TIỂU SỬ
Ông tên thật là Tạ Ngọc Phách, sinh trưởng trong một gia đình công chức ở huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Bố ông là thư ký ở toà thông sứ tại Hà Nội, thường gọi là quan phán.
Ông tên thật là Tạ Ngọc Phách, sinh trưởng trong một gia đình công chức ở huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Bố ông là thư ký ở toà thông sứ tại Hà Nội, thường gọi là quan phán.
Năm 1939, ông tham gia làm báo Người Mới cùng với Nguyễn Thường Khanh, tức Trần Mai Ninh ở Hà Nội. Trong cuộc ruồng bố năm đó, ông bị Pháp bắt giữ nhưng không có chứng cứ để buộc tội nên ông lại được thả.
Trần Độ gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1940. Cuối năm 1941, ông lại bị bắt[1]. Tòa án tại Thái Bình xử án 15 năm tù giam. Cuối năm 1941, từ Hoả Lò (Hà Nội), Trần Độ bị đầy lênSơn La. Tại đây, ở tù cùng thời gian này có Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Xuân Thuỷ… Năm 1943, trên đường giải từ Sơn La ra Côn Đảo, Trần Độ đã trốn thoát để ra ngoài tiếp tục hoạt đông cách mạng. Ông lãnh đạo giành chính quyền ở Đông Anh, Hà Nội rồi bước vào cuộc đời binh nghiệp.
Năm 1946, ở tuổi 23, ông làm Chính ủy Mặt trận Hà Nội. Năm1950, ông làm chính ủy Trung đoàn Sông Lô mà Lê Trọng Tấnlàm Trung đoàn trưởng, rồi làm Chính ủy Đại đoàn 312. Năm 32 tuổi (1955), Trần Độ là Chính ủy Quân khu 3 (Quân khu Tả ngạn) và đến năm 1958 được phong hàm Thiếu tướng.
Cuối năm 1964, ông vào miền Nam Việt Nam với bí danh Chín Vinh, cùng với các tướng Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hòa, Hoàng Cầm để gây dựng lực lượng vũ trang chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa và giữ chức Phó Chính ủy và Phó Bí thư Quân ủy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Tháng 3 năm 1974, ông được phong hàm Trung tướng cùng đợt với Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đàm Quang Trung, Đồng Sĩ Nguyên.
Từ năm 1974 đến năm 1976, ông giữ chức vụ Phó Chủ nhiệmTổng cục Chính trị.
Chuyển sang ngạch dân sự, ông giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa kiêm Phó Ban Tuyên huấn Trung ương phụ trách văn hóa văn nghệ. Khi Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương được thành lập (1981), ông giữ chức Trưởng Ban kiêm Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Ở chức vụ này ông đã soạn nghị quyết số 5, củng cố tiến trình Cởi Mở văn hóa trong thời kỳ Đổi Mới.
Ông còn làm Phó Chủ tịch Quốc hội khóa 7, Chủ nhiệm Ủy ban văn hóa và giáo dục của Quốc hội, ủy viên Hội đồng Nhà nước (1989-1992).
Ông cũng là ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa 3 (dự khuyết từ năm 1960 đến năm 1972), 4, 5, 6 (1960-1991).
Ông đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công (hạng nhất và hạng ba),…
Do bất đồng chính kiến với Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông bị khai trừ khỏi Đảng ngày 4 tháng 1 năm 1999 khi đã 58 tuổi đảng.
Ông mất ngày 9 tháng 8 năm 2002 sau một thời gian dài lâm bệnh nặng, tuổi cao, sức yếu. Đám tang ông có sự tham dự hết sức đông đảo mọi tầng lớp quần chúng và trí thức, văn nghệ sĩ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi vòng hoa đến viếng và gia đình Đại tướng Lê Trọng Tấn đã có mặt đông đủ.
Trong đôi câu đối tặng Trần Độ, ông Hà Sỹ Phu (phó tiến sĩ sinh vật học, nhà bất đồng chính kiến) viết:
Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên song trọng đảm
Bắc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng, nhất đan tâm.
QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI CỦA TRẦN ĐỘ
Ở cương vị thay mặt Đảng lãnh đạo văn nghệ, ông có ý thức “cởi trói” cho văn nghệ. Ông nhận thức rằng: “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp”.
Ông chỉ rõ rằng: “Cái ý thức giai cấp trong xã hội ta có những đặc điểm sau:
Không có khả năng và phương pháp để phát hiện tài năng
Không có khả năng và không biết sử dụng tài năng, vì nó cho rằng tài năng thường có hại, tài năng không chịu ngoan ngoãn phục tùng
Nó lại càng không có khả năng phân biệt tài năng thật và tài năng giả, trí thức thật và trí thức giả. Nó chỉ thích nghe những điều xuôi chiều và xu nịnh, Nó không thể chịu được những cái độc đáo và không dung tha sự độc lập”.
Về vấn đề Đảng lãnh đạo, Trần Độ phát biểu: “Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hoá, ruỗng nát, tắc tỵ không những của cơ thể xã hội mà cả cơ thể Đảng nữa”.
Theo Trần Độ “nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng”.
Ông kêu gọi: “Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ “hiệp thương” mà thực chất là gò ép”.
Trần Độ có 4 câu thơ giãi bầy tâm sự thật ngao ngán (và được một số tài liệu đăng lại khác nhau):
Bản 1
Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ác xóa đi, thay bằng cực thiện
Tháng ngày biến hoá, ác luân hồi.
|
Bản 2
Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.
|
Chính vì các quan điểm trên mà ông bị khai trừ khỏi đảng Cộng sản Việt Nam.
ẤN PHẨM VIẾT VỀ CUỘC ĐỜI ÔNG SAU KHI ÔNG MẤT
Tháng 10 năm 2007, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân vừa phát hành cuốn Chuyện tướng Độ. Cuốn sách dày 318 trang đã vẽ lại chân dung của Trần Độ, là một vị tướng nổi tiếng tài ba đồng thời là nhà văn đã gắn chặt đời mình vào cây súng và cây bút đi cùng dân tộc suốt hai cuộc kháng chiến vĩ đại. Giúp bạn đọc tìm hiểu về một Trần Độ có nhiều công trạng, có cá tính, thuộc dạng “công thần” của cách mạng Việt Nam: 16 tuổi đã đi hoạt động; 17 tuổi bị địch bắt, bị giam cầm qua nhiều nhà tù…rồi trốn thoát tiếp tục hoạt động.
Có đoạn đại ý: sau 1974 ông được đi công tác nước ngoài (Cộng hòa Dân chủ Đức), ông đã nhận ra rất nhiều điều chưa ổn và không ổn trong nguyên lý cũng như thực tiễn xây dựngchủ nghĩa xã hội, ông nghiên cứu và viết một bức “Thư tâm huyết”, dài 14 trang, trình bày tất cả những gì ông thấy, ông nghĩ, ông muốn về xây dựng chủ nghĩa xã hội, gửi tới lãnh đạo đảng Cộng sản. Ông viết vào kiến nghị phát hiện của ông về sự nhầm lẫn khái niệm trong lý luận của Stalin và dự báo những hậu quả của nó, ông hiến những giải pháp, ông không hề né tránh cả những điều mà ngày ấy nói ra rất khó nghe, chấp nhận gặp nguy hiểm.
Giải pháp đáng chú ý nhất là ông đề nghị mời những nước có nền kinh tế phát triển vào trong nước hợp tác đầu tư, không kể đó là nước xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa[2].
Nhà văn Võ Bá Cường đã công bố nguyên vẹn bức thư ấy ở phần cuối cuốn sách. Bây giờ Trần Độ đã mất, cuốn sách này viết về những công trạng của ông, những việc ông đã làm, đã viết dù rằng ông đã là người bị khai trừ ra khỏi đảng cộng sản.[2].
II. TÀI LIỆU II. MỘT CÁI NHÌN TRỞ LẠI . Trần Độ
Đây không phải là một luận văn, mà là một thiên bút ký thổ lộ nỗi niềm của một người 76 tuổi đời, 58 tuổi Đảng.
Tháng 9 này tôi tròn 75 tuổi (1923-1998). Thấy cũng cần ghi lại những suy nghĩ về cuộc sống và về sự đời, mà lâu nay tâm tư lúc nào cũng bị xáo trộn.
Thế là gần hết thế kỷ 20 rồi. Thế kỷ đã diễn ra những sự kiện lớn làm xáo động cả sinh hoạt của nhân loại :
- Trước hết là chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), tìếp đến Cách mạng Tháng Mười ở Nga.
- Tiếp theo là sự hình thành một loạt nước xã hội chủ nghĩa, hình thành một phe lớn trong hai phe của thế giới, diễn ra cuộc đấu tranh về hai hệ tư tưởng, kèm theo các mặt đấu tranh khác (kể cả quân sự).
- Một sự kiện quan trọng là “cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật” dẫn tới sự bùng nổ thông tin toàn cầu và hoạt động của loài người mở rộng ra không gian vũ trụ : những chuyến thám hiểm, những vệ tinh, những cuộc lên mặt trăng, sao Hỏa. Những vấn đề loài người ra sống ngoài vũ trụ và ở các hành tinh khác cũng đã được đặt ra (di dân, du lịch).
- Cuối cùng, sự kiện quan trọng nhất, là sự xóa bỏ thế giới “xã hội chủ nghĩa hiện thực“, việc này làm đảo lộn hoàn toàn các suy nghĩ, các mối quan hệ của loài người giữa các nước.
- Riêng ở nước ta, có một biến động hết sức quan trọng : sau hơn 50 năm tranh đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân ta đã giành được độc lập và thống nhất đất nước, đưa cả nước Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới : kỷ nguyên độc lập, hòa bình, xây dựng và phát triển.
Do đó, cuộc sống và những suy nghĩ về cuộc sống lúc đầu thế kỷ và lúc ở cuối thế kỷ này hoàn toàn khác nhau. Vì thế kỷ 20 đem lại cho loài người nhiều thắng lợi, nhiều vẻ vang, nhưng cũng đem lại cho loài người nhiều bài học vừa cay đắng, vừa đau đớn.
***
Tôi đã sống 75 năm trong 100 năm sôi động vừa qua. Tôi đã trải và nghiệm ra nhiều điều, nhiều lẽ. Những trải nghiệm này có nhiều điều hay và tốt. Nhưng cũng có những điều đau. Tôi ghi lại để tôi ngẫm cùng tôi, nhưng những điều suy ngẫm ấy có thể giúp ích cho con cháu sau này, cho dù chúng cũng có những trải nghiệm của chúng.
Trải nghiệm một cuộc đời ngót nghét trăm năm không phải là ít, lại càng không phải là sự trải nghiệm một chiều. Nhưng trong những trải nghiệm trong chính cuộc đời tôi làm tôi phải suy ngẫm và trăn trở nhiều có lẽ có hai điều sâu sắc và phức tạp nhất, có tính chất học thuyết và nguyên lý.
Đó là vấn đề “giai cấp” và vấn đề “Đảng cộng sản“.
I. VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
Từ những năm tuổi 14-15, còn đang thời học trò cấp 2 (so với hiện nay), tôi và các bạn tôi đều có một trạng thái tinh thần rất giống nhau : chúng tôi rất sục sôi yêu nước, rất căm phẫn trước tình hình mất nước, tình hình dân tình đau khổ và sống đời nô lệ. Những cụm từ “nước mất nhà tan “, “vong quốc“, “hồn nước non “… đều lay động dữ dội tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi thấy hết sức tự nhiên coi mình như đã là những phần tử của một phong trào, một thiên hướng tư tưởng “cứu nước “. Mặt khác, hàng ngày, trong đời sống bản thân, trong quan hệ họ hàng và xóm giềng và rộng ra nữa, trong quan hệ hàng tổng, hàng tỉnh, chúng tôi đều trông thấy, nghe thấy biết bao nhiêu điều bất công, tủi nhục và oan khuất. Chúng tôi đều là con nhà nghèo, từ góc độ con nhà nghèo nhìn thấy tình hình xã hội như thế thì tâm tư càng đau khổ nhức nhối. Nhưng chỉ biết đến thế, chứ chưa giải thích được tình hình và tìm ra phương hướng, chưa giải đáp được những vấn đề được đặt ra. Cho nên cũng chỉ lặng lẽ cùng nhau đọc sách và mơ ước. Mơ ước những năng lực phi thường, mơ ước những phương sách lý tưởng và mơ ước đến tương lai huy hoàng của dân tộc. Những mơ ước ấy không thoát ra ngoài những điều đã được viết trong các tiểu thuyết, nhất là những tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc, mơ ước có những vị vua anh minh, những tướng quân tài cao chí cả.
Trong trạng thái tâm hồn như vậy, chúng tôi gặp gỡ và tiếp xúc với những ý tưởng mới của chủ nghĩa Mác, trong đó nổi bật là vấn đề giai cấp.
Chúng tôi tiếp xúc với vấn đề giai cấp như một sự bừng sáng mạnh mẽ và rực rỡ trong tinh thần.
Nhờ chủ nghĩa Mác chúng tôi hình dung được những nét lớn trong việc lý giải tình trạng xã hội, lý giải hoàn cảnh mất nước của mình, trên cơ sở nhận thức : “phân rõ giai cấp“.
Chúng tôi không còn căm thù chung chung “giặc Tây “, lòng căm thù của chúng tôi hướng rõ rệt vào cái gọi là đế quốc Pháp, mà đế quốc Pháp là con đẻ của giai cấp tư sản Pháp và chủ nghĩa tư bản Pháp. Đó là một ánh sáng lớn soi rọi vào vấn đề giai cấp.
Nhìn vào trong xã hội nước nhà, chúng tôi không còn bối rối nhiều. Vì chúng tôi đã nhìn rõ tất cả những bất công, tủi nhục, oan khuất… của nhân dân trong xã hội là kết quả tất nhiên của một xã hội có phân chia giai cấp : giai cấp áp bức bóc lột và giai cấp bị áp bức bóc lột. Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đó tác động mọi mặt vào xã hội và là động lực thúc đẩy xã hội tiến lên. Con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, mang lại hạnh phúc cho nhân dân là con đường “phải tiêu diệt cho được giai cấp bóc lột “, mà giai cấp ấy giờ đây thể hiện rõ ở thế lực của đế quốc Pháp và bè lũ tay sai (Việt gian). Chúng tôi nhìn vấn đề như vậy từ chỗ đứng và với tư cách người bị áp bức bóc lột, thành ra nhận thức nói trên có một ánh sáng và một sức mạnh đặc biệt.
Dưới ánh sáng của nhận thức về giai cấp, mọi vấn đề, mọi quan hệ xã hội, mọi hiện trạng xã hội đều có thể lý giải.
Chúng tôi sung sướng, chúng tôi cảm thấy hạnh phúc như có được trong tay một bảo bối quý giá để nhìn đời và bước vào đời : đó là sự giác ngộ giai cấp và ý thức giai cấp. Chúng tôi thực sự có ý thức về vị trí giai cấp của chúng tôi. Chúng tôi tôn trọng và thần tượng hóa vai trò của giai cấp bị áp bức bóc lột : công nhân và nông dân, dân nghèo vv… Chúng tôi nhìn những giai cấp bị áp bức với cảm tình và niềm khâm phục. Họ là động lực thay đổi cuộc sống ngột ngạt hiện tại.
Chúng tôi có một sức mạnh tinh thần mới rất lớn, rất lớn. Càng đi sâu vào cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và quyết liệt (trong chiến tranh), chúng tôi càng thấy rõ thêm, sâu thêm và rộng thêm sức mạnh tinh thần đó. Ý thức của chúng tôi cũng có những biến chuyển từ thấp đến cao. Trong những chuyển biến đó, tôi chú ý đến những chuyển biến sau đây :
- Từ ý thức và tình cảm tự nhiên là “thương người nghèo”, chúng tôi đã tiến đến tình cảm và ý thức tôn trọng những người lao động (người nghèo), từ thương cảm đến tôn trọng, đến nhận thức rõ hơn vai trò cách mạng và năng lực cách mạng của công nhân và nông dân. Đặc biệt trong chiến tranh cách mạng, chúng tôi được chứng kiến vô vàn thí dụ về tinh thần hy sinh cao cả và năng lực chiến đấu dũng cảm bền bỉ của những người nông dân, công nhân. Thành ngữ “công nhân lãnh đạo và nông dân là chủ lực” cho cách mạng cứ hiển hiện rõ từng ngày, không cần phải bàn cãi. Nhu cầu cần bồi dưỡng văn hóa, chính trị và năng lực lãnh đạo cho các đồng chí thành phần công nhân, nông dân cũng hiển nhiên rõ ràng. Do đó cần phải có những chính sách ưu tiên, tạo điều kiện cho các đồng chí ấy tiến bộ cũng là điều hiển nhiên và tất yếu.
- Sự chuyển biến thái độ đối xử với người nghèo diễn ra trong toàn xã hội. Tôi biết có gia đình một nhà trí thức cao cấp yêu nước đi ra chiến khu kháng chiến. Gia đình nhiều con nên có hai người giúp việc : một vú già, một “con sen” (con ở gái), hồi trước còn thêm một “anh xe” (kéo xe) nữa. Khi ra chiến khu, hai người nữ giúp việc cùng sống chung với gia đình nhà trí thức. Người vú già được coi như người mẹ thứ hai của lũ trẻ, còn cô gái thì được coi như con gái lớn trong nhà. Bà vú già khi mất được ma chay báo hiếu trọng thể. Cô gái lớn được dựng vợ gả chồng và được coi trọng đúng như cô chị cả trong gia đình. Sự chuyển biến cái quan hệ xã hội này tốt đẹp biết bao nhiêu.
Nó là kết quả tinh thần của Cách mạng Tháng Tám.
Sự tiếp nhận ý thức giai cấp trong chúng tôi cũng nẩy sinh vấn đề tình cảm : tình cảm giai cấp. Mọi tình cảm đều xoay quanh khái niệm giai cấp, phù hợp với ý thức giai cấp được coi là tốt đẹp, cái gì không phù hợp với tình cảm ấy thì không thể chấp nhận. Điều được coi như cao cả và thiêng liêng là “tình thương yêu giai cấp“. Các thứ tình cảm khác như tình yêu, tình bạn, tình gia đình, tình họ hàng… đều phải lấy tình thương yêu giai cấp làm cơ sở và phải phụ thuộc vào nó. Những người thuộc giai cấp không phải nông dân, công nhân, mà tự nguyện nhận ý thức giai cấp, nhận lập trường giai cấp công nông là của mình, thì được khen ngợi, được biểu dương, được người ta lặng lẽ trao tặng một cái như là một danh hiệu tốt đẹp : những người biết “đầu hàng giai cấp“, biết bỏ bóng tối tìm ra ánh sáng. Điều này tác động cả vào quan niệm thẩm mỹ. Trong chiến tranh chúng tôi sống ở nông thôn nhiều, thực lòng chúng tôi thấy vẻ chất phác và vóc dáng khỏe mạnh của thôn nữ là đẹp. Mỗi khi về sống lại ở thành phố, thời gian đầu chúng tôi thường dè dặt và xa lánh các cô gái thành thị “áo ve sầu, đầu súp-lơ” với những dáng vẻ ẻo lả mượt mà, mà chúng tôi cho là không đẹp. Định kiến ấy cũng tồn tại một thời gian.
Rồi nữa, chúng tôi đã từng sống nhiều chục năm trong một trạng thái tinh thần hứng khởi, cao thượng và trong sạch. Trạng thái tinh thần này phổ biến trong đa số nhân dân, nó là nền tảng cho những mối quan hệ, đặc biệt quan hệ giữa người và người rất tốt đẹp : giữa cán bộ và nhân dân, giữa quân đội và nhân dân, giữa cấp trên và cấp dưới… Tình trạng đó kéo dài suốt từ trước năm 1945 đến 1975.
Thế mà tại sao đến bây giờ, rất nhiều người, ít nhất là theo tôi thấy được và nghe được, đều than tiếc những điều tốt đẹp của mấy chục năm quá khứ. Những mối quan hệ nói trên cứ dần dần có sự biến đổi. Trong chiến tranh, sự biến đổi không rõ lắm, nhưng từ sau khi sự nghiệp cách mạng giành độc lập và thống nhất đất nước đã hoàn thành, thì sự biến đổi ấy càng rõ rệt và nhanh chóng. Nó đã diễn ra một sự “biến dạng“. Nó đã biến dạng thế nào, từ cái gì trở thành cái gì và tại sao ?
Qua sự suy ngẫm về diễn biến ý thức của bản thân, qua sự nhớ lại các hành xử của mình và của người khác mà mình thấy được, qua sự quan sát và nghe được chuyện từ nhiều nguồn, tóm lại là qua sự trải và sự nghiệm của bản thân, tôi thấy được mấy điểm :
1. Trước hết hãy so sánh hai bức tranh
Ngày xưa (trước 1945 và trước 1954,1975) và ngày nay (những năm 1990). Hai bức tranh biểu hiện hai thời kỳ, hai tình trạng, từ đó xuất hiện một “ước mơ giật lùi ” : “bao giờ cho đến ngày xưa ?“
Ngày xưa, khi những ý tưởng về giai cấp và đấu tranh giai cấp được lan truyền đã làm bùng lên trong lòng mọi người một ánh sáng và tạo nên một sức mạnh tinh thần, thúc đẩy tinh thần yêu nước và cứu nước của toàn thể nhân dân. Tất cả những cái đó trở thành một chất keo tinh thần gắn bó mọi người lại với nhau trong một tinh thần đoàn kết đấu tranh trong sáng và đơn giản, nhằm một mục tiêu lớn và rất rõ rệt : giải phóng đất nước, giải phóng nhân dân lao động khỏi nô lệ, khỏi áp bức.
Chủ nghĩa Mác-Lê đã giác ngộ mọi người một cơ sở lý lẽ như sau : xã hội có nghèo đói, bất công là do có sự áp bức bóc lột của giai cấp thống trị cầm quyền, do có sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Muốn “đổi đời“ (giải phóng những người bị áp bức bóc lột) phải đẩy mạnh đấu tranh giai cấp, vừa lấy lại đất nước độc lập, vừa xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Như thế mới có một xã hội vừa độc lập vừa công bằng dân chủ, chính quyền thực sự về tay nhân dân. Những điều đó đã nhân lên bội phần tinh thần cứu nước và tinh thần xây dựng, xây dựng một đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc. Tinh thần đấu tranh cách mạng nhờ sự giác ngộ đó được nhân cao lên nhiều lần. Lúc đó Đảng cộng sản (nói cho rõ hơn là những người cộng sản) hòa mình trong nhân dân, nhân dân tìm đến những người cộng sản như tìm đến những người thân. Họ là những người vừa hướng dẫn đấu tranh vừa là những người cần được che chở bảo vệ và cứu giúp (về cả ăn, mặc, cũng như nơi ở an toàn). Trong nhiều hồi ký viết về nhà tù Sơn La, các tác giả miêu tả lại những hình ảnh rất cảm động, khi tù chính trị (những người cộng sản) bị đày từ Hỏa Lò (Hà Nội) lên Sơn La đi qua Suối Rút. Nhân dân Chợ Bờ, Suối Rút đã đón tiếp, chào mời và tự nguyện giúp đỡ từ bát cháo, điếu thuốc, cái chiếu, chỗ nằm. Cho nên, lúc ấy Đảng ở trong dân, Đảng với dân là một. Dân đi tìm Đảng, Đảng cũng đi tìm dân như tìm những người có ân có nghĩa.
Ngày nay Cách mạng đã thắng lợi : đất nước đã thống nhất và độc lập. Chính quyền đã về tay nhân dân. Và những người cộng sản là người thay mặt nhân dân nắm giữ chính quyền. Từ chỗ nhận thức như vậy tất cả những chức vụ quan trọng từ cấp cơ sở đến cấp toàn quốc đều phải do các đảng viên cộng sản nắm giữ. Tất cả những người cộng sản này phải có mức thu nhập và mức sống cao (từ nhà ở, phương tiện đi lại, phương tiện sinh hoạt) để đảm bảo sức khỏe và có điều kiện tốt để làm việc cho dân cho nước. Gia đình các vị này, con cái các vị cũng phải được bảo đảm điều kiện thuận lợi trong đời sống từ việc học hành, chữa bệnh. Phải cho các cháu học hành đầy đủ để có đủ năng lực nối tiếp truyền thống của cha anh mà giữ vững chính quyền nhân dân. Như thế là xuất hiện một tầng lớp người (chưa gọi là một giai cấp) làm việc trong những chức vụ cai trị, chủ yếu là những đảng viên Đảng cộng sản. Chức vụ càng cao thì càng phải do những đảng viên quan trọng (cao cấp) nắm giữ.
Vậy là Đảng với dân đã tách thành hai : một số người (chủ yếu là của Đảng) làm việc cai trị dân. Mà đã cai trị thì phải có chức, đã có chức là có quyền, đã có quyền ắt có lợi. Quyền lực lớn thì có lợi lớn. Đảng đâu còn “hòa trong dân, cùng với dân là một ” như trước. Trên danh nghĩa, chính quyền của Đảng khi làm việc gì cũng là thay mặt dân và nhân danh dân, vì lợi ích của dân (chính quyền do dân, vì dân, của dân). Thế mà dân hiện nay đi tìm Đảng là đi tìm những ông bí thư, chủ tịch, bộ trưởng, đại biểu Quốc Hội, ủy viên Trung ương, để khiếu nại tố cáo, kêu oan và cầu xin sự cứu giúp. Có những ông đảng viên già (nhưng không có chức vụ gì, thì cũng như là dân) xếp các đơn kêu xin của mình vào một cái túi nặng hàng chục ki lô, đi lại các cấp các ngành hàng chục năm trời mà vấn đề của ông ấy vẫn không được giải quyết (vì nó phức tạp quá). Khi ông già này còn trẻ bắt đầu giác ngộ và hăng say đấu tranh ông ấy không thể tưởng tượng nổi tình cảnh ông ấy lúc về già.
Không những Đảng với dân đã là hai, mà ngay trong Đảng cũng thành hai. Một Đảng gồm những người không có chức vụ hoặc chức vụ thấp. Một Đảng gồm những người có chức vụ cao và quyền lực, quyền lợi cao. Hàng triệu chiến sĩ và nhân dân khi hy sinh đều không nghĩ rằng một kết quả quan trọng của sự hy sinh của họ lại là tình trạng thế này. Nhà thơ Bùi Minh Quốc đã phải thốt lên :
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính cỗ máy này !
Và hễ ai muốn nêu vấn đề để tìm ra phương thức lãnh đạo và tổ chức của Đảng trong điều kiện mới cho có hiệu lực và quan hệ tốt đẹp “như ngày xưa” thì lập tức cũng bị bộ máy tư tưởng gán cho tội “phủ nhận Đảng” và bộ máy công an coi là có tội “làm hại đến an ninh quốc gia“, cho người theo dõi, canh giữ, giám sát và bỏ tù.
Kẻ viết những dòng này trong năm 1998, từ 25 tháng 7 vào ngôi nhà của con trai út số nhà 116/ 33 Hoàng Hoa Thám, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Ở đó dự định cho đến hết tháng 10. Trong hơn 100 ngày đó, trước ngôi nhà này luôn luôn từ sáng đến tối, mỗi ngày đều có từ một đến ba nhân viên an ninh mặc thường phục, hóa trang làm người chữa xe đạp, lái xe ôm, lái xe tắc xi… coi chừng, giám sát, ghi chép, và cả chụp ảnh nữa. Khi kẻ này đi chơi ở Huế cũng có những nhân viên an ninh từ Hà Nội bay vào Huế ở cùng khách sạn để theo dõi những người quen đến thăm kẻ này.
Rất nhiều triết gia Đông và Tây, từ cổ chí kim, đều thừa nhận rằng trên đời này không có sự vật, hiện tượng nào đứng im, nó luôn luôn chuyển động và biến hóa. Vì vậy sự chuyển động và biến hóa (hoặc biến dạng) của xã hội và của Đảng là điều rất tất nhiên, chỉ có điều ta phải xem sự biến dạng đó có kết quả ra sao, tốt hay xấu ?
Tình hình xã hội và con người trong thời chống Pháp khác với thời chống Mỹ. Thời chống Mỹ nước ta có hai miền nên cũng có nhiều vấn đề Đảng và dân phải giải quyết, phức tạp và khó khăn hơn thời chống Pháp, nhưng trình độ tư tưởng và tổ chức của Đảng, của dân đã cao hơn, làm việc hiệu quả tốt hơn. Tuy vậy, cũng có một số mặt kém đi : trong quân đội hiện tượng đào ngũ (B quay) xuất hiện, quan hệ quân dân không tốt hơn, những vụ kỷ luật về vi phạm đến quyền lợi của dân cũng nhiều hơn.
Sự chuyển động và biến dạng kể trên là sự chuyển động và biến dạng lớn nhất, quan trọng nhất, bao trùm nhất. Chính nó chi phối các sự chuyển động và biến dạng bộ phận nối tiếp sau. Mỗi sự vật sự việc đều có hai mặt : một mặt phải (tích cực), một mặt trái (tiêu cực). Trong chuyển động và biến hóa cả hai mặt đều chuyển động và biến hóa khác nhau, khi thì tiến lên, khi thì thụt lùi.
2. Về ý thức giai cấp
Từ chỗ có ý thức thương yêu tôn trọng, tin cậy những người ngèo khổ bị bóc lột (là công nhân và nông dân), đánh giá cao khả năng cách mạng của họ, ý thức này dần trở thành cực đoan, đi tới chỗ không tin cậy các thành phần khác, chỉ đề cao công nông. Sự tuyệt đối hóa những ưu điểm cách mạng của công nông đã dẫn tới chỗ đánh giá thấp khả năng cách mạng của các tầng lớp khác. Có một dạo đã xuất hiện những từ khinh miệt gọi cánh học sinh và những người thuộc tầng lớp trung lưu là “tạch tạch sè“ (tiểu tư sản), và những người này cũng vui vẻ tự gọi mình như thế. Ý thức này đã được chính thức công khai thể hiện trong cái gọi là “đường lối công nông về công tác cán bộ“.Chính kẻ viết những dòng này cũng đã từng thuyết giảng nhiều lần về đường lối này và phê phán một cách đầy thuyết phục những hiện tượng vi phạm đường lối công nông.
Trong khi ấy, trong thực tiễn đấu tranh cách mạng có hai hiện tượng rõ rệt : một là, tinh thần dũng cảm chiến đấu và hy sinh rất quyết liệt của các cán bộ và chiến sĩ xuất thân từ công nông, số này chiếm đa số. Mặt khác, phần lớn các đồng chí lãnh đạo ở cấp cao nhất đều không phải xuất thân từ công nông, mà xuất thân từ những tầng lớp trung lưu hoặc tầng lớp trên của xã hội. Các đồng chí đó là những chiến sĩ cách mạng trung kiên, có một ưu thế mà những người xuất thân công nông không có, đó là trình độ học thức cao, ngoại ngữ giỏi. Nhưng tình hình này không được coi là thí dụ của một khả năng cách mạng của những người thuộc tầng lớp phi công nông.
Vấn đề đường lối công nông dẫn đến một số hiện tượng gọi là “thành phần chủ nghĩa“, và “chủ nghĩa lý lịch“. Hiện tượng này dẫn đến những định kiến, phân biệt đối xử, bỏ qua và lãng phí nhiều khả năng cách mạng, bỏ qua nhiều tài năng, làm cho nhiều tài năng bị thui chột, tổn thương đến tinh thần đoàn kết dân tộc để đấu tranh giành độc lập. Đường lối này và “chủ nghĩa thành phần” tác động vào mọi mặt sinh hoạt của xã hội, làm tổn thương tính công bằng xã hội và tổn thương chính sách xóa bỏ hận thù trong quá khứ để đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước. Càng trong hoàn cảnh thắng lợi lớn và trong hòa bình xây dựng thì tổn thương và tai hại do “chủ nghĩa thành phần” thể hiện thành chính sách của Đảng càng to lớn và không gì bù đắp được. Sự tai hại không chỉ tác động đến những thành phần lớp trên mà còn tác động đến toàn dân kể cả công nông. Hiện tượng nhiều người bỏ nước ra đi sau đại thắng 1975 là sự rạn nứt không chối cãi được của khối đoàn kết toàn dân. Có nhiều người tuy bỏ nước ra đi, nhưng trong lòng vẫn có cảm tình với cách mạng. Họ phải ra đi, bởi vì nếu họ ở lại thì họ không có cách gì sinh sống, trong khi tài sản của họ cũng không còn. Họ ra đi còn kéo theo hậu quả là hàng trăm lao động và gia đình mà trước đây bị họ “bóc lột“, nay không còn đường sinh sống. Như thế là có những người ra đi là bị buộc phải ra đi, chứ họ chẳng chống ai, chẳng thù ai. Những người này và cả những người mất việc đều thấy có một sự “khó hiểu” trong chính sách của cách mạng, mà không ai giải thích được cả.
3. Mỗi triết thuyết đều có cái lý của nó
Nhưng cứ giản lược hóa nó, rồi nhấn mạnh vai trò của nó quá mức cần thiết thì tất sẽ dẫn đến hậu quả tai hại khôn lường. Tôi nay đã ngoài 70 tuổi, nhờ đọc thêm được một số sách, nghe thêm được nhiều ý kiến, cũng mới nhận ra được điều này. Vấn đề ý thức giai cấp cũng thế thôi. Từ chỗ tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp trong sự bộn bề của đời sống con người và xã hội sẽ đi tới chỗ nguy hiểm do giải quyết nhiều vấn đề không còn chừng mực của nó nữa. Một hệ quả quan trọng của chủ nghĩa thành phần là vấn đề chuyên chính vô sản. Tôi đã trải qua nhiều lần sinh hoạt ở Trung ương (Đảng) các khóa, và tôi nhớ là nhiều lần Trung ương đã thảo luận vấn đề này. Nhưng quả thật sự thảo luận đã không đi đến được sự lý giải rõ ràng và nó dừng lại ở chỗ thỏa thuận với nhau và trở thành tư tưởng chỉ đạo cho đến bây giờ, là :
- Phải chuyên chính với kẻ thù (giai cấp) và dân chủ với nhân dân lao động.
- Phải có bộ máy mạnh để chuyên chính với kẻ thù.
- Vì chế độ ta là một chế độ dân chủ, cho nên sự thực hiện chuyên chính chỉ nói trong nội bộ, chứ không công khai nói ra làm gì !
Như vậy là cứ làm mà không nói, trong một phương châm hành động cũng không nói ra là : “nói một đàng, làm một nẻo“. Như vậy đây là trường hợp làm mà không nói. Có trường hợp khác thì lại cứ nói, nói càng nhiều càng tốt, nhưng chỉ cần nói thôi, chứ không làm. Điều này làm cho nhân dân gặp rất nhiều điều khó hiểu. Điều đó trở thành một đặc điểm của chính quyền cộng sản. Mà không phải chỉ có kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản mới nhận xét thế. Có nhiều người bạn trung thực của phong trào cộng sản, nhiều lý thuyết gia thế giới, cũng nhận xét như thế. Những dẫn chứng cho nhận xét trên đây có rất nhiều trong sinh hoạt hàng ngày của xã hội ta.
Khi có sự thảo luận, tôi phải tìm hiểu vấn đề, do vậy tôi đã tìm đọc Lênin trong những đoạn ông nói về chuyên chính vô sản. Về khái niệm này Lênin có nói ở nhiều chỗ, nhưng nội dung không giống nhau. Tôi nhớ có hai loại ý khác nhau :
a) Có chỗ Lênin cho rằng đó là chính quyền cách mạng của giai cấp vô sản, nó có nhiệm vụ xóa bỏ và triệt tiêu mọi tồn tích của chính quyền cũ (tư sản) vừa bị đánh đổ. Cho nên chuyên chính vô sản không dùng và không dựa vào bất cứ pháp luật nào của chính quyền cũ, mà chỉ hành động vì lợi ích của cách mạng, vì lợi ích của giai cấp vô sản.
b) Có chỗ thì Lênin nói rằng : chuyên chính vô sản là dân chủ vô sản. Mà dân chủ vô sản thì cao hơn dân chủ tư sản. Vì vậy chuyên chính vô sản không bao giờ coi đàn áp là quan trọng, thậm chí coi đàn áp là chủ yếu cũng không chấp nhận được. Phải coi trọng sự tổ chức và giáo dục.
Do không có điều kiện để tìm và trích nguyên văn, nhưng tôi bảo đảm là tôi đã nhớ đúng hai tinh thần đó. Nghĩa là : thực hiện chuyên chính vô sản là thực hiện một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt để xóa sạch mọi tàn dư của chính quyền cũ vừa bị đánh đổ theo ý”a” nói trên. Đó là chuyên chính vô sản trong hoàn cảnh mới giai cấp vô sản mới giành được chính quyền. Nhưng đến khi ta đã xây dựng được chính quyền rồi thì chính quyền mới này phải là một chính quyền dân chủ cao hơn hẳn chính quyền tư sản. Chính quyền dân chủ mới này quản lý xã hội bằng tổ chức và giáo dục chứ không phải bằng đàn áp, bằng bạo lực. Vì vậy mà lâu nay trong lý thuyết mới có sự đề cập tới việc xây dựng một “nhà nước pháp quyền” và quản lý xã hội bằng một hệ thống luật pháp ăn nhập cả với các thông lệ luật pháp quốc tế. Một nhà nước dân chủ giữa các nhà nước dân chủ của thế giới. Hay biết bao ! Và ta sẽ có dịp tỏ rõ tính ưu việt của nền dân chủ vô sản.
Tôi đã từng biết, từng gặp những đồng chí luôn luôn biểu thị khí thế đấu tranh giai cấp quyết liệt, hò hét tiêu diệt mọi kẻ thù. Quan niệm “kẻ thù giai cấp” đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của các cơ quan pháp luật. Hầu hết những người làm việc trong các cơ quan pháp luật đều cho rằng hễ ai mà đã phạm luật, hoặc bị nghi ngờ là có vi phạm đều phải coi là kẻ thù của cách mạng và các đồng chí đó đều đối xử với đối tượng ấy như đối với kẻ thù : từ cách nhìn khi gặp gỡ, tiếp xúc, cách hỏi cung, cách dẫn đi, cách cho ăn cho uống… Tôi đã được đọc một số hồi ký của một số người bị bắt và bị tù, nghe lời kể trực tiếp hoặc gián tiếp của thân nhân những người bị tù. Những người bị tù trong chế độ ta không được đối xử như một người “nhân dân“, như bất kỳ một công dân nào, mà như một kẻ thù. Số người được đối xử đặc biệt cũng có, nhưng ít ỏi.
Tôi có một bà chị có chồng là tù nhân trong thời đế quốc phong kiến, nay có con rể là tù cách mạng. Chị có kể chuyện về hai cuộc đi thăm tù : trước đi thăm chồng, nay (sau năm 1975) đi thăm con rể. Chị có một ấn tượng rất nặng nề khi phải so sánh hai cuộc đi thăm ấy : tù nhân thời nay cực hơn thời đế quốc. Trưóc nhận xét thẳng thắn của chị, tôi buồn rầu nghĩ rằng ta đã công bố nhiều chính sách hay, cũng đã có một số việc làm tốt được tuyên truyền rộng rãi. Chẳng lẽ ta không có cách gì xóa bỏ được ấn tượng nặng nề của tinh thần thù địch hay sao ?
4. Sự nhấn mạnh quá mức cần thiết về ý thức giai cấp hay tính giai cấp còn có một hệ quả tai hại và ngày càng tai hại cho xã hội. Gần đây Đảng có đề ra khẩu hiệu liên kết công nông với trí thức, mà có người phấn khởi đã gọi tắt là liên kết “công nông trí“. Một số trí thức đã hoan nghênh và coi đó là dấu hiệu tốt của con mắt Đảng khi nhìn vào trí thức. Nhưng công thức này vẫn đặt trên nền tảng là công nông. Trí thức chỉ được coi như một bộ phận không thể không có. Cái “ý thức giai cấp” coi thường và không tin cậy đối với trí thức xuất phát từ quan điểm cho rằng khả năng cách mạng của trí thức quá thấp, nhất là trong đấu tranh bạo lực. Điều này là rõ và hiển nhiên. Nhưng ngoài ra cái nhìn về trí thức còn bao hàm ý nghĩa : trí thức thuộc tầng lớp trên, tầng lớp bóc lột. Hình ảnh của họ là những người không thể tin cậy, những người cần phải cảnh giác, nhất là trí thức văn nghệ sĩ. Một bậc đàn anh của tôi đã có lúc ân cần thân mật dặn tôi : “Mày phải cẩn thận, văn nghệ sĩ nó hay xỏ xiên lắm đấy !“
Tài năng không có ý thức để chọn chỗ đầu thai. Cho nên những tài năng có không chọn chỗ đầu thai vào công nông là chuyện bình thường. Nhìn lại lịch sử ta thấy những nhân vật lẫy lừng của cuối thế kỷ thứ XIV đầu thế kỷ XX của ta đều xuất thân từ các gia đình khoa bảng hoặc bản thân là trí thức, kể cả Hồ Chí Minh. Cái nguyên lý đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội không thể khi nào cũng đúng với mọi thời đại và mọi dân tộc được. Nhưng những con người tài giỏi, có trí thức đóng vai trò quyết định số phận của đất nước và của dân tộc thì hình như rất đúng với Việt Nam, cả trong lịch sử xa cũng như lịch sử gần. Thời đại nào, dân tộc nào cũng nổi bật lên vấn đề người tài, và cũng chỉ có người tài mới để lại được những giá trị và ấn tượng tốt đẹp cho các đời sau.
Tôi thấy hình như cái ý thức công nông không có khả năng thấy rõ được vấn đề này. Và khi ai đó đề cập đến vấn đề mà ý thức giai cấp buộc phải lên tiếng thì y như rằng có những người trình bầy như thể các tài năng đều của công nông, đều từ công nông mà ra, đều phải dựa vào công nông mới phát triển được.
Tôi thì tôi thấy ngược lại. “Ý thức giai cấp” công nông không thể nhận biết được hai nguyên lý đơn giản mà tôi học được ở các nhà khoa học, đó là :
a/ Tài năng là của hiếm.
b/ Tài năng là của tất cả nhân dân.
Vì vậy phải đối xử với tài năng như là của hiếm, và của hiếm đó là tài sản quý của tất cả mọi người. Ngày xưa, vua chúa còn có khi tha tội hoặc xóa tội cho những người tài.
Nhưng “ý thức giai cấp” thì không. Từ “ý thức giai cấp” quá mạnh dẫn đến nhận thức cứng nhắc và mơ hồ chung quanh vấn đề “đức” và “tài“. Khi nêu lên quan hệ “đức” và “tài” thì cho rằng “đức” phải là gốc. Hơn nữa, khái niệm “đức” được nói đến chỉ với ngụ ý về một số phẩm chất đặc trưng của công nông. “Đức” chỉ là yêu quý và tích cực lao động (chân tay), không tham ô, hủ hóa, mà ít có gắn đức với những phẩm chất khác như trung thực, khiêm tốn, nhân ái, thương người, làm việc có hiệu quả. Vì vậy rất khó tìm đúng người đặt đúng việc.
Năm 1978, trong cuộc gặp gỡ giữa đồng chí Nguyễn Văn Linh với các văn nghệ sĩ, một nhà lý luận văn học đã phải thốt lên : “văn nghệ sĩ bị khinh bỉ sâu sắc“. Còn nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện thì phàn nàn: “Có những thành kiến như những bản án, mà là án chung thân, treo lơ lửng trên đầu một số văn nghệ sĩ“.
Tôi, thì tôi thấy rõ : “Cái ý thức giai cấp” trong xã hội ta có những đặc điểm sau :
Không có khả năng và phương pháp để phân biệt tài năng, vì nó không cần đến tài năng, không muốn có tài năng.
Không có khả năng và không biết sử dụng tài năng, vì nó cho rằng tài năng thường có hại, tài năng không chịu ngoan ngoãn phục tùng.
Nó lại càng không có khả năng phân biệt tài năng thật và tài năng giả. Nó chỉ thích nghe những điều xuôi chiều và xu nịnh. Nó không thể chịu được những cái độc đáo và không dung tha sự độc lập. Có những hiện tượng tác phẩm được giải thưởng nhưng không ai muốn đọc, muốn xem. Ngược lại, một số tác phẩm càng bị cấm, càng nhiều người tìm đọc. Tôi cho đây là một điều cần nghiêm túc xem xét, chứ không phải chuyện nói đùa chơi.
Đáng buồn là như vậy. Nó (cái ý thức giai cấp) mất luôn cả khả năng phân biệt và nhận biết những lẽ phải thông thường. Có một hiện tượng hết sức nguy hại cho vận mệnh của dân tộc và quốc gia. Đó là hiện tượng học giả, bằng giả, học hàm, học vị mua được bằng tiền. Những tác động nào đã đẻ ra tình trạng đó ? Đó có phải là chính sách văn hóa của nhà nước công nhân không ? Có cần phải có những chính sách hạn chế được cái giả mà khuyến khích được cái thật không ? Riêng một người, hoặc một nhóm ai đó, thì không thể nghĩ ra cái chính sách ấy được. Khuyến khích nghĩ sâu, khuyến khích nói thẳng thì sẽ không thiếu gì giải pháp chính sách. Nhưng khổ nỗi, với cái ý thức giai cấp xơ cứng thì không sao làm được.
Gần đây, và cả hiện nay, có một từ được lưu hành một cách bán chính thức. Đó là từ kẻ sĩ hoặc sĩ phu. Không biết ông trí thức, tác giả một số bài luận văn ký tên Hà Sĩ Phu có ý muốn bộc lộ nỗi lòng mà cất cao giọng hỏi : “Còn ai là sĩ phu nữa hay không ? Sĩ phu thời nay là ai và họ ở đâu rồi ?“. Tôi thấy hiện tượng lưu hành từ kẻ sĩ và sĩ phu là một sự phản ứng tế nhị nhưng dữ dội của giới trí thức trước tình hình bị đánh giá không đúng. Hai từ ấy có tác dụng giúp người ta phân biệt và nhận mặt kẻ giả và người thật.
Kẻ sĩ hay bậc sĩ phu có ngụ ý chỉ người hiểu sâu, học rộng (trí thức), nhưng lại là người trung thực và khảng khái, dám nói và nói thẳng. Như vậy từ kẻ sĩ có ngụ ý kêu gọi mọi người trí thức dù cao dù thấp, hãy xứng đáng là một kẻ sĩ, xứng đáng là một sĩ phu mà làm tròn trách nhiệm với đời như các bậc sĩ phu tiền bối. Nó cũng có ngụ ý lời tâm huyết của tầng lớp trí thức nói với giới lãnh đạo và quản lý : “Hãy để cho kẻ sĩ tự do nghĩ và tự do nói lời của mình“. Mà lời của kẻ sĩ(thật) thì thường khác với lời chính thống. Đó là dấu hiệu tốt để phân biệt thật giả. Mà hiện nay thật giả bị trộn lẫn, khó phân.
Cần khắc phục cái “ý thức giai cấp quá mức cần thiết“, cần đánh giá lại vai trò của trí thức, của kẻ sĩ trong sự phát triển của đất nước. Càng nhiều kẻ sĩ góp lời và thi thố tài năng thì đất nước càng có điều kiện phát triển và mới phát triển được. Điều này không hề làm giảm vai trò của Đảng cộng sản, mà trái lại, nó làm rõ thêm, sáng thêm đôi mắt và tấm lòng của Đảng đối với đất nước, đối với kẻ sĩ. Đó mới là chính trị sáng suốt. Ý thức công nông đúng đắn là phải tôn trọng và biết ơn giới trí thức (kẻ sĩ) là những người phát minh, sáng chế, tạo điều kiện cho công nhân sản xuất ra những giá trị vật chất ngày càng cao và cũng chính họ sản xuất ra những giá trị tinh thần cho xã hội rất cần thiết cho sự sinh tồn của một xã hội văn minh. Không thể để cho sự biến dạng ý thức giai cấp này kéo dài thêm nữa !!!
5- Có một điều lạ là để giải quyết các vấn đề của một dân tộc, một xã hội, phải có sự hiểu biết kỹ và sâu của xã hội đó, dân tộc đó
Đến nay, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã được hơn 50 năm, thắng lợi độc lập, thống nhất độc lập dân tộc đã được hơn 25 năm, mà chưa có một ý kiến nào đề ra việc phân tích xã hội ta hiện nay, tuy nhiều người vẫn thấy mình đứng trên lập trường giai cấp rất vững vàng. Riêng tôi, tôi nghĩ lập trường phải phù hợp với thực tiễn đời sống cụ thể, chứ không thể chỉ dựa vào kinh điển và những thứ “kinh điển” cần có dấu hỏi. Hình như hiện nay, khi phân tích xã hội Việt Nam về giai cấp vẫn còn những ý kiến từ trước Cách mạng Tháng Tám, khi đồng chí Trường Chinh còn là tổng bí thư. Bằng chứng là cho đến nay có người vẫn còn sử dụng những ý kiến phân tích giai cấp của xã hội ngày đó.
Còn ngày nay, giai cấp nông dân đang biến động thế nào, trong nông thôn xuất hiện thêm những tầng lớp nào ? Tâm lý và nguyện vọng của nông dân hiện nay ra sao ? Công nhân đang phát triển thế nào ? Có bao nhiêu thứ công nhân ? Bao nhiêu tầng lớp nông dân ? Ý kiến cho rằng tất cả công nhân viên, cán bộ các cơ quan nhà nước đều thuộc giai cấp công nhân có thỏa đáng không ? Những người làm thuê cho các doanh nghiệp tư nhân, liên doanh với nước ngoài có hoàn toàn giống như công nhân các doanh nghiệp nhà nước không ? Có thể hiện nay có những lớp người không thể quy là nông dân hoặc công nhân ? Dân nghèo thành thị có phải là một giai cấp không ? Có cần phải thừa nhận có một lớp người làm các nghề tự do như nhà báo, thầy thuốc, văn nghệ sĩ…, và những người đó có phải là nhân dân lao động hay không ? Rõ ràng hiện nay xuất hiện nhiều nhóm xã hội khác nhau ở nông thôn cũng như ở thành thị. Ta cần phân tích và miêu tả nó như thế nào để làm nền tảng cho ý thức giai cấp hiện nay cho thật phù hợp. Không làm việc này mà chỉ hò hét lập trường quan điểm để rồi có người chê là giáo điều, bảo thủ thì lại giận.
Tóm lại, phải thể hiện rõ sự tôn trọng lý thuyết giai cấp của Mác-Lênin ở vấn đề này một cách thiết thực như vậy. Đảng cần tập trung tinh lực, thời gian, trí tuệ, và tiền của vào những công việc nghiên cứu mà kết quả của nó đem lại điều kiện tốt đẹp cho sự lãnh đạo chính trị của Đảng, nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng.
***
Chủ nghĩa Mác-Lê về vấn đề giai cấp gồm nhiều vấn đề sâu rộng. Có thể có nhiều cách diễn giải tốt hơn (tôi không nói đúng hơn, vì có nhiều cách giải thích đúng và cái gì là đúng nhất là điều chưa thể có câu trả lời). Tôi đã được biết những ý kiến thảo luận chung quanh vấn đề giai cấp vô sản và sức mạnh của giai cấp vô sản quốc tế. Có ý kiến cho rằng cái lý thuyết của Mác dẫn Mác đến chỗ Mác phải có kết luận như vậy. Chứ thực ra xã hội loài người đang biến động, và sự biến động này chắc chắn không khớp với những tiên đoán của Mác.
Thật là mênh mông. Tôi chỉ dám đứng ở ngoài ngõ mà nhìn vào thôi. Tôi không đủ sức diễn giải được. Nhưng những gì tôi đã trải qua và nghiệm thấy, tôi thấy rõ trong xã hội ta có một sự hiểu biết vấn đề này quá giản lược và trong quá trình vận dụng sự hiểu biết ấy vào cuộc sống thì có nhiều biến dạng. Những biến dạng đều sinh ra những tai hại trong quan hệ xã hội và chính sách. Tôi cũng là người góp phần vào sự biến dạng đó. Nay tôi viết bài bút ký này với tinh thần phê bình rất thành thật, tôi mong có thể tìm được một bài học chung cho đời.Giờ đây, tôi thấy rất rõ là nếu chỉ biết chủ nghĩa Mác thôi thì chưa đủ, dù cho nó có hay đến bao nhiêu đi nữa, thì vẫn cứ cần phải đọc thêm để có được những hiểu biết về các học thuyết, các triết học khác, của cả phương Đông lẫn phương Tây.
II. CHUNG QUANH VIỆC ĐẢNG
Tôi được kết nạp vào Đảng cộng sản hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1940, lúc tôi 17 tuổi. Lần thứ hai vào năm 1943, trong nhà tù Sơn La. Lúc ấy tôi được chi bộ nhà tù Sơn La kết nạp lại, sau khi theo dõi, thử thách. Anh Lê Đức Thọ là người giới thiệu tôi để kết nạp.
Từ bấy đến nay đã 58 năm, trải qua nhiều sự kiện lịch sử khác nhau :
Những năm tháng vận động quần chúng bí mật để xây dựng lực lượng tổng khởi nghĩa, giành chính quyền.
Những năm tháng kháng chiến chống Pháp với những chiến dịch và kết thúc bằng chiến dịch lớn Điện Biên Phủ.
Những năm tháng đất nước bị chia cắt, tôi sống trong hoàn cảnh hòa bình ở miền Bắc với những sự kiện : cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, quân đội học tập và tập luyện.
Tôi lại được tham gia kháng chiến ở miền Nam khoảng 10 năm (1965-1974).
Rồi tôi lại được sống trong thắng lợi và hòa bình, tiếp xúc nhiều với văn nghệ sĩ, học tập được nhiều ở giới trí thức văn hóa, văn nghệ.
Suốt từ năm 1960 đến năm 1992 tôi liên tục là ủy viên trung ương Đảng 4 khóa.
Do đó, tôi tự cho rằng tôi có đủ điều kiện để nhận biết sự biến động, sự chuyển biến vận mệnh của Đảng, và có thể có một nhận xét về những sự chuyển biến đó.
Rõ ràng, Đảng từ những năm 1940 chỉ có mấy nghìn đảng viên, nhưng Đảng có ảnh hưởng rất lớn và rất rộng trong nhân dân. Nhân dân ai cũng biết có Đảng Cộng sản. Hướng về Đảng Cộng sản. Những lời kêu gọi và ý kiến lãnh đạo của Đảng đều hết sức đơn giản, dễ hiểu, nhưng đều lay động lòng người sâu sắc (cả trực tiếp lẫn gián tiếp). Đảng đã có nhiều ý kiến lãnh đạo đưa đất nước vượt qua được nhiều thử thách và bước ngoặt hiểm nguy, đi tới thắng lợi ngày nay : độc lập, thống nhất đất nước.
Có một nhận xét của không ít người là mỗi khi Đảng gắn với nhân dân, gắn với dân tộc, suy nghĩ và hành động phù hợp với suy nghĩ và nguyện vọng của nhân dân thì Đảng thắng lợi rất vẻ vang. Ngược lại, khi Đảng làm theo, học tập theo một “Đảng anh em ” nào đó, mà kinh nghiệm du nhập không phù hợp với hoàn cảnh dân tộc và đất nước thì đều có những bài học cay đắng. Cuộc cải cách ruộng đất và một số vụ trấn áp trong Đảng đã để lại nhiều vết thương sâu và chắc còn hậu quả lâu dài nếu không có cách nào thanh toán đi được.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một lịch sử thắng lợi vẻ vang. Nhưng không phải chỉ có thắng lợi vẻ vang, mà có những lúc, những việc, gây tổn thất và đau xót trong Đảng và nhất là trong nhân dân. Có những sự kiện mà có lẽ hàng trăm năm sau những nhà làm sử sẽ đánh giá lại. Khoảng cách thời gian có thể cho ta cái nhìn khách quan hơn và đúng đắn hơn. Không thể nóng vội hơn được. Nhưng không thể vì thế mà đi đến chỗ coi Đảng Cộng sản chỉ là một lực lượng tàn bạo, chỉ có đàn áp và làm hại nhân dân, làm hại dân tộc, cần phải đánh đổ và thay bằng lực lượng khác. Cách nhìn nhận như thế là của những đầu óc thù địch, thiên lệch, không thể chấp nhận được. Thực tế hiện nay không có lực lượng nào thay thế được Đảng Cộng sản.
Lịch sử của Đảng gắn liền với lịch sử dân tộc. Ai nhìn lịch sử dân tộc mà tách khỏi lịch sử Đảng Cộng sản là không được.
Đến nay có thể thấy hình ảnh Đảng Cộng sản là hình ảnh một cây cổ thụ xum xuê, thân hình lực lưỡng, gốc rễ sâu chắc. Vì Đảng có đã hơn hai triệu đảng viên. Đảng có những tổ chức quần chúng : công, nông, thanh, phụ, bao gồm nhiều chục triệu hội viên tích cực ủng hộ Đảng và sẵn sàng nghe theo Đảng.
Nhưng cũng có thể có một nhận xét là Đảng ngày nay tuy đông và mạnh như thế, nhưng nhân dân nói chung không gần Đảng hơn mà lại xa hơn. Lòng tin đối với Đảng giảm sút nghiêm trọng, nếu không muốn nói là lòng tin ấy đã mất hẳn.
Vì vậy có thể nói tuy cây Đảng bây giờ to lớn xum xuê về số lượng, nhưng thân cây và gốc cây có mang các bệnh hoạn nào đó mà chưa được chẩn đoán đúng để chữa trị.
Ngay từ khi gia nhập Đảng, tôi đã thấm nhuần những nguyên lý về việc xây dựng một Đảng kiểu mới – một đảng chiến đấu, là đội quân tiên phong và đội quân chiến đấu của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản vừa là của giai cấp công nhân, vừa là của toàn dân tộc. Đảng Cộng sản là một đảng kiểu mới so với những đảng chính trị trước năm 1930, trong đó có Quốc Dân Đảng của anh hùng Nguyễn Thái Học. Những đảng ấy không thiếu tinh thần yêu nước và đức hy sinh, nhưng có nhiều nhược điểm về tổ chức đảng, không thể trở thành một sức mạnh lớn đưa cách mạng tới thành công.
Đảng Cộng sản là một đảng chiến đấu, cho nên mỗi đảng viên phải là một chiến sĩ, một người cách mạng chuyên nghiệp. Điều đó vừa là vinh dự lớn vừa là trách nhiệm nặng nề.
Ngày nay Đảng đang lãnh đạo sự nghiệp phát triển đất nước và lãnh đạo một bộ máy nhà nước và một bộ máy xã hội khổng lồ. Việc thảo luận và phân tích tính chất chính trị của Đảng có một ý nghĩa to lớn. Không thể cho rằng tính chất của Đảng vẫn y nguyên như những năm trước năm 1945 và trong hai cuộc chiến tranh được. Nếu cứ giữ cái quán tính trong suy ngẫm từ mấy chục năm cho đến bây giờ để xử lý các vấn đề hiện tại về xây dựng Đảng thì chắc chắn sẽ có sai lầm, hoặc ít nhất là không có hiệu quả.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản của Đảng Cộng sản. Nguyên tắc này làm nên sức mạnh của Đảng. Nó có những nguyên tắc chính yếu như sau :
Thiểu số phục tùng đa số.
Cấp dưới phục tùng cấp trên.
Toàn Đảng phục tùng Đại hội và Ban Chấp hành Trung ương.
Tất cả đều xoay quanh chữ “phục tùng“. Sự phục tùng này đáp ứng yêu cầu thống nhất ý chí, thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động. Sự thống nhất này tạo nên sức mạnh to lớn. Vì vậy sự phục tùng này phải là vô điều kiện. Trong mấy chục năm tôi là người thực hiện sự phục tùng này rất tự nguyện và luôn phấn khởi. Tôi cũng là người đòi hỏi cấp dưới phục tùng vô điều kiện. Sự phục tùng vô điều kiện này trong chiến tranh tạo nên một sự thông suốt tốt đẹp trong sự chỉ đạo và chỉ huy và mỗi ý tưởng chỉ đạo lập tức biến thành sức mạnh hành động trong toàn đơn vị, hay toàn Đảng. Vì vậy, nguyên tắc này không thể chấp nhận bất cứ một sự phản đối nào, một sự phê phán nào, thậm chí một sự nhận xét nào. Và như thế ý kiến cấp trên bao giờ cũng đúng, luôn luôn đúng, và chỉ có đúng mà thôi ! Điều này có hệ quả tất yếu của nó là sinh hoạt trong Đảng về thực chất chỉ là sự quán triệt và phục tùng ý kiến cấp trên. Trong chiến tranh, do điều kiện đất nước và điều kiện xã hội có những đặc thù của nó, nguyên tắc nói trên là chấp nhận được.
Nhưng ngày nay, khi tình hình đất nước và xã hội đã biến đổi, hoàn toàn khác xa hoàn cảnh thời chiến, do vậy khi sự quán triệt nói trên gặp phải những nội dung mơ hồ và cũ kỹ thì sinh hoạt trong Đảng không thể có chất lượng được. Có gì buồn hơn khi giá trị một ý kiến không phụ thuộc vào chất lượng ý kiến đó mà phụ thuộc vào người phát biểu ý kiến đó là ai, thuộc cấp bậc nào, và ý kiến đó phục tùng ý kiến nào. Một nhà trí thức văn hóa nói với tôi nhận xét của mình một cách thẳng thắn như sau : “Hôm trước anh chưa là ủy viên trung ương thì anh không biết cái gì hết. Hôm nay anh đã là ủy viên trung ương rồi thì anh biết rất nhiều, rất nhiều người phải hỏi anh, xin ý kiến anh, và thế là tự nhiên anh cũng có rất nhiều ý kiến chỉ đạo để mà phân phát, anh buộc phải có nhiều ý kiến để mà cho“.
Tôi thấm cái câu ấy lắm, càng ngày càng thấm thía. Nhiều phen tôi rất ngượng và tự xấu hổ với mình vì những lời khen tặng, về những ý kiến “rất sâu sắc“, “sáng rõ” của mình.
Thực hiện điều nói trên thì tự nhiên nảy sinh mặt trái của nó. Mặt trái này lại tiếp tục phát triển và ta thấy những kết quả tất yếu như sau :
Một tình trạng bao cấp về tư duy, tư tưởng(như một văn nghệ sĩ quá cố đã nói).
Mỗi người đều không phải là một chủ thể tư duy, vì đã có cấp trên tư duy hộ, vì cấp trên bao giờ cũng đúng, cấp dưới chỉ cần chờ ý kiến chỉ đạo, hết ý kiến này cấp trên lại cấp cho ý kiến khác. Cấp dưới có tư duy thì chỉ là tư duy để chấp hành. Mọi ý nghĩa sáng tạo trong tư duy hầu như bị triệt tiêu. Các văn nghệ sĩ chân chính thẩy đều bất bình và không chấp nhận sự bao cấp về tư duy và tư tưởng. Vì mọi người chỉ cần nghĩ và nói theo một khuôn, một kiểu, một câu là được rồi, là dễ sống hơn rồi, thì còn cần gì đến văn học nghệ thuật nữa.
Tình trạng này mâu thuẫn với tình trạng bình thường của cuộc sống. Vì cuộc sống vốn có bản chất sinh động và phong phú. Hiện nay, cả người trẻ lẫn người già đều ngấy đến tận cổ những cuộc họp có những diễn văn nhắc đi nhắc lại nhiều lần một số khẩu hiệu cũ kỹ. Tình trạng này làm tê liệt mọi sự sinh động và hào hứng trong sinh hoạt. Trước đây, trong cách mạng và chiến tranh, mỗi lần hội họp nhau lại là có những vấn đề mới phải giải quyết, nhiệm vụ mới phải hoàn thành. Ngày nay không có điều đó nữa.
Tình trạng nói trên tất yếu dễ đến một câu trả lời tiêu cực, một cách không thể tránh được câu hỏi : “Đảng là ai ?“, mỗi khi người ta nói “ý Đảng” là thế này, “chủ trương của Đảng” là thế nọ, “Đảng muốn” như vậy… Trong thực tế câu trả lời hiển nhiên là : Đảng là một nhóm người quan trọng trong cấp ủy và tập trung hơn nữa, là ông Bí thư. Việc gì mà ông Bí thư hoặc một nhóm người trong cấp ủy muốn, tức là Đảng muốn. Chẳng lẽ nói cái gì của Đảng cũng có nghĩa là có ý kiến của hơn hai triệu đảng viên ? ! Mỗi đảng viên bình thường phải làm theo ý kiến và mệnh lệnh của Đảng thể hiện qua các nghị quyết, và không được tự coi mình là Đảng. Nhưng vì là tập trung dân chủ, cho nên vai trò của bí thư và cấp ủy tất nhiên là quan trọng, không thể khác được. Thế mà ở một số cấp có một số đồng chí bất cứ lúc nào cũng nói năng và hành động như thể các đồng chí ấy thay mặt Đảng và nhân danh Đảng. Vậy Đảng là các đồng chí ấy rồi còn gì, “lôgích” quá rồi còn gì ? ! Còn phải Đảng là ai làm gì nữa !
Tình trạng nói trên cũng đưa tới một hệ quả hiển nhiên là sùng bái cá nhân. Sùng bái cá nhân không phải chỉ là một tệ nạn tạm thời và của riêng Đảng cộng sản Liên Xô. Nó là kết quả tất yếu của tập trung dân chủ. Vì bí thư và một số đồng chí chủ chốt là quan trọng nên hàng ngày phải đề cao vai trò của các đồng chí ấy, phải ca ngợi các đồng chí ấy, phải coi từng câu nói của các đồng chí ấy như ánh sáng soi đường, phải trích dẫn những câu ấy để thêm sức nặng cho các văn kiện. Phải bảo vệ uy tín cho các đồng chí ấy, phải khôn khéo dập tắt những nhận xét có hại cho các đồng chí ấy. Cũng vì lẽ đó mà một cán bộ quan trọng về tư tưởng – văn hóa của Đảng đã phê phán việc các báo đưa tin về chuyện đời tư của tổng thống Mỹ. Cán bộ này lo cho tổng thống Mỹ mất uy tín hơn cả nhân dân Mỹ, vì nhân dân Mỹ được thông báo nhiều chi tiết gấp trăm lần báo chí ta. Chuyện cứ như đùa mà có thật.
Nói về vai trò của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, ai cũng thừa nhận nó có sự cần thiết thực sự trong cuộc sống, nhưng nếu chỉ biết có thế mà không cần có những cơ chế giới hạn nó thì mặt trái của nó tất yếu phải dẫn tới chỗ làm hư hỏng cán bộ, và tai hại hơn nữa là nó mang lại nhiều điều khốn khó cho đảng viên thường và nhân dân.
Tập trung dân chủ trong Đảng đã có những điều khúc mắc, thế mà lại đem nó áp dụng cho toàn xã hội thì còn khúc mắc ghê gớm đến chừng nào ? Trong khi đó thì chúng ta đang nhằm tới mục tiêu là một xã hội công bằng và văn minh, cũng tức là một xã hội có tự do và dân chủ. Cái tập trung dân chủ sống trên nền tảng tâm lý tiểu nông và tâm lý tôn ti trật tự của xã hội phong kiến thì lại càng có sự biến dạng và phát triển mặt trái nhiều hơn. Ngay trong thời gian hai cuộc kháng chiến, những lời kêu ca về tệ nạn cấp bậc cũng không ít. Tệ nạn quá lệ thuộc vào cấp bậc lại còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong môi trường bộ máy nhà nước nằm trong tay Đảng.
Nhiều ý kiến cho rằng sở dĩ có tham nhũng là vì có “một bộ phận (nhỏ) thoái hóa và biến chất“. Tôi cho là không phải. Sở dĩ có tham nhũng và càng chống lại càng tràn lan là vì thể chế của ta tạo ra điều kiện cho những người có quyền lực, dù nhỏ, cũng có thể dựa vào quyền lực đó mà mưu lợi cho mình. Ta thiếu một cơ chế có “phanh hãm” những người có quyền lực, thiếu sự giám sát những người có quyền lực đó, cho nên không thể chống tham nhũng được.
Vấn đề trên đây lại có liên quan tới quan niệm về luật pháp. Ở Việt Nam có một nhận thức phổ biến là : luật pháp làm ra chủ yếu để cho dân, dân phải chấp hành. Trong các nguyên nhân của tình trạng tiêu cực hoặc các tệ nạn thông thường người ta hay nói đến nguyên nhân là sự hiểu biết luật pháp của dân còn thấp. Tôi thấy cần phải nhận thức ngược lại. Luật pháp làm ra để cho các cơ quan nhà nước. Người nhà nước phải là người hiểu biết đầy đủ về luật pháp và chấp hành nghiêm chỉnh các điều luật pháp quy định. Ở nước ta, hình như các cơ quan và người của các cơ quan nhà nước được châm chước về luật pháp và hay tùy tiện vận dụng các điều luật đã được quy định. Ở các nước dân chủ (mà ta thường miệt thị gọi là dân chủ tư sản) người ta sống khác, ở đó thực sự có sự bình đẳng của mọi người trước luật pháp. Tổng thống cũng phải ra khai trước các thẩm phán, thề trước luật pháp, nếu khai man, nói dối, có thể bị luận tội và phế truất. Ở nước ta cũng có nhiều văn bản ghi rõ “Mọi công dân đều bình đẳng trước luật pháp“. Nhưng đó là nói để mà nói, trong thực tế lại không như vậy.
Tôi có đọc cuốn “Hoàng Việt Luật Lệ “, cuốn sách giới thiệu luật Gia Long. Trong bộ luật Gia Long có những khoản quy định hình phạt, kể cả hình phạt cho quan tòa ra án phạt sai (nhẹ quá hoặc nặng quá), tức là luật bắt cả người xử sai cũng phải chịu phạt, với những hình phạt được quy định rõ. Đủ thấy trong lịch sử nước ta đã từng có những điều luật tiến bộ, đầy tính nhân văn. Hình như ít có ai chú ý tới điểm này.
Nói tóm lại, tập trung dân chủ có nhiều ưu điểm trong đấu tranh cách mạng và trong chiến tranh. Nhưng cứ kéo dài mãi thì nó sẽ phát triển biến dạng từ mặt trái của nó về phía bệnh hoạn. Sự biến dạng ấy dẫn đến những hệ quả tai hại lớn : tạo nên một chế độ tập trung quan liêu, triệt tiêu dân chủ, triệt tiêu tính tích cực sáng tạo của các chủ thể cá nhân, tạo điều kiện cho sự phát triển đặc quyền, đặc lợi, và đó là nguyên nhân dẫn đến tệ nạn tham nhũng.
Mỗi nguyên tắc đều có ý nghĩa tích cực trong môi trường của tình thế và giai đoạn. Không có nguyên tắc hoặc nguyên lý nào luôn luôn đúng và mãi mãi đúng. Nhu cầu phân tích và thảo luận lại vấn đề tập trung dân chủ là cần thiết. Đó không phải là yêu cầu “phủ nhận” hay “phản động” như có một số kẻ dốt nát thường nói. Không ai tán thành dân chủ vô chính phủ, nhưng cũng không ai chịu được sự tập trung quan liêu. Tôi rất ngán những người nói lăng nhăng về vấn đề này.
III. VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO ĐẢNG
Ta hãy xem lại phương thức “lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, triệt để”, cả về tư tưởng và tổ chức, xem phương thức ấy phát sinh thế nào và trong điều kiện nào ?
Tôi nhớ lại thì phương thức ấy ta học của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu lên phương thức đó, nhấn mạnh tới việc Đảng xây dựng và lãnh đạo lực lượng vũ trang. Đảng phải trực tiếp nắm chặt lực lượng vũ trang cách mạng, không thể để cho một lực lượng chính trị nào có ảnh hưởng trong các lực lượng vũ trang cách mạng mà Đảng cộng sản xây dựng và lãnh đạo.
Tuy từ năm 1945, khi chính phủ ban sắc lệnh 71 về xây dựng lực lượng quân đội quốc gia, tôi đã tích cực đóng góp vào việc đấu tranh cho chế độ công tác chính uỷ trong quân đội, nhưng tôi chỉ mới nhận thức sơ lược và đơn giản là quân đội thì phải có công tác chính trị, thế thôi. Đó là nhờ đọc được về điều đó trong vài cuốn sách mỏng mà anh Văn (đồng chí Võ Nguyên Giáp) trao cho tôi. Mãi tới năm 1950, tôi được làm việc trực tiếp với quân giải phóng nhân dân Trung Hoa ở chiến dịch biên giới, và sau đó nhiều năm làm việc với các đồng chí cố vấn Trung Quốc, nhận thức của tôi mới được bồi bổ và nâng cao thêm. Viết đến đây, tôi thấy cần phải nói rằng bất luận là thế nào, tôi cũng vẫn biết ơn Đảng Cộng sản Trung Quốc, giải phóng quân Trung Quốc trong sự nâng cao nhận thức quân sự và chính trị.
Như vậy rõ ràng là phương thức (hay nguyên tắc) lãnh đạo này đã phát sinh trong việc lãnh đạo quân đội. Nó đã tồn tại và phát triển suốt trong hàng chục năm chiến tranh. Mà trong chiến tranh thì lãnh đạo chiến tranh và lãnh đạo quân đội cũng là một mà thôi.
Từ phương thức này mà Đảng trở thành Đảng của quyền lực tối cao. Đảng ta vẫn phê phán và chống lại ách “Đảng trị“, nhưng trong thực tiễn thì Đảng thực hành triệt đểnhất sự Đảng trị.
Đảng là nơi quyền lực tối cao, mà nơi thay mặt Đảng và nhân danh Đảng là Bộ Chính trị và một số nhỏ đồng chí trong Bộ Chính trị. Bộ Chính trị quyết định mọi việc của chính phủ, của Quốc Hội, phê duyệt mọi việc của các tổ chức xã hội, quyết định tất cả nhân sự của tất cả các cơ quan, kể cả cơ quan dân cử. Chẳng thế mà trong dân gian có câu “Đảng cử, dân bầu“.
Ầy là vì Đảng đã thực hành nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối cả về tư tưởng và tổ chức. Cho nên các cơ quan của Đảng, đặc biệt là các cơ quan tuyên huấn và tổ chức, mới trở thành cơ quan quyền lực đứng trên toàn xã hội. Cơ quan tuyên huấn trước đây chỉ làm việc tuyên truyền và huấn luyện trong Đảng, tạo điều kiện cho các đảng viên hoạt động trong nhân dân, thì nay là cơ quan tư tưởng – văn hóa nắm và chi phối toàn bộ các tổ chức thông tin, báo chí, các tổ chức văn nghệ. Tình hình này đã xóa bỏ nhiều điều trong Hiến pháp, mà Hiến pháp ở nước ta thì đã được chính Đảng cộng sản, chứ không phải ai khác, chỉ đạo và quyết định trước khi đưa ra Quốc Hội.
Vậy thì rõ ràng ta không có dân chủ.
Tuy thế, vẫn có người nói rằng nhân dân ta hơn 90 % đi bầu Quốc Hội, ứng cử viên và đại biểu Quốc Hội đi gặp gỡ cử tri trước và sau khi họp Quốc Hội… rồi lớn tiếng tự hào : Liệu trên thế giới này có nơi nào dân chủ bằng Việt Nam ???
Khi tôi hoạt động ở Quốc Hội, tôi có dịp thấy rõ lòng dân. Đoàn đại biểu của Ủy ban Văn hóa – Giáo dục của Quốc Hội do tôi làm chủ nhiệm khi đi các địa phương thường được giới thiệu rất trang trọng. Cán bộ giúp việc chúng tôi ở Văn phòng Quốc Hội khi đến các địa phương thường rất tự hào và tự tin giới thiệu tôi với chức danh ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng. Khi tôi hết nhiệm kỳ khóa VI của Đảng, không còn ở trong Trung ương nữa, thì khi công tác các đồng chí giúp việc hết sức băn khoăn là trong đoàn không có ủy viên trung ương thì liệu địa phương có thèm tiếp hay không ? Thế có nghĩa là người ta mặc nhiên thừa nhận chế độ Đảng trị.
Tôi thấy lòng dân thế này : khi chúng tôi tiếp xúc với cử tri, được người ta giới thiệu với các chức danh : chủ tịch, chủ nhiệm, ủy viên… thì cử tọa vỗ tay lẹt đẹt, tỏ vẻ lịch sự một cách lạnh lùng. Nhưng khi trong đoàn chúng tôi có những văn nghệ sĩ có tác phẩm nổi tiếng, tôi tranh thủ giới thiệu bổ sung : đây là tác giả “Điêu Tàn“, đây là tác giả “Bão Biển“, tác giả “Nổi Gió“, tác giả “Nổi Lửa Lên Em” và nói đùa rằng trong đoàn chúng tôi toàn những gió, bão và lửa thì cử tri tỏ rõ một nhiệt tình hết sức nồng nàn, và những đại biểu đó được mọi người đón tiếp, tìm gặp về sau rất lâu. Mới thấy là nhân dân biết rất rõ giá trị của từng đại biểu, họ rất hoan nghênh và yêu mến những người mang đến cho họ một giá trị nào đó, chứ còn chức vụ chỉ làm cho họ ngán ngại mà thôi. Phải đáp ứng trúng lòng dân mới gọi là dân chủ, gọi là để dân làm chủ. Còn chỉ hô khẩu hiệu và cổ động rầm rộ cái gọi là xã hội hóa, coi đó là để dân làm chủ thì hiệu quả ắt ngược lại. Càng xã hội hóa nhiều thì dân càng phải đóng góp nhiều hơn : nào là giáo dục,y tế, văn hóa, nào là đền ơn đáp nghĩa, chống tệ nạn này tệ nạn khác vv…
Nước ta chưa thể coi là nước có dân chủ, mà là một nước không dân chủ. Phương thức lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối đi ngược lại với xu thế dân chủ hóa là nguyên nhân sâu xa của tình trạng không có dân chủ. Phương châm toàn diện tuyệt đối ấy còn liên quan tới một phương châm khác là phương châm “chính trị là thống soái“. Phương châm này do Mao Trạch Đông đề xướng, Đảng ta cũng tiếp nhận phương châm này một cách sâu sắc. Vì yêu cầu giành thắng lợi cho cách mạng là yêu cầu lớn và bức thiết, yêu cầu “tất cả cho chiến thắng” của chiến tranh cũng vậy. Mục tiêu của chiến tranh cách mạng là mục tiêu chính trị, tất yếu chính trị là cực kỳ quan trọng. Tất cả mọi hoạt động đều phải nhằm vào mục tiêu đó. Cái gì quan trọng đều có ý nghĩa chính trị. Nhiệm vụ nào quan trọng, hành động nào quan trọng đều là nhiệm vụ chính trị, hành động chính trị hoặc hành động cách mạng. Những điều đó đã là những nội dung giáo dục và động viên rất lớn và là một sự thật rõ ràng, được lịch sử ghi nhận.
Ngày nay lịch sử đã sang trang. Vậy mà cái phương châm được áp dụng trong thời chiến ấy vẫn không hề thay đổi. Tuy không có sự xác nhận chính thức và công khai phương châm “chính trị là thống soái ” nhưng chỉ cần theo dõi sinh hoạt xã hội những năm trước đây cho đến bây giờ thì thấy rành rành ý tưởng tuyệt đối hóa chính trị, chính trị hóa mọi sinh hoạt xã hội. Như vậy, mọi ngôn từ, mọi hành xử đều phải tuân theo yêu cầu chính trị, đáp ứng yêu cầu chính trị, chứ không được tự nhiên, nhi nhiên nữa.
Gần đây tôi có thời giờ được đọc ít nhiều về những nguyên lý của tam giáo (Nho, Phật, Lão), thì thấy ra một điều là cả ba đạo đều chú trọng đến con người và từng cá nhân con người, đều yêu cầu mỗi người phải biết phục tùng, đều yêu cầu mỗi người hoặc là phải diệt dục, giác ngộ, từ bi, để thoát khỏi mọi nỗi khổ của cuộc đời đặng đi tới cõi Niết bàn, hoặc là phải tu tâm dưỡng tính để trở thành người cao thượng, tử tế(quân tử), hoặc là phải sống thuận theo đạo trời, khiêm nhường và quên mình (vô vi). Còn chủ nghĩa cộng sản thì lại yêu cầu mỗi người phải biết phục tùng và tuân theo chủ nghĩa. Chủ nghĩa cộng sản chống chủ nghĩa cá nhân là hay, là đúng, nhưng đi đến chỗ triệt tiêu vị thế của cá nhân, đòi mỗi cá nhân phải quên mình đi, chỉ lấy chủ nghĩa làm lẽ sống của mình, thì không thể được. Mỗi con người cá nhân vẫn phải có cuộc sống riêng, có những nhu cầu, lo toan và ràng buộc riêng, mà điều đó hàng ngày hàng giờ chi phối tâm tưởng và cuộc sống riêng của mỗi người. Mỗi người không thể chỉ sống với lý tưởng và sống bằng lý tưởng. Tôi cho rằng đáng lẽ người cộng sản phải hiểu sâu sắc điều này, phấn đấu xây dựng một xã hội mà mỗi người đều có cuộc sống tốt đẹp, được tự do và hạnh phúc. Nhưng cuộc sống mà những người cộng sản tạo nên lại chủ yếu nhằm để bắt tất cả mọi người phải tin theo và đáp ứng yêu cầu chính trị của Đảng, chỉ hướng mọi người vào một mục tiêu quan trọng là tin tưởng tuyệt đối và ra sức củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đẩy những điều đó lên và thiêng liêng hóa chúng thành như những tín điều của một tôn giáo. Trong khi ấy thì người cộng sản lại lớn tiếng nhấn mạnh quyền tự do không tín ngưỡng.
Cuộc sống hàng ngày của mỗi người trong xã hội hiện nay đầy ắp những yêu cầu chính trị, một cuộc sống đầy ắp không khí cổ động và khẩu hiệu. Tôi chẳng có điều kiện đi đâu để xem thiên hạ sống ra sao. Tôi chỉ biết chút ít ở một số ít nước Đông Ấu, nhưng tôi có cảm nhận rằng ở Việt Nam con người sống không được tự do thoải mái bằng dân các nước Châu Ấu, cho dù là những Châu Ấu Cộng sản. Xã hội Việt Nam có quá nhiều hội họp, quá nhiều đại hội, quá nhiều diễu hành, cờ quạt, quá nhiều kỷ niệm, quá nhiều chào mừng, quá nhiều diễn văn quan trọng và cả những diễn văn đọc nhầm… Do đó có quá nhiều sự biểu dương thành tích và quá ít sự nhìn lại khó khăn và khuyết điểm. Trong hầu hết các báo cáo ta đều thấy bao giờ khó khăn, khuyết điểm cũng là số ít, cũng là bộ phận nhỏ, cũng là tạm thời. Trong khi ấy thì người ta vẫn nhắc tới một nguyên lý dạy rằng phải tự phê bình nghiêm khắc mới tiến bộ được. Cuộc sống đầy rẫy những hình thức khoa trương, nó chứng tỏ ta mắc bệnh hình thức chủ nghĩa quá nặng. Cái gì cũng tô vẽ thành “ngày hội của nhân dân“. Thực ra, nhân dân phải miễn cưỡng đáp ứng yêu cầu chính trị của Đảng, thậm chí đến bầu cử Quốc Hội người ta cũng đi bầu phắt đi cho xong. Có trường hợp một người đi bầu hộ hàng chục người, nhưng bộ máy tuyên truyền bộ máy tuyên truyền của ta vẫn miêu tả ra được là “ngày hội của nhân dân“, trong khi tâm trí mỗi người dân còn đang bận rộn với ngàn nỗi lo toan và nhiều người còn đang rên xiết vì oan khổ. Và người mà họ bỏ phiếu bầu có phải do họ chọn đâu, họ có biết gì đâu.
Phương châm tuyệt đối hóa chính trị còn nhiều nhánh lắm, đó là sự chính trị hóa tất cả mọi lĩnh vực :
Chính trị hóa khoa học. Nghiên cứu khoa học cũng phải đáp ứng yêu cầu chính trị, đáp ứng ý kiến chỉ đạo của đồng chí lãnh đạo.
Chính trị hóa luật pháp. Sự vận dụng luật pháp vào việc kiểm soát và xét xử cũng phải đáp ứng nhu cầu chính trị và mức án là do Đảng chỉ đạo, tòa án chỉ diễn xuất (lãnh đạo tuyệt đối mà).
Chính trị hóa văn hóa văn nghệ. Cái này là tai hại nhất. Tất cả các tổ chức và hoạt động văn hóa văn nghệ đều phải là công cụ, hoạt động tuyên truyền chính trị. Không còn văn học nghệ thuật nữa. Khen hay chê và trao giải thưởng cho tác phẩm cũng phải đáp ứng yêu cầu chính trị và Đảng thường coi việc đó là thành tựu văn nghệ. Điều này tôi thấy đáng lo lắm. Văn nghệ Việt Nam đang trên đường hấp hối. Văn nghệ không được độc lập, không được tự do nẩy nở, thì chỉ có chết.
Chắc có người đọc đến chỗ này sẽ lại la toáng lên rằng Trần Độ hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Kiểu cách lãnh đạo “chính trị hóa tất cả” đáng phủ nhận thật. Nó mang lại bao nhiêu tổn thương cho đời sống một dân tộc, mà với đời sống của cả dân tộc ấy, Đảng Cộng sản lại là người phải chịu trách nhiệm hoàn toàn.
Giáo dục cũng bị chính trị hóa. Có lúc, nhiều người (trong đó có tôi) phải la lên rằng sự dạy văn trong nhà trường không phải để dạy văn, mà là dạy chính trị. Học sinh không được học văn chương. Điểm này đã và đang có sự sửa chữa, nhưng sự sửa chữa đó cũng lại phải theo yêu cầu chính trị.
Kinh tế cũng bị chính trị hóa nốt. Những sản phẩm mang lại lợi ích cho dân thì ít được nói đến, ngành tuyên truyền chỉ nói nhiều đến các sản phẩm đáp ứng yêu cầu chính trị. Ta có quá nhiều công trình và sản phẩm mang danh hiệu này nọ, quá nhiều công trình sản phẩm được gắn biển ghi tên, quá nhiều công trình sản phẩm gắn liền với sự “chào mừng” sự kiện này khác. Giá trị của các công trình không ở giá trị sử dụng của nó mà ở chỗ nó có hoàn thành đúng hạn và có kịp chào mừng hay không ?? Nghe nói có nơi đạt số lượng lớn trong việc xây dựng “nhà tình nghĩa” đền ơn các bà mẹ anh hùng và gia đình liệt sĩ, được ” trên” khen ngợi, biểu dương, nhưng những ngôi nhà xây dựng vội vàng đó chưa kịp sử dụng hoặc mới vừa sử dụng thì đã sụp đổ hoặc hư hỏng. Có người chép miệng phàn nàn, cho đó là tệ nạn, là hậu quả của tham nhũng, thì có người khác an ủi rằng : chuyện đó là thường, bây giờ đâu chả thế ! Thế thì phát triển kinh tế làm sao đây ?! Tôi đã nhiều lần gặp một câu hỏi không trả lời được, đó là : “Cứ thế này thì đất nước mình đi đến đâu ?”. Câu hỏi này có cả trong những người già và cả trong những người trẻ tuổi. Có những lúc tôi đã trả lời : “Đi đến xã hội chủ nghĩa rồi cộng sản chủ nghĩa chứ còn đi đến đâu nữa !” Tôi trả lời như vậy là để biến cuộc đối thoại thành sự đùa cợt, để cho xong chuyện, với ngụ ý là câu hỏi đó chưa có câu trả lời.
Nghĩ đi nghĩ lại, tôi vẫn thấy những ý tưởng “chuyên chính vô sản“, “lãnh đạo toàn diện, triệt để“, “chính trị là thống soái“…tất yếu dẫn đến một xã hội không dân chủ, không có tự do, luôn luôn tụt hậu, đầy sự bít bùng và ngu dốt, không có tiền đồ hoặc tiền đồ rất nguy hiểm.
Vấn đề không phải ở chỗ phủ nhận hay khẳng định cái này hoặc cái kia, mà là ở chỗ nhận định cho đúng tình hình thế giới và trong nước, để phân tích một cách sâu sắc cho thấy được những đặc điểm rõ ràng của tình thế mà định ra đường lối chính sách nhằm đưa đất nước đi lên.
Cũng như vậy, vấn đề không quan trọng ở chỗ vai trò lãnh đạo của Đảng thấp hay cao ? Và cũng chẳng phải cứ “nêu cao” nó lên thì nó sẽ cao, không “nêu cao” thì nó sẽ thấp. Mà là phải xem xét xem Đảng nên lãnh đạo thế nào ? Việc này một ban chấp hành trung ương hoặc toàn Đảng cũng không thể giải quyết được. Đảng ta căn cứ vào lịch sử lãnh đạo cách mạng và chiến tranh rồi tự hào Đảng là trung tâm trí tuệ của toàn dân tộc, điều đó đã đúng, nhưng không thể vĩnh viễn đúng được. Đảng dù có lớn bao nhiêu thì cũng chỉ là một bộ phận của dân tộc. Dù có hơn 3 triệu đảng viên thì cũng chưa đủ 1/20 của dân tộc. Con tôi nó mới nhắc và khen ông Võ Văn Kiệt nói một câu hay : “Trong Đảng thiếu nhân tài, chứ ở ngoài Đảng thì không thiếu“. Đó là một sự thật.
Trong lịch sử hai nước Trung Quốc và Việt Nam đã có nhiều vua giỏi. Vua giỏi phần lớn là vua hiền. Vua hiền là vua biết dùng người tài. Những người tài thường được nhắc đến là những thái sư, tể tướng, quân sư, giám nghị, ngự sử. Những người này được nhắc đến nhiều hơn các nhà vua.
Những nhà dự báo cho rằng sang thế kỷ 21 vai trò của các chuyên gia cố vấn, các cơ quan tư vấn sẽ ngày càng quan trọng. Tôi chưa thấy có ai làm dự báo về vai trò của các Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam muốn tiếp tục có vai trò đối với dân tộc, thì điều chủ yếu là phải có chính sách khoan dung rộng rãi, thu hút và khuyến khích được nhiều người tài cống hiến cho đất nước. Nếu làm được như vậy, sẽ là một sự cống hiến lớn của Đảng Cộng sản cho dân tộc, giống như trước đây Đảng đã làm được việc giành thắng lợi cho dân tộc.
Tôi không muốn bàn đến khái niệm “thế nào là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng“. Tôi là người biết rõ vai trò của Đảng từ 1940-1975, và tôi cũng thấy rõ sự vẻ vang của Đảng, và chính tôi cũng được hưởng sự vẻ vang đó. Nhưng ngày nay tôi đã tận mắt thấy rõ rằng tình hình thế giới và trong nước khác đã xưa nhiều, vì kể từ 1975 đến nay thì cũng đã hơn 20 năm rồi, lý tưởng và nhiệm vụ của đất nước, của dân tộc cũng đã khác xưa nhiều lắm. Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng cứ giữ nguyên như xưa thì không được nữa. Và từ đó tôi tưởng tượng ra sự lãnh đạo của Đảng phải như sau :
- Đảng không nên và không thể đi sâu giải quyết các vấn đề cụ thể của tất cả các lãnh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục…Mỗi lĩnh vực đã có nhiều cơ quan khoa học chuyên nghành chăm lo. Các cơ quan ấy là nơi tập trung thông tin và kiến thức để làm cơ sở giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực ấy. Các cấp ủy của Đảng (kể cả Trung ương) chỉ nên tập trung tinh lực để bàn và quyết định những vấn đề đường lối và chủ trương chính sách, sao cho những chủ trương chính sách làm chuyển động được tình hình xã hội nói chung và từng lĩnh vực nói riêng. Rồi cấp ủy Đảng giám sát xem các cơ quan chính phủ, các tổ chức xã hội có thực hiện đúng chủ trương ấy không. Những chủ trương chính sách được quyết định phải thiết thực và tạo hiệu quả rõ rệt, chứ không nên chỉ có những phương châm và thành ngữ cho hay, cho kêu để chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và chứng tỏ “Đảng đã có ý kiến”.
Ví dụ về giáo dục : Đảng chỉ nên quyết định những chính sách có tính mục tiêu như :
- Xóa nạn mù chữ.
- Phổ cập tiểu học.
- Bảo đảm đời sống giáo viên.
- Bảo đảm chất lượng học tập.
- Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục nhằm huy động nhiều sức lực cả tiền của và trí tuệ của các tầng lớp nhân dân.
Còn chương trình học tập, tổ chức thi cử, soạn sách giáo khoa, đào tạo bồi dưỡng cán bộ ra sao… thì do các cơ quan chuyên môn bàn bạc và quyết định.
Ví dụ về văn hóa. Có những vấn đề chuyên môn về văn hóa như vấn đề bản sắc dân tộc, vấn đề văn nghệ truyền thống,…thì nên để cho các cơ quan có các học giả bàn và giải quyết về lý thuyết cũng như về thực tiễn. Những vấn đề đó Ban chấp hành Trung ương có bàn cũng không bàn được, mà cái cần phải bàn là những chủ trương chính sách về tự do sáng tác và tự do phê bình, chính sách tôn trọng nhân cách các văn nghệ sĩ. Còn không nên bàn chuyện sáng tác thế nào, phê bình thế nào. Việc chuyên môn đó các văn nghệ sĩ đủ sức giải quyết, và họ giải quyết tốt hơn bất cứ cấp ủy nào, chỉ cần họ được tự do, được độc lập chịu trách nhiệm về công việc của mình. Không nên để cho các thứ tổ chức của Đảng tầng tầng lớp lớp kiểm tra, kiểm soát, bịt hết mọi đường tự do.
Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết.
Văn hóa mà chỉ còn có một thứ văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết.
Như thế, càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp, nếu không nói là không thể có được.
Về tổ chức Đảng, tôi cũng lưu ý tới tổ chức các Đảng đoàn và Đảng ủy khối. Tổ chức này cũng dựa vào lý thuyết : “Đảng phải lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối” ở các cơ quan chuyên môn, cho nên ở các cơ quan này nhất thiết phải có Đảng đoàn. Đảng đoàn thì lại do các cơ quan giúp việc của Đảng chỉ đạo và chi phối. Tình hình này đẻ ra nghịch lý : những người không làm được thủ trưởng cơ quan thì làm bí thư Đảng đoàn và bí thư Đảng ủy khối. Kết quả là người kém lãnh đạo người giỏi. Lại nữa, khi có điều tranh luận về chủ trương công tác hoặc nhân sự thì ý kiến của cơ quan Đảng bao giờ cũng là ý kiến mà mọi người phải tôn trọng. Kết quả là những người kém hiểu biết về chuyên môn và về những con người làm việc trong chuyên môn thì lại quyết định những vấn đề chuyên môn và số phận của con người chuyên môn. Ở nhiều cơ quan có chuyện nhân sự kèn cựa, tranh chấp nhau, và nhiều trường hợp người thắng thế chiếm ghế lãnh đạo là những người trình độ thấp nhưng được lòng các cấp ủy Đảng. Các cấp ủy Đảng trở thành nơi tiếp nhận các tranh chấp, vô tình khuyến khích các sự xu nịnh ton hót, chạy chọt. Thế là khó thực hiện việc xếp người đúng việc, đúng chỗ, khó từ bỏ được tình trạng mất đoàn kết, bất công… Phải nói rằng nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế “lãnh đạo toàn diện tuyệt đối” của Đảng.
Tôi càng ngẫm nghĩ và suy ra, càng thấy đúng là như thế !
Có thể còn rất nhiều điều phải quan tâm. Bây giờ bất cứ nhìn vào đâu, nghe nói chuyện gì… đều có thể từ cái nhìn và cái nghe ấy đặt ra rất nhiều câu hỏi để tìm hiểu, phân tích, và không dễ gì tìm ngay được câu giải đáp.
Chuyện này không liên quan gì đến chủ nghĩ Mác-Lênin. Chủ nghĩa đó vẫn còn là một học thuyết có giá trị trong thế kỷ 20 và thế kỷ 21. Bây giờ sắp sang thế kỷ 21, ta vẫn còn phải tìm hiểu Khổng tử, Lão tử…, là vì những học thuyết có giá trị bao giờ cũng tồn tại lâu dài, dù cho chúng có những mặt không còn thích hợp. Chỉ có điều không thể lấy học thuyết Mác-Lênin làm học thuyết duy nhất để xem xét sự việc, không thể không cho ai nhận xét, phê phán chủ nghĩa Mác-Lênin, lại tự cho mình có quyền lên án và xóa bỏ những ai có ý kiến khác với Mác-Lênin.
Kể ra những điều cần nói về cuộc sống hiện nay rất dài và rất nhiều. Ở đây tôi chỉ “nhìn lại” những gì đã trải nghiệm, và cũng chỉ là tự mình nói với mình mà thôi. Không thể nói hết được, tôi chỉ tóm tắt ở ba điểm :
- Vấn đề ý thức giai cấp.
- Vấn đề vô sản chuyên chính.
- Đi liền đó là vấn đề tập trung dân chủ.
Về phương thức “lãnh đạo toàn diện tuyệt đối, triệt để“, kèm theo đó là phương châm “chính trị là thống soái“.
Những điểm này trong lịch sử đã có thời phát huy tính tích cực của nó. Nhưng mỗi sự vật – có mặt tích cực thì cũng có mặt tiêu cực của nó. Khi tình hình đã thay đổi, mà không nhìn lại thực tế để thay đổi, cứ giữ nguyên thì nó lại trở thành sự trở ngại ngày càng lớn cho sự phát triển của đất nước và xã hội.
Dòng suy ngẫm cứ chảy quanh những vấn đề về tình hình xã hội thì bất tận. Ví dụ như đối với câu trả lời các câu hỏi :
Có chống được tham nhũng hay không ?
Có chống được tình trạng mất đoàn kết nội bộ hay không ?
Có chấm dứt được tình trạng kém chất lượng sinh hoạt Đảng hay không?
Có chấm dứt được tình trạng mất lòng tin vào Đảng hay không ?
Có chấm dứt được các tệ nạn buôn lậu, ma túy trộm cướp hay không ?
vv…và vv…
Tôi có thể tự trả lời một cách thẳng thắn rằng : Nếu cứ dùng những hình thức và phương pháp cũ thì dứt khoát là không chống được, không chấm dứt được các tệ nạn xã hội, còn ngược lại nữa là khác. Tôi cho rằng phải có sự phân tích và nhận định ở tầm triết học, ở tầm học thuyết mới có thể tìm ra bản chất của các vấn đề. Có tìm ra đúng bản chất của vấn đề mới có cách giải quyết đúng. Nó giống sự chuẩn đoán bệnh. Tôi được biết rất nhiều trường hợp bệnh nhân chỉ mắc bệnh đơn giản, nhưng thầy thuốc chuẩn đoán sai làm bệnh nhân khuynh gia bại sản, thậm chí tử vong. Muốn khỏi bệnh phải “gặp thầy gặp thuốc“, nghĩa là được chuẩn đoán chính xác.
Hiện nay nếu cứ loay hoay với các bài bản cũ thì chúng ta vẫn loay hoay trong đường hầm không ánh sáng.
Trình độ nhận thức của loài người ngày nay đã cao và càng ngày càng cao, không thể dùng bất cứ một hay hai học thuyết nào thay thế được. Nhìn vào thực trạng đất nước ta hiện nay tôi thấy Đảng Cộng sản không phải là nơi tập trung và thu hút được tinh hoa trí tuệ của dân tộc và cũng không có một cá nhân kiệt xuất nào có thể đủ hiểu biết và sáng suốt để giải quyết vấn đề vận mệnh của dân tộc. Đáng lẽ Đảng Cộng sản có thể làm được một sự nghiệp vẻ vang là quy tụ, tập hợp và phát huy được hết trí tuệ và tài năng của cả dân tộc. Làm được việc đó thì mới thật xứng đáng với vai trò và lịch sử của Đảng. Còn nếu cứ loay hoay hô hào và dùng mọi thủ đoạn “kể cả dối trá và lừa bịp” để tăng cường và củng cố hoặc giữ vững vai trò của mình thì đều là không được.
Muốn vậy, Đảng Cộng sản có thể làm được một việc rất vĩ đại là xây dựng một đất nước, một xã hội dân chủ mà Đảng là một thành viên trong đó. Đảng có thể làm được điều đó và Đảng sẽ vẻ vang.
Dân chủ, dân chủ và dân chủ !!!
Mỗi người trong xã hội đều có quyền tự do ngôn luận và tự do mưu cầu hạnh phúc.
Đảng cần phải khắc phục những nhận thức máy móc và sai lầm như : “dân chủ phải có lãnh đạo“. Câu nói đó có nghĩa là dân chủ phải “không dân chủ“. Lãnh đạo giỏi nhất là đảm bảo được dân chủ cho mọi người. Không phải Đảng là người có sẵn cái dân chủ trong túi rồi thì nay Đảng ban phát cho mọi người. Cũng không phải là dân thì phải quỳ lụy xin xỏ từng tí dân chủ một ở Đảng.
Đảng chỉ là một bộ phận nhỏ của nhân dân, của dân tộc. Đảng tự nguyện lãnh đạo để đảm bảo và mang đến lợi ích cho nhân dân và dân tộc, Đảng là công bộc của nhân dân, như Hồ Chí Minh đã nói. Vì vậy không thể bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Đảng cũng tự nhận là người thay mặt nhân dân. Bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Đảng cũng không được nhân danh nhân dân mà cai trị nhân dân. Như thế mới là phát huy truyền thống anh hùng của Đảng và của dân tộc.
Cho đến nay Đảng đã có những lời nói hết sức tốt đẹp về dân chủ :
- Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Dân biết dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
- Dân làm chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
- Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước.
vân vân …và vân vân …
Nhưng nhìn vào trong thực tiễn thì thực tiễn diễn ra luôn ngược lại với những lời nói hay, đẹp đó. Rất nhiều việc làm dối trá, tàn bạo, ngang ngược, ngu dốt của một số cán bộ Đảng viên mà không thể được coi là thuộc về bản chất của Đảng. Nhưng Đảng có lỗi là không có những cơ chế giám sát và bó buộc các hành vi ứng xử của tổ chức Đảng đối với dân phải tuân thủ chủ trương của Đảng, để đến nỗi Đảng mất dần lòng tin của dân và dân càng ngày càng xa Đảng. Đảng đã để cho những kẻ có quyền lực nhân danh Đảng làm bậy. Bây giờ Đảng đang kêu gọi “tự phê bình“. Tôi rất tán thành. Nhưng trước hết phải tiến hành tự phê bình chung đã. Nội dung của tự phê bình đó là : Đảng đã làm những gì để thực hiện những khẩu hiệu tốt đẹp đã được Đảng đề ra. Đảng đã phạm khuyết điểm thế nào để đến nỗi những lời đẹp đẽ đó không được thực hiện. Cuộc tự phê bình này không những phát động trong Đảng mà còn phải yêu cầu toàn dân phát biểu ý kiến rộng rãi và công khai. Đảng vẫn tự thấy mình là của nhân dân, của dân tộc kia mà. Việc mỗi Đảng viên tự phê bình ít có ý nghĩa lắm. Nhiều người bạn tôi nói họ chẳng có khuyết điểm gì cả nên không biết tự phê bình thế nào và để làm gì. Hãy thực hiện một cuộc tự phê bình chung hết sức nghiêm túc, sâu sắc và nhất là hết sức dân chủ.
Dân chủ, dân chủ và dân chủ !
Tiếng thét của lương tri cộng sản và lương tri dân tộc là như vậy đó. Nếu có cuộc tự phê bình chung thì thiên bút ký này của tôi là ý kiến phát biểu trong cuộc tự phê bình đó.
Càng nghĩ đến thế kỷ 21 sắp tới và đến thực trạng Đảng ta, tôi càng lo lắng bồn chồn, đến nỗi nhiều lúc phải chống bút mà ứa nước mắt, không cầm được. Hình như có tờ báo nào đó ở nước ngoài có viết rằng : “Trần Độ chẳng qua là một con ngựa già đang ra sức đem sức tàn ra bảo vệ Đảng của mình“. Té ra người ngoài Đảng, lại ở ngoài nước mà lại có những nhận xét thông minh hơn những kẻ gọi là người trong Đảng.
Sắp sang thế kỷ 21, các học giả và các nhà khoa học thế giới đang nói đến tư duy của thế kỷ 21, đang nói đến phương thức tư duy, đổi mới tư duy vv… Ở Việt Nam ta, trong đại hội VI(1986) Đảng ta đã nói là đổi mới thì trước hết và thực chất là đổi mới tư duy. Tôi cho đó là một tư tưởng rất đúng. Thế mà đầu năm 1997, trong một cuộc “học nghị quyết“, tôi lại được nghe “lên lớp” về hai phe, bốn mâu thuẫn. Tôi buồn quá và nghĩ rằng cái “tư duy hai phe” đó không sửa đổi thì nói đổi mới cũng như không ! Cho đến bây giờ cái “tư duy hai phe” vẫn còn ngự trị trong những người “gọi là đảng viên cộng sản” và đang nắm quyền quản lý xã hội trong tay.
Đài phát thanh của ta hàng ngày đang ra rả đọc lên khẩu hiệu : “Xây dựng và đổi mới Đảng cho ngang tầm nhiệm vụ“. Tôi nghe nhiều lần và mỗi lần nghe thì trong lòng le lói một niềm vui, nhưng lại tràn ngập những nỗi lo âu. Tôi lại tự hỏi người đọc khẩu hiệu đó một cách rất đĩnh đạc có hiểu “tầm nhiệm vụ” hiện nay là cái gì không ? Kể cả người chỉ đạo cái khẩu hiệu đó nữa, có hiểu không ? Nếu không hiểu thì làm sao hiểu được nội dung của “đổi mới Đảng“. Quả thật là cần phải “đổi mới Đảng“. Đó là cấp thiết và cơ bản. Nhưng tại sao lại phải đổi mới và đổi mới thế nào, đổi mới những gì ? Nếu cứ còn tư duy “hai phe, bốn mâu thuẫn” thì không có gì đổi mới được cả.
Thế giới bây giờ không có hai phe mà là có nhiều phương, nhiều cực, nhiều khu vực, và tất cả phải nhìn vào xu thế toàn cầu hoá của kinh tế. Kinh tế toàn cầu hóa kéo theo toàn cầu hóa chính trị, văn hóa… Đến nỗi toàn trái đất bây giờ gần gũi nhau và thu nhỏ lại như một cái làng.”Làng trái đất“. Việt Nam đứng trước xu thế đó đã phải nói rằng “muốn làm bạn với tất cả các nước“. Nói thế, nhưng trong ý thức một số người trong Đảng lại muốn Việt Nam như một phe trên thế giới, một phe có tất cả độc đáo về tư tởng, về chính trị, về văn hóa… chơi với một phe khác là phần còn lại của trái đất. Thật là tự cao một cách điên rồ và vô cùng dốt nát.
Tôi rất tán thành và hoan nghênh phải đổi mới Đảng. Nhưng đổi mới Đảng không phải chỉ là cải tiến vài cái sinh hoạt, từ sinh hoạt chi bộ đến đại hội. Thông thường mỗi lần ta hô “cải tiến” thì lại xuất hiện tình thế “cải lùi“.
Phải đổi mới !
Và đổi mới phải tính đến những chuyện : Tính chất chính trị của đảng. Nền tảng tư tưởng của đảng. Nguyên tắc tổ chức của đảng Phương thức lãnh đạo của đảng. Phong cách công tác của Đảng. Có thực hiện được như vậy thì sự đổi mới mới nghiêm túc và có thực chất của nó.
Càng ngày càng rõ rằng Đảng không thể có trí tuệ của cả dân tộc, nhưng Đảng có vai trò thu hút tập hợp và phát huy mọi trí tuệ của dân tộc. Đảng phải là một ông vua hiền mà tôn trọng và sử dụng tốt trí tuệ, tài năng của dân tộc. Như thế Đảng mới bảo tồn và phát huy được truyền thống của mình.
Cần phải thấy rõ nguy cơ tụt hậu.
Đất nước thì tụt hậu với thế giới, còn Đảng thì tụt hậu với xã hội và dân tộc.
Phải vượt qua nguy cơ đó bằng quan niệm : đổi mới là dân chủ hóa trong Đảng cũng như dân chủ hóa toàn xã hội.
Phải quan niệm như vậy và hành động đúng như vậy.
Viết xong trong ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 76.
23-9-1998
Một cái nhìn trở lại II
Trần Độ
Sau khi viết thiên bút ký “Một cái nhìn trở lại I”, tôi vẫn tiếp tục suy nghĩ và thấy ra rằng còn phải nhìn lại nhiều vấn đề lắm. Trong khi thấy như vậy thì lại đọc thêm một số sách về sử và vài cuốn tiểu thuyết. Trong có một cuốn mà tôi gặp trong đó nhiều ý nghĩ, nhiều tư tưởng có thể gợi cho tôi nhiều suy nghĩ. Đó là một bộ tiểu thuyết lịch sử tên làSông Côn mùa lũ, tác giả là Nguyễn Mộng Giác, nói về giai đoạn lịch sử nửa sau thể kỷ 18 ở miền Trung nước ta, về phong trào Tây Sơn của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ. Tiểu thuyết dựng lại chân dung nhiều nhân vật lịch sử và cũng hư cấu chân dung một số nhân vật của thời đại đó, một cách sinh động, để làm nổi thêm các nhân vật lịch sử có thật. Qua sự việc và lời lẽ của các nhân vật, tác giả nêu lên những tư tưởng và những vấn đề của thời kỳ lịch sử đó mà cũng có nhiều ý nghĩa thời sự. Có mấy nội dung mà tôi thích thú quan tâm:
- Khi Nguyễn Huệ tham gia với Nguyễn Nhạc nổi dậy chống phá bộ máy cai trị tàn bạo và thối nát của Trương Phúc Loan đang lũng đoạn chính quyền của Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nguyễn Huệ tâm sự với bạn bè và nêu lên một vấn đề:
“Ta hiện nay nổi dậy để phá tan bộ máy cai trị này. Ta đập nó đi rồi, thì ta thay thế nó bằng cái gì? Liệu ta thay thế nó bằng một cái tốt đẹp hơn, hay ta lại xây nên chính những cái mà ta đang đập phá đây???”.
Trong tiểu thuyết có nêu lên hai sự việc giống nhau và cùng nói lên một vấn đề:
- Nguyễn Nhạc khi làm lễ đăng quang lên ngôi Vua Thái Đức ở Quy Nhơn, đã cấm giáo phường (văn công) không được diễn vở tuồng “Chàng Lía “. Vở tuồng này ca ngợi chàng Lía cũng là một thanh niên nông dân nổi dậy chống áp bức bóc lột.
- Sau này khi Nguyễn Huệ đăng quang lên ngôi vua ở Phú Xuân (Huế), tác giả vở tuồng vốn là bạn học với Nguyễn Huệ, lại đề nghị cho diễn vở tuồng chàng Lía để chào mừng lễ đăng quang thì Nguyễn Huệ là vua Quang Trung cũng cấm không cho diễn vở tuồng đó!
Thế là tâm trí tôi cứ xoay quanh câu chuyện đó, và cũng là xoay quanh cuộc đời tôi. Đó là mối quan hệ giữa người nổi dậy (đập phá) với người cầm quyền cai trị, sự chuyển biến tâm lý và tư duy, ứng xử của hai con người đó, và khi hai con người đó trong cuộc đời lại là một.
Tôi không sao quên được mấy kỷ niệm nhỏ trong đời tôi.
Năm 1945, trước tháng tám, tôi hoạt động bí mật ở một vùng ngoại thành Hà Nội (huyện Đông Anh). Tôi ở một nhà cơ sở Cách mạng. Gia đình có một bà mẹ và hai người con gái: chị lớn đã có chồng và con, chị nhỏ hơn sau này lấy một anh trong đội của tôi. Bà mẹ nuôi nấng và che chở cho tôi như một đứa con, nhiều lúc cũng âu yếm, mắng mỏ, dành cho tôi từ bát cơm nguội, bắp ngô, củ khoai. Chị lớn cũng thế, chị coi tôi là em trai, các con chị đều gọi tôi là cậu rất thân mật, tự nhiên và hay bắt rận, vò giặt quần áo cho cậu. Khi tôi vô ý ngồi trong buồng làm nổ súng, chị rất nhanh ý vào bếp, đập vỡ cái nồi rang bằng đất để có cớ nói chuyện với hàng xóm, nếu có người nghe tiếng nổ mà sang hỏi thăm. Sau đó chị mới chạy lên xem tôi, chị nghĩ rằng có thể xảy ra tại nạn: tôi bị thương hoặc chết. Thấy tôi an toàn chị cười vui nói với tôi về mẹo “đập nồi rang” của chị và chị còn cười vui hơn, bảo tôi: “Cậu có làm sao thì đành chờ đêm đến, đem vùi cậu ở rãnh khoai, chứ chả biết làm thế nào? “
Thế mà sau ngày 19 – 8 ít lâu, tôi đã nhận công tác ở Hà Nội, trở lại thăm bà cụ và chị, thì tôi gặp một tình huống ngỡ ngàng. Cố nhiên lúc này tôi ăn mặc sang trọng hơn và đi xe hơi. Bà cụ mắt kém, mãi mới nhận ra tôi. Bà cụ mừng rỡ, chào mời tôi: “Mời ông ngồi, xơi nước ” và cụ rất lễ phép rót nước mời tôi. Chị lớn cũng thế, không gọi tôi là cậu nữa, mà cũng lễ phép gọi tôi là ông.
Tôi không thể tự nhiên được như xưa, không vui được và cũng không thích ứng được với danh vị “ông khách”. Lúc ấy, tôi chỉ thấy lúng túng và tiếc nuối một tình thân mật trước đây. Tôi đã mơ hồ cảm thấy một sự rạn nứt, thấy tiếc tiếc, nhưng chưa ý thức được rõ. Mãi về sau này, khi đã ngoài 70 tuổi, tôi mới dần dần thấy rõ hơn và sẽ nói rõ thêm sau này.
Những năm 1980, lúc tôi đã hơn 60 tuổi. Tôi về thăm một cơ sở Cách mạng cũ ở Thái Nguyên. Những người thanh niên cứu quốc cùng lứa tuổi với tôi và hơn tuổi tôi đã chết nhiều. Nhưng cũng có người còn sống, có người trở thành cán bộ khá cao cấp (Phó chủ tịch Tỉnh). Tôi tìm thăm một chị. Chị này lúc ấy (1944) là một thanh niên tích cực, là một trong số đảng viên đầu tiên. Chị nhanh nhẹn hăng hái và cũng thuộc lớp nữ thanh niên xinh đẹp. Tôi mang ấn tượng về chị hồi trẻ, đến thăm chị. Chị bây giờ là một bà già nhà quê cũ kỹ và lam lũ, trong nhà chị không đến nỗi nghèo khổ. Tôi và anh đã thoát ly thành cán bộ đến thăm chị mà sao xa cách nhau xa xôi, lạnh lẽo. Trong câu chuyện tôi có chú ý một câu của chị, đại khái: “Giá mà tôi được thoát ly như các anh thì bây giờ cũng sướng, chả đến nỗi lúi sùi thế này “. Chị nói thế với một tâm thức: đi làm Cách mạng cũng là một con đường kiếm ăn sinh sống, và những người gặp may mắn được thoát ly thì con đường sống cao hơn, sướng hơn. Cái cảm giác rạn nứt như hồi 1945 lại chiếm tâm hồn tôi. Nhưng tôi không suy nghĩ gì hơn, mà chỉ ủy lạo chị một câu rất cổ hủ mà cũng xác đáng “Mỗi người một số phận, chị ạ! “.
Thế là đời tôi có mấy đoạn.
Đoạn 1: là một thiếu niên học sinh rồi thanh niên, xung phong đi làm Cách mạng, đi tuyên truyền vận động quần chúng đứng lên võ trang khởi nghĩa để giành độc lập và giành chính quyền. Lúc này hết sức say sưa với những lý tưởng cao đẹp: Độc lập – Tự do – Hạnh phúc; giải phóng, công bằng và nhiều mơ tưởng cụ thể về đời sống tươi đẹp của toàn dân tộc, đất nước. Những mơ tưởng này rất chung mà cũng rất cụ thể: nông dân có ruộng đất, rồi có máy cày, máy gặt; công nhân làm chủ nhà máy không có thất nghiệp, đời sống no đủ; thanh niên tha hồ học hành, người ốm được chữa bệnh chu đáo. Tất cả cái gì cũng có một kết cục đẹp và đẹp nhất.
Đoạn 2: là một anh bộ đội tham gia chiến đấu giành và giữ độc lập suốt 30 năm. Những mơ tưởng thời thiếu niên vẫn tiếp tục với những vẻ đẹp huy hoàng của nó, nhưng tâm trí tập trung vào yêu cầu trước mắt là thống nhất và hòa bình với những giấc mơ hòa bình và thống nhất. Sau tháng 8-1945 mới thấy cái thắng lợi cụ thể của nó. Và sau tháng 5-1975 mới thấy cái thống nhất và hòa bình thực tế nó như vậy. Nó có nhiều cái không giống và không đẹp như trong giấc mơ, nó cũng có những cái còn đẹp hơn, rực rỡ hơn, vui hơn những giác mơ. Nhưng suốt những năm công tác và chiến đấu không có thì giờ và điều kiện để suy ngẫm về cuộc đời.
Đoạn 3: có khoảng 18 năm thống nhất hòa bình. Tôi làm một quan chức cao cấp của Đảng và Nhà nước hưởng tất cả những tiêu chuẩn ưu đãi, đời sống đầy đủ và thuận lợi. Rồi bước sang Đoạn 4 cho đến nay. Ở đoạn này có nhiều điều kiện để suy ngẫm so sánh và đối chiếu ước mơ với thực tế cuộc sống. Ta đã dùng hết chữ để nói về thắng lợi của dân tộc và đất nước, nay không có chữ nào mới được nữa. Nhưng té ra những thắng lợi nó lại thể hiện ở các số phận cụ thể. Nó thể hiện ở những cuộc sống đầy đủ giàu sang của một số người, nhưng nó cũng thể hiện ở tình trạng không thay đổi và còn có sự sa sút thêm của rất nhiều số phận con người khác.
***
Nhìn lại các quãng đời tôi đã sống rút cục lại, nổi lên một câu hỏi khái quát và tập trung là:
Tôi đã tham gia vào việc đập phá và phá tan một thứ chính quyền và cuộc sống như thế nào? Và tôi đã tham gia vào việc lập nên và củng cố một chính quyền thay thế như thế nào?
Tôi chỉ “tham gia ” thôi, vì tôi chỉ có một vai trò hết sức khiêm tốn. Tuy nhiên vai trò đó cũng đủ cho tôi đặt câu hỏi, một câu hỏi khái quát ở tầm triết học, để mong tìm thấy thực chất chân lý của sự vật.
Tôi đã tham gia đập tan cái gì? Tôi đã tham gia đập tan một nhà nước, một bộ máy cai trị của thực dân và phong kiến tay sai. Bộ máy đó có đủ các nét đặc điểm của sự tàn bạo, dã man, của sự vơ vét bóc lột và xa hoa hưởng thụ, của sự lừa bịp dối trá thủ đoạn đểu giả. Bộ máy nhà nước đó gắn chặt với một xã hội nghèo nàn, đói khổ, cực nhục, nhiều tệ nạn, nhiều sa đọa xấu xa. Những điều đó được hiện ra trong các tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô Tất Tố và Vũ Trọng Phụng. Tôi ở tuổi niên thiếu đã tiếp xúc và va chạm với nó ở những tên tuần phiên, lý trưởng, chánh tổng, địa chủ ở quê tôi và sau đó với những tên mật thám, những sở mật thám, những tòa án các cấp và các nhà tù từ tỉnh đến Hỏa Lò Hà Nội và nơi đi đày Sơn La. Những điều tôi biết và tôi tiếp xúc nung nấu trong tôi một lòng căm thù vừa sâu sắc vừa sôi nổi. Tôi không thể không tham gia đập phá cái thứ tàn bạo, độc ác và lừa bịp xấu xa. Trong khi tham gia việc đập phá đó tôi không thể không có những sự ước muốn, những nguyện vọng, những giấc mơ cao thượng: xây dựng một xã hội và một nhà nước đầy những sự cao đẹp: mọi người đều sống đầy đủ sang trọng, mọi người đều yêu thương nhau, tôn trọng nhau, thân ái với nhau. Một nhà nước gồm những người cũng thương yêu nhân dân, tôn trọng từng người dân, giúp đỡ và tạo cho từng người dân được sống tự do, được sống hạnh phúc.
Tôi cứ nuôi những mơ tưởng đó và yên chí đinh ninh rằng đó là những lý tưởng cao đẹp và hiện thực, và những lý tưởng đó là lẽ sống của đời mình. Tôi không cần phải băn khoăn như Nguyễn Huệ và đã nhìn thấy rõ những mục tiêu và những mơ tưởng của mình. Những cái đó được hiện lên một cách cụ thể. Sau Cách mạng tháng 8 là một Nhà nước Dân chủ cộng hòa, một Chủ tịch, một Lãnh tụ siêu phàm có thể đoàn kết mọi người và thương yêu tất cả mọi người, lúc nào và ở đâu cũng lo toan cho hạnh phúc của từng con người. Cứ như thế tôi tiếp tục những mơ ước của tôi về một đất nước được thống nhất hòa bình…
Cứ mơ ước, vừa mơ ước vừa được sống những cuộc sống thực:
• Sau Cách mạng tháng 8 mới biết cuộc sống thực của thắng lợi Cách mạng !
• Sau 1954, mới biết cuộc sống thực của Kháng chiến thành công !
• Sau 1975, đi máy bay từ Hà Nội vào Sài Gòn rồi lại đi ôtô từ Sài Gòn qua Đà lạt, Huế ra đến Hà Nội, mới biết cuộc sống thực của Thống nhất – Hòa bình !
Cuộc sống thực đó vừa giống và vừa không giống những mơ ước tôi đã từng ôm ấp từ lâu. Những cái giống nhiều hơn, hay những cái không giống nhiều hơn? Tôi chưa có lúc nào điểm ra được rõ ràng. Nhưng càng ngày càng thấy, hình như cái không giống nhiều hơn. Cái không giống với mơ ước thì nhiều, nhưng những cái giống với cái gì đã được đánh đổ cũng càng ngày càng nhiều.
***
Vậy là tôi đã tham gia xây dựng, củng cố một “cái gì? “. “Cái gì ” đó nó phải thay thế “cái gì ” mà tôi đã tham gia đập phá nó từ những năm 1945?
Tôi không muốn và cũng không thể điểm lại sự diễn tiến của cuộc sống xã hội suốt 50 năm từ 1945 đến nay. Và tôi chỉ thử điểm qua một số điểm để đối chiếu từ “cái gì ” đó trước 1945 và “cái gì ” đó hiện nay. Tôi thường quan tâm vào mấy điểm như sau:
Trước 1945, xã hội Việt Nam lúc ấy có một bộ máy cai trị. Bộ máy đó là của đế quốc phong kiến. Nó có đầy đủ các đặc điểm của nó là bóc lột, vơ vét của dân nghèo để hưởng thụ phè phỡn và xa hoa. Nó dùng đủ mọi thủ đoạn đàn áp, doạ nạt, dối trá và lừa bịp để buộc toàn thể dân chúng phải cúi đầu im lặng nghe theo và hành động mọi thứ mà giới cầm quyền mong muốn.
Ngày nay ta cũng có một bộ máy Nhà nước và đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong đời sống xã hội, mọi người đều thấy một số hiện tượng (chưa bàn đến bản chất của vấn đề) cần đối chiếu và suy ngẫm:
a/ Hiện tượng thứ nhất là ta có một bộ máy Nhà nước, nói đúng hơn là một bộ máy cầm quyền, bộ máy cai trị. Bộ máy này rất to lớn đồ sộ và tốn kém, to lớn hơn bộ máy ngày xưa gấp nhiều lần.
Nó gồm nhiều bộ máy:
• Bộ máy dân cử là hệ thống Quốc hội và các Hội đồng nhân dân.
• Bộ máy hành chính gồm có chính phủ và các UBND tỉnh, huyện, xã.
• Bộ máy Đảng gồm từ Trung ương đến cơ sở gồm cấp ủy và các bộ máy giúp việc.
• Bộ máy các tổ chức chính trị xã hội trực thuộc Đảng là Công – Nông – Thanh – Phụ.
• Bộ máy Ủy Ban Mặt Trận Tổ quốc bao gồm đoàn thể các ngành, nhưng không có ảnh hưởng gì đến các đoàn thể.
• Một mạng lưới các tổ chức xã hội, có tổ chức chính trị xã hội, tổ chức nghề nghiệp xã hội, tổ chức từ thiện, tổ chức tôn giáo. Các loại tổ chức này có nhiều tổ chức đều do Đảng và Chính quyền bảo trợ và chi phối.
Như vậy hiện tượng này là bộ máy Nhà nước thể hiện ra một hệ thống chính trị rất to lớn cồng kềnh gồm có tổ chức Đảng là trung tâm, các tổ chức khác, kể cả Quốc hội và Chính phủ là những tổ chức ngoại vi xung quanh tổ chức Đảng.
Hệ thống này cổng kềnh và chồng chéo. Riêng việc quản lý sự thương mại, có:
• Bộ Thương mại
• Cơ quan thuế vụ.
• Cơ quan quản lý thị trường.
• Lực lượng chống buôn lậu.
• Cơ quan Hải quan.
Nhiều cơ quan làm một việc, nên phải luôn luôn “phối kết hợp “, “lồng ghép “.
Các lực lượng Công an lại có quy mô của một Chính phủ (nhiều lĩnh vực) nào là an ninh chính trị, công an kinh tế, an ninh văn hóa và an ninh đối ngoại…
Thế mà bất cứ việc gì cũng phải nêu lên đó là nhiệm vụ của toàn dân, mỗi người dân đều phải gánh vác hoặc tham gia. Công an có công an khu vực, công an phường, xã. Ngày xưa còn bé, ở nhà quê, tôi chỉ thấy làng xã tôi có một trương tuần và 4 anh tuần phiên. Ngày nay tôi thấy ở phường có công an phường có trụ sở, có mấy chục người và chỉ huy là một cấp tá; bây giờ mình nhiều sĩ quan thật!
Tôi thấy cái sự cồng kềnh và đông đảo quá thế không phải là một kinh nghiệm hay. Nó quá tốn kém vì nhiều cơ quan, tổ chức thì phải nhiều trụ sở, nhiều xe cộ, đồ dùng văn phòng, nhiều đại hội, hội nghị và học tập. Những chi phí về các việc đó đều lấy vào ngân sách, đều do dân phải đóng góp, mà trong khi ta lại quá thiếu thốn vốn để đầu tư phát triển kinh tế. Tất cả sự to lớn, cồng kềnh của bộ máy đều xoay quanh một nhiệm vụ, một mục tiêu: giữ vững và củng cố chính quyền này, chống lại và đề phòng mọi âm mưu, mọi lực lượng có thể làm suy yếu chính quyền này. Trong khi chính quyền này là của dân, do dân và vì dân, đã có lịch sử và được tổ chức đầy đủ, đã hết sức vững vàng rồi. Ngày xưa ta chưa có chính quyền, phải đối phó với cả một bộ máy thống trị, bộ máy thống trị này nhiều lực lượng và mưu mô thủ đoạn để làm hại lực lượng Cách mạng. Ngày nay Cách mạng đã là bộ máy thống trị, một bộ máy rộng lớn bề thế và vững chắc, tôi không hiểu tại sao lại có người sợ hãi làm như sắp bị đánh đổ đến nơi!
b/ Hiện tượng thứ hai là bộ máy Công an to lớn.
Chế độ nào cũng cần có một bộ máy và lực lượng trung thành để bảo vệ chế độ đó. Chế độ ta cần có một bộ máy và lực lượng như thế là tự nhiên.
Như trong 6 điều Bác Hồ dạy thì Bác nói “đối với Chính phủ phải trung thành ” và Bác thường yêu cầu các lực lượng vũ trang “Trung với nước, hiếu với dân ” nhưng Đài phát thanh của ta ngày nay thường nhắc đi nhắc lại “Trung với Đảng, hiếu với dân”. Trung với Đảng cũng có ý nghĩa, nhưng có lẽ ra là phải sau “Trung với nước “. Nhiều người đồng nhất Đảng với nước, vì Đảng là yêu nước nhất và đại diện, tiêu biểu cho nước đầy đủ nhất. Nhưng dù sao thì Đảng là Đảng và nước là nước, không thể là một, khẩu hiệu nói trên có một ngụ ý bảo vệ Đảng rất triệt để, nhưng như thế nó lại hơi quên mất “nước”.
Lực lượng Công an hiện nay thường được coi là và được trình bày như là một lực lượng bảo vệ dân, cứu giúp dân, là bạn của dân. Sự tuyên truyền cho lực lượng Công an cũng có một quy mô lớn. Riêng tôi biết, Công an có 5 tờ báo và tạp chí:
Báo Công An Nhân Dân
Báo An Ninh Thủ Đô
Báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh (2 tờ: 1 báo; 1 tạp chí)
Báo An Ninh Thế Giới
Báo Văn Nghệ Công An
và các lực lượng văn nghệ khác.
Lực lượng Công an nhân dân hiện nay được giới thiệu như một lực lượng của nhân dân, trong nhân dân và vì nhân dân. Nhưng sao mà trong thực tế nó lại hay giống nhưng cái ngày xưa ở ta, và giống các nước tư bản quá. Nhiều người nhìn vào nó, thấy rõ nó tiêu biểu cho một lực lượng đàn áp và khủng bố. Dân sợ nó nhiều hơn và cho đó là một nghề “thất đức” và quả nhiên nó làm cho nhiều người sợ thật:
Nó có một lực lượng cảnh sát chiến đấu trang bị rất sắc bén và hùng hậu.
Nó được trang bị tất cả những công cụ khủng bố hiện đại và phong phú hơn cả các lực lượng bảo vệ chế độ cũ (phong kiến và thực dân) như dùi cui, súng, vòi rồng phun nước, hơi cay, khiên và côn, xe phân khối lớn, chó nghiệp vụ v.v. Nó có một hệ thống trụ sở, đồn, nhà giam và nhà tù và đều là những chỗ đáng sợ, ít ai vui vẻ muốn tới đó.
Trình độ nghiệp vụ của nó rất cao: thẩm vấn, hỏi cung, theo dõi, điều tra, phong tỏa thư tín, nghe trộm điện thoại v.v… yêu cầu dân và tìm người đưa tin chỉ điểm. Hỏi cung thì mớm cung, gài bẫy, tạo chứng cớ, bắt nọn và hành hạ người bị hỏi cung rất kịch liệt và dài ngày.
Tất cả những điều nói trên đều là những điều mà khi ta chưa có chính quyền thì ta nguyền rủa, chống đối, khinh bỉ. Lúc đó những chữ mật thám, tay sai, chỉ điểm được nhắc đến như những gì xấu xa và lý tưởng của ta là quét sạch nó như quét sạch những rác rưởi ở chợ. Mà ngày nay ta lại sử dụng nó tích cực và ca ngợi, bênh vực nó ghê gớm. Tôi nói lên những cảm tưởng này, không phải bài bác gì các lực lượng Công an hoặc phủ nhận sự cần thiết của nó. Tôi chỉ muốn nói lên một ấn tượng khó hiểu. Những gì trước đây ta khinh bỉ, chửi rủa và chống phá thì ngày nay ta lại làm lại nguyên những cái đó, mà lại hoàn thiện, nâng cao và ngày càng nâng cao!
Khi ta nói đến những gì là dân chủ của các nước tư bản phát triển, thì ta chê nó là dân chủ tư sản, là cái gì đáng ghê tởm. Về những tổ chức và phương pháp bảo vệ chính quyền thì ta lại chăm chú bắt chước một cách rất kỹ lưỡng và còn nâng cao hơn, sáng tạo hơn. Tại sao như vậy nhỉ?
Khoảng 20.11.1998, xem thấy ở tivi một phim truyện tên là “Đám cưới đêm mưa “. Trong phim, nhân vật chính là một thanh niên vì yêu một cô gái mà mẹ không bằng lòng đã bị đẩy đến chỗ giết người và ăn cắp vàng của mẹ rồi mưu trốn với người yêu. Công an tìm ra dấu vết và truy nã, khi cậu thanh niên này trốn về nhà người yêu. Công an theo sát tới, có một cán bộ Công an hiểu và biết được động cơ và ước nguyện hạnh phúc của thanh niên này nên quyết định không bắt tội phạm, mà mở đường cho tội phạm tự thú. Cán bộ công an bị nhận xét là không tròn nhiệm vụ và bị thay bởi một cán bộ Công an khác là người chủ trương phải kiên quyết bắt tội phạm và xử tội. Nhưng cuối cùng thì phim đã có kết thúc, chứng tỏ anh công an chủ trương không bắt tội phạm là đúng. Cậu thanh niên đó đã ra tự thú.
Như vậy để bảo vệ Pháp luật, để củng cố quyền lực của bộ máy cầm quyền có thể có hai cách khác nhau:
- Hoặc khoan dung, nhân ái với dân, hiểu đúng tâm tư của dân và thuyết phục dân.
- Hoặc nhất thiết phải đàn áp, khủng bố, bắt bớ làm dân sợ, dân trốn.
Chẳng lẽ chúng ta không có phương thức tổ chức và hoạt động thế nào để bộ máy, lực lượng bảo vệ của ta thật sự là của dân, do dân, vì dân. Chẳng lẽ ta không thể nào từ bỏ những gì ta chửi rủa, khinh bỉ và chống đối.
Tôi nghĩ rằng ta có thể tìm được, nếu chúng ta nghiêm túc kiểm điểm và tổng kết, và ta thu thập được đầy đủ ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Có ý kiến cho rằng ta chỉ có hai con đường mà từ bỏ đường này thì phải đi vào đường kia. Nhưng ở đây lại diễn ra hiện tượng trùng lặp lại chính những gì ta đã từ bỏ và đánh đổ.
Thế là thế nào đây?
c/ Hiện tượng thứ ba là hệ tư tưởng thống trị và sự thống trị của hệ tư tưởng.
Mác nói tư tưởng thống trị là của giai cấp thống trị.
Thế ở ta, về lý thuyết ta bảo là “chính quyền của giai cấp vô sản “, giai cấp vô sản là giai cấp thống trị. Và tư tưởng của giai cấp vô sản là chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhưng nhìn vào hiện thực của cuộc sống xã hội, tôi thấy những biểu hiện của ý thức hệ đều khác lạ và xa cách với chủ nghia Mác – Lênin.
Ví dụ: “Chủ nghĩa thành phần ” và “Chủ nghĩa lý lịch ” thì không phải từ chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong tổ chức “Chủ nghĩa cơ cấu ” cũng xa lạ với chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tôi lại thấy chủ nghĩa Mác – Lênin nhập vào ta lại nhập vào một tâm lý Nho giáo phong kiến rất nặng, tâm lý đó nặng cả trong nhân dân và trong người lãnh đạo. Hình như cái thứ “Tập trung dân chủ ” rất gần gũi và hòa nhập với “Tam cương ngũ thường ” của Nho giáo. Nếu ngày xưa, người ta gặp cái gì có lợi, may mắn hoặc là một thành công nhỏ nào, thì người ta nói và nghĩ ngay là nhờ Hồng phúc của nhà Vua và của bề trên. Còn ta hiện nay thì người dân và kẻ dưới có được cái gì thì cũng nghĩ và nói ngay là “ơn Bác và ơn Đảng”. Bác và Đảng ban phát mọi thứ cho mỗi người dân, từ cái chữ học, hạt muối, hạt gạo, trái cây, thuốc chữa bệnh đều được ban phát như vậy, không có cái gì do người dân lao động tự làm ra và tự nuôi sống mình!
Ngày xưa, xã hội có Quân – Sư – Phụ (Vua – Thầy – Cha) thì ngày nay có “cấp trên “, “thượng cấp “, Trung ương và cấp ủy được gọi thân tình là “Các anh ấy “. Cái gì cũng phải được phép, chờ ý kiến của “các anh ấy”. Chỉ có “các anh ấy ” là có ý nghĩa, còn người dân bình thường đều không có ý nghĩa gì.
Về lời lẽ và chữ viết thì “Tất cả là của dân, do dân, vì dân “, rất cao cả. Nhưng về cơ chế và lý sự thì Đảng là của Dân, Đảng tức là Dân, Đảng đại diện xứng đáng nhất của Dân, vì vậy của Đảng tức là của dân, do Đảng tức là do dân và vì Đảng tức là vì dân. Đảng đồng nhất với dân, Đảng được trừu tượng hóa thành Dân. Đảng suy nghĩ và hành động đều nhân danh Dân. Trong khi ấy vẫn có những người dân cụ thể nghĩ khác và làm khác Đảng. Mà làm khác Đảng tức là chống Đảng, chống Đảng tức là chống dân. Thế là nhiều chỗ ví dụ như Thái Bình, dân lại phạm tội chống dân!?
Chủ nghĩa Mác là duy vật, nhưng hệ tư tưởng cầm quyền lại thiên về duy tâm. Hệ tư tưởng này hầu như tin vào vai trò tuyệt đối của tư tưởng, tinh thần, cho đó là yếu tố quyết định của mọi công tác, mọi thành công, hầu như tin rằng các mục tiêu kinh tế đạt được là do nêu cao các khẩu hiệu tuyên truyền và sự nhắc lại nhiều lần các khẩu hiệu đó. Ví dụ cứ nói đi nói lại nhiều lần số phần trăm của tăng trưởng kinh tế thì sẽ đạt được mục tiêu, cứ lắp khẩu hiệu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa ” vào mọi hoạt động như là nuôi lợn, nuôi gà, quét sạch đường, chợ… thì ta sẽ đạt được hiện đại hóa. Bệnh duy ý chí rất nặng một thời, nay vẫn còn. Duy ý chí thì cũng là duy tâm. Sự thần thánh hóa, linh thiêng hóa, tuyệt đối hóa lãnh tụ, cấp trên, các nghị quyết, các ý kiến lãnh đạo, thì cũng quá là duy tâm và ngược lại tinh thần của chủ nghĩa Mác. Ý thức hệ cầm quyền rất cần “duy tâm “, thế dễ khống chế tư tưởng toàn xã hội. Thật ra lãnh tụ hay cấp trên cũng là những con người có những nhu cầu và tình cảm như mọi người. Những quyết định lãnh đạo vẫn có thể có những sơ hở, sai sót và sai lầm. Không thể chỉ có đúng đắn và sáng suốt. Phải để cho dân được bình luận!
Cách nhìn nhận sự vật của chủ nghĩa Mác là phép biện chứng, nhưng những người tư tưởng của bộ máy cầm quyền thì quá đơn giản và cứng nhắc, bảo thủ, nhìn nhận tình hình thế giới và trong nước hiện nay cũng giống như cách đây 50 năm hoặc hơn nữa. Và như thế lại tự hào là vững vàng, kiên định và trung thành. Rõ ràng là hệ tư tưởng cầm quyền hiện nay không mác-xít tí nào, dù rằng những người phụ trách tư tưởng đều tự cho mình là rất mác xít, và đàn áp mọi ý kiến khác mình.
Tôi quan sát và suy ngẫm, thấy rằng những người cầm quyền có nhu cầu phải tạo ra cho mình một ý thức hệ cầm quyền. Ý thức hệ này chỉ nhân danh và sử dụng một chủ nghĩa nào đó chứ không hoàn toàn theo chủ nghĩa đó. Ý thức hệ cầm quyền pha trộn mọi thứ chủ nghĩa, pha trộn và lợi dụng mọi tâm lý, tâm thức của cả người cầm quyền và cả nhân dân, khai thác triệt để các yếu tố có lợi cho việc giữ vững và đề cao sự cầm quyền của mình, vì vậy ngôn từ của nó bất nhất, nhiều nghịch lý, nhiều ngụy biện, nhiều sự “nói lấy được “, nhiều sự nói bừa bãi dối trá tinh vi và ngang ngược trắng trợn.
Tôi được nghe một lão thành thuật lại Giáo sư Phạm Thiều trước khi tự vận có trối trăn lại một câu cho đời là: “những kẻ dốt hay làm dại, vì thế nên họ phải dối “. Ba “D” ấy đi liền với nhau: Dốt – Dại – Dối. Đó là một nhận xét đáng quan tâm. Sự lừa dối đi tới cao độ là nói bừa, nói ẩu, bất chấp đạo lý và tất yếu dẫn đến đàn áp, khủng bố bịt mồm mọi người, vu cáo xuyên tạc mọi người. Những điều xấu xa ấy ta đã từng lên án rất nghiêm trọng ở những chính quyền mà ta cần đánh đổ. Sao bây giờ nó lại xuất hiện ở chính quyền gọi là chính quyền cách mạng, chính quyền của giai cấp v.v…
Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nhiều lần tỏ ra bất cần Mác-Lênin. Chính tai tôi nghe nhiều lần TBT Lê Duẩn nói “Mác không nói làm chủ tập thể, Lênin không nói làm chủ tập thể, chỉ có ta là nói làm chủ tập thể (ta đây tức là Việt Nam và ta đây cũng là Lê Duẩn)”. Thế mà bây giờ còn có nhiều người tự huyễn hoặc mình và lừa bịp mọi người rằng họ là trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, trong khi họ nói và làm sai hết và hầu như họ chẳng hiểu gì Mác và Lênin cả.
Có lẽ bất cứ người cầm quyền nào cũng phải có một ý thức hệ của mình. Đó là ý thức hệ cầm quyền. Vấn đề là phải bình tĩnh và khách quan phân tích cái ý thức hệ mình đang dùng có tính chất, bản chất gì? được thế nào và không được thế nào? dân chủ bàn bạc với nhân dân ra con đường đi của đất nước, đừng nói bậy, nói bạ, khinh thường mọi người, khinh thường nhân dân.
d/ Một hiện tượng thứ tư cần phải quan tâm xem xét nữa là: hiện tượng chênh lệch giàu – nghèo, đủ – thiếu, sang trọng – bần hàn.
Khi ta nổi dậy ta lớn tiếng kêu gọi nhân dân chống bất công, xóa sạch bất công, tạo nên sự công bằng bình đẳng. Nhưng nay trong một xã hội có chính quyền cách mạng, ta vẫn thấy diễn ra hàng ngày hai cảnh trái ngược:
Một bên là các đại hội, các hội nghị, các kỷ niệm, mừng công, tiếp khách, đón tiếp cấp trên đầy trang hoàng cờ hoa lộng lẫy với các bữa tiệc sáng choang thừa mứa, các quà cáp hậu hỷ, các phòng ngủ đẹp đẽ, thơm tho, êm ái, các cuộc săn sóc sức khỏe chu đáo, đầy đủ.
Còn có một cảnh ngược lại là những căn nhà lụp xụp ở nông thôn miền núi, ổ chuột ở thành phố, các con người gầy yếu, ốm đau, rách rưới, các trẻ nhỏ gầy còm lê la, các trẻ nhỏ không đi học lang thang, bới rác kiếm ăn…
Hãy đối chiếu sự phí tổn với tất cả mọi khoản cho một cuộc sống của một Bộ trưởng hay Trung ương ủy viên, với cuộc sống của người lao động có thu nhập tối thiểu là 144.000đ thì sẽ có một sự so sánh rõ nét hơn. Sự cách biệt giữa dân và dân không to lớn và gay gắt bằng sự cách biệt giữa dân và những người cầm quyền.
Tất nhiên không thể một lúc và không bao giờ xóa bỏ được hết sự khác nhau, mọi người đều có thể giàu có sang trọng. Nhưng ít nhất ta phải thấy còn cảnh khác biệt ấy mà đừng nhơn nhơn tự đắc về những thắng lợi và thành công. Phải nhìn đến nhiều cảnh còn đau khổ, còn thiếu sót, còn oan khuất, còn đày đọa để thấy được đúng thực chất của tình hình mà đối xử với cuộc đời cho hợp lẽ phải.
Đất nước ta đã có những thắng lợi và thành công thực sự là to lớn. Ai muốn phủ nhận cũng không được. Nhưng đất nước ta cũng vẫn là một đất nước quá nghèo và lạc hậu. Ta hãy nhìn cho đúng cái thực trạng của sự nghèo khổ, lạc hậu mà tìm cách đưa đất nước thoát dần ra. Thấy mình đang nghèo để nhìn sự việc thì tâm lý và tư tưởng khác. Thấy mình thắng lợi thành công và mình đầy thành tích thì nhìn sự việc có tâm lý và tư tưởng lại khác. Tôi cứ mong rằng mọi người nhìn rõ được thực trạng nghèo khổ của đất nước, từ đó mà tích cực tìm đường thoát ra. Còn chỉ hô “dân giàu nước mạnh ” như là nói lên một ước mơ xa vời, rồi lại mơ mộng chuyện viển vông thì có vẻ ít có lợi ích cho đất nước.
Ta vẫn còn đang phải tiếp tục chống phá các thứ bất công, bất bình đẳng. Sự xa cách giàu – nghèo, sang – khó không phải chỉ có nguyên nhân duy nhất là mặt trái của kinh tế thị trường, nó còn có nguyên nhân ở trong sự cai trị và quản lý đất nước nữa. Phải tìm và tôi tin chắc rằng ta có thể tìm ra.
****
Điều tôi trải nghiệm thấy rõ là:
- Những người cầm quyền hết sức cần thiết phải có một hệ ý thức cho mình.
- Hệ ý thức đó phải bảo đảm sự cầm quyền, phải ổn định sự cầm quyền, bảo vệ và củng cố sự cầm quyền, hệ ý thức ấy lên án tất cả mọi ý kiến nhận xét, phê phán và chống lại ý thức hệ cầm quyền.
- Hệ ý thức ấy bất chấp mọi chủ nghĩa, mọi học thuyết, thậm chí mọi đạo lý. Chỉ cần hệ ý thức ấy bảo đảm sự tồn tại của lực lượng cầm quyền.
- Sự tồn tại của cầm quyền là tiêu chuẩn duy nhất của hệ quy chiếu, duy nhất của mọi ý kiến, mọi nguyên lý và đạo lý.
- Vì vậy hệ ý thức cầm quyền cần có và cho phép mọi thủ đoạn dối trá, lừa bịp, đàn áp và khủng bố để đáp ứng yêu cầu tồn tại và củng cố sự cầm quyền hiện tại.
Thế là tôi đã trải qua:
Những mơ xóa ác ở trên đời (lúc bắt đầu)
Ta phó thân ta với đất trời (dấn thân)
Ác xóa đi, thay bằng cực thiện (thắng lợi)
Tháng ngày biến hóa, ác luân hồi (trở lại ác)
Có lẽ không ai muốn thế, tôi lại càng không muốn thế. Nhưng cuộc sống thực sự nó có sự vận động của riêng nó, nó lôi cuốn và quy định sự phát triển của cả người cầm quyền và người không cầm quyền.
Ta có thể cưỡng lại xu hướng vận động này không ? Ta có thể có một lối ra không?
Tôi tin chắc là có!
Có thể tìm được lối ra hợp chân lý và hợp đạo lý với ba điều kiện:
Một: Không nên lệ thuộc vào bất cứ một chủ nghĩa, một học thuyết nào. Đảng Cộng sản có quyền có học thuyết của mình, nhưng không được bắt tất cả mọi người phải theo học thuyết đó. Vì mọi người, nhất là người Việt Nam hiện nay đã đủ trình độ để nhận xét chân lý và đạo lý.
Hai: Phải cùng nhân dân bàn bạc và tìm tòi, không thể có bất cứ ai nghĩ thay cho nhân dân cả nước được. Phải thu thập được mọi tiếng nói trong nhân dân (nhất là của các sĩ phu gồm có trí thức và lão thành).
Ba: Lực lượng cầm quyền phải thực sự của dân, do dân, vì dân (như
Đảng Cộng sản đã long trọng tuyên bố, nêu lên), phải coi việc phục vụ đất nước, dân tộc và nhân dân làm mục đích tối cao, là nguyên lý chỉ đạo mọi tư tưởng, hành động, mọi chính sách và luật pháp. Không để tồn tại nghịch lý: lực lượng cầm quyền tự ý đồng nhất với nhân dân và biến mọi việc phục vụ nhân dân thành ra phục vụ cầm quyền. Phải có lực lượng cầm quyền, nhưng lực lượng cầm quyền phải thực sự của dân, vì dân, do dân và được nhân dân giám sát và kiểm soát, phải lấy việc đoàn kết toàn dân tộc làm tôn chỉ mục đích cao nhất của sự cầm quyền, cao hơn bất cứ vấn đề nào khác. Thực hiện đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Từ cổ, kim, đông tây, lịch sử thường truyền tụng và ca ngợi các chính quyền khoan dung, nhân ái và phê phán các chính quyền chuyên chế, tàn bạo. Các mưu sĩ Trung Quốc thường khuyên các vua hiền cần nhân ái với người đã hàng phục, những người lỡ lầm, những người trái ý, những khuyên can thẳng thắn và trung thực.
Ở ta, người xưa hay nói đến “An dân”. An dân là dân yên, chứ không phải chỉ an toàn cho chính quyền. Giàu mà không có yên dân thì không phải là một xã hội hay. Ở ta, có lẽ phải quan tâm đến mục tiêu an dân bên cạnh mục tiêu làm giàu.
Trần Độ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét