Em bé ngày xưa, nay là Trung Tá Kimberly
M. Mitchell
|
Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, một em bé 4
tháng tuổi nằm trên xác mẹ trên Đại Lộ Kinh Hoàng; em đang trườn người trên bụng
mẹ tìm vú để bú nhưng mẹ đã chết từ bao giờ. Một người lính Quân Cụ chạy ngang,
bồng em bé bỏ vào chiếc nón lá rồi chạy qua cầu Mỹ Chánh, trao lại cho một Thiếu
úy Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân.
Bao năm trôi qua, em bé mồ côi mẹ nay trở
thành Trung Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ còn người Thiếu úy TQLC sang Hoa Kỳ theo
diện HO nay đang định cư tại tiểu bang New Mexico. Hai người vừa gặp nhau sau
41 năm bặt vô âm tín. Ngày Thứ Ba 2 tháng 4, 2013 vừa qua, nhân dịp sang
California dự lễ cưới, người Thiếu Úy TQLC này đã kể cho phóng viên Viễn Đông
câu chuyện cảm động và ly kỳ ngay tại khách sạn nơi ông đang tạm cư ngụ.
Người Thiếu Úy TQLC tên là Trần Khắc Báo.
Vào thời điểm 1972 ông còn độc thân và phục vụ tại Đại Đội Vận Tải Sư Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến, được biệt phái sang Phòng 4 của Sư Đoàn làm sĩ quan phụ trách
chuyển vận. Vào sáng 1 tháng 5 năm 1972, Thiếu Úy Báo được lệnh cấp trên, cùng
một số đồng đội mở cuộc hành quân để giúp di chuyển Tiểu Đoàn 7 TQLC ra khỏi
vùng vừa bị thất thủ thuộc tỉnh Quảng Trị vì một số đông quân nhân bị thất lạc
không tìm thấy vị chỉ huy của họ. Ngoài ra, ông cũng xin lệnh giúp di tản các
Quân, Dân, Cán, Chính khác đang tìm đường chạy về phía nam sông Mỹ Chánh là nơi
quân đội VNCH còn đang trấn giữ; ông được cấp trên chấp thuận.
Khi đơn vị ông đến cầu Mỹ Chánh (Quảng Trị)
thì nơi đây là phòng tuyến cuối cùng của VNCH để ngăn chặn quân Bắc Việt tràn
xuống phía Nam. Ông đã chỉ huy 20 quân xa GMC thực hiện cấp tốc cuộc di tản suốt
ngày. Đến khoảng 4 hay 5 giờ chiều ông Trần Khắc Báo nhìn thấy thấp thoáng bên
kia cầu còn một người đang ôm chiếc nón lá thất thểu đi qua với dáng điệu hết sức
mỏi mệt. Ông định chạy qua giúp người này nhưng vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn 5 TQLC đang trách nhiệm trấn giữ tại đó la lớn:
“Cây cầu tao đã gài mìn, có thể nổ và sẵn
sàng phá hủy khi thấy chiến xa Việt Cộng xuất hiện, đừng chạy qua, mày sẽ bị bỏ
lại bên đó không về lại được đâu nghe!”
Ông cố nài nỉ:
Đại Bàng chờ em một chút, cho em cứu người
cuối cùng này.”
Và ông chạy đến đưa người này qua cầu. Thấy người này đi không nổi, thất tha thất thểu mà tay còn cố ôm vòng chiếc nón lá, Thiếu Úy Báo nói đùa:
Và ông chạy đến đưa người này qua cầu. Thấy người này đi không nổi, thất tha thất thểu mà tay còn cố ôm vòng chiếc nón lá, Thiếu Úy Báo nói đùa:
“Đi không nổi mà còn mang theo vàng bạc châu
báu gì nữa đây cha nội?”
Người ôm vòng chiếc nón lá nói:
“Em là lính Quân Cụ thuộc Tiểu Khu Quảng Trị,
trên đường chạy về đây em thấy cảnh tượng hết sức thương tâm này, mẹ nó đã chết
từ bao giờ không biết và nó đang trườn mình trên bụng mẹ nó tìm vú để bú, em cầm
lòng không được nên bế nó bỏ vào chiếc nón lá mang đến đây trao cho Thiếu Úy,
xin ông ráng cứu nó vì em kiệt sức rồi, không thể đi xa được nữa và cũng không
có cách gì giúp em bé này.”
Nói xong anh ta trao chiếc nón lá có em bé
cho thiếu úy Báo.
Ngừng một chút, ông Báo nói với chúng tôi:
“Mình là người lính VNCH, mình đã được huấn
luyện và thuộc nằm lòng tinh thần ‘Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm’ nên lúc đó
tôi nghĩ trách nhiệm của mình là lo cho dân nên tôi nhận đứa bé và nói với người
lính Quân Cụ: ‘Thôi được rồi, để tôi lo cho nó, còn anh, anh cũng lo cho sức khỏe
của anh, lên GMC đi để chúng tôi đưa anh về vùng an toàn.”
Một Số Cán Binh Cộng Sản Bắc Việt Đền Tội Tại Chiến Trường Quảng
Trị
|
Sau đó, người sĩ quan TQLC ôm em bé leo lên
chiếc xe Jeep chạy về Phong Điền, cách đó khoảng 20 cây số. Trên đường đi, ông
Báo cảm thấy rất bối rối vì em bé khóc không thành tiếng vì đói, khát mà ông
thì còn là một thanh niên trẻ (lúc đó mới 24 tuổi) chưa có kinh nghiệm gì nên
ông hỏi người tài xế, bây giờ phải làm sao? Người tài xế tên Tài trả lời:
“Ông thầy cho nó bú đi! Ông thầy không có sữa
thì lấy bi đông nước chấm đầu ngón tay vào nước để vào miệng nó cho nó bú.”
Ông Báo làm theo lời chỉ và em bé nín khóc rồi
nằm im cho đến khi ông đưa em vào Phòng Xã Hội của Lữ Đoàn TQLC. Tại đây, gặp
Thiếu tá Nhiều, Trưởng Phòng 4 TQLC, ông trao em bé cho Thiếu tá Nhiều và nói:
“Thiếu tá, tôi có lượm một em bé ngoài mặt
trận, xin giao cho Thiếu tá.”
Ông này nhìn ông Báo cười và nói:
“Mày đi đánh giặc mà còn con rơi con rớt tùm
lum!”
Ông Báo thanh minh:
“Không! Tôi lượm nó ngoài mặt trận; nó đang
nằm trên xác mẹ nó.” Thiếu tá Nhiều bảo:
“Thôi, đem em bé giao cho Phòng Xã Hội để họ
làm thủ tục lo cho nó.” Sau đó, ông Báo đưa em bé cho một nữ quân nhân phụ
trách xã hội. Cô này nói với ông:
“Thiếu úy giao thì Thiếu úy phải có trách
nhiệm, vì em bé này ở ngoài mặt trận thì Thiếu úy phải cho nó cái tên và tên họ
Thiếu úy nữa để sau này nó biết cội nguồn của nó mà tìm.”
Lúc đó, ông còn độc thân nhưng trong thâm
tâm ông vốn nghĩ rằng sau này khi ông cưới vợ, nếu có con gái ông sẽ đặt tên là
Bích, nếu con trai ông sẽ đặt tên là Bảo, nên sau khi nghe người nữ quân nhân
nói, ông Báo đặt ngay cho em bé cái tên là Trần Thị Ngọc Bích.
Sau đó ông trở về đơn vị và cuộc chiến ngày
càng trở nên khốc liệt cho tới tháng 3/1975, đơn vị ông bị thất thủ cùng Lữ
Đoàn 2 TQLC ở Huế và ông Báo bị bắt làm tù binh. Mãi đến năm 1981 ông được thả
về. Tháng 9/1994 ông được sang định cư tại thành phố Albuqueque, tiểu bang New
Mexico…
EM BÉ MỒ CÔI GẶP MAY MẮN
Em bé Trần Thị Ngọc Bích được Phòng Xã Hội
Sư Đoàn TQLC đem đến Cô Nhi Viện Thánh Tâm Đà Nẵng giao cho các Dì Phước chăm
sóc. Số hồ sơ của em là 899.
Một hôm có ông Trung Sĩ Hoa Kỳ thuộc binh chủng
Không Quân phục vụ tại phi trường Đà Nẵng tên là James Mitchell vô Cô Nhi Viện
xin nhận một trong các em tại đây làm con nuôi. Em Trần Thị Ngọc Bích may mắn lọt
vào mắt xanh của ông James Mitchell và trở thành thành viên của gia đình này từ
đó đến nay.
Sau khi rời khỏi binh chủng Không Quân, ông
James Mitchell trở về Hoa Kỳ vào cuối năm 1972. Ông quyết định mang theo đứa
con nuôi Trần Thị Ngọc Bích, lúc đó em mới được 6 tháng.
Hai ông bà Mitchell đặt tên Mỹ cho em là
Kimberly Mitchell. Em ở tại trang trại của gia đình tại Solon Springs, tiểu
bang Wisconsin. Kimberly Mitchell lớn lên tại đây và được bố mẹ nuôi rất thương
yêu, coi như con ruột. Em được đi học, tham gia thể thao và vào hội thanh niên.
Lớn lên em vừa đi học vừa phụ giúp cha mẹ nuôi bò và làm phó mát. Cái tên Trần
Thị Ngọc Bích đã bị quên lãng từ đó, và Kimberly Mitchell cho biết, mỗi khi nghe
ai nói gì về Việt Nam, cô thường tự hỏi, Việt Nam là đâu nhỉ?
Một Số Đồng Bào Bị Việt Cộng Sát Hại
Trên Đường Lánh Nạn
|
Khi đã có trí khôn, Kimberly Mitchell nhận
thấy mình không phải người Mỹ như bố mẹ, không phải con lai, không phải người
Tàu. Cô không biết mình là người nước nào và cứ mang cái thắc mắc đó mãi mà
không ai có thể trả lời cho cô.
Một hôm, Kimberly Mitchell đánh bạo hỏi bố:
“Con muốn biết con người gì, nguồn gốc con ở
đâu? Tại sao con lại là con bố mẹ?”
Bố nuôi James giải thích cho cô:
“Con là người Việt Nam, bố mẹ xin con từ
trong viện mồ côi ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nếu con muốn tìm nguồn cội của con, con
có thể về Đà Nẵng, may ra tìm được tông tích của gia đình con.”
Ngay từ khi Kimberly còn học lớp ba, bố nuôi
em đã muốn sau này cho Kimberly gia nhập Không Quân nhân khi cô được chọn tham dự
hội thảo về nghệ thuật lãnh đạo dành cho những học sinh xuất sắc. Nhưng rồi định
mệnh xui khiến, cô lại theo Hải Quân. Trong thời gian theo học, Kimberly
Mitchell phải bỏ học một năm vì bố nuôi qua đời năm 1991 trong một tai nạn tại
trang trại của gia đình. Sau đó cô trở lại trường và tiếp tục học. Năm 1996 cô
tốt nghiệp Cơ Khí Hàng Hải và phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ và hiện nay mang cấp
bậc Trung Tá, Phó Giám Đốc Văn Phòng Trợ Giúp Quân Nhân và Thân Nhân tại Ngũ
Giác Đài.
Năm 2011, Kimberly Mitchell trở về cố hương
với tư cách một nữ Trung Tá Hải Quân, Quân Lực Hoa Kỳ, mong gặp lại người
thân. Đến Viện Nuôi Trẻ Mồ Côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng, cô may mắn gặp được Sơ
Mary, người tiếp nhận cô năm 1972 từ một nữ quân nhân Phòng Xã Hội Sư Đoàn
TQLC. Giây phút thật cảm động, nhưng Kimberly chỉ được Sơ Mary cho biết:
“Lúc người ta mang con tới đây, con mới có 4
tháng và họ đặt tên con là Trần Thị Ngọc Bích. Họ nói mẹ con đã chết trên Đại Lộ
Kinh Hoàng, con được một người lính VNCH cứu đem đến đây giao cho Cô Nhi Viện rồi
đi mất, vì lúc đó chiến tranh tàn khốc lắm.”
Kimberly không biết gì hơn và cô quay trở lại
Mỹ. Sau khi đã biết mình là người Việt Nam, thỉnh thoảng cô viết trên website
câu chuyện của mình.
GẶP LẠI CỐ NHÂN
Ông Trần Khắc Báo đưa cho chúng tôi xem một
số hình ảnh, một số báo tiếng Việt và mấy tờ báo tiếng Anh đăng hình cuộc gặp gỡ
giữa gia đình ông và cô Trần Thị Ngọc Bích, và nói:
“Sau khi ra tù Việt Cộng, tôi cũng cố tìm hiểu
xem em bé Trần Thị Ngọc Bích nay ra sao, kể cả người lính Quân Cụ năm xưa,
nhưng tất cả đều bặt vô âm tín. Một hôm tình cờ tôi đọc được một bài viết của
tác giả Trúc Giang trên tờ Việt Báo Hải Ngoại số 66 phát hành tại New Jersey,
tác giả kể lại câu chuyện đi Mỹ của một em bé trong cô nhi viện Đà Nẵng mang
tên Trần Thị Ngọc Bích. Đọc xong tôi rất xúc động pha lẫn vui mừng, vì có thể
80, 90% cô Ngọc Bích đó là do mình cứu và đặt tên cho cô.”
Sau đó, ông nhờ người bạn tên là Đào Thị Lệ
làm việc trong New York Life, có chồng người Mỹ và có em cũng ở trong Hải Quân
Hoa Kỳ, liên lạc tìm kiếm Mitchell. Và chính cô Đào Thị Lệ là người đầu tiên trực
tiếp nói chuyện với Trần Thị Ngọc Bích đang làm việc tại Ngũ Giác Đài.
Theo ông nghĩ, có thể cô Mitchell bán tín
bán nghi, không biết chuyện này có đúng không hay là chuyện “thấy người sang bắt
quàng làm họ” như ông cha mình thường nói. Nhưng sau khi nói chuyện với ông Trần
Khắc Báo, Mitchell quyết định tổ chức một cuộc hội ngộ trước các cơ quan truyền
thông. Cô xin phép đơn vị và mời được 7 đài truyền hình cùng một số phóng viên
báo chí từ Washington, D.C cũng như nhiều nơi về tham dự.
Cuộc hội ngộ, theo ông Báo cho biết, hoàn
toàn do cô Kimberly Mitchell quyết định, địa điểm là trụ sở Hội Cộng Đồng Người
Việt Quốc Gia New Mexico vào Thứ Sáu, ngày 29.8.2012. Cô đến phi trường vào tối
Thứ Năm 28.8, gia đình ông Báo ngỏ ý ra phi trường đón nhưng cô cho cô Đào Thị
Lệ biết là cô không muốn gia đình đón ở phi trường cũng như đưa vào khách sạn.
Cô muốn dành giây phút thật cảm động và ý nghĩa này trước mặt mọi người, đặc biệt
là trước mặt các cơ quan truyền thông, và cô muốn ông Báo mặc bộ quân phục TQLC
như khi ông tiếp nhận cô đưa đến Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC cách nay 41 năm.
Ông Trần Khắc Báo và Kimberly Mitchell
|
GIÂY PHÚT XÚC ĐỘNG
Gia đình ông Trần Khắc Báo gồm vợ và con gái
cùng có mặt.
Khi ông Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc
Gia hỏi cô Kimberly Mitchell:
“Cô đến đây tìm ai?”
Cô trả lời:
“Tôi muốn tìm ông Trần Khắc Báo.”
Vị Chủ Tịch quay sang ông Báo đang mặc quân
phục và giới thiệu:
“Đây là ông Trần Khắc Báo.”
Lập tức, Kimberly Mitchell Trần Thị Ngọc
Bích tiến lại ôm lấy ông Báo và cả hai cùng khóc nức nở.
Giây phút xúc động qua đi, cô Kimberly hỏi
ông Trần Ngọc Báo:
“Ông là người đã cứu mạng tôi, tôi mới có
ngày hôm nay; tôi xin cám ơn ông, và bây giờ ông muốn gì ở tôi?”
Ông Trần Khắc Báo nói:
“Thực sự bây giờ tôi chỉ muốn cô nói với tôi
một lời bằng tiếng Việt, cô hãy kêu tôi là “Tía”. Vì tất cả các con tôi đều gọi
tôi bằng Tía, tôi xem cô cũng như con tôi, tôi chỉ mong điều đó.”
Và Kimberly Mitchell đã gọi “Tía”.
Ông nói với chúng tôi:
“Bấy giờ tôi thực sự mãn nguyện.”
Trả lời các câu hỏi của chúng tôi, ông Trần
Khắc Báo cho biết, cô Kimberly chưa lập gia đình và cô có hứa sẽ thường xuyên
liên lạc với gia đình ông. Ông có nhắc cô Kimberly điều này, rằng cô không phải
là đứa trẻ bị bỏ rơi. Cô đã được những người lính VNCH có tinh thần trách nhiệm
cứu sống trên bụng mẹ cô đã chết, và chính ông đã đặt tên cho cô là Trần Thị Ngọc
Bích. Ông cũng mong rằng sau này, cô có thể trở lại Quảng Trị, may ra có thể
tìm ra tung tích cha cô hoặc người thân của mình. Ông Trần Khắc Báo cũng cho biết,
ông mất liên lạc với người lính Quân Cụ từ lúc hai người giao nhận đứa bé đến
nay.
Trong cuộc hội ngộ, trả lời câu hỏi của các
phóng viên Hoa Kỳ, nữ Trung Tá Kimberly Mitchell cho biết, cô có hai cái may.
Cái may thứ nhất là cô được tìm thấy và mang tới trại mồ côi. Cái may thứ hai
là được ông bà James Mitchell bước vào trại mồ côi và nói với các Sơ rằng, ông
muốn nhận em bé này làm con nuôi.”
Câu chuyện sau 41 năm kết thúc tốt đẹp, cô
Trần Thị Ngọc Bích đúng là viên ngọc quý trên Đại Lộ Kinh Hoàng như ý nguyện của
người đã cứu mạng em, vì chính cô đã làm vẻ vang cho dân tộc Việt khi cố gắng học
hành để trở nên người lãnh đạo xuất sắc trong Quân Lực Hoa Kỳ, một quân lực
hùng mạnh vào bậc nhất thế giới.
Người quân nhân binh chủng Quân Cụ và người
sĩ quan TQLC Trần Khắc Báo đã thể hiện tinh thần của một quân nhân Quân Lực
VNCH, luôn đặt Tổ Quốc – Danh Dự và Trách Nhiệm trên hết.
THANH PHONG
Nguồn: THỜI BÁO (The Vietnamese Newspaper)
TƯ LIỆU ĐỌC THÊM
Cuộc rút lui và thảm sát trên Đại lộ Kinh
Hoàng
Ngày 31 tháng 3, căn cứ hỏa lực của TD4 TQLC
tại núi Ba Hô và Sarge bị tràn ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối sau khi tổn
thất nặng. Ngày 1 tháng 4, các căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo kích nặng
nề nhưng nhờ hải pháo của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ nên QĐNDVN vẫn chưa chiếm được.
Tuy nhiên trước sức tấn công mạnh mẽ của QĐNDVN, lần lượt các căn cứ hỏa lực
A-1, A-2, A-3, A-4 do SD3BB trấn giữ, bị tấn chiếm, còn căn cứ Fuller và Khe
Gió thì di tản chiến thuật. Căn cứ Holcomb của TQLC cũng bị tràn ngập lúc 12 giờ
30 khuya đêm 2 tháng 4
Ngày 30 tháng 4, tư lệnh chiến trường kiêm
tư lệnh SD3 Bộ Binh Việt Nam Cộng hòa là Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, triệu tập
phiên họp đặc biệt và quan trọng để bàn kế hoạch giữ thành phố Quảng Trị và bỏ
căn cứ hỏa lực Ái Tử. Do đó, trong cuộc lui quân, trên 2.000 quân Việt Nam Cộng
hòa khi qua cầu Thạch Hãn thì cầu bị sập, khiến cho một số lớn chiến xa, xe cộ,
đại bác và quân trang quân dụng… phải bị bỏ lại phía bên kia cầu. Cùng với dòng
lính đang rút chạy, nhiều thường dân cũng nhập lại thành một đoàn dài lẫn lộn cả
dân và lính. Lúc đó Quốc lộ 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, đang bị QĐNDVN chiếm
và đóng chốt, nhất là cầu sông Nhung, nằm giữa Quốc lộ. Đoàn người xuôi Nam hỗn
loạn, lớp lính, lớp dân, lớp dân trộn vào với lính, bằng đủ loại phương tiện, từ
chạy bộ quang gánh đến quân xa, thiết giáp, xe đò, xe lam, xe máy. Một số quân
nhân còn khả năng tác chiến cá nhân hay ở cấp đơn vị nhỏ, mạnh ai nấy đánh và mạnh
ai nấy chạy nhưng không còn khả năng hành quân nhổ chốt mở đường. Tình trạng
này đã làm gián đoạn giao thông, đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây
số.
Theo RFA thì “hàng chục ngàn thường dân đã
chết trên đoạn đường này, và cái tên Đại lộ Kinh Hoàng được nhắc tới từ ngày
đó”.
Ngày 23 tháng 7 năm 2005 Giáo hội Phật giáo
Việt Nam làm lễ cầu siêu cho các liệt sĩ tại Nghĩa trang Trường Sơn. Tại đây,
sau khi dâng hương cúng tại đài liệt sĩ, Hòa thượng Thích Chánh Liêm, Trưởng
ban trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Trị, cho biết: “Năm 1972, trận chiến ở Quảng Trị
đã làm hàng chục nghìn người chết, con đường quốc lộ đoạn qua Hải Lăng bấy giờ
được gọi là ‘đại lộ kinh hoàng’, người chết la liệt. Tháng 8/1973 đã diễn ra một
lễ đại cầu siêu kéo dài 7 ngày 7 đêm. Hơn 3.000 tăng ni và hàng nghìn Phật tử
đã về đó tìm xác, chôn cất người chết. Tất cả đều được chôn cất đàng hoàng và
được làm lễ cầu an sinh linh. Bây giờ đi trên quốc lộ 1A, qua đó vẫn thấy Đài Địa
Tạng lưu giữ dấu ấn về đại lễ cầu siêu năm đó”.
(Theo Wikipedia tiếng Việt)
HÌNH NHỜ ĐĂNG
Có một độc giả tên là Nguyễn Đình Hướng
(Email: dhuong54@gmail.com) gởi cho chúng tôi một bức ảnh nói đó là “ông nội” của
“Em bé trên đại lộ kinh hoàng”. Ông này tên là Lê Quang Chung 91 tuổi hiện cư
trú tại làng An Lưu, Triệu Phong, Quảng Trị.
Chúng tôi đăng hình này theo yêu cầu và vì
lòng nhân đạo. Chúng tôi không chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin
này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét