hổ, khóc lóc, năn nỉ: "Những cái đó đâu có ăn nhập gì với hồ sơ?". 



Lúc bấy giờ anh sẽ quát lên: "Sao không? Biểu kể là có cái gì phải kể hết ra!". Nó phải kể bằng hết chi tiết. Bắt nó vẽ ra hình rõ ràng cho anh coi, bắt nó ra để anh thực tập cũng còn được mà! Nếu không thì cát-xô, thì án lút đầu. 



Anh có thể làm hơn nữa. Anh có quyền yêu cầu cho một nữ tốc ký viên lên ghi cung. Nếu con nhỏ ngộ nghĩnh hạp nhãn đố anh không thám hiểm người ngợm coi nó ra thế nào? Nó không dám cưỡng đâu mà thây kệ thằng tù ngồi đó. Anh cứ việc giải trí tùy thích, nó đâu phải là người mà ngượng ngùng? 7 



Vả lại có gì đâu mà ngượng? Đứa nào thích gái, nếu anh thích lại sẵn quyền thế trong tay mà không sử dụng thì có hoạ khùng! Thiếu gì gái chạy theo anh? Hoặc là anh chạy theo làm áp lực thì cuối cùng nó vẫn phải chịu chớ chạy đâu thoát? Gái đẹp cũng là của anh mà kể cả những đứa có chồng rồi. Nếu anh muốn con vợ thì đẩy thằng chồng đi đâu khó 8



Đối với anh thì việc đó quá dễ, Mật vụ mũ xanh mà. Nhà cửa hay vợ con người khác cũng là của anh, nếu anh muốn. Thằng nào chống đối gạt phăng qua một bên. Một khi đã là người của Cơ quan thì anh có quyền chân đạp đất đầu đội trời. Của anh hết. Trời xanh ngăn ngắt trên cao thì dưới này anh cũng Mũ xanh vậy!

°
Cũng như mọi người Mật vụ mũ xanh cũng ham tiền, dĩ nhiên để làm giàu riêng. Con người mà, đâu phải thần thánh mà chê của. 


Nếu phân tích kỹ nguyên do thầm kín núp sau những vụ bắt người (những vụ bắt bớ cá nhân chớ không phải bắt từng đợt) thì dù có luật lệ đàng hoàng ít nhất cũng tới 75 phần trăm do thù oán cá nhân, ganh ghét mà trong số đó hết phân nửa do cán bộ địa phương NKVD gây ra. Có thể một phần là nạn nhân của những ông công tố nhưng theo tôi thì họ cũng là một thứ như nhau hết. 



Thù oán cá nhân mà sinh sự thì điển hình là 19 năm tù ngục của V.G. Vlasov. Nguyên hắn là Chủ tịch Hợp tác xã Tiêu thụ cấp quận, phải lo cung cấp một số hàng vải cho đảng viên chi bộ địa phương, những thứ vải mà bấy giờ không ai thèm sờ tới. Phải đảng viên mới được mua chớ Hợp tác xã đâu có bán ra cho quần chúng. Bà vợ của ông Công tố Rusov không mua được thước nào vì lúc bán không tới mua. Ông chồng quen hách, không thèm tới quầy hỏi mà Vlasov lại chẳng phải người có thể rỉ tai: "Yên chí, em đã có phần cho ông Công tố rồi!". 



Thế rồi ông Công tố lại mời một người bạn tới ăn cơm trưa ở Câu lạc bộ Hợp tác xã nhưng kẹt ông bạn lại chưa đủ tư cách được vô ăn giá rẻ. Quản lý Câu lạc bộ từ chối thẳng mà Vlasov lại không cảnh cáo hắn cho Rusov hài lòng. Lại còn mạt sát người của NKVD ở địa phương. Đó là lý do Vlasov bỗng có tên trong danh sách các phần tử hữu khuynh, phải đưa đi đày. Có vậy mà 19 năm trại Cải tạo! 



Những ông Mũ xanh nhiều khi tham lam thật nhỏ mọn, ưa chớp đồ vặt chẳng ai dám ngờ. Sĩ quan An ninh Senchenko không ngần ngại tịch thu bao la đựng bản đồ, tịch thu luôn cạc táp của một sĩ quan vừa bị hắn vồ để xài ngay tại chỗ. Để lần giở hồ sơ tài liệu phải mang găng da vô mới hách. Hắn bèn quơ luôn đôi găng tay của một người khác. (Thông thường tiến quân mà phải đi sau quân đội là các ông Mũ xanh buồn lắm vì chậm chân thì còn ăn cái gì?). 



Ông sĩ quan An ninh Quân đoàn 49, người bắt tôi hồi đó đã "bắt" luôn cả cái hộp đựng thuốc lá. Nó có ra gì đâu, chỉ là cái hộp nho nhỏ màu đỏ lính Đức thường xài. Có thể thôi mà ông An ninh phải tính toán trước: không cho nó vào biên bản những món đồ gởi kho. Cho phép giữ xài nhưng mắt trước mắt sau thọc tay vào túi tôi tịch thu. "À, còn sót cái gì đây? Đâu có phép xài thứ này? Cứng đầu hả, tụi bây xách cổ thằng này liệng xuống cát-xô coi". 



(Cung cách đối xử với chiến sĩ tiền tuyến như thế đó thì Hiến binh thời Nga hoàng cũng chưa hề dám!). 



Thông lệ của Cơ quan là trong ngăn kéo buya-rô điều tra viên lúc nào cũng có sẵn mớ thuốc lá nhà nước để tưởng thưởng cho những thằng cung khai ngoan ngoãn, những thằng điểm chỉ. Nhiều ông chẳng cho ai mà tự mình đốt hết! Đừng tưởng thế đã là bần tiện. Ngay giờ phụ trội làm đêm còn được nhiều ông khai trội hẳn lên, trước mặt thằng tù, để hốt thêm chút nào hay chút ấy. 



Mấy ông Mũ xanh còn nhám tay thật hạ cấp. Như ông Fyodorov ở Ty Reshety (hộp thư Bưu điện số 235) đến xét nhà Korzukhin thấy cái đồng hồ tay cũng dám bỏ túi. Hồi Leningrad bị khủng bố nặng, bà Strakhovich có chồng bị câu lưu và hồ sơ nằm trong tay ông điều tra viên Nicolai F. Kruzhkov. Ông điều tra tìm đến tận nhà yêu sách vợ nạn nhân ít quần áo lạnh. Được trả lời: "Bao nhiêu chăn mền, đồ lạnh bị Cơ quan chất vô phòng trong, khoá cửa niêm phong hết rồi", thì ông Nicolai cười hề hề: "Niêm phong hả? Cứ chỉ đi, tụi này có cách mở. Tụi này nhà nghề mà!". 



Dứt lời ông điều tra viên lẹ làng lách mở chỗ bản lề, không đụng gì tới niêm phong thiệt! Vô phòng là quơ những món đồ lạnh bằng hai tay, lượm thêm cả mấy món bằng thủy tinh đút túi. Bà chủ nhà lợi dụng cơ hội cũng lấy luôn ít món đồ ra xài thì bị ông điều tra viên tốp lại: "Bấy nhiêu đó đủ rồi", nhưng ông Kruzhkov vẫn tiếp tục làm thêm vì chưa đủ! 9 



Nếu kể cho hết những vụ chiếm đoạt tài vật của những ông Mũ xanh sợ phải mất đến một ngàn cuốn Bạch thư mất. Chỉ cần hỏi những người từng bị tù, vợ con là ra ngay. Có thể có những ông không nhám tay nhưng quả thực khó tin. Đã vô nghề này mà đã thích món gì thì có ai, có cái gì cản nổi? Còn nhớ những năm đầu thập niên 1930, bọn chúng tôi mặc đồ Thanh niên Tiền phong thi đua nhau trong Kế hoạch Ngũ niên đầu tiên thì mấy ông Mũ xanh đã có lệ tối tối tụ họp giải trí trong các thính phòng sang trọng như của mụ Konkordiya Iosse, ăn chơi theo mốt trưởng giả Tây phương. Mấy cô bạn gái thì xúng xính toàn y phục ngoại quốc đắt giá. Thử hỏi những thứ đó lấy đâu ra? 



Hãy chú ý đến điểm nhiều ông Mũ xanh được thiên hạ đặt tên: Phải hiểu là có thế nào mới "tên sao người vậy" kiếm được một biệt danh chớ. Nội một Ty Nội An tỉnh Kemerovo đã có cả một ê-kíp với tên hiệu thật đích đáng. Có ông Công tố "chết" tên Trutnev tức Người Chăn Thú, ông Trưởng phòng Điều tra cấp Thiếu tá tên Shkurkin tức ông Vồ, ông Trung tá phụ táBalandin tức Ăn Đớp… và ông điều tra viên Skorokhvatov tức Vơ Vét. Chỉ bằng ấy tên cũng đã diễn tả đủ bản chất của ê-kíp và họ hành nghề như thế nào. Ấy là chưa kể thêm ông Volkopyalov tức Lột Da Sói, ông Grabischenko tức Tướng Cướp. Ngần ấy biệt danh dồn vô một Cơ quan thì phải biết! 



Theo hồi ký của Korneyev thì hồi còn ở lao xá Vladimir hắn có hân hạnh được biết một ông bạn tù thật đặc biệt mà hắn lỡ quên mất tên, chỉ nhớ là người bạn thân của mụ Konkordiya Iosse (mà chính Korneyev cũng có giao thiệp một thời). Người từng mang quân hàm Đại tá và là điển hình đúng mức của týp cán bộ cung cấp trong Cơ quan chỉ ham quyền thế và khoái vơ vét. Năm 1945 là năm làm ăn dữ nhất, lẹ nhất để ông đại tá xoay sở, chui được vô một ban béo bổ nhất trongCơ quan - do đích thân sếp lớn Abakumov đứng đầu "chuyên phụ trách công tác "tịch thu, sung công tài sản". Còn chỗ nào ngon bằng, tha hồ sung công của địch về làm của riêng! 



Ông Đại tá "sung công" vài vật, chất đầy từng chuyến xe lửa, xây mấy vi-la nghỉ mát, một ở Klin. Chiến tranh vừa chấm dứt, người vơ vét được quá nhiều, ăn chơi hủ hoá bằng thích: đại khái trưng dụng trọn chuyến xe lửa để bạn bè du lịch giải trí. Tới nhà ga Novosibirsk, ông Đại tá ra lệnh đuổi hết thực khách trong phòng ăn nhà ga ra ngoài. Đàn bà đẹp được giữ lại, bắt buộc phải đứng lên bàn nhảy thoát y cho cả bọn chiêm ngưỡng chơi. 



Nếu chỉ ăn chơi cỡ đó cũng chưa sao. Chớ có đụng đến tài vật của Cơ quan (như điều tra viên Kruzkiov). Người vi phạm nặng vụ này mà còn thêm một tội trầm trọng là đụng đến anh em cùng Cơ quan. Vợ con người ngoài thì tha hồ nhưng vợ con anh em đồng sở ông Đại tá cũng không tha. Vả lại còn dám quăng cá, chịu bà nào là nhất định làm bằng được! Đốn mạt cỡ đó thì Cơ quan không thể tha thứ. Bèn trừng trị bằng một bản án chính trị, cũng bị khép vô điều 58. Điểm đặc biệt là nằm khám rồi người còn uất ức, chửi bớI, không ngờ chúng dám bắt láo! Người tin là trước sau thế nào chúng cũng phải suy nghĩ, trả lại tự do (không chừng như vậy thiệt cũng nên!). 


Đối với dân Mũ xanh thì lâu lâu cũng có kẻ bị tống vô khám chớ. Tránh sao khỏI, nhưng thấy rõ vết xe trước mà bị vẫn cứ bị. Đã nói cái nghề này đâu có đòi hỏi thông minh, lý trí. Dễ gì đổ bể mà lo. Biết đâu chừng tụi nó bị mà mình thoát. Đời nàoanh em nỡ bỏ. 

Sự kiện sau quả có đúng. Đời nào anh em bỏ nhau thiệt! Giữa đám Mũ xanh vẫn có một quy ước mặc nhiên là nếu không cứu được nhau thì cũng ráng thu xếp cho, có ở tù cũng sung sướng hơn người. Như ông Đại tá Vorobyev nằm khám đặc biệt Marfino, như chuyên viên Ilin nằm Lubyanka đúng 8 năm. Thực tế là có ở tù vì tội cá nhân gây ra, người của Cơ quanvẫn được đãi ngộ tốt. 


Vì lẽ đó đám cán bộ Mũ xanh hầu như có đảm bảo: Làm gì cứ làm, lỡ sơ sẩy ở tù vẫn còn hơn người. 



Dĩ nhiên phải trừ vài ca ngoại lệ. Cũng có những Sĩ quan An ninh trại Cải tạo phạm lỗi nặng bị tống vô trại giam thường, ở chung với đám thường phạm hoặc đụng đầu với những thằng Zek ngày nào từng hành hạ nên ăn đòn bằng thích. Như ông Mushin từng hét ra lửa, trừng trị đích đáng bọn tù vi phạm điều 58: chừng người vô trại sợ đòn thù phải nhờ cậy đến đám côn đồ blatnye nhưng rốt cuộc vẫn cứ bị chúng nắm đầu lôi đi dưới gầm giường nhục nhã. 



Có trường hợp nhân viên Cơ quan bị vô khám mà có vì tình anh em cũng đành bó tay: đó là những ca bị từng nhóm , từng đợt. (An ninh, Mật vụ cũng vô khám từng đợt vậy chớ). Lỡ kẹt hoàn cảnh này chẳng ai nâng đỡ được ai! Biết vậy nên có máu An ninh, Mật vụ trong người là phải biết đánh hơi để "nhảy" kịp thời, vào phút chót là buông lập tức để khỏi bị dính chết chùm. Phải trở cờ chớ. 



Điển hình là vụ ông Đại úy Sayenko 10 người vì tình yêu lấy nàng Kokhanskaya, cựu nhân viên Sở Hoả xa Trung Quốc Viễn Đông. Với tài đốn gió đánh hơi, ông Đại úy biết sắp bùng nổ một đợt tập thể: bao nhiêu người làm Hoả xa sẽ bị hết. Lúc đó Sayenko là Trưởng ban Hành động của GPU địa phương. Ông Đại úy bèn cấp tốc có ngay biện pháp nghĩa là hy sinh con vợ. Không phải ly dị nhau để vợ bị bắt theo đợt tập thể… mà tự mình chế tạo ra một hồ sơ để tự mình bắt. Vì sự "trở cờ tình cảm" kịp thời đó, Đại úy Sayenko không bị mất chức Trưởng ban mà còn nhảy lên chức Ty trưởng NKVD tỉnh Tomska 11



Cán bộ Cơ quan bị bắt cả loạt còn vì một định luật tàn nhẫn là đổi týp người cũ để có bộ mặt mới (vả lại phải lọc bỏ một mớ thì những kẻ còn sót lại mới có cảm giác cán bộ tốt). Nghề Mật vụ phải thay người mau để những lớp sóng sau dồn lên thay những lớp sóng trước. Một người rớt phải kéo theo một mớ đàn em, đúng lúc là phải có một lớp hy sinh, không kể cấp bậc địa vị. 



Cá gộc Yagoda đi phải kéo theo mớ cá con trong số thiếu gì những tay từng lưu danh trong công trình đào kênh Bạch Hải. Rồi Yezhov lên … và xuống ngay cùng với đám cận thần. Những anh hùng chiến dịch thanh trừng 1937. Đừng quên là Yerzhov lọt vô phòng Điều tra cũng ăn đòn như ai, cũng đáng thương vậy! Tù Cải tạo kỳ cựu còn nhớ hồi Yerzhov "xuống" hắn đã kéo theo vô khám cả lô to đầu đang nắm quyền sinh sát trọn quần đảo, sơ sơ cũng có Giám đốc Sở Tài chánh, Giám đốc Sở Y tế, Giám đốc Sở Phòng vệ và luôn cả Chánh Sở An ninh. Bằng ấy cán bộ cao cấp vô tù, Nha Tổng Quản trị các trại Lao động Cải tạo như rắn mất đầu. 



Sau này đến lượt Beria và đệ tử. 



Trước đó có sếp mập Abakumov rớt một mình. Nếu hồ sơ lưu trữ không bị thủ tiêu thì các sử gia của Cơ quan chắc chắn sẽ có thừa tài liệu để vẽ lại rõ ràng từng đợt lên xuống, xuống lên của những tên tuổi sáng chói. 



Xin nhường lại cho các nhà chép sử của Cơ quan làm việc đó. Tôi chỉ nhắc sơ lại mẩu chuyện của ê-kíp Abakumo Ryumin nhưng không nhắc lại những gì đã viết trong tập Tầng đầu địa ngục. 



Ai chẳng biết Ryumin là "gà" của Abukumov, được sếp mập cất nhắc lên, đặt vào địa vị quan trọng trong Cơ quan? Cuối năm 1952 bỗng đâu trò đệ trình một hồ sơ tối mật mà chính ông thầy tin không nổi. Ryumin báo cáo đã nắm trong tay vụ giáo sư Etinger âm mưu đầu độc Zhdanov và Schherbakov. Nếu muốn giết thực thì quá dễ vì Etinger đang là y sĩ điều trị tín nhiệm của Điện Cẩm Linh nhưng là bậc thầy của Ryumin sếp mập còn lạ gì "kỹ thuật chế tạo" của trò ruột? Chớ có đùa với lửa. (Thực sự Ryumin đã nắm chắc được tín nhiệm của Lãnh tụ!). 



Ngay đêm đó, Abakumov phải đích thân "thẩm vấn" lại Etinger cùng ông học trò ruột nhưng hai thầy trò vẫn bất đồng ý kiến: trò nhất định tin có âm mưu đầu độc, thầy cho là bịa đặt quá lố! Đành phải ấn định một cuộc kiểm chứng chót vào sáng hôm sau, nhưng chịu không nổi thẩm vấn ngay đêm hôm ấy giáo sư Etinger đã ra ma. Sáng hôm sau Ryumin bí mật qua mặt Abakumov, điện Trung ương Đảng xin Lãnh tụ cho gặp gấp, có chuyện tối mật cần diện trình 12



Stalin cho gặp ngay, bật đèn xanh cho Ryumin tiến hành hồ sơ đầu độc, qua mặt cả Bộ trưởng Nội An Beria. Dĩ nhiênAbakumov phải vô cát-xô gấp. Ngay từ hồi đó Beria đã có dấu hiệu lâm nguy và không chừng chính người cũng đang chuẩn bị hạ Lãnh tụ. 



Chừng Stalin nằm xuống, chế độ mới lên cầm quyền thì một trong những quyết định đầu tiên là triệt bỏ hồ sơ đầu độc, Beria còn quyền hành nhưng trái lại Ryumin bị tống giam tức khắc trong khi Abakumov vẫn nằm Lubyanka. 



Chế độ mới thì Lubyanka cũng có lề lối làm việc mới. Lần đầu tiên mới thấy bóng ông Công tố vô tận phòng giam "thanh tra". Đang nằm cát-xô thấy Công tố viên Terekhov bước vô, phạm nhân Ryumin lấy làm hả dạ và khép nép trình: "Thưa tôi vô tội. Họ tống giam tôi vô cớ…". Hắn xun xoe xin được thẩm cung lại và đang lúng túng ngậm cục kẹo trong miệng - đó là thói quen xưa nay của ông Phụ tá - ông bị Công tố sửa lưng, Ryumin vội ấp úng "xin lỗi" và ngoan ngoãn nhả ra lòng bàn tay. 



Nhưng Abakunov lại khác. Thấy ông Terekho vô thanh tra, hắn cười ầm lên: "Bịp bợm!". Ông Công tố chìa ra cho coi văn thư chính thức của nhà nước cử vô thanh tra nhà lao Bộ Nội An thì hắn gạt đi: "Văn thư này thì làm 500 cái cũng có liền!". 



Lập trường đã rõ ràng, Abakumov cho hay hắn không bất mãn vì bản thân bị tống vô cát-xô mà vì thói quen của Cơ quan bịxúc phạm. Trên đời này có cái gì hơn được Cơ quan? 



Tháng 7 năm 1955 Ryumin bị đưa ra toà xử ở Mạc Tư Khoa và bị xử bắn nhưng Abakumov vẫn kẹt trong lao Lubyanka. Trong một buổi lấy cung hắn còn bảo Terekhov: 



"Anh có cặp mắt đẹp quá! Phải bắn anh tôi không thấy nỡ 13. Vậy tôi bảo thực chớ dây dưa vào hồ sơ của tôi. Còn kịp thời giờ bỏ đi!" 



Một bữa Terekhov chấp cung Abakumov và đưa cho hắn coi tờ báo đăng tin Beria bị thanh trừng. Hồi đó vụ Beria là cả một đảo lộn động trời. Nhưng Abakumov thản nhiên cầm tờ báo coi như coi tin thời sự và lật qua trang sau coi tin Thể thao! Lần khác có mặt một nhân viên cao cấp trong Cơ quan hồi trước làm dưới quyền hắn, Abakumov có ý kiến: 



"Tại sao anh chấp nhận cho bên Công tố lãnh điều tra vụ Beria kìa? Phải cho qua KGB chớ" 14



Dù nằm khám rồi nhưng sếp mập vẫn có ý thắc mắc những vấn đề liên quan đến nghề nghiệp Cơ quan mà. Sau đó Abakumov hỏi: 



"Anh có tin rằng họ dám đưa tôi, một Bộ trưởng Nội an, ra Toà xử đàng hoàng không?" 



Nghe thuộc cấp cũ trả lời: "Tôi tin cậy" thì ông cựu sếp sòng Mật vụ cay đắng kết luận: 



"Vậy hả? Nếu vậy thì anh chuẩn bị đi. Cơ quan hết thời rồi. Dẹp bỏ là vừa!" 



Chưa hẳn Abakumov luyến tiếc Cơ quan nhưng sự thực thì nằm trong lao Lubyanka hắn không hề sợ bị đưa ra Toà xử. Chỉ sợ bị thủ tiêu ngầm, bằng cách đầu độc chẳng hạn. (Vậy mới là sếp Mật vụ đúng truyền thống!). Do đó cơm nhà lao là Abakumov không đụng đến. Hắn chỉ chịu một món: đó là mấy hột gà tự tay mua ở câu lạc bộ (dù sao hắn cũng còn lạc hậu, cho rằng không thể "hạ độc" vào trứng). 



Abakumov còn ngược đời ở chỗ thư viện nhà lao Lubyanka đầy nhóc sách nhưng hắn chỉ mượn đọc tác phẩm của Stalin là người ra lệnh tống giam hắn vô tù! Khoái trình diễn vậy thôi chớ hắn đâu chịu tư tưởng của Lãnh tụ, cũng như đâu có tin bọn đàn em, đệ tử ruột của Stalin sẽ lên cầm quyền 15



Có dạo người ta hỏi nhau: "Abakumov bị câu lưu nằm Lubyanka cả hai năm rồi, tại sao chưa được phóng thích? Đồng ý là nếu xét về tội ác thì hắn tội cao lút đầu, đẫm máu tanh hôi thật. Nhưng đâu phải một mình hắn nhúng tay vào tội ác. Còn bao nhiêu kẻ khác và họ cũng được trả tự do, an thân rồi mà. 



Nói vậy cũng đúng. Nhưng một hồi có tin đồn Abakumov nặng nợ vì một món "ân oán giang hồ". Hồi còn là điều tra viên chính hắn đã "thẩm vấn" nàng Lyuba Sedykh người bị gửi tới Tiểu đoàn trừng giới. Có lẽ Abakumov xuống tay hơi nặng nên Lyuba thành bệnh bỏ mạng luôn, khiến con trai lớn của Khruschhev đâm goá vợ. Đó là lý do bị Stalin tống giam mà Abakumov không được chế độ mới phóng thích. Lại bị truy tố ra Toà Leningrad, phiên toà đặt dưới quyền của ông Chánh thẩm Kruschhev nên bị tuyên án tử hình và bị xử bắn ngày 18 tháng 12 năm 1954. Thế là rồi đời Abakumov nhưng ít nhất hắn cũng không phải thất vọng. Cơ quan không hết thời, dẹp bỏ mà vẫn tồn tại.

°
"Họ từ đâu ra, họ có cùng gốc rễ, máu huyết với chúng ta chăng mà họ ghê gớm thế? Dĩ nhiên là cùng vì tục ngữ chẳng có câu "Ăn mày là ai? Ăn mày là ta" sao? Biết đâu chừng hoàn cảnh đẩy đưa chính anh cũng có thể là một Mật vụ mũ xanh, làm đúng những công việc họ làm vậy chớ. 


Riêng tôi thì đang theo học năm thứ ba Đại học - và mùa thu năm 1938 - có chân trong Đoàn Thanh niên Cộng sản, tôi đã được kêu lên trụ sở Quận đoàn hai lần cùng với mấy thằng bạn. Chẳng cần hỏi ý kiến trước, người ta đưa cho tụi tôi một lá đơn, chỉ việc điền vô chỗ trống. Đại khái mấy chú khá Toán, Lý, Hoá, tại sao không làm đơn vô trường Huấn luyện NKVD sau này ra trường có phải hữu dụng cho tổ quốc không? 



(Bao giờ chẳng… Tổ quốc cần đến anh. Sẽ có người nhân danh Tổ quốc yêu cầu anh làm, đúng nhu cầu của Tổ quốc!) 



Năm trước Quận đoàn cũng đã hô hào chúng tôi đăng vô Không quân. Có ai đang học muốn bỏ dở, chúng tôi đâu đã muốn khoác áo lính. Nhưng lần này chúng tôi né kỹ. Hai mươi lăm năm sau dĩ nhiên chúng tôi có thể nói hồi đó đã thừa biết nghề Mật vụ bắt người, đánh người nên chê không thèm vô. Nhưng không phải vậy. Họ bắt người toàn ban đêm, ban ngày bọn trẻ chúng tôi vẫn sắp hàng đi ca hát vô tư mà. Làm sao biết nổi, mà biết để làm gì? Trọn Ủy ban Tỉnh bị đẩy đi thật nhưng vụ đó có liên quan gì tới chúng tôi? Hai ba giáo sư bị bắt thật nhưng chúng tôi xót thương gì? Không chừng cuối năm thi còn dễ hơn! Lớp tuổi chúng tôi ra đời cùng với Cách mạng, là con đẻ của Cách mạng… tương lai tràn trề quá mà! 



Sự thực là ngay từ hồi đó, chẳng lý luận mổ xẻ chúng tôi cũng tự nhiên không chịu vô trường đào tạo Mật vụ mũ xanh. 

… 



Mặc dù học xong Đại học ra ngon nhất cũng chỉ vớ được một chân giáo học trường quê ăn lương chết đói, mà vô trường NKVD là lương gấp ba, có phụ cấp khẩu phần đặc biệt. Vậy mà chúng tôi nhất định chê. Tại sao chê chưa biết hẳn và có biết cũng chẳng dám nói ra. Cảm giác ghê sợ, kinh tởm nghề Mật vụ không xuất phát từ óc mà từ con tim. Ai muốn nói gì chúng tôi cũng gật đầu nhận chịu hết nhưng trong lòng là cả một sự chối bỏ, thù ghét. Không có chúng chúng tôi không tham dự. 



Nếp sống xã hội Nga vốn vậy. Bao nhiêu năm rồi có thể nói thẳng rằng người tử tế làm công chức ngành nào cũng được trừ ngành Mật thám là chẳng ai ham. Cả trăm năm, cả mấy trăm năm ý thức đó vẫn tiềm ẩn. Ngay từ thời luân lý, đạo đức còn có giá và thiện hay ác lương tâm còn phân biệt được. 



Lớp tuổi chúng tôi cũng có vài thằng chịu vô trường NVKD. Giả thử ban Tuyển mộ ép phải vô thì có lẽ chúng tôi chẳng ai dám chê. Tôi cứ tưởng tượng nếu chiến tranh bùng nổ mà tôi đã đeo huy hiệu sĩ quan NKVD thì đời tôi rồi sẽ ra sao? Có thể tôi sẽ tự an ủi hồi đó quá mềm yếu, không đủ sức cưỡng lại đành phải theo nghề Mật vụ. Sau này bị tống vô khám, có dịp nằm nghiệm lại chính cuộc đời binh nghiệp của mình, tôi đâm kinh hoàng. 



Hồi đó tôi đang mê Toán nặng. Sinh viên đại học nhưng đi lính đâu có được Sinh viên Sĩ quan. Sáu tháng lính quèn, bụng đói mà lúc nào cũng phải nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh của những kẻ không đáng cho mình tuân lệnh. Rồi nửa năm liền bị hành hạ quần quật trong lớp Dự bị Sĩ quan. Không chịu nổi thì suốt đời làm lính chiến mới nghĩ tới đã rùng mình, nhưng rồi cũng được gắn lon, hai ngôi sao tí hon trên cầu vai. Rồi ba sao, bốn sao. Bao nhiêu gian nan, khổ cực quên phứt hết. Còn chút lòng ham mê tự do thuở sinh viên cũng mất luôn. Nhưng khốn nỗi đã nhà binh thì còn gì tự do? Đến đi cũng thích đi chung một đám diễn hành tập hợp quen quá mất rồi! 



Tôi nhớ như in hồi mới ở trường Sĩ quan ra, tâm tánh biến đổi kỳ dị, chịu cuộc đời nhà binh ở chỗ cực kỳ giản dị, chẳng cần phải suy nghĩ. Thấy khoái cuộc đời trà trộn với tập thể, sống in như mọi người, nghĩa là sống ào ào với niềm sung sướng quên được nếp sống tế nhị của thời thơ ấu. 



Thời gian ở quân trường lúc nào cũng đói, lúc nào cũng chỉ nhìn quanh để rình ăn và thằng nào xoay sở ăn đớp được nhiều là thằng ấy bảnh. Nhưng sợ nhất là rớt giữa chừng, không được ra trường là có chầu ra mặt trận Stalingrad. Có thể nói là chúng tôi bị hành hạ ở quân trường tới khốn khổ tối đa để sau này ra trường hành hạ lại những thằng khác. Chẳng bao giờ ngủ đẫy giấc vì đang ngủ rất có thể bị dựng dậy đi phạt, chạy phạt. Một thằng chùi giấy không sạch là cả tiểu đội chạy phạt đến ngất ngư. Còn phải tập hợp đứng nghiêm, chờ cho đến lúc nó đánh giày láng bóng. 



Trong khi chờ đợi cái lon sĩ quan thì đi chúng tôi cũng phải tập đi như cọp, hô phải hô cho rõ to, rõ hách. Mới có lon sĩ quan trên cầu vai, vừa được một tháng điều động một pháo đội ở hậu phương tôi đã hành hạ lính dưới quyền một cách thản nhiên, ông Đại tá thanh tra gọi vô khiển trách còn dựa vào "kỷ luật nhà binh" để tự bào chữa. Xét cho cùng trong quân đội thì sự kiêu hãnh cũng tích lũy như lớp mỡ trong cơ thể con heo vậy. 



Bằng không tôi đâu dám hò hét ra lệnh cho thuộc cấp, cấm hỏi đi hỏi lại. Lúc nào cũng tự đặt mình vào cấp trên, có quyền đè đầu người khác ở ngoài mặt trận là nơi thằng nào cũng có thể chết như nhau! Mình ngồi nhưng bắt lính đứng nghiêm, bắt bẻ chặn họng và… với những người đáng tuổi cha tuổi ông cũng cứ xưng hô láo xược, xách mé. Bằng không tôi đâu dám giữa lúc pháo kích ầm ầm bắt lính ra sửa hàng rào kẽm gai để thượng cấp khỏi khiển trách (để đến nỗi Binh nhì Andreyashin phải trúng miểng đạn chết). Tôi vẫn thản nhiên ăn bánh mì xăng-uých phết bơ, coi khẩu phần sĩ quan phải vậy còn lính ăn uống những gì thây kệ. Lại còn chiếm riêng một thằng lính đầy tớ (gọi là "cần vụ" cho sang!) để trăm việc sai phái trút lên đầu nó, kể cả việc bắt nấu ăn riêng cho khác đồ ăn của lính. Vậy là hơn cán bộ NKVD rồi. Thẩm vấn viên ở Lubyanka đâu có cần vụ hầu hạ. 



Bằng không tôi đâu dám bắt lính trần lưng đào hố cá nhân cho mình mỗi lần hạ trại. Hầm núp sĩ quan phải rộng rãi, nóc hầm phải thật kiên cố! Khốn nạn, có một pháo đội mà cũng bắt lính đào một hầm phạt ngay cả lúc đóng quân giữa rừng. Không đến nỗi tàn tệ như những giếng cạn nhốt người ở trại Gorokhovets vì dầu sao thằng lính thọ phạt còn có một cái áo che đỡ và còn một khẩu phần ăn của lính. Binh nhì Vyushkov đã bị phạt hầm chỉ vì tội để lạc mất con ngựa, Binh nhì Popkov vì tôi xài súng các-bin ẩu. Làm sao quên nổi? 



Tôi còn bắt lính khâu cho mình chiếc bao da (tịch thu xe giặc, lấy bao ghế làm thì quá dễ!) để đựng bản đồ, nhưng vẫn lấy làm đau khổ chỉ vì còn thiếu quai đeo: Tiện có chú Ủy viên Du kích Ủy ban Quận đi ngang có đúng cái quai da tôi đang cần, lính của tôi bèn tịch thu liền. Nhà binh phải có quyền ưu tiên chớ. (Đại khái cũng giống như ông Sĩ quan An ninh Senchenko vậy!). Hắn còn cái hộp thuốc màu đỏ, lính của tôi cũng "mượn" cho ông Sĩ quan chỉ huy xài). 



Có cái lon trên vai là có quyền hơn người vậy đó! Những lời khuyên "chớ tham của người" của mẹ già ngày nào cũng như lý tưởng bình quyền của chú Thanh niên Tiền Phong không còn nữa. Đúng vào lúc đó thì xảy ra vụ lột lon, giật huy chương. Thắt lưng cũng tịch thu. Chừng bị hộ tống lên xe hơi nhét vô phòng giam Quân đoàn thì tôi là hiện thân của chán chường, tả tơi. Binh sĩ dưới quyền thấy cảnh tượng này thì tôi chịu sao nổi?

°
Nhắc lại hồi tôi bị bắt thì theo thông lệ phạm nhân phải được áp giải từ Ban Phản gián Quân đoàn lên Phòng Phản gián Mặt trận, nghĩa là chúng tôi phải đi chân từ Osterode tới Brodnica. 


Lúc ở xà lim chui ra tôi đã thấy có 7 mạng chia làm 3 cặp rưỡi đứng quay lưng lại. Sáu đứa mặc áo lạnh cũ mèm của Bộ binh, phía lưng mờ mờ hai chữ S.U lớn - có nghĩa quốc tịch Nga. Tôi từng thấy nhiều binh sĩ mặc áo này, những đứa gốc Hồng quân bị Đức bắt làm tù binh và được quân ta "giải phóng". Chao ôi được giải phóng mà mặt đứa nào đứa nấy buồn so vì "quân ta" đối xử lạnh nhạt còn hơn địch. Qua khỏi chiến tuyến là tù binh lại vô trại giam lần nữa! 



Đứng lẻ loi ở hàng dưới là một gã Đức thường dân cỡ 50 tuổi, mặt trắng trẻo dáng dấp sang trọng. Đi tù mà hắn còn đóng nguyên bộ com-lê đen, áo khoác ngoài đen, mũ cũng đen. Dĩ nhiên tôi phải tới bên một thằng để ráp vào thành cặp thứ tư. Trưởng ban áp giải là gã trung sĩ người Tatar đưa tay ra hiệu cho tôi xách va-li lên, chiếc va-li đựng đủ thứ đồ và đầy giấy tờ bản thảo. 



Tôi nhăn mặt. Sĩ quan mà phải tự vác lấy va-li, do một thằng Trung sĩ chỉ định, vượt mọi nguyên tắc thủ tục. Sĩ quan mà vác đồ nặng để 6 thằng lính quèn kia đi tay không? Lại còn thằng Đức, thằng tù của một nước chiến bại cũng đi tay không nữa? Tôi xét thấy chẳng cần giải thích nhiều nên chỉ nói vắn tắt với Trung sĩ tưởng toán: 



"Tôi là sĩ quan. Va-li biểu thằng Đức này mang…" 



Nghe tôi nói cả đám vẫn lặng thinh. Sự thực họ đâu có quay cổ lại. Chỉ có thằng S.U. lẻ đi cạnh tôi trợn mắt ngạc nhiên nhưng gã Trung sĩ hiểu liền. Tôi không phải sĩ quan của hắn nhưng vẫn là sĩ quan mà thủ tục nhà binh hắn thấm nhuần cũng như tôi nên hắn gọi ngay thằng Đức bắt vác va-li cho tôi. 



Cả bọn lên đường, tay chắp sau lưng. Sáu thằng S.U đều đi tay không. Lúc ra trận thế nào thì khi trở về cũng chỉ có vậy. Tám thằng chia ra bốn cặp nối đuôi nhau lầm lũi đi, triệt để cấm nói chuyện… dù đang đi, nghỉ chân hay ở qua đêm. Đi đường cũng không được đi dính vào nhau, tiếng đi cùng một toán nhưng vẫn không phải riêng rẽ từng thằng, làm như phải vác theo luôn một cát-xô vô hình vậy. 



Thời tiết đầu mùa xuân thay đổi bất tử. Lúc thì sương sa nặng hạt, đi trên đường cái sình lầy phát bực bội. Lúc thì mặt trời hé ra được một khoảng tuy nắng chiếu yếu ớt cũng đủ đánh tan lớp sương, soi rõ cảnh vật bên đường mà chúng tôi sắp phải giã từ. Có lúc mây đen kéo tới, những cơn gió lạnh ướt thổi tạt từng mảnh tuyết vào mặt vào lưng chúng tôi rát rạt, mặc áo lạnh giày bốt mà cũng ướt sũng nước. 



Trước mặt tôi là sáu cái lưng, lúc nào cũng chỉ thấy lưng. Khoảng cách đều đặn, vừa đi vừa tha hồ ngắm nghía những chữ S.U. vụng về loang lổ khác hẳn cái lưng đen bóng của thằng tù Đức. Nhịp đi chầm chậm, tôi thừa thì giờ suy ngẫm chuyện quá khứ, hiện tại. Nhưng đầu óc tôi mù mờ sau cú búa bổ đột ngột. Có nghĩ ngợi được gì. 



Sáu cái lưng vẫn âm thầm, nhẫn nhục tiến tới. Thằng tù Đức xách va-li nãy giờ coi bộ thấm mệt. Đổi tay hoài, hắn còn ôm ngực, lắc đầu ra điều nặng quá, mang không nổi nữa. Gã S.U. đi bên cạnh vội tình nguyện đưa tay ra vác giùm một lúc (dù mới đây chính hắn còn là tù binh của Đức). Sau đó chiếc va-li được âm thầm chuyền tay mấy thằng S.U. kia, mỗi thằng vác một khoảng. Rồi đến lượt thằng Đức trở lại. Tất cả tình nguyện vác, trừ tôi. Chẳng ai buồn nói với tôi một tiếng! 


Giữa đường gặp một đoàn xe bò, toàn xe không. Thấy cảnh áp giải tù, mấy thằng đánh xe bèn đứng lên nhìn cho rõ. Tôi bỗng khó chịu vì bao nhiêu cặp mắt bỗng hướng về phía tôi, ngạo nghễ và trêu chọc cái điệu: "Ô hay, sĩ quan mà cũng tù hả? Vậy cho đáng đời!". Gốc sĩ quan của tôi thì rành rành ở bộ quân phục mới, quần áo cắt vừa vặn, cầu vai cũng còn y nguyên, mấy hàng nút mạ vàng rẻ tiền chiếu lấp lánh. Nội những ánh mắt soi mói, tách rời tôi ra khỏi nhóm cũng đủ biểu lộ họ đang nghĩ gì. "Phải vậy mới công bằng, cho nó nếm mùi tù tội", chớ không lẽ bắt tội mấy thằng lính? Thấy thằng sĩ quan là tôi cũng đi tù lẫn lộn cùng đám lính làm như họ hả hê lắm. Biết đâu chừng Đại đội trưởng của họ rồi cũng có phen "xuống chân" như thế này. 

Ngay lúc đó tôi có cảm giác bị họ liệt về phe địch. Phải là gián điệp, phá hoại! Cho nên có thằng hét lên: 

"A, lại một thằng Vlasov phản động! Còn chạy đâu nữa. Bắn bỏ cho rồi!" 

Một hai đứa dám chửi là cả bọn nhau nhau hướng về phía tôi tuôn ra những lời chửi bới thô bỉ, tục tĩu nhất. Họ chửi hăng lắm, coi bộ yêu nước lắm (thì ở hậu phương bao giờ chẳng vậy!). Họ nghiễm nhiên liệt tôi vào hàng điệp viên đế quốc bị lột mặt nạ nên bị bắt sớm ngày nào quân ta có thể tiến nhanh ngày ấy, không chừng chiến tranh mau chấm dứt hơn cũng nên. 

Khốn nạn bị áp giải đi trong đoàn tù, tôi đâu có quyền lên tiếng giải thích hay cãi lại? Tôi có cách nào cho họ biết tôi không phản bội, không phải điệp viên phá hoại? Tôi là bạn họ, vì họ mà tôi phải chịu cảnh này! Không nói được thì tôi cố mỉm cười với họ, cười thông cảm thân thiện vậy. Nhưng thằng tù đang bị áp giải là tôi vừa nhe răng ra cười thì họ còn bực bội hơn nhiều. "Mày còn dám cười hả?". Bao nhiêu cánh tay đưa lên dậm doạ, bao nhiêu câu chửi tàn tệ, lại hướng cả về tôi. 

Lúc bấy giờ quả tình tôi cười kiêu hãnh. Tôi đâu phải bị họ bắt vì tội trộm, vì phản bội hay đào ngũ? Không, tôi đã âm thầm lý luận, tôi đã tìm ra nhược điểm tệ hại của Stalin. Tôi cười vì thực tâm nghĩ rằng bề nào cũng còn có thể đóng góp được phần nào trong việc cải sửa lại nếp sống của đất nước này. 

Tôi nghĩ vậy, nhưng chiếc va-li của tôi thì vẫn để cho người khác mang: Tôi không hề cảm thấy làm vậy là vô lý. Cho dù thằng bạn tôi đang đi cạnh tôi - mắt trõm sâu đau khổ, râu đâm tua tủa - có dùng thứ ngôn ngữ sáng sủa nhất để bảo thẳng vào mặt tôi rằng thân phận thằng tù mà có cái va-li còn bắt người khác mang là bậy… là lên mặt làm cao, làm bộ ta đây cũng được. Thây kệ nó. Tôi không cần biết. Tôi là sĩ quan mà. 

Giả dụ 8 đứa cùng đi bữa đó có 7 thằng phải chết, chỉ 1 thằng được sống chắc chắn tôi sẽ la lớn lên không ngần ngại: 

"Trung sĩ! Để tôi sống. Tôi là sĩ quan mà!" 

Ấy đấy, sĩ quan tác chiến còn vậy. Giả thử có hai cầu vai xanh Sĩ quan An ninh, người của Cơ quan thì còn tới cỡ nào? 

Phải biết người của Cơ quan tất nhiên phải được nhồi sọ rằng cũng là Sĩ quan nhưng Sĩ quan Mũ xanh phải hơn hẳn, là thành phần ưu tú nhất nên hiểu biết nhiều hơn, trách nhiệm nặng hơn. Do đó có tra tấn người cũng chỉ để chu toàn trách nhiệm. 

Tôi thành thực nghĩ nếu được đào tạo ở NKVD ra chắc tôi cũng không khác gì họ. Vô Cơ quan dưới thời Yerzhov chắc chắn tôi sẽ thành cán bộ đắc lực dưới thời Beria! (Vì thế độc giả nào còn nghĩ rằng QUẦN ĐẢO NGỤC TÙ rõ ràng có lập trường chính trị nhằm tác dụng chính trị hãy gấp sách lại giùm). 

Chuyện đời đâu có giản dị vậy. Đâu phải có một lớp ác nhân chuyên làm ác, mình chỉ việc tách rời chúng ra để tận diệt chúng là xong chuyện. 

Con đường phân ranh giữa thiện và ác, trái và phải, chao ôi lại nằm đúng con tim của chúng ta. Đụng đến quả là đau đớn! Con đường đó đâu chịu đứng y chỗ. Nó có thể bị sự tàn ác chen lấn, ép hẳn sang một bên mà cũng có thể tự nó chạy nép sang bên nhường chỗ cho thánh thiện nảy mầm. Con người ta biến dạng thành người khác hẳn là thường. Chỉ vì thời gian, hoàn cảnh mà con người có thể cực xấu hay cực tốt. Xấu tốt lại có thể lẫn lộn, dù con người vẫn mang cùng một tên. 

Nếu Socrate từng khuyên: "Chính anh hãy tự biết mình anh", thì tục ngữ Nga cũng có câu: "Từ thiện sang ác chỉ nhấp nháy", nên ta có thể hiểu hiểu ngược lại: "Từ ác sang thiện cũng vậy". 

Còn nhớ sau khi lòi ra những chuyện bê bối ở Cơ quan cũng phải có người này, người khác. NKVD hay KGB thiếu gì người tốt. 

Đúng thế, nếu chữ tốt ở đây hiểu theo nghĩa có đồng chí bị bắt dám lén rỉ tai: "Ráng vững lập trường", rồi tiếp tế cho ít mẩu bánh mì nhưng sau đó sẵn sàng chà đạp lên những miếng bánh mì khác. Còn tốt hiểu theo nghĩa thông thường, nhân đạo thì không hiểu Cơ quan có người tốt thiệt chăng? 

Sự thực là KHÔNG. Người tốt, người lành là Cơ quan chê trước, gạt bỏ ngay từ lúc tuyển mộ. Thiếu gì người được chiếu cố cũng tìm đủ mọi cách vùng thoát 16. Đã lỡ vô Cơ quan ăn lương thì chỉ có hai cách: một là tự thích ứng với hoàn cảnh, hai là chờ Sở cho thôi việc hoặc tống vào tù. Như vậy lấy đâu ra người tốt? Vậy mà vẫn có. 

Như gã Trung úy trẻ dám rỉ tai linh mục Viktor Shipovalnikov một tháng trước: "Trốn đi. Họ sắp bắt cha đó". Cha Viktor không chịu trốn và bị bắt thật. Hắn lại được cử tới canh chừng và vò đầu bứt tai: "Sao cha không trốn đi cho rồi?". 

Ngược lại là trường hợp biến tính của Ovsyannikov, một Trung úy Trung đội trưởng thân cận nhất của tôi ở đơn vị, từng "ăn cùng mâm ngủ cùng chiếu" nhiều phen. Địch pháo như mưa tụi tôi cũng cứ húp súp sì sụp chỉ sợ nguội. Theo tôi vốn gốc nông dân thuần túy, Ovsyannikov là con người bộc trực, thẳng thắn mà quân trường hay đời sống nhà binh không làm hư hỏng nổi. Hắn thương lính đến độ lo bảo vệ sinh mạng tối đa mà còn lo luôn sức khoẻ cho mấy bác lính già kia mà. 

Nhiều lần thấy tôi bất mãn, hắn an ủi bằng những mẩu chuyện thiết thực "thấy sao nói vậy" về đời sống miền quê, về nông trại. Nghe tôi bị bắt hắn rất buồn bực, viết báo cáo đề cao thành tích chiến trường của tôi, đưa lên Tư lệnh Sư đoàn ký đàng hoàng. Giải ngũ ra hắn lui tới hỏi thăm giúp đỡ gia đình tôi… dù năm 1947 là năm dữ không thua gì 1937. Thời gian bị thẩm vấn tôi cứ nơm nợp sợ hắn bị liên lụy vì có tên trong tập Nhật ký chiến trường. 

Ở trại Cải tạo ra năm 1957 là tôi để ý tìm Ovsyannikov. Thư từ thăm hỏi nhiều lần mới được Trường Sư phạm Yuroslav cho tin hắn được đổi sang Bộ Nội An! Người như hắn Cán bộ Cơ quan sao? Hồi tôi xuất bản cuốn Ivan Denisovich cũng chẳng có tin, chẳng thể gặp mặt (Điều tra viên cần gì phải biết đời sống của một thằng tù!). 

Mãi sau này nhờ người đưa thư tận tay, tôi mới nhận được vài hàng chữ của cố nhân Ovayannikov đại khái: 

"… Ở Trường Sư phạm tôi được chuyển về Cơ quan và tôi nghĩ cứ lo công tác đắc lực thế nào cũng được cấp trên biết đến cất nhắc lên. Đồng ý là cũng còn vài chuyện bất như ý nhưng nói chung ở đây có điều kiện thăng tiến, có tình đồng chí. Khỏi bận tâm nghĩ ngợi về tương lai". 

Thì ra ông Trung úy gốc nông dân chất phác, bộc trực đã biến hình biến tính hẳn sau khi trở thành cán bộ Cơ quanOvsyannikov. Những năm cuối thời Stalin hắn đã cộng tác đắc lực nhằm thăng tiến nghề nghiệp bằng cách phạm nhân nào lọt vào tay hắn là lãnh án tối đa, 25 năm đi đày trại Cải tạo! Ai ngờ con người có thể biến đổi toàn vẹn, ghê gớm cỡ đó? 

Nghề Mật vụ là như vậy nên cán bộ Cơ quan lâu lâu cũng gặp thế kẹt khó chịu như điều tra viên hung thần Goldman bị với nữ phạm nhân Vera Korneyeva. Bị thua trí thật đau mà không làm gì được, vì bao nhiêu đồng chí "ủng hộ" mụ, ngay trong văn phòng Cơ quan. 

Chẳng là bữa làm xong cung, Goldman phải đưa cho phạm nhân Vera coi lại và ký. Ký thêm "Tờ cam kết không tiết lộ", đúng thủ tục 206. Đằng nào cũng bị nên Vera làm bộ công dân tốt, xin ông điều tra viên cho hành xử đúng mức quyền coi lại khẩu cung và thủng thỉnh đọc từng hàng một xấp hồ sơ cung từ của 17 đồng phạm trong nhóm "tôn giáo phản động". Giận như điên song Goldman buộc lòng phải để phạm nhân đọc lại, đúng luật nhà nước. Nhưng đợi mụ đọc xong thì quá buồn ngủ nên điều tra viên Goldman hậm hực lôi Vera ra phòng ngoài có một số nhân viên đang ngồi làm để chỉ chỗ cho ngồi đọc chừng nào xong thì xong. Hắn bực bội bỏ đi chỗ khác. 

Thoạt đầu Vera Korneyeva cắm cúi ngồi đọc một mình. Thấy lạ một vài gã tới hỏi chuyện chơi vì họ làm mãi cũng phải buồn chớ. Vera "bắt chuyện" rồi thêm vài kẻ tới bàn góp, biến thành một cuộc thảo luận rồi thuyết giảng lúc nào không hay! Dĩ nhiên kẻ đứng lên diễn thuyết là nữ phạm nhân Vera. Diễn giả hăng hái, ăn nói hoạt bát, vài chục thính giả (ở các phòng bên thấy lạ chạy ra nghe) chăm chú theo dõi, có người còn đứng lên chất vấn yêu cầu giải thích rõ nữa! Dù diễn giả ngoài đời chỉ là thợ tiện, chăn nuôi gia súc nhưng điểm đặc biệt là dám xác nhận tín ngưỡng và mạnh dạn nói lên giữa văn phòng Cơ quan, cho chính cán bộ Cơ quan nghe! 

Dĩ nhiên những đề tài Vera nói chẳng hiểu gì. Toàn giọng điệu bất mãn, phản động, chống đối chính sách nhà nước! Thực tế có bao giờ nước Nga chịu nghèo nàn, khổ sở cỡ này! Sao cứ bắt bớ, khủng bố mãi các công dân lương thiện, ghép họ vào tội phản quốc để hạ sát, hạ ngục? Vậy khác nào nhà nước "tự chặt chân chặt tay" xã hội đã khốn đốn càng sa sút thêm, cũng như đàn áp tôn giáo chỉ làm cho các tín đồ bất mãn, vô tình đẩy họ vào thế phải chống lại chính sách nhà nước. 

Dĩ nhiên Vera gặp đâu nói đấy nhưng bữa đó thuyết giảng thật say vì thính giả cũng khoái nghe nhiều chuyện lạ. Bằng không lúc điều tra viên Goldman hay tin hốt hoảng chạy vô la lối đã chẳng bị chính các đồng chí cùng sở phản đối om sòm:

"Đi chỗ khác chơi cho nhờ tí nào! Yêu cầu đồng chí im đi để nghe người nữ này nói. Nói tiếp đi…" 

Vậy là Goldman đành chịu làm thính giả luôn để nghe người nữ Vera diễn giảng tiếp! Xin để ý danh từ người nữ họ dùng bữa đó. Một nữ phạm nhân đang bị thẩm vấn trong Cơ quan chẳng thể gọi bằng "bà" hay "cô, chị"… Gọi bằng "đồng chí" hoặc "nữ công dân" còn bất tiện nữa! Sao bằng bất ngờ nghe diễn giảng tôn giáo thì dùng luôn danh từ người nữ, chữ của Đấng Christ. 

Mẩu chuyện trên quả là tối bất thường trong sinh hoạt Cơ quan. Bình thường đã có nếp sẵn rồi: ngay Công tố viên Terekhov cũng chỉ thắc mắc, thương hại cho thằng tù đầu tiên mà hắn ký án tử hình. Hắn thú nhận có xúc động thiệt, nhưng chỉ một lần thôi. Sau này hắn xử tử bao nhiêu người không biết và dĩ nhiên không đếm nữa! 17 

Theo nhân chứng N.P. thì cán bộ cơ quan còn bọn nào lạnh lùng, sắt đá bằng cai ngục? Nhưng trong giây phút nào đó họ vẫn để lộ chút đỉnh nhân tính, như mụ cai ngục Trung ương khám đường Lêningrad áp giản nhân chứng đi thẩm vấn. Mặt mụ trơ như đá, mắt mở trừng nhưng vô hồn! Bỗng đâu có trái bom rớt kế bên khám đường, nổ như trời sập làm mụ gác khám hốt hoảng quá, quên mình là gác khám để ôm cứng lấy phạm nhân…sẵn sàng chia sớt tai nạn. Qua cơn oanh tạc thì nét mặt mụ trở lại lạnh như tiền, máy móc hô: "Đi mau... Tay đưa sau lưng…" 

Xưa nay người ta thường quan niệm một người độc ác: "Ông ấy đối với vợ con đàng hoàng quá mà?". Sự thực khác hẳn. Như ngài Chủ tịch Tối cao Pháp viện Golyakov ai chẳng ca tụng là người "giản dị, rảnh rang ưa làm vườn chăm sóc cây cỏ và chỉ có thú vui duy nhất là chơi sách". Người yêu sách thực tình, nghe nói chỗ nào có sách cũ quý báu là tới gấp, cũng như đọc không sót tác phẩm Tolstoi, Korolenko, Chekhov thật. Thích sách, khoái văn chương lắm nhưng ngài Chủ tịch Tối cao Pháp viện cũng từng lên án tử cả ngàn con người vậy. 

Còn ông Đại tá cần đến chút xíu nhược điểm đó cũng như hai thế kỷ nay giới lao Mật vụ cần đến mà xanh, màu xanh da trời để khoác lên cho nhân viên vậy. Nhân viên an ninh là phải đồng phục xanh da trời như thi sĩ Lermontov xưa kia ca tụng. Mũ xanh, cầu vai, huy hiệu nền xanh. Dù có lệnh nhân viên Cơ quan không được ăn mặc lộ liễu tạo sự tò mò, chú ý của quần chúng nên những món đồ trang trí là cầu vai, huy hiệu vẫn bắt buộc phải màu xanh da trời nhưng thu nhỏ bớt lại cho khỏi đập vào mắt. 

Bất quá màu xanh da trời cũng chỉ được sử dụng để che lấp bớt màu đen, che bớt những hành động trong bóng đêm đen. 

Có những hành động đen cần giấu cho kỹ chớ. Tay tổ Mật vụ Yagoda hẳn là rành nghề che đậy những vụ như dưới đây. Có mấy ai biết được - ngoài đám thân cận của nhà văn Gorky là người bồ bịch nhất với Yadoga hồi đó - là ông sếp Nội An có trò chơi bắn súng thật thú vị để thưởng thức với bè bạn. Vi-la của Yagoda có phòng tắm rất bảnh, phía ngoài là cả một hành lang dài bày thật nhiều tượng thánh. Trước khi vô phòng tắm, bọn Yagoda có cái khoái ở trần truồng xách súng lục nhắm nổ những pho tượng đó để tập bắn cho quen tay. 

Hiển nhiên đây là một trò chơi vô ý thức, độc ác. Nhưng làm vậy để làm gì? Có thực bọn họ dám chơi ác khơi khơi vậy? 

Cũng mong là thế gian này không có kẻ ác để bọn ác nhân chỉ có trong truyện nhi đồng thời cổ. Nhưng từ ngày các đại văn hào cỡ Shakespeare, Schiller, Dicken chế tạo ra những nhân vật càng ngày càng độc ác thì chính những ác nhân ngày xưa lai đâm ra quá hiền, hiền đến độ tội nghiệp! Kẻ ác thời xưa dám tự nhận họ tàn ác, linh hồn đen tối. Họ dám thẳng thắn tự thú: 

"Tôi làm ác quen rồi, bằng không sống không nổi. Tôi khoái tạo ra cảnh cha con chém giết nhau. Họ càng đau khổ tôi càng say sưa thưởng thức những đau khổ đó!" 

Giờ đây có ai chịu nhận tiếng ác một cách dễ dàng vậy? Muốn làm ác con người thời nay trước hết phải tự tin là họ làm lành, phải làm như vậy mới đúng luật thiên nhiên. Họ phải tìm bằng được mọi lý luận để biện minh là họ làm đúng. Ngày xưa Macbeth cũng từng biện minh nhưng đã biện minh yếu xìu nên mới có vụ "lương tâm cắn rứt". Chính tay tổ Yadoga cũng tự biện minh được mà. Tuy nhiên Shakespeare nếu có dựng vai trò đại ác thì cũng chỉ dám cho nhúng tay vào máu cỡ một chục mạng là tốp. Vì họ chưa có Ý THỨC HỆ. 

Chính ý thức hệ là một biện minh vô cùng hữu hiệu cho bất cứ một hành động tàn ác nào là điểm tựa cần thiết thúc đẩy bọn ác nhân xuống tay thẳng cánh. Có ý thức hệ để biện minh thì có phạm tội cũng phải được hiểu là làm điều thiện, do đó không được kết án, nguyền rủa, mà còn phải tuyên dương, ca ngợi. 

Thì ra ý thức hệ đã được sử dụng để con người có quyền phạm tội. Bọn xâm lăng đi chinh phục những nước khác cũng vì Tổ quốc vĩ đại. Đám thực dân chiếm thuộc địa nhân danh văn minh, khai hoá. Bọn Quốc xã vì thuần khiết dòng giống Nhật nhĩ mãn. Và sau cùng đám dân chủ giả hiệu xưa và nay thì nhân danh bình đẳng, bác ái và hạnh phúc của thế hệ mai sau. 

Chính vì ý thức hệ mà thế kỷ XX đã chứng kiến người tàn sát người, tính bằng số triệu. Đó là một sự kiện bất khả chối cãi, một tội ác không thể vượt qua. Có tội ác dĩ nhiên phải có người phạm tội. Nhưng ai dám phạm tội vĩ đại như vậy? Ai? Phải có. Nếu không thì lấy đâu ra quần đảo ngục tù? 

Giữa khoảng 1918-1920 có tin đồn cơ sở Cheka Petrograd của Uritsky, cơ sở Odessa của Deich không thèm xử bắn phạm nhân mà liệng thẳng vô chuồng cọp sở thú. Bao nhiêu người từng nạp thịt cho ác thú như vậy? Có thực vậy không hay chỉ là bịa? 

Thật ra tôi cũng chẳng bận tâm đòi bằng chứng mà bắt chước lề lối làm ăn của nghề Mật vụ, chỉ yêu cầu họ thử chứng minh ngược lại, nghĩa là không, hễ có vụ lấy thịt tù nuôi cọp. Xin cho biết mấy năm đói kém người còn đói thì lấy đâu ra thịt nuôi cọp sở thú? Có thể truất phần ăn của thợ thuyền, lao động được không? Trong khi đó đằng nào bọn tù cũng phải chết sao bằng lấy thịt của chúng nuôi cọp ăn cho khỏi tốn kém? Một biện pháp tiết kiệm đóng góp cho nền kinh tế mau thăng tiến. 

Đó chính là lằn ranh mà Shakespeare không dám cho những tên đại ác vượt qua. Với ý thức hệ thì ranh giới vượt qua dễ dàng! Khỏi xúc động, khỏi lương tâm cắn rứt. 

Lằn ranh này không khác biên giới của Vật lý học, phải hội đủ điều kiện mới có thể vượt biên. Chẳng hạn một mảnh lithiumrọi tia sáng màu vàng mạnh thế nào cũng không phát tia điện tử, nhưng chỉ cần một tia yếu ớt, màu xanh là có phản xạ liền. Dưỡng khí xuống 100 độ dưới không độ thì tha hồi tạo áp suất cũng vẫn là chất hơi. Phải 183 độ dưới không độ thì dưỡng khí mới biến sang thể nước. Lương tâm con người cũng có lằn ranh: Con người có thể suốt đời hoặc xấu hoặc tốt hay lúc xấu lúc tốt, nhưng miễn còn ở bên này ranh giới thì ác cũng còn có thể thành thiện, còn hy vọng cứu vãn nổi. Nhưng nếu tội ác chất chồng vì tính ác hoặc vì nhiều quyền thế tạo ra tội ác để đột ngột nhảy vọt qua lằn ranh, đứng hẳn sang bên kia biên giới của lương tâm thì con người vĩnh viễn chẳng bao giờ hồi đầu lại được. 

"Từ thời thượng cổ thời đại công lý vẫn giản dị là đạo đức thắng và tội ác bị trừng phạt." 

Thời buổi của chúng ta đạo đức không thắng nhưng chưa đến nỗi lúc nào cũng bị xé tả tơi bởi những hàm răng chó. Đạo đức còn có chỗ ngồi, dù tả tơi khốn khổ cũng còn được phép ngồi vô một góc, miễn đừng lên tiếng. 

Tội ác thực sự thì chẳng ai dám hó hé. Giả đạo đức cũng chẳng sao, chẳng phải là cái tội. Bao nhiêu triệu thường dân bị mất mạng nhưng thủ phạm thì không có vấn đề trừng phạt. Vừa mới hó hé: "Còn những người đã bị…" đã gặp muôn miệng nhao nhao phản ứng. Mới đầu hãy "khuyến cáo": "Kìa, đồng chí nói gì vậy? Mấy vết thương ngày xưa… khơi dậylàm chi?" 18. Nếu không biết đều tốp sẽ có chầu đe doạ bằng gậy: "Câm họng! Anh bị như vậy chưa tởm hả? Anh tưởng khôi phục xong (quyền công dân) rồi đấy?". 

Trong khi đó, cho đến năm 1966 nội bên Tây Đức cũng đã có tám mươi sáu ngàn phạm nhân chiến tranh Quốc Xã bị đưa ra Toà lãnh án 19. Vậy mà đất nước chúng ta vẫn sôi sục căm thù. Báo chí, rađiô hò hét tối đa, mít tinh biểu tình om sòm để công kích, phản đối: "Ít quá! Phạm nhân chiến tranh mà chỉ có tám mươi sáu ngàn tên thì quá ít. Hai mươi năm còn nhẹ quá! Phải xử tội nhiều nữa, xử nặng nữa". 

Cũng trong thời gian đó đất nước chúng ta trừng trị bao nhiêu phạm nhân chiến tranh? Vỏn vẹn khoảng mười tên, căn cứ theo tài liệu chính thức của Ban Quân sự, Tối cao Pháp viện Liên bang Xô Viết. 

Thì ra chúng ta hô hào trừng trị phạm nhân chiến tranh, nhưng ở bên Đức. Còn bọn ở vùng phụ cận Mạc Tư Khoa, ở trong các biệt thự bãi biển Sochi thì vô tội. Chúng ta còn tránh đường cho bọn họ đi, làm như bọn họ không liên can gì đến sự thảm tử của bao nhiêu người chồng, người cha Xô Viết. Đừng nhắc tới là: "Đào bới dĩ vãng làm chi!" Đừng quên rằng tính tỷ lệ dân số, nếu Tây Đức có 86 ngàn phạm nhân chiến tranh thì đất nước chúng ta hẳn không dưới một phần tư triệu! 

Vì sợ khơi dậy những vết thương dĩ vãng mà 35 năm sau chúng ta vẫn không truy cứu, xét xử ai hết. Điển hình nhất còn ai bằng Molotov, con người cố tình ù lì không biết gì hết, nhưng máu dính đầy người và ngày giờ này ung dung cư ngụ ở số 3 đại lộ Granovsky, ra ngoài đường một bước cũng ngự chiếc xe hơi khổng lồ! Cũng phạm nhân chiến tranh, cũng nhúng tay vào tội ác mà Đức trừng phạt được còn Nga thì không. Đoạn đường tương lai rồi sẽ ra sao nếu có ung nhọt mà không tẩy uế? Hết còn "làm gương cho thế giới soi chung"! 

Một sự kiện nổi bật trong những phiên xử phạm nhân chiến tranh ở Đức. 

Thỉnh thoảng lại có một bị cáo hai tay che mặt, không thanh minh nữa, không xin Toà khoan hồng. Họ thú nhận là trước Toà, chỉ nghe lại những tội ác của chính họ ngày nào cũng ghê tởm, chán nản đến không muốn sống nữa. Đó mới là hình phạt nặng nhất, buộc bị cáo phải kinh tởm những tội ác do họ gây ra. Bị lần lượt lên án 86 ngàn lần trước Toà, bị chính thế hệ sau và báo chí dư luận trừng phạt như vậy thì tội ác hiển nhiên tẩy sạch. 

Trong khi đó thế hệ chúng ta sẽ bị đời sau liệt vào hạng mềm lưng, vô tích sự. Đã khứng chịu xuôi tay để bọn họ làm thịt đến số triệu lại còn lo đãi ngộ xứng đáng quân sát nhân ở tuổi "mãn chiều xế bóng" của chúng! Biết làm gì đây khi truyền thống hội ngộ của nước Nga xưa đối với họ là cả một sự vô lý? Biết làm gì khi chỉ cần khui lai một phần trăm tội ác ngập ngụa thì chính sự hãi hùng kinh hoảng của họ cũng đánh dạt những ý thức Công lý. Khi quyền lợi của họ được tưới bằng máu nạn nhân và chính họ nhất định níu cứng lấy. 

Phải hiểu rằng lớp người đích thực chỉ huy guồng máy nghiến thịt người từ 1937 trở lại đây hẳn không còn trẻ nữa. Họ phải từ 50 đến 80 tuổi rồi. Nghĩa là ở thuở trai trẻ đã hưởng thụ bằng thích, họ đã sung sướng đã đời rồi, ngày giờ này biết trừng phạt cỡ nào, bao lâu nữa cho cân xứng tội lỗi? 

Dĩ nhiên chúng ta không mang họ ra xử bắn. Chúng ta cũng không thèm bắt họ nếm những ngón đòn tra tấn đặc sắc của chính họ. Đại để dộng nước muối vô họng, cho rệp hút máu đến lả người, uốn ngược cho cong xương sống, cấm ngủ trọn tuần, lấy mũi giày nghiến chỗ kín hay dùi cao su đặc, đánh đai sắt quanh xương sọ, nhét vô xà lim như cá hộp… Không, chúng ta không thèm trả thù như vậy. Vì đất nước này, vì tương lai của thế hệ mai sau chúng ta có bổn phận phải truy lùng bằng hết, phải đưa bọn trọng phạm ra Toà xét xử. Không cần vạch rõ từng tội mà chỉ buộc từng tên một phải lớn tiếng xác nhận rằng: 

"Tôi là đao phủ. Tôi đã giết người!" 

Một câu đó nhắc đi nhắc lại hai trăm năm mươi ngàn lần hẳn phải đủ chớ? Nhưng 250 ngàn lần vì không lẽ chúng ta chịu thua Tây Đức? Không lẽ ở giữa thế kỷ thứ XX này lại có thể có sự mù mờ, không phân biệt nổi thứ trọng tội ác ôn bắt buộc phải đưa ra Toà trừng trị với cái gọi là "dĩ vãng" không nên "khuấy động" trả lời? 

Chúng ta phải công khai lên án chính cái tư tưởng một vài người có quyền đàn áp những kẻ khác. Biết là tội ác mà ngậm miệng, vùi sâu nó xuống để không ai nhìn thấy nữa là gieo giống cho tội ác nảy mầm để sau này độc hại ngàn lần hơn. Biết bọn phạm tội không trừng trị, trách phạt còn dung dưỡng khác nào tự tay phá vỡ nền móng Công lý tương lai. 

Vì công lý rạn nứt từ nền móng, thế hệ mai sau sẽ trưởng thành trong dửng dưng. Không phải thiếu căn bản học tập tư tưởng. Chắc chắn bọn trẻ sẽ lớn dần với ý tưởng phạm tội đã chẳng sợ trừng phạt mà cuộc đời rõ ràng khấm khá. Chao ôi, sống sao nổi trong một xã hội ung nhọt cỡ nào!

--------------------------------
1
Đó là một sự thật muốn cãi cũng không nổi. Từ thời gian, phương pháp đều in hệt nhau. Những ai từng nếm mùi điều tra của cả Gestapo lẫn KGB đều biết quá rành rẽ. Còn ai bằng Yevgeny Ivnovich Divnich, giáo sĩ Chính thống giáo? Người từng bị Gestapo tra tấn vì hoạt động Cộng sản trong hàng ngũ công nhân Nga ở Đức và KGB điều tra vì liên lạc với tư bản quốc tế. Xét về nghề nghiệp thì Gestapo còn khai thác Divnich để phăng ra sự thực và không tìm ra bằng chứng đương sự còn được thả ra. Với KGB thì sự thực không cần thiết và bắt được người nào cũng không có vấn đề thả.
2
Chú thích của Solzhenitsyn: "Thuyết phục" đây có nghĩa lịch sự. Cần phải thêm vô: "Thuyết phục bằng… đòn", nghĩa là tra tấn.
3
Trong hàng ngũ cộng sản thì nhóm Leningrad không có nghĩa là nhóm đệ tử của Lênin mà dơn giản chỉ là những tay nhiều tuổi Đảng.
4
Như Volkopalyov, một điều tra viên dữ dằn gốc Nam Tư thình lình được đổi qua Moldavia làm Công cán Ủy viên đặc trách Tôn giáo vụ.
5
Đó là trường hợp ông Viktor Nicolaiyevich Ilin đang mang quân hàm Đại tướng trong Bộ Nội An bỗng biến hình thành Bí thư Hội Nhà văn Liên Xô.
6
Theo hồi ký của Ivnov Razumnik thì phạm nhân Vasilyev đã được thưởng thức mục này.
7
Như điều tra viên Polahiko, Ty Nội An Kemerovo đã từng biểu diễn.
8
Lâu nay tôi tính viết một câu chuyện tựa đề "Người vợ hư" nhưng chưa kịp cho ra bỗng đâu có một chuyện thực xảy ra ở ngoài đời nên xét ra khỏi cần viết. Chuyện xảy ra ở một căn cứ phi trường Viễn Đông trước khi bùng nổ chiến cuộc Triều Tiên. Có ông Trung tá đi công tác về hay tin vợ đau nằm nhà thương. Lật đật vô thăm thì ông bác sĩ cho hay bà Trung tá bị hư hỏng bộ phận kín vì những trò ngược đời. Dĩ nhiên không phải do mình làm nên. Ông Trung tá gạn hỏi mãi thì được biết thủ phạm vụ "hành hạ" là ông Trung úy An ninh trong đơn vị, với sự cộng tác phần nào của nạn nhân. Giận quá ông Trung tá vác súng đến tận buya-rô gã Trung úy tính nổ…, nhưng sau đó người lủi thủi ra về như mèo cắt tai. Thì ra ông chồng bị doạ cho đi đày chung thân, ở một chỗ dữ nhất nên đành phải đầu hàng, vui nhận lãnh bà vợ hư hỏng nặng mà bệnh viện chữa không nổi về nhà làm vợ làm chồng y như cũ, không có chuyện gì xảy ra, không được ly dị, không dám kêu ca chỉ sợ ông Trung úy báo cáo một phát là chết rục xương trong tù. Chuyện này do gã tài xế tin cẩn của ông Trung úy An ninh kể lại.
Những vụ cưỡng đoạt ái tình của nhân viên Cơ quan đâu có ít. Nhiều người biết nhất là vụ ông sĩ quan có thế lực ở Bộ Nội An năm 1944 ép buộc cô con gái ông Tướng Bộ binh phải lấy đương sự bằng không thì ông Tướng đi tù. Cô gái có vị hôn phu rồi đành phải chấp nhận làm bà Sĩ quan An ninh vì quá thương cha, nàng ghi từng ngày từng giờ nhật ký về cuộc hôn nhân cưỡng ép ngắn ngủi. Ít lâu sau nàng tìm cách trao cuốn nhật ký cho tình quân rồi tự hủy mình.
9
Vụ nhặt nhạnh đồ này không ngờ có hậu quả trầm trọng. Năm 1954 sau khi đi đày về với một bản án tử hình được ân xá, chính nạn nhân Strakhovich muốn quên hết, tha thứ hết nên khuyên can hết lời nhưng bà vợ quá uất ức nhất định đầu đơn tố cáo Kruzhkov. Vì đây chẳng phải lần đầu tiên ông điều tra viên làm ẩu, vả lại người còn dám đụng chạm tới vật mà CƠ QUAN đã niêm phong, tịch thu nên Kruzkov bị lãnh án tối đa 25 năm. Tuy nhiên không hiểu đương sự có phải ở đủ án không?
Xin nhắc rõ đây là ông Đại úy Sazenko chứ không phải ông Sayenko thợ mộc, nhân viên Cheka khoảng 1918-1919 nổi tiếng vùng Kharkov về kỹ thuật hạ sát tù nhân bằng nhiều kiểu: kê súng sát mang tay lảy cò, lấy kiếm đục lỗ, bẽ gãy ống quyển, lấy quả tạ đập bẹp đầu, nung sắt đỏ đánh dấu. Có thể hai người có họ.
Vụ Cán bộ hy sinh vợ để tiến thân này chỉ là một trong cả ngàn vụ tương tự.
Theo ý Ryumin đã phản thầy từ lâu… chớ chẳng đợi tới lúc vô Điện Cẩm Linh triều kiến Stalin. Trước đó trò đã âm thầm tách rời thầy và thầy trò bất đồng ý kiến về hồ sơ Etinger thì trò nghiễm nhiên thủ tiêu luôn nhân chứng. Biết đâu chừng Stalin đã sắp đặt vụ này từ trước để bật đèn xanh cho Ryumin hành động?
Theo ý tôi Abakumov nói đúng. Kể về đại cương thì Terekhov là con người can đảm, nhiều thiện chí và nghị lực. Phải vậy mới đủ tư cách chấp cung đám đệ tử ruột của Stalin giữa thời buổi khó khăn đó. Nếu hồi đó Krushehev định "sửa sai" thật là làm tốt chế độ tận tình thì Terekhov chắc chắn làm được việc và có thể làm được một cái gì để đời sau ghi nhớ. Nhưng nước Nga vốn thiếu những lãnh tụ có thể làm nên lịch sử.
Tiện đây người dịch xin chú giải về một số danh xưng chỉ để chỉ định cơ quan Mật vụ Nga mà nhiều người ưa dùng lầm. Xin nói rõ là Mật vụ Nga thì thời nào cũng có, chỉ có khác tên. Vậy theo thứ tự thời gian thì thời nào cũng có, chỉ có khác tên. Vậy theo thứ tự thời gian thì ít ra ta cũng bắt gặp ngần nay tên thông dụng:
1881-1917: OKHRANA tức Mật vụ thời Nga hoàng, viết tắt thay cho Bộ Bảo vệ An ninh Trật tự Công cộng.
1917-1952: CHEKA, tên nguyên thủy của Mật vụ Nga sau ngày Cách mạng tháng Mười. Danh từ Cheka cho đến bây giờ vẫn còn được dân nhà nghề chịu xài.
1922: GPU viết tắt thay cho chính trị sự vụ Nhà nước. Dù chính thức đổi tên khác nhưng GPU vẫn được xài ít lâu sau.
1922-1934: OGPU là thối thân của GPU, thay cho Chính trị Sự vụ Nhà nước Liên bang.
1934-1944: NKVD thay cho Phủ Đặc ủy Nội vụ, cơ quan nhiều quyền hành trước và trong thời Thế chiến II.
1943-1946: NKGB thay cho Phủ Đặc ủy Nội an.
1946-1953: KGB thay cho Bộ Nội An (từ Phủ nâng lên Bộ).
1953: MVD thay cho Bộ Nội vụ. Danh xưng này chỉ xài ít lâu, ít phổ biến.
1953-1974: KGB viết tắt thay cho Ủy ban An ninh Nhà nước. Cho đến bây giờ vẫn thông dụng để chỉ định Cơ quan Trung ương chuyên trách Mật vụ, An ninh, gián điệp. Còn có những ban đặc biệt thống thuộc như SMERSH (phản gián). OSB (An ninh Quân đội).
Abakumov còn khoái một trò khác người nữa là hồi còn quyền thế, hắn ưa mặc thường phục, bắt một mình xếp cận vệ Kuznetsov đi theo để hai thầy trò "vi hành" dạo chơi ở các ngả đường Mạc Tư Khoa. Hắn đi tùm lum cùng khắp và thấy kẻ khó còn móc túi lấy tiền bố thí (dĩ nhiên là trích quỹ mật phí của Cơ quan!). Phải chăng Abakumov thuộc lớp người cổ, còn tin rằng "bố thí chút đỉnh để gõ phần nào tội nghiệt"?
Hồi Thế chiến II một sĩ quan KQ gốc Leningrad vừa nằm quân y viện Ryazan vội chạy tới Viện Bài lao năn nỉ: "Làm ơn tìm cho ra một ca đau phổi giùm tôi gặp. Tôi sắp bị đề nghị sang Cơ quan công tác!"
Tôi còn giữ mãi một kỷ niệm về vụ đổ máu của ông Công tố Ủy viên Terekhov. Tôi được người tiếp trong văn phòng đề cao chính sách tư pháp chí công của chế độ Krushchev.Vì hăng say thuyết phục người lỡ đập quá mạnh trên mặt bàn buya-rô làm mặt kiếng bể làm cắt đứt lớp da ngoài cổ tay. Máu tuôn nhỏ giọt, người nhận chuông kêu lên thuộc hạ vô băng đỡ. Sĩ quan trực mang bông, băng, thuốc đỏ và làm cấp kỳ nhưng mỗi lần Terekhov vung mạnh tay là máu lại nhỏ ra ướt băng. Có lẽ Trời muốn ông Công tố có dịp hiểu thế nào là đổ máu, có cấp cứu cũng chỉ giới hạn được phần nào. Trong đời Terekhov hắn đã ký án lệnh làm đổ máu bao nhiêu con người đau khổ rồi?
Ngay cuốn tiểu thuyết Một ngày trong đời Ivan Denisovich cũng bị chỉ trích là "cố tình khơi dậy những vết thương dĩ vãng". Nhóm chỉ trích mạnh nhất là mấy ông Mũ Xanh, cai ngục về hưu. Họ cho rằng cuốn sách có thể có tác dụng khơi dậy vết thương lòng củanhững người từng bị đày ải trong quần đảo ngục tù mới là trớ trêu! Sự thực chính họ mới là những người sợ "khơi dậy"!
Bên Đông Đức trái lại chưa hề nghe thấy vụ xử tội phạm nhân chiến tranh. Dĩ nhiên không phải không có, mà phải hiểu rằng bọn cựuQuốc xã đã được sử dụng để phục vụ cho tân chế độ. Đối với nhà nước họ không phải phạm nhân nữa mà là cán bộ tốt.





  1      2      3      4     5      6      7

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét