Đi từ nửa đêm ở Chợ Đồn Con, Phú Bình, Thái
Nguyên, chỗ vợ con sơ tán, mờ sáng ngày 28 tháng 7 năm 1967, qua phà Đông Xuyên
sông Hồng, tôi đến ngay báo Nhân Dân. Rất sốt ruột. Muốn gặp Châu. Muốn xem anh
đã bình thường lại chưa. Mấy hôm trước tôi rủ anh xem “Chiến tranh và Hoà
bình”, phim Liên Xô chiếu nội bộ ở Viện bảo tàng cách mạng. Ghét Liên Xô, ghét
“hoà bình”, người xem chửi cả cụ Lev Tolstoi, “Sao cái bọn này chúng nó sợ
chiến tranh đến thế chứ nhỉ, lại đem chiến tranh ra doạ ta nữa”. Nhưng Châu rất
đăm chiêu, không để ý tới những cái đó. Lát sau thấy vẻ anh vẫn nghĩ ngợi, bồn
chồn, tôi hỏi có chuyện gì thì anh nói có chuyện hơi lôi thôi, anh vừa bị mất
mấy đoạn trích biên bản hội đàm mới đây của Đảng cộng sản Trung Quốc và Việt
Nam. Mất kèm cả cái quần lụa của vợ.
Tôi nói ngay:
- Kẻ trộm rồi. Nếu là công an thì họ cứ việc đưa lệnh khám nhà rồi bắt luôn đi thôi chứ việc gì phải bày chuyện ăn trộm?
- Hoàng Minh Chính bảo công an lấy - Châu nói - Ừ, Đĩnh thử đến Chính nói là kẻ trộm xem.
Sớm hôm sau tôi đến Chính. Cửa ra vào hành lang đóng, không muốn gọi ầm, tôi leo lên nóc bể nước rộng bằng hai gian phòng, toan mượn nó đi qua dẫy cửa sổ hành lang, ở trước buồng nhà sư Thiện Chiếu bên cạnh nhà Chính. Ai ngờ mái tôn ọp ẹp, tôi bỗng hoá thành tên trộm trong một phim gián điệp kẻ gian hài. Loảng xoảng thanh la chũm choẹ kinh kịch diễn ngoài trời có đến ba phút. Ngay cạnh dãy nhà trung độ lính bảo vệ trụ sở Quốc hội bên kia đường kiêm theo dõi Chính và sư Thiện Chiều.
Chính bảo tôi dứt khoát là công an lấy rồi. Tôi đã bàn với Châu, bảo Châu nếu họ hỏi thì cứ nói là đến tôi chơi, khi tôi đi rửa ấm chén pha nước, Châu thấy trên bàn có tài liệu hay thì lấy về xem xong trả sau, sợ mượn tôi không đưa vì là tài liệu tuyệt mật.
Biên bản này là một trong vài phần tử quan trọng cấu thành vụ án chống đảng, lật đổ, tay sai nước ngoài… Nhưng bản thân nó thì rất hay: cho thấy Bắc Kinh và Hà Nội bắt đầu mâu thuẫn nhau về hai vấn đề. Một là Đảng cộng sản Trung quốc cho rằng Mỹ thế nào cùng đánh Trung Quốc và khi ấy Liên Xô sẽ nhất định theo Mỹ đánh hôi; do đó hai, Việt Nam cần đánh đến cùng chớ nghĩ đến đàm phán. Stalin từng khuyên đừng vượt Trường Giang Nam hạ nhưng Trung Quốc không nghe. Không nói ra nhưng ngụ ý Việt Nam dừng đánh là nó sẽ rảnh tay đánh Trung Quốc dữ, vậy hãy ra sức phên giậu khỏe vào cho tôi.
Còn nay hốt vì Cách mạng văn hoá ngày thêm rối bét, triển vọng nguy hiểm, Lê Duẩn không dại hết lòng nghe đại hậu phương nữa mà muốn quay lại với “hai vai hai gánh ân tình” nên đáp lại rằng thứ nhất, nếu Mỹ đánh Trung Quốc thì Liên Xô nhất định giúp Trung Quốc chống Mỹ. Thế là hết theo Mao coi Liên Xô là phản thùng, đầu hàng Mỹ bỏ rơi Việt Nam cho Mỹ xâm lược như hồi Hội nghị trung ương 9. Và thứ hai, Việt Nam đánh đến cùng nhưng vẫn cần vừa đánh vừa đàm.
Một cuộc họp vậy là vô cùng quan trọng, theo chúng tôi. Một khe nứt ngoài sức tưởng tượng! Ngày nào ai nói vừa đánh vừa đàm, ai nói Liên Xô cũng bênh Trung Quốc mà chống Mỹ thì cầm chắc chết. Nay lại chính là Bộ chính trị.
Thay đổi quả là nhanh gọn. Trước kia ai li khai Liên Xô, tổ quốc của cách mạng vô sản thế giới thì chết, ai dè đến Nghị quyết 9 chửi Liên Xô phản động lại là tuyệt vời cách mạng.
Dân từ đó đẻ ra câu: sáng đúng chiều sai đến mai lại đúng. Và ông Trung Quốc bà Liên Xô, ông nhảy dây, bà đá bóng. Lộn tùng phèo hết.
Còn tại sao biên bản này đến tay Châu? Mỗi
Trung ương uỷ viên có một bản. Ung Văn Khiêm cho Thiện Chiếu mượn. Thiện Chiếu
đưa cho Chính. Chính chép lại những đoạn cốt yếu rồi đưa Châu. Thì lộ từ chỗ
Châu. Sau này khi đề nghị xoá án cho vụ xét lại, Nguyễn Trung Thành bảo tôi đó
là do đặc tình nó báo. Và, cũng theo Thành, nhờ cú bố trí “đánh cắp” tài liệu
và cái quần lụa “hoả mù” này, Lê Kim Phùng đã được Trung ương cấp cho cái nhà
rất sang, số 3 Lý Thường Kiệt, bên cạnh nhà Vũ Đình Huỳnh. Năm 1995, theo
Nguyễn Trung Thành gợi ý, “Phùng thích anh đấy, anh có khi vận động được Phùng
ủng hộ tôi”, tôi đã đến đưa thư động viên Phùng nên cùng Thành xin Trung ương
xem lại vụ án. Nhà quá đẹp, Trung Thành thêm một đời hàm bộ trưởng nữa cũng
chưa chắc có nổi. Nhưng Phùng đã theo Nguyễn Đình Hương khẳng định lại vụ án
xét lại.
Thiện Chiếu ở cạnh buồng Hoàng Minh Chính xem
vẻ ý hợp tâm đầu với nhau. Em trai nhà sư, Mười, học lý luận hội hoạ ở Liên Xô,
chuyện với tôi cũng ghè Mao ra phết. Thế nhưng Thiện Chiếu lên tên phố còn
Chính thì rẽ xà lim.
Thật tình lúc nghe Châu nói cũng như sau khi
đến Chính, tôi không hề lo. Dù công an có lấy nữa thì cũng chỉ là để đe cho sợ.
Chuyện bắt bớ, thủ tiêu đảng viên là của Stalin, của Mao, không thể xảy ra ở
Đảng cộng sản Việt Nam vốn giỏi xuê xoa để được tiếng thuận hoà. Tôi chỉ giảm
tin yêu Cụ Hồ vì cho rằng Cụ xoàng, chịu thua rồi thoả hiệp với Lê Duẩn, Lê Đức
Thọ ở Hội nghị trung ương 9 bởi có lẽ Cụ nghĩ thà đảng xộc xệch còn hơn để mất
đảng. Tôi vẫn tin Lê Duẩn, Lê Đức Thọ sau Nghị quyết 9 quyết định cho Cụ nghỉ
họp Bộ chính trị “vì lý do sức khoẻ” để rồi sau sang Trung Quốc chữa bệnh là
thật tình!
Nghị quyết 9 đã cơ bản thoả mãn yêu cầu của
Mao: bỏ Liên Xô, ngả hẳn theo Mao, phát động chiến tranh bởi “thiên hạ đại
loạn, Trung Quốc được nhờ” (hay nôm na là chúng mày chết cho ông sống) nhưng
Việt Cộng triệt hạ phái hữu quá chậm! Đến tháng 6-1967, tất cả những Lưu Thiếu
Kỳ, Đặng Tiểu Bình, gần hết Bộ chính trị và 11 nguyên soái đã bị Mao bỏ tù thì
ở Việt Nam, tuy nằm ở Bắc Kinh, Cụ Hồ vẫn nguyên thanh thế chủ tịch nước có thơ
gửi đồng bào, bộ đội và đặc biệt Giáp vẫn đầy đặn danh hiệu, chức vụ, quyền lực
tức là súng vẫn ở trong tay Giáp mà với Mao thì nòng súng đẻ ra tất cả! Tóm lại
Duẩn chưa thâu tóm được toàn bộ quyền lực và như vậy khả năng phản đòn của xét
lại Việt Nam còn lớn, khả năng Việt Nam ngừng đánh Mỹ vân có, bài bản của Mao
qua chiến tranh Việt Nam (chứ không phải chiến tranh lục địa - Đài Loan) để
thương lượng ngang thưng với Mỹ không thành.
Đến đây xin kể một vụ động trời mà sau này
Nguyễn Hưng Định, thư ký của phó thủ tướng Lê Thanh Nghị, một người trong cuộc
thuật lại với tôi. Theo lời Định thì lúc ấy Hà Nội hết nhẵn tên lửa. Do tên lửa
Liên Xô gửi cho Việt Nam qua đất Trung Quốc đã bị Trung Quốc giữ lại đòi khám và
“áp tống” sang Việt Nam. Biết Trung Quốc muốn đánh cắp bí mật làm tên lửa, Liên
Xô phản đối.
Cuối cùng, 28 Tết âm lịch Đinh Mùi, Cụ Hồ đành
cử Lê Thanh Nghị sang cầu khẩn Mao cho gặp. Nghị nói thưa Chủ tịch, lẽ ra Hồ
Chủ tịch chúng tôi sang gặp Chủ tịch nhưng Hồ Chủ tịch chúng tôi sức yếu không
thể đi. Mao bèn hỏi: “Sao mà yếu?” - “Dạ, Hồ Chủ tịch chúng tôi quá lo lắng vì
máy bay Mỹ đánh phá ác liệt mà chúng tôi thì hết tên lửa do Trung Quốc và Liên
Xô chưa thoả thuận được việc chuyển tên lửa”. Mao nói ngay: “Ồ, tưởng gì chứ
thế thì dễ”. Quay sang Chu Ân Lai: “Tổng lý giải quyết việc này để cho Hồ Chủ
tịch chóng khoẻ lại”. Chu nói: “Chủ tịch đã chỉ thị thì chẳng khó khăn gì”. Nói
đoạn quay sang Nghị hỏi tắp lự:
- Cách mạng văn hoá chúng tôi ngày ngày rầm rộ
như thế sao báo chí Việt Nam lại im?
Khổ, báo chí Việt Nam mà đưa tin thì bằng đem
xấu xa của đại hậu phương ra bêu với dân ư?
Nghị giải thích thế nào Định không nói mà tôi
cũng không hỏi, sợ anh giật mình ngừng chuyện.
Tiếp sau đó, Chu nói:
- Sáng mai ở Thiên An Môn hàng triệu Hồng vệ
binh chúng tôi biểu dương lực lượng ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ đó, xin mời phó thủ
tướng và các đồng chí đến dự.
Đã phóng cây lao đánh Mỹ của ông anh đi rồi
thì phải theo lao thôi! Cái phận nhờ vả mà! Không dự thì không tên lửa bắn máy
bay!
Sáng sau đến nơi, không thể không kinh ngạc
trước cảnh tượng Hồng vệ binh bao la, sôi sục. Đầy đất là người hò la, rợp trời
là cờ xí vùng vẫy, biểu ngữ… Sau phút kinh ngạc thì đến phút kinh hoàng. Có rất
nhiều biểu ngữ các tiểu tướng Hồng vệ binh chăng lên ở trước mặt các quan khách
Việt Nam đến dự đề rằng: Đả đảo Võ Nguyên Giáp, phần tử xét lại thối tha, tay
sai của Liên Xô phản động! Tôi hỏi Định:
- Đoàn ta bỏ về chứ?
- Bỏ thì người ta lập tức bỏ hết các thứ chi
viện.
Tôi nói:
- Thế nào trong thư khố của Đảng cộng sản
Trung Quốc chả có phim ảnh ghi lại cảnh thày trò các ông đứng trên lễ đài vẫy
tay hoan nghênh các biểu ngữ đòi đánh đổ Võ Nguyên Giáp. Hễ cần dí điện ta họ
lại xì các ảnh ấy ra.
Sáng hôm sau, theo lời Định kể, Lê Chung Thuỷ,
tham tán quân sự ở đại sứ quán ta đến nói Giáp ở trong nước điện ra yêu cầu đại
sứ ta phản đối Trung Quốc có bài báo viết Võ Nguyên Giáp âm mưu lật đổ Cụ Hồ!
Nghị bàn với Lý Tiên Niệm. Lý bảo nên để Lý nói lại với Bộ tư lệnh Hồng Vệ binh
rút bài báo đi. Thật ra bạn chỉ cốt cho một đòn xây xẩm để hãi mà dốc lòng theo
thôi. Cả nghìn năm kinh nghiệm Thiên triều úm doạ hầu quốc, Bắc Kinh thừa bùa
phép.
Và theo tôi, bắt đầu sợ Trung Quốc tanh bành
vì Cách mạng Văn hoá, Hà Nội có cơ bị bỏ bơ vơ giữa “chợ”… chiến trường, Lê
Duẩn đã nảy ý mau chóng giải phóng miền Nam bằng một cú đánh có tính quyết định
hy vọng qua đó thoát sớm được cuộc đại hỗn loạn của đại hậu phương và thế là
Duẩn xoá ngay kế hoạch của Võ Nguyên Giáp chỉ đánh Tây Nguyên lấy thanh thế rồi
rút, biến ý đồ duy ý chí Tổng tiến công - Tổng nổi dậy Tết Mậu Thân thành mục
tiêu chiến lược.
Nhưng đánh mạnh thì có khả năng Mỹ nhảy ra
ngoài Bắc, vậy phải tính đến khả năng vời đến quân chí nguyện Trung Quốc vốn
luôn đóng trực ở biên giới - sẵn sàng can thiệp theo thoả thuận từ đầu của cả
hai bên. Muốn thế phải có thế chấp lớn nộp gấp Bắc Kinh. Vụ án xét lại ra đời!
Tháng 2-1968 đánh, tháng 7-1967 bắt mẻ đầu tiên.
Lê Duẩn bản thân đã từng mấy phen bị Mao dí
điện. Một lần mời Duẩn xem một phim thời sự giới thiệu thế giới đả đảo xét lại
thì giữa trận bão ầm ầm trên màn hình bỗng hiện ra mắt bão êm ả: đó là cảnh Hồ
Chí Minh ôm hôn Kosygin đầu năm 1965 ở Hà Nội, khi ông này sang hứa cho Việt
Nam tên lửa. Sau đó lại ầm ầm như sôi đả đảo xét lại. Xem, Bác Hồ của các đồng
chí oọc-giơ việt vị như thế đấy!
Và 1967, Duẩn phải ngồi chơi xơi nước khoảng
một tháng “làm Câu Tiễn” ở Bắc Kinh - lời Duẩn nói với anh em trong đoàn - rồi
Mao mới cho gặp. Lý do: chuẩn bị đánh Tết Mậu Thân, Duẩn đi Liên Xô lo lót
trước rồi mới đáo Bắc Kinh. Không ngờ đại hậu phương bắt ne bắt nét luôn - a,
chơi hai mang hả?
Sáng gặp, tối chiêu đãi. Chiêu đãi đại yến
xong đến chiêu đãi tinh thần. Mời Duẩn xem một phim hoạt hình dài: Chú bé kiêu
ngạo. Đến đây, Duẩn khẽ chỉ thị anh em ở lại làm Câu Tiễn còn mình thì cáo mệt
về nghỉ.
Ở lần Duẩn gặp phải hai phen “câu Tiễn” này,
Mao đã nói với Duẩn rằng cách mạng Việt Nam muốn tiến lên thì phải làm như cách
mạng Trung Quốc. Nghĩa là hạ phái hữu xuống, đưa phái tả lên. Phái hữu ở Việt
Nam đại khái như Võ Nguyên Giáp, phái tả ở Việt Nam đại khái như Nguyễn Chí
Thanh. Cụ trưởng tình báo Lê Trọng Nghĩa nói với tôi, Duẩn có báo cáo lại ở Bộ
chính trị (Nghĩa thường xuyên được ngồi đó để cần thì cung cấp thông tin cho Bộ
chính trị) nhưng Duẩn nói (ngoài miệng) đấy là ý bạn, còn ta thì cứ đoàn kết
chống Mỹ.
Những chuyện trên đây Lê Trọng Nghĩa mắt thấy
tai nghe tại chỗ. Anh kể với tôi.
Tháng 6-1967, Mao hạ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu
Bình, gần hết Bộ chính trị cùng 11 vị nguyên soái rồi thì ở Hà Nội, tối 6 tháng
7, thình lình sau bữa cơm Giáp mời Thanh ăn trước hôm Thanh đáp máy bay qua
Campuchia về Rờ, Thanh đột tử. Cán cân tả hữu ở Việt Nam đột ngột lệch hẳn về
“phái hữu”, khiến cho trong điện chia buồn, Bắc Kinh đã viết: “Xin các đồng chí
chớ đau buồn nhiều” mà sau đó Nguyễn Tuân hỏi tôi: “Ông thấy câu phân ưu này có
lạ không?” Mao Trạch Đông còn đích thân đến đại sứ quán ta ở Bắc Kinh phúng,
điều Mao không làm khi Cụ Hồ chết. Mao có thể nghi ngờ cái chết của Thanh. Bữa
ăn bí mật đến mức phải đưa người ở Cục tình báo đến chụp ảnh mà Bắc Kinh chẳng
lạ gì cục trưởng tình báo Lê Trọng Nghĩa vừa mới theo lệnh Lê Duẩn có động tác
tiếp xúc với C.I.A Mỹ để chuẩn bị đàm phán với Mỹ.
Nguyễn Chí Thanh, “đại diện phái tả” chết
trước Tết Mậu Thân nửa năm là giọt nước làm tràn li. Thanh chết mồng 6 thì 28
tháng 7-1967 bắt bốn xét lại đầu tiên trong có Hoàng Minh Chính, Hoàng Thế
Dũng, Phạm Viết, Trần Châu.
Lê Trọng Nghĩa cho rằng trước khi có Tổng tiến
công, Tổng nổi dậy, Lê Duẩn đã cho Tổng tiến công, Tổng nổi dậy ở Quân uỷ trung
ương và Bộ tổng tư lệnh. Như sau:
Tháng 9 Giáp thình lình đi Bratislava “dưỡng
bệnh” - cuộc xa xứ này để bù vào sự vắng mặt mãi mãi của Nguyễn Chí Thanh. Lê
Đức Thọ vào Quân uỷ trung ương, thế lực Thọ hùng mạnh lên nhiều. Tháng 12,
Nguyễn Văn Vịnh ra khỏi Quân uỷ trung ương, thôi chức Trưởng ban thống nhất và
bị quản thúc. Tháng 1-1969, chánh văn phòng Bộ Tổng tư lệnh Hiếu Kính (vì đeo
kính), Chánh văn phòng Quân uỷ trung ương, Lê Minh Nghĩa bị treo giò và chịu sự
điều tra thẩm vấn của Cục bảo vệ quân đội. Rồi tháng 2, vừa nổ súng Tết Mậu
thân, đến lượt Lê Trọng Nghĩa, Đỗ Đức Kiên. Trong vòng sáu tháng người ta dọn
sạch các trợ lý đắc lực của Giáp. Nhưng rồi Tết Mậu Thân thua thiệt, cần đến
Giáp, người ta lại đành để cho Giáp về nước.
Diễn tiến ở Hà Nội có khác Bắc Kinh. Bộ trưởng
quốc phòng Bành Đức Hoài bị sờ đầu tiên, mãi đến tháng 6-1967, Bắc Kinh mới
quật ngã Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và 11 nguyên soái. Ở Việt Nam, đầu tiên
Cụ Hồ ngồi chơi xơi nước và chữa bệnh, Trường Chinh sớm khuất phục nhưng Duẩn
mò đến Giáp sau cùng.
Còn một điểm khác Việt Nam đặc biệt nữa: ấy là
Đặng Tiểu Bình rồi đã lật lại ván cờ đế tiến hành một cuộc “xét lại” long trời
lở đất có tên là khai phóng, cái cách minh oan phục hồi danh dự cho các nạn
nhân chính trị nhưng đám xét lại ở Việt Nam thì vẫn hoàn toàn đêm tôi. Việt
Cộng tính cho vụ án xét lại “chết chìm” vì nó gồm có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên
Giáp cùng nhiều đại lão khai quốc công thần.
Dưới thời Tổng bí thư Lê Duẩn, người từng cùng
trong trung ương với những Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và
chắc từng nghe không ít những lời các vị này phê phán Hồ Chí Minh, Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp, ba anh hùng làm Cách
mạng tháng Tám và thành lập Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, lu mờ đi.
Phải nói rõ là lúc nhiều điều trên đây đang
diễn ra, tôi vẫn mơ hồ.
CHƯƠNG 28
Mơ hồ vì như đã nói: tôi không hình dung nổi
trong đảng lại có đàn áp đảng viên khác quan điểm. Thêm vào, tôi vẫn đi làm,
tôi vẫn ra vào nhà Lê Thanh Nghị, Nguyễn Đức Thuận, vẫn nói với anh chị em cơ
quan kinh nghiệm viết, vẫn đưa Tô Hoài đến nói cách ghi nhật ký với anh chị em
phóng viên. v.v…
Đầu 1967, Lê Thanh Nghị nhờ tôi viết hồi ký.
Tôi đã từ chối vì sau khi xin phép “sát hạch” trí nhớ của anh, thấy anh không
nhớ gì chi tiết cả. Và nữa, tôi không thể làm việc theo cách Nguyễn Hưng Định,
thư ký của anh, nói rồi anh ngồi bên gật đầu chứng thực. Năm 1960, tôi đã rút
được khỏi việc viết cho anh nhưng lần này Hoàng Tùng bảo cố viết cho ông ấy,
công ông ấy đi khuân các thứ về chứ không thì cả nước đói bò ra. Nhưng tôi
không thể chiều lòng anh được và tôi thật tình áy náy.
Tôi dạo ấy cũng từ chối viết hồi ký cho Nguyễn
Duy Trinh. Nguyễn Tuân bảo nên viết cho ông này rồi bảo ông ấy đưa đi thăm mộ
cụ Nguyễn Du ở Tiên Điền. Tôi nói Xuân Diệu đi về đã than thở với tôi rằng
chúng nó phá sạch hết mộ “tên quan phong kiến” mất rồi, chẳng còn gì của Nguyễn
Du ngoài “xè xè nấm đất bên đường”.
Nhưng tôi đã nhận viết báo cáo cho Lê Thanh
Nghị đọc ở Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc. Nghị đã mời tôi dự cả
các cuộc họp của Ban thi đua mà anh chủ trì, coi tôi như một thành viên thường
trực nhưng không chính thức. Do đó tôi làm việc có đến hàng tháng ở nhà Lê
Thanh Nghị. Và phạm tội hút lại thuốc lá tôi đã cai năm năm. Bởi Nghị khoe
thuốc Xiongmao Gấu Trúc này là Cụ Mao hút và tôi không muốn
thua kém Mao.
Viết giúp Lê Thanh Nghị, tức là viết ca ngợi
anh hùng, thỉnh thoảng tôi lại lởn vởn nghĩ tới câu “Thảm thay cho những đất
nước có quá lắm anh hùng!” của một nhân vật trong kịch Bertold Brecht. Tôi rất
thích một nhân vật nữa của Brecht. Anh ta đánh cược với chủ nhân một con mèo
xem ai cho mèo tự nguyện ăn được mù tạc. Chủ mèo ôm mèo vuốt ve rồi quệt mù tạc
vào miệng nó. Nó cào trả rách tay. Đến lượt kẻ ra cược. Hắn nhét một cục mù tạc
tướng vào đít mèo và mèo liền phóng ra nằm ở một góc “tự nguyện” liếm ngon
lành. Anh hùng và tự nguyện, hai điều cơ bản này ở Việt Nam rất sẵn.
Phan Đăng Tài phụ trách thư viện cùa báo khi
lo đem thư viện đi sơ tán đã cho tôi toàn tập kịch Berthold Brecht. Và một từ
điển Pháp-Trung.
Có mấy chuyện khá ấn tượng thời gian này. Trong
mấy ngày cùng Nghị, Trần Danh Tuyên, Nguyễn Văn Tạo duyệt thông qua các anh
hùng chiến sĩ, bỗng một sáng Tuyên ầm ầm, bao giờ cùng đùng đùng đi ầm ầm đến
và nhoen nhoẻn cười, bước nhào vào cao giọng nói:
- Thằng này anh hùng được rồi. Bên an ninh nói
thời kỳ ở Nhật nó không làm cái gì cả.
“Thằng này” là Lương Định Của.
Tuyên vừa dứt lời thì máy bay Mỹ ập đến ném
bom kèm theo tiếng phòng không bắn rung nhà và cửa kính lên. Không kịp báo
động. Tuyên leo lên đi văng Nghị và tôi đang ngồi ở trên, co cẳng toan nhảy qua
cửa sổ. Định nhoài vội ra giữ Tuyên lại:
- Đây là tầng hai, anh nhảy thì chết.
Đúng là trong gang tấc!
Sáng ấy, một “thằng” lên đài vinh quang, một
anh suýt hạ thổ.
Nhà Lê Thanh Nghị có một hầm bê tông cốt thép
kiên cố, cửa hầm bằng thép. Nguyễn Lương Bằng ở trước cửa nhà Nghị không có hầm
kiên cố bằng nên lúc báo động dữ vẫn sang tránh nhờ hầm nhà Nghị. Một lần cả bà
Trinh, vợ ông cũng sang. Tôi nói anh chị khiêm tốn, giản dị quá thì chị cười:
- Tiêu chuẩn mà. Nhà tôi đi xe ca (sau gọi xe
buýt) thăm các cháu sơ tán đã bị anh Tố Hữu phê bình là vi phạm nguyên tắc,
không giữ gìn vấn đề bảo mật.
Tôi không hiểu chị nói ra để chế giễu nhà thơ
hay để tự phê bình. Tôi nghe nhà văn N.K. (không phải Nguyễn Khải) tả cảnh sinh
hoạt như công chúa, hoàng tử của ba đứa con nhà thơ sơ tán về chỗ bí thư Hải
Hưng Lê Quý Quỳnh.
Hôm họp cuối cùng, Ban chuẩn bị Đại hội anh
hùng chiến sĩ thi đua đến Phủ thủ tướng duyệt diễn văn tôi viết cho Lê Thanh
Nghị. Đến câu “tuy chiến tranh ngày một ác liệt, đời sống nhân dân vẫn được giữ
vững”, trong sáu bảy vị khách mời đến dự góp ý có ba vị cứ khăng khăng đòi sửa
thành “đời sống vẫn không ngừng được cải thiện” vì nói “đời sống được giữ vững”
là “phản ánh không đúng hiện thực vĩ đại mà đảng đã tạo nên ở trên đất nước
ta”.
Ba vị đó là H.C., tướng tuyên huấn quân đội,
L.X.Đ., vụ trưởng tuyên truyền Ban tuyên huấn và L.B.T., Việt Nam thông tấn xã.
Các vị thi nhau phản đối “nhận xét thiếu chính xác này”. Hăng ngỡ như các vị có
thể bác bỏ cả ý của nhau tuy giống nhau. Tôi xê ghế đứng lên. Định ngồi cạnh
hỏi đi đâu, tôi nói to: “Đái!”
May sao phó thủ tướng đánh giá đúng cái tài ra
nước ngoài xin lương thực, vải vóc, xà phòng, tetracyclin, bông băng cứu
thương, thượng vàng hạ cám. v.v… của mình. Chỉ nói dối ở mức ít nhất là nhận
đời sống vẫn không ngừng được cải thiện.
Tối khai mạc, Tố Hữu được cả Đại hội hò ầm ầm
đòi ngâm thơ, Tố Hữu tủm tỉm ra trước micro. Cụ Hồ đỏ au như ông Tiên, giơ tay
đe trước:
- Cấm ngâm thơ về Bác!
Cả hội trường liền vang lên như sấm:
- Ngâm “Sáng tháng năm”.
Nghe Bác nghìn điều nhưng việc ngâm ngợi Bác
thì kiên quyết không nghe Bác! May là ở trong vấn đề dân chủ còn sót lại được
cái điểm cơ bản này chứ nghe Bác hết thì có lẽ gay.
Thế là Tố Hữu theo đa số tuyệt đối thắng thiểu
số tuyệt đối bèn ngọt ngào “chút lòng con nhỏ lên thăm Bác Hồ”.
Lúc này, Bác Hồ trong lòng Tố Hữu đã nhạt, so
với Lê Duẩn. Nhưng muốn được các anh hùng chiến sĩ thi đua yêu mến, ông vẫn cứ
“Người là cha là Bác là anh”. Tôi không thể không nhìn Cụ Hồ. Mặt đỏ au, Cụ nom
có vẻ còn tiên cốt hơn nhiều. Sức mạnh thơ ca thêm rượu thuốc làm nền cất cánh
quả là lớn.
Sau đó Cụ Hồ ra nói. Khen dân tộc, đất nước,
mọi ngành mọi giới của ta đều anh hùng. Cuối cùng khen chính phủ ta “anh hùng
dứt” (nhất). Bao nhiêu chính phủ trên thế giới theo nhau đổ nhưng chính phủ ta
xưa thế nào thì nay vẫn y như thế.
Hội trường vỗ tay như sấm. Sướng quá. Đứng
trên đầu chúng nó!
Ngồi trên gác ở chỗ nhà văn nhà báo, tôi nói
to cho xung quanh nghe thấy: “Xét theo tiêu chuẩn lâu bền thì ta mới anh hùng
hạng ba! Còn thua chính phủ Tưởng Giới Thạch bền từ 1927 và Franco từ 1936”. Cố
không nói AQ. Hình như sau này khai cung có nói.
Tôi thật tình phản cảm với việc nống nhau lên
bằng cách tự vỗ ngực ta đây hơn hết. Câu tôi nói - cùng với động cơ nói nó - đã
vào biên bản khai cung ở Vụ bảo vệ Ban tổ chức. Ý thức rõ là mình đã góp xây
dựng cho họ một quan niệm đúng về khiêm tốn cộng sản.
***
Trở lại chuyện mơ hồ. Mơ hồ đến độ công an bám
đuôi mà mãi mới biết, ngay sau tối đầu tiên đến chơi nhà Phạm Viết, tháng 11
năm 1964.
Sáng đó, dắt xe ra hè đi làm, vướng chõng nước
chè vợ Lê Thọ, chánh văn phòng báo Nhân Dân, tôi phải vòng ra đầu chiếc ghế
băng dọc lề đường. Sợ đụng ai, tôi nhìn xuống để tránh thì thấy một người chạc
tuổi tôi mặc áo đông xuân cổ lọ mầu tím than, ngoài là một vỏ áo bông cùng mầu
ngồi đó. Anh ta ngước nhìn tôi. Cái nhìn trượt hơi dài trên mặt tôi. Xe đến quá
nửa Hàng Thiếc, đường đông chật, tôi chợt cảm thấy nằng nặng ở sau gáy. Khẽ
liếc ngoái lại: anh bạn cổ lọ đông xuân! Tôi dừng lại, dắt xe lên một quầy hàng
bày đúng ba ngọn đèn dầu hoả làm bằng nguyên liệu quý hiếm lúc đó: hộp sữa bò.
Nhìn vào cửa kính thấy anh ta rẽ về Hàng Nón bên trái. Tôi đổi hè, dắt xe đi ra
đầu phố, ở đầu Hàng Mành, anh bạn đang đứng trước một bà bán khoai sắn luộc,
cạnh mấy em bé gái đi học. Tôi lẳng lặng đến đằng sau anh ta, khẽ đập vai hỏi:
- Sao xe không biển số?
- À, à…, - anh ta giật mình, xe mới mua.
- Mới mà đã róc hết sơn à?
Tôi vừa dứt lời, anh ta liền quăng mình lên xe
phóng. Tôi đuổi theo. Với cái vốn tiểu thuyết trinh thám Anh, Mỹ, Pháp đọc có
tới hàng trăm quyển làm lực đẩy bổ sung. Ra tới Nhà thờ Đức Bà, anh ta rẽ sang
báo Nhân Dân rồi đổ dốc Bảo Khánh ra bờ hồ quặt sang Hàng Hành, băng qua Hàng
Gai lao lên Lương Ngọc Can đạp thẳng lên Hàng Cá và quẹo gấp vào bên phải, băng
qua Hàng Đường sang bên Ngõ Gạch. Tôi cáu kỉnh dừng lại. Một đoàn tàu điện đi
tới. Về cơ quan, tôi báo Nguyễn Thành Lê là công an vừa theo tôi và thế là phạm
pháp, tôi sẽ kiện, đề nghị Thành Lê ký tên đóng dấu vào đơn chứng nhận tôi là
người của báo. Thành Lê nói là kẻ xấu thôi.
Tôi cứ đơn. Gửi Sở công an. Vẽ hai lộ trình bị
theo và đuổi lại. Lập trường rõ ràng, lộ trinh theo bám tôi mầu xanh còn lộ
trình tôi đuổi mầu đỏ.
Một lần khác, vào khoảng đầu 1967, đến Phạm
Viết, tôi thấy mấy anh Kỳ Vân, Lưu Động, Hoàng Thế Dũng, Trần Châu đang cười
cười hơi lạ nhìn qua cánh chớp cửa sổ trông ra đường. Bảo công an chờ suốt hai
tiếng đồng hồ ngoài kia, nay chả lẽ cả lũ kéo nhau ra sao? Tôi mở cửa đi ra.
Thấy một chị đứng dắt xe dưới gốc cây trước cửa nhà Phạm Viết, túi quàng ghi
đông như kiểu cán bộ. Tôi đến nói:
- Chị ạ, họ sắp giải tán rồi, chờ làm gì nữa.
Làm ra vẻ khinh khỉnh trước lời lẽ của đứa vô
văn hoá ghẹo phụ nữ (xấu), chị ta lên xe đi.
Một lần thì tôi hơi chợn. Đó là sau khi Trần
Châu đã bị bắt vài ba tháng. Tối đó, tôi đến thăm vợ con anh. Khi nghe tiếng
tôi nói chuyện với Gia Lộc ở tầng trệt, con trai út Châu reo:
- Mẹ ơi, bố! Thấy tôi, cháu xấu hổ vì đã mừng
hụt. Tôi cảm thấy như mình có lỗi với cháu.
Không hiểu sao lúc về, độ chín giờ tối, tôi
lại đi lối Trần Xuân Soạn - Trần Nhân Tông. Vắng, tối và mưa lâm thâm rét. Bóng
cây cao trùm đen xầm lên mặt đường lấp loáng ướt.
Quá ngã tư Trần Xuân Soạn - Ngô Thời Nhiệm,
tôi bỗng thấy lùi lũi một bóng người đạp ở sau chừng năm chục mét. Đến ngã tư
đầu Chợ Hôm - Phố Huế, đụng một đống rác to tướng, tôi vờ dừng lại lấy thuốc lá
ra hút, Người theo sau cũng dừng, cũng lấy thuốc hút. Vào nhà Mai Ngữ ở Lê Văn
Hưu, tôi thoáng nghĩ nhưng lại vào Nguyễn Du ra đầu Trần Bình Trọng quẹo sang
cổng sau Nhà hát Nhân Dân, nơi Nguyễn Đức Thuận đang ở nhờ tại Nhà triển lãm
tổng công đoàn. Tôi dắt xe đến bên cổng giơ tay như để bấm chuông. Mắt ngó sang
đối diện. Người theo tôi đang đứng trước chùa Ngọc Liên, gần nhà Hoàng Xuân
Tuỳ. Tính sao lại lọt vào trúng trung khu thần kinh công an. Thế là nhún vai
lên xe về thẳng.
Song lần rợn nhất - bắt đầu thấy mình bị quây
kín ở trong một mạng lưới bí hiểm - lại là lần từ Hà Nội lên Ca Sơn, Chợ Đồn,
Phú Bình, Thái Nguyên. Nửa đêm hôm qua, Địch Dũng và tôi đạp xe về Chợ Dầu. Vào
nhà Dũng vừa đôi hồi, đã thấy vợ anh là thư ký uỷ ban xã ra đón khách: đội
trưởng dân quân và trưởng công an xã đến xem giấy tờ tôi. Tôi cho là thủ tục an
ninh thời chiến. Năm giờ sáng sau, tôi lên đường. Và suốt mấy chục cây số trong
mưa sầm sập, duy nhất tôi và chiếc xe giữa đồng đất bốn bề ngằn ngặt nước vắng
tanh thế nhưng đến nhà, vừa thay xong quần áo chui vào chăn thì bộ tam đã đến
xem giấy. Tôi vẫn cho là luật thời chiến.
Tôi về Hà Nội. Nguyễn Địch Dũng gọi tôi ra một
góc cơ quan khe khẽ bảo tôi:
- Tao thương mày lắm, tao báo mày biết, không
nói với ai, chết tao. Công an nó theo mày về tận nhà tao rồi vào bảo vợ tao dắt
công an với xã đội vào khám giấy mày. Nói mày là phản động, có âm mưu trốn vào
đại sứ quán nước ngoài.
Nghe Dũng mới run. Thế ra sớm sau lại theo đến
Chợ Đồn Ca Sơn, Phú Bình! Mà sao không thấy? Đúng là chỉ có tôi và trời với
nước. Hay là điện thoại bảo nhau.
Thẩm vấn, Lê Công Tuấn hỏi tại sao tôi hay
đuổi an ninh. Tôi nói: Tôi coi là bị xúc phạm.
Một thời gian an ninh bố trí cả năm liền trên
ban công trụ sở của một bộ phận Bộ giao thông chiếu thẳng sang theo dõi xét lại
tại báo Nhân Dân. Bảo, kỹ sư giao thông học Bắc Kinh cùng tôi, làm việc ở đó
sau này bảo tôi.
Những năm 90, Thắng, một công an khu vực nhờ
Quảng, cán bộ Bộ văn hoá cũng ở trong khu văn công, cách nhà tôi chừng trăm mét
nhắc tôi cẩn thận: ở trong nhà Hồ Sĩ Đản ngay trước nhà tôi là trạm theo dõi
tôi.
***
Quay lại chuyện sáng đó đến cơ quan tìm Trần
Châu. Tám giờ sáng cũng không thấy Châu tuy anh mẫu mực về giờ giấc. Đi ra chỗ
để xe thấy cái Junior lở ghẻ của anh bẹp lốp nằm đó. Một lát sau tôi đến Phạm
Viết. Chương, em Viết mở cửa ra khẽ nói:
- Anh Viết bị bắt rồi! Sớm hôm nay.
Thế là cả Châu rồi. Lúc tôi qua đò Đông Hội
trời ửng sáng nhận ra Trà Giang rồi cùng trò chuyện mà bụng dạ thì cứ bồn chồn
là lúc Châu bị bắt.
Chiều đến Phan Kế An báo tin. An nói Alexiev,
phóng viên thường trú báo Pravda Liên Xô báo An là bốn nhà báo đã bị bắt. Hôm
sau biết bốn người là Hoàng Minh Chính (bị lầm là nhà báo), Hoàng Thế Dũng,
Phạm Viết, Trần Châu.
Công an khám nhà. Ngồi thấy cái phích nước
nóng, vật đắt giá duy nhất - do tôi mua cho, cùng tủ, quạt - có thể bị rơi,
Châu nhổm dậy đỡ. Thì bị quát: “Ngồi im!”. Mới hiểu là đã mất tư cách chủ.
Châu bị bắt hai ngày, tôi đến thăm vợ con anh.
Gặp Gia Lộc, cùng nhà, tầng trệt. Lộc kể Lộc leo lên gác ba xem thì họ đứng đầy
cả cầu thang đuổi xuống. Lúc Châu bị giải đi, Lộc chạy ra tận bên xe tiễn bạn.
Tớ nhớ cả số cái xe chở nó. Nó mặc một chiếc sơ mi ca rô xanh lá cây, khoác ba
lô bẹp. Hai đứa chào nhau.
Tôi nghe xong mệt rũ, nằm xuống tấm cá ngựa
một mảnh ván hẹp, đầu gối lên quyển Bách khoa toàn thư Liên Xô ngủ thiếp. Tỉnh
dậy gai gai lạnh và buồn. Gia Lộc đến bên chỉ vào chồng đĩa nhạc cạnh đầu tôi
nói:
- Mày ngủ gối đầu bên cái gì biết không? Đĩa
“Số phận” của Beethoven.
Ba tháng sau, số phận gõ cửa. Bắt Gia Lộc.
CHƯƠNG 29
Khoảng cuối năm, Lê Đức Thọ gọi tôi lên. Hai
người ngồi ngay ở giữa sân, dưới một tấm mái dựng trên miệng hầm ngầm mới xây
mà Thọ nói là sâu 10 mét. Dù đang rối bời tôi vẫn không thể không so sánh: hình
như hầm của Lê Thanh Nghị cũng Bộ chính trị và còn kiêm phó thủ tướng chỉ sâu 8
mét. (Tôi đã một dạo xuống ẩn hàng ngày). Ai quyết định khác biệt về độ an toàn
này?
Tôi mở sổ tay ghi lời Lê Đức Thọ. Lần đầu
tiên. Nay là bút sa gà chết mà.
Thọ nói ngay tớ gọi cậu đến để nói chúng nó bị
bắt là đúng. Tội chúng nó rất lớn. Chúng nó láo lắm. Liên hệ với Liên Xô thế
nào, tuồn tài liệu mật cho Liên Xô như thế nào, cậu biết không, chúng nó đưa
cho Liên Xô cả đến Nghị quyết 9 của đảng, chúng nó làm gì an ninh ta biết hết.
Biết từ năm 1964 rồi cơ. Cậu chớ nghĩ là bắt oan, không, có tội thì đảng mới
bắt chứ! Cậu phải tin như thế. Đấy, cậu trông - chỉ vào tập lịch có ba cái vòng
mạ kền - trong này ghi các trung ương, bộ trưởng xin gặp tớ đầy ra nhưng tớ
chưa gặp, mà lại gặp cậu. Vừa ở Paris về nghe an ninh nói cậu dính vào vụ chúng
nó tớ bâng khuâng lắm, tớ tiếc lắm. Cậu biết là tớ định đưa cậu đi theo làm báo
cho đoàn ta ở Paris rồi, nay cậu như thế này, tớ tiếc lắm.
Tôi nói:
- Cảm ơn anh
- Tớ đã nói là tớ mến cậu vì cậu trẻ, cậu có
tài, cậu ngay thẳng cho nên từ lâu rồi tớ đã có ý nhắm cậu nhưng thế nào cậu
lại… Nhưng không sao. Tớ nói cậu có ghi đây. Là cậu không làm sao cả. Nếu cậu
bị làm sao thì cậu viết thư chất vấn tớ tại sao tớ là người cộng sản mà lại nói
năng bất nhất. Bây giờ tớ nói với cậu để cậu nhận ra và cậu yên tâm ngòi bút
của cậu vẫn là lợi khí của đảng, đảng vẫn tận dụng lợi khí của cậu nhưng cậu
phải giữ cho lòng dạ trong, tư tưởng sáng. Cậu chán lắm, gặp chúng tớ thì cậu
tỉnh nhưng gần chúng nó cậu lại tối, thôi, từ nay không gần chúng nó nữa. (Kể
một lô tội của anh em, cả quan hệ nam nữ, lục đục…). Tớ nói cậu rõ là trước sau
tớ luôn chú ý bảo vệ tình hữu nghị Việt - Xô và bảo vệ cán bộ. À, về bảo thằng
Phan Kế An là nó láo lắm, nó thậm thụt với Liên Xô thế nào chúng tớ biết hết.
Nhưng nó cũng cần phải tu tỉnh, đảng vẫn dùng. Từ khi bắt chúng nó, ngày nào
Cherbakov đại sứ Liên Xô chả ba bốn phen đòi ta thả. Nhưng ta độc lập chứ.
Chưa biết câu này chỉ cốt nhằm khẳng định xét
lại là tay sai Liên Xô, tôi nghĩ nhanh trong đầu: Bênh bọn tôi phản đối chiến
tranh thì tại sao 1965 Kosygin lại sang viện trợ máy bay, tên lửa đánh Mỹ?
Chẳng hiểu sao không nói câu này thì tôi lại
nói:
- Thưa anh, anh vừa nói là an ninh biết họ bậy
bạ từ những 1964 và anh thì trước sau bảo vệ cán bộ và tình hữu nghị Việt - Xô
thế thì sao ngay từ đầu năm 1964, anh không gọi anh em lên chìa bằng chứng ra
thì có phải ngăn chặn được hậu quả đáng tiếc bây giờ không?
Định nói gì, Thọ chợt nghiêm giọng:
- Thôi cậu về đi, tớ bận lắm. Nhớ là tư tưởng
trong, lòng dạ sáng thì ngòi bút vẫn là lợi khí của đảng. Và nhất là không có
gặp đứa nào của bọn chúng nó nữa.
Tôi thấy ngay mình hớ. May chưa nói nốt là để
đến bây giờ mới bắt thì dễ bị coi là như có ý nuôi cho họ mắc tội thật nặng để
rồi trị. Đồng thời thầm hỏi tại sao lại dặn không gặp nhau nữa? Tôi chưa biết
đảng sẽ còn bắt thêm vài đợt.
Một thắc mắc: Nghị quyết 9 như chúng tôi học
thì có gì quan trọng lắm mà “xét lại” phải gửi cho Liên Xô? Nói thế để có cớ
bắt thôi. Tôi quên mất Kỳ Vân đã bảo tôi là phần 2 của Nghị quyết nói muốn giải
phóng miền Nam thì phải đánh Mỹ và muốn đánh Mỹ thì phải chống Liên Xô đầu hàng
cấu kết với Mỹ.
Lúc ấy chưa nhận thấy rõ bắt xét lại là một
thế chấp về lòng trung thành nộp Bắc Kinh. Để đừng dắt em vào chợ rồi lại bỏ bơ
vơ.
***
Vừa về đến cổng cơ quan đụng ngay phải Hoàng
Tùng. Có lẽ có ý chờ để biết kết quả tôi gặp Thọ. Anh hỏi, như thở đánh phào:
- Sao?
- Anh Thọ bảo không sao cả. (Nói đúng tinh
thần Sáu Thọ).
- Lại còn không sao nữa! (Buông ra cụt lủn như
vậy, rồi Hoàng Tùng hầm hầm quay lưng đi thẳng).
Và từ đấy quay mặt hẳn. Phản ứng đầu tiên của
tôi là nản.
Hoàng Tùng ngờ tôi bịa à? Không nghĩ trong
cuộc lùng sục xét lại phản động, nay là lúc Hoàng Tùng can biết rõ thêm về tôi.
Có thể anh đa loang thoang nghe bao Nhân Dân
có một chi bo chống đảng. Và không chừng từ sáng anh đang hy vọng tôi đã khóc
nhận tội với Sáu Thọ - như thế tôi sẽ nhẹ tội và anh sẽ nhẹ gánh liên luỵ -
nhưng thấy tôi vẫn bảo tôi “không sao” thì anh vạch rõ ranh giới với tôi từ nay
là hay hơn cả.
Anh và tôi hẩu nhau ở quan điểm, ít nhất là
chế Mao, nhưng nay thấy tôi nước đã ngập đến cổ mà vẫn ngoan cố nói “không sao”
thì anh phải đoạn tuyệt với tôi thôi. Thật đáng tội nghiệp cho con người. Vì
tôi không kể cụ thể những lần Thọ gặp tôi nên anh không biết Sáu Thọ có con mắt
khác như thế nào đối với tôi.
Mới cách đây nửa tháng, tôi thăm vợ con sơ tán
trở về, Nguyễn Địch Dũng nói mấy hôm nay Tùng hay xuống nhòm vào buồng cậu như
có ý tìm. Tôi nghĩ chắc là lầm thì Hoàng Tùng thò đầu vào nhòm thật rồi đi.
Lát sau, tôi lên gặp Hoàng Tùng. Anh vui vẻ
nói tôi vừa đi kỷ niệm Cách mạng tháng 10 Nga với anh Duẩn về có mấy cái biếu
anh. Đây, đôi kính râm và hai chục ống thuốc Campollon của anh còn con búp bê
Nga thì cho con bé nhà anh.
Tôi cảm ơn và nói:
- Tôi cũng cần xin lỗi anh vì trong khi anh đi
vắng, Ban tổ chức trung ương có bảo tôi viết kiểm thảo về quan điểm. Tôi cần
nói là trước sau tôi không lừa anh Thọ và anh. Nghĩ thế nào tôi đều nói ra, các
anh thấy cả.
Hoàng Tùng trầm giọng nói:
- Thế này người ta lại nói tôi đây. Người ta
vẫn kêu tôi cưng chiều anh. Nhưng đối với anh tôi hoàn toàn dựa vào lòng thành
của người cộng sản, tôi thấy anh có tài, ngay thẳng cho nên hay giao việc quan
trọng cho anh.
Tôi tin điều này Hoàng Tùng tâm thành.
Tháng 8, Tường Vân nhờ tôi dẫn đến gặp Hoàng
Tùng hỏi chuyện chồng chị là Trần Châu bị bắt, Tùng nói đảng thấy mấy tướng nói
nhăng thì bắt cho sợ rồi tha thôi chứ cộng sản nào lại đi bắt cộng sản? Hoàng
Tùng cùng như bao nhiều uỷ viên trung ương khác đều bất ngờ trước vụ án này. Đoàn
tàu rẽ đột ngột khối anh loạng choạng.
Lúc ấy tôi không nghĩ nói ta cần một thế chấp
nộp Trung Quốc, tỏ ý cùng Trung Quốc tung bay trong biên đội đánh phá xét lại
mà bằng chứng quan trọng nhất là quyết đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng. Và
chắc Mao vẫn chưa hài lòng: vụ án này - có mã số X77 - mang tên Hoàng Minh
Chính thì còm nhom quá. Lẽ ra phải là tên cốp chính cống cơ. Phải vài năm sau,
tôi mới nhận ra tính chất con tin nay của vụ án.
1956-1957, Nhân Văn - Giai Phẩm là bàng chấn
của Chống hữu bên Trung Quốc nhằm đàn áp tự do ngôn luận.
Mười năm sau, 1966-1967, vụ “xét lại chống
đảng, lật đổ, tay sai nước ngoài” là bàng chấn của cuộc vận động nhằm sắp xếp
lại thế trận làm tan phe cộng sản mãi kìm hãm Trung Quốc ở vị trí phó tướng và
thay đổi cục diện thế giới có lợi cho Trung Quốc.
Trong vụ này có thể nói Việt Cộng đã hăng hái
dọn đường cho Trung Cộng.
***
Người đầu tiên chết trong tù là Phạm Viết.
Bệnh tim của anh vốn rất nặng. Tôi đến thắp hương. Mẹ anh rầu rĩ kể:
- Lên nhà tù Phú Sơn chôn nó, nhìn nó nằm đấy,
tôi khóc con ơi ngày hoạt động nội thành gian khổ là thế mà con vẫn yên lành
thì nay con lại bị đảng của con bắt con tù tôi rồi chết. Ông coi tù bảo cụ khóc
sai rồi, chúng tôi đưa anh ấy lên đây để bảo vệ cho anh ấy. Tôi lại khóc: Vâng,
khóc thế nào cho vừa ý đảng thì xin viết cho tôi đọc.
Phạm Viết ở trong Ban quân sự Thành uỷ Hà Nội
hoạt động bí mât ở trong thành. Anh đã có công cứu giáo sư bác sĩ Đặng Văn
Chung thoát chết. Chuyện thế này: hồi 1946-47, giáo sư Đặng Văn Chung bỏ kháng
chiến về Hà Nội, mang theo hai cô y tá. Thành uỷ quyết định tử hình ông vì tội
đảo ngũ về đầu hàng địch. Phạm Viết đã can ngăn. Anh nói bác sĩ có về thành thì
cũng là chữa bệnh cho người Việt Nam. Nhân tài chết thì thiệt cho dân cho nước.
Thành uỷ đã huỷ án tử hình này. Và Phạm Viết đã chết vì tim ở trong tù, không
được Đặng Văn Chung chữa chạy như ý nguyện của chính bác sĩ giáo sư.
Trong vụ án xét lại, phải nói tới các chị. Chị
Tề, vợ Vũ Đình Huỳnh; chị Mỹ, vợ Đặng Kim Giang; chị Sơn, vợ Bùi Công Trừng;
chị Minh Quang, vợ Minh Việt; chị Oanh, vợ Lưu Động; chị Lan, vợ Kiến Giang.
v.v…
Chị Thảo, vợ Lê Trọng Nghĩa, rửa bát ở mấy nhà
ăn quốc doanh suốt từ Tràng Tiền đến Cửa Nam và Ga Hàng Cỏ lấy tiền nuôi con và
gửi cái gì đó cho chồng. Người ta thẩm vấn chị “chui vào đảng để nhằm cái gì?”
- A, thế sao các anh không hỏi thời Pháp thời
Nhật những lần tôi chui vào Hoả lò tiếp tế cho tù cộng sản thì là để nhằm cái
gì? Tôi hỏi lúc ấy các anh ở đâu?
Hồng Ngọc vợ Hoàng Minh Chính ba lần nuôi
chồng tù ta. Bị khai trừ khỏi đảng, bị buộc về hưu sớm. Tội: không đấu tranh
giáo dục chồng, Hoàng Minh Chính! Dạo Chính tù lần hai, một hôm tôi đã thốt
lên: “Bà giỏi, nuôi chồng tù vất vả (cơm hai mẹ con toàn rau muống luộc mà cứ
mời tôi cùng ăn) mà vẫn khoẻ chứ không thì khốn. Chị vạch chân tóc: “Nhuộm đây
này! Dù có thế nào, đàn bà con gái cũng không được phép tiều tuỵ. Tôi kể qua
nhé, gạo nước, thực phẩm, đường sữa, báo Liên Xô, đủ các thứ, rồi thuốc men gửi
cho ông Chính là hết nhẵn!
Một vài lần chị muốn tôi viết giúp chị hồi ký.
Không làm được, tôi rất ân hận. Tôi còn quá vất vả với việc của tôi. Có đêm sắp
giao thừa, theo ý chị, tôi đã đạp xe ra để cùng chi đi quanh Hồ Gươm chen nhau
với người. Sau này theo Chính sang Mỹ chữa bệnh, chị bảo tôi: “Tiếng là đi Mỹ
nhưng toàn quanh quẩn trong bệnh viện”.
Hồng Ngọc quá nhiều buồn khổ. Như nhiều bệnh.
Tôi cảm ơn chị đã chọn tôi làm người tâm sự. Một hôm, trong bữa ăn vợ chồng con
gái út chị mời mấy giáo sư Trần Hữu Tá, Lê Minh Ngọc và tôi, Hồng Ngọc giới
thiệu với mọi người: “Trần Đĩnh là người bạn thân nhất của tôi”. Phải nói rằng
tôi hết sức cảm động. Một lần nữa nói như thế trong bữa ăn mời tôi có bà thông
gia của tôi, em gái Chính, và ba con gái Hồng Ngọc.
Và con của các anh chị. Biết bao cay đắng, tủi
hổ, thiệt thòi. Tôi khó quên chuyện lúc mấy người công an đẩy Vũ Đình Huỳnh đi,
anh đề nghị:
- Các đồng chí cho tôi vào hôn mấy cháu bé.
- Thằng phản động, ai đồng chí với mày hả?
Huỳnh sau này bảo tôi:
- Mật thám Tây đến bắt không vô văn hoá như
vậy.
***
Các đơn thư khiếu kiện của các chi Tề, Mỹ,
Hồng Ngọc… đã được biết nhiều ở trong và ngoài nước. Tôi muốn trích ở đây đơn
ngày 8-5-1981 của Nguyễn Thị Ngọc Lan, người mẹ tù của hai trẻ thơ, người cùng
Phạm Viết lam nên cặp vợ chồng tù xét lại duy nhất, coi như một ưu ái cho cặp
vợ chồng tù duy nhất vì “chống đảng”, cho hai người bạn một thời gian dài tôi
ngày ngày thân thiết chuyện trò. Đơn này là một trong hơn 70 đơn chị gửi cho từ
Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp… đến Bộ chính
trị, Ban bí thư, Uỷ ban thường trực Quốc hội, Toà án nhân dân, Hội liên hiệp
phụ nữ. v.v… và đều bị lơ. Nguyễn Thị Ngọc Lan học trường Tay Albert Sarraut,
hoạt động ở nội thành Hà Nội từ 1948. 1950 vào Đảng cộng sản Đông Dương và ba
lần bị giam cầm tra tấn, Ngọc Lan còn hiến cho Nhà nước một ngôi nhà 250 mét
vuông ở 169 Bà Triệu, Hà Nội do bố mẹ chia cho chị từ 1945, một nghĩa cử yêu
nước và cùng là thể hiện tấm lòng không màng danh lợi.
Đầu 1953, chị được tổ chức đồng ý cho sang
Pháp học và chữa bệnh nhưng vẫn tiếp tục hoạt động. Đến giữa 1954 được gọi về
để chuẩn bị tiếp quản Hà Nội. Chưa lấy Viết, Lan đã đi dự các hội nghị của Hội
đồng hoà bình thế giới ở Helsinki (Phần Lan), Stockholm (Thuỵ Điển). Cuối cùng
dạy tiếng Anh, tiếng Pháp ở Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà Nội.
Tôi không thể không nói nhiều về Phạm Viết.
Dưới đây là những đoạn trích đơn Ngọc Lan mà tôi có vinh dự cầm giữ:
“Chồng tôi bị bắt khoảng mười ngày (lúc đó tôi
đang dạy học ở nơi trường sơ tán) thì đến lượt tôi bị bắt trong khi đi ở Hàng
Bài. Thế là tôi không được căn dặn hai đứa con thơ dại của tôi lời nào và cùng
không được phép nhợ cạy ai giúp tôi nuôi nấng, dạy dỗ các cháu. Các cháu còn
nhỏ dại bỗng bơ vơ như trẻ bồ côi, lạc lõng như chim non mất tổ. Mỗi khi nhớ
lại cảnh đau thương này tôi lại không cầm được nước mắt”.
“Tôi bị giam hai năm rưỡi. Vì lý do gì? Ông Lê
Thành Tài nói với chông tôi rằng tôi có nhiều hành động nguy hại cho Đảng và
Nhà nước, hồi ở Pháp tôi được tình báo Pháp huấn luyện, tôi làm tay sai cho bà
Frida Cook, đảng viên cộng sản Anh, chuyên gia tiếng Anh ở Đại học sư phạm và
là bà giao của tôi, nhưng theo ông Tài thì bà chính là tình báo Anh. Lúc đó các
Đảng cộng sản Pháp, Anh ủng hộ Liên Xô chống Trung Quốc đều bị ta coi là tay sai
của đế quốc hoặc tay sai của Liên Xô”.
Người ta bắt Ngọc Lan để lấy bản “Phê phán chủ
nghĩa giáo điều ở Việt Nam” do Minh Việt viết nhờ Ngọc Lan đánh máy. Tin lời
họ, Ngọc Lan lấy đưa và thế là mang tội danh cất giứ “Cương lĩnh chống Đảng”.
“Tôi bị giam ở Hoả Lò và Trại giam quân pháp
Bất Bạt đằng đẵng hàng năm không được thư cho chồng con, không được gặp họ.
Biết bao nỗi lo âu dày vò tôi: ai nuôi dạy con tôi, ai bảo vệ tính mạng cho các
con nhỏ dại của chúng tôi giữa lúc bom đạn, chồng tôi bị bệnh tim nặng, một
mình một xà lim, lúc lên cơn đau đột ngột thì kêu ai cấp cứu?… Hành hạ vật chất
không đáng sợ bằng hành hạ tinh thần. Tôi đã
sống những năm tháng khủng khiếp trong nhà tù. Bốn bức tường vây kín, không
bóng người, tiếng người. Gặp người hỏi cung thì toàn những lời mớm cung, truy
ép, đe doạ và vu cáo.
Người ta dựng Phạm Viết thành một tên phản
quốc xấu xa khiến cho Ngọc Lan đã nảy ý đoạn tuyệt và công an liền nhanh nhảu
“tiết lộ” với Phạm Viết.
Có một chi tiết cầu hôn rất hay của Phạm Viết
và Viết kể với tôi: Lúc ấy, Ngọc Lan đi cải cách ruộng đất ở cầu Phú Lương, Hải
Dương. Một bữa mưa trắng đất trời, đang họp, Ngọc Lan được nhắn có người cần
gặp gấp. Phạm Viết, cán bộ nội thành suốt chín năm kháng chiến, thương binh gãy
đùi, cổ tay và vỡ mắt cá chân đã mượn xe hơi của ban phong xuống tìm. Và cầu
hôn: “Em lấy anh không?”
Trở lại lời Ngọc Lan:
“Đầu 1970 ra tù rồi, tôi vẫn không được viết
thư, tiếp tế cho chồng. Cảm thấy tính mạng anh bị đe doạ, tôi gửi nhiều đơn
thiết tha cầu khẩn ông bộ trưởng bộ nội vụ Trần Quốc Hoàn cho ba mẹ con tôi đi
thăm anh, nếu tôi không được đi thì cho em chồng tôi đưa đi. Hai cháu bé tí
cũng phải viết đơn lên xin ông Trần Quốc Hoàn hãy thương các cháu mà cho các
cháu ít nhất một lần vào tù ôm ấp bố của các cháu. Đã phải mầt hàng năm ròng
những lời cầu xin thương tâm của các cháu bé bỏng mới được chấp nhận. Em anh
Viết xin phép theo mẹ con tôi để giúp đỡ và bảo vệ trên đường nhưng không được.
Ba mẹ con chúng tôi trèo đèo lội suối lên Yên Bái thăm anh Viết. Phải leo những
cái dốc cao hàng cây số, các cháu mệt quá nam vật ra đường kêu không đi được
nữa. Cực nhọc như vậy mà chỉ được thăm anh Viết đúng một
giờ. Các cháu xin nghỉ đêm lại với bỗ cũng
không được”.
“Tôi xin phép nói rằng chúng tôi đã bị đối xử
hà khắc hơn nhà tù đế quốc. Lê-nin bị tù vẫn nhận được sách báo, thư từ, vợ
Lê-nin được cùng sống với chồng ở nơi tù tội. Đảng viên Đảng cộng sản Nhật Bản
đang tù vẫn được gửi thư ra chào mừng đoàn đại biểu nước ta sang thăm Nhật. Còn
chúng tôi? “Giải quyết nội bộ” là như thế đấy?”
“Lần cuối cùng tôi thăm anh là ở nhà tù Thái
Nguyên, cùng chỉ trong chốc lát và rồi chồng tôi chết ngày 31-12-1971. Anh
không được vĩnh biệt mẹ già, vợ yếu, con dại. Ôi đau thương biết chừng nào! Lúc
ấy Đảng chưa khai trừ anh. Vậy là Đảng đã nỡ để một đảng viên chết trong tù
tội”.
Lần hai cháu bé theo mẹ đẩy xe đap thồ nặng
quà đi tham bố, các cháu tặng bố hình thủ lĩnh Da đỏ Toketo chống Da trắng xâm
lược. Mẹ thì tặng nạm tóc rụng trong hai năm rưỡi tù mà mẹ nhặt rồi vuốt chải,
tết lại. Sau một thời gian, Bộ công an gọi Ngọc Lan đến thẩm vấn tại sao dám
tặng chồng hình ảnh một người cầm vũ khí?
- Dạ, truyền hình ta đang chiếu phim Toketo
của Đông Đức, các con tôi chúng lấy thứ chúng thích nhất ra tặng bố.
Sau này khi thu dọn đồ đạc của người chết,
Ngọc Lan không thấy nạm tóc và món đồ chơi này. Cho rằng hơi hướng vợ con đã
giúp Phạm Viết thêm sức mạnh chống chọi, họ bèn tịch thu luôn. “Chồng tôi chết
rồi vẫn không được yên. Đầu năm 1979, khi tôi và hai con lên Thái Nguyên bốc
mộ, đưa hài cốt anh về quê ngoại thì đã bị giữ lại ở đồn công an gần thị xã
Thái Nguyên cả một buổi rồi phải nộp may chục đồng phạt vi cảnh.
“Trên đường đưa xương cốt Phạm Viết về Mọc
Chính Kinh, tôi và hai con con bị chặn lại mấy lần hoạnh sao quần loe? Sao áo
hoa?
- Dạ, đây là thứ bạn bè và họ hàng bên Pháp
gửi về cứu tế.
- Không biết, nộp phạt.
Tai hoạ đeo mãi lấy chồng tôi”.
“Chúng tôi tin yêu đảng, tin yêu chủ nghĩa
cộng sản, tin yêu Liên Xô chủ trương chung sống hoà bình nhưng ôi phi lý đến
cùng cực! Công bằng ở đâu? Người ta lên án vợ chồng tôi là ‘gián điệp của Liên
Xô’ thì nay người ta lại xưng xưng lên nói: Đoàn kết, hợp tác với Liên Xô là
vấn đề nguyên tắc và là một điều kiện quyết định thắng lợi cách mạng nước ta”.
Câu này là của phản động xỏ xiên ư? Không!
Ngọc Lan dẫn xã luận báo Nhân Dân 4-7-1980. Có xã luận này vì 1978 ta đá Bắc
Kinh, ký hiệp định tương trợ Việt-Xô và tháng 2-1979, Trung Quốc “xâm lược” ta.
(Dân đã tổng kết đảng là tổ sư “sáng nắng chiều mưa”, dân mà theo thì dân bỏ
mẹ!)
Ngọc Lan không biết Nghị quyết Lê Đức Thọ ký
khai trừ Lê Trọng Nghĩa viết: Lợi dụng chức vụ cục trưởng tình báo, Lê Trọng
Nghĩa đã cung cấp tin tức sai lệch hòng lái đảng ta bỏ đường lối cách mạng của
Trung Quốc để theo đường lối xét lại phản động của Liên Xô.
Có lẽ vĩ đã dẫn xã luận để móc máy đảng từng
quay sang hung hãn chống Liên Xô rồi lại quay lại coi Liên Xô là hòn đá thử
vàng của đảng cách mạng mà một thời gian dài Ngọc Lan không được qua một đồng
lương, hàng bao năm chị và hai con sống với 35 đồng trợ cấp. Một sáng giữa
1982, Ngọc Lan đến nhà tôi. Tình cờ Thiết Vũ ở đây. Nghe chuyện chị, Thiết Vũ
nói lại với Việt Phương. Việt Phương đã “chạy” cho chị lương hưu. Cao hơn 35
đồng. Và còn dặn: “Trường hợp Trần Đĩnh thì chịu, quá tầm can thiệp của mình”.
Trần Châu ra tù làm thợ ở xưởng gỗ Quốc Oai,
mỗi tháng chỉ 13 đồng. Bao năm sau, được tin sẽ có lương hưu, anh chắc sẽ được
tính theo lương nhà báo. Lầm! Lương công nhân bậc 1, đến 2009 mới lên triệu
rưởi sau nhiều lần nâng chung. Tôi thì hai triệu. Như phần lớn anh em “xét
lại”. Nói chuyện lương ra nghe nó tồi tàn. Nhưng có nói chỗ tồi tàn này ra mới
thấy tầm thù dai hận sâu của bộ máy.
Trước khi “xét lại” bị bắt nửa tháng, vợ chồng
Phạm Viết và tôi đã khao Kỳ Vân, Minh Việt, Trần Châu, Lưu Động, Hoàng Thế Dũng
một bữa. Buổi tôi rất vui ở nha bố mẹ Ngọc Lan tại Phố Huế đó đã hoá thành đại
hội bàn đào phản động. Hỏi cung tôi, người ta truy tối ấy bàn những âm mưu gì?
Còn ngôi nhà ấy, sau trúng bom Mỹ sập.
Vợ con sơ tán, Phạm Viết bệnh tim không thể xa
bệnh viện nên ở lại. những tối anh khó thở, tôi thường đến ngủ cùng để có thể
gọi xích lô đi cấp cứu. Hai đứa chung màn nhưng Viết ngả lưng ở chiếc ghế gấp
kê trên giường, tôi nằm bên. Người ta đã tra hỏi âm mưu “bàn bạc lật đổ” các
đêm đó.
Nay Ngọc Lan ngoài hai tiếng Anh, Pháp còn dạy
cả Esperanto. Chị tiếc mãi cuốn từ điển Việt-Anh soạn ở trong tù, viết trên
giấy bóc kẹo đã bị người ta lấy khi ra tù. Trong tù chị hay hát bài Ru con “em
nhớ tới chàng” và bị cấm vì nó lả lướt, lãng mạn. Nói thế chứ chả lẽ bảo cấm
phản động nhớ phản động.
***
2007, Ngọc Lan đến ở nhà mới ở Tây Kết, ven
sông Hồng, tôi phôn mừng, nói:
- Không biết sợ sao mà dọn đến ở chỗ Tây nó
Kết?
- Ô, thì đảng kết với Tây rồi chứ nhỉ? - Ngọc
Lan cười hỏi lại. - Nay Nhật và Hàn Quốc bằng lòng cho hàng chục nghìn lính Mỹ
vẫn đóng lại ở hai nước này mà ta không chửi nó xâm lược.
- Nhờ ta diễn biến hoà bình được họ, tôi nói.
Đến nay đã hơn bốn chục năm, khi chuyện với
tôi về Phạm Viết, Ngọc Lan đều khóc.
CHƯƠNG 30
Đầu tháng 8 -1968, giấy mời của Ban tổ chức
trung ương gọi tôi lên 8 Hoàng Hoa Thám, dốc Ngọc Hà, ngay sau dẫy chuồng cọp
Bách Thú, gần nhà Bảo Đại xưa và nhà Bùi Công Trừng. Trần Trung Tá, vụ phó bảo
vệ và Lê Công Tuấn tiếp. Bảo tôi về thu xếp quần áo đi kiểm điểm chừng mười ngày.
Xe của Ban tổ chức sẽ chờ tôi ở cổng báo Nhân Dân. Nhớ lại Địch Dũng nói họ
từng bảo tôi sẽ trốn vào đại sứ quán nước ngoài, tôi hỏi các anh không sợ tôi
trốn ư?
Tôi về 86 Hàng Đào. Từ ngày sắp đẻ con gái,
tránh bom, vợ chồng tôi về ở đây. Căn buồng của tôi ở Nguyễn Thiệp, gần cầu
Long Biên một lần bị hơi bom thổi tung khoá, cửa xệ xuống. Tôi về xem đã thấy
chị Nguyễn Đức Thuận mau chân tới trước thăm thú. Tôi bảo chị việc tôi đi và
nhờ chị nhắn Linh hộ. Chị nói khẽ:
- Không sao chứ? Lâu nay sáng sớm nào chị cũng
thấp thỏm nghe xem có tiếng xe hơi nào đi đến trước nhà.
Ra lại báo Nhân Dân đã thấy Lê Công Tuấn và
Côn chờ trên chiếc com-măng-ca. Đến Khu văn công Mai Dịch, xe dừng lại.
- Anh vào chào chị và cháu đi! - Tuấn nói.
Chuẩn bị trận Tết Mậu Thân, hễ võ đánh bung
đâu thì văn đến múa ca đấy, Hồng Linhsolist, - độc vũ, đã được điều về
Nhà hát Giao hưởng - Hợp xướng - Nhạc Vũ kịch Việt Nam.
Linh tiễn ra xe, rất bình tĩnh. Tôi dặn có thể
đi tuốt luôn, không phải mười ngày như người ta nói. Dặn những việc cần làm khi
tôi đi, nhất là khi đi mãi. Rồi Linh cũng đã bị Trần Trung Tá hỏi han mất hai
buổi.
Xe chạy tiếp. Đến Phố Gạch, rẽ trái. Đến xã
Cần Kiệm, huyện Thạch Thất, chân chùa Tây Phương, nơi một bộ phận của Vụ bảo vệ
sơ tán. Tám năm trước, khi viết tiểu sử Cụ Hồ tôi đọc nhật ký Vũ Kỳ đã biết Cụ
từng từ Chùa Thày chuyển đến Cần Kiệm trước khi lên Bất Bạt vượt Trung Hà lên
Hưng Hoá sang Phú Thọ. Chả hiểu sao chiều tối đầu tiên ở đây, nghĩ đến chuyện
này tôi lại buồn vớ vẩn: Bác cũng đã ở đây mà Bác chẳng bênh gì tôi.
Lê Công Tuấn và Côn làm việc với tôi. Chữ “đi
kiểm điểm” cũng có cái hay: làm cho tôi nói năng tợn tạo hơn. Mãi sau mới biết
là một cuộc thẩm vấn lấy cung. Tôi đặt phương châm: nghĩ gì thì cơ bản cứ nói
thẳng, còn làm gì thì có thể giấu, tuỳ cơ ứng biến, tránh đả kích cá nhân lãnh
đạo. Tuy không hoàn toàn tin hẳn, tôi vẫn nhớ câu Lê Đức Thọ nói cuối năm
ngoái: Cậu không làm sao cả, tớ nói cậu có ghi đây, nếu cậu làm sao thì cứ viết
thư chất vấn tớ tại sao người cộng sản lại nói năng bất nhất? Ít nhất nó cũng
làm tôi vưng vững dạ. Tôi còn tin ông tử tế.
Tuấn có một cái cười đầy gia công. Nghĩa là
chế biến công phu - luôn giữ cho mép sẵn sàng nhếch lên khinh khỉnh, nghi ngờ.
Thảo nào sau này thay Nguyễn Trung Thanh phụ trách cái nhiệm sở nắm toàn hồ sơ
lý lịch của đảng viên, cán bộ trung cao cấp. Nhưng tôi lại thay cái vẻ đó là
dấu hiệu của mặc cảm về một khiếm khuyết, chẳng hạn văn hoá, lý luận.
***
Vào đầu, Tuấn nói trước khi làm việc với anh,
chúng tôi đã nghiên cứu ngôn luận của anh về đảng. Anh nói về đảng rất xấu, có
thể nói là đểu nữa. (Vì thế Tuấn đã phải khinh khỉnh lại, nhếch mép lên thường
trực chaăg?) Anh đến đây không có nghĩa là chỉ đến đây, Tuấn nói. Anh Thẩm đã ở
đây và nay thì đang ở tù. Còn lúc này anh ở đây thì anh Lưu Động cũng kiểm điểm
ở Sở công an Hà Nội. Cuối cùng nói để anh rõ là trong đám bị tù có nhiều đứa
tội không nặng bằng anh đâu, chắc anh cũng biết như thế.
Tôi nói tôi không có mưu đồ chính trị. Nhưng
dân ta có câu “có gan ăn cướp có gan chịu đòn”, thì tuy không ăn cướp, không
mưu toan lật đổ, chống đảng nhưng tôi cũng sòng phẳng sẵn sàng “chịu đòn” nếu
tôi làm cái gì sai trái. Đấy, tôi đã chuẩn bị thế này: vào tù, ra đảng, mất
việc và đi khỏi Hà Nội. Đấy, từng cái, hay tổng cộng cả bốn, sẵn sàng.
Tôi không bốc đồng, không cải lương. Mà muốn
nhân dịp cho họ thấy giá trị tinh thần tôi. Thứ nhất tôi sòng phẳng. Thứ hai,
về chủ nghĩa tôi hiểu nhiều hơn và đúng hơn họ. Thứ ba, phẩm chất tôi xứng đáng
quá. Còn về tình cảm với đất nước với nhân dân thì đừng ai mong bắt bẻ tôi. Tóm
lại tôi muốn tỏ cho họ thấy tôi tốt - cộng sản chân chính - hơn họ.
Ngoài ra, trong sâu thẳm có một cái gì thuộc
tính nết, thuộc tạng người, có lẽ bốc đồng. “Hiên ngang” cùng là co ý thách họ
thử sức tôi xem. Họ sẽ biết là tôi không sợ bạo quyền mà chỉ sợ tự mình hạ thấp
nhân cách mình.
Thuở bé ở trường học, chơi trò phá tổ ong. Một
bạn giả làm tổ ong úp mặt và tay lên tường cho chúng tôi đến đập mạnh vào
người, ong sẽ đuổi cấu. Hôm ấy Phạm Mộng Mai làm ong. Lớn hơn tôi ba bốn tuổi,
trắng hồng, đẹp như con gái, chuyên cùng Thái Ly đóng Hai Bà Trưng ngồi kiệu uy
nghi trong đám lính chúng tôi vác sào nứa diễu hành hào hùng bên dưới. Lần ấy,
Mai chỉ nhè đuổi bắt tôi. Cuối cùng tôi bị dồn vào hanh lang cụt trên gác hai
ngôi trường bố Phan Thế Vấn mở, mà Mai thì đến gần, tay thò ra múa, chọc, cười
khoái trá. Tôi leo lên lan can buông mình xuống. Cái mũ cát rơi lộc cộc xuống
trước. Và lại lo nó bẹp, sẽ bị ông nội tôi mắng. Cảm giác người lắc lư va trái
đập phải trong khi rơi rất lạ. Tập tễnh suốt mười ngày liền. Ông nội phải bóp
lá chè tươi cho. Lạ là không hối hận. Mộng Mai sau là tỉnh đội trưởng Hà Bắc.
Tình cờ đọc cáo phó, tôi biết Mai đã chết.
Lại một lần. Một tối sáng trăng vằng vặc, mẹ
và anh em chúng tôi nằm hóng mát trên sân thượng. Mẹ bỗng trách bố. Và trách
đúng. Tôi tự nhiên đi ra vạt tường hông nhà đứng trên đó nhìn xuống Vườn Đoan,
khu đất hoang mấy trăm mét vuông đầy cây vòi voi cạnh nhà lúc này đang quăng
quắc sáng. Đầu nghĩ rất nhanh và người chợt nhẹ nhõm: nhảy! Thì mẹ khẽ gọi:
“Đĩnh!”. Tôi đi trên mép tường trở lại chỗ nằm.
Mười hai tuổi. Phảng phất một khao khát được
tránh xa đau buồn. Sau này lớn khôn thì nhận ra đó là lần thứ hai mẹ cho tôi ra
đời. Không có cái giọng đặc biệt mẹ thì có khi…
***
Tuấn hỏi, Côn ghi. Cạnh bàn làm việc, dưới gầm
bàn thờ nhà chủ là một hòm tôn to. Tuấn chỉ vào nó:
- Trong này nhiều cái liên quan đến anh lắm.
Anh có muốn xem ảnh anh ngồi với Trần Châu ở nhà Phạm Viết không? Hay là ảnh
mình anh đi ở đường?
Đầu tiên phải ghi ra một bản tên tất cả bạn
bè. Tuấn cầm xem, lược đi quá nửa. Bạn văn nghệ đều được loại khỏi sổ đoạn
trường, trừ Huy Vân, đạo diễn điện ảnh và Phan Kế An.
Ngày hai buổi hỏi đáp. Lần lượt khai quan hệ
với từng người. Tại sao quen? Ai giới thiệu (có khi dùng chữ “móc nối”)? Gặp
nhau bao nhiêu lần? Gặp thì nói những gì, bàn những gì với nhau? Hỏi moi hỏi
móc, hỏi vặn hỏi vẹo, hỏi đi hỏi lại, hỏi cho kỳ ra câu trả lời mà hai người
cho là được.
Đặc biệt trong cả nước ch có một “chi bộ xét
lại” ở báo đảng. Trong một thông báo, Lê Đức Thọ đã nêu ra tội ác ghê gớm này.
Lúc nghe, tôi đã nghĩ chả trách “đầy nhà vang tiếng ruồi xanh” và “người nách
thước kẻ tay dao” ào ào như sôi.
Tôi đã bác kết luận nay nhưng Tuấn, Côn im
lặng. Tôi khó chịu nhất vì cảm tưởng bị nghi là giấu giếm, trong khi tôi chủ
trương không giấu. “Cái buổi sáng anh và Huy Vân ngồi với nhau lâu ấy là bàn
gì, trước khi bắt Trần Châu ít ngày? Tôi gợi ý nhá: bàn một cái rất quan trọng,
vừa là quốc tế lại vừa cả trong nước…”. Thầm nghĩ thì cái gì bọn này bàn mà
chẳng dính trong nước với quốc tế. Nhưng hỏi và nghĩ hơn một ngày vẫn mờ mịt.
“Gợi ý thêm để anh nhớ nhé, buổi ấy anh và Huy Vân ngồi uống cà phê ở bán đảo
công viên Thống Nhất…”
Tự nhiên xào xạc trong đầu gió thổi, lá reo và
nước hồ xôn xao và trong lòng thênh thang. Huy Vân và tôi ngồi bàn luận cả buổi
sáng rất vui nhưng bàn cái gì thì chịu không sao nghĩ ra nổi. Như đùa. “Lạ
thật, trí nhớ của anh ghê lắm cơ mà, tại sao lại không nhớ nhỉ”, - Tuấn nói.
Tôi cuối cùng đành khất, nhớ ra sẽ nói sau. Mà lại cứ nhớ đến một câu của
Virginia Woolf: “Điều mà bạn chờ ở một người sống cùng với ban là người ấy giữ
cho bạn ở được mức cao nhất của bạn”. Người ấy với tôi hiện nay là các anh chị
em đang bị tù.
Sau này gặp lại Huy Vân đã ra tù, về lao động
ở nhà máy gỗ Ninh Bình cạnh sông Vân và gần núi Con Lợn (hệt con lợn đất để
dành tiền mà tôi cư coi là di vật của chú bé Đinh Bộ Lĩnh) tôi đã hỏi lại. Huy
Vân bữa ấy nghỉ Chủ nhật, lên thành phố Nam Định chơi. Đến trước cổng tỉnh uỷ,
tình cờ thấy tôi đang sắp đi vào - lấy giấy giới thiệu xuống huyện viết bài -
Vân gọi rất to: “Trần Đĩnh!”. Tôi quay lại. Huy Vân măng-tô san cười toét, răng
rất trắng. Hai đứa kéo nhau la cà miết. Huy Vân bảo:
“À, hôm ấy chúng mình nói đến chuyện hội đàm
hai đảng ta và Trung quốc, nhớ không? Thế là xổ ra cả một cuộn phim về cái buổi
sáng tưng bừng ấy. Nhớ như in. Chúng tôi bảo nhau: các cụ khiếp Cách mạng Văn
hoá rồi. Nghe theo nó, đánh Mỹ mà nay nó loạn thế này lá có cơ bị nó đem bỏ
chợ. Cho nên các vị mới không tán thành Tàu nói Mỹ nhất định đánh Tàu và nếu
xẩy ra chiến tranh thì Liên Xô nhất định theo Mỹ đánh hôi. Bắt đầu ngoảnh lại
với Liên Xô rồi đúng không?”
Tôi lúc ấy đã phì cười vì con mắt Huy Vân làm
kiểu Việt Cộng ngoái liếc Liên Xô nom rất xỏ lá; miệng thì nói: “Dạ, em muốn
tục tái lương duyên ạ, anh nhận đi cho em nhờ, anh ơi, em chán thằng anh hai
rồi, nó xui em đá anh nhưng tình em với anh còn nặng nên em chỉ đá tí ti anh
thôi!”.
“Cậu nhớ trong hội đàm Tàu còn khuyên đánh đến
người Việt Nam cuối cùng thì các vị lại nói sẽ vừa đánh vừa đàm. Xuống xề ghê
chưa, trước kia đứa nào nói đàm là bỏ mẹ! Cậu đồng ý không? Cứu ta lại hoá ra
là Cách mạng Văn hoá! Hãi lắm rồi. Bên ấy nó mà tan hoang thì Việt Nam thành
cám. Đúng đấy, không có Cách mạng Văn hoá khéo ta đánh sang đến Thái Lan,
Phi-li-pin, gọi là đi E, đi Ép, F. Ấy, ông Lê Liêm đưa tớ đọc. Hôm ấy Huy Vân
bảo vì cả nước phải học tập Bất Khuất nên nó mới không bắt mày.
Huy Vân rớm nước mắt nói tao về Hà Nội, nhớ
con quá, chỉ mong có tiền mua một cái piano cho con Châu, ừ, toàn ngủ vườn hoa
Hàng Đậu, cách nhà ba chục mét, vợ cấm cửa. Chốc lại rón rén đến nhòm qua cửa
đóng, nhỡ đâu thấy hai đứa con gái. Không dám gọi. Có tội với đảng là anh mất
sạch hết mà.
Huy Vân sau này vượt biên hai lần. Lần đầu bị
bắt ở trong Sài Gòn. Tha ra được một thời gian lại vượt. Bị bắt ở mạn Móng Cái
với L., một cô bạn gái làm báo. Giam ở nhà tù Tân Lập, Yên Bái. Rồi chết. Một
thân một mình. Giấy báo tử gửi về người anh ruột ở Quảng Xương, Thanh Hoá. Tôi
rất thương anh bạn xấu số. Một dào, hồi 1973-74, một vài anh em cùng tù đã nghi
anh là tay sai công an! Tôi kịch liệt cãi. Một vài tin đồn nữa về Huy Vân, tôi
đều thẳng thắn hỏi và khi Huy Vân thanh minh thì tôi tin. Khi biết anh chết,
tôi rất buồn. Tôi bảo Minh Việt:
- Chúng ta phải chịu một phần trách nhiệm.
Biết đâu thấy có anh em nghi ngờ nên Huy Vân muốn bỏ đi!
Lúc chưa bị bắt, Huy Vân và Phạm Kỳ Nam tranh
nhau làm phim Bất Khuất, giục tôi viết kịch bản. Tôi đùa:
- Dựng làm gì? Chỉ toàn tiếng đánh chửi, kêu
khóc trên màn ảnh đen ngòm ấy mà.
***
Trong thời gian hỏi cung, tôi đã có lúc suýt
điên. Trời nóng, nhà thấp hướng tây, cứ bị vặn vẹo mãi tôi bực. Một chiều gió
tây, đang cáu chợt thấy người tự nhiên như phồng nở ra, nhẹ bẫng, có thể cất
bay. Một ý nghĩ vụt lồng vào người như một làn gió: nào, cầm lấy phích nước
nóng kia liệng một cái ra sân, ra góc bể nước mưa có những mảng rêu rất mát kia
kìa, đấy, tiếp theo là gạt tung hê bàn nước, giấy tờ này ra theo nốt rồi nhún
mình nhảy một cái ra… nào… Tôi ra khỏi cơn dụ dỗ đó thế nào không biết. Chợt
như ở đâu trở về. Bàn tay đang chìa về cái phích.
Trưa nóng khó ngủ, tôi đến với thiền địa.
Đó là mảnh đồi vắng gần trước cổng nhà Tuấn,
Côn. Một giao thông hào rất sâu gẫy khúc chạy giữa một rừng cây thưa. Đặc biệt
đường bệ là một cây chi chi luôn rì ráo gió rất thanh cao như nhờ đã ở một khí
quyển trong lành khác. Tôi đến nhặt hạt chi chi về làm quà cho con gái mà tôi
nhớ nó như có lửa đốt ở trong lòng, như có muối tra vào mạch máu. Hạt chi chi
mịn bóng một mầu đỏ thắm sơn mài hoành phi cung đình vùi trong đất son. Mỗi khi
rúc trong giao thông hào moi bới hạt chi chi, tôi lại tưởng đang nằm trở lại
vào bọc ối mẹ từng bao che cho cũng êm ả như thế, khi tôi thấp thỏm chờ đợi một
cái đời bên ngoài rồi sẽ đến với tôi. Cảm giác nhớ và thân thiết vào sỏi đá lại
sống dậy. Nhớ tới những lần vây đồn Pháp, núp dưới hố cá nhân mới đào gặp sực
nức mùi đất đá, mùi cỏ tươi đứt rễ, nghe tiếng bom hay đạn pháo rít lên lao
xồng xộc xuống. Giá như tách biệt được ra với cái đời mà tôi đã bị đẩy vào này.
Cái đời nay khó nói chuyện với nó quá. Nó đâu có cho nói?
Không hiểu sao hễ bắt đầu cảm thấy hơi mát ở
hai vách hầm tránh bom toả ra ôm lấy tôi, tôi lại lẩm bẩm hai câu thơ của W.
Ernest Henley “I am the master of my fate, I am the captain of my soul” -
Tôi là chủ nhân của số phận tôi, Tôi là thuyền trưởng của tâm hồn tôi”. Một
Ernest nữa, không phải người Anh, cũng hay chuyện trò với tôi trong lòng hầm:
Ernest Hemingway. Tôi cũng nhớ đến Nieztshe nói: “Là người phê phán, anh không
thể là người của bè nhóm”. Không, tôi phê phán tư tưởng Mao hiếu chiến là để có
một đảng theo đúng học thuyết cộng sản khoa học yêu hoà bình.
Tôi đã nhặt gần bốn nghìn hạt chi chi. (Nay
còn mấy chục đã hoá màu nâu xỉn).
Nghe thấy tiếng nước đổ vào thau đồng cạnh bể
nước, tôi lại vào với keo vật tiếp, gói chi chi trong túi áo ngực như chiếc bùa
hộ mệnh con gái đưa cho.
Những đêm trăng tôi chơi trốn tìm với đám trẻ
con chín mười tuổi. Chạy cười rinh rích các sườn đồi, những bụi mây với những
đọt non nhú ló trong trăng như những toà tháp Chàm nguy nga đan bằng những lạt
ngà chuốt mỏng, những toà tháp long lanh bí ẩn khiến nhiều khi tôi muốn đứng im
chắp tay lại ở trước chúng. Những khi vô tình ẩn đằng sau nhà Tuấn, Côn, tôi
nghe rõ thấy bầu không khí thành kính nín thở bên trong nó làm vang thêm tiếng
nói Đài phát thanh Bắc Kinh đang giọng mũi khê nặc dạy đi theo Mao Chủ tịch
quét sạch mọi tà ma quỷ quái mà đầu sỏ là bọn xét lại Lưu - Đặng.
Xin hãy tin tôi. Giữa trời trăng vằng vặc tôi
cười! Tôi thắng! Tôi tự do! Tôi không bị Mao Chủ tịch cầm tù. I’ m the
captain of my soul. Tôi là thuyền trưởng của hồn tôi.
Không đâu, đừng tưởng bở bạn ơi. Chưa thay
không Mao thì Mác chứ. Mác là bác của bác Mao nhưng uy bác Mao lại cao hơn Mác.
CHƯƠNG 31
Tôi đã cơ bản nói hết ý nghĩ và nhận định của
tôi về Đảng. Gan góc này nhờ một phần nghĩ đến bạn bè tù đau khổ hơn: tôi sẵn
lòng chung hưởng cảnh ngộ của các bạn, tôi đang nhờ các bạn để nâng bản thân
lên. Nhờ câu của Trần Châu: “Họ sợ tinh thần chúng mình!”, nói với tôi một sáng
ở sân báo Nhân Dân khi đám xét lại đã bị đánh tan tác, chỉ còn hai anh em chúng
tôi ở lại đó. Còn nữa. Nietzsche nói khi đau khổ người ta nhìn thấu sự vật, Tôi
đã nghĩ về câu này và thay tôi nhìn thấu rồi đấy. Nghĩa là tôi đúng. Phản đối
Mao là quá đúng chứ! Phản đối bạo lực là quá hay chứ! Cách mạng Văn hoá yểm hộ
tôi rất mạnh kia. Đấy, chiến hữu chí cốt đã cùng cực man rợ chưa, đấy, Đảng chỉ
có lợi ích nhân dân mà nay dìm dân dìm nhau trong máu.
Tôi biết mấu chốt khai cung là tránh chi tiết,
chi tiết làm nên nhân vật văn học mà. Khai cung cũng thế. Nhưng đôi khi tôi
thoáng có ý trả hận. Khai thật ý nghĩ về Đảng - cố nhiên với một thái độ ra vẻ
ân hận - cũng là một cách trút giận.
Tôi đã khai và ký vào biên bản rằng tôi nghĩ
Đảng đã tha hoá, biến chất, aliéné (viết cả chữ Tây vào biên
bản). Bởi hai nguyên nhân:
Một, đảng không cốt trung thực, chỉ cốt nhất
trí. Đảng coi nhất trí với đảng là đạo đức quyết định tất cả. Thì sẽ đi tới
tiêu chuẩn lô gích này: mày bụng dạ cứt đái ra sao tao bất cần, miễn mày nghe
tao là mày sạch sẽ, thơm tho, còn ngược lại thì mày toi. Nhất trí, khoản đạo
đức xem ra dễ phấn đấu để đạt tới nhanh nhất này mở đường cho dối trá trổ tài.
Lẫn lộn nhất trí với trung thành là nguy hiểm. Và nếu cứ trung thành là đúng
thì đã không có chữ ngu trung.
Hai, người phụ trách đơn vị, từ tổ trưởng lên
đến uỷ viên trung ương quyết định lương cho cấp dưới. Chế độ này chính là nền
móng vật chất của “nhất trí”, “ngậm miệng ăn tiền”, chủ nghĩa Mác-xít thành
“chủ nghĩa mác- mít” - cái nồi cơm (tiếng Pháp: marmite)
hay chủ nghĩa cơ hội và nịnh bợ.
Tôi nói tôi không thích chiến tranh. Không tất
yếu phải đánh Mỹ. Đất nước phải thống nhất, đúng, nhưng có thể lấy thời gian
thay cho máu chảy đầu rơi mà thống nhất không?
Tôi đã phê bình một số uỷ viên Bộ chính trị
đạo đức giả, liêm khiết vờ, tả khuynh. Người ta hỏi anh đã đặt cho Nghị quyết 9
một cái tên? À, có, là la neuvième dodécaphonie - Loảng xoảng
hưởng số 9, vì nghe chướng, ngược với Giao hưởng số 9. Tôi bảo khi chịu “điểm
chỉ làm bố dượng tinh thần của Loảng xoảng hưởng số 9”, Trường Chinh đã nhận
lấy vai trò mẹ Mao thay cho Duẩn để Duẩn rút khỏi cái tiếng tăm bắt đầu nghe
không hay này. Trước cơn động đất chính trị bên Trung Quốc và tâm trạng hoang
mang của cán bộ đảng viên, Duẩn bắt đầu nói đến vài sai sót của Mao. Vì thế tôi
dự đoán và nhận định với vài anh em như Phạm Viết là để giữ uy tín cho mình, Lê
Duẩn rồi sẽ sớm bỏ Trung Quốc, sẽ phải đưa các Mao-nhều ra
khỏi Trung ương. (Ôi, ngây ngô).
Tôi không bao giờ nhận anh em và tôi đã lập tổ
chức cũng như có âm mưu lật đổ hay làm gián điệp, tay sai của Liên Xô.
Nhưng nhiều khi bị vặn hỏi về hoạt động gián
điệp của anh em, (“Anh đến Phạm Viết thấy trà uống nhiều thế mà không lạ ư?
Liên Xô cho mới nhiều thế chứ!”) tôi không thể không sửng sốt. Nhưng tôi đã
nói: “Nếu biết tiếng Nga thì tôi cũng làm gián điệp. Để làm gì à? Để cho bên
ngoài biết thực trạng mà giúp ta thoát khỏi kìm kẹp của Mao”.
Người ta bảo vẽ sơ đồ tổ chức. Tôi vẽ. Hôm
sau, Tuấn xem và nói thôi. Đúng, dê đực mà đẻ thì chúng tôi mới vẽ ra được cái
sơ đồ suy luận ra ấy!
Có hai điều khai xong tôi khóc. Khóc thật
lòng.
Một là tôi đã có những ý nghĩ hỗn láo với Cụ
Hồ. Cho rằng Cụ đã thua Mao nhưng lại nống Mao-ít lên cho mà tha hồ hợm hĩnh đi
vào chủ nghĩa dân tộc sô-vanh ngạo mạn, coi thiên hạ như bèo bọt. Ở Đại hội anh
hùng, chiến sĩ thi đua, Cụ mặc quần áo cánh, mặt đỏ au ra ca ngợi chính phủ ta
anh hùng nhất vì bao nhiêu năm mà không thay đổi luôn như các nước khác. Nhìn
cái dáng thanh thản tối ấy của cụ, tôi nghĩ cụ có ý mượn tích Gia Cát Lượng
đánh cờ trên thành để cho thấy thế trận nhàn trong khi dân lao đao, khốn khổ bỏ
cha.
Hai là nói tôi chán nhân dân ta vì “nhân dân
ta anh hùng - không sợ bom đạn” nhưng lại thua Thằng Hèn. Hèn vì nhân dân ta
khiếp sợ quyền lực, khuất phục từ tổ trưởng trở đi.
Tôi đã khóc vì thấy như mình thoá mạ bố mẹ.
Sao lại bảo nhân dân ta hèn?
Nhưng nhận xét dân ta hèn trước hết là từ thể
nghiệm bản thân. Tôi được tiếng ngay thẳng, dũng cảm thế nhưng tôi cũng đã
nhiều phen sợ và đầu hàng bạo lực. Còn xung quanh, trong cán bộ, đảng viên? Tôi
thấy người ta quá dễ dàng “sáng ra” để được ùa theo quyền lực, dù quyền lực ấy
dối trá, nhổ rồi lại liếm.
Tôi đã nói tôi như bị “thất tình” với Trường
Chinh. Với cả Cụ Hồ. Tôi từng coi hai vị là tấm gương trung thực. Rồi hai “vì
sao sáng” như lời mẹ tôi bảo tôi ngoan để học tập thì nay hai “vì sao sáng” ấy
đã mờ tối đi ở trong tôi từ Nghị quyết 9.
Trong “khai cung” tôi đã nói thật hết - của
phần mình - chính là để tỏ cho họ thấy con người tôi nó như thế nào. Tôi đã
nghĩ nhiều về nguy hại của “nhất trí”, khuôn đúc trí lự a dua, vơ vào, chỉ cốt
được khen là trung thành, nhất trí không cần biến hoá, phát triển. Nghĩ như bị
ám về tai hoạ năng lực lãnh đạo ngày một teo đi đến mức sau này, một lần Đào
Năng An hỏi sao lãnh đạo cứ ngày một kém, tôi đã bật nói ngay:
- Do nguyên tắc tuyển người thay thế lãnh đạo
phải theo cung bậc giáng thoái hoá, nghĩa là không tìm người kế tiếp ở trong
những cái đầu ngang hàng mà đi đôn lên ở trong đám tay quân hầu đày tớ chuyên
ăn theo, nói leo tức là trung thành, bởi đảng không cần năng lực mà chỉ cần ai
giỏi bám theo vết xe cũ cho nên kết quả tất yếu sẽ là tay chân thay thế đầu như
hiện nay rồi mai kia thay thế tay chân là đuôi. Sau đuôi đến gì vén lên sẽ
thấy…
Tuấn, Côn còn bắt tôi khai “thủ đoạn bôi nhọ,
hạ thấp uy thế Mao Chủ tịch”.
- Anh đọc báo của bạn chăm lắm mà…
- Vâng, chăm. Nhưng các anh hỏi để làm gì? -
tôi hỏi.
- Trên ban muốn nghiên cứu thủ đoạn hạ uy tín
lãnh tụ của anh.
A, hay là muốn bao che cả cho Trung Nam Hải?
Tôi thầm thấy sướng là sẽ được nói lại chính những điều đảng viên Trung Quốc
chửi lãnh tụ của họ.
- À, cái này dễ, - tôi nói. Nhân Dân nhật báo
Trung Quốc một dạo đăng công khai các bài bọn xét lại phản động chửi Mao Chủ
tịch, đại khái như loạt tạp văn của Đặng Thác trong nhóm “Thôn ba nhà” để công
luận phê phán họ. Tôi đọc rồi đem kể thật rộng cho mọi người. Chẳng hạn bài
“Bệnh hay quên”. Một người thời xưa đần độn hay quên. Vợ chán quá bảo đi kiếm
thày mà học. Cưỡi ngựa, đeo cung tên đi nhưng giữa đường buồn ị. Tụt xuống ngựa
ngồi vào ven đường thì chợt thấy mũi tên ở túi tên mình rơi ra. Bèn hốt hoảng
kêu:
- Chí nguy! Kẻ thù rình rập. Kẻ thù mọi ngả.
Âm mưu khắp nơi.
Định chạy trốn thì trông thấy con ngựa. Mừng
quá kêu lên:
- A, cơ hội thuận lợi không bao giờ cạn.
Vội leo lên ngựa thì giẫm phải bãi cứt của
mình. Than:
- Bài học lớn đây. Đừng bao giờ chủ quan cho
là địch hết hãm hại…
Ngựa quen đường cũ quay về. Thấy chồng ở trước
cửa, chị vợ rủa:
- Gã ngu độn kia, sao mới đi đã về hả?
Anh ta trả lời:
- Nương tử ơi nương tử, cớ sao ta mới gặp
nương tử lần đầu mà nương tử lại nặng lời với ta?
Đặng Thác viết ngày xưa các cụ chữa bệnh hay
quên bằng đánh một cái gậy vào đầu cho ngất đi rồi hắt một chậu máu chó vào
mặt. Tỉnh lại được thì tốt không thì thôi. Ngày nay văn minh hơn, chữa bằng sốc
điện. Tỉnh lại còn nói được tiếng người thì có thể cho tiếp tục phục vụ.
Tôi còn kể cho Tuấn một bài nữa. Một cái khe
có một thân cây bắc làm cầu. Một gã đã qua được nửa cầu thì thình lình tụt
xuống hai tay ôm lấy cây cầu, co chân lên, nhắm mắt lại mà giẫy mà hét: “Ôi
thậm cấp chí nguy, chí nguy, kẻ thù tứ phía, âm mưu chúng bao phủ đen ngòm, hãy
chống trả…”. Thật ra cái khe sâu có một mét và trời vẫn nắng, đời vẫn bình
thường.
Khi tôi giải thích:
- Ý là chửi Cụ Mao cường điệu đấu tranh địch -
ta, nhìn đâu cũng ra địch để kêu gọi chiến tranh, bạo lực.
Nom cáu ra mặt, chắc chạm nọc, Tuấn ngắt:
- Thôi, anh chả cần phải thêm thắt!
Sau này khi Hồng vệ binh đến nhà vây bắt, Đặng
Thác đã nhảy lầu. Lúc ấy ông là phó bí thư Bắc Kinh. Nguyên Tổng biên tập Nhân
Dân nhật báo, sử gia Đặng Thác chủ trương dân chủ ngôn luận rồi bị kỷ luật sau
phong trào chống phái hữu. Bành Chân, bí thư Bắc Kinh kéo ông ở báo đảng về.
Có mấy cái mánh giúp tôi vượt qua được thử
thách khai cung. Trước hết, như đã nói, tôi luôn muốn được chia sẻ cùng bạn bè
đang tù. Nghĩ đến anh chị em là cách tự động viên không được sa ngã. Thậm chí
còn tự dặn sẵn sàng theo anh em vào tù - mà điều này có khi lại làm cho tôi
khuây khoả. Rồi những lời các nhà văn nói về dũng cảm.
Tình cờ trước khi đi khai cung, tôi đọc The
green hills of Africa, Những đồi xanh châu Phi (hay Across the
river and into the trees?) của Hemingway. Ông viết trong đó: Nếu không bị
đi đày ở Xi-bia, Dostoievski có khi cũng chỉ là một nhà văn loàng xoàng nhưng
rồi ông đã đau khổ. Thì đúng như Đốt từng nói trước đó: Muốn viết hay, phải đau
khổ, đau khổ, đau khổ. (Lúc đọc câu này, tôi đã ngán ngẩm nghĩ mình thì đau khổ
cái gì để mà viết được hay đây?. Hemingway viết trong Đồi xanh châu Phi:
Nhà văn rèn luyện trong bất công như lưỡi kiếm. (Như thế này tôi đã được trui
rèn như lưỡi kiếm chưa? - Tôi tự hỏi).. Và một câu nữa ở một quyển khác cũng
của Hemingway - hình như trong Những hòn đảo trong hải lưu -
“Dũng cảm là trang nhã trước khó khăn…”. và một mẩu trong dã sử xứ Daghestan:
“Người ta hỏi: Trong thế gian cái gì ghê tởm nhất, gớm ghiếc nhất? - Một người
run rẩy vì sợ. Người ta lại hỏi: Trong thế gian, cái gì ghê tởm nhất và gớm
ghiếc nhất? - Một người run rẩy vì sợ…”. Tôi đã thường nhắc thầm lại trong đầu
những câu này và tự xét đã run rẩy chưa? Chúng là những người bạn rất hữu ích.
Nhưng phải nói rằng còn có cả câu của Lê Đức
Thọ: “Tớ nói cậu có ghi đây, cậu không làm sao cả, nếu cậu làm sao thì cậu cứ
viết thư chất vấn tớ tại sao là người cộng sản tớ lại nói năng bất nhất?”. Và
tôi nghĩ Lê Đức Thọ đã nói là dao chém cột.
Rằm trung thu, Trần Trung Tá lên xem tình hình
khai cung của tôi. Chiều hôm ấy, Tá và tôi ra một ven đồi ngồi chuyện.
Ven đồi trước mặt, một dãy hồng, quả lúc lỉu,
xanh câng câng như bằng sắt tây khiến tôi nghĩ đến bối cảnh trang trí sân khấu
với màu vàng tà dương thoi thóp buồn trong Cậu Vania của
Tchekhov tôi xem ở Bắc Kinh. Rồi tự nhiên nhớ con gái suýt bật nấc lên. Tá nói
Hà Nội đang có vụ phê phán quyển Cái Gốc của Nguyễn Thành
Long. Bài này xuyên tạc đất nước ta hết nhẵn đàn ông, mọi sự vào tay đàn bà
tất. Tôi nói thế thì tội quá cho Long. Hội phụ nữ và Bác Hồ ca ngợi phụ nữ ba
đảm đang, trung hậu, kiên cường, Long tin cậy nghe theo. Nay quay ra bảo anh ấy
có dụng ý xấu mà đánh là oan cho anh ấy vô cùng. Tá nói anh bảo như thế nhưng
với nghiệp vụ của mình, chúng tôi cứ phải cảnh giác, soi vào từng chữ.
- Anh là bạn thân của Nguyễn Thành Long? - Tá
hỏi.
- Rất thân, tôi đáp. Anh ấy bị là vì quá tốt
với Đảng. Hội phụ nữ và Bác Hồ bảo sao là cứ thế hưởng ứng… Tôi viết Bất Khuất
cho Nguyễn Đức Thuận chắc các anh cũng soi từng chữ đấy nhỉ? - Tôi đùa.
Lúc ấy chưa nghĩ người ta ngờ tôi đã xúi Long.
Cũng không biết người ta xếp loại tôi là phần tử xét lại hoạt động trong giới
văn nghệ và Long, chốn tôi thường tới lui đã bị tôi tác động.
Tá ra về mấy hôm rồi tôi mới sực nhớ một lần
Tuấn, Côn bảo tôi:
- Anh “hoạt động” trong văn nghệ sĩ gớm lắm!
Lại thấy họ đã đánh giá sai.
***
Trời đã lạnh, tôi nhận được chăn mỏng, quần
áo. Và một giấy của Công đoàn báo Nhân Dân chứng nhận tôi là chồng Hồng Linh để
tôi ký vào cho Hồng Linh được phá thai. Khi đi thẩm vấn rẽ qua chào Linh, tôi
đã dặn Linh làm gì nếu xảy ra chuyện này. Chỉ có thể một con, hoàn cảnh của
tôi, ai biết thế nào mà đẻ thêm! Linh đã từ Mai Dịch đi xích lô đến tận Chợ
Bưởi để nạo thai. Chiều xích lô về. Rét run trên đoạn về dài dặc vắng ngắt.
Cung hỏi đã vãn. Tôi mượn xe đạp Côn đi chơi
loanh quanh một sáng chủ nhật. Tình cờ đến Hoàng Xá, Quốc Oai lại vồ phải vợ
chồng Trần Các đi thăm con sơ tán. Các níu tôi lại ở một quán nước. Anh cho một
tin rất hay: Mỹ sẽ ngừng ném bom và ta thì sẽ ngừng đưa quân vào.
- Có đi có lại thế mới được chứ! - tôi buột miệng
nói
Các hấp tấp nói:
- Có, ta phải ngừng đưa quân vào mà.
Các không giấu được mừng khi nói đàm phán có
thể thành. Cũng rất mừng, tôi bảo anh:
- Đàm phán là tốt. Đánh Mỹ mà đằng lưng, đại
hậu phương rối như canh hẹ và còn chưa biết lành dữ ra sao. Cứ ôm lấy ông anh
đa sự này có ngày khốn.
Các nhay nháy mắt ờ ờ tán thành. Bốn năm sau,
1972, anh bảo tôi ở bến tàu điện Bờ Hồ khi tôi đang đi với Lê Đạt: Ông chống
Mao là đúng, tôi tin lão ta là tôi sai. Nhưng tôi trung thực tôi nhận tôi sai.
Họ không nhận sai là họ kém tôi…
Về lại Cần Kiệm, tôi bảo ngay Tuấn, Côn là sắp
ngừng bom. Tháng 8 ngừng từ Quỳnh Lưu ra. Tháng 11 thì ngừng hẳn từ vĩ tuyến
17. Không nói đổi lại ta ngừng đưa quân vào, làm như ta thắng. Thế mà Tuấn
nhếch mép mỉa mai:
- Ông ghê thật, vừa chạy đi một tý mà đã có
tin giật gân. Khéo tin đồn nhảm đấy.
Tôi cười:
- Lạ nhỉ, báo tin Mỹ chịu ngừng bom là tôi báo
tin thắng lợi chứ? Chiến tranh không ra ngoài Bắc, ngoài Bắc mới xây dựng chủ
nghĩa xã hội được.
Bụng biết thóp Tuấn mắc nặng quan điểm không
đàm phán với đế quốc của Mao.
Hôm sau Tuấn bảo tôi viết một bản nhận xét
Hồng Hà. Tôi đã viết. Viết cả chuyện năm 1964, một sáng Thái Duy tức Trần Đình
Vân đến báo tôi anh sắp đi Bê thì tình cờ Hồng Hà qua phòng khách. Vừa đi Trung
Quốc với Hoàng Tùng về, thấy Thái Duy, Hồng Hà rẽ vào. Thái Duy nói anh ở nước
bạn về chắc là phải có thuốc lá Bắc Kinh mời anh em chứ. Hà đưa ra bao Tam Đảo.
Thái Duy lấy hai điếu rồi nói:
- Tôi hút một còn một để về triển lãm cho anh
em Cứu Quốc biết anh Hồng Hà gương mẫu đến thế nào, đi nước bạn mà cứ hút thuốc
ta.
Hồng Hà đi rồi, Thái Duy nói cha này vờ gỉỏi
lắm. Trên rừng anh em đã nói hễ đến sông suối nào phải lội thì cha xắn quần
nhanh nhất, hô lội to nhất nhưng bao giờ cũng qua sau cùng.
Thế nào mấy hôm sau, đài phát thanh nhắc đến
Hồng Hà, nhà báo của đoàn đàm phán ta ở Paris. Tuấn cười hỏi tôi:
- Lẽ ra là ai, anh có biết không?
- Là tôi, - tôi nói.
- Sao anh biết?
- À, anh Thọ bảo tôi từ năm 1966.
Lúc ấy chưa biết tờ nhận xét của tôi đã đôn
Hồng Hà vào trúng long mạch “nhất trí” mà Đảng cần. Người mà khóc trước đảng bộ
và cảm ơn Mao Chủ tịch đã mở mắt ra cho nhìn thấy cách mạng thì đáng quý lắm.
Giá như tôi khen anh thì chắc Đảng vất anh vào sọt. Mao Chủ tịch dạy đó: kẻ
địch chửi ta là khen ta đúng, kẻ địch khen ta là chửi ta sai.
Tuấn lại nói:
- Anh Chính Yên hay kêu tiếc cho anh. Chúng
tôi bảo anh Chính Yên là anh tiếc một, Đảng tiếc mười.
Tôi thấy hả. Phải tiếc chứ!
Có một dạo, cơm chiều xong tôi hay ra con
đường một ngả lên đường 32 đến Phố Gạch, một ngả về Quốc Oai. Thường thấy một
người vung cái vợt nan giang tay dẹp đè sóng luá.
Tôi nghĩ thời nguyên thuỷ không chừng những
người mới rời đời vượn vẫn hay từ trên đỉnh núi kia, cho nay ngồi 108 vị La
Hán, xuống đây, cánh đồng là đầm lầy, các vị bắt rắn nước xé ăn… Thế là chợt
ngửi ra mùi nguyên thuỷ. Mênh mang, thăm thẳm… vương trên mặt các vị La hán.
Một hôm, người vợt châu chấu hỏi tôi:
- Sao ngày nào cũng cứ ngồi nói chuyện mãi với
nhau như thế chứ anh? Chuyện gì sẵn mà nói không cạn thế?
- Với nhau nào nhỉ?
- Đấy, anh nói, một bác nghe, một bác viết hí
hoáy.
- À, tôi báo cáo tình hình nước ngoài, tôi ở
bên đó về.
- Trước anh đã có một anh cũng ngồi nói như
thế. Anh ấy ấy thở dài lắm. Tối toàn nằm vắt tay lên trán thở dài. Tình hình
nước nào mà phải thở dài?
Tôi cười, không đáp.
Lại nói:
- Chúng tôi xung quanh thấy cứ bên nói, bên
ghi cả tháng lạ quá nên để ý. Không phải tham ô. Càng không phải Việt gian. Là
cái gì thế anh? (Cười rất hồn nhiên).
Tôi hỏi lại:
- Thế theo bác thì là gì?
- … Anh ấy à… Anh đừng giận nhá…, có nhẽ là
làm giặc.
Thấy cái giọng chợt mượt mà, con mắt nhìn chợt
cợt ghẹo, tôi đùa lại:
- Thế thì tôi ăn củ đậu mất.
- Không, không… Các cụ nói làm giặc với ăn
cướp chứ không nói ăn giặc làm cướp. Xưa ở đây có một ông giỏi chữ làm giặc rất
nổi tiếng rồi bị chém.
Tôi nghĩ: À, Cao Bá Quát, ông vợt châu chấu ca
ngợi “giặc châu chấu”.
Đến đây phải quay về. Không nên kéo dài đề tài
này.
Đồng lúa đang tối xẫm xuống, êm ả. Cứ thấy vui
vui. Chả lẽ vì được coi là giặc? Đúng, chỉ nói ăn cướp, còn nói làm giặc. Làm
ăn, hai chữ hay đi với nhau nhưng ở đây rẽ ra và nghĩa có khác. Sắc thái ngôn
ngữ hay quá. Làm giặc là hành động có cả chí hướng tinh thần còn ăn cướp thì
mục đích chỉ là ăn!
Nhưng vừa leo lên con đường đất đỏ rộng thênh
thang cả một sườn đồi với những rãnh ngoằn ngoèo rất sâu dẫn vào làng, tôi chợt
nhận ra mình vui chính là vì hai câu thơ cuối cùng của Cao Bá Quát chúng cựa
quậy trong vô thức sau khi được chữ làm giặc của ông vợt châu chấu gọi nó dậy:
Ba hồi trống giục đù cha kiếp
Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời
Tìm ra gốc vui thì lại rơm rớm nước mắt… Hai
câu chửi triết học nhất tổng kết nhân sinh đắng cay; hai câu chửi tục tĩu,
khinh mạn, mà khoan dung, trong kiếp người nhất, hiện đại nhất… Đối thật là hay
với cái kiêu kỳ sang trọng:
Thập tải giao luân cầu cổ kiếm,
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.
Mười năm giao lưu xa gần cầu mong kiếm cổ,
Một đời cúi đầu vái hoa mai.
Đi một lúc lại thấy họ Cao là người sớm nhạy
bén với Tây phương như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ… Cao Bá Quát tự phê phán
tích cực hơn. Phủ nhận chữ nghĩa của mình sau khi đi Singapore: Hướng tích văn
chương đẳng nhi hí. (Xem lại văn chương ngang trò trẻ).
Ừ, hình như Cao Bá Quát khởi nghĩa ở Chương
Mỹ.
Bữa đầu sơ tán bom Mỹ, Phan Kế An đưa tôi về
đó tìm chỗ chạy cho cả vợ con An. An và tôi vào một khu vườn rộng, nắng chấp
chới. Cồ cộ bay xè xè, trẻ con reo. Cồ cộ bay cao, cồ cộ bay cao và tôi rớm
nước mắt, con gái tôi mới nửa tháng, nó sẽ là bạn của những cháu cởi truồng
nhảy quẫng theo cánh cồ cộ vàng thẫm màu nghệ già, cái màu khiến các con cồ cộ
lần đầu lọt vào mắt tôi hoá thành những sinh vật thời nguyên thuỷ, cái màu rừng
hoang lạ của Gaughin. Mấy hôm sau xe com măng ca cơ quan đưa vợ con tôi về đây,
chuyện duy nhất tôi hưởng. Xì xào ngay:
- Chống Cụ Mao mà Tamtam vẫn
cứ cưng thế…
Tamtam tiếng Pháp là cái trống, được mượn chỉ
Hoàng Tùng.
Đại khái như thế những ý nghĩ vụn của tôi
những khi rỗi rãi thư nhàn tại cái nơi giam lỏng tôi…
Sau này hồi 1972, đi thăm vợ con sơ tán ở Chợ
Bùng, quê Phùng Khắc Khoan, hay tắt lối qua mấy quả núi đá và một ngôi chùa rất
dã sử - đúng hơn, mấy hòn non bộ phóng đại lên hàng tỉ tỉ lần - ở Yên Sơn, Quốc
Oai tôi lại cứ nghĩ Cao Bá Quát có lẽ bị tử hình ở gần đây. Rồi không ngờ thế
nào Trần Châu tù về lại đến ở hẳn đấy hơn ba mươi chín năm và rồi nằm xuống mãi
mãi ở cạnh ngôi chùa hoang vắng, thanh bạch, hư vô đến nỗi làm cho ta chỉ có
nhìn nó thôi mà đã ngỡ nhập thiền và biến đi đâu mất - Chùa Ngoài. Quá hay chữ
Ngoài…
Tháng 5-2012, ngồi trên xe cấp cứu ở bệnh viện
Bạch Mai về chốn quê thứ hai của anh, tôi chỉ nắm bàn chân trái của anh: xù xì,
mốc meo… Tôi muốn lường được hết gian truân anh đã trải. Những năm gần đây, hễ
cầm phone là anh lại nói:
- Đĩnh., mình vui lắm… Chả lẽ nói là như ra
đời lần thứ hai.
Tôi hiểu. Anh là bên chính. Bên tà đang tháo
chạy. Anh li bì. Con mắt nhắm nghiền. Mê rồi. Thở bình ô xi. Còn có trí tuệ
hiện ra ở hàng lông mày bạc trắng hơi nhíu lại nghĩ ngợi một mình kia. Anh hay
nói những lúc khó khăn mình đều có Đĩnh.
Nhưng lần này anh không thấy tôi ở bên cạnh.
Mà ai bảo đây là khó khăn?
Anh Châu, thôi vĩnh biệt. Chúng mình đi với
nhau như thế là trọn đời đấy.
CHƯƠNG 32
Tôi về Hà Nội. Nhưng con vần tiếp tôi một số
ngày nữa.
Cái hòm tôn hôm nay khiêng lên xe nặng quá.
Thì mọi người bạn một biên bản khai cung vài chục trang còn gì?
Cùng Tuấn, Côn, anh tài khiêng được nó lên xe
mà thở dốc, tôi xoa vào nó nghĩ thầm: thế nào mà Marx. Lê-nin, Mao, Lưu Thiếu
Kỳ, Lukacs, Hồ Phong, Đặng Thác, Jean-Paul Sartre… chọi nhau ầm ầm ở đây, mày
vẫn yên ắng chung sống thế này được nhỉ?
Xe thả tôi ở Khu văn công Mai Dịch. Vào buồng.
Vắng ngắt. Phòng học rộng trăm mét vuông trần xì một cái chiếu mỏng bợt cói ở
giữa nhà, một hòm gỗ tạp Linh mua ở Hàng Hòm bôi nước màu đỏ lòe lòe và một cái
trạn hẹp cao ngất nghểu (để tiết kiệm diện tích) Linh tự đóng lấy bằng cái
thùng gỗ tạp đại học bên Bắc Kinh cho tôi đựng cơ ngơi về nước. Ra lại Đường
32, gió thổi mới biết chảy nước mắt từ lúc nào. Hai mẹ con Linh - Mây đến bà cô
tôi tại đầu ngã năm Bà Triệu - Nguyễn Du Hà Nội.
Jean Cathala, nhà văn Pháp bị vào trại cải tạo
ở Liên Xô rồi sau thành cộng sản nói: Nghe Thorez Tổng bí thư, tôi không hay là
mình đã phân thân. Từ đấy ở trong tôi có một Tôi Biết và một Tôi Tin. Hôm nay
tôi lạ là hoá ra tôi đã biết qua qua nhiều nhưng nào tôi có hay. Khai cung trở
về, “cái Trần-Đĩnh-Tôi-Biết” vẫn nguyên dấn vốn trong khi “cái
Trần-Đĩnh-Tôi-Tin” không hề được phục hồi chút nào nhưng tôi chưa truất được nó
đi, vẫn cho nó lái con tàu tôi. Tôi còn luỵ danh nghĩa đảng viên, điển hình của
ngu trung. Mà để thể hiện nó thì phải tuân theo kỷ luật đảng. Cho nên bị đảng
đánh đau bỏ bà nhưng anh phải nín thít. Đấy, tướng Giáp, đâu dám kêu oan trước
quân đội mà ông là Anh Cả? Thà chịu nuốt đau, thà đóng kịch lạc quan tin tưởng
để lừa nhau, lừa dân.
Vì sao? Lúc ấy trong tôi cái “tôi tin” vẫn lớn
hơn cái “tôi biết”. Nó chỉ đạo hành vi ngôn từ của tôi thì tôi mới được là đảng
viên và là đảng viên thì tôi mới có Quyền Lợi. Đúng, ít nhất là được quyền lãnh
đạo, giáo dục và quản lý quần chúng - nghĩa là thuộc tầng lớp tinh hoa ở trên
dân. Giải phóng con người là một thứ ngoa ngôn sặc mùi tâm thần. Giải phóng cho
bản thân bình đẳng với dân còn làm không nổi, nói gì giải phóng loài người?
Xuống tàu điện đi bộ từ Cửa Nam về nhà bà cô.
Mọi người đang ăn cơm tối. Đứa con gái một mẩu ngoan hiền ngồi bên mẹ. Tôi đeo
ba lô đến bên cháu trước tiên. Cháu ngước mắt nhìn. Tôi chợt thấy ngay tôi thua
đứa con hai tuổi rưỡi về cường độ kinh ngạc cũng như về chiều sâu ngóng chờ.
Tôi đưa hai tay lên ấp hai má nó. Thế là bật ra cơn lũ quét. Mãnh liệt, nức nở.
Nghe rõ tiếng kêu bất bình bênh vực bố, nghe rõ tiếng phản kháng chống lại một
vắng hụt không có giải thích, không thể giải thích, tiếng bục phá của một dồn
nén, một thua thiệt lâu nay phải kìm giữ trong câm lặng, trong lo lắng. Cũng cả
một tiếng reo khe khẽ trước một kết thúc hằng khao khát.
Sáng sau, tôi bế cháu vào báo Nhân Dân, cơ
quan tôi đã làm việc ở đó hàng chục năm trời, cái nơi mà tâm thức tôi vẫn coi
là một chốn quê, một góc nhà.
Tôi chưa hiểu mình chung tình với họ là mình
ngu dốt! Sao họ - những người coi khinh con người, số phận con người - lại
chung tình với những kẻ họ cầm giữ làm công cụ được?
Đang họp toàn cơ quan. Hội trường đầy người.
Các cái đầu quay ra nhìn tôi rước con lên vai cho nó cười khanh khách vờn túm
các rễ đa loà xoà cách đó mười mét. Lễ hội nhỏ mọn của đứa bé thành vấn đề!
Hôm sau, tôi đến làm việc liền được Lê Điền
thay mặt Ban biên tập, đảng uỷ và chi bộ Ban thư ký chính thức phê bình tôi hai
điều: một, không thấy tôi ăn năn hối cải mà lại đến đùa vui trước tập thể để tỏ
cho tập thể biết là mình coi thường mọi sự; hai, xa lánh anh em, không chịu gần
để nhận sự giáo dục.
Tôi ngồi nghe. Không hề tức. Mà lại thấy hơi
hài kịch. Nên đâm ra nghĩ lan man tới năm 1953, thường vụ tỉnh uỷ Nam Định, Lê
Điền chân ướt chân ráo lên báo đã khẩn khoản nhờ tôi “lớp đi trước” mách bảo
cho kinh nghiệm làm báo. Tôi đã mách. Còn mách cho cả cách yên thân. Trước khi
đi học nước ngoài, tôi bảo anh cách trốn cải cách ruộng đất. Lê Điền vốn là địa
chủ.
Tôi hỏi Lê Điền nói xong chưa rồi nói:
- Tôi trước hết không đi đạo nên không biết ăn
năn hối cải. Tôi lại càng không phải là diễn viên để trình làng một cái mặt mếu
máo (bụng nghĩ chắc Lê Điền phải nhớ tới Hồng Hà mếu máo lần họp đảng bộ xua
quét xét lại). Còn cậu bảo tôi tránh anh em? Cậu có nhớ cách đây mấy tháng, cậu
tìm tôi nói khẽ là cho mình lánh Trần Đĩnh từ nay không? Ai cũng tránh tôi vì
sợ mà lại đòi tôi gần? Cậu có nhớ cải cách ruộng đất, địa phương cho người lên
lôi cổ thằng địa chủ Đỗ Huy Định (tức Lê Điền) về đấu rồi may lại ngừng cải
cách ruộng đất không?
- Thôi, thôi, anh Trần Đĩnh, tôi rút ý kiến,
tôi cũng sẽ trình bày lại với chi bộ ý kiến của anh.
Mười sáu mười bảy năm sau, khi về hưu, Lê Điền
là Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết. Sau bữa cơ quan liên hoan chia tay, anh đi
bộ dọc Võ Thị Sáu đến nhà tôi ở Nguyễn Thông, gần ga xe lửa Hoà Hưng, Sàigòn.
Vừa ngồi xuống ghế, liền nói:
- Tôi về hưu rồi, anh Đĩnh ạ… - Mắt thế là rơm
rớm ướt rồi nghẹn ngào nói tiếp - Từ nay tôi sẽ không còn bạn, tôi biết… Ở ta,
khi đang có quyền thì còn bạn bè chứ khi hết quyền thì sẽ vắng lặn. Tôi mong
anh vẫn gần tôi…
Không ai hiểu thân phận bèo nổi mây trôi bằng
các đảng viên cộng sản nắm chức trách.
Thật tình hôm Lê Điền thay mặt các thứ phê
bình tôi, tôi đã định hỏi Lê Điền: “Cậu có nhớ lần cậu sang lớp tổng kết cải cách
ruộng đất ở sáu xã huyện Đại Từ báo tớ về đi học ở nước ngoài, tớ đã bảo cậu
hãy đưa vợ con trong vùng chiếm đóng ở Nam Định lên xã Bình Thuận đã cải cách
ruộng đất để tránh bị đấu tố không?”. Nhưng hôm ấy tôi không kể công này ra vì
thấy làm thế thì hèn hạ!
Chuyện xui Lê Điền trốn cải cách ruộng đất rồi
tôi không nhắc với ai nữa. Không ngờ cuối năm 2012, gặp tôi ở nhà con gái út
Hoàng Minh Chính, Đỗ Huy Bắc, con trai cả Lê Điền (hay Đỗ Huy Định), chủ tiệm
rượu tây ở Hàm Nghi đã nói:
- Cháu rất cảm động kể lại với chú chuyện này.
Chú đã mách cho cả nhà cháu bỏ Nam Định lên Bình Thuận, Thái Nguyên tránh cải
cách ruộng đất. Bố cháu không nói. Thế chú bảo ai nói? Mẹ cháu, chính người phụ
nữ đồng quê chả biết gì hết ấy đã thì thào dặn chúng cháu hãy nhớ lấy việc chú
làm.
Tôi nghe cũng cảm động. Cả một thời xa lắc. Ừ,
tại sao tôi mách lên Bình Thuận? Có lẽ cái tên Bình Thuận có dính đến X., cô
con nuôi của Cụ Hồ mà tôi đã nắm tay, đã cho cô biết tôi ký tên Hoàng X. lên
báo - khiến cô đỏ mặt nhìn tôi - rồi cô cho tôi cái thìa, món kỷ niệm tôi đặt
lên trên bụi lạc tiên đầy bụi ở giữa Na Sầm và Đồng Đăng, chờ vượt sang Trung
Quốc. Tóm lại tình trong như đã, mặt ngoài còn e…
Ngoài Lê Điền, tôi bảo cả Lê Bổng đổi tên kẻo
địa phương họ đòi về đấu tố. Lê Bình ra đời từ đấy.
Năm 1949, Lê Bổng, học xong phổ thông trong
Thanh Hoá được người anh họ Lê Xuân Kỳ làm văn phòng báo Sự Thật - gồm mấy bị
cói tài sản của báo đựng ít giấy tờ còm và chiếc máy chữ Japy Baby giống cái
máy chữ của Cụ Hồ - gọi đến chơi. Quang Đạm mấy hôm sau bảo tôi:
- Gay quá, Đĩnh à, cậu này con quan lại, địa
chủ mà lọt vào căn cứ địa không giấy tờ gì hết. Bảo về thì sợ cậu ta đi qua
Đường 5, Đường 6 bị Tây phục kích rồi khai ra thì nó ném bom tan căn cứ địa. Mà
chả lẽ thủ tiêu…
Thế là Lê Bổng ở lại và nhờ hoá thành bình
địa, anh đã bổng lên tới phó Tổng biên tập báo. Rồi thông gia với ông Phạm Ngọc
Mậu cực kỳ lập trường bần cố. Tôi, kẻ “chống đối cải cách ruộng đất” thì ngã
chổng kềnh… Tránh sao thoát? Tôi mang chất “phản” trong người mà. Cách mạng gồm
“phản phong” và “phản đế” thì tôi “phản… cách mạng”.
Lúc ấy ở báo, chỉ riêng một cô biên tập viên
tin quốc tế ái ngại hỏi hẳn tôi:
- Tạng anh thế sao lại làm chính trị?
- Tôi làm đạo đức, không làm chính trị, - tôi
đáp.
Người ta đổi trắng thay đến chỉ một sáng một
chiều, lật lọng, xoay đầu đổi đít, đấy, hôm qua mở cuộc thi khen tuần phim Liên
Xô, Đàn sếu bay qua, Chín ngày một năm… thì hôm nay đã chửi là
phản động, đấy, hôm qua leo lẻo hoà bình muôn năm, cả nước tới tấp ký đòi hoà
bình thì hôm nay ai yêu hoà bình đã thành đầu hàng, phản bội.
***
Tám giờ tối hôm về lại Hà Nội, sau cơn lũ quét
của con gái, tôi đến ngay nhà Phan Kế An. Bảo ngay An nếu họ hỏi tớ có đến cậu
không thì bảo có nhé.
- Tại sao? - An hỏi.
- Họ theo tớ ngay từ nhà cho đến đầu ngã tư
Quang Trung đây.
Rồi tôi đưa An một xấp giấy bao thuốc lá, giấy
kẹo tôi ghi ở đó những điều đã khai liên quan đến An. Mai kia khai cung, An nói
khớp với tôi thì đỡ rách việc. Tôi đưa ra một xấp mỏng nữa bảo tôi sẽ đến Nguyễn
Tuân đưa. Thì An lắc đầu nói:
- Đừng, cậu đi vắng, xừ ấy bảo Nguyễn Thành
Long là từ nay chúng ta đừng nói đến Trần Đĩnh nữa…
Mấy hôm nữa, như cho trọn vẹn, Long bảo tôi
sau khi nói thế, Tuân có kèm thêm một câu tiếng Pháp: En lui, je
respeste son côté homme. (Ở anh này tôi trọng cái khía cạnh người).
Vài tháng sau, An đi thẩm vấn, tại Hà Nội. An
nói, Trần Trung Tá vụ phó Bảo vệ vừa thấy An thì hỏi luôn:
- Anh Trần Đĩnh về có đến ngay anh không?
- Có!
- Thế thì hỏng rồi, - Tá nói.
Tôi cũng sớm đến Chính Yên. Thấy tôi, anh hơi
thất sắc.
Nhợt nhạt, âu sầu. Anh nói:
- Chúng mình không nên gặp nhau nữa. Nguy hiểm
thật đấy chứ không phải đùa đâu.
Mấy hôm sau Chính Yên tìm tôi.
- Mình bị khủng hoảng quá, đừng giận mình.
Đĩnh đến vào lúc mình đang chán. Mình đã tự tử. Trên Ban tổ chức trung ương…
Khi đang viết bản cung. Treo cổ vào thắt lưng nhưng thắt lưng bở đứt, ngã một
cái đau lịm người. Đĩnh đừng nói với ai.
Phải nói về Hà Nội hôm trước hôm sau, tôi đọc
luôn Bươm Bướm (hay Người tù khổ sai - Le Papillon -
BT) của Henri Charrière. “Tà thư” là thứ tôi không thể không ngốn. Rồi sau hai
hôm thì đến xem ngay một phim Liên Xô chiếu cho nội bộ Hội điện ảnh. Chả thấy
cần phải làm cho mình xo xúi đi, một dạng của giả nghèo giả khổ vốn dễ được
lòng đảng! Tan buổi, đứng trên tam cấp rạp Dân Chủ, gần ngã ba Đình Ngang đâm
vào phố Cửa Nam, nhìn xuống tôi thấy Trà Giang nhìn lên.
Ngẩn ra một lúc rồi Trà Giang khẽ reo:
- Anh Trần Đĩnh!
Thấy rõ giọng reo mừng kìa: tôi đã về rồi.
***
… Làm việc thêm một thời gian ở Hà Nội thì kết
thúc. Họp rút kinh nghiệm. Tôi nói sáng nay đi Bệnh viện Việt Xô khám sức khỏe,
thấy Huy Cận trước nhà A1, chưa kịp nói năng gì anh ấy đã rúc qua hàng rào ô
rô, đi tuốt. Một thăm dò (“đấy bạn bè coi tôi là phản động rồi!”) nhưng Nguyễn
Trung Thành, Trần Trung Tá, Lê Công Tuấn chỉ cười.
Cố nhiên tôi không nói lúc thấy Huy Cận tránh
gặp, tôi thấy ngay người ta đã phao tin tôi bị bắt, tôi rất phản động, chống
phá cách mạng dữ lắm và lạ lùng là tôi bỗng nhớ đến“Nắng chia nửa bãi chiều
rồi, Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu…”. Đúng là chia. Tiền chiến thì ngủ
đi em, mộng bình thường. Bây giờ mộng bình thường dễ biến thành ác mộng.
Nhưng cũng phải nói sau đó tôi vẫn ở báo Nhân
Dân và Huy Cận đến đưa thơ đăng vẫn chuyện trò vui vẻ với tôi.
Cuối cùng tôi hỏi - lại một thăm dò:
- Tôi hay đến bè bạn, các anh biết, mà các anh
thì còn theo. Để đỡ rối và mất thì giờ, các anh có thể cho tôi biết là tôi
không nên đến ai không?
Tá suy nghĩ một lát rồi nói:
- Với anh, chúng tôi đã vi phạm nhiều nguyên
tắc làm việc rồi. Đây là cái cuối cùng: anh đừng đến anh Lưu Động.
Tôi chợt hiểu vì sao trong thông báo thứ hai
của Trung ương về vụ xét lại, Sáu Thọ nói lẽ ra bắt Lưu Động nhưng không bắt.
Anh là bẫy cho những kẻ ẩn náu ở xa lớ xớ mò vào thì sập.
- Tôi đề vào lý lịch thế nào? - tôi hỏi. Thêm
một thăm dò.
- Đề là có quan hệ với đám Hoàng Minh Chính.
Anh chú ý là không được nói với ai, kể cả với anh Hoàng Tùng việc anh làm và
nói gì với chúng tôi.
Lúc ấy, 1968, vì Cụ Hồ chưa “đi xa” nên chờ
đến 1971, Đảng mới ra Nghị quyết 20 (hay 21 tôi không nhớ rõ) của Trung ương
Khoá 3 lên án “Bè lũ xét lại hiện đại tìm cách tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa
Mác-Lênin. Một số phần tử trong nước ta đã sao chép các luận điểm của chúng, sử
dụng các khái niệm xét lại để tuyên truyền chống lại các chính sách của Đảng
ta. Bọn họ đã vứt bỏ nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào
năm 1963, đường lối cơ bản của nghị quyết là phê phán và phủ nhận chủ nghĩa xét
lại hiện đại…”
Tránh nói chúng tôi chống nội chiến vì nó có
sức lay động lòng dân ghê nhất, bới ra sợ có khi dân theo bọn chống Đảng.
Trích ở đây một mẩu trong ghi chép của một sỹ
quan quân đội miền Bắc bị quân Mỹ lấy được trên chiến trường, nói về một trong
những tài liệu phổ biến về vụ chống Đảng như sau:
“Những kẻ phản bội này (…) cố ý phân tích sai,
phê phán thiên lệch, và đánh giá có hại trong Bộ Chính trị để gây chia rẽ trong
lãnh đạo Đảng. (…) Chúng cố ngăn cản cuộc phản công của chúng ta với quân thù.
Chúng cố ngăn cản Đảng bộ miền Nam triển khai Nghị quyết 9 (tức là ngả hẳn theo
Mao phát động chiến tranh đánh Mỹ. (Tư tưởng Mao được Lê Duẩn suy tôn là tư
tưởng Lê-nin thời ba dòng thác cách mạng. - Trần Đĩnh chú). Chúng cho rằng
trong 20 năm qua, đường lối chủ trương của Đảng ta bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa
giáo điều và kế hoạch chống Mỹ cứu nước là thiển cận…”
Dùng chữ thiển cận ở đây cũng là tránh cái chữ
chúng tôi nói: “không biết thương dân”, “bị Mao xui” (có khi cáu lên còn nói
“bị Mao cho ăn cứt gà sáp”), “sai toét”…
Ai cũng biết Mao là tổng tư lệnh phất cờ cho
một ít đảng háu đấu Mỹ nhưng có lẽ rất hiếm ai lúc ấy - kể cả anh chị em “xét
lại” chúng tôi ngờ nổi rằng Mao kêu gọi đánh xét lại chính là chìa ra cho Mỹ
tín hiệu củ cà rốt: ta đứng cùng một trận tuyến đánh kẻ thù số một của nhà
ngươi đấy! Cho ta đi cùng với đi!
Biết Cụ Hồ sau Nghị quyết 9 đã bị phe Lê Duẩn
cho ngồi chơi xơi nước, chúng tôi bắt đầu kém tin yêu Cụ vì đã chịu thua Lê
Duẩn, không bảo vệ đến cùng chân lý.
***
Tôi chờ nhận một kỷ luật. Nhưng không.
Lê Đức Thọ đã giữ lời. Hay đúng hơn, ông tin
chắc kéo được tôi. Biết đâu ông muốn qua tôi hiểu thêm sức mạnh cảm hoá của
ông?
Lúc ấy tôi chưa thấy rằng ông hiểu câu “cán bộ
quyết định tất cả” của Stalin hơn bất kỳ ai. Mà ông thì nặn ra kẻ “quyết định
tất cả”. Ông cũng hiểu rằng nếu giỏi bấm vào hai huyệt tham và sợ thì sẽ dễ có
cho mình một tổ chức nòng cốt lợi hại quay lại quyết định hầu hết bộ máy.
CHƯƠNG 33
Lê Đức Thọ không bắt tù tội nhưng bắt đi lao
động cải tạo. Cùng Chính Yên. Tại nhà in báo đảng, cơ ngơi cũ của IDEO, Nhà in
Viễn Đông Pháp, phố Tràng Tiền. Tôi hẹn Chính Yên 7 giờ sáng tới vườn hoa Nhà
Kèn chuyện trò vài câu đã.
Đến đây xin một ngoặc đơn: Vườn hoa này mang
tên bà thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi, con gái Nehru. Sao không phải Lê-nin hay
Mao Trạch Đông? Khó, hai gánh ân tình của ta thù nhau nên ngáng nhau vào vườn
hoa Hà Nội do đó Ấn Độ, quê hương Phật giáo vớ. Nhưng sao không phải Thánh
Gandhi hay Nehru, hai vị sáng lập ra Nhà nước cộng hoà Ấn Độ mà lại là con cháu
thua xa các vị về tên tuổi, tài cán? Bởi lẽ Gandhi kịch liệt chống bạo lực, còn
Nehru thì bị Bắc Kinh chửi thậm tệ và Hà Nội đã té nước theo mưa…
Còn mãi sau này nhờ Trung Quốc đã thành thù,
Lê-nin mới rộng chân đến được vườn hoa Canh Nông cũ. Ở đây trước đặt tượng Tứ
dân sĩ nông công thương làm lụng dưới bóng che chở của một lính Pháp chỉ tay
vào Cột Cờ ra ý bình định Hà Nội. Nay Lê-nin cũng chỉ tay song Người “chinh
phục trái tim khối óc” chứ đất cát Người không thiết. Và rất lạc hậu về quan
trí, dân Hà Nội đã vè:
Ông Lê-nin ở nước Nga,
Cớ sao ông đứng vườn hoa nước này,
Ông ưỡn ngực, ông chỉ tay,
Ông xem như thể nước này của ông,
Tự do hạnh phúc đừng hòng còn xa,
Kìa xem gương của nước Nga,
Bảy mươi năm lẻ mà có ra cái đếch gì!
Rồi từ đây kỷ niệm ông, chả biết phân cấp thế
nào mà chỉ có thành uỷ mấy người đến cúi đầu tưởng nhớ ông còn Trung ương trở
lên thì không…
Ngồi ở ghế góc giáp Bắc bộ phủ trông sang Ngân
hàng, tôi bảo Chính Yên:
- Mình muốn nói cái này. Một là sự sống chắc chắn
tiến lên chứ không hãm tài thế này mãi. Hai là, la sagesse du peuple -
cái sự khôn ngoan của dân, không bao giờ coi chúng ta là phản động. Cậu thích
Camus thì Camus có câu này đấy: Đâu không có hy vọng thì hãy phát minh ra hy
vọng ở đấy…
Chính Yên lên xe đạp từ trên hè tụt xuống
đường, ngửa cổ hát câu mở đầu quốc ca Pháp:Nous entrerons dans la carrière…
Giám đốc nhà in Trần Ngọc Phương, chốn quen
biết từ tít thời rừng sâu núi thẳm đích thân đưa tôi lên gác năm đến tổ đồng mô
(tiếng Trung quốc là mẫu chữ đồng), bộ phận chuyên sản xuất chữ chì. Trước đó
chữ toàn nhập.
Ngọc Phương trước là công nhân sắp chữ ở báo l’Action,
nơi bố tôi làm ở đó. Lúc chỉnh đốn tổ chức tôi đã hỏi Phương xem bố ông có vấn
đề chính trị gì không thì Phương nói ông cụ nói tiếng Tây như Tây và cứ ra khỏi
toà báo là đã có mấy cô chờ. Ông cụ ông bênh công nhân chứ? Đúng, có khi quát
thằng cai người Đức Reitauffer, thằng này hay xà-lùanh em công nhân
ta lắm. Bây giờ có lẽ Phương bênh tôi vì thế chăng?
Chỗ tôi làm việc là một xó biệt lập hoàn toàn.
Một góc tường năm sáu mét vuông. Tôi sẽ ngồi chiếu thẳng vào đỉnh góc và sau
lưng tôi một đường ray lượn đúng đến đó thì dừng lại với một cỗ xe goòng mặt
bàn thấp bé đỗ ở trên, thứ đồ chơi luôn làm tức dậy náo nức ở sau lưng một thời
thơ nhỏ và một sớm lên đường. Giữa góc tường là một lò điện lớn, tôn của thùng
đựng mực vây kín xung quanh. Trên mặt lò, một chảo đại. Nắp chảo hình nón bằng
tôn có một ống khói bằng sắt tây vươn lên rồi gẫy làm ba khúc luồn qua khung
cửa sổ nhỏ giáp trần chui ra ngoài: hệ ống thải khí độc. Một cửa vuông ở rìa
nắp chảo úp xuống miệng chảo; tôi thò muôi qua đó múc chì chảy đổ vào khuôn
thạch cao. Bên phải tôi, một cửa vu vơ ra lưng trời. Đúng lưng trời! Vì ngoài
đó là một cầu gỗ mảnh dẻ, kiểu lan can tàu thuỷ, dài chừng hai mét rồi chấm hết
lơ lửng. Nếu không phải là dẫn đến nơi tự sát dễ nhất.
Lúc nghỉ tôi hay ra đứng tì tay thành cầu cúi
nhìn xuống sân khách sạn Thống Nhất. Một lần bảo Chính Yên đoán xem Danièle
Hunebelle, nhà điện ảnh Pháp nổi tiếng và xinh đẹp, nhân tình lừng thế giới
của Henry Kissinger và bà nhà văn nổi tiếng cũng xinh đẹp người Ý, Oriana
Fallaci đã ở cái buồng nào tại ba tầng gác trước mặt kia. Tôi không nhớ bà nào
đã viết: ở đây khi cần nước thì vòi không chảy mà đêm khuya không cần thì nó lại
chuyên cần nhỏ giọt cầm canh cho khách không nhắm mắt. Sáng đang thiu thiu thì
khắp xung quanh nhạc tập thể thao ầm ầm nổi lên cho “các gã xương xẩu tội
nghiệp hoa tay múa chân” trên ngay vỉa hè quanh khách sạn… Viết về Cụ Hồ tiếp
mình: Cụ ga-lăng theo kiểu tỉnh lẻ, lấy một cành hoa trong bình ra tặng tôi…
Lúc đó chưa có hồi ký “Kẻ bị truất phép thông công” (nguyên văn bằng
tiếng Pháp Un Excommunié - BT) của Nguyễn Mạnh Tường nên tôi
chưa đoán đúng ông vào gian phòng nào để gạ khách sạn mua bộ đồ ăn quý, quà bạn
bè bên Pháp tặng đám cưới vợ chồng ông.
Bị đánh đuổi sau Nhân văn - Giai phẩm, Nguyễn
Mạnh Tường đói quá - có lần lả đi ở đường Trần Hưng Đạo - ông đành đến đây.
Quản lý ái ngại đã nói thật: Bác ơi, chúng tôi cho bọn nước ngoài chúng nó vào
để tiện lục soát xem chúng mang cái gì vào đánh phá chế độ ta thôi chứ ai mua
các thứ này về hầu chúng hả bác? Phải nói chữ bạn đọc của ta hay hơn chữ người
đọc của các nước. Là bạn của người viết thật. Ngồi ở sát bên khách sạn Thống
nhất tôi có cảm tưởng đúng như mình đã bắt tay thân mật với Hunebelle, Fallaci,
Nguyễn Mạnh Tường. Và cả Charlie Chaplin và bà vợ Paulette Godard. Ông đã ở đây
và chắc từng gây tiếng vang lớn vì bà nội tôi vẫn thường bảo tôi lúc bé là nom
như anh Sạc-lố! Tất nhiên với bà nội thì lố là ghép vào tên Sạc của ông.
Ngoài những chảo gang, lò điện, hàng chục cân
chì, các đồ nghề của tôi rất gọn nhẹ: nịt cắt ở săm xe đạp ra, những dải băng
ni lông để quấn các thanh nhôm làm khung khuôn, một thùng gỗ đựng thạch cao,
một bát chiết yêu đã mẻ, một muôi mẻ (hai cái để ngào thạch cao), mấy ga-lê
chèn chữ để chèn khuôn. Một hòm gỗ tạp vuông ôm kín hết lò điện và chảo chì,
trừ mặt hòm khoét vừa khuýp với mặt chảo. Rìa hòm gỗ là bàn nghề của tôi. Đến
giờ làm việc, tôi đeo khẩu trang, hạ cầu dao. Luôn thấy mình giống một tướng
phù thuỷ từ giây phút này cho diễn ra những biến động âm thầm mà dữ dội ở cái
khối chì đông cứng trong lòng chảo kia. Chờ chì nóng chảy, tôi làm khuôn chữ,
những chữ hoa. Rồi múc chì sôi rót vào miệng khuôn. Lát sau dỡ khuôn, cho ra mắt
một con chữ mới. Nhiều chữ phải giũa cho đúng “dem” hoặc cho vuông thành sắc
cạnh. Ba nhát giũa, bụi chì đã óng ánh vun đầy quanh con chữ.
Tôi tả chi tiết cái việc nó sẽ “cải tạo” tôi
vì cần nói rằng thứ nghiệp vụ này không thể tìm ra nơi thứ hai thực hành nó
trên thế giới.
Lạ là vào việc tôi thường có cảm giác vào một
cuộc chơi. Mặt chảo khẽ chao sóng, chì như một thứ phún thạch bạc xám vật vờ
tìm một nơi neo đậu bên lòng chảo để tạo lấy một lục địa riêng cho nó. Những
khuôn thạch cao đầy chì sôi bỗng hôi hổi trong lòng bàn tay, ấm dần, ấm dần. Để
rồi thon thót đập: chì nguội đi. Lúc ấy tôi ngỡ mình ấp trong tay một con chim
trắng, quả tim tí hon của nó đang nhận lấy máu tôi. Mỗi lúc giỡ khuôn cho bong
ra con chữ mới, tôi lại ngẩn ngắm cái ánh cầu vồng bảy sắc lấp loá bắn ra từ
nền chì tối. Cố đoán đọc những tín hiệu phát đi từ một chiều sâu nào: có một
hành tinh xa đang muốn tiếp xúc với tôi. Lặng lẽ trao cho tôi một sinh điện
mới, một ngôn ngữ mới, một cách nhìn mới.
Ngồi bên chảo chì rất nóng - mấy trăm độ nóng
chảy - nhưng mỗi khi cỗ máy in rotative chiếm hẳn một gian xưởng lớn dưới tầng
trệt bắt đầu chuyển động cùng những hồi chuông réo, những tiếng hô theo lòng
giếng trời dội lên tận chỗ tôi ở tầng năm, rồi cuối cùng máy chạy rầm rầm với
một tiết tấu ngày một gấp, một gắt, một đều rồi trơn nhẵn, phẳng phiu đi thì
tôi lại bỗng ngỡ như mình đang dự vào một cuộc đua xe tam mã, tứ mã Nga lồng
phóng trên tuyết thảo nguyên. Người mát hẳn lại và lanh lảnh bên tai tiếng
chuông ngựa, tiếng gió hú gào, tiếng reo cuồng vui, tiếng Tolstoi thúc ngựa cha
cha cha…
Khi đã thân, Quỳnh, sư phụ tôi, một thanh niên
đẹp trai thì thào bảo tôi:
- Anh tội nặng lắm nên người ta mới bới lại
cái việc đã xếp xó từ tám hoánh này ra cho anh làm. Độc hại bậc nhất trong
ngành in đấy ạ. Hơi chì này, bụi chì này, nóng bức này. Anh Chính Yên chỉ có
làm việc tiếp giấy cho máy in. Khi anh sắp sang họ bảo anh nguy hiểm lắm. Gần
ai anh tiêm ngay nọc chống Đảng cho nên khi nhà máy phân công em giúp anh học
nghề, em cứ lạy van chối, sợ lắm.
- Thế nay còn sợ không? - tôi hỏi.
- Nghĩ đến ngày anh về toà soạn em đã buồn.
- Thế có thấy mình tiêm cho cái gì chưa?
- Nghe anh nói hay lắm. Không chỉ em đâu. Cái
T. tổ chữ, con nhà tư sản nòi nên không được thi vào đại học phải vào đây làm,
anh có thấy ngày mấy lần nó từ tầng hai leo lên ngồi bên anh nói chuyện đấy
không? Toàn diện xa-tanh, vế với đùi cứ căng ánh lên thế này, đấy, tư sản khổ
đến đâu nom vẫn cứ sang. Nó bảo ngày xưa để lại thì có mà dùng chứ vải lụa bây
giờ bán lại không tiền mua. Một tối bỏ xi-nê tập thể, T. và tôi đã đạp xe đi
trong các phố vắng Hà Nội. Đến trước cửa công viên Thống Nhất đen thui, tôi hỏi
T. đi đâu nhỉ? T. nói: “Anh đi đâu em đi đấy!”. Câu nói ngoan quá làm cho tôi
đưa T. về. Trả tận chân cầu thang sâu trong cùng tầng dưới nhà vắng tanh ban
ngày vẫn có hàng bán bún thang, bán phở thuê. Bàn tay T. đặt trên tay vịn cầu
thang bằng lim bóng nhẵn tự nhiên ngửa ra, trắng như một đoá quỳnh mà các cánh
thon dài của nó chợt run lên khiến tôi đã toan cầm lấy.
Những ngày Linh đi biểu diễn tôi mang con gái
đến tận lò chì. Rải hai chiếu manh rách toang lên xe goòng, đeo cho cháu hai
lớp khẩu trang rồi để cháu ngồi tự “mẫu giáo” ở đấy. Sớm tôi vừa rón rén dậy,
cháu đã bật nhổm lên. Tôi thật không hiểu cái gì khiến cháu phối hợp tác chiến
với bố ngon lành như thế. Vừa ba tuổi rưỡi.
Sáng đầu tiên đến tổ đồng mô, tôi nói với anh
em:
- Sang học giai cấp công nhân đây.
Thì Thái Cò, một công nhân trẻ nói ngay:
- Anh đưa em hai hìu em sang hàng ăn trước mặt
kia mua cặp quẩy ăn cho đỡ đói rồi em sang tên cho anh cái chữ lãnh đạo!
Khốn nạn, nhọ đít thì lãnh đạo bánh vẽ thôi!
Quẩy vẫn hơn bánh vẽ, nào hai hìu đưa đây, sang tên nóng hổi.
Mấy tháng sau, mẹ Thái mất. Tối tôi đến phúng.
Vừa bước vào liền thấy Thái áo xô lom khom ra đón, một tay che miệng khóc, một
tay hẩy hẩy vào ban nhạc hiếu ngồi ở sau. Nhạc liền cất lên lâm li ai oán suốt
thời gian tôi đứng trước bàn thờ.
Sáng sau đi làm, Thái bảo tôi:
- Tối qua em chờ anh đến là nổi “xã luận” đón…
Thì ban nhạc hiếu thổi kèn rầm rĩ lên đấy thôi. Anh có thấy mấy cha trưởng ban
bên toà soạn ngồi cứ tròn mắt ra lúc ấy không? Đâu có được đón bằng “xã luận
kèn” réo rắt như anh?
Không biết có phải A Quy của Lỗ Tấn không mà nhiều
lúc tôi hay tự hỏi “Ai thắng ai?”. Lờ mờ thế, không đẩy tới cùng xem ai là ai,
kẻ mà tôi tin sẽ thắng nó.
Chính trong thời gian cải tạo bằng lao động
với giai cấp công nhân, tôi được nghe rất nhiều tiếu lâm về… cách mạng. Anh em
vừa lao động vừa i ỉ ngâm khẽ. Phải hỏi, phải van nài mãi, các tướng mới đọc rõ
cho nghe.
Nhân phẩm toàn dân mất sạch rồi,
Chỉ còn lương thực giá cao thôi,
Lương tâm giá rẻ hơn lương thực,
Chân lý, chân giò cũng thế thôi…
hay
Đảng là mẹ, Bác là cha,
Bác ta mất sớm, mẹ ta goá chồng.
Bác ơi sống lại mà trông,
Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều!
Có một toán công nhân sang Liên Xô học nghề in
vừa về. Tỏ ra có phong cách Nga hơn. Tức là kể tiếu lâm thoải mái. Hỏi ngay
tôi:
- Anh có thích nghe tiếu lâm Liên Xô không?
Và kể luôn. Brezhnev dắt cháu nội đi thăm lăng
Lê-nin. Vẫn quen nghe ông ông vĩ đại, đứa cháu hỏi: “Ông ơi, sau khi ông chết
thì ông cũng sẽ ở đây phải không?” “Ông còn đi đâu nổi với dân ta nữa chứ hả
cháu?”. Thì Lê-nin lật hòm kính đứng ngay lên chỉ tay ra cửa lăng: “Cái thằng
này! Mày tưởng đây là nhà tập thể hả? Cút mẹ mày đi!”
Những tiếu lâm và ca dao rất hay, không thể kể
hết vào đây… Bác Hồ cũng chả thoát. Bài vè Bác và các cháu làm thơ đấu nhau về
thế nào là ỉa đúng ỉa sai kỷ luật quá hay.
***
Tháng 9, viêm phế quản, tôi nằm bệnh viện.
Cạnh giường là tham tán thương mại Ba Lan. Ngay sau cái nháy mắt đầu tiên,
chúng tôi liền chuyện như ngô rang. Tiện là có lẽ ít ai hiểu tiếng Pháp trong
gian phòng bốn người này. Ở bên trong cùng phòng là một người mặt nom lúc nào cũng
khó đăm đăm. Tôi cảm thấy anh ta không thích chúng tôi tán chuyện với nhau bằng
thứ tiếng từng là thù địch. Ít lâu sau, anh ta ra viện. Nhìn vào mặt tôi, anh
ta nói: “Tôi ở Bộ công an, cũng biết tiếng Pháp”. Rồi quay sang chào anh tham
tán Ba Lan: “Bonjour!”
Nằm bên nhau đã hai tuần mà chia tay lại chào
mới gặp, thảo nào anh ta không sửng khi ông Ba Lan chế “kông” tức cộng sản.
Rồi anh ta ra khỏi phòng mặt tự nhiên oai vệ
hẳn. Tao có ngọng cái tiếng chúng mày trộ tao đâu?
Anh bạn Ba Lan rất thích phụ nữ Việt Nam. Họ
biết họ phải làm gì cho đàn ông. Phụ nữ Âu chỉ biết đòi hỏi đàn ông.
Sao cậu gặp được họ? Ồ, cảnh sát mải soi máy
bay Mỹ thì mặt đất là của chúng ta. Chúng mày có gì xuất khẩu được nhỉ?
Không có. Cam chúng mày chua như chanh. Cam
Maroc chúng nó ngọt như đường và không có hạt. Có một cái chúng mày xuất khẩu
được là biển, đáy biển, lướt sóng, lặn săn bắn cá… Nhưng chúng mày lại cấm du
lịch! Cái sự cấm của chúng mày thì không ai nghĩ ra nổi, - impensable. Chúng
tao là xã hội chủ nghĩa, viện trợ chúng mày nhiều thế mà cũng không được gặp
chúng mày. Nhà nào cũng kẻ khẩu hiệu “Nhà tôi không giao thiệp với người nước
ngoài”. (Tôi hỏi: Biết?) Biết, bọn Nga chúng nó mách. Chúng tao bảo giá nước
chúng mày dọn ra một hòn đảo giữa Thái Bình Dương rồi cả thế giới cung phụng
cho mà sống thì gọn được biết bao nhiêu là chuyện cho chúng mày và thế giới.
Anh bạn Ba Lan ra vào Sài Gòn xoành xoạch khi
làm việc cho Uỷ ban quốc tế giám sát ngừng bắn. Tôi hỏi bọn Mỹ thế nào? Anh bạn
nhìn quanh rồi giơ ngón tay cái lên. Tôi đùa:
- Mais c’est l’ennemi? Kìa,
kẻ thù đấy!
Anh ta nhún vai:
- Chúng tớ thấy họ là người làm từ thiện.
Một chiều tôi đang chuyện với Chính Yên vào
thăm thì Phạm Song, chủ nhiệm khoa lây tìm tôi.
- Anh đến chỗ tôi đi, anh Sáu Thọ gọi.
Sáu Thọ cười rất vui ở đầu dây.
- Ốm sao? Lên tớ được chứ?… Ừ, sáng mai chín
giờ hả.
Thăm tôi ở đây, Chính Yên cũng muốn lên.
- Ừ, bảo nó lên với cậu.
Thọ đã chờ sẵn ở bậc tam cấp. Vừa vào khỏi
cổng sắt, thấy Thọ cười răng rất trắng, tôi gật đầu chào rồi đưa một tay go gõ
vào thái dương.
- Làm quái gì mà chẳng bạc! - Thọ đáp.
Vào chuyện là cự ngay:
- Sao chúng nó lại đưa cậu đi lao động cải
tạo? Lao động như thế chỉ tổ bất mãn. Đưa cậu xuống một hợp tác xã hay một nhà
máy có phải là bây giờ cậu đã viết được một quyển tiểu thuyết rồi không? Tớ vừa
ở Paris về là gọi cậu ngay…
Lan man chuyện chừng mươi mười lăm phút, Thọ
nói sắp bắt thằng Lưu Động.
- Không nên bắt! - tôi nói.
- Tại sao?
- Vì khổ vợ con anh ấy. Hãy bảo công an doạ.
- Thằng này láo lắm. Nó đã được tớ khoan hồng
mà cứ láo, nói bừa bãi, chửi tớ ghê lắm…
Tôi chột dạ. Lưu Động nay như tên biệt xứ rồi,
có ai đến chơi nữa đâu mà bậy bạ?
Ra khỏi cổng, Chính Yên nói ngay:
- Sợ cho anh quá, cụ Kễnh vừa nói “bắt” là anh
nói “không nên”.
- Tớ vẫn quen nói thế với các ông ấy. Có cái
này mới sợ này. Bây giờ mà Lưu Động nó chuồn là tớ hay cậu vào tù thay, ông ấy
sẽ bảo là báo cho nó chạy.
Chính Yên ngớ ra. Nhưng ngây ngô hết. Sáu Thọ
muốn tôi lộ! Tôi lộ thì nhiều khả năng Lưu Động sẽ xin gặp Sáu Thọ hỏi tại sao
anh đã thông báo toàn đảng không bắt tôi mà nay lại bắt. Sáu Thọ sẽ bảo cậu đem
nộp ngay tớ các nhật ký cậu ghi chuyện chửi tớ và thế là yên chuyện.
Tôi không báo và Lưu Động vào tù.
Anh cho biết anh vừa chân ướt chân ráo vào là
Sáu Thọ gặp anh ngay:
- Nhật ký chửi tớ đâu? Nộp ngay cho tớ.
- Tôi đốt nó rồi.
- Cậu nói láo, cậu gửi nó cho đại sứ quán Liên
Xô, anh em chúng nó mách tớ. Bây giờ cậu phải đi cùng anh em vào bảo họ trả lại
cho cậu.
- Thông báo anh nói không bắt tôi, tôi đã đốt…
Nhật ký này ghi chuyện Thọ thật. Lưu Động có
cho tôi đọc cùng với một ít hồi ký anh viết dở chừng. Trong có chuyện làm
trưởng trạm giao liên của Trung ương, Lưu Động đã ngủ với một cô liên lạc sau
là vợ một uỷ viên Bộ chính trị. Anh hỏi tôi:
- Có để được không hay là bỏ?
- Nếu lúc ấy bà ấy là vợ ông ấy rồi thì nên bỏ
còn vẫn chưa chồng thì chả bỏ làm gì, hoài của đi.
Cải cách ruộng đất đợt hai gì đấy, một hôm Hồ
Viết Thắng bảo Lưu Động về Nam Định gặp hai chi bộ đã qua cải cách, một ở quê
Sáu Thọ, hỏi xem có phải đúng Sáu Thọ gửi thư về quê mách cách phân tán ruộng
đất thật như dư luận phản ánh không, và một ở quê Trường Chinh hỏi xem có phải
bố đẻ Trường Chinh là địa chủ gian ác, thu cả tô tôm tép của trẻ con mót ở đồng
của ông cụ không.
Chi bộ quê Thọ nộp thư Thọ mách cách đối phó
cải cách ruộng đất. Lưu Động đưa nó cho Hồ Viết Thắng. Thắng nộp Thọ nhưng Thọ
muốn xoá đi cả vết tích, thư này được ghi nguyên văn trong nhật ký Lưu Động,
nhất là có tin nói đại sứ quán Liên Xô nắm được nhật ký này. Sau có lần tôi hỏi
Lưu Động gửi nhật ký cho Liên Xô thật à, Lưu Động bậm mồm không nói, mắt gườm
gườm rất bí mật. Tôi lại hỏi thế còn ở nhà không thì anh càng gườm mắt rồi hất
đầu sang nhà đối diện, cách một cái ao to, ý như cẩn thận… Anh phải cái tính
hay quan trọng hoá.
Về ông bố của Trường Chinh thì chi bộ mới tổ
chức lại nói ông cụ dạy học, không là địa chủ và không thu tô tôm tép của trẻ
con…
Bữa ấy ở Sáu Thọ về, tôi tạt nhà Lê Phát, Mã
Mây nghỉ trưa. Thiếp đi trên chiếc ghế băng dài. Chợt có tiếng rì rầm cuối ghế.
Lê Đạt! Bao lâu rồi không gặp? Mấy năm trước, lao động cải tạo về thăm vợ, Lê
Đạt gặp tôi đang gọi cửa nhà bà chị ở đầu Hàng Đào. Rủ tôi đi chơi nhưng tôi đã
hẹn đến đây ăn giỗ. Rồi một hôm tôi và Linh đang ăn bún thang ở Đồng Xuân thì
Đạt và Thuý cũng mò tới. Đạt ngoác mồm cười, chắp tay vái: “Chào cây bút nhớn
ạ!”, “chào nghệ sĩ nhớn ạ!”
Từ trưa hôm ở Lê Đức Thọ về, Đạt và tôi ngày
ngày chuyện trò. Hàng chục năm trời. Hai chủ đề: thơ, văn học nghệ thuật và
khoa học nhân văn, vật lý. Rồi thời sự.
Lúc này Đạt đang bế tắc. Làm thơ như cũ thì
anh không thích còn làm khác tức là bằng cái nhìn mới thì sự dấn bước này thậm
là khó ở một đất nước mà mọi cái đều cứ phải chẻ hoa ra là tin yêu và chiến đấu
và chiến thắng và cấm nói mập mờ để xỏ lá ba que do đó thơ là không được khó
hiểu. Phải nhận cái nọc thơ ở trong Lê Đạt nó quá ngoan cố. Có thể nói của nả
dắt lưng Đạt lúc ấy là một quyển sổ tay giấy rơm, sáu chục trang, bìa màu hồng
- màu da quả bồ quân - gồm chừng mươi ba mười lăm bài thơ viết bằng những chữ
nguệch ngoạc không hàng lối của Đạt, trong đó có bài Anh mang tình em
đi… tôi thích. Biết Đạt ít nhiều có nao núng về chuyện thơ - nên tiếp tục
hay thôi, nên dễ hiểu hay khó hiểu - tôi động viên Đạt cứ chịu khó tìm tòi. Tôi
lôi cả Saint - Pol Roux ra: Cây thơ ca cắm rễ của nó trong tương lai. Rồi Jean
Cocteau: Nhà thơ nhớ lại tương lai. Và Apollinaire gọi thơ là “một nghệ thuật
tiên báo”, vậy thì hãy căn cứ tương lai ở trong đầu cậu mà làm thơ đi. Anh kêu
thơ tôi khó hiểu là vì anh chưa thấy được tương lai. Thắc mắc ba trăm năm sau
có ai khóc mình không, Nguyễn Du đã biết thơ là từ tương lai đi lùi đến…
Một hôm, cuối 1969, Đạt bảo tôi:
- Nhà thơ có lẽ là những người yêu nước nhất.
Họ chăm lo nhất đến tiếng mẹ đẻ.
Tôi nghe mà tủi phận thay cho bạn. Bản án của
Đảng cùng thái độ xã hội đã làm cho Đạt lung lay ngay cả phần nào về lòng yêu
nước của mình. Lúc ấy than ôi, trong “phẩm chất cách mạng” bao trùm tất cả,
lòng yêu nước bị đặt xuống dưới lòng yêu Đảng. Âm thầm chống trả lại, Đạt đã
bám lấy
thơ, cái trận địa mà trong thâm tâm anh vẫn
coi Đảng thua kém anh về tài sản, tức là vô sản chay. Tóm lại tiếp tục giữ khẩu
hiệu của Nhân Văn - Giai Phẩm: trả văn nghệ lại cho văn nghệ.
Đạt nhiều lần giục tôi viết. Tiểu thuyết về
mày, gia đình mày. Tôi im lặng. Biết viết là cần cực kỳ cô đơn. Và quả tình tôi
đã thật sự cô đơn - đúng ra là bí mật - trong bao nhiêu năm với cuốn sách này.
Đúng ra, trên thế giới ai muốn làm nhân chứng
cho một điều gì đều viết hồi kí hay tự truyện. Nhưng ở ta kiềng hồi ký. Chưa có
truyền thống tự sự ở ngôi thứ nhất. Song lại giàu truyền thống “bút sa gà chết”
- muốn bút sa mà gà không chết thì phải cấp ra đầy đủ chứng cớ, phải dám đôi
mặt một lời, nhất là chuyện dính đến an ninh, đến quyền lực, ôi, thôi xin là
cho được yên! Có lẽ chặn cản nhiều hơn chính là tâm thức coi thường cái tôi -
chỉ tập thể mới giá trị - vốn cũng bắt nguồn từ sự sợ tiền kiếp nó luôn đòi
giấu cái tôi đi. Cuối cùng cũng còn bị chặn cản bởi định nghĩa sai lệch về thể
loại văn học.
Coi thường. Chính cái tôi kiêu kỳ giấu mặt làm
cao đã hạ giá hồi ký. Nhưng ai bảo Những con chim hồng hộc của Trương Nhung
không phải tiểu thuyết? Ừ, Trường đại học của tôi và Đời tôi, hai hồi ký hay
tiểu thuyết xuất sắc nhất của Gorki đó.
Nay khối hồi ký được ghi là tiểu thuyết ở bìa
sách. “Tiểu thuyết” của cháu ngoại nhà văn Francois Mauriac, viện sĩ hàn lâm
Pháp, giải Nobel văn học, là “hồi ký” về mối tình với một đạo diễn điện ảnh nổi
tiếng. Và chả nhân vật lớn nào trên thế giới lại không viết hồi ký. Vâng, tôi
xin đối mặt với công luận đây. Tôi ăn gian nói dối thì các ông cứ việc vạch ra.
Ở ta dĩ hoà vi quý, sợ đối mặt với sự thật, sợ trách nhiệm trước xã hội thì lại
vin cớ tránh tự đề cao. Văn học khuất một mảng quan trọng.
… Thấm thoắt đã một năm. Tổ đồng mô tiễn tôi.
Đám con gái sáu bảy đứa khóc sướt mướt hết. Cánh đàn ông thì hoe hoe mắt. Trai,
tổ trưởng tổ đảng nói vài lời: “Kính thưa anh Trần Đĩnh, một năm qua gần anh
chúng tôi thấy anh mới là người cộng sản”. (Tôi nghĩ ngay “Chết, không biết
mình chống đảng sao?” Nhưng chả lẽ đính chính?) Rồi tặng tôi một con dấu “Trần
Đĩnh” anh tự đúc lấy cùng một bài thơ lục bát.
Giám đốc Trần Ngọc Phương đến dự tiễn - như tự
thân đưa tôi đến tổ đồng mô buổi đầu tiên, mà nom cứ hớn hở lên. Hình như công
nhân tốt thế này với tôi là có công anh giáo dục. Tôi hết sức cảm động.
Chả biết đồn thế nào mà sau này, thế kỷ 21
lận, Dũng, “trung uý Dũng” như tôi hay đùa gọi, ở văn phòng báo Nhân Dân thấy
tôi lại thường tủm tỉm:
- Ông anh sang lôi cuốn công nhân ghê quá nên
lại phải tách cá ra khỏi nước, kéo ông anh về.
Cái sự tinh khôn của dân chúng mà tôi nói với
Chính Yên sáng hôm nào thế là đã được chứng minh. Sự tinh khôn ấy đã cho tôi
thấy dân nhìn cái tiêu cực của Đảng bao la hơn tôi, sát sườn hơn tôi.
Đó: tôi đâu nghĩ như Quỳnh rằng để tôi đúc chữ
là đảng muốn tôi nhiễm độc chì mà rồi tàn phế hay chết.
Tôi đâu như Thái Cò lật tẩy ngay: “Anh cho em
hai hìu mua quẩy rồi em sang tên cho cái chữ giai cấp công nhân lãnh đạo… Mẹ
chứ, toàn cho bánh vẽ, con thằng nhọ đít vẫn lại nhọ đít”. Tôi đâu thuộc các
câu ca vạch trần đảng bằng anh chị em thợ - “chân lý chân giò cũng thế thôi”.
Hay: Ai nắm chân lý Mác-Lê thì dứt khoát vơ về chân giò, cút rượu. Mạt hạng
cùng đinh, anh chị em thấy bộ mặt thường ngày của Đảng rõ hơn tôi và do đó sợ
Đảng hơn tôi, đành cam phận. Tôi vẫn hy vọng làm cho đảng có mặt người được.
***
Tôi muốn kể một chuyện trong những ngày lao
động cải tạo.
Một sáng, tôi kéo xe bò, Quỳnh - sư phụ đẩy đi
từ Hàng Bài về nhà in ở Tràng Tiền. Đến trước cửa Bodéga, có tiếng người gọi
hớt hải ở đằng sau:
- Trần Đĩnh!… Trần Đĩnh…!
Quay lại. Kim Lân đang cúi xuống nhét lại quai
dép râu, tay kia vẫy vẫy. Rồi hổn hển chạy đến, nửa cười nửa ngậm ngùi (với cái
dáng kém mọn ngoẹo đầu quen thuộc của anh), nắm tay tôi:
- Đang lên chợ Đồng Xuân thì thấy người anh
em, vội rẽ đuổi theo. Từ bé chưa bao giờ tập thể dục căng đến như thế này… Ừ,
nom người anh em vẫn được đấy, vẫn đàng hoàng, tư cách đấy, Đĩnh ợ, thôi, nhớ
lấy nhá, rằng sông có khúc, người có lúc. Con Hiền nhà mình nó vẫn đến nhà in
làm báo Phụ Nữ đấy, có gặp cháu thì bảo ban dạy bảo nó.
Ý nói tớ đếch cho cậu là phản động, cậu cứ dạy
bảo con tớ.
Ba năm trước, 1967, bốn người “xét lại” bị bắt
đầu tiên được vài tháng, một sáng tôi đến ngã tư Quang Trung - Lý Thường Kiệt
thì Kim Lân từ đằng sau đi lên. Cùng dừng lại ở trước cổng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Kim Lân nhăn nhó nắm tay tôi:
- Này thôi nhớ, tớ bảo cái này nhớ, bây giờ
thằng gian nó đánh người ngay. Nó móc túi mình rồi nó lại hô làng ối bắt cho
tôi thằng ăn cắp là mình đấy.
Sau đó nửa tháng cũng tại chỗ đó, Nguyên Hồng
thấy tôi thì nhảy đánh phịch một cái xuống khỏi chiếc xe đạp con vịt Liên Xô,
nơi nới sợi dây đay thắt quanh bụng rồi chớp chớp mắt, ngùi ngùi nói:
- Tớ về trên Yên Thế Cầu Gồ rồi, chỗ cậu đã
đến đấy, bao giờ có thể lại lên chơi… Tớ thôi phụ trách tờ Văn. Không làm được
mà cũng không thích làm… Cứ bắt chửi Liên Xô thì tao chửi làm sao được? Tao
nặng tình với Liên Xô từ khi tao viết Những ngày thơ ấuvới Bỉ
Vỏ rồi… Mày ấy, mày là Tư Mã Thiên, mày nói thật nên mày bị thiến,
thôi cố nhớ, tao tin mày!
Cái giá Nguyên Hồng phải trả để được không
chửi bậy quá lớn. Lên Cầu Gồ là anh mất hộ khẩu Hà Nội. Là mất sổ gạo! Là ăn
đong quanh năm ngày tháng với năm sáu cái miệng hết tiêu chuẩn “ăn theo”. “Ăn
theo” chỉ vợ con công nhân viên, còn “ăn bám” chỉ bọn bóc lột. Anh đã nhờ vào
tem phiếu của bạn bè sau các chuyến công tác còn thừa đem cho. Lại may, anh cho
biết, cậu bí thư huyện Yên Thế xưa làm thợ in, nghe tiếng tớ từ thời Tây thế là
rộng cho tớ phần nào lương thực.
Nhưng anh vẫn cần mượn oai hùm là báo Đảng.
Anh mời Xuân Trường, Như Phong, Địch Dũng và tôi lên dự giỗ Cụ Đề tại Phồn
Xương. Dặn phải đi bằng ô tô lên. Xe chúng tôi còn cách nhà anh một cây số đã
thấy anh vét-tông ka ki, ôm cặp da trâu đựng bản thảo, ngực đeo huân chương
vàng choé chờ ở bên đường từ lâu. Anh không ngồi xe mà đứng ôm cửa xe để hô anh
tài rẽ thế này, quặt thế kia. Người làm đồng khá đông đều quay lại nhìn. Anh
thú thật:
- Trên này cái thế Nhà nước mạnh lắm, tao cần
nó để họ còn cưu mang gạo mà.
Một sáng đầu thế kỷ XXI, Kim Lân, Trần Lưu
Hậu, Trung Sơn… và tôi ăn uống ở nhà Trần Vũ. Rất vui. Tôi tán mọi sự.
Rằng tôi thấy cái cổng làng Thư Thị ở Hưng Yên
ngày Tố Hữu xua văn nghệ sĩ cả đàn về đó “học tập thực tế” phong trào hợp tác
hoá nông nghiệp - đông đến nỗi đi vào cái sân bày cơm canh trên nền gạch mà chỉ
chen lách nhau cũng đã mất bao nhiêu thì giờ - Hậu vẽ đẹp hơn chân dung bao vị
tên tuổi. Vì như Matisse nói: tầm quan trọng của một nghệ sĩ được đo ở số lượng
tín hiệu mới mẻ mà hắn ta đưa vào ngôn ngữ của nghệ thuật trong khi các vị tên
tuổi thì chỉ đưa lại những cái cũ mèm của ngôn từ xác xơ.
Sắp tàn cuộc, tôi bảo Kim Lân:
- Tôi kể một chuyện của Kim Lân có lý lịch đã
hơn ba chục năm nhé.
- Ừ, thì có cái gì không phải xin xá cho em. -
Kim Lân so vai lại nói.
Tôi kể chuyện anh bảo nay kẻ gian nó bắt người
ngay, bắt rồi nó lại kêu làng nước ơi, này xem thằng ăn cắp…, rồi chuyện anh
tụt cả quai dép đuổi tôi kéo xe bò.
Kim Lân gật gù:
- Cảm ơn mày, Trần Đĩnh ạ, mày đã nhớ cho tao
cái chuyện mà dạo ấy thật tình chẳng biết ma quỷ nào nó xui tao vốn nhát lại
dám nói láo nói lếu với ngay chính tội phạm chống đảng đang làm cỏ vê là mày
thế chứ…
Có lẽ thú chuyện này, Trần Lưu Hậu đã vẽ tôi.
Đúng hơn, vẽ một nhếch mép. Sơn dầu. Ngang 1 m. Cao 0,90 m.
Rồi bỗng một hôm tôi thấy cái nhếch mép chợt
có nét siêu thoát lơ lửng của nụ cười Bayon. Nó nhạo tôi. “Đã thấy con cung
quăng trong vũng nước chưa? Nó giống mày. Quẫy khỏe đấy nhưng câm miệng thì vẫn
chỉ là cung quăng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét