Tác giả: Lý Gia Trung (Tạp chí Trung Quốc) [1] * Biên dịch:
Nguyên Hải (Nghiên Cứu Quốc Tế) - Nguyễn
Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm
vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối
quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương
ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc
viết trong Hiến pháp... Ông nói rằng Việt Nam đã làm một số việc
không tốt với Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai thì phải sửa. Mong
các đồng chí Trung Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đã
qua rồi thì để nó qua đi thôi...
Để
bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn phòng Đối ngoại đã làm rất
nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đã phải đưa đi nơi khác tất cả
các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở
trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc - Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài...
Tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính thức thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung-Việt, từ đó kết thúc trạng thái đối lập trong mối quan hệ giữa hai nước kéo dài tới 13 năm. Cần nói rằng để đạt được mục tiêu ấy, cả hai bên đều đã có những cố gắng
lớn, trong đó cuộc gặp Thành Đô tháng 9-1990 giữa người lãnh đạo hai nước có ý
nghĩa lịch sử quan trọng. Nó đánh dấu điểm ngoặt trong mối quan hệ Trung-Việt,
không những san bằng con đường bình thường hóa mối quan hệ này mà còn có ảnh
hưởng sâu sắc lâu dài tới sự tiếp tục phát triển mối quan hệ hai nước.
Thay đổi chính quyền, quan hệ Trung-Việt xuất
hiện tia sáng ban mai
Năm
1975 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, những người lãnh
đạo Việt Nam hồi đó đã không kịp thời hàn gắn các vết thương do chiến tranh
mang lại, mà triệt để xa rời đường lối Hồ Chí Minh, đối nội cưỡng chế thi hành
cải tạo XHCN quá “tả”, đối ngoại dựa vào sự ủng hộ của Liên Xô, ra sức đẩy mạnh
chủ nghĩa bá quyền khu vực, điên cuồng chắp nối lắp ghép “Liên bang Đông
Dương”. Dưới sự dẫn dắt của đường lối sai lầm đó, Việt Nam một mặt công khai
chống Trung Quốc, một mặt ra sức khống chế Lào, thậm chí phát động xâm lược vũ
trang Campuchia. Những việc làm của họ đã đưa nền kinh tế Việt Nam tiến gần tới
miệng hố sụp đổ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa từng thấy.
Tháng
7-1986, Tổng Bí thư ĐCSVN Lê Duẩn ốm chết. Tháng 12 cùng năm, tại Đại hội VI
ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng. Trong
thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ những năm 60, Nguyễn Văn Linh là thành
viên ban lãnh đạo Trung ương Cục Miền Nam ĐCSVN, từng nhiều lần bí mật thăm
Trung Quốc, có thái độ thành khẩn hữu hảo đối với Trung Quốc, rất được Mao Chủ
tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đánh giá cao,
cho rằng ông là người lãnh đạo kế tục rất có hy vọng của Việt Nam. Nhưng sau
khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không tán thành chính sách
đối nội đối ngoại sai lầm của người lãnh đạo đương thời, vì thế ông từng mấy
lần bị gạt bỏ. Sau khi lên làm Tổng Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh khẩn trương
uốn nắn toàn bộ cách làm sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu Việt
Nam cần phải “làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng lúc đó Việt Nam có hai
nhiệm vụ khẩn thiết nhất là rút quân khỏi Campuchia và cải thiện quan hệ với
Trung Quốc.
Thế
nhưng Bộ Ngoại giao do Nguyễn Cơ Thạch, - một thân tín của Tổng Bí thư tiền
nhiệm, Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nắm giữ - vẫn tiếp
tục hành sự theo tư duy của Lê Duẩn, tìm đủ mọi cách can nhiễu và ngăn cản sự
bố trí chiến lược của Nguyễn Văn Linh. Là người lãnh đạo mới lên nắm quyền,
Nguyễn Văn Linh chưa có cơ sở vững chắc trong tầng lớp quyết sách ở trung ương;
một số ý tưởng của ông cũng chưa được nhiều người lãnh đạo hiểu biết và ủng hộ.
Trong tình hình đó, làm thế nào mới có thể thực hiện được mục tiêu nói trên là
một vấn đề hóc búa và đau đầu nhưng lại tất phải giải quyết.
Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc ba lần xin
gặp Đặng Tiểu Bình thổ lộ điều bí mật
Tháng
10-1989, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc. Hồi ấy tôi là Trưởng phòng Đông Dương,
Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao có tham gia công tác tiếp đón. Theo kế hoạch đón tiếp
được Trung ương duyệt thì Thủ tướng Lý Bằng sẽ chủ trị hội đàm, Tổng Bí thư
Giang Trạch Dân hội kiến và mở tiệc chiêu đãi loại thường (nguyên văn tiện
yến). Nhưng phía Lào tha thiết mong muốn đồng chí Đặng Tiểu Bình có thể hội
kiến Cay-xỏn Phôm-vi-hản. Phía Trung Quốc tỏ ý Đặng Tiểu Bình tuổi đã cao,
không thể gặp bất cứ khách nước ngoài nào, xin thông cảm. Dù vậy, Cay-xỏn
Phôm-vi-hản vẫn kiên trì yêu cầu gặp Đặng Tiểu Bình, tôi nhớ là họ trước sau ba
lần đề ra vấn đề này. Trong tình hình đó, qua nhiều lần nghiên cứu, bàn bạc,
cuối cùng thỏa thuận mời Đặng Tiểu Bình gặp ngắn gọn có tính nghi lễ. Vì vậy Bộ
Ngoại giao cũng không chuẩn bị đề cương chi tiết các điểm chính để tham khảo
khi trò chuyện.
Không
ngờ hai vị lãnh đạo nói chuyện lâu tới 40 phút, hơn nữa đều nói về những vấn đề
có tính thực chất rất quan trọng. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thành khẩn thừa nhận
trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không bình
thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ
đánh dấu việc hoàn toàn bình thường hóa quan hệ hai nước. Đồng thời Cay-xỏn
Phôm-vi-hản còn chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn
Linh tới Đặng Tiểu Bình, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối với tình hình
Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, còn nói Nguyễn Văn
Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung Quốc.
Đặng
Tiểu Bình cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh
và nói:
Tôi
quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt,
rất có lý trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng
chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm
vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đã già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ
hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải
quyết, mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam khôi phục bình thường, như vậy một nỗi
băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ.
Đặng
Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi
Campuchia. Ông nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ý kiến đó tới Nguyễn Văn
Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu Bình còn nói một câu ý vị sâu sắc: “Nguyễn Cơ
Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy
câu này dường như buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu,
câu nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng
Trung Quốc đã mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề
Campuchia hay thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung-Việt đều không thể hy
vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch.
Nguyễn Văn Linh tiếp Đại sứ Trung Quốc để tỏ ý
hữu hảo
Cay-xỏn
Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đã kịp
thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu Bình. Nghe
xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu
biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt-Trung
trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như
thế nào thì phải bàn với Trung Quốc. Ông còn ý thức được rằng Đặng Tiểu Bình
tuy đã gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời mình thăm Trung Quốc. Trong
tình hình đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp
rút giải quyết.
Ngày
5-6-1990, qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến
Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN.
Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới
các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến
chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đã gặp Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu
Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu Bình v.v... Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai,
đồng chí Đặng Tiểu Bình là người cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh
là học trò của họ. Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù
của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ tịch
bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít. Trong thời kỳ Việt Nam
chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đã viện trợ to lớn cho Việt Nam về mọi mặt, cả
đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc
cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam
làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch
rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của
Trung Quốc thì Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ.
Nguyễn
Văn Linh nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất,
Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đã xuất hiện
tình hình khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng
gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối
quan hệ Việt-Trung xuất hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đã làm một số việc không tốt với
Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai thì phải sửa. Mong các đồng chí Trung
Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đã qua rồi thì để nó
qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước
mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này.
Nguyễn
Văn Linh nói tình hình quốc tế đang thay đổi mạnh, tình thế ở Đông Âu diễn biến
rất phức tạp, tình thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can
thiệp, ra sức làm diễn biến hòa bình, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xã
hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là thành trì
của hòa bình thế giới, nhưng hiện nay thành trì này đang lung lay. Trung Quốc
là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng lớn, lại kiên định đi con đường
XHCN. Trong tình hình hiện nay, Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan
trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam-Trung Quốc
là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có
sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh
nói đây là lời thực lòng của ông.
Nguyễn
Văn Linh nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách hòa
bình, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để
phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam-Trung
Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary hòa giải
với Heng Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa
các bên hiện nay. Ý tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế.
Nguyễn Văn Linh tỏ ý ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lãnh đạo
Trung Quốc cao nhất để trao đổi ý kiến một cách thấu triệt, như anh em với
nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy
người lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau thì dễ hiểu biết
thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn
đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh còn nói, ông đã nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ
hưu có thể bàn bạc cùng với người lãnh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm
vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ Việt-Trung.
Khi
hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói
chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ
Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có
dụng ý là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói gì, cũng có
thể lúc ấy [Tổng Bí thư] còn có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội
thay đổi cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do
Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.
Sau
khi kết thúc cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi
tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có
chỉ thị gì. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hãy cứ yêu cầu
Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên
hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh
với ba phái lực lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp
cấp cao giữa nhà lãnh đạo hai nước. Trong tình hình đó, làm cách nào để phá vỡ
thế bí, thực hiện cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc là vấn đề đòi hỏi Nguyễn Văn
Linh suy nghĩ rất lung.
Một nhân vật bí ẩn xuất hiện ở Sứ quán cho xem
mật thư
Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xã
hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp
đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương. Đại sứ đã tiếp ông này tại
phòng khách Sứ quán. Vì Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện
không cần phiên dịch. Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối
ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng
Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại
giao ngăn cản, nói là không cần thiết. Vì vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng
tới Đại sứ Trương.
Nói
đoạn, Hoàng lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải
thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đã được Tổng Bí thư
soát lại không có gì sai. Trong đó có đoạn nói:
“Tháng
10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng
Tiểu Bình và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những năm còn sống được
thấy quan hệ Trung Quốc - Việt Nam bình thường hóa, tôi rất hoan nghênh những
điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ trì Trung
ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục quan hệ Việt Nam - Trung Quốc để từ Đại hội
VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được
việc này tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên
ĐCSVN dành cho tôi.”
“Sở dĩ vấn đề Campuchia - trở ngại ấy cãi nhau
mãi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc
này. Tôi cho rằng hiện nay người lãnh đạo hai nước cần phải bàn
bạc trực tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của
Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân
chính của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục
tình hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề
Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung
Quốc cũng có quan điểm như vậy thì đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức
bí mật đi Trung Quốc.”
“Để
việc thảo luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể
thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN,
tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung
Quốc.”
“Điểm
xuất phát tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe
ý kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng, cũng là để
các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu rõ cá nhân tôi. Hai
bên cùng nhau thành khẩn tìm ra phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề,
trước hết là vấn đề Campuchia. Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có
niềm tin.”
“Nếu
được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ
Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây dựng tình hữu
nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách mạng chung.”
Đỗ
Mười mà Nguyễn Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng)
Việt Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung
ương Đảng.
Hoàng
giải thích, ông hiểu ý của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm
ngầm gây bế tắc, tiến trình Việt Nam - Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia
và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi vòng qua
Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lãnh đạo cao nhất hai nước trực
tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ
Ngoại giao quán triệt chấp hành.
Tiễn
đưa Hoàng xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong
nước biết các ý kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời
[Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước
quan điểm và kiến nghị của mình hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời
rõ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5
tháng 6, tức đòi phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi
Campuchia và xúc tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia,
rồi mới thu xếp cuộc gặp người lãnh đạo hai nước. Trong tình hình này, nếu lặp
lại ý kiến của bên nhà thì coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra
kiến nghị khác với ý kiến bên nhà thì liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược
lại với trong nước chăng?
Vì
việc đó, chiều hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và
hai Bí thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi
nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm
tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước rõ ràng là đúng, nhưng
hiện giờ xuất hiện tình hình mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi vòng qua Nguyễn
Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lãnh đạo
nước ta; vì vậy Đại Sứ quán nên căn cứ tình hình mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị
mới. Thế là Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn
Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ.
Đại sứ Trương thi hành diệu kế đến thăm Bộ
Quốc phòng
Đêm
19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ
Trương tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh
Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện tìm
hiểu ý đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả gì lập tức báo cáo trong nước.
Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng
hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rõ mức độ
khó khăn của công việc này.
8
giờ sáng ngày 20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán
nghiên cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế
sách hay nào. Mọi người đều rõ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi
Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền
thông như báo chí, đài phát thanh truyền hình đều phát đi những nội dung chống
Trung Quốc; trong các buổi chiêu đãi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan
chức Việt Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung
Quốc. Trong tình hình như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào tìm gặp được
người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên
Tổng Bí thư, cũng không ai biết.
Trong
tình hình tìm không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một
chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn
Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ
trưởng Quốc phòng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc
giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức
Anh còn nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông
qua Bộ Quốc phòng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán
là Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.
Quả
nhiên Đại tướng Lê Đức Anh rất vui lòng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày
21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc phòng Việt
Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp
ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm
tắt kể lại một lượt việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời
của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngỏ ý bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe
ý kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ý sẽ lập tức làm
ngay việc này.
Chiều
hôm ấy Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp
hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà
khách Bộ Quốc phòng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại
sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ còn nói việc này chỉ có ông và
Trưởng phòng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam biết, những người
khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ
Trương.
Có
những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đã ấn định 6
giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đã gửi thiếp mời.
Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ
quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy
vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ đến Đại Sứ quán. Sau khi vào phòng khách, họ
thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu não đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân
viên tiếp tân dìu đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất
xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere[2] của tôi lại tái phát, làm cho tôi bị
nhức đầu buồn nôn, vì thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài được một lúc thôi ạ. Ông
Lý, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ
và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài
Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin
mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm bình phục.” Nói đoạn, ông thân chinh dìu
Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi phòng khách,
Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu
đen phóng ngay tới Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Nguyễn Văn Linh bí mật gặp Đại sứ Trương
Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định
ông đã nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới
Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có gì sai cả. Nguyễn Văn Linh
nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung
Quốc. Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, vì không đồng ý với một số biện pháp làm
xấu mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án
là “hữu khuynh”. Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại vì ông chủ trương trong giai
đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế
và không đồng ý với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính
trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung
Quốc. Nếu Bác Hồ còn thì nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ
quặc như thế. Nguyễn Văn Linh còn nói, chính sách của Việt Nam đối với
Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quý giá
cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi
họ, thật là không có tình có lý.
Nguyễn Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư
ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước
đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục
Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống
Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc trên nhiều
mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói,
trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển
tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên
cường này, rõ ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông
có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc bình thường hóa mối quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc
lớn làm phấn chấn lòng người đối với toàn đảng và toàn dân Việt Nam.
Về
vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rõ tính chất quan trọng và bức
thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc
thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và
suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ý đồ
gây rối, hiện nay con đường này rất khó đi. Vì vậy ông nghĩ bản thân ông phải
đi Bắc Kinh trực tiếp hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý
Bằng, cùng bàn bạc phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn
đề Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy
viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh còn
nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá
nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời ông và Đỗ Mười,
Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc thì đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ
Ngoại giao Việt Nam ý định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch
Nhà nước Võ Chí Công, trực diện chuyển ý kiến của người lãnh đạo Trung Quốc,
làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn.
Đại
sứ Trương cảm ơn Nguyễn Văn Linh đã tiếp và tỏ ý sẽ lập tức báo cáo trong nước
biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.
Gặp gỡ bí mật Thành Đô
Chiều
28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ
Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng
Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng
hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời
cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đã chín muồi, hai phía Trung Quốc -
Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm
thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung - Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành
tại Bắc Kinh, vì để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô,
Tứ Xuyên.
Lãnh đạo hai nước tại Thành Đô |
Đại
sứ Trương Đức Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu tìm
cách nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn
Linh. Nhờ đã có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đã có chút
vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc
phòng Việt Nam. Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại
sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực
tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc
Kinh.
Một
tiếng đồng hồ sau, Trưởng phòng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt
Nam hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức
Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch
Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh
chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu
với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy
vọng được hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lãnh đạo Việt
Nam khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ý của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều
hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh
Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên.
Qua
sự bố trí của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và
Đỗ Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Phòng khách Trung ương ĐCSVN. Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ý kiến của Tổng
Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc
nội bộ. Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ý với thời gian và địa
điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo cáo Bộ Chính trị
Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi theo và bắt tay
làm công tác chuẩn bị. Nguyễn Văn Linh còn nói, nếu tình hình sức khỏe cho phép
thì đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về
Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết tình hình cuộc gặp chiều
nay.
Ngày
30, trong nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch trình đại thể của lần
gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ
trưa đến Thành Đô, buổi chiều lãnh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung
Quốc mở tiệc chiêu đãi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên
cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ý,
Đại sứ Trương sẽ cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội
đàm.
Sáng
ngày 3, tôi đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để
tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh. Phía Việt Nam
tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn
Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi còn có Chánh Văn phòng Trung ương ĐCSVN
Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng
Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho
Liêm (Uỷ viên Trung ương Đảng), còn lại
là các nhân viên công tác. Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân bay thì thấy
một xe con kiểu bình thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nhìn, vì
xe không treo màn cửa nên có thể thấy rõ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn
Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh
vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức chạy
chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm bất kỳ nghi
lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay xong, chuyên
cơ liền cất cánh.
Sau
khi từ Thành Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lãnh đạo hai
nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục
quan hệ bình thường Trung Quốc - Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú
trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia
[SNC], tức phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung
Quốc đề xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra,
chính quyền Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái
Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng
cộng 6 đại biểu. Nguyễn Văn Linh tỏ ý có thể tiếp thu phương án này của phía
Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối,
như vậy tỷ lệ hai bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế,
dự đoán phía chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng
thì nói phương án của phía Trung Quốc đã không công bằng lại cũng không hợp lý.
Cuối cùng phía Việt Nam đồng ý dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm
công tác thuyết phục phía Phnom Penh.
Về
mối quan hệ Trung Quốc - Việt Nam, hai bên đều có thái độ nhìn về phía trước,
không rà lại các món nợ cũ. Lãnh đạo hai nước đều đồng ý dựa theo tinh thần
“Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới trong mối quan hệ
Trung-Việt. Khi
kết thúc cuộc gặp, lãnh đạo hai nước đã ký kết “Biên bản Hội đàm”. Tổng Bí thư
Giang Trạch Dân còn ý vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ
đời Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu
[tạm dịch : Qua kiếp nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Tối
hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại
truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan khai,
thiên tải tình nghị hựu trùng kiến.”[3]
Để
bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn phòng Đối ngoại đã làm rất
nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đã phải đưa đi nơi khác tất cả
các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở
trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc - Việt Nam thương lượng giữ
bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.
16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc -Việt
Nam
Một
năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng
Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung
Quốc. Lãnh đạo hai nước ra Thông cáo
chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung Quốc - Việt Nam.
Tháng
2-1999 lãnh đạo Trung Quốc - Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung
phát triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”.
Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ vàng”.
Tháng
7 và tháng 11 năm 2005, lãnh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm
lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối
quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai
quốc gia và nhân dân hai nước mãi mãi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc - Việt Nam
được đẩy lên một chặng đường mới.
Nguồn: Tạp chí Trung Quốc 《党史纵横》(Đảng sử tung hoành)[4] bản điện tử ngày 26-8-2014. Một bản của
bài viết có đăng trên mạng China.com.
________________________
[1] Tác giả
bài viết này có lẽ là Lý Gia Trung, từng 4 lần làm việc ở Đại sứ quán Trung
Quốc tại Việt Nam, lần cuối cùng làm Đại sứ. Lý học tiếng Pháp tại Trung Quốc,
tiếng Việt tại ĐH Tổng hợp Hà Nội, là tác giả sách Hồ Chí Minh, một cuộc đời
huyền thoại xuất bản năm 2011 ở Trung Quốc (ND).
[2] Bệnh Meniere là một rối loạn ở tai trong, gây
ra chóng mặt và ù tai (ND).
[3] Chúng tôi đoán ông Nguyễn Văn Linh viết 4 câu
này bằng tiếng Việt, đây chỉ là lời dịch của phía Trung Quốc “兄弟之交数代传,怨恨顷刻化云烟,再相逢时笑颜开,千载情谊又重建”. Dịch ngược lại tất nhiên không đúng với
nguyên văn tiếng Việt. Tạm dịch ý: Tình anh em truyền bao đời, trong khoảnh
khắc mọi oán hận tan thành mây khói, khi gặp nhau nở nụ cười, xây đắp lại tình
hữu nghị muôn đời (ND).
[4] Tạp chí “Đảng sử tung hoành” ra đời năm 1988,
do Phòng Nghiên cứu lịch sử đảng của Tỉnh ủy Liêu Ninh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Liêu
Ninh, Cục Lão cán bộ Tỉnh ủy Liêu Ninh phụ trách; tạp chí ra hàng tháng, có
tính chất tổng hợp và thông tục, được phát hành công khai cho bạn đọc trong và
ngoài Trung Quốc. (ND)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét