Cùng thời gian bao vây Điện Biên Phủ, Trung
ương mở lớp tổng kết cải cách ruộng đất ở sáu xã thí điểm tại huyện Đại Từ sát
nách An toàn khu, do Hoàng Quốc Việt chỉ đạo. Sau tổng kết sẽ triển khai chính
thức đợt 1 cải cách ruộng đất. Tôi đã dự.
Từ Điện Biên Phủ, Thép Mới viết cho tôi: “Mày
ở đầu trận tuyến chống phong kiến, tao ở đầu trận tuyến chống đế quốc, cố lên
hả!”. Hảo hớn, phơi phới.
Địa điểm lớp tổng kết hình như ở xã Bình Thuận
vừa cải cách xong. Những lán nứa ôm dọc các sườn núi chằng chịt lối mòn.
Khu lán nhà ăn đồ sộ ở chính trung tâm. Tất cả các lán, cả hội trường đều không vách, trừ tòa nhà của học ủy với một đống lửa luôn bập bùng ở giữa. Hôm đến lấy giấy tờ để trở về báo đi học nước ngoài, chờ mãi không có ai, tôi lăn ra giường ngủ mất. Tỉnh giấc mà phải nằm im: câu chuyện khám phá đàn bà của từng vị ủy viên đang hồi mặn mòi nhất. Nghe ké ngoài rìa mà chân tay cũng rậm rựt lên.
Học viên là cán bộ, cốt cán tứ xứ đến lớp cũng ra sức nam nữ khám phá nhau. Gần như cuồng loạn. Cao trào phóng tay phát động bần cố đã tạo dịp cho con dục quậy. Bí thư đoàn ủy Hoàng Quốc Việt phải bỏ hẳn một buổi gọi tất cả lên hội trường rủa: “Ở đây có những con đĩ…, con đĩ… Ai đời đến độ ở lán nữ với nhau mà hễ tối có ai đi đâu về là cả lán lại nhòm đũng quần xem có gì? Đảng viên như thế à? Cốt cán như thế à?”
Nguyên Hồng, Kim Lân và tôi thường ngồi ngoài sân, giáp hông hội trường. Kim Lân lè lưỡi:
- Dạ, đấy là em còn bận đấu tranh với căm thù đấy ạ!
- Nông dân, nhất là nữ rất phong tình, nay được giải phóng thì khó tránh cái chuyện lang chạ. Nhưng sao không chửi cả những thằng đĩ? - Nguyên Hồng nói.
Chia đội và rồi cứ đội hình biên chế như thế xuất phát đi công phá giai cấp địa chủ. Nhưng trước hết phải chỉnh huấn, trình bày kiểm tra lý lịch trong đội đã. Tôi cùng đội với Thanh, vợ Tố Hữu, Ninh và Tâm, hai cán bộ phụ nữ vóc dáng to lớn huyện Lâm Thao.
Lại nhớ đến lớp chỉnh huấn trí thức xây dựng lập trường cải cách ruộng đất năm ngoái, Thanh phàn nàn với mấy chúng tôi rằng trong nhà ăn lớp học từ nay anh và chị phải ăn riêng. Vì? - Tôi lạ quá.
- Anh ấy ăn chế độ tiểu táo, bếp bé, tôi đại táo.
Rồi chị giải thích, tiểu táo là cơm có ba món đặc và một canh… Tôi nhớ nhiều phần là Vũ Đình Khoa, nguyên tri huyện sau đó khẽ thì thào bảo tôi:
- Chế độ tế nhị này rắc rối đây. Ăn thế rồi,
ngủ sao? Về khoản này tiểu đại chắc ngược lại, vợ giường tiểu, chồng giường
đại, có hẹn cho vợ ngủ ở giường đại được bao lâu không? Mà ai bảo vệ diện tích
giường to nhỏ tiêu chuẩn, ai giục ai về giường ấy? Ừ, mà còn khoản thống khoái
của mỗi bên trong cuộc nữa, có chia tiểu đại không?
Lúc ấy chúng tôi mới chỉ pha trò cười thứ chế
độ lố bịch này chứ chưa biết qua phát động cải cách ruộng đất ở Việt Nam (Hoàng
Tùng hồi ký rằng Mao đã “gọi” Hồ Chủ tịch sang bảo phải làm cải cách ruộng
đất), Trung Quốc đã rắp đưa Đảng cộng sản Việt Nam vào quỹ đạo của Trung Cộng
như bóng với hình. Chẳng hạn chế độ phân biệt đối xử chi li đến gần như tàn
nhẫn về hưởng thụ vật chất nói trên. Hay quan trọng hơn nữa, những thay đổi
nhân sự dựa trên giai cấp xuất thân. Chẳng thế mà ở Điện Biên Phủ, Giáp dặn khẽ
Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Đạo Thúy… cần nói năng cẩn thận về lý lịch, các cố vấn
đang xem xét, kể cả tôi (Võ Nguyên Giáp). Đánh mọi kẻ thù, Giáp chỉ thua kẻ thù
giai cấp đang được cố vấn Trung Quốc trình làng mà nguy nhất là nó có thể nằm
ngay ở trong người Giáp.
Tháng 2-1954 nổ súng ở Điện Biên thì tháng
11-1953, Hoàng Văn Thái xuống làm phó tổng tham mưu trưởng, Văn Tiến Dũng lên
thay. Dũng thợ may gần công nhân hơn Thái. Hay sau này Đỗ Mười thợ sơn, thợ
hoạn lợn thì ưu tú hơn đứa được học cao…
Rồi sau này đi đến phương châm nhân sự kinh
hoàng của Song Hào, Phạm Ngọc Mậu: đề bạt bần cố nông một năm một cấp là chậm,
đề bạt tiểu tư sản mười năm một cấp là nhanh.
Tất nhiên lúc ấy càng không biết đảng thay đổi
nhân sự theo sự chỉ trỏ khôn khéo của cố vấn Trung Cộng cũng có nghĩa là đảng
phủ nhận những thành tích đảng đã thu được trong quá khứ. Đúng thế, không thì
thay người làm gì cho rách chuyện…? Chỗ thâm hiểm ở đó. Quá khứ của anh chưa có
tôi “phụ trách” nên không ra sao, nay có tôi, anh phải thay đổi theo ý tôi.
Thực chất đó là gì? Là diễn biến hung bạo, không hòa bình, của nước ngoài nắm
vững Mác-Lê hơn Việt Cộng.
* * *
Đội trưởng của tôi người Diễn Châu hễ nói là
tôi ù ù cạc cạc. Không quen tiếng. Khi đội trưởng tố khổ, mọi người đều khóc,
mình tôi ngơ ngác. Cổn, đội phó, bé gầy, mặt rỗ, láu lỉnh, mắt liếc loang
loáng. Đã làm bồi săm, “bị chúng bóc lột, khinh, nhục lắm, đi mua thuốc phiện
này, gọi gái này, bắt cho nhòm lỗ khoá này, khổ cực lắm…”
Nguyên bồi săm chuyên cho nhòm khách chơi gái
qua lỗ khóa lấy tiền, thực chất là lưu manh thì nay thành đại cốt cán của đảng
(vì bồi là hạng tôi tớ bị bóc lột, thành phần cơ sở của đảng). Cổn đã bắt tôi
ngừng báo cáo lý lịch. Nghe tôi nói bố viên chức, không nhà đất, anh giơ ngay
tay lên:
- Đến bần cố nông còn có mảnh đất cắm dùi mà
viên chức trong bộ máy đế quốc dựng ra để đàn áp nhân dân như bố đồng chí mà
lại không? Thôi, đồng chí cố đào sâu đi, hãy gắng một lần thành khẩn với đảng,
với giai cấp nông dân.
Thanh minh không lại.
Cứ một lời: “Ở đây là vấn đề thái độ, lập
trường. Đồng chí không tin là đồng chí khai ra tài sản gia đình nhờ bóc lột mà
có thì nông dân sẽ khoan hồng cho đồng chí sao? Thế là chưa tin cách mạng, chưa
tin nông dân”.
Ức muốn khóc. Đã toan khai văng tê đi.
Thì tối kẻng triệu tập tất cả lên hội trường.
Hoàng Quốc Việt mặt đỏ rực - vừa uống rượu vang Pháp chiến lợi phẩm liên hoan
ăn mừng cùng cố vấn cao cấp cải cách ruộng đất xong - báo tin Điện Biên Phủ đại
thắng.
Và sáng sau, Lê Điền đến gọi tôi về. Tôi được
cử “đi học ở nước bạn…”.
Tôi mừng vui, buồn chán lẫn lộn. Phi cải cách
ruộng đất bất thành chiến sĩ cách mạng chân chính. Riêng tôi lại thêm đang ấp ủ
tích lũy vốn sống chuyến đấu tranh này để viết một cái gì cũng phải như “Mặt
trời trên sông Tang Kiền” của Đinh Linh hay “Đất vỡ hoang” của Solokhov.
Và còn cả một điều thầm kín này nữa. Cái điều
không dám nghĩ hẳn đến nó nhưng nó cứ làm cho ngẩn ngơ. “Bâng khuâng như mất
lạng vàng trên tay…,” đúng như câu quan họ Tạ Mỹ Duật vừa dạy năm ngoái.
Đó là nỗi nhớ một cô gái. Một luyến tiếc nhiều
phần hão huyền: ở nhà không đi học có khi…? Mặc dù cô gái ở nơi kín cổng cao
tường bậc nhất, cầm chắc tôi khó lọt qua nổi.
Trong lớp chỉnh huấn này, tôi đã gặp, đã quen,
đã bén hơi bén tiếng một cô gái. Đúng hơn là đã gặp lại. Dù cho lần gặp ban đầu
chỉ là một thoáng chốc trên đường.
Năm ngoái, trên đỉnh Đèo Re tôi gặp một cô gái
khá đẹp từ Tân Trào sang mà sau đó về cơ quan tôi đã phải sang ngay Văn phòng
trung ương hỏi dò Vũ Đường, sau này là chủ tịch Hà Đông, để được biết tên cô là
X., con nuôi của Bác, bố mẹ trên Cao Bằng, cơ sở của cách mạng. Thế rồi tôi đã
có mấy bài báo nhỏ ký tên cô cặp với họ Hoàng tôi đặt ra - hoàng phái, đẹp và
sang thế cơ mà. Cái nhìn của tôi trên lưng đèo năm ngoái nặng như một cái neo
chăng mà cô gái nhớ khiến chúng tôi đến lớp này liền dễ thân nhau, dù hai người
hai chi bộ.
Đến bữa ăn, mặc dù cả nghìn con người chen
chúc khắp xung quanh, thế nào hai đứa cũng dềnh dàng để cho cùng dạt vào một
bàn, hoặc bên cạnh, hoặc đối diện. Để lại cùng xuống suối rửa bát đũa và để lại
nấn ná hai đứa ở bên suối cho tới khi đám lau bên kia suối đã sầm tối và sau
lưng đèn trong các lán cao thấp dọc sườn núi đã bắt đầu sáng lên, tất cả chợt
nom như đêm hội Chùa Hương, điều khiến tôi thấy có thêm cả chiều kích thiêng
liêng trong quan hệ hai đứa.
Cho tới một hôm, sau khi khai mạc lớp chừng
hơn một tháng, Cụ Hồ đến. Nói chuyện với học viên chật ních nhà ăn. Tôi đứng
đối diện Cụ, cách một bàn ăn bằng nứa rất dài. Lẽ thường thế nào cũng phải chạy
đến đứng bên Cụ thế nhưng hôm nay tôi… kính nhi viễn chi. Bởi lẽ tôi muốn ngắm
nhìn cô con nuôi của Bác đang đứng cạnh Bác. Lần đầu trong đời tôi nhìn Bác ít
mà bận nhìn người bên Bác nhiều.
Và thú thật, có thể tôi đã lầm, tôi thấy cô
gái cũng chỉ cười nhìn tôi. Nụ cười bỗng thân thiết hơn, táo bạo hơn. Con mắt
bỗng rực rỡ, tưng bừng như đang tán thưởng sắc đẹp của chính bản thân. Và trên
tất cả, cái nhìn đang ướm hỏi tôi: “Em giới thiệu anh với Bác nhé… nhé… “
Tôi quả đang vút lên chín tầng mây.
Hết hồi thăm học viên, Bác quay sang cô gái:
- Cô bé này về chứ biết gì mà đi?
Tôi như ngã sụp. Thoáng oán Ông Cụ.
Mới hôm qua ở suối lên, dốc trơn, tôi giơ tay
ra đỡ X. Bàn tay con gái tôi lần đầu nắm lâu trong đời. Và cảm giác rạo rực
theo tôi mãi. Cho tới khi X. ở bên cạnh cụ cười như bảo em mách nhé, tôi đã ngỡ
mách chuyện hai đứa nắm tay nhau mà vừa mong X. mách vừa sợ. Và mới chiều nào
bên suối, tôi bảo cô gái: “Sau khi gặp X. ở đỉnh Đèo Re từ năm ngoái, mình có
ký tên là Hoàng X. lên báo…” thì X. đỏ bừng mặt. Có lẽ chưa ai ở chỗ Bác nói
với cô gái như thế. Tay X. chợt lóng ngóng không đút nổi chiếc thìa vào trong
chiếc túi dài, hẹp chừng ba ngón tay màu tím than có đường thêu tím hoa mua
trên miệng túi. Chiếc thìa rơi xuống cỏ.
Tôi cúi nhặt, nghĩ: giống một chìa khoá bạc?
Mở gì? và ngước lên, mắt hỏi: Cho nhá? Cô gái cúi đầu và sau đó cái thìa tôi
cất ba lô, không dùng…
Về báo, tôi bảo tổng biên tập Vũ Tuân là không
muốn đi học. Anh nói anh Trường Chinh đã nói cử anh đi. Tôi tạt qua bên Trường
Chinh, hy vọng có thể trình bày nguyện vọng nhưng tới cây vả rừng đầu nhà sàn
bà Cái, người địa phương thì Trường Chinh và người bảo vệ dắt ngựa tới đó. Anh
tươi cười nói ngay:
- Tôi đồng ý anh đi học. Cần đào tạo chính
quy. Vừa im súng liền ra ngoài học ngay, phấn khởi chứ?
Cây vả này tôi hay leo lên hái quả ăn. Đôi lần
Trường Chinh đi dưới, tôi gọi xuống: “Ngọt lắm, anh Năm, anh có ăn tôi hái?”
Trường Chinh lại ngửa cố lên cười:
- Khéo gẫy cành mà ngã đấy nhá…, cẩn thận…
***
- Lạ, tự nhiên thấy phải nhót ngay về, tao vội
sang đi nhờ xe Mô-lô-tô-va bên cha Đinh Đức Thiện hậu cần. - Thép Mới bảo tôi.
Lạ thật, ngày mai tôi lên đường.
Chúng tôi thức trắng một đêm mưa trắng xoá
rừng để chuyện trò. Thép Mới động viên tôi:
- Học lâu lắm là một năm chứ quái gì, đi đi
rồi về tìm con bé này hay lắm.
“Con bé hay lắm” này là Hồng Linh, mười sáu
tuổi, diễn viên văn công Tổng cục Chính trị, phục vụ ở Điện Biên Phủ. Ra tận
đầu giao thông hào hát tiễn lính lên đường xuất kích.
- Tao thấy mày với cái Át Cơ ấy được đấy. À,
lính Điện Biên xếp loại các cô văn công thành Át Cơ, Át Tép, Át Pích. v. v.
Sang năm về tìm nó nghe mày.
Sáng sau tạt nhà in chào anh em xong qua suối
ra quốc lộ 3. Lũ về nhưng mải chuyện cứ thế lội. Bỗng chân hẫng trống không và
nước réo ầm ầm ngang ngực. Trên vai tôi, một tay Thép Mới quàng chặt. Cầm bằng
chết, tôi đã bảo Thép Mới: “Đừng quàng vai, đừng…” thì ở trên bờ trước mặt một
chú chăn trâu nheo nhéo: “Rẽ sang phải,… rẽ phải…”
Hai đứa chống chọi lại dòng lũ cuốn siết nhích
dần lên được bãi cát cao. Trâu xổng từ bìa rừng chạy ra đến đây, chú bé đuổi
theo thì vừa kịp sắm vai hiệp sĩ. Đúng là trời sai ra cứu.
Đến địa điểm chỉnh huấn chuẩn bị tư tưởng và
rà soát lý lịch cho chuyến du học thì xảy một việc chỉ có thể đổ cho duyên số.
Kéo nhau tới lớp, toán văn công quân đội mang
ùa đến hào quang địa đạo. Và trên hết tất cả là cái nét mới, cái nét bây giờ
gọi là top model: các cô gái này được trang bị hai loại chất liệu đặc biệt -
thanh sắc - trong bộ quân phục mầu cỏ úa, áo thắt eo cùng chiếc mũ cối nom rất
tân kỳ. Một cô nổi bật. Hai mắt to, xa nhau, ngây thơ mà hiện đại. Kín đáo hỏi
dò thì ngã ngửa: chính Át Cơ Hồng Linh!
Thư ngay cho Thép Mới báo tin kỳ ngộ. Thép Mới
trả lời: “Em nghe nói đám đi học nước ngoài kỷ luật cấm luyến ái ghê lắm, anh
léng téng mà nó xua về thì chuế quá đấy…”
Đầu bảng cấm đúng là cấm luyến ái trong thời
gian đi học. Chỉnh huấn đặc sệt tinh thần chỉnh đốn tổ chức trong cải cách
ruộng đất. Lập trường giai cấp đang là nền móng cho công tác nhân sự. Một cuộc
“thay máu” lặng lẽ diễn ra.
Cho nên không lạ việc Lê Văn Rạng, bí thư học
ủy lên cảnh cáo trước toàn hội trường: cán bộ, đảng viên nên nhớ mình là những
cái cột sơn son bên ngoài chứ bên trong thì mục rữa hết cả rồi. Lại nghiền lập
trường giai cấp và thái độ học tập ở nước ngoài. Lại kê khai lý lịch. Rồi tất
cả chờ kết quả đi học hay không.
Thình lình học ủy nhờ tôi động viên Chính Yên
phóng viên báo Cứu Quốc vui lòng về. Bố anh xưa là quan huyện, anh cả của anh
đang làm ở tòa án “địch” tại Hà Nội. Tôi rất thương anh bạn nhưng biết làm sao.
Chính Yên ra suối làm con gà đánh chén với tôi rồi tôi tiễn anh ra tận quốc lộ
số 2. Về đến lán thì lại thấy V.T.D ở Thông tấn xã đã ba lô lên vai:
- Về, không đủ tiêu chuẩn.
Có cái mồm nào đó báo là anh nhận hai lạng
vàng mẹ anh ở Hà Nội gửi ra. Có vàng là giai cấp bóc lột rồi!
Các chú học sinh phổ thông nen nét chờ như rắn
mồng năm. Riêng tôi ngày mai lên đường vẫn chưa thấy tên trong danh sách. Thì
đùng một cái, học ủy yêu cầu khai lại lý lịch.
Biết lôi thôi ở cái khoản bố làm việc cho Pháp
ở trong Hà Nội. Tôi vẫn đi là nhờ uy lực báo đảng. Và cá nhân tôi cũng có uy
lực nào đó nên báo đảng mới bênh!
… Đi bộ ban ngày lên biên giới. Hòa bình rồi.
Một đêm
trăng mờ qua ải Nam quan. Lên xe cam nhông
quân đội ngồi
phệt xuống sàn như phu Tây bắt đi khuân vác
trong các trận
càn. Trước khi đi, làm cuộc tổng lọc: vất bỏ
hết tất cả những
gì là của Việt Nam, trước hết thư tín, sổ tay,
nhật ký, ảnh và
đồ dùng, quần áo…, không được để lộ có lưu học
sinh sang
bạn.
Tôi hủy gần hết. Bùi ngùi đặt cái thìa của X.
lên đỉnh dẫy cây lạc tiên ngập bụi trắng xóa bên đường, cái cây mà sau đó, buổi
chiều đi trong thị trấn Na Sầm thưa thớt, hình như Hồng Linh chỉ vào đó nói quả
cây này tên là pá phèn kuổ.
Hồng Linh là người Trung Hoa, Thép Mới chưa
nói… Hay chưa biết.
CHƯƠNG 7
Bốn ngày đêm ngược Trung Hoa. Lụt Hồ Nam, Vũ
Hán, phải đi ngả Hàng Châu, Giang Tô, Giang Tây. Những dòng sông trong xanh mà
nhìn vào bờ vẫn ngỡ thấy các hòn đá Tây Thi giặt lụa. Đỗ ở Hàng Châu, tôi cứ
muốn biết thời xưa chỗ đầu tàu phì phò lấy nước này có là một tửu lâu không và
Tô Đông Pha có la cà tới đó? Phà chở một lúc mấy toa xe lửa vượt Dương Tử mênh
mông sóng lớn cho tôi thấy cái hơi thở sâu trầm của công nghiệp. Khói nhà máy
Thượng Hải từ xa đã biến thành phố này ra thành một dẫy cô đảo chập chờn.
Đến Bắc Kinh đại học hình như đúng đêm 19
tháng 8. Chân chợt rón rén khi vào khu Lục Viện, túc xá trước kia của Yên Kinh
đại học, Yenching - Harvard, một nhánh của Harvard. Vàng son, chạm trổ, mùi vị
vuơng phủ…
Tất cả lưu học sinh học tiếng Trung Quốc một
năm ở Bắc Kinh đại học rồi sẽ chia đi các trường chuyên nghiệp hay đại học
khác. Đám báo chí lẽ ra sang Tiệp học theo giúp đỡ của OIJ (Hội nhà báo quốc
tế, do Liên Xô đỡ đầu), nhưng Phạm Văn Đồng ở Genève về qua Bắc Kinh đã chỉ thị
các ngành văn hoá báo chí, sử, nghệ thuật đều học tại Trung Quốc vì Trung Quốc
gần với Việt Nam hơn. Nhờ thủ tướng trọng chữ Đồng mà tôi và Linh thành tương
thân chứ nếu thủ tướng tên Dị thì có lẽ đã sang một nẻo khác.
Vài ngày sau lưu học sinh Việt Nam được hiệu
trưởng Mã Dần Sơ chiêu đãi. Ông là nhà kinh tế học lỗi lạc, đào tạo ở Mỹ.
Thấp béo, hiền hậu. Lưu học sinh Việt Nam biểu
diễn ca nhạc “Chàng buông vạt áo em ra là em ra…”. Linh hát
quá hay nhưng tôi không buông. Tôi kéo Linh ra đứng dưới cây lê thấp ngoài sân
trước cửa nhà ăn. Tuổi trẻ lãng mạn thích trăng sao, nhìn mắt Linh lúc ấy tôi
ngỡ như mình đang vút lên ngang những vì sao trên Vạn lý Trường thành rồi tôi
chạm tới mặt trăng thật: hôn cái đầu tiên. Vào má. Thấy Mã hiệu trưởng cười ở
bên trong. Đinh ninh ông thấy chúng tôi “trốn” và ông phê chuẩn.
Nhưng nội bộ quyết dẹp. Ngay lập tức vi phạm
kỷ luật luyến ái thế này chúng tôi đã láo xược thách thức toàn thể. Cả năm học
ấy, chúng tôi là đối tượng giáo dục, phê phán, ngăn chặn và ép cắt đứt. Đến nay
tôi cũng không hiểu tại sao tôi, nhất là Linh non nớt như thế, lại có gan ghẹo
ngay vào giới luật thiêng liêng hàng đầu của đảng.
Xong hè 1955, Linh sang Bắc Kinh vũ đạo học
hiệu. Tận đằng Đào Nhiên Đình, cách nhau non mười lăm hai chục cây số. Linh cắt
bỏ bộ tóc dài mượt mười sáu tuổi đời mà các nữ sinh Triều Tiên hễ gặp lại vuốt
ve khen đẹp. Tối thứ Bảy, nghe nữ sinh Trung Quốc ríu rít gọi nhau “jin cheng”
- vào thành phố, rồi tiếng xe buýt rồ máy rời trạm, như một kỷ niệm bong đi,
tôi buồn ghê gớm.
Trong cuộc họp lưu học sinh Việt Nam ở toàn
Trung Quốc, đại sứ Hoàng Văn Hoan lớn tiếng chửi vụ hai chúng tôi. “Mới sang đã
tung hê ngay kỷ luật của Đảng, chân ướt chân ráo luyến ái ba lăng nhăng ngay.
Người chứ đâu phải trâu với ngựa mà cứ gặp nhau là nhảy”.
Trớ trêu! Tôi làm thư ký ghi biên bản, ngồi
ngay cạnh đại sứ. Tôi đã phải ngăn mình đứng lên nói: “Thưa, chính là tôi”.
Cái ngăn tôi liều chính là Linh. Nữ sinh ngồi
ở hàng đầu. Ngay trước mặt tôi, Linh ngồi đó chịu trận, đầu cúi xuống, hai tay
chắp lại. Một a hoàn đang bị các lệnh bà quở nạt. Thương Linh xấu hổ, tôi đã
im. Viết trẹo vào biên bản thành “đâu phải trâu với ngọ mà cứ hễ gặp nhau là
ngủ?”. Thấy chữ “nhảy” đểu quá.
Lúc này Hoan đề cao kỷ luật đảng, ai ngờ rồi
ông lại phạm kỷ luật trốn sang Bắc Kinh tối tối lên đài đọc hồi ký “Giọt nước
trong biển cả” chửi Lê Duẩn thậm tệ.
Sắp khai giảng niên học mới, trường mời tôi để
một buổi tối nói kinh nghiệm học tiếng Trung Quốc cho mấy trăm anh chị em lưu
học sinh Việt Nam mới đến Bắc Kinh đại học.
Vào đầu tôi nói hãy coi ngôn ngữ lạ mà ta học
như mỹ nhân. Để có thể đến với nó với tất cả cảm xúc và trí tuệ. Để có thể “Đôi
ta như đá với dao, năng liếc năng sắc, năng chào năng quen”. Then chốt ở
chỗ năng. (Đến đây tôi buột thở dài, thầm nghĩ, nay còn năng làm sao? Hai chi
bộ theo lệnh sứ quán đều vây ráp…) Sau đó mách anh chị em các mánh để nhớ. (Lại
thở dài. Sao ta không biết mánh quen?) Để nhớ có một cách như mâu thuẫn: thêm
họ hàng râu ria vào cho cái ta cần nhớ.
Thuở bé học đến sông Loire (Pháp) có bốn nhánh
là Vienne, Creuse, Indre, Cher thì tôi lại nói thành Viện Cớ Anh Xe. Một nhát
nhớ ngay. Không phải lẩm bẩm ôn hoài ở trong đầu…
Ba mươi hai năm sau, ở Sài gòn, đến nhà Thiết
Vũ ở Hàm Nghi, dắt xe mò lần trong cái ngõ ông mất điện tối mù, tôi khẽ kêu “Đi
thế nào đây?” thì trong cùng ngõ cất lên tiếng người lạ:
Ngỡ công an, tôi thầm nghĩ: “Theo cả đến đây,
Hai Khuynh dặn cẩn thận đúng quá?
Tiếng nói lại tiếp luôn:
- Lên tầng trên tôi chờ anh, xem anh có nhớ ra
tôi không?
Không phải công an. Anh bạn này nghe kinh
nghiệm học tập tối hôm đó, cùng với những Ngô Y Linh, Huy Du, Nguyễn Đình Nghi…
Chúng tôi chưa hề chuyện trò bao giờ nhưng anh đã nạp tôi vào bộ nhớ âm thanh
kỳ diệu của anh. Anh bạn đích thị tri âm này tên Bùi Phú Dụng, nay đã bảy mấy
và ở ga Bình Triệu. Thỉnh thoảng vẫn gọi tôi qua điện thoại. Anh đáng vào
Guinness.
Lên đại học, tôi viết bút ký toàn bằng tiếng
Trung Quốc. Có lẽ cũng duy nhất? Như đã duy nhất luyến ái bất chấp kỷ luật tu
hành.
***
Thình lình Thép Mới đứng bên bàn ăn của tôi ở
Bắc Kinh đại học. Anh theo Cụ Hồ đi cảm ơn mười hai nước xã hội chủ nghĩa giúp
ta thắng Pháp. Ngay tại nhà ăn, anh bảo tôi:
- Về Việt Nam tao sẽ phải tranh thủ ăn chứ chủ
nghĩa xã hội ăn như thế này thì kém bữa bánh cuốn thịt quay cà cuống của tao
mỗi sáng.
Chúng tôi đã đi chơi với nhau mấy bữa. Tôi hỏi
anh một vấn đề mọi người đang bận tâm: Tại sao ta và Diệm đang tranh nhau Hoàng
Sa cả ở trên báo mà đùng một cái ta lại công nhận và hoan nghênh Trung Quốc thu
hồi Hoàng Sa?
- Mày ấu trĩ bỏ mẹ! Theo hiệp định Genève thì
chỗ ấy dưới vĩ tuyến 17 phải là của Diệm. Để cho ông anh Trung Quốc chứ không
để Mỹ nó vào nó xây căn cứ hải quân sát nách à?
Thế là tôi nghĩ ngay - y như Đảng lúc bấy giờ
- mai kia ta cần, bạn lại trả cho ta, đi đâu mà mất, miễn là về phe ta.
Hôm ấy tôi nhận xét với Thép Mới một điều mà
tôi cho là một nhược điểm lớn của Việt Nam: chúng ta thiếu một cuộc cách mạng
tư sản dân chủ. Trung Quốc nó có từ 1911. Con gái Trung Hoa đã mặc váy ngắn đi
đường đồng ca đòi nam nữ bình quyền từ đấy. Ít ra chủ nghĩa tư bản cũng đã lãnh
đạo đất nước này được vài chục năm, Lỗ Tấn chửi chế độ nó ác thế mà nó để
nguyên vẹn mạng ông cùng cái bút…
Có lẽ muốn tôi đỡ buồn vì bị cấm yêu, Thép Mới
một sáng ngồi ở công viên Trung Sơn đã lộ ra với tôi:
- Này, mày nghe bình tĩnh nhá…, hình như bố
Hồng Linh…, ta thịt, nghe đâu hình như (ông ta) là đặc vụ.
Một luồng băng lạnh buốt chạy ngầm suốt dọc
người tôi.
Thép Mới lắm tin lắm, hắn đã nói ra thì nhiều
phần là sự thật.
Nhưng không biết một cái gì đó trong tôi lập
tức khiến tôi ngờ vực. Tôi hỏi:
- Cậu nghe ai?
- Thì cũng là xì xào thế… Khoa Tếu nó có biết
ông ấy.
Rất nhanh, đảng viên Trần Đĩnh tự hỏi: có tiếp
tục không?
Nhưng một Trần Đĩnh khác, một Trần Đĩnh chỉ
thấy yểu điệu thục nữ cũng lại lập tức tự quyết định: thôi, cứ chờ bao giờ có
tin chính thức đã. Tiếp theo là một loạt biện hộ hùng hồn: chả lẽ tầm thường
đến thế ư? Chưa chi đã dao động.
Không, tôi càng phải ở bên Linh để cùng ngụp
lặn trong cảnh ghê sợ này, nếu nó có là thật đi nữa.
Sau lần gặp Thép Mới ít lâu, tôi đã hỏi Lê Phú
Hào, phóng viên Thông tấn xã tại Trung Quốc, về tin chính phủ ta công nhận vùng
hải phận của Trung Quốc, tức là công nhận Hoàng Sa. Lê Phú Hào nói vì Liên Hợp
Quốc nó ra cái luật biển với cái công ước gì tôi không nhớ, chỉ biết liên quan
đến chủ quyền biển, các nước sẽ ký vào để khẳng định chủ quyền biển đảo của
mình nhưng Trung Quốc và ta không ở trong Liên Hợp Quốc nên Trung Quốc tuyên bố
một mình và ta ủng hộ. Do đó đại sứ Nguyễn Khang có trình công hàm cho Bộ ngoại
giao Trung Quốc và ông Đồng cũng có công hàm gửi Chu Ân Lai công nhận tuyên bố
của Trung Quốc về hải phận của Trung Quốc. Tớ nghĩ, Hào nói, nếu chỗ ấy mà của
Sài Gòn thì Mỹ thừa sức mở căn cứ hải quân thật đấy. Nghe Hào tôi càng yên tâm.
Vốn quen kiểu nghĩ của Trung ương và Bác Hồ đã làm thì phải đúng.
Lúc ấy tôi chưa chống đảng lật đổ và Lê Phú
Hào, tình báo đội lốt nhà báo, chưa “phản bội” nhảy sang địch.
Niên học 1955-56 trôi đi bức bối (với tôi vì
bị cấm yêu).
Cho tới giữa năm 1956 thì diễn ra một chuyện
động trời khiến cho tất cả gần như bị đảo lộn: Đại hội 20 Đảng cộng sản Liên
Xô, báo cáo mật của Khruschev về Stalin. Tôi đã ngày ngày đến thư viện của Đại
học Bắc Kinh mở báo Pháp Le Monde. Không có. Chắc nhà trường đã cấm bày các số
báo đó.
Nhưng tôi vớ được một tờ đăng tin Tổng bí thư
Đảng cộng sản Anh Harry Pollitt sau khi đọc báo cáo này đã bị mù suốt nửa
tháng. Hình như bị là do cái sự thật kinh khủng này.
Một trận bão lớn ập đến. Đại hội XX đã cho một
cái nhìn phê phán không thể dung thứ cộng sản kiểu Stalin. Trong xung đột Xô -
Trung, Đảng vẫn diễn giải là Liên Xô phản phúc, công kích trước nên Trung Quốc
phải công kích lại. Nên biết một khía cạnh khác…
Mao Trạch Đông từ lâu không cam làm anh hai
trong phe. Thơ từ của Mao đã nói rõ khẩu khí. Vung tay lên chia thiên hạ ra làm
mấy cơ mà…
Stalin chết, đây là cơ hội cho Mao đặt lại tư
cách đầu tàu. Mao lợi dụng hậu quả phá phách ghê gớm của Đại hội 20 để công
khai đả kích Liên Xô. Mao biết phần lớn lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa rất
ngại chống sùng bái cá nhân. Cầm quyền không cần tự do bầu cử mà không sùng bái
cá nhân thì có bằng trò đùa!
Đại hội XX họp, đoàn Đảng cộng sản Trung Quốc
đến, Chu Đức cầm đầu nhưng Đặng Tiểu Bình quản tất. Đài phát thanh Liên Xô
phỏng vấn Chu Đức. Trong bài trả lời, Chu Đức dùng công thức chính thức vốn có
về việc giúp đỡ của Liên Xô gồm bốn vế “to lớn, toàn diện, có hệ thống và vô
tư” thì duyệt nó lần cuối, Đặng Tiểu Bình xén chữ “to lớn” đi mà thay bằng “hai
nước giúp đỡ lẫn nhau”. Lần đầu xuất hiện cái thế ngang thưng này.
Ngọn cờ lý tưởng thiêng liêng nhưng tay con
người phất nó lại bẩn. Dưới gầm bàn hội nghị, anh cả anh hai dọt vỡ ống đồng
nhau và ngầm nhắm đàn em lôi kéo.
Khruschev đưa ra ba luận điểm mới toanh trong
Đại hội XX: chung sống hòa bình, khả năng quá độ hòa bình lên chủ nghĩa xã hội
và khả năng ngăn ngừa chiến tranh. Cái gai nhọn chính là ở chống sùng bái cá
nhân nhưng bàn cãi chỗ này thì chả hoá ra tiểu nhân tham vọng quá hay sao? Liền
phất cờ bảo vệ Stalin! Mày chống, tao bênh: Là tao chống mày. Thế là Nhân Dân
nhật báo cắt nghiến đi luôn luận điểm “khả năng quá độ hoà bình lên chủ nghĩa
xã hội”. Khác nào thiếp mời dự cưới chỉ để tên chú rể không có tên cô dâu. Cắt
nó đi ví nó chính là “chủ nghĩa xét lại” phản đối bạo lực cách mạng, đầu hàng
đế quốc. Từ nay phải hâm sôi nồng độ máu hiến dâng cho cách mạng thành chuẩn
mực phân biệt cách mạng với cải lương. Quả nhiên cách hâm sôi máu đã kéo được
khối người sính sùng bái cá nhân đi theo.
Mao chống Khruschev, nhưng Đại hội VIII Đảng
cộng sản Trung Quốc (1956) lại xóa “tư tưởng Mao Trạch Đông” nêu trong Điều lệ.
Rất ức, khai mạc, Mao nói vài câu rồi tếch. Phe bắt đầu rạn, nội bộ mỗi đảng
bắt đầu nứt.
* * *
Một đoàn cán bộ báo Nhân Dân gồm Kỳ Vân, Xuân
Trường, và Hồng Hà (mới ở Cứu Quốc sang Nhân Dân) qua Bắc Kinh để đi Liên Xô
học. (Trên rừng, Thép Mới nói anh đã đưa người em của anh lên Hà Nội làm báo
như thế nào: Con ông cụ - tức Hồng Hà - buôn trầu cau hung quá, cứ ôm cả giỏ tổ
bố thế này ngồi nóc toa đều đặn từ Thanh Hoá ra, tao thấy thảm cho
con ông cụ, mới đưa con ông cụ ra làm báo Việt
Cách của tao ở phố Charon. Mày biết đấy, từ đó con ông cụ quay ra quản tư tưởng
tao, sư nó, ốp ghê lắm…)
Lần đi học này có cả Hoàng Minh Chính, Minh
Việt, phó bí thư thành ủy Hà Nội.
Tôi ra khách sạn Hòa Bình ở phòng Kỳ Vân chơi
với anh em suốt chiều cho tới tận tám chín giờ sáng hôm sau tiễn ra sân ga. Các
thứ chuyện nhưng nổi nhất là sửa sai cải cách ruộng đất và Vanh chem
(vingtième, tiếng Pháp: hạng, thứ 20 - BT) - Đại hội 20.
Kỳ Vân nói Trung Quốc nhất định phải chống Vanh
chem. Gì chứ hoàng đế là không chịu cho ai chống sùng bái hoàng đế. Tôi nói
có khả năng chịu, bằng chứng là Đại hội 8 đã xúp “tư tưởng Mao” đi. Kỳ Vân nói
Mao chống thì ta cũng chống. Trung Quốc làm gì thì Việt Nam làm thế. Mao chịu
sao được dân chủ hoá.
Cả tôi và Kỳ Vân đều sai, đều đúng. Kỳ Vân
đánh giá quá cao yếu tố tiêu cực của Mao, tối quá cao yếu tố tích cực của Đảng
cộng sản Trung Quốc.
Bộ phận tích cực này mười năm sau thua Mao
thảm hại. Thành toàn những “xét lại, đi đường tư bản, phái hữu, phản bội” vào
tù, bị đấu tố và chết. Mao chết, họ lại nổi lên và thay đổi Trung Quốc.
Còn ta theo Mao, thì Kỳ Vân đúng! Tôi chỉ thấy
Hồ Chí Minh, không thay Lê Duẩn lúc ấy đã coi Mao là “Lê-nin của thời đại ba
làn sóng cách mạng”. Tôi lúc ấy chưa thể hình dung ra chuyện Cụ Hồ rồi cũng bị
ngồi chơi xơi nước. Tôi tin tay lái con thuyền Việt Nam không bao giờ tuột khỏi
tay Cụ.
Về cải cách ruộng đất, Kỳ Vân kể một chuyện
làm tôi bàng hoàng. Đúng hơn, kinh hoàng. Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách
ruộng đất Nghệ - Tĩnh, bắc ghế ngồi trên thềm cao chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chắp
tay đứng ở dưới sân dằn giọng:
- Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ
thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi mà mi thì nhất định sẽ chống
lại…
Bà mẹ cắn lưỡi không chết. Ít lâu sau, nhảy
giếng tự tử thành… Chu Văn Biên ký lệnh xử tử bất kỳ ở đâu. Chính hắn sai trói
gô bố đẻ của Phan Đăng Lưu là Phan Đăng Tài, lùa ông cụ vào đòn ống khiêng lên
trại tù rồi sau cụ chết mất xác.
Khi bị khiêng đi, cụ cứ chửi chúng mày khốn
nạn, thằng Lưu kia, mày theo cộng sản để cho đàn em cộng sản của mày đối xử với
tao thế này à? Du kích khiêng ông cụ lại đánh đá ông cụ… À, trong Nghệ có câu
ca:
“Phá đảng lừng danh quân Đặng Thí,
Giết người khét tiếng gã Chu Biên”…
- Biên nay làm gì?
Đề bạt thứ trưởng nông nghiệp. Dù sao cũng
giàu nhiệt tình cách mạng.
- Thế Bác sao?
- Bác thì vãi nước mắt. Nước mắt Bác làm mát
đi các nỗi đau lòng. - Kỳ Vân nói.
Sáng sau tôi tiễn anh em ra ga. Hoàng Minh
Chính là người cuối cùng nắm lấy tay cửa lên xuống nhoài mãi ra lớn tiếng bảo
tôi:
- Cấm yêu là thế quái nào? Đấu tranh đi, đòi
dân chủ…
Chính là người dẫn đội cải cách về đồn điền cụ
Đào Đình Quang, địa chủ kháng chiến, yêu nước, thân sĩ, bố vợ Nguyễn Khánh Toàn
và Đinh Đức Thiện. Đại đoàn 312 của Trần Độ, Lê Trọng Tấn thường xuyên đóng
trên đất của cụ, ăn cơm miễn phí của cụ. Vị thân sĩ treo cổ chết.
Đào Đình Đức, giáo sư bác sĩ, con trai cụ ngậm
ngùi bảo tôi:
- Ông cụ sợ bạo lực mà…
- Không phải, - tôi nói, Ông cụ trốn chạy cái
đáng ghê sợ hơn nữa. Đó là sự tráo trở lật mặt…
Cái tráo trở còn khiến người ta không bao giờ
thấy tội lỗi.
Hoàng Minh Chính không tráo trở nên sau đó đã
bỏ cả đời đòi dân chủ. Có giẫm chân vào bùn mới biết từ đấy tránh bùn.
Đào Đình Đức cho tôi xem tấm ảnh lớn chụp cụ
Đào Đình Quang đứng với Trần Độ, Lê Trọng Tấn và mấy sĩ quan của ban chỉ huy sư
đoàn 312.
- Ông cụ đãi cơm gà cho sư đoàn này nhiều lắm
đây! - tôi nói.
- Thế mới nên tội mua chuộc cách mạng, trốn
đấu tranh giai cấp.
- Vậy thì cương lĩnh đoàn kết địa chủ, tư sản
của Việt Minh năm 1941 là mua chuộc tư sản, địa chủ. - tôi nói - Mua chuộc cách
mạng thì chết, mua chuộc phản động thì sống và có thành tích rồi lên cao…
- Chào anh Trần Đĩnh!
CHƯƠNG 8
ồng tám Tết Bính Dậu 1957, mấy anh và tôi về
nước họp Đại hội Văn nghệ. Đến biên giới chợt thấy rặng núi quan san thấp nhỏ,
còi cọc. Đoàn tàu của ta như đoàn tàu sân chơi vườn trẻ. Cái gì cũng cằn bé, xơ
xác. Người dưng dưng một cảm giác vui buồn lẫn lộn. Quá mạn Sỏi, Mẹt thì thêm
lo âu vơ vẩn. Một người trong đoàn phiên dịch đi cùng xe chợt đến ngồi bên thăm
hỏi. Hỏi đến Hồng Linh. Tôi nói biết. Anh ta liền trở nên bí ẩn pha tí hí hửng:
- Bố là đặc vụ bị ta giết, anh biết không?
Lim, ty công an bổ búa vào đầu đấy…
Nhát búa của anh này làm cho tôi ghê một thì
cũng làm cho tôi ghét anh ta hai. Cái miệng con người ta sao có thể bố cáo vung
lên những nỗi đau của người khác dễ và vui như thế. Tôi bắt đầu coi cái chết
của bố Linh cũng là thảm kịch của mình. Khả năng Đảng bắt tôi cắt quan hệ với
Linh thỉnh thoảng lại nổi lên.
Đến Hà Nội, về nhà Trần Châu, vẫn làm ở Việt
Nam thông tấn xã. Một buồng ba chục mét vuông phanh đôi, nửa bên phải của Vũ
Khiêu, nửa bên trái của vợ chồng Trần Châu.
Cách nhau một ván gỗ dán cao chừng hai mét.
Lúc cơ sở vật chất chưa báo trước hai người sẽ là hai ngả trái nghịch: Châu
chống đảng, lật đổ; Vũ Khiêu ca ngợi đảng, bảo vệ chế độ.
Trong nhà Châu, một bộ ván ngựa cũ kê trên hai
niễng gỗ gầy mảnh tạo thành vật đựng duy nhất trong nội thất: đựng người ngủ,
đựng mâm đũa khi ăn, đựng khách khứa, đựng quần áo chăn màn, sách báo khi không
dùng đến. v.v…, tóm lại rất vạn năng. Tối tối, đứa bé lớn lên ba phụng phịu vần
gối xuống “kềnh cang nào kềnh cang” ngang dưới chân giường - chiều dọc giường
dành cho bố mẹ và đứa em bé mới đẻ. Với nó, ngủ một mình buồn như lính thú lưu
đồn.
Người quen ở rừng gặp lại đầu tiên là Nguyễn
Huy Tưởng.
Đầu bờ hồ, trước nhà Tây Cóc Descours và
Cabaud cũ. Mũ phớt. Mặt cụp xuống rầu rĩ, Tưởng bắt tay tôi, nói mỗi câu:
“Buồn!”
Trong hội trường Nhà hát lớn, một tiếng gọi
rất vuỉ ở sau lưng:
- Đĩnh!
A, Nguyễn Tư Nghiêm, tôi đang rất mong anh.
Nghiêm ngồi một mình trong một “chuồng gà” tôi tối bên trái, gần cửa ra vào chỗ
ngang hông nhà hát. Vẫn cái cảm gíác âm ẩm trên mặt các pho tượng đất miếu
hoang. Tôi vừa vào ngồi xuống, Nghiêm đã nói ngay:
- Mình ra đảng rồi.
- Ố! - tôi kêu lên.
- Phong trào cộng sản tan rồi.
Con mắt nhỏ đăm đăm hiền lành, Nghiêm nói, nhỏ
nhẹ, từ tốn, như ngày nào anh cự tuyệt căm thù mẹ ở trước chi bộ. Miệng khe khẽ
cười như có vẻ chóp chép nhấm nháp một điều gì thú vị.
Tôi buồn lắm nhưng không hỏi, không nói. Tôi
đã có kinh nghiệm. Mới ngày nào chi bộ ép anh làm bậy, anh không theo và cuối
cùng thì đảng đã phải sửa sai. Có điều chẳng chịu xin lỗi hành động đã xui anh
giẫm đạp lên mẹ.
Tôi bỗng nghĩ tới con người thường khuyên
Nghiêm làm cái này cái nọ. Những lúc được khuyên can như thế, anh nhăn nhó, giơ
ngón tay ngắn lên dũi dũi chọc chọc vào thái dương nói:
- Nó bão thế, nó ỡ đây…
Chỉ lần không căm thù mẹ là con người thứ hai
ấy không ra mắt. Chắc lần ra đảng cũng thế.
Năm 1970, một tối ăn uống ở nhà Văn Khuyến,
gần Chùa Tàu Ngô Sĩ Liên có Nguyễn Tư Nghiêm, Văn Cao, tôi và đứa con gái tôi
lên bốn. Bốn người nằm thành bốn con trạch quây con gái tôi và mâm rượu vào
giữa. Nghiêm cười bảo tôi:
- Đĩnh à, chế độ này là capitalisme d ‘Etat -
chủ nghĩa tư bản Nhà nước, một số người thao túng lũng đoạn toàn bộ tài sản đất
nước, cộng sản trá hình thôi, đừng tin họ.
Cùng lúc Văn Cao rầu rĩ bảo tôi:
- Trần Đĩnh à, tao thương mày, lẽ ra tuổi mày
thì đâu đã bạc tóc.
Nghiêm lại giật lấy tay tôi:
- Chủ nghĩa tư bản quốc gia, của thiểu số mượn
danh công hữu mà chiếm hữu quyền lực…
Nghiêm khe khẽ bóp tay tôi. Bàn tay anh đặc
biệt mềm, mát, con mắt lại như cười, như chóp chép nhấm nháp một cái gì hết sức
thú vị. Tôi chợt nhận ra hôm ngồi trong chuồng gà Nhà hát lớn anh đã có ý xâu
chuỗi tôi khi nói: “Mình ra đảng rồi… Phong trào cộng sản đã tan rã…” Anh muốn
tôi đồng hành.
Nhưng tôi không theo anh, tuy mến anh.
Ở đại hội văn nghệ, tôi mong gặp một người nữa
là Lê Đạt.
Thì bỗng một hôm Đạt đến sau lưng, đập vai.
Vẫn cái cười hềnh hệch. À, họp chửi nhau không
văn hoá lắm nên chẳng muốn đến.
- Nghe nói gần Tết vừa rồi cậu bị Tố Hữu triệu
đến nhà ông ấy viết kiểm thảo? - tôi hỏi.
- Viết xong rồi, khai trừ đảng rồi…
- Nghe nói cậu ăn no ngủ kỹ chẳng hối hận gì
cả?
- Thuý vợ tớ cứ nói ông làm ơn trằn trọc đi
lấy một tí cho người ta đỡ phê phán là coi thường người ta có ý xây dựng có
được không? Lên trên này mày.
Chúng tôi lên Nhà Gương vắng tanh. Tôi nói:
- Cho tớ hỏi câu nữa: “Báo chí nói các cậu
phục vụ tư sản, quân sư cho tư sản và ăn uống như tư sản?”
Lê Đạt khuỵu một đầu gối xuống, khuỳnh hai
chân sang hai bên, hai tay thục sâu vào túi quần khẽ kéo nó lên mời tôi kiểm kê
những cái tư sản đắp điếm lên người anh. Tôi liền đỏ mặt. Trong khi tôi com-lê
may bằng tít - xuy Ăng lê ở cửa hiệu sang đường Vương Phủ Tĩnh (đại sứ quán cho
tiền) thì áo bông Lê Đạt tòi mền đã bợt ra, và chân không bít tất xỏ dép râu.
- Nào, nghe thơ thôi nhá? - Đạt đứng đọc liền
mấy bài thơ mới làm.
Rồi lấy giấy bút viết bài “Ghế đá” với dòng
chữ “Tặng Trần Đĩnh và…”
Tôi mang sang Bắc Kinh. Cho anh em xem tờ
truyền đơn của phản động. Sửa cái lỗi đã ngờ Đạt sống như tư sản.
Tôi không nói với Đạt chuyện tôi và Hồng Linh.
Mặc dù lúc này sự kìm kẹp đã lỏng. Đại sứ quán dặn Hoàng Văn Tá, bí thư chi bộ
của tôi dặn tôi giữ gìn, đi chơi với nhau vừa vừa thôi kẻo anh chị em họ lại
phản ánh lên phản đối với đại sứ quán thì rách việc…
Đạt nói:
- Không có ảnh hưởng của Đại hội XX chưa chắc
đã có Nhân Văn - Giai Phẩm.
… Một sáng cà phê với Phan Kế An, Mai Văn Hiến
và Tạ Đình Đề trước Thuỷ Tạ. Đề kể chuyện anh bị đội cải cách treo giò và đi
cày vì đoàn uỷ nghi anh có vấn đề chính trị. Tại sao lại quan hệ với Mỹ? À, Bác
Hồ giới thiệu tôi với Mỹ. Tại sao bắn giỏi? Ai dạy, Mỹ? À, tớ nói, lúc ấy ở với
quân sự Mỹ, cả ngày chỉ có việc ăn và tập bắn súng, đạn ê hề mà họ thì có huấn
luyện. Việc này có Bác Hồ chứng kiến, xin cứ hỏi Bác…
Đề nói Ông Cụ có một khẩu súng lục tướng Mỹ
tặng. Và một ảnh chân dung viên tướng này, có chữ đề tặng cẩn thận, Đề không
nhớ tên. Thật ra là sáu khẩu Colt. Giáp làm một khẩu thay cho quả lựu đạn trước
kia ông vẫn vũ trang ngay cạnh nách. Có nghĩa là hễ chiến đấu vời đến nó là tự
sát luôn.
Thú thật nghe Đề, tôi không tin lắm. Ngỡ là
cách Việt Minh thời đó tuyên truyền cho uy tín Ông Cụ “thân với Mỹ”. Sau này
đọc “Historia và Tại sao Việt Nam” của Patti mới biết có chuyện ấy thật. Cụ còn
khen “tướng quân đẹp như tài tử xi nê”. Khẩu súng và bức ảnh đã thành vật phẩm
triển
lãm lưu động khiến cho Nguyễn Hải Thần, Vũ
Hồng Khanh ngấm ngầm tị và nể. Lúc đó đi với Mỹ là dấu hiệu của tốt đẹp. Bố tôi
làm ở L’ Action - báo Pháp, một hôm rất vui nói máy bay Lightning P38 vẫn bay
trên chiến khu Việt Minh, lính Mỹ dạy Việt Minh quân sự… Tôi sùng bái chiếc máy
bay hai thân óng ánh bạc, hai mũi đỏ chói lao qua Hà Nội như một tia chớp phô
ra cái đẹp soi đường kỳ diệu của khoa học kỹ thuật. Bay khỏi rồi cao xạ Nhật
mới uỳnh uỳnh vuốt đuôi mà tôi nghe thành “ông thua… ông thua…” Thế nên với
tôi, Việt Minh thế là tất cả.
Về nước, gặp bạn bè, tai nghe mắt thấy, tôi
nhìn Nhân Văn - Giai Phẩm khác đi. Năm ngoái, Phan Khôi, Tế Hanh sang dự lễ kỷ
niệm Lỗ Tấn có gặp một số chúng tôi tại Đại học Bắc Kinh.
Phan Khôi phê phán gay gắt sai lầm của Đảng.
Như bản thân bị xúc phạm, tôi đã quạc lại. Và gửi bài thơ đăng trên báo Nhân
Dân “Ánh sáng không đi đường gẫy, vinh quang xưa bắt ta đi con đường ngay
thẳng”.
***
Trở lại Bắc Kinh tôi đi chơi liền liền với
Linh. Mấy lần toan hỏi đến cái chết của ông bố nhưng thương, lại thôi. Nhưng lạ
là ngày tôi càng tin rằng ông cụ bị giết oan.
Tôi theo được cô gái trầm luân từ tám chín
tuổi thơ là nhờ cái gì? Tạng tôi? Duyên nợ? Một nhân tố quan trọng giúp tôi lúc
đó vượt qua chán nản là Đại hội XX. Làn gió dân chủ thổi tới những chân trời
phóng khoáng, giải phóng những ước mơ. Mọi kiểu xiềng xích, cùm kẹp, cấm đoán,
tù túng bỗng đều hoá vô duyên, vô lối tất cả.
***
Đại sứ quán mời tôi nói chuyện “trong nước”
cho một số lưu học sinh ở Bắc Kinh.
Tôi đã nói đến một biên giới nghèo, bé, buồn,
tiêu điều. Nói đến đoàn tàu bé bỏng len giữa những núi non bé bỏng, những sỏi
đá gầy và những lau, những sim mua gầy. Đến con chó gầy sưởi nắng trước một
quán nước bỗng gồng mình ra sức gãi, như cáu kỉnh với thời gian đọng lại ở
chính nó, ở chính chân bà cụ hàng nước này. Đến đứa bé lên ba tối tối đi trấn
ải chốn chân giường, với nó chân giường đã thành “Tây xuất Dương quan vô cố
nhân”.
Nghe xong, Trần Hoạt, học đạo diễn quàng vai
tôi nói:
- Tao nghe mày mà xúc động, rớm nước mắt ra,
thương đất nước quá.
Đời sống chúng tôi ở Bắc Kinh rất eo hẹp. Năm
1955, Cụ Hồ gặp các cháu hỏi: lương các cháu là rút ở tiền nước bạn viện trợ
cho cả nước, vậy các cháu muốn đất nước được nhiều hay ít?
- Bớt lương ạ. - Các cháu hô đánh rầm.
Cụ quay sang Hoàng Văn Hoan:
- Làm theo các cháu nhá!
Cắt mạnh quá. Thiếu ăn, tập nặng, Hồng Linh mờ
cả mắt, nhìn chính con bài Át Cơ mà không nhận ra. Nhà trường phải cho thuốc
uống. Từ đấy, nhà trường giúp chui lưu học sinh múa Việt Nam bằng cách mỗi ngày
cấp cho mỗi người một chai sữa nhỏ không lấy tiền. Còn tôi, khi về nước không
có một thứ gì đựng đồ đạc, trường phải xoay cho tôi một thùng gỗ thông vừa đập
hòm lởm chởm những xước là xước.
Năm 1955, tôi đã muốn thôi học về. Đã bị cấm
thì thà xa hẳn. Nhân Hoàng Tùng dắt một đoàn chủ báo ta sang thăm Liên Xô về
qua, tôi ra gặp chơi và tiện thể nói muốn về nước, Hoàng Tùng bằng lòng. Về khi
nào, về ra sao tôi tự quyết định. Thế nào rồi gặp Đại hội XX và những biến động
trong xã hội Trung Quốc, tôi ở lại.
Hôm tôi gặp đoàn báo, Như Phong gọi tôi ra một
chỗ than thở:
- Tớ bị Hoàng Tùng với đoàn riềng một mẻ đau
quá… Tổng biên tập báo Pravda tiếp đoàn. Tớ thèm thuốc lào từ lâu nhưng không
có điếu bèn hút một điếu thuốc lá họ mời khách. Thế là Hoàng Tùng bảo chi bộ
họp phê phán. Vô lễ với cấp trên là đồng chí tổng biên tập Liên Xô. Ai lại đồng
chí ấy đang chỉ thị với đoàn ta mà lại phì phà phì phèo điếu thuốc ở mồm, làm
như đồng cấp vậy…
Năm 1957, hơn năm chục đảng cộng sản họp ở
Liên Xô. Mao đến và làm một thao tác connotation - hội ý rất tài tình. “Phe xã
hội chủ nghĩa phải có một cái đầu” và tiếp luôn: “Gió Đông thổi bạt gió Tây”.
Tôi đã đùa, hoàn toàn đùa kiểu chơi chữ, dĩ nhiên với thái độ không được cung
kính Mao lắm:
- Nói phải có đầu xong thì đối luôn, đầu ấy
tên là đông… xui bảo thiên hạ coi Mao Trạch Đông là đầu tàu rồi còn gì.
Tôi không biết gần cuối thập niên 50, trong
Đảng cộng sản Trung Quốc bắt đầu tuyên truyền “thuyết trung tâm cách mạng,
chuyển dịch”. Tức là gần như quy luật, chủ nghĩa Mác chuyển dần sang phía Đông.
Thế kỷ XIX chủ nghĩa Mác ra đời ở Đức, nửa đầu thế kỷ XX chuyển dịch sang Nga,
sau khi Stalin qua đời thì sẽ chuyển dịch sang Trung Quốc. Lãnh đạo giương cao
ngọn cờ Mácxít - Leninnít, phê phán chủ nghĩa xét lại Khrushev là đồng chí Mao
Trạch Đông sẽ hoàn thành sự chuyển dịch này. 1963, Lê Duẩn chính thức thành văn
chuyển Mao lên thành Lê-nin.
Nhưng dẫu gì thì xã hội Trung Quốc cũng đang
trải rất nhiều chấn động. Ai ngờ nổi đảng bỏ tư tưởng Mao trong Điều lệ, tức là
một bộ phận đã thấy cần chống sùng bái Mao, cần mở xã hội thoáng hơn.
Chẳng hạn một hôm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân đến
Bắc Kinh đại học nói chuyện với cả nghìn sinh viên. Bọn tôi nghe.
Các mẩu câu hỏi, thắc mắc của sinh viên tới
tấp truyền tay nhau đưa lên trên bàn Chu Ân Lai. Đến một mẩu, ông đọc to: Trung
Quốc nghèo, dân Trung Quốc đói, sao cứ phải giúp Việt Nam?
Tôi thật tình xấu hổ. Sinh viên Trung Quốc đòi
chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước đông đủ các nước, nhất là trước sinh viên
Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra hành lang tụng kinh giập đầu thình thình
xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu Ân Lai không ỉm đi? Tôi hơi ức.
Chu Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng thắn. Viện
trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế nhưng có lợi cho Trung Quốc: nên đẩy chiến
tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc hay để cho chúng nó áp sát bên cạnh?
Vụt hiện ra hình ảnh ngày niên thiếu: các dịp
lễ lớn, cửa hàng lớn thường thuê du côn bảo vệ chống dám du côn khác… nhưng lại
vội gạt đi ngay, mặc dù trong lòng rất ớn, xấu hổ.
Cái ngượng này lớn hơn cái ngượng năm 1953 tôi
đã trải trong cuộc họp kiểm điểm giữa quân chí nguyện ta và Pathét Lào do Phumi
Vongvichít cầm đầu. Bạn phê bình ta “khinh bạn”, “bắt nạt”, “nước lớn” v.v…
(một tiểu đoàn trưởng của ta cưỡi ngựa đi, gần năm cây số nhớ ra đã bỏ quên
điếu cầy - kỷ niệm của bạn bè trong nước - thế là bắt anh cần vụ Lào chạy về
chỗ vừa bỏ đi để lấy bằng được điếu cầy đem lại) nhưng đến vấn đề này thì tôi
ngượng nhất: bạn đề nghị được nhận viện trợ thẳng từ Trung Quốc, Việt Nam cũng
như Lào thôi mà, đứng ở giữa làm người phân phát làm gì cho phiền phức cả ra.
Rõ ràng là Lào sợ ta ăn hớt. Có khi còn muốn
bung khỏi khối Việt-Miên-Lào để chơi hẳn với Trung Quốc.
Cụ Hồ giải thích: Liên Xô, Trung Quốc đã quyết
định như thế thì Lào và Việt Nam cứ như thế.
Tôi lại nghĩ Lào quan hệ thẳng với Trung Quốc
đã sao. Chưa biết ta cũng cần phên giậu che chắn, cần đất của người để làm
đường, mở căn cứ đóng quân. Vả chăng có làm cầu thì ta mới vào cầu…
Bây giờ nghe sinh viên Trung Quốc đòi mặc kệ
Việt Nam, tôi thật muốn chui xuống đất. Lưu học sinh các nước đầy ra kia…
Một hôm tôi bắt gặp cô con gái nguyên soái Hạ
Long, Hạ Tử Trinh gì đó, nhỏ nhắn, xinh đẹp, đứng bên đường trong campus, gần
túc xá cô nói hơi gắt giọng:
- Song nên chung sống hoà bình, không nên
chiến tranh. Bu shi wei le dang bing er jen men chu sheng. Người ta
không phải sinh ra để làm lính. Cô đã vượt sông Áp Lục - ít nhất con cái các
ông to Trung Quốc đều nếm bom đạn thật ở chiến trường. Bố cô đã bị lôi ra gọi
là “tên thổ phỉ hai tay hai con dao bầu” rồi bức chết trong Cách mạng Văn hoá.
Chồng cô, giáo viên sử, bỏ cô vì bố cô là xét lại phản động đi đường lối tư bản
(tức kinh tế thị trường). Bây giờ cô chuyên sưu tầm tài liệu về những người bị
đàn áp tàn khốc và chết tủi nhục trong cái phong trào điên loạn do lãnh tụ gây
nên.
***
Cuộc sống đòi Đảng phải có biến pháp. Đảng bèn
ra nghị quyết chỉnh đảng.
Đăng trân trọng trên các báo. Chỉnh đảng lần
này là một cuộc “thiêu cháy đảng”. Thiêu cháy cho đảng được tái sinh như con
phượng hoàng trên đống tro tàn trong huyền thoại. Đảng kêu gọi toàn đảng toàn
dân hãy thẳng thắn vạch trần mọi sai lầm, khuyết điểm của đảng ra. Thiêu đảng
là yêu đảng. Càng yêu càng thiêu.
Đề ra “năm cái khí” phải xoá: quan khí (quan
liêu, khinh dân), mặc khí (bàng quan, mặc kệ mẹ nó), mộ khí (uể oải chợ chiều)
và hai khí nữa tôi không nhớ.
Đảng lập tức phát động ở khắp hang cùng ngõ
hẻm một cao trào dân chủ nói thẳng, nói thật. Lập diễn đàn cho ai ai cũng lên
nói được. Nói chưa thoả thì viết báo chữ to dán đầy các bức tường. Hết chỗ dán
- dán chồng, dán đè lên nhau dầy tới cả đốt tay - thì dán xuống đất…
Bắc Kinh đại học lại đi đầu trong cao trào
thiêu đốt đảng. Một sinh viên vật lý chứng minh bằng phương trình x, y, z sự
phá sản không thể cứu chữa của chủ nghĩa Mác-Lê…
Nhân Dân nhật báo “không” kém ai. Dành hẳn
trang nhất cho các ý kiến đòi đa đảng, chia quyền lãnh đạo đất nước như ý kiến
của La Long Cơ, Trương Bá Quân, người đứng đầu một đảng dân chủ. Bảo giai cấp
công nhân có sứ mạng lãnh đạo là vô căn cứ, giai cấp tư sản cũng phải được lãnh
đạo… Một bài báo nói trắng ra ngày xưa Quốc Dân Đảng bỏ tù, xử bắn cộng sản
Đảng là đúng vì luật pháp đề ra là phải trừng trị những người phá rối trật tự
xã hội. Đáng chú ý bài “Tôi căm thù, tôi lên án” của nhà viết kịch Ngô Hàm đả
Chương Bá Quân, La Long Cơ, ông này trí thức ở Mỹ về từng nói chúng ta đại tri
thức đã bị đám ít trí thức lãnh đạo. Tám năm sau, hiểu chân tướng đảng, Ngô Hàm
viết kịch bênh Bành Đức Hoài, chống Mao và bị thủ tiêu vì tội ở trong nhóm phản
cách mạng “Thôn ba nhà” gồm Đặng Thác, Liêu Mạt Sa, nhà thơ và ông.
Báo đảng đăng một bài của Trần Kỳ Thông, cục
trưởng tuyên huấn Giải phóng quân, tác giả của vở kịch “Thiên sơn vạn thuỷ”
đang nổi tiếng phản đối các ý kiến đòi đa đảng, chia quyền lãnh đạo. Thì hôm
sau báo đăng ngay một bài bác lại. Đồng thời thông báo nghị quyết phê bình Trần
Kỳ Thông đã dội nước lạnh vào hùng khí quần chúng đấu tranh thiêu đảng. Ông đã
bị giáng cấp xuống còn thiếu tướng. Ai dám nghĩ ông là chân gỗ?
Cả tháng sôi sục thiêu đảng như vậy. Xem vẻ
ngọn lửa này không bao giờ nguội được nữa. Một báo chữ to ở Bắc Kinh đại học
viết: Chỉ cần Lão Vương hạ đài là Trung Quốc lại thanh thiên bạch nhật. Thanh
thiên bạch nhật còn hàm ý chỉ lá cờ của Trung Hoa Dân Quốc.
Tôi thật sự sống những ngày hội tưng bừng dân
chủ.
Không ngờ là một canh bạc bịp quy mô quốc gia.
Cú lừa lịch sử… Nhưng cú lừa đập vào mặt tôi và giúp tôi dần tỉnh lại.
CHƯƠNG 9
ột sáng Nhân Dân nhật báo ra xã luận: Đến lúc
rồi! Shi shi hou le!
Lúc gì?
Lúc trấn áp, nghiền nát, đập tan bọn “hữu
phái” đang điên cuồng chống phá Đảng cộng sản, mưu mô đưa Trung Quốc quay ngược
trở lại con đường tư bản phản động.
Dài hơn gấp ba, xã luận hôm sau mới nói rõ hết
đầu đuôi. Phái hữu đã lợi dụng thiện chí chỉnh đảng, trăm hoa đua nở, trăm nhà
đua tiếng của đảng để lật đổ đảng. Chúng là lũ rắn độc, cỏ dại. Chúng nói đảng
bày mưu lừa người.
Đúng! Mưu thật. Nhưng không phải âm mưu mà là
dương mưu vì mưu này bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Không có mưu sao nhử được rắn
độc, cỏ dại chui ra, ngóc lên mà tiêu diệt chúng chứ?
Đảng đề tỷ lệ 5 % đảng viên là phái hữu. Họ là
những người lãnh đạo đã chấp hành nghị quyết chỉnh đảng mà cho mở báo chữ to,
diễn đàn dân chủ để “thiêu đảng”.
Họ là những người đã bắt đầu do dự thì giật
mình thấy Trần Kỳ Thông bị kỷ luật giáng cấp vì dội nước lạnh vào tinh thần đấu
tranh của quần chúng cho nên lại vội ra sức lãnh đạo quần chúng đẩy mạnh thiêu
đảng lên một nấc nữa.
Hàng triệu người đã bị chết, tù, lầm than
trong cuộc đàn áp. Biết bao gia đình tan nát.
Sóng thần nổi lên dữ dội trong giới văn học
nghệ thuật. Điêu linh những Ngãi Thanh, nhà thơ theo trường phái Apollinaire
với tập thơ “Đuốc” cùng thời “Nữ thần” của Quách Mạt Nhược, Đinh Linh, Phùng
Tuyết Phong, Ngô Tổ Quang…
Một chuyện làm xúc động và kính phục: Tân
Phụng Hà, nghệ sĩ lớn Bình kịch, ngang tầm với những Mai Lan Phương bậc nhất
Kinh kịch và Hồng Tuyến N, bậc nhất viết kịch tuyên bố từ bỏ hết các danh hiệu
đảng đã khoác lên bà như đại biểu Quốc hội…, từ bỏ hết để cam chịu cùng tội hữu
phái với chồng bà, nhà lý luận sân khấu lớn Ngô Tổ Quang. (Nhưng một tài liệu
sau này tôi đọc lại nói Trương Khiếm, người đóng Hồ Điệp phu nhân trong vở ca
kịch cùng tên lừng tiếng là vợ Ngô Tổ Quang).
Mao vạch mặt tổ chức “chống đảng Chương Bá
Quân - La Long Cơ”. Chương Bá Quân, bộ trưởng Giao thông, chủ tịch Đảng Dân chủ
Công Nông; La Long Cơ, bộ trưởng Lâm nghiệp, Phó chủ tịch Đồng Minh Dân Chủ,
lãnh tụ tinh thần của trí thức ở Âu Mỹ về nước. La Long Cơ có một câu làm Mao
tức tối: “Tiểu trí thức của chủ nghĩa Mác-Lê lãnh đạo đại trí thức của tiểu tư
sản. Thằng mù dắt thằng sáng đi”.
Phải nói tôi thích ông trí thức này không bằng
các đảng viên cộng sản thiêu đảng. Vẫn ngờ động cơ các ông.
Mã Dần Sơ, nhà kinh tế học tên tuổi và hiệu
trưởng của chúng tôi cũng bị lôi ra là “rắn độc”. Ông đã phê phán lời kêu gọi
của Mao cho rằng Trung Quốc càng đẻ nhiều càng tốt vì người là tư bản quý báu
nhất, vì Trung Quốc phải tiến lên bằng các đại công trường thủ công nên càng ăm
ắp người càng tốt. (Những năm 70, Lê Duẩn đề ra đại công trường thủ công và hợp
nhất tỉnh, huyện cho đông sức chân tay là dựa vào ý Mao). Ông già Mã Dần Sơ bị
đưa đi cải tạo ở đâu tôi không rõ.
Qua mấy tháng vờ dân chủ để khều rắn kể trên,
tôi dần thấy thì ra mình cũng “rắn độc”. Chỉ là không bị nhử và không có chỗ
chui ra thôi. Phải chờ sau khi về nước nó mới lôk mặt.
***
Một chuyện xảy ra với tôi trong lúc báo chữ to
đang rầm rộ. Câu chuyện tôi giấu mãi.
Bữa ấy tôi đang đọc báo chữ to gần Da Xan Ting
- Đại thiện đình (Nhà ăn lớn). Một sinh viên Trung Quốc đến bên tôi. Trắng,
đẹp, kính trắng, mắt hiền.
- Xin lỗi, anh là lưu học sinh Việt Nam?
- Vâng, còn anh ala Thượng Hải? (ala tiếng
Thượng Hải là chúng ta, chúng tôi).
- Tôi là… (anh nói tên nhưng tôi không nhớ),
muốn nói chuyện một ít với anh, có được không?
Anh nhờ tôi chuyển cho sứ quán Việt Nam một
thư đề nghị Bắc Việt Nam hãy tôn trọng hiệp định Genève, đình chỉ đưa quân và
vũ khí vào trong Nam cũng như rút lực lượng đã phi pháp cài lại từ 1954.
- Làm gì có chuyện ấy nhỉ?
Hoàn toàn bị xúc phạm, tôi vừa ngớ ra ngạc
nhiên vừa khó chịu. Anh đốt đảng anh thôi chứ lại định đốt cả đảng tôi nữa ư?
- Có, đài nước ngoài thường xuyên lên án, tố
cáo Bắc Việt Nam.
- Sao anh tin những thứ ấy?
- Đọc các đại tự báo đây anh có tin không?
Tôi quay đi và nói:
- Tôi không chuyển thư anh được vì bận và vì ý
kiến của anh thiếu cơ sở.
Nhưng từ hôm ấy, tôi bỗng cứ lởn vởn nghĩ ta
có vi phạm hiệp định Genève thật không? Chả lẽ ta chính nghĩa lại bội ước? Chả
lẽ bản chất ta hoà bình lại thích chiến tranh?
Lúc ấy thật tình tôi không biết đảng có phương
án kế hoạch cài cán bộ và quân lính ở lại miền Nam cũng như tiến hành nghiên
cứu ngay từ đầu hình thế bờ biển để sau này lập “đội thuyền không số” có cơ sở
ở huyện Thuỷ Nguyên. v.v…
Lúc ấy đâu đã đến ngày, thí dụ 24 tháng 5 năm
1962 để tôi họp trưởng phó ban của báo Nhân Dân mà ghi vào sổ tay sự việc dưới
đây: Chính phủ Diệm gửi công hàm đi 72 nước đề nghị lên tiếng phản đối Việt
Cộng ngày một mở rộng hoạt động lật đổ (lúc đó Cà Mau đã thành vùng giải phóng)
thì Anh quốc và Sihanouk hưởng ứng sớm nhất. Anh quốc quy trách nhiệm cho Hà
Nội vi phạm hiệp định Genève, Sihanouk thì yêu cầu mở hội nghị quốc tế giải
quyết vấn đề miền Nam để đất nước ông được yên. Nhưng Liên Xô, uỷ viên thường
trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và nước ký vào hiệp định Genève, lại đổ hết
trách nhiệm cho Ngô Đình Diệm, quyết giữ hình thái hai bên Quốc-Cộng “trùm chăn
đánh nhau” chết thôi bên trong lãnh thổ miền Nam theo đúng ý đồ miền Bắc.
Canada và Ấn Độ trong Uỷ ban Kiểm soát Quốc tế đã ra nghị quyết riêng lên án Hà
Nội vi phạm hiệp định Genève.
Thế là báo Nhân Dân nổ xã luận đả kích dữ dội
họ. Phản ứng lại, Canada doạ rút khỏi Uỷ ban vì ta bảo họ “đứng đằng sau Mỹ” vu
cáo miền Bắc. Ấn Độ thì bị xã luận bôi cho một câu lăng mạ: “không xứng đáng là
Chủ tịch Uỷ ban quốc tế…”. Sau đó, hưởng ứng xã luận, dân nhiều nơi mít tinh đả
đảo Canada, Ấn Độ.
Lê Duẩn phải dặn dò nên chú ý lời lẽ đả kích
Anh và Ấn Độ. Cung bậc theo ông đại khái là chính phủ thì ôn hoà, báo đảng có
thể cao giọng đôi chút còn ngoài ra, các báo khác tha hồ được nặng lời với hai
uỷ viên quốc tế “bênh Mỹ - Diệm”. Liều lượng phân bổ đòn ngôn luận này đã vào
cẩm nang.
Nhân nhắc đến Lê Duẩn thời gian này, xin kể
tiếp một việc cũng vào sổ tay tôi lúc ấy. Ban văn hoá của báo cho biết anh Lê
Duẩn quan tâm đến đời sống dân lắm. Anh đã hỏi kỹ anh Phạm Ngọc Thạch rằng một
bát cơm ăn với rau muống luộc có khác một bát cơm ăn với rau muống xào không.
Khi nhờ phân tích khoa học cao siêu, (tôi ngứa tay thêm mấy chữ này vào đây)
biết là có khác nhau… “cơ bản” thì anh Duẩn đã chỉ thị hãy cố sao cho “về cơ
bản” dân ta được ăn nhiều rau muống xào mà “cơ bản” bớt luộc đi. Nói “về cơ
bản” vì phấn đấu cho có thêm mấy triệu thìa mỡ mỗi ngày “về cơ bản” không dễ!…
Tôi nghĩ ngay việc gì phải Phạm Ngọc Thạch nghiên cứu, cứ bày lên bàn ông Duẩn
hai dúm cơm, một rang mỡ, một không là kiến nó cho ý kiến nó ngay không phải
chờ Phạm Ngọc Thạch chỉ thị cho ngành y tế.
Nhưng xin trở lại chuyện diễn ra ở Bắc Kinh.
***
Tuần sau tình cờ tôi gặp anh “Thượng Hải” ở
gần Đại lễ đường. Anh đi với một cô gái trăm phần trăm Shang hai gu
niang, Thượng Hải cô nương. Cô gái nhìn tôi như có ý hỏi anh bạn đi bên:
“Cha từ chối đưa thư đấy phải không?”
Không nghe thấy nhưng tôi cáu - đinh ninh cô
gái nói nei jia huo, thằng cha kia. Cùng lúc thấy cô gái rất đẹp.
Picasso có lẽ lấy mẫu kiểu tóc đuôi ngựa ở cô gái thanh tú này.
Chẳng hiểu sao tôi rẽ ngoắt luôn. Tức. Không,
có cả ghen vớ ghen vẩn.
Khi chống phái hữu, nhiều giáo sư, sinh viên
bị đưa đi, tôi có ý tìm anh “Thượng Hải”. Không thấy nữa. Nghĩ cô gái Thượng
Hải nếu không xuống nông thôn lao động cải tạo - để bị người ta cưỡng hiếp,
chửa hoang và treo cổ chết - thì chắc phải bỏ học và bỏ cái đuôi ngựa “văn hoá
đồi truỵ phương Tây”, tôi bỗng bồn chồn cùng ân hận lạ lùng.
Tôi chưa hiểu với tôi những ông thày sống động
đầu tiên chỉ ra con đường và cách thức đấu tranh cho dân chủ chính là làn sóng
“phái hữu” trong đó có anh sinh viên cùng cô bạn gái xinh đẹp của anh. Sau này
trong gian nan phải chịu đựng tôi mới nhận ra hình ảnh của họ càng đậm nét
trong tôi. Nhưng tại sao anh sinh viên đeo kính trắng lại chọn tôi để nhờ
chuyển thư phản đối ta “phạm pháp” đưa súng ống, binh lính vào Nam? Anh đọc
thấy gì ở trên mặt tôi. Một hừng sáng nào đó ư? Một kiểu Nàng Kiều với Đạm Tiên
ngày Thanh Minh.
Tôi còn một bạn học, người Nam Kinh. Lúc “phái
hữu” lên tiếng, anh từng bảo tôi:
- Chắc cậu cũng biết truyện “cô gái quàng khăn
đỏ?” Chúng ta đấy. Cũng quàng khăn đỏ cả mà. Hỏi bà ơi, tại sao tai bà to thế?
Bà nói: Để bà nghe thấu bọn phản động chúng nó thì thào. Thế sao mắt bà sáng
thế? À, sáng mới thấy được chỗ chúng nó ẩn nấp. Còn răng? Sao răng bà to thế?
Răng bà to để ăn thịt những đứa khoẻ thắc mắc về bà… như cháu. Ăn luôn.
Tôi hỏi anh:
- Người Trung Quốc nghĩ như cậu có nhiều không?
- Zen ma shuo ya? Nói sao
nhỉ? Một nửa đi. Nhưng nửa kia có loa ở mồm và có súng trên tay.
CHƯƠNG 10
è 1958, tôi đi thực tập ở Thẩm Dương hay Phụng
Thiên, Moukhden, kinh đô gốc của tộc Mãn và cũng là kinh đô vua bù nhìn Phổ
Nghi thời Nhật. Cơ địa công nghiệp nặng từ thời Nhật, nó đang được Liên Xô giúp
xây dựng nhiều nhà máy rất hiện đại. Tôi đến phỏng vấn nhiều nhà máy cơ khí,
điện cơ, gang thép, săm lốp xe tải, nhà máy chế tạo thiết bị điện, dây điện
thật sự nằm trên một nhà máy đồ sộ thứ hai nữa ở ngầm dưới đất phục dịch nó…
Hôm đầu tôi xuống nhà máy, một chị biên tập
viên của Thẩm Dương nhật báo dẫn đi. Chị rất u uẩn, tuy cố giữ vẻ bình thường
trước mặt người nước ngoài là tôi. Tôi dần hiểu.
Chồng chị, một trưởng ban của báo đã bị bắt đi
cải tạo. Anh “dung túng cho phái hữu chống đảng”. “Tôi nghiêm chỉnh tổ chức và
động viên quần chúng thiêu đảng là làm theo nghị quyết đảng”, - anh nói. Thế
đảng bảo anh lật đổ đảng anh cũng lật sao?”, - đảng kết luận. Và anh đi đâu vợ
anh lúc ấy vẫn chưa biết. Tất cả các trưởng ban của báo này và nhiều cây bút
khác đã bị như chồng chị. Những con tốt đảng thí trong ván cờ tìm cỏ độc, rắn
độc…
Không hiểu sao tôi cứ thấy như có lỗi với chị
biên tập viên dẫn đường. Tôi biết bi kịch của chị mà không dám một lời an ủi.
Tôi đã buộc chị
phải chui ra khỏi con kén nó che chở nỗi côi
cút kinh hoàng của chị để nói lên những lời nhạt nhẽo với guo ji you
ren, quốc tế hữu nhân, bạn bè thế giới… Bạn bè thế giới thì mang lại được
gì cho chị? Đám đã đến đây thực tập thì chắc cũng một giọ thừa sức bày mưu tống
giam đồng chí.
Nhưng chồng chị và chị cũng cộng sản mà? Nghĩ
lắm nhức đầu, tôi chọn mũ ni che tai, coi như không có chị… Rất lạ là sau sự
kiện vạch tội bạo chúa Stalin rồi nay bạo chúa Mao kinh hoàng đến thế mà tôi
vẫn một niềm tin chủ nghĩa!
Thì cũng không hiểu sao ở Thẩm Dương - phải
chăng vì ở ngang vĩ tuyến với Triều Tiên? - mà tôi thường hay lên đứng trên sân
thượng tức tầng thứ mười hai của Thẩm Dương nhật báo nhìn trời, hình dung vẩn
vơ tới chiến tranh Triều Tiên và Kim Ki Hoan, sĩ quan Triều Tiên, bạn cùng lớp.
Kim Ki Hoan cục cằn nhưng rất ngay thẳng. Có hai điều ở anh mà mãi tôi không
sao hiểu. Một là khi nghe tôi nói - đúng với ý đảng - Pháp đánh trước nên Việt
Nam mới phải kháng chiến, anh liền cáu, “sao để chúng nó đánh trước? tha
ma tì, - mẹ nó, bên tao, thình lình ba sư đoàn tràn xuống, phải giành chủ
động chứ, chúng ta là cách mạng mà, chẳng mấy chốc chỉ còn lại có mỏm Pu San… tha
ma tì, - mẹ nó, Mỹ nhảy vào… không thì nẫng ngon miền Nam rồi… Chúng nó
vào, chúng tao phải rút, lệnh là huỷ hết mọi thứ để cho không còn dấu vết lính
Bắc, đứa nào cũng chỉ còn có cái xan jiao ku, - khố ba cạnh
(tức slip)…, tha ma tì, mẹ nó, Saber Thần Kiếm nó bay dưới cả dây
điện cao thế để bắn… Liên Hợp Quốc chúng nó vào… Nhưng cũng hả, đánh những bảy
tám nước…
- Quân chí nguyện Trung Quốc thế nào, tôi hỏi?
- Sang nhiều thì lại khoẻ ngủ bậy với gái
Triều Tiên. Gặp người Triều Tiên mày đừng nói tới Quân chí nguyện…
Mãi sau tôi mới biết Bắc Triều Tiên không nhắc
tới Chí nguyện quân. Sợ làm nhụt tinh thần Juchi, Chủ thể, nghĩa
như tự lực ở ta. Tất nhiên Kim Ki Hoan và tôi đều không biết Stalin đã bật đèn
xanh cho Bắc Triều đánh. Tăng tiền viện trợ lên, cử cố vấn sang đông gấp bội -
tính cứ 45 lính Bắc Triều là có một cố vấn Liên Xô. Tướng Liên Xô Vassiliev đã
đặt kế hoạch chiếm gọn Nam Hàn trong vòng một tuần, từ 22 đến 27 tháng 6-1950.
Lên lớp Hán ngữ hiện đại, nghe giảng tiếng
Trung Quốc hay, đẹp, ảnh hưởng tới nhiều ngôn ngữ, thí dụ (ảnh hưởng) Việt Nam
70 %, Triều Tiên, Nhật Bản 75 %, Hoan ngồi cạnh tôi cứ khua cá giầy loẹt quẹt,
mắt lừ lừ liếc nhìn tôi (tranh thủ đồng minh) còn mồm thì lạu bạu:
- Tha ma tì, lúc thi tao sẽ nói
không hay, không đẹp, không ảnh hưởng tới tiếng Triều Tiên gì hết…, quẹt quẹt
quẹt… tha ma tì!
Tôi đã có lúc ngờ lòng yêu nước của mình yếu
hơn Kim Ki Hoan. Nghe nói 70% tiếng Việt là thuổng của tiếng Hán tôi lại thấy
ông cha mình nhịu mồm cho thành ra hàng lô giỏi quá.
Điều thứ hai thuộc về sinh học. Kim Ki Hoan
một hôm bảo tôi:
- Bên tao có tục ngữ cứ nom miệng người đàn bà
là biết cái bên dưới của người ấy ra sao.
Tôi ngẩn tò te thì Kim nói tiếp:
- Hai cái ấy rất giống nhau, tha ma tì,
đúng lắm đấy (!!!)
Càng ngẩn ra, tôi nói:
- Tao thể nghiệm làm sao được chứ?
Ki Hoan lườm tôi:
- Cái ấy phải tự mày lo! Định nhờ tao giúp nữa
à?
- Ở đâu?
- Zhe ge jia huo, cái thằng này.
Không đây thì đâu?
Ít ra cũng thấy người Triều Tiên thẳng thắn,
chả vờ vịt. Và dâm hơn Việt Nam.
Xong thực tập trở về Bắc Kinh.
Trong nước đang đánh Nhân Văn - Giai Phẩm vòng
hai.
Năm ngoái dẹp hai tờ báo của nhóm này ngỡ đã
xong nhưng nghe nói Chu Ân Lai có sang phổ biến kinh nghiệm chống phái hữu nên
ta lôi ra đánh lại. Mang ra toà. Dính cả đến “gián điệp”. Sau này Lê Đạt bảo
tôi Đảng cộng sản Pháp có nói với ta gián điệp này là cảm tình của đảng.
Lộ dần ra hình thái hai biên đội Trung - Việt
chắp cánh bay cùng nhau trong vòm trời chuyên chính. Hai biên đội bám nhau như
bóng với hình. 1957, Bắc Kinh chống phái hữu, Hà Nội chống Nhân Văn - Giai
Phẩm. Mười năm sau, 1967, Bắc Kinh Cách mạng Văn hoá, tiêu diệt bọn xét lại đi
đường tư bản, tống giam Chủ tịch nước và Tổng bí thư hay Khruschev thứ nhất và
thứ hai của Trung Quốc, Hà Nội chửi xét lại Liên Xô, bỏ tù xét lại nội địa.
Chưa đến mức tống giam hại chết nhan nhản như nước anh em nhưng cũng làm lao
đao liểng xiểng khối người.
Tả khuynh duy ý chí là bệnh gốc của cộng sản,
đặc biệt cộng sản kiểu Mao. Cải cách ruộng đất là lần tả khuynh duy ý chí ở quy
mô kinh hoàng ở Việt Nam thế nhưng hình như chúng ta không rút bài học. Nếu rút
thì sau những Chống phái hữu, Tiến vọt, Gang thép, mâu thuẫn Trung - Xô…, đến
1963-1964, Lê Duẩn đã không viết “Mấy vấn đề quốc tế và Đảng ta”, coi Mao - chứ
không phải Hồ Chí Minh - là Lê-nin của thời kỳ ba dòng thác cách mạng Á - Phi -
La toàn thế giới tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội…
Một biểu hiện điển hình của duy ý chí tư tưởng
nước lớn là “Con đường Trung Quốc” mà báo Trung Quốc bắt đầu nói tới. Nó ra đời
ở Hội nghị trung ương họp tại Bắc Đới Hà, sau khi Mao thị sát chớp nhoáng những
công xã nhân dân mới mọc, những lò cao gang thép mới dựng, những “sáng kiến vĩ
đại” của dân mà đảng thấy là quá thiên tài nên đã tổng kết lại thành đường lối.
Từ quần chúng ra lại trở về quần chúng là thế. Đề cao “con đường Trung Quốc” là
cố đả phá con đường Xô viết.
Thời gian này Khruschev bất thần đến Bắc Kinh.
Mao hí hửng nói trước với Lý Chí Toại, bác sĩ riêng của Mao:
- Tôi sẽ cắm vào mông cha này một cái kim thật
là dài.
Lý kể như thế trong hồi ký “Đời tư Chủ tịch”
ông viết cuối những năm 1980 vén lên biết bao bí mật xấu xa của lãnh tụ.
Cây kim thật dài cắm ngay lập tức khi
Khruschev đến. Trái nghi thức thông thường, Mao đón ông ta ở bể bơi có mái của
Mao trong Trung Nam Hải. Sai lấy xịp (quần tắm) cho Khruschev rồi cả hai bồng
bềnh dưới nước chuyện trò đại sự. Khác hẳn Khruschev đón tiếp Mao linh đình
trọng thể ra sao năm 1957. Lần này Khruschev sang vì ngại Mao đánh Đài Loan sẽ
nổ chiến tranh với Mỹ. Biết thóp, Mao cân não lại.
Trước một đồng minh háo đánh Mỹ như Mao, Liên
Xô bèn cố thuyết phục bằng vi thiềng lợi ích vật chất. Đề nghị: 1) Lập một đài
phát sóng cực mạnh hai nước cùng dùng nhưng đặt ở trên đất Trung Quốc; 2) Lập
một hạm đội hỗn hợp Xô - Trung cùng bảo vệ vùng biển hai nước; 3) Trung Quốc
khoan giải phóng Đài Loan.
Mao nhận hai khoản trên nhưng không chịu hoà
bình với Đài Loan:
- Các đồng chí chớ can thiệp vào sứ mệnh
thiêng liêng của nhân dân Trung Quốc.
Mao biết chạy đua vũ trang quá bở hơi tai,
Khruschev muốn kéo Trung Quốc vào cuộc hoà hoãn với Mỹ. Nhưng Mao lại có chủ
định của Mao. Không thể hai phe mà phải tam quốc hiện đại. Trong khi chưa thành
tam quốc mới được thì mở ra ba thế giới - các nước không liên kết. Ta không cầm
cân nảy mực cho các ngươi thì thôi chứ lại?
Khruschev cũng khuyên chớ nên làm công xã nhân
dân nhưng Mao bảo đó là con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản đặc thù của Trung
Quốc. Ý nói con đường các cậu sai rồi không lên được chốn đó đâu. Một dạo ở ta,
chiểu tinh thần Mao, Lê Duẩn nói nếu Việt Nam có sức sản xuất như Liên Xô thì
đã cộng sản đứt đuôi từ lâu. Ở Liên Xô, chế độ lương cách xa nhau quá đã ngăn
cản tiến lên cộng sản. Duẩn khoe ở Việt Nam lương Tổng bí thư với lương cơ bản
hơn nhau có mấy chục đồng! Có sức sản xuất như Liên Xô, Việt Nam đã cộng sản từ
tám hoánh!
Nay mới thú thật. Lúc ấy tôi đã ngầm cho một
câu: “Tổ sư bốc phét!”
Thất bại, Khruschev về nước sớm trước mấy
ngày.
Hội nghị trung ương Bắc Đới Hà liền họp. Ra
đời Tổng lộ tuyến mà ta mượn chỉ một mẩu là “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” và thực tế
hoá ra “hiếm, chậm, tồi, đắt”.
Ba ngọn cờ hồng là: đại nhảy vọt, gang thép
nhân dân và công xã nhân dân. Mao có ý bao cấp cả cho toàn dân, xoá bỏ chế độ
lương bổng - trong quân đội xoá bỏ lon gù, nhất loạt một mẩu phù hiệu đỏ - đúng
như chế độ cộng sản các tận sở năng các tận sở nhu, cái mà Khruschev gọi là
“chủ nghĩa cộng sản mặc quần đùi”.
Công xã nhân dân công hữu hoá búa xua hết mọi
tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, nồi niêu, xoong chảo, thau chậu, phích
nước nóng… Ra đồng làm, tới bữa tối thì đến nhà ăn tập thể lĩnh phần cơm và
phần nước nóng ngâm chân rồi toàn gia ăn uống, bế bồng, ôm ấp, mai lại ra đồng
từ sớm. Trẻ con vào nhà trẻ, người già vào nhà dưỡng lão. Có công xã lập trại
con gái riêng, con trai riêng, vợ chồng tháng tháng gặp nhau ăn nằm theo lịch
công
xã đặt, tuỳ theo độ tuổi mà dầy thưa khác
nhau. Báo đăng câu Mao ca ngợi: cái ưu việt của công xã là nắm được hoàn toàn
dân chúng trong tay.
Ông đã nuôi ý định công xã hoá cả thành thị.
Để nắm cho không sót thằng dân nào.
Tôi đã thăm mấy nhà dưỡng lão trong đó một nơi
làm cho tôi buồn hơn cả là của công xã nhân dân tại nhà máy thuỷ điện Mai Sơn,
tỉnh An Huy. Một lán nứa dài trong một rừng nứa rậm, một dẫy sạp nứa dài và cao
lênh khênh, ọp ẹp làm giường (có lẽ sạp cao thế này là để các cụ không thể tụt
xuống trốn đi). Khoảng ba chục cụ ngồi ngơ ngẩn nhìn khách tham quan đến chiêm
ngưỡng “hạnh phúc” của các cụ. Tất cả đều ủ dột, đều con mắt vô hồn dửng dưng
và đều co chân cao đến ngực và đặc biệt đều tăm tắp mấy chục cẳng chân phù to tướng,
căng bóng, những mặt hàng chĩnh bày trong triển lãm.
Tôi bỗng thấy chúng là những cái bình đựng thư
cầu cứu mà trong bão tố, thuỷ thủ đem vất cầu âu vào sóng… Già quá, không lê
nổi đến nhà ăn, mà có đến nổi nhà ăn thì hết sức chen hàng, nhiều cụ đành chết
đói.
Phải có bằng chứng về tính ưu việt của công xã
chứ! Bằng chứng dễ thuyết phục và dễ kiếm nhất là năng suất lương thực. Lập tức
báo chí đăng không kịp “sản lượng vệ tinh” - ở nghĩa lên cao vút - ầm ầm vượt
nhau. Bắp cải nặng một tạ ba, muốn xài thì phải lấy cưa mà kéo cưa lừa xẻ chứ
dao nào chặt cho lại? Lợn một con đứng chật cả thùng xe cam nhông cỡ nhỡ. Một
mẫu ruộng (bằng một phần ba mẫu Việt Nam) 500 tấn khoai. Lúa mì 60 tấn… Một
nhát các thứ cây trồng biến ra thành toàn là Phù Đổng Thiên Vương hết. Một hôm
báo đăng ảnh một tràn ruộng lúa chín với những đứa trẻ nô nhảy ở bên trên. Và
Mao Chủ tịch liền nổ lệnh: Ta cho các người từ nay ăn hẳn năm bữa một ngày!
Phóng viên Việt Nam thông tấn xã kiêm tình báo
Lê Phú Hào đi tham quan đồng lúa kiêm “sân chơi trẻ con” về đến ngay trường bảo
tôi đó là trò bịp. Anh theo nhà báo nước ngoài tụt xuống thì ngỡ anh là đồng
bào, người ta giữ anh lại sợ đông quá sập liếp độn ở bên dưới: cắt lúa chín ở
nơi khác về cắm chi chít lên trên.
Tôi nói chuyện này với anh bạn “bà sói răng
to”. Anh nói anh biết. Dân Trung Quốc bây giờ có hai điều dặn nhau. Một là sau
Tam phản, Ngũ phản thì sợ tiền. Tiền là nguồn của tội ác. Nghèo đói mới sạch
sẽ, vẻ vang. Thà ăn cỏ xã hội chủ nghĩa chứ không thèm ăn cơm gạo tư bản. Nay sau
chống phái hữu, người Trung Quốc sợ thêm sự thật. Sự thật là nguồn gốc của bất
hạnh, chết chóc. Đã muôn người đều sợ sự thật thì cũng lại muôn người thi nhau
nói phét. Có người nói ở Trung Quốc bây giờ chỉ phản cách mạng mới còn cái đức
nói sự thật, nghe sự thật. Còn toàn là hoan nghênh vờ, tin tưởng vờ, hăng hái
vờ. Toàn dân nói phét, chui niu, thổi trâu, mà biết tỏng nhau là nó đang nói
phét, vui phét hệt như mình…
Tôi lạnh người. Anh nói tiếp:
- Mình có một ông chú họ làm đội trưởng ở công
xã. Trên bắt ông khai vống lên lấy sản lượng vệ tinh. Ông không nghe, sợ khai
man nộp hết thì đói. Thế là bị đánh gẫy hai hàm răng. Cứ nhè mồm đánh bắt nhận
“vệ tinh”. Cuối cùng đầy mồm máu khai man. Nhờ đó được chữa không tiền cái tay
bị đánh què nhưng răng thì đắt quá thành ra từ nay ông chú chỉ nuốt không nhai.
Sự thật phải nuốt, nhai gẫy răng ngay. Cứ thả cửa nói phét rồi bạo lực giáng
xuống cho thật khoẻ vào là cái giả toàn thắng.
Tôi bắt đầu “hư hỏng” vì đã nhận ra chân tướng
đại bịp. Người ta lừa bịp đại trà được là nhờ khai thác những bản năng thấp hèn
trong con người: sợ và tham lam. Sợ thì thoả được lòng tham. Tham danh, tham
lợi, tham tước. Mà sợ rồi thì dối trá nào cũng thành sự thật, bồ hòn nào cũng
ngọt, đồ tể nào cũng Đức Phật Như Lai.
Nên nói tiếp đến phong trào nhân dân luyện
gang thép. Công đầu là Tăng Hy Thánh, uỷ viên trung ương, bí thư tỉnh An Huy.
Ông đã tiếp đoàn báo Việt Nam chúng tôi ở Hợp Phì, nơi Hàn Tín điểm quân và tôi
đã đến đó. Ông cho dựng dọc đường xe lửa Mao sẽ đi qua các lò cao luyện thép.
Lò rừng rực lửa như hội hoa đăng, dân gang thép múa ương ca tưng bừng bên cạnh.
Lãnh tụ hả cái bụng quá. Bèn đề ra mục tiêu gang thép vượt Anh, vượt Đức, vượt
Nhật rồi Mỹ cuối cùng.
Từ Thuỷ Tỉnh - Hà Bắc, một huyện có 31 vạn dân
đã đề ra mục tiêu “tiến lên chủ nghĩa cộng sản trong ba năm”, vụ hè vừa thu
hoạch được 45.000 tấn lương thực, đã đề ra mục tiêu sản xuất 1,1 triệu tấn ngay
trong vụ thu tiếp theo (tăng gấp hơn 24 lần, bình quân đầu người 1,8 tấn). Phải
ra sức thu gom sắt phế liệu, có thể tháo dỡ các đường sắt tạm thời không có giá
trị kinh tế như đường sắt Ninh Ba, đường sắt Giao Đông.
Tôi không tham gia, tuy sinh viên phải nghỉ
học làm gang thép đầy trong campus. Tôi mơ hồ thấy chẳng khác nào lột áo quần
ra xé tơi rồi đem bật lại thành bông, xe lại thành sợi để dệt nên thứ vải chất
lượng khốn nạn hơn nhiều. Không hiểu sao nhìn các quả đấm cửa bằng sứ trắng có
lõi sắt người ta quẳng vào chảo quấy, đảo, tôi cứ nghĩ đó là những con ngươi
mắt mỗi hộ dân gửi đến để trừng trừng nhìn mà đặt ra câu hỏi đơn sơ: các người
làm trò gì đây?
Màn bịp gang thép rồi cũng xếp xó. Nhưng để
cho Mao chủ tịch vui lòng vẫn phải giữ lại 60 triệu lao động túc trực bên cạnh
các lò cao hao tài hại của…
Lại trở về Hội nghị trung ương Bắc Đới Hà.
Ngoài Tổng lộ tuyến, hội nghị còn cho ra một cách khiêu chiến mới đối với Mỹ
cốt phá hoà hoãn của Liên Xô với Mỹ. Hội nghị bế mạc được một tuần, lục địa bắn
luôn đại bác vào hai hòn đảo Kim Môn, Mã Tổ của Đài Loan nằm ở gần bờ biển Phúc
Kiến. Kim Môn chỉ xa chừng hai cây số, trong ngày đầu nhận 89.000 quả pháo.
Ngày hôm sau thêm lên 40.000 quả nữa. Căng thẳng cực độ. Chiến tranh như sắp nổ
ra từng ngày.
Mỹ cho hai tàu sân bay tới, cộng vào bốn chiếc
đã có sẵn. Và trên một chiếc có đậu một máy bay ném bom A3D. Khi cần, boong tàu
sẽ mở ra và
một thang máy liền dâng một quả bom nguyên tử
để gắn vào bụng chiếc A3D kia cho nó bay đi quẳng xuống Bắc Kinh hay Thượng
Hải, Nam Kinh, Hàng Châu, Quảng Châu gì gì đó. Phóng viên báo Time lộ ra như
thế.
Liên Xô liền phải đánh tiếng nếu Mỹ dùng
nguyên tử với Trung Quốc thì Liên Xô buộc cho lục địa Mỹ xơi bom nguyên tử.
Phần nào đã thoả mãn về cục diện gay gắt do
mình gây ra, Mao bèn đổi sang một kiểu bắn mới: nếu Mỹ không can thiệp thì chỉ
bắn hai hòn đảo kia vào ngày lẻ.
Thế giới tưởng Mao phất cờ giải phóng Đài Loan
đến nơi nhưng ông bảo Lý Chí Toại, bác sĩ riêng:
- Ai đánh làm gì? Còn Đài Loan đó thì còn đoàn
kết nội bộ chứ giải phóng nó rồi thì kiếm đâu ra cái gậy nào để múa lên cho yên
nội bộ được đây? (trong hồi ký “Đời tư Chủ tịch”, The President’s Private Life
của Lý Chi Toại).
Thế nhưng nhiều người lại đinh ninh ông rừng
rực lửa căm thù đế quốc, lửa giải phóng dân tộc, lửa chi viện của đại hậu
phương rồi đội ông lên và đến xin ông một chút tâm hồn… Rồi theo cờ ông chỉ mà
xông lên đánh.
***
Một sáng, An Cương, phó tổng biên tập Nhân Dân
nhật báo đến nói chuyện với lớp báo chí.
- À, xin hỏi, tôi vừa đi Ba Lan về. Nay nơi
nào xét lại nhất các đồng chí?
Sửng sốt hết. Vừa bỏ mũ xét lại cho Nam Tư trở
về với phe xong thì sao nay lại xét lại?
- Ba Lan, nước tôi vừa mới đến đó.
Kể ra một lô những tệ nạn xã hội, ăn chơi,
nhảy đầm, thoát y vũ, thoát ly chính trị, sùng bái phương Tây… Cảnh giác các
đồng chí, mất cách mạng, mất đảng vì cái xét lại này. Hở tay hở đùi là nguy cho
chế độ rồi đó…
Với tiêu chuẩn chia ra trại đàn ông với trại
đàn bà thì ăn nằm xả láng với nhau đúng là phản cách mạng thật.
Tôi không ngờ đời tôi bắt đầu bị yểm chính là
từ hôm nghe thấy hai chữ xét lại ấy.
Hai bóng ma Mỹ, Đài Loan chưa đủ cho Mao bắt
được ai cũng phải nem nép ở dưới cái gậy ông vung lên. Ông phải thêm cho một
bóng ma “xét lại” nội bộ đảng và phong trào cộng sản. Bên ngoài, ông nhằm
Khruschev còn ở trong nước ông nhòm đến Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và Tổng bí
thư Đặng Tiểu Bình từng cho hê “tư tưởng Mao Trạch Đông”. Hai vị chống Mao quá
hiền lành liền bị Mao gọi luôn cho là Khruschev Trung Quốc thứ nhất là Lưu
Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình là Khrouchev thứ hai.
Biết Liên Xô đang oải trong chạy đua vũ trang
với Mỹ, dân đầy bất mãn, thất vọng, Mao bèn kêu gọi phá chớp nhoáng trật tự thế
giới bằng một cuộc “cải cách ruộng đất trên toàn hành tinh”. Địa chủ, cường hào
ác bá là đế quốc Mỹ cùng phương Tây, bần cố nông là các nước nhược tiểu có vấn
đề với Mỹ, chẳng hạn Việt Nam. Hay mưu lật đổ của Đảng cộng sản ở Indonesia rồi
bị Sukarno trấn áp thảm sầu.
Mao đầu tiên hỏi thăm láng giềng Ấn Độ. Trả
miếng vụ Ấn cho Dalai Latma tị nạn và che đi yêu cầu độc lập gay gắt của Tây
Tạng. Buộc Liên Xô hoặc theo Trung Quốc thì mất liên minh Xô-Ấn, hoặc bênh Ấn
thì lòi mặt “xét lại”. Đến 1963-1964 thì Liên Xô bênh Ấn Độ, Hà Nội chửi Ấn Độ
và Nerhu có dã tâm chiếm đất Trung Quốc.
Hà Nội hình như hay phù suy, chống thịnh… Đặng
chống Mao bằng mèo trắng mèo đen, Mao chống Đặng bằng hồng chuyên thì Hà Nội
lại phát động cả nước hồng chuyên. Thủ tướng Đồng đăng một bài rất dài ca ngợi
hồng chuyên trên Nhân Dân. Sau này Dương Thượng Côn “chống diễn biến hoà bình”
để ngáng Giang Trạch Dân lên Tổng bí thư thì ta cho dịch quyển “chống diễn biến
hoà bình” - Chủ mưu là đế quốc Mỹ, và phát làm cẩm nang cho tất cả đại biểu dư
Đại hội Đảng VII.
CHƯƠNG 6
háng 5 năm 1959, đoàn báo Việt Nam sang thăm
Trung Quốc, tôi gia nhập đoàn.
Một sáng vào Trung Nam Hải. Trung Quốc “giải
phóng” Tây Tạng. Dalai Latma ngồi bò yak trốn sang Ấn Độ, cổ tay đeo chiếc
Rolex do Tổng thống Roosevelt tặng, thời cờ năm sao chưa cắm trên đất Lhassa.
Phong nhã, đẹp, Chu Ân Lai lên án và giải thích chính nghĩa của Trung Quốc. Đều
khách nước ngoài, phần lớn là các “nhà cách mạng” thường trú Bắc Kinh.
Mãi sau tôi mới hiểu lớp thực khách Xuân Thu
Chiến Quốc đời mới này sẵn sàng hô vang khẩu hiệu đại loạn của Bắc Kinh. Ở các
hội nghị Á Phi chống xét lại, ở Hà Nội, các chân gỗ không chằng không rễ chuyên
đánh trống trận bằng mồm xúi thiên hạ loạn li tơi bời này thuần chỉ có tác dụng
thổi ống đu đủ và rồi đều bị quẳng vào sọt rác hết.
Thình lình Mao hiện ra. Cao lớn, trắng hồng,
từ tốn. Đi như khẽ xê dịch, kiểu như biết mình càng chậm thì người ta càng được
ngắm nghía và người ta càng thích. Thong thả ngả người ra ghế, một chỏm tóc sau
gáy liền vổng ngay đuôi gà, nếp tóc nhờn bết của những người ít tắm gội và nằm
là chính.
Hai bàn tay đặt trên thành ghế thật đẹp. Tôi
nghĩ ngay tới các tối chủ nhật, Trung Nam Hải thường đón các cháu nữ sinh
Trường Múa đến khiêu vũ cùng chủ tịch. Hồng Linh nói các bạn đi về bảo Chủ tịch
thích ôm eo chứ không đỡ lưng.
Mao nói. Ngồi nói. Nói ngọng vì giọng Hồ Nam.
N thành L, R thành L. Thí dụ Hội phụ lữ Việt lam lổi lận, - Hội phụ
nữ Việt Nam nổi giận. Và s thành x.
Hôm ấy Mao mở miệng chửi xà-lù (tiếng Pháp:
salaud, salopard: đồ đểu - BT) thủ tướng Ấn Độ. Dám cho Dalai Latma đến sống
nhờ trên đất Ấn Độ mà không bắt giao nộp Bắc Kinh.
- Nie he lu, ta xi xen mo len? Ta xi
ban len ban gui dì, ban liu mang ban len xi tì… (Đúng ra phải là Nie he lu,
ta shi shen mo ren? Ta shi ban ren ban gui dì, ta shi ban liu mang ban ren shi
di… Nehru là người thế nào? Hắn là nửa người nửa quỷ, nửa nhân sĩ nửa lưu
manh).
Trước đó không lâu Bắc Kinh ca ngợi vị nhân sĩ
này là đồng tác giả với Indonesia của năm nguyên tắc chung sống hoà bình. Khi
xấp mặt thì bạn lớn đều hoá ra súc vật hay côn đồ.
Định cắm cho cái kim vào đít Khruschev và nay
ôn tồn, thư thả rủa Nehru thế mà vẫn kêu gọi toàn thế giới đoàn kết lại. Tôi
bắt đầu ngán ông. Đơn giản từ khi tôi bập vào bài tố cáo tội ác Stalin, từ lúc
Mao công khai nói ra mẹo ác nhử rắn của ông… Không đến gần ông để chụp ảnh. Chả
biết Việt Nam bé tẹo thì ông coi ra cái gì, tự nhiên vận vào đất nước mà thấy
sờ sợ. Bỗng nhớ Cụ Hồ đã nói ai sai thì sai chứ Mao Chủ tịch và Stalin thì
không thể nào sai được.
Sau đó chúng tôi xuống miền Nam. Thăm nhà Tôn
Trung Sơn và Lỗ Tấn ở Thượng Hải, thăm mộ Tôn Trung Sơn ở Nam Kinh. Ông lập nên
Trung Hoa Dân Quốc với tấm hộ chiếu công dân Hoa Kỳ ở trong túi - ngày nay
người ta sẽ la làng lên là ông “diễn biến hoà bình”, “tay sai đế quốc Mỹ”.
Rời Thiệu Hưng quê Lỗ Tấn, chiếc Mercedes
thẳng chiếu núi Cối Kê mờ xa phóng đi. Trên xe Thép Mới bảo tôi:
- Tao thích thơ mày, tao lăng-xê lên báo nhưng
Ồng Kễnh gọi bảo thơ Trần Đĩnh là kiểu Trần Dần, không được, tao đành thích thơ
mày ở trong bụng vậy. Khen vệ tinh nhân tạo đầu tiên mà mày viết “Con người ném
gương lên treo giữa các vì sao, ngửng đầu soi thấy mình đẹp quá” thì Kễnh không
xài được. Con người chung chung là đếch được, chiến thắng vô sản lớn thế mà lại
cho con người trừu tượng vào… (Kễnh là Tố Hữu).
Phản ứng tức thì của tôi là tôi đếch cần Kễnh.
Ơ kìa, ngày nào tai tôi nghe Kễnh bị Trường Chinh nhận xét mặt như hai ngón tay
chéo lại học đòi ngậm píp như Nguyễn Tuân…
Báo Nhân Dân vừa đăng một bài thơ của tôi viết
về những cao ốc mới mọc. “Xây những ban công giữa trời và những vườn hoa trong
óc…”. Dưới chân cao ốc mới, một bà đẩy xe nôi. “Anh cúi thơm má chú, rồi hôn
vào gót chân, mai kia qua gót chú, anh hôn các tinh cầu…” và Kễnh lắc.
Người chỉ dịu đi khi thăm vùng chè Long Tỉnh.
Những nương chè hai bên con suối Hổ Chạy - từng hõm sâu dưới dòng nước, dấu vết
chân con hổ chạy để lại. Trên đỉnh đồi um tùm cây, một quán trà thô sơ kiểu cổ.
Người phục vụ múc lên một bát sứ nước suối Hổ Chạy chìa ra trước mặt chúng tôi.
Như có một sức thần bí ở lòng bát, tự nhiên mặt nước phồng nổi lên thành một
mặt kính sáng quắc che đèn pha xe hơi. Người phục vụ đặt lên trên chỗ nước doi
cao nhất một đồng hào thiếc. Nó nổi và lênh đênh ngao du. Mặt nước có thêm cái
nhũ hoa bỗng biến thành một bầu vú lung linh…
Mấy hôm sau, viếng mộ Phạm Hồng Thái ở Hoàng
Hoa Cương, một phó tổng biên tập báo ta hỏi bạn nhà báo Trung Quốc ở cạnh:
“Chắc đồng chí liệt sĩ đây cũng quê ở Hồ Nam?”.
Kiểu ở ta thì Nguyễn Thái Học quê Nam Đàn.
***
Chia tay với đoàn báo về nước ở Nam Ninh, tôi
ngược Bắc Kinh cũng với chánh văn phòng Nhân Dân nhật báo.
Mấy hôm sau đến Văn Nghệ báo, cơ quan của Văn
Liên (Hội liên hiệp văn học nghệ thuật) cũng quanh quẩn Nhân Dân nhật báo ở
Vương Phủ Tỉnh thực tập.
Tôi muốn đi sâu tìm hiểu văn học Trung Quốc và
nhất là qua nó nhìn rõ hơn động thái chính trị của đảng. Tại sao đảng lại hay
cho sóng gió nổi lên trước ở trong văn nghệ?
Tại đây tôi đã được thấy mặt các đại bút đại
danh Trung Quốc như Ba Kim, Lão Xá, Mao Thuẫn, Tào Ngu, Hạ Diễn. Báo đều kỳ mời
các vị đến chỉ giáo tình hình và kế hoạch bài vở.
Mỗi khi Lão Xá nói tôi lại ngỡ ông đang trình
tấu mẫu chuẩn tiếng Bắc Kinh ông cất gửi tại Viện đo lường quốc gia. Nhìn ông
và Ba Kim, tôi cố mường tượng ra dấu vết nước Anh, nước Pháp hồi các ông bên
đó, dạy học bên đó. Không thấy. Lão Xá nom quá sơ sài. Thì cũng không một dấu
vết nào cho thấy những ngày tháng đen tối khốn đốn mai hậu của các ông. Ai ngờ
nổi sau này Lão Xá bị Hồng Vệ Binh đánh chết quẳng xác ra ven một cái hồ ông
hằng yêu mến. Ông nằm bên hồ, phủ một tấm chăn. Người ta mời vợ ông ra. Bà toan
vén chăn nhìn mặt chồng lần cuối thì người ta đẩy bà ra:
- Xem có phải đúng là giầy chồng bà không? -
Đúng! Thế hả, được rồi.
Nhìn chồng lần cuối không được, chôn cất chồng
không xong. Ai ngờ được, trong mười năm giam cầm, hành hạ, Ba Kim sẽ nhảy tưng
tưng, giơ tay hét “Đả đảo Ba Kim” để rồi sau này, hồi tưởng lại, ông phải kêu
lên rằng ông có ăn cháo lú đâu mà có thể há mồm hô đả đảo ngay chính mỉnh, có
thể cam tâm để cho kẻ khác tước đoạt mất quyền làm người của mình mà không hề
có chút mảy may nào phản ứng…
Diệp Quần, một nữ biên tập viên coi mảng điện
ảnh, hay tha tôi đến đại sứ quán Liên Xô xem phim chiếu nội bộ và chả thứ gì
lưu lại ấn tượng mạnh bằng bà biên tập viên văn nghệ hết sức Tây phương. Tân
kỳ, trẻ, xinh xắn và rất diễn viên, rất diện. Toàn giầy da kiểu escarpin đế
mỏng mầu sô cô la, đỏ, nâu, trắng… Sau này nghe vợ Lâm Bưu là Diệp Quần, tôi
giật mình: ngay ngày ấy tôi đã ngờ chị là vợ một cốp to lắm. Cung cách sang
trọng, điệu đà một cách hào sảng và tự tin như vậy ở Bắc Kinh là phải có một
bối cảnh chính trị lớn như thế nào.
Tôi có hai anh bạn thân là biên tập viên của
báo.
Một hôm hai anh nói mai chi bộ các anh nghe
Chu Dương, Bộ trưởng tuyên truyền trung ương đảng truyền đạt một chỉ thị quan
trọng của Chủ tịch. Tôi đề nghị cho tôi nghe boóng.
Các anh nói sẽ xin ý kiến đảng uỷ tờ báo.
Chiều các anh bảo tôi trên Bộ tuyên truyền trung ương đảng nói không nên vì tôi
là đảng viên nước ngoài. Nhưng hứa sẽ cho tôi biết tinh thần chỉ thị.
Hai hôm sau, giờ cơm trưa, hai anh và tôi ra
phố. Hai anh lộ ra cho hay cái chỉ thị có thể gọi là chỉ thị “bom nguyên tử ném
thì ném, không sợ!” Chủ tịch nói chúng nó cứ doạ bom nguyên tử. Hòng buộc chân
trói tay chúng ta lại mà. Việc gì phải sợ? Vì Mỹ dẫu cho có ném xuống một nghìn
quả bom nguyên tử, dẫu trái đất có bị tan hoang đi nữa thì ít nhất cũng còn sót
lại một huyện dân Trung Quốc, huyện dân ấy sẽ đi ương lại giống người trên quả
đất này…
Tôi rợn người. Sợ cái tính toán chi li này hơn
cả sợ bom nguyên tử. Cũng thoáng một chút ghen tị: thế ra Trung Quốc sẽ được đi
cấy tái giá lại giống người trên quả đất. Trong khi những Lào, An-ba-ni thì
trống huếch trống hoác còn Việt Nam may lắm trời cho sót lại vài ba anh đực rựa
vô dụng vì teo hết nhẵn hai hột tinh hoàn.
Chỗ nghe, nghe sang tai, ở gần cửa hàng quốc
tế, kiểu cửa hàng cạnh Phú Gia, Hồ Gươm Hà Nội. Chỗ này đường bảy tám chục mét
rộng, thoáng đãng, gần Vương Phủ Tỉnh mà tôi thấy ngạt thở. Ở cửa hàng này tôi
hay bị người coi cổng đẩy ra, nghi tôi đồng bào cải trang giả làm nước ngoài
vào mua lậu gấm với nhung đem ra bán lại. Một lần tôi bảo anh ta: “Người Trung
quốc chúng ta không có thói xấu nhận vơ là người nước ngoài đâu đấy nhớ!” Anh
ta ngẩn ra nhìn tôi. Tôi vào lượn một vòng quay ra nói: “Kan, mei mai shen
mo! Trông đấy, không mua cái gì cả”. (Kỳ thật không có tiền).
Hôm nay nhìn nó tôi nghĩ mai kia toàn thế giới
đều Triệu, Lý, Trương, Vương cả với nhau thì hết sợ lầm đồng bào với dị bào.
Chuyện “chỉ thị quan trọng” này về nước tôi có
nói với Nguyễn Tuân. Tuân bảo các nhà văn ta cũng được nghe Hoài Thanh truyền
đạt là cho dẫu Mỹ có ném đến một nghìn quả bom nguyên tử xuống cũng không sợ.
Tuân bèn giơ tay hỏi thưa anh con số một nghìn là anh phát triển lên hay vốn
sẵn như thế ạ, thì Hoài Thanh đỏ mặt nói tôi nghe truyền đạt của trung ương, có
ghi sổ cả đây. Rồi Tuân bình:
- Này cái hệ thống loa dọc nhà này xem ra
thông suốt đáo để. Xa có đến năm nghìn, đến thế không? Ừ, xa có đến năm nghìn
cây lô mếch mà họ truyền đạt cấm có sai lấy cho nhau một con zê-rô…
Hai anh bạn ở Văn Nghệ báo đã giúp tôi gặp Lâm
Mặc Hàm, phó bí thư đảng đoàn Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Trung Quốc; Hạ
Kính Chi,
phó tổng biên tập Văn Nghệ báo và Trương Quang
Niên, cây bút lý luận quan trọng của báo, thường ký tên Mã Tiền Tốt. Ông đã
cùng quân Tưởng vào Việt Nam ngả Lào Cai năm 1945, “cờ đỏ đầy Hà Nội lúc bấy
giờ, đẹp lắm”, ông bảo tôi.
Các ông có lòng mời tôi dạo Di Hoà Viên. Trưa
lên quả núi có Phật Hương Các, vào một khách sạn ngồi ăn ngoài trời ngắm cảnh
hồ nước, núi rừng…
Lúc bấy giờ công xã nhân dân đã mạt kỳ. Nhưng
“phong trào thơ xã viên” vẫn được nuôi. Mỗi lao động mỗi sáng ra đồng đều phải
nộp đủ chỉ tiêu bao nhiêu bài thơ (tuỳ đảng uỷ mỗi công xã đặt). Không nộp đủ
thì về, ngày ấy không công điểm. Các báo ra xã luận ca ngợi thiên tài thơ ca
của nông dân. Thi nhau đăng thơ xã viên mà đặc điểm là rất giống nhau. Ta là
Ngọc Hoàng, Ta là Đại địa, Ta làm nên tất cả… Ta là Lão Thiên, ta là Long
Vương, ta đào núi, ta lấp biển. Ta là Đại hải, ta là Thái dương, ta không sợ
thánh thần cùng ma quỷ… Nếu là nhà thơ nhóc con thì Ta là Na Tra…
Tức là một tập hợp bách khoa toàn thư văn vần
dành riêng cho một từ TA để cho toàn dân định nghĩa. Ta là tinh tú, ta là sao
chổi, ta là nguyên tử, ta là sấm, ta là sét… Tựu chung vơ lấy mọi sức mạnh tự
nhiên, siêu nhiên. Có một nét không ai dám ví tới. Đó là không bao giờ nhận
mình là đảng, là Chủ tịch, là ta bảo đảng tiến, ta vẫy đảng đi. v.v… Còn được
một chữ sợ làm trần cho mọi vi vu bay bổng. Nhận mình là thiên địa rồi tự hào
vì sức mạnh đó, ấy là lãng mạn cách mạng. Còn sau đó ta theo ngọn cờ đào, ta
theo Chủ
tịch, ta san núi, ta dịch sông, ta là người
lính tốt của Mao Chủ tịch thì đó là chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Mao để ra
phương pháp sáng tác chủ nghĩa hiện thực cách mạng kết hợp với chủ nghĩa lãng
mạn cách mạng là nhằm phang chết tươi chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa
Stalin bắt Gorki soạn thảo.
Chúng tôi hôm ấy đả phá sai lầm trong văn học
nhưng không ai dám nói đến chữ tả khuynh. Chữ ấy vẫn còn hào quang chói loà và
thiêng liêng của nó. Đặng Tiểu Bình chưa ra mắt để tổng kết cách mạng Trung
quốc chủ yếu là tả khuynh và thật ra chính tả khuynh có hại hơn hữu. Lâm Mặc
Hàm bạo nhất thì hôm ấy nói:
- Proletkul, trò văn hoá vô sản nực cười đã
chết giấp ở Liên Xô từ những năm 20 thế mà người ta lại đào mồ cho trỗi dậy ghê
gớm như thế này ở Trung Quốc thì đáng sợ thật…
Hôm ấy chúng tôi đúng là cùng một lứa chân
trời phủ nhận. Đến Cách mạng văn hoá cả ba ông đều điêu đứng. Tôi sớm hơn.
Nhưng rồi cả ba lại tái xuất giang hồ khi Đặng
hạ Mao xuống. Hạ Kính Chi lên thay Vương Mông làm bộ trưởng văn hoá sau vụ 4
tháng 6 năm 1989 tàn sát sinh viên ở Thiên An Môn. Vương Mông phái tự do của
Triệu Tử Dương, Hạ Kính Chi phái bảo thủ của Dương Thượng Côn. Tới khi Dương
Thượng Côn xuống thì Hạ Kính Chi lại thôi bộ trưởng. Dương phản đối Đặng Tiểu
Bình, phản đối Đặng đưa Giang Trạch Dân là dân sự lên chứ không phải nhà binh.
Nên nói một ít đến Vương Mông. Năm 1957, ông
viết truyện “có một người trẻ tuổi đến vụ tổ chức”. Bị phê phán tơi bời. Bôi
nhọ, đả kích công tác tổ chức của đảng… Đang ầm ầm thì Mao phán là tôi đã đọc,
quyển sách tốt đấy, in ra có sao. In nhưng người liền biệt tích. Miền tây xa
thẳm hàng chục năm trời chăn cừu cuốc đất cho tới khi Đặng Tiểu Bình trỗi dậy
hú hồn cho sống lại tất cả xét lại, hữu, đi đường tư bản tái xuất giang hồ. Hồ
Diệu Bang thảo kế hoạch nhân sự mới: Vương Mông làm bộ trưởng văn hoá…
Những Hồ Phong, Lâm Ngữ Đường, Hồ Thích, Lý
Tông Ngô, Du Bình Bá… phản động đều được sạch sẽ trở lại. Hồ Phong làm cố vấn
cho Bộ văn hoá, nghe đâu tiền lương truy lĩnh và bồi thường danh dự nhiều quá
xá. Thấy đảng sòng phẳng, ăn tiêu ra người lớn, Hoa kiều mạnh bạo rót tiền và
chất xám về…
***
Di Hoà Viên về, tôi viết thư cho Trường Chinh.
Nhận xét đảng ta hay bắt chước Trung Quốc mà Trung Quốc thì rất tả khuynh…
Trường Chinh trả lời. Tự tay anh viết chữ
Trung Quốc (rất đẹp) trên phong bì. Cảm ơn tôi. Đề nghị tôi nghiên cứu thêm mấy
vấn đề như văn nghệ sĩ đi vào thực tế, chủ nghĩa hiện thực cách mạng kết hợp
chủ nghĩa lãng mạn cách mạng. Nói đã chuyển thư tôi sang Tố Hữu để anh ấy
nghiên cứu. Cuối thư viết tôi phê bình đảng ta “tắp lắp của Trung Quốc nhiều là
rất
đúng”. Nguyên nhân vì sùng bái nước ngoài, vì
trình độ lý luận thấp và vì kém tổng kết kinh nghiệm.
Tôi không nghiên cứu hai vấn đề anh đề nghị.
Thấy vô bổ.
Lúc đó tôi chưa biết Trường Chinh đã bàn giao
quyền Tổng bí thư cho Lê Duẩn. Nghĩa là anh có thể nghĩ tôi phê ta tắp lắp
Trung Quốc quá xá là nói móc anh - như nhiều thân tín cũ của anh đã quay giáo -
nhưng anh tin tôi lòng thành yêu mến anh và hơn nữa biết tôi không phải thứ
người cạnh khoé.
Tháng 8, nhận bằng tốt nghiệp, chuẩn bị về
nước. Quá bịn rịn. Không chỉ với Linh còn ở lại thêm vài tháng mà bịn rịn với
cảnh với người Trung Quốc.
Chi bộ họp phiên cuối cùng rồi giải tán. Nhận
xét tôi phải hết sức cảnh giác tư tưởng lập trường, về nước tôi rất dễ phục vụ
giai cấp tư sản như “bọn” Nhân Văn - Giai Phẩm. Rất tức nhưng cố nín.
Nhà trường biết tôi không có thứ đựng đồ đạc,
chăn màn, sách vở đã mua cho một thùng gỗ thông vừa đập hòm xong.
Ra ga tiễn tôi có Hồng Linh, hai bạn biên tập
viên và một chị ở văn phòng Văn Nghệ báo. Chụp ảnh ở sân trường…
Các anh chị, tôi không thể nào quên. Giả như
những năm sau đó các anh chị có hô lạc điệu đi nữa, tôi cũng chẳng giảm tình.
Nói thế thôi chứ
chắc chắn các anh chị đều không thoát cảnh nạn
nhân. Từ ngày chúng ta quen biết nhau và thường loanh quanh vùng Vương Phủ Tỉnh
mỗi trưa, tôi đã biết các anh đứng ở đâu trong bảy “phản” mà cách mạng văn hoá
phải tiễu trừ rồi.
Trên tàu gặp vợ chồng Hồ Bản Anh, phân xã
trưởng Tân Hoa Xã Hà Nội. Nửa tháng sau, Hoàng Tùng chiêu đãi họ, tôi dự. Bản
Anh ố to một tiếng và như tụt mất cả kính trắng kêu lên:
- Thế ra là người Việt Nam? Tôi cứ tưởng người
Trung Quốc!… Chui cha…, tiếng Trung Quốc nói đẹp quá, shuo di ken piao
liang… Lại tưởng người Trung Quốc chứ…
Piao liang là đẹp.
Có thể tôi đẹp tiếng nói. Nhưng đẹp lời thì
không.
Hai năm sau, tôi lao đao: ngọng lời Mao Chủ
tịch. Người đã thành đại giáo chủ, đầu tàu-gió-đông. Con chiên xóm đạo lẻ
thường sùng đạo hơn con chiên thành thị thì phải.
CHƯƠNG 12
u học năm năm được những gì?
Được gần gũi và biết và mến phục một dân tộc
vĩ đại, một văn hoá vĩ đại.
Được nói một ngôn ngữ nhiều người nói nhất
hành tinh.
Được một người vợ tôi hết sức yêu rồi tôi làm
khổ. Một lần thấy bố mẹ bất hoà, con gái sáu tuổi oà khóc. Tôi bế cháu ra búi
tre sau túp lều tranh lụp sụp làm nhà mà nói: “Nhà ta có gì không tốt, không
hay xảy ra là do lỗi bố. Khi con chưa biết nói, bố đã nhận lỗi với mẹ, tự mình
chủ động nhận lỗi với mẹ. Nay con biết khóc chuyện nhà thì bố chủ động nhận lỗi
với con…”. Con gái vừa thút thít nấc vừa gật. Tôi mừng vì như thế là nó có cái
lượng khoan dung của mẹ… Người từ phút đầu tiên hát “chàng buông vạt áo em ra…”
thì cuối cùng cam đèo bòng với tôi mọi tội mọi nợ, mặc dù bản thân cũng đầy oan
trái, thương đau, vạt áo đầy nước mắt.
Và được là đồng chí đương thời lặng thinh mà
đầy thiện cảm, đầy xôn xao cuồng nộ của “phái hữu” Trung Quốc, những người lận
đận tù đày hàng chục năm ròng mới mở ra được cánh cửa của Trung Quốc, mới thôi
kết thù mà làm bạn tươi tỉnh với thế giới. Nhờ họ, khát vọng tự do, dân chủ
thêm bền vững trong tôi. Đạo quân mênh mang những nạn nhân vĩ đại ấy dạy tôi
trước tiên không được bội bạc nỗi trầm luân của con người. Bức trường luỹ đồng
loại trần ai nêu lên cho tôi tấm gương dám nhận về mình khổ ải.
Được đi từ Bắc chí Nam cái đất nước ở đó con
gái như ngọc như hoa trong những Đại Quan Viên, những Mái Tây Sương rất sớm
biết xăm xăm đi lên đòi dân chủ. Đất nước biết nhờ hạt gạo làm long thuyền chở
cả một bài phú đi ngao du bát ngát. Đất nước cần tự diễn đạt đã mượn mu rùa làm
bia phát nghĩa. Cần ra khỏi ranh giới bản thân đã chế la bàn.
Cần giữ bền ranh giới đã tạo máy báo địa chấn.
Cần tính tần số vui buồn của nhân sinh đã mượn cát đo thời gian. Đất nước có
Hồng Lâu Mộng, Kim Bình Mai, Nhục Bồ Đoàn…, tiểu thuyết đầu bảng tính dục của
loài người. Nhà sách Jean Pauvert, Paris dịch in đúng 500 cuốn. Đánh số từ 1
đến 500.
Các chữ “âm hộ” không dịch. Để nguyên Hán tự
in đen. Đen ánh. Các chữ “dương vật” để nguyên Hán tự in đỏ. Đỏ son. Rải rác
trong từng trang chữ la tinh đơn tuyến, chúng lập thể nổi lên như núi như gò,
đẹp vượt hết mọi hoa văn, hoạ tiết.
Những huyệt tử sinh, những mắt triện anh ánh
âm dương ngũ hành, những con mắt nhấp nháy xui đồng loã…
Nhưng cuối cùng phải nói sau năm năm du học
tôi bắt đầu thấy được một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và
bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là
chính mình, chớ nghe sai phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng và dám chịu
đựng… Cái đó nhờ phong trào phái hữu - mà tôi say sưa, sung sướng chứng kiến -
phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có tính bùa phép
khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh. Phong trào chống sùng bái
cá nhân ở Liên Xô tôi tiếp nhận tại Bắc Kinh. Rồi kế theo là phong trào đòi dân
chủ của phái hữu Trung Quốc. Trong ngoài giáp công, có thể nói.
Cảm ơn… Cảm ơn…
Nhưng kìa Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch
Bạch vân thiên tải không du du…
Một hay hai bài đấy nhỉ? Hỏi làm gì? Đều tịch
mịch và bạch vân mây trắng vi vu trong trống không cả mà thô
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét