Ngân Bình - Tôi sang Mỹ cùng với Ba Dượng theo diện
H.O - nhờ tờ khai sinh giả tôi có được qua những đồng tiền đút lót mà tôi trở
thành con ruột của Ba. Cha mẹ tôi và một đứa em trai còn ở lại Việt Nam.
Nhiều người rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao mỗi khi nhắc đến gia đình ruột thịt
tôi có phần lạnh nhạt trong khi tôi lại rất thương yêu và chăm sóc Ba Dượng. Thật
sự, tôi thương Ba Dượng hơn cha ruột của tôi rất nhiều. Tôi không biết điều đó
đúng hay sai nhưng tình cảm luôn xuất phát từ trái tim, không thể gượng ép và
cũng không thể theo một khuôn mẫu đã định sẵn. Duy nhất một điều tôi có thể hiểu
được là cha tôi chưa một ngày bồng ẵm tôi nhưng Ba Dượng đã nuôi nấng tôi từ
thuở ấu thơ.
Khi mẹ mang thai tôi được
sáu tháng thì cha đã bỏ mẹ con tôi để vào rừng, theo “Quân giải phóng”. Mẹ ở lại,
một mình một thân yếu đuối với cuộc sống vất vả nghèo nàn, vừa nuôi mẹ chồng, vừa
nuôi con dại. Ngay lúc ấy, Ba Dượng tôi xuất hiện. Ông là một Sĩ quan trong
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ Thành phố ông thuyên chuyển về nơi gia đình tôi
đang sinh sống. Tôi không nhớ rõ những gì đã xảy ra, chỉ biết rằng đến khi bốn
tuổi tôi mới có được một người mà tôi gọi bằng Ba. Ba là một người hiền lành,
chân thật và rất vui tính, cởi mở. Ba chăm sóc bà nội như mẹ ruột, vì thế bà nội
cũng rất thương Ba. Ngược lại, mẹ tôi không yêu Ba. Mẹ tiếp nhận Ba - một cuộc
hôn nhân không giá thú - chỉ để tìm nơi nương tựa. Ba biết điều đó nhưng vẫn chấp
nhận..
Năm bảy mươi lăm cha
tôi bất ngờ trở về, còn Ba thì lại khăn gói vào “trại cải tạo”. Mẹ vui mừng vì
sự trở về của cha bao nhiêu thì tôi lại đau lòng vì sự tù tội của Ba bấy nhiêu.
Tôi không hiểu được tình cảm của mẹ. Tại sao với một người chồng hết lòng
thương yêu mẹ mà trái tim bà vẫn dửng dưng? Tại sao chỉ một năm ngắn ngủi sống
với cha mà tình yêu bà vẫn bền vững suốt cả chục năm hơn? Tại sao mẹ có thể chấp
nhận việc cha đã có vợ khác và người vợ “đồng chí” của cha đã nghiễm nhiên trở
thành vợ chính thức, còn mẹ, chỉ là một người vợ danh không chính, ngôn không
thuận, để mỗi lần đến thăm, cha phải nhìn trước, ngó sau như một kẻ đang phạm tội
ngoại tình. Chưa kể có lần vợ của cha còn đến nhà, mắng chửi mẹ là “dâm phụ” và
cũng không cần biết bà nội tôi là ai, bà chống nạnh xỉa xói:
- Cả nhà chúng mày
phải tránh xa chồng bà, không thì bà cho chết cả lũ về cái tội cấu kết với cái
thằng lính ngụy đang ở tù rục xương.
Cha tôi nắm tay kéo
bà vợ đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò của hàng xóm. Mặt bà nội xanh như
chàm, bàn tay cầm cây gậy run lên bần bật vì tức giận. Mẹ ngồi bệt xuống sàn
nhà với những giọt nước mắt không ngừng tuôn chảy trên khuôn mặt lơ lơ, láo láo
như người mất hồn. Tôi cũng không nhớ rõ cảm giác của mình lúc ấy ra sao nhưng
hình như có một nỗi vui nào đó hiện đến rất nhanh khi tôi chợt nghĩ, đây cũng
là một điều hay để giúp mẹ tôi sáng mắt ra mà nhận biết ai là người thật sự yêu
thương mình. Nhưng không, mẹ tôi vẫn tối tăm quay cuồng trong mớ tình cảm hỗn độn
đó dù bà nội khuyên mẹ hãy quên cha tôi đi để lo thăm nuôi Ba đang chịu tù tội,
đói khát.
Phần tôi, tôi rất bất
mãn trước thái độ của mẹ khi bà không có một chút quan tâm, lo lắng nào dù thật
nhỏ cho cuộc sống của Ba trong cảnh khốn cùng. Mỗi lần theo cô Tư đi thăm Ba,
tôi phải nói dối đủ điều về lý do tại sao mẹ vắng mặt. Dĩ nhiên, cô Tư cũng
không muốn anh mình phải đau khổ - nếu biết được người vợ đầu ấp tay gối đã nhẫn
tâm phủi tay, rũ bỏ tình nghĩa vợ chồng bao nhiêu năm - nên cô dặn dò tôi phải
nói dối với Ba rằng mẹ đi buôn xa không về kịp, hoặc bà nội bệnh bất ngờ mẹ phải
ở nhà chăm sóc
Có lần, sau khi thăm
Ba trở về, tôi hỏi mẹ bằng thái độ khó chịu:
- Ba ở tù bốn năm rồi
mà sao mẹ không đi thăm Ba một lần?
Mẹ trả lời một cách
thản nhiên:
- Vì mẹ không thể phản
bội cha con!
Tôi tức giận:
- Mẹ không thể,
nhưng mẹ đã phản bội cha rồi.
Mẹ cho rằng tôi bất
hiếu vì không phân biệt ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Tôi cười chua xót:
- Con không cần biết
ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Con chỉ biết Ba là người đã cực khổ nuôi nấng
con từ lúc còn bé. Con chỉ biết Ba là người đã bất kể hiểm nguy, giữa đêm khuya
bế con đến Bệnh viện cứu cấp khi con đau nặng. Mẹ không nói cho con biết nhưng
bà nội vẫn nhắc hoài chuyện ấy.
Mẹ quay đi sau khi
ném cho tôi ánh mắt giận dữ. Tôi biết mẹ không thể bỏ cha ruột của tôi, dù ông
đối xử với bà tình không trọn mà nghĩa cũng chẳng tròn, nhưng ít ra bà cũng
không nên rũ sạch ơn nghĩa cưu mang của Ba hơn chục năm trời.
- Mẹ hãy dẹp tình cảm
qua một bên để tỉnh táo suy nghĩ xem cha đối với mẹ như thế nào. Ông đi bao
nhiêu năm trời không một tin tức. Chắc trong lòng ông không hề vấn vương,
thương nhớ mẹ hay nghĩ đến đứa con chưa kịp chào đời. Bằng chứng là đứa con
riêng của cha nhỏ hơn con một tuổi, có nghĩa là xa mẹ chưa đầy một năm cha đã
có người đàn bà khác. Rồi khi trở về đây gặp lại mẹ, đáng lẽ cha phải giải
thích cho bà vợ của cha hiểu ai là người đến trước, ai là người đến sau, chứ lẽ
nào cha đứng đó để chứng kiến bà ta làm hùm làm hổ với mẹ, cứ y như mẹ cướp chồng
của bà ta...
Nhìn bà nội ngồi ở
góc bàn sụt sùi lau nước mắt, tôi cảm thấy ân hận nên quỳ xuống cạnh bà:
- Nội à! con không
muốn nói những lời làm đau lòng nội. Nhưng thật tình con không thể nào chấp nhận
thái độ bạc bẽo của mẹ con. Nội thử nghĩ, nếu như ngày xưa không có Ba thì cuộc
sống của gia đình mình sẽ ra sao? Nội bệnh hoạn cũng một tay Ba lo thuốc men mà
không hề phân biệt rằng, đây là mẹ chồng chứ đâu phải mẹ ruột của vợ tôi. Ba
nuôi nấng con từ nhỏ đến lớn không rầy la một tiếng dù con có phạm lỗi lầm. Ba
thương yêu con như một đứa con ruột thịt...
- Rồi sao nữa? Cái
thằng Sĩ quan ngụy đó cũng giỏi thiệt... nó dụ dỗ được mày đứng về phe nó để chống
lại cha mẹ.
Cha tôi bước vào
nhà, quăng cặp táp lên chiếc phản gỗ, tay đập bàn rầm rầm:
- Anh đã nói với em
rồi, con bé này đã bị thằng ngụy đó đầu độc mười mấy năm không thể nào tẩy não
được mà.
Tôi lùi lại, đứng
sau lưng bà nội. Dù trong lòng cũng có chút nao núng, nhưng khi nghe cha xúc phạm
đến Ba, tôi tức giận đến độ không còn biết sợ là gì:
- Thưa cha, cha có
biết cái “thằng ngụy” xấu xa đó đã dạy con điều gì không?
Tôi cười chua chát
tiếp lời:
Ông ấy đã dạy con,
dù đi đâu xa cũng phải nhớ ngày giỗ của cha mà về nhà đốt nén nhang cho bà nội
và mẹ vui lòng. Hồi mẹ được tin cha chết, mẹ khóc lóc, đau khổ nhưng không dám
lập bàn thờ, thì chính cái “thằng ngụy” mà cha luôn miệng chửi rủa đó đã mang ảnh
ba ra tiệm hình để rọi lớn, rồi đem về trịnh trọng đặt lên đầu tủ với lư hương,
với chân đèn để làm bàn thờ cho cha. Nếu đêm nào mẹ lỡ quên vì bận bịu thì cũng
chính “thằng ngụy” đó dù đã lên giường cũng vội vàng leo xuống để đốt nhang cho
cha. Chưa bao giờ con nghe “thằng ngụy” đó nói một lời thất lễ với cha, nhưng
cha thì lúc nào cũng chửi bới người ta, trong khi đáng lẽ cha phải cám ơn người
đã thay cha gánh vác việc gia đình. “Thằng ngụy’ đó đã cho con thấy hình ảnh một
người chồng, người cha cao thượng, nhưng cha thì sao?... cha hãy suy nghĩ lại để
từ nay đừng bao giờ xúc phạm đến Ba của con.
Hình như tình thương
đối với Ba đã cho tôi thêm sức mạnh và sự bình tĩnh để dõng dạc nói lên suy
nghĩ của mình không chút sợ hãi. Điều đó khiến mẹ tôi lo quắn quíu:
- Con này... ma nhập
nó rồi hay sao mà ăn nói bậy bạ, hỗn láo!
Mặt cha tôi như xám
lại, ánh mắt ông long lên sòng sọc, đôi môi mím chặt khiến khuôn mặt ông đanh lại,
hung hãn không thua gì các diễn viên đang vào vai một nhân vật phản diện độc
ác. Cha đưa chân đạp chiếc ghế văng vào bàn. Ông quay lại hét vào mặt mẹ tôi:
- Em dạy dỗ con cái
như thế này đây hả? Nó nói chuyện với cha nó như một phường mất dạy. Anh nói rồi...
ngày nào nó còn ở trong nhà này anh sẽ không bao giờ đặt chân đến đây nữa.
Tôi nghênh mặt khiêu
khích:
- Cha không cần đuổi
con cũng sẽ ra khỏi nhà ngay hôm nay.
Con xin nói thật...
con không muốn gặp mặt người cha vô trách nhiệm, bỏ vợ, bỏ con mấy mươi năm rồi
bây giờ trở lại trách vợ mình không dạy dỗ con. Cha có biết trách nhiệm dạy dỗ
con thuộc về ai không?
Cái tách trà bay về
phía tôi, chạm vào thành ghế bà nội đang ngồi vỡ toang. Tôi không biết nếu cái
tách trúng ngay đầu bà nội thì việc gì sẽ xảy ra? Có lẽ tôi lại hứng thêm một
cái tội “Tại cái con mất dạy này mới ra cớ sự!”
Sau cuộc cãi vã đó tôi thu dọn quần áo ra đi. Bà nội chạy theo níu tay tôi mếu máo dặn dò:
- Con xuống nhà cô
Tư ở, đừng đi đâu bậy bạ nghe con.
Tôi cười trong nước
mắt:
- Con có tư cách đến
nhà cô Tư sao bà nội? Cô Tư đâu phải ruột thịt gì của con!
Mẹ đứng ngang ngạch
cửa mai mỉa:
- Biết vậy là khôn
đó con. Cứ đến ở thử vài ngày để xem người ta đối xử ra sao cho biết thân.
Không hiểu sao câu
nói nào của mẹ cũng châm chích, cay nghiệt. Không lẽ mẹ đã quên hết những ngày
cô Tư chạy đôn chạy đáo đem hàng về cho mẹ bán kiếm lời. Chẳng những thế, cô
còn nhường cả khách hàng của cô cho mẹ. Ngay từ lúc Ba đến với mẹ, đâu phải cô
Tư không biết tôi là con riêng của mẹ, nhưng lúc nào cô cũng đối xử với tôi ngọt
ngào, thân thương như đứa cháu ruột. Mẹ không nhớ hay cố tình chối bỏ? Tôi thất
vọng não nề vì cách cư xử của mẹ nên cay đắng trả lời:
- Cô Tư đối xử với
con ra sao thì cả chục năm nay con đã biết rồi không cần phải thử đâu mẹ. Con
nghĩ người mà con cần thử là cha đó, cả mẹ bây giờ nữa... Mẹ à! mẹ thay đổi quá
nhiều... đến độ con không còn nhận ra mẹ là người con vẫn hằng yêu quý. Trời
cao, đất rộng không tha thứ cho mẹ cái tội bạc đãi Ba đâu.
Tôi quay lưng đi mà
không chút luyến lưu, nuối tiếc. Tội nghiệp bà nội. Bà vừa khóc vừa gọi tên tôi
rồi lúc thúc chạy theo, dúi vào tay tôi một nắm tiền:
- Cầm tiền theo mà
tiêu xài đi con. Ở đâu nhớ cho nội biết để nội an tâm. Có đi thăm Ba thì lấy tiền
này mua một chút đồ ăn đem theo, nói nội gửi cho Ba và xin lỗi Ba dùm... nội
già yếu rồi không thăm Ba con được.
Tôi ôm chặt lấy bà nội,
nước mắt chan hòa.
Sau sáu năm học tập
Ba được thả về. Hộ khẩu của Ba là căn nhà ngày xưa gia đình tôi đã chung sống,
nhưng nay mẹ không đồng ý cho Ba vào nhà. Bà nội khóc hết nước mắt cũng không
lay chuyển được quyết định của mẹ - đúng hơn là mẹ đã làm theo lệnh của cha
tôi. Ông Năm hàng xóm thương Ba sa cơ thất thế, giận mẹ tôi là “Phường vong ân
bội nghĩa” - cụm từ này đã thay vào tên mẹ tôi mỗi khi ông nhắc đến - ông cho
Ba cất cái chái nhỏ phía sân sau của ông, sát cạnh nhà mẹ trong thời gian chưa ổn
định vì hàng ngày Ba phải ra Công an phường trình diện.
Ba hoàn toàn không
nói một lời trách móc mẹ. Tất cả nỗi đau Ba giấu kín trong lòng. Có lần bà nội
sang thăm Ba, bà ân cần nắm tay Ba nói trong nước mắt:
- Má xin lỗi con. Má
không biết phải làm sao cho đúng!
Ba cười hiền từ:
- Cũng là số phận của
con thôi. Má đừng buồn!
Phải hơn nửa năm sau
cô Tư mới đút lót được Công an để chuyển hộ khẩu của Ba về nhà cô. Và tôi đã có
những ngày tháng vui vẻ sống bên cạnh Ba và cô Tư. Một mái gia đình đâu phải thật
sự là của tôi nhưng sao tình cảm tôi nhận về quá thiết tha, sâu đậm. Cha “bắn
tiếng” hăm dọa sẽ từ bỏ, không nhận tôi là con nữa. Ba khuyên tôi nên trở về
xin lỗi cha mẹ, tôi nhăn mặt trách Ba:
- Con đang ở thiên
đàng sao Ba lại nỡ lòng đẩy con xuống hỏa ngục. Ba hết thương con rồi phải
không? Ai muốn từ con thì cứ từ... con không sợ. Con chỉ sợ Ba từ con thôi.
- Đôi mắt long lanh,
đỏ hoe của Ba cho tôi biết rằng Ba đang rất hạnh phúc khi biết rằng, trong lòng
tôi, Ba mới thật sự là người cha tôi yêu kính.
Ngày bà nội mất Ba
không đến nhưng trong căn phòng hẹp của Ba, Ba đã lập một bàn thờ nhỏ và lặng lẽ
quấn vành khăn tang. Nếu mẹ đã làm tôi thất vọng vì sự bạc tình, bạc nghĩa đối
với Ba thì tình cảm của Ba và bà nội làm tôi cảm động rơi nước mắt. Ba nói “Ba
mồ côi từ bé, bà nội lại đối xử với Ba rất tốt, nên Ba thương bà nội như chính
mẹ của mình”.
Những năm gần đây Ba
mang một chứng bệnh nan y. Có lẽ, Ba sợ khi mất đi tôi sẽ bơ vơ vì không có ai
là người thân thích ruột rà nơi đất khách quê người nên cứ nhắc nhở tôi trở về
Việt Nam thăm “gia đình” nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó. Sự oán giận
và ray rứt trong lòng tôi vẫn chưa nguôi ngoai dù thỉnh thoảng tôi vẫn gửi tiền
về cho mẹ theo lời khuyên nhủ, nhắc nhở của Ba. Tôi muốn được ở cạnh Ba cho đến
ngày cuối cùng để đền bù món nợ ân tình quá lớn mà mẹ tôi đã nợ của Ba.
Ngân Bình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét